You are on page 1of 38

ĐẠI HỌC UEH

BÀI DỊCH LUẬN


BỘ MÔN LUẬT HÌNH SỰ
ĐẶNG THỊ KHÁNH LINH
MS: 31201026723

Giảng viên: Trần Thị Minh Đức


SEXUAL VIOLENCE IN THE DIGITAL AGE: THE SCOPE AND LIMITS OF
CRIMINAL LAW
TẤN CÔNG TÌNH DỤC TRONG THỜI ĐẠI KĨ THUẬT SỐ - LIỆU ĐÂY CÓ
PHẢI LÀ PHẠM VI VÀ GIỚI HẠN CỦA LUẬT HÌNH SỰ?

BÀI TÓM TẮT CỦA SINH VIÊN


Bài viết đã đưa ra rất nhiều vấn đề của những trường hợp nở rộ lên ngày nay là: Hành vi
tấn công tình dục trong thời đại công nghệ và phân tích kĩ một số những phạm vi cùng
giới hạn của Luật Hình Sự trong vấn đề này. Cá nhân em cảm thấy bài viết đã phân tích
rất kĩ và nhìn vấn đề ở rất nhiều khía cạnh khác nhau mà ngay cả bản thân em cũng chưa
hề nghĩ đến. Đây là một bài viết rất đáng đọc và đáng để suy ngẫm, nghiên cứu và phát
triển nhiều hơn.
Trước khi bắt đầu vào những vấn đề chính trong bài, tác giả đã chia sẻ về một vấn đề là
Bạo lực giới, họ đặt ra một câu hỏi rằng liệu những vấn đề tấn công tình dục có đăng
nhắm vào đa phần là trẻ em nữ và phụ nữ? Làm cho họ phải chịu những tác động tiêu cực
do sự tồn tại của những lầm tưởng lạc hậu, xu hướng đổ lỗ cho nạn nhân thay vì tập trung
chính vào hành vi tội phạm. Liệu nạn nhân có đáng bị đem ra lăng mạ, bàn luận dưới sự
hiếu kì của truyền thông?
Ở khía canh thứ nhất, một vấn đề tội phạm được nêu lên là hành vi “Trả thù tình dục” chỉ
việc phân phối, phán tán nội dung khiêu mà không có sự đồng ý của nạn nhân. Trong vấn
đề này, xuất hiện những giới hạn và kẽ hở của Luật Hình sự trong việc đặt ra thuật ngữ
“Khiêu dâm trả thù”, cụm từ này không thể bao hàm hết các trường hợp trong vấn đề này,
như liệu động cơ của tội phạm có phải chỉ để trả thù hay không? Hơn nữa, thuật ngữ này
mang xu hướng tập trung vào nạn nhân thay vì phân tích động cơ của thủ phạm, liệu có
nên gọi những hình ảnh không may bị phát tán là hình “khiêu dâm” “dung tục” để gián
tiếp lăng mạ, phán xét nạn nhân. Hơn nữa, trong bài viết cũng nhắc đến việc một số nước
trên thế giới đã hình sự hóa hành vi phát tán hình ảnh này, nhưng hiện tại ở Việt Nam,
những điều này vẫn chưa được quá phổ biết và nghiêm khắt răn đe. Hơn nữa, chi phí liên
quan đến kiện tụng dân sự có thể quá nặng nề đối với nạn nhân không có địa vị quá cao,
những người không có đủ phương tiện tài chính để khởi kiện dân sự theo luật hiện hành.
Ở khía cạnh thứ hai là hành vi “Ghi lại, phát tán các hình ảnh cưỡng dâm” điều tồi tệ ở
đây không phải chỉ là bản thân hành động cưỡng bức, mà còn là việc ghi lại những hành
động này trên phim. Nỗi đau của nạn nhân sẽ bị nhân lên gấp mười khi hình ảnh bị cưỡng
hiếp của mình tràn lan trên mạng để bao nhiêu cặp mắt soi mói phán xét. Hành vi này
thực sự cần hình sự hóa và xử lý thật nghiêm khắt.
Tiếp theo là hành vi Tấn công và cưỡng bức tình dục dựa trên công nghệ, hành vi này
thường phổ biến trên các ứng dụng hẹn hò, nó được sử dụng để tạo điều kiện cho một
cuộc tấn công tình dục. Những trường hợp như vậy đã đánh lê hồi chuông rằng các nhà
cung cấp dịch vụ nên xem xét các phương pháp tiếp cận chặt chẽ hơn để xác nhận danh
tính của các cá nhân được liên kết với hồ sơ của họ trên các ứng dụng và trang web của
mình.
Cuối cùng là hành vi “Quấy rối” cả trên mạng và ngoài đời cùng những lời phỉ báng đe
dọa trên mạng. Internet là một hiện tượng mới nổi và ngày càng phổ biến mà luật pháp đã
phải vật lộn để theo kịp khi công nghệ phát triển. Nhiều khu vực pháp lý vẫn chưa quyết
định làm thế nào để nắm bắt tốt nhất tác hại của hành vi quấy rối và hoạt động theo dõi
qua mạng trong không gian trực tuyến.
Kết luận, em vô cùng đồng ý với quan điểm cho rằng: “Luật pháp không nên được coi là
biện pháp khắc phục duy nhất cho những hành vi phạm tội này.” Do đó, chúng ta cần có
sự quan tâm bình đẳng đối với các chính sách thực tiễn của các nhà cung cấp dịch vụ
cộng đồng trực tuyến và mạng truyền thông xã hội cùng theo đó là trách nhiệm của họ
trong việc chủ động giải quyết vấn đề này bằng cách cung cấp cơ chế để người dùng báo
cáo nội dung xúc phạm, quấy rối, đồng thời cung cấp đầy đủ nguồn lực theo hướng giám
sát để loại bỏ nội dung này. Chúng ta cần có những hành động thực tiễn hơn để giải quyết
cho những vấn đề này, đồng thời thích nghi với một tương lai công nghệ phát triển mạnh
cùng nhiều rủi ro chưa thể đoán được.

BÀI DỊCH

Abstract
Considerable scholarly attention has been paid to a range of criminal behaviours that are
perpetrated with the aid of digital technologies. Much of this focus, however, has been on
high-tech computer crimes, such as hacking, online fraud and identity theft, or child
exploitation material and cyberbullying. Less attention has been paid to ‘technology
facilitated sexual violence’, where new technologies are used as tools to perpetrate or
extend the harm of a sexual assault, extend control and abuse in a domestic violence
situation, or distribute sexual or intimate images of another without their consent. In this
article, we focus on the scope and limitations of criminal legislation for responding to
these varied but interconnected gendered harms. We argue that although there have been
some developments in a range of international jurisdictions, particularly relating to the
phenomenon of ‘revenge pornography’, much more needs to be done both within and
beyond the law. Whilst we support the intervention of the criminal law, we argue that
equal attention must be given to policies and practices of educators, law enforcement
agencies, service providers, online communities and social media networks to fulfil the
promise of equal and ethical digital citizenship.
Tóm tắt 
Bài viết được các học giả tập trung chủ yếu đến một loạt các hành vi tội phạm được thực
hiện với sự hỗ trợ của công nghệ kỹ thuật số. Tuy nhiên, phần lớn nội dung, chúng tôi tập
trung vào tội phạm máy tính công nghệ cao, chẳng hạn như hacker, lừa đảo trên mạng
Internet, đánh cắp, giả mạo danh tính, hoặc những “rác phẩm” bóc lột trẻ em và hiện
tượng bắt nạt trên mạng Internet. Mọi người vẫn thường ít chú ý đến hành vi 'tấn công
tình dục được tạo điều kiện từ mạng Internet công nghệ cao, nơi các công nghệ mới được
sử dụng như một công cụ để gây ra hoặc kéo dài mối nguy hại của hành vi tấn công tình
dục, mở rộng kiểm soát và lạm dụng trong một tình huống bạo lực gia đình hoặc phát tán
hình ảnh tình dục hay thân mật của người khác mà không có sự đồng ý. Trong bài viết
này, chúng tôi tập trung vào phạm vi và giới hạn của luật hình sự trong việc ứng phó với
những tác hại đa dạng nhưng có liên quan đến vấn đề những tác hại về giới. Chúng tôi
tranh luận rằng mặc dù đã có một số phát triển trong một loạt các khu vực tài phán quốc
tế, đặc biệt là liên quan đến hiện tượng 'nội dung khiêu dâm trả thù', nhưng chúng ta cần
phải hành động nhiều hơn cả trong và ngoài lĩnh vực pháp lý. Vì vậy chúng tôi ủng hộ sự
can thiệp của luật hình sự và cho rằng các chính sách và kế hoạch thực tiễn của các nhà
giáo dục, cơ quan thực thi pháp luật, nhà cung cấp dịch vụ, cộng đồng trực tuyến và
mạng truyền thông xã hội phải được chú trọng như nhau để thực hiện lời hứa về quyền
công dân kỹ thuật số bình đẳng và có đạo đức.

Keywords
Criminal law, cybercrime, revenge pornography, sexual violence, technology
Từ khóa
Luật hình sự, tội phạm mạng, nội dung khiêu dâm trả thù, bạo lực tình dục, công nghệ.
Introduction
There is growing media, activist, practitioner, legal and scholarly attention to the
phenomenon of technology-facilitated sexual violence (TFSV), where mobile and online
technologies are used as tools to blackmail, control, coerce, harass, humiliate, objectify or
violate another person. Part of the challenge is to devise appropriate terminology to
describe a vast array of different gender-based online harms such as ‘revenge
pornography’, ‘virtual rape’, ‘cyberstalking’ and ‘online gender-based hate speech’ as
well as the use of new technologies to perpetrate more traditional or conventional crimes,
such as domestic violence or sexual assault. Existing terminology and the laws that
govern such offences in many jurisdictions internationally do not adequately capture the
scope, nature or intersection of such harms. Legislative and policy responses frequently
treat existing and new technologies merely as ‘tools’ of abuse and as such elide the
unique ways in which victim survivors experience harms (Henry and Powell, 2015b).
These behaviours are frequently framed in public discourse using euphemistic, titillating
or narrow language that produces a paradigmatic conceptualization of the behaviour (e.g.
‘revenge porn’) and in the process excludes other related behaviours or leads to both
victim blaming and perpetrator exoneration. On the other hand, focusing more broadly on
the phenomenon of TFSV provides an opportunity to reflect on the similarities among
diverse behaviours, impacts and responses as well as the problematic language
surrounding them.
Giới thiệu
Trong thời đại ngày nay, các phương tiện truyền thông ngày một phát triển, điều đó làm
cho các nhà hoạt động, người hành nghề, luật pháp và các lĩnh vực hơi hướng học thuật
buộc phải chú ý đến hiện tượng bạo lực trên cơ sở giới tính do công nghệ tạo điều kiện
(TFSV), nơi mà công nghệ di động và trực tuyến được sử dụng làm công cụ để tống tiền,
kiểm soát, ép buộc, quấy rối, làm nhục, xâm phạm hay tấn công đến người khác. Một
phần của thách thức này là đặt ra một thuật ngữ thích hợp để mô tả một loạt các hành vi
gây nên tác hại trực tuyến dựa trên nhiều vấn đề tình dục khác nhau như: “trả thù bằng
tình dục” “cưỡng hiếp ảo” “quấy rối trên mạng” và “sỉ nhục giới tính trực tuyến” cũng
như việc sử dụng công nghệ mới để gây ra các tội ác truyền thống hoặc thông thường
hơn, chẳng hạn như bạo lực gia đình hoặc tấn công tình dục. Các thuật ngữ hiện tại và
luật điều chỉnh các hành vi phạm tội như vậy ở nhiều khu vực tài phán quốc tế không
nắm bắt được đầy đủ phạm vi, bản chất hoặc điểm giao nhau của những tác hại đó. Các
phản ứng đối với lập pháp và chính sách thường coi các công nghệ hiện có và công nghệ
mới chỉ là "công cụ" để lạm dụng và như vậy làm lộ rõ những cách độc nhất mà nạn nhân
sống sót phải chịu tổn hại. Những hành vi này thường được đóng khung trong các bài
diễn thuyết công chúng bằng cách sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển, nhẹ nhàng và hạn hẹp
tạo ra những khái niệm mô hình về hành vi (ví dụ: 'khiêu dâm trả thù') và trong quá trình
này, loại trừ các hành vi liên quan khác hoặc dẫn đến việc đổ lỗi cho cả nạn nhân và thủ
phạm. Mặt khác, khi tập trung rộng hơn vào hiện tượng TFSV sẽ tạo cơ hội để phản ánh
những điểm tương đồng giữa các hành vi, tác động và phản ứng đa dạng cũng như ngôn
ngữ có vấn đề xung quanh chúng.
In this article, we examine the scope and limitations of criminal laws for responding to
TFSV. We draw predominantly on Australian law as a means to illustrate the ways in
which a common law country is grappling with these issues and the adequacy or
inadequacy of current approaches within this context. We examine the emerging
literature on TFSV and the criminal law (both in Australia and internationally) and
critically examine legislation as well as case law. We argue that although perpetrators can
be prosecuted under existing criminal laws, these laws are often ill-equipped to capture
the gendered harms resulting from these behaviours. Part of the issue, we argue, concerns
law’s pacing problem. Law has typically been slow to respond to the emergence of new
technologies as tools of abuse. Existing laws are often inconsistent, outdated and poorly
enforced across state, territory and federal jurisdictions in Australia (Henry and Powell,
2015a). Moreover, law is often treated as the most effective, if not sole, remedy for such
harms. Although we focus specifically on the role of criminal law, we conclude the
article by arguing that attention must be given to broader measures both within and
beyond law to tackle the problem of digital abuse and violence.
In the article, we first conceptualize the phenomenon of TFSV as a form of genderbased
violence. We then explore a range of different behaviours that are encompassed under
this term and the array of existing criminal laws for responding to each of these
behaviours.

Trong bài viết này, chúng tôi xem xét phạm vi và giới hạn của luật hình sự đối với việc
phản hồi TFSV. Chúng tôi chủ yếu dựa trên luật pháp của nước Úc như một phương tiện
để minh họa các cách thức mà một quốc gia thông luật đang đối mặt với những vấn đề
này và tính đầy đủ hay không phù hợp của các phương pháp tiếp cận hiện tại trong bối
cảnh này. Chúng tôi kiểm chứng các tài liệu mới nổi về TFSV và luật hình sự (cả ở Úc và
quốc tế) và xem xét nghiêm túc luật pháp cũng như án lệ. Chúng tôi cho rằng mặc dù thủ
phạm có thể bị truy tố theo luật hình sự hiện hành, nhưng những luật này thường không
đủ trang bị để nắm bắt được hết những tác hại về giới do những hành vi này gây ra. Một
phần của vấn đề, chúng tôi tranh luận, liên quan đến vấn đề nhịp độ của luật pháp. Luật
pháp thường chậm phản ứng với sự xuất hiện của các công nghệ mới như một công cụ
lạm dụng. Các luật hiện hành thường không nhất quán, lỗi thời và kém hiệu lực trên các
khu vực tài phán của tiểu bang, lãnh thổ và liên bang ở Úc (Henry và Powell, 2015a).
Hơn nữa, luật pháp thường được coi là biện pháp hữu hiệu nhất, nếu không phải nói là
duy nhất, để khắc phục những tác hại đó. Mặc dù chúng tôi tập trung đặc biệt vào vai trò
của luật hình sự, chúng tôi vẫn sẽ kết thúc bài viết bằng cách lập luận rằng cần phải chú ý
đến các biện pháp rộng hơn cả trong và ngoài luật để giải quyết vấn đề lạm dụng và bạo
lực trong thời đại kỹ thuật số.
Trong bài báo, đầu tiên chúng tôi chỉ ra khái niệm hiện tượng TFSV là một dạng bạo lực
trên cơ sở giới. Sau đó, chúng tôi khám phá một loạt các hành vi khác nhau được bao
hàm trong thuật ngữ này và một loạt các luật hình sự hiện hành để ứng phó với từng hành
vi này.
TFSV and Harassment: A Continuum of Gendered Violence
Although there is currently a lack of empirical data on the prevalence of online forms of
sexual violence and harassment, and as such little is known about the gender of victims
and perpetrators, or the causes of these behaviours, we hypothesize that TFSV is a
gendered phenomenon for three interconnected reasons. First, research to date supports
the theory that although not the exclusive victims of violence, women and girls are the
main targets of online digital sexualized violence. Studies on ‘sexting’, for instance, show
that young women are more likely than young men to send explicit images of themselves
(via mobile phone or other means) as a result of pressure or coercion from their male
partners or peers (Drouin et al., 2015; Ringrose et al., 2012). Other studies suggest that
women and girls are the primary targets of the non-consensual distribution of intimate
images online (revenge porn) (Citron and Franks, 2014; CCRI, 2014). Research also
consistently points to the prevalence of sexual violence in ‘offline’ contexts, where
women and girls are disproportionately the victims of sexual harassment, domestic
violence and sexual violence (see e.g. ABS, 2006, 2013; Heenan and Murray, 2006).

TFSV và Sự Quấy Rối: Sự liên hoàn bạo lực giới


Mặc dù hiện tại còn thiếu rất nhiều dữ liệu thực nghiệm về mức độ phổ biến của các hình
thức bạo lực và quấy rối tình dục trực tuyến, và do người ta còn ít chú ý về giới tính của
nạn nhân và thủ phạm, hay nguyên nhân của những hành vi này, chúng tôi giả thuyết rằng
TFSV là một hiện tượng theo giới tính vì ba lý do liên kết với nhau. Thứ nhất, nghiên cứu
cho đến nay ủng hộ giả thuyết rằng mặc dù không phải là nạn nhân duy nhất của vấn đề
bạo lực lạm dụng, nhưng phụ nữ và trẻ em gái là mục tiêu chính của các hành vi tấn công
tình dục kỹ thuật số trực tuyến. Ví dụ, các nghiên cứu về hành vi 'gửi tin nhắn quấy rối
tình dục' cho thấy phụ nữ trẻ có nhiều khả năng gửi các hình ảnh khiêu dâm của bản thân
(qua điện thoại di động hoặc các phương tiện khác) do áp lực hoặc ép buộc từ bạn tình
hoặc đồng nghiệp của họ (Drouin et al, 2015; Ringrose và cộng sự, 2012). Các nghiên
cứu khác cũng cho thấy rằng phụ nữ và trẻ em gái là mục tiêu chính của việc bị phát tán
các hình ảnh thân mật lên trên mạng mà không có sự đồng thuận của họ (Citron và
Franks, 2014; CCRI, 2014). Nghiên cứu cũng liên tục chỉ ra mức độ phổ biến của việc
tấn công tình dục trong bối cảnh "ngoại tuyến", nơi phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của
quấy rối tình dục, bạo lực gia đình và bạo lực tình dục một cách bất cân xứng (xem ví dụ:
ABS, 2006, 2013; Heenan và Murray, 2006).
Second, the impacts of these behaviours are gendered because women and girls may
experience adverse impacts due the persistence of outdated myths and expectations
surrounding sexual norms and expectations for women specifically.1 And third,
regardless of the gender of the perpetrator (or indeed the victim), a key factor underlying
the perpetration of sexual violence is the social and structural context of gender
hierarchization – a ‘historically constructed pattern of power relations between men and
women and definitions of femininity and masculinity’ (Connell, 1987: 98–99).
Thứ hai, tác động của những hành vi này là theo giới tính vì phụ nữ và trẻ em gái có thể
phải chịu những tác động tiêu cực do sự tồn tại của những lầm tưởng lạc hậu, những kỳ
vọng xung quanh các chuẩn mực và kỳ vọng tình dục đối với phụ nữ nói riêng. Và thứ
ba, bất kể giới tính của thủ phạm (hoặc thực sự là nạn nhân), một yếu tố cơ bản gây ra
bạo lực tình dục là bối cảnh xã hội và cấu trúc của phân cấp giới tính - một 'mô hình lịch
sử được xây dựng về quan hệ quyền lực giữa nam và nữ và các định nghĩa về nữ tính và
nam tính' (Connell, 1987: 98–99).
In this article, we claim that TFSV is fundamentally an issue of gender. We acknowledge
that men and boys are also subjected to TFSV and that these harms are likewise
significant. Nonetheless, it is important to note that women and girls may be targeted for
particular forms of digital abuse (e.g. sexual assault or revenge porn) precisely because of
their gender and the perpetrator’s intention to ‘slut-shame’. We also acknowledge the
adverse impacts on already marginalized members of the community on the basis of
gender, sexuality, race and religion. In perhaps the majority of cases of TFSV, whether
against male or females, or members of particular ethnicities, races, religions, or gender
identity or sexual orientation, the motivation for the behaviour stems essentially from the
objectification and debasement of the ‘other’ as many of our examples throughout the
article show.
Trong bài viết này, chúng tôi khẳng định rằng TFSV về cơ bản là một vấn đề về giới tính.
Chúng tôi thừa nhận rằng nam giới và trẻ em trai cũng là đối tượng của TFSV và những
tác hại này cũng đáng kể. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là phụ nữ và trẻ em gái có
thể bị nhắm mục tiêu cho các hình thức lạm dụng kỹ thuật số cụ thể (ví dụ: tấn công tình
dục hoặc khiêu dâm trả thù) chính xác vì giới tính của họ và ý định 'lăng mạ việc làm
“gái”' của thủ phạm. Chúng tôi cũng thừa nhận những tác động bất lợi đối với những
thành phần đã bị gạt ra ngoài lề của cộng đồng trên cơ sở giới tính, tình dục, chủng tộc và
tôn giáo. Có lẽ trong phần lớn các trường hợp TFSV, dù chống lại nam hay nữ, hoặc các
thành viên của các dân tộc, chủng tộc, tôn giáo cụ thể, bản dạng giới hoặc khuynh hướng
tình dục, thì động cơ cho những hành vi này chủ yếu bắt nguồn từ việc phản đối và coi
thường 'người khác', được thể hiện qua nhiều luận cứ của chúng tôi trong suốt bài báo.
In our discussion, we categorize these different behaviours in turn and give an
explanation as to how criminal law has addressed these harms, taking into account the
scope of law (what is/is not covered); the extent to which legislation captures the unique
harms of digital abuse; and any outstanding issues. We acknowledge that there are
significant overlaps between these different categories.
Trong cuộc thảo luận, chúng tôi lần lượt phân loại các hành vi khác nhau này và đưa ra
lời giải thích về cách thức luật hình sự hoạt động để giải quyết những tác hại này, chúng
tôi có tính đến phạm vi pháp lý (những gì được / không được đề cập); mức độ mà pháp
luật nắm bắt được những tác hại riêng của việc lạm dụng kỹ thuật số; và một số vấn đề
khác còn tồn tại. Chúng tôi thừa nhận rằng có sự trùng lặp đáng kể giữa các danh mục
khác nhau này.
Dimensions of Digital Sexualized Violence
Revenge Porn: The Distribution of Sexual or Intimate Images Without Consent
The terms revenge porn, ‘non-consensual sexting’, ‘involuntary porn’ (Burns, 2015) and
‘non-consensual pornography’ (Citron and Franks, 2014; Franks, 2015) are used
interchangeably to refer to the distribution of sexually explicit or intimate images (photos
or videos) without the consent of the subject.3 In some instances, the victim has taken the
image herself/himself (a ‘selfie’), or consented to someone else taking the image of them,
but has not consented to its distribution. In other cases, images have been doctored by
superimposing the face or identity of a victim onto an existing pornographic image, or
intimate images have been hacked from the victim’s computer or mobile device. In
further cases, nude or semi-nude images have been taken when a victim is asleep,
unconscious, alcohol or drug affected and/or during a sexual assault and then distributed
among peer networks or shared online (see e.g. Powell, 2015, and discussion below).4
Các khía cạnh của việc tấn công tình dục kỹ thuật số
Trả thù tình dục: Phát tán hình ảnh khiêu dâm, nhạy cảm mà không có sự đồng ý
Các thuật ngữ của hành vi khiêu dâm trả thù như, 'tình dục không đồng thuận', 'khiêu dâm
không tự nguyện' (Burns, 2015) và 'nội dung khiêu dâm không đồng thuận' (Citron và
Franks, 2014; Franks, 2015) được sử dụng thay thế cho nhau để chỉ việc phân phối, phán
tán nội dung khiêu dâm hoặc hình ảnh thân mật (ảnh hoặc video) mà không có sự đồng ý
của đối tượng. Trong một số trường hợp, nạn nhân đã tự chụp những hình ảnh đó ('ảnh tự
sướng') hoặc đồng ý cho người khác chụp ảnh họ, nhưng không đồng ý với việc phát tán
của nó. Trong các trường hợp khác, hình ảnh đã được ngụy tạo bằng cách đặt khuôn mặt
hoặc danh tính của nạn nhân lên một hình ảnh khiêu dâm đã có sẵn hay ảnh thân mật đã
bị tấn công từ máy tính hoặc thiết bị di động của nạn nhân. Thêm vào đó, trong các
trường hợp khác nữa là, hình ảnh khỏa thân hoặc bán khỏa thân được chụp khi nạn nhân
đang ngủ, bất tỉnh, bị ảnh hưởng bởi rượu hoặc ma túy và / hoặc trong khi bị tấn công
tình dục và sau đó được phát tán lên mạng xã hội hoặc chia sẻ trực tuyến (xem ví dụ:
Powell, 2015, và thảo luận phía dưới).
In one Australian case, a man threatened to distribute a topless photo of his victim in
order to coerce her to have sex with him after she told him she wanted to end their casual
sexual relationship (Bryan, 2015). Other instances involve the more ‘conventional’ or
paradigmatic revenge porn cases, including a 2010 New Zealand case where the accused
posted a nude photo of his ex-girlfriend on Facebook after having logged into her
account, uploaded the image, unblocked her privacy settings and then changed her
password (Stuff, 2010). Similarly, in the first social networking-related conviction in
Australia in 2012, a Sydney man received a 6-month jail sentence after posting six nude
images of his former girlfriend on Facebook (Police v. Ravshan Usmanov, 2011,
NSWLC 40).5 In the former case, the accused was charged with an indecency offence
(morality and decency), and in the latter case, the accused was also charged with an
indecency offence (publishing indecent articles). By way of comparison, in the United
Kingdom in July 2015, a 21-year-old man became the first person to be convicted under
the new revenge porn legislation after sending intimate images of a woman to her family
and sharing them on Facebook (BBC, 2015).
Trong một trường hợp ở Úc, một người đàn ông đã đe dọa sẽ phát tán ảnh phần nửa trên
của cơ thể nạn nhân để ép cô quan hệ tình dục với hắn sau khi cô nói với rằng cô muốn
chấm dứt mối quan hệ tình cảm với hắn ta (Bryan, 2015). Các trường hợp khác liên quan
đến các vụ án khiêu dâm trả thù 'thông thường' hoặc có qui mô hơn, bao gồm một trường
hợp ở New Zealand năm 2010, nơi thủ phạm đăng ảnh khỏa thân của bạn gái cũ lên
Facebook sau khi đăng nhập vào tài khoản của cô ấy, tải hình ảnh lên, bỏ chặn cài đặt
quyền riêng tư và sau đó thay đổi mật khẩu của cô ấy (Stuff, 2010). Tương tự, trong vụ
kết án đầu tiên liên quan đến mạng xã hội internet ở Úc vào năm 2012, một người đàn
ông ở Sydney đã nhận án tù 6 tháng sau khi đăng sáu hình ảnh khỏa thân của bạn gái cũ
lên Facebook (Cảnh sát v. Ravshan Usmanov, 2011, NSWLC 40). Trong trường hợp
trước, bị cáo bị buộc tội phỉ báng (đạo đức và phẩm giá), và trong trường hợp sau, bị cáo
cũng bị buộc tội làm nhục, phỉ báng người khác (đăng tải các bài không đứng đắn). Để so
sánh, ở Vương quốc Anh vào tháng 7 năm 2015, một người đàn ông 21 tuổi đã trở thành
người đầu tiên bị kết tội theo luật khiêu dâm trả thù mới sau khi gửi những hình ảnh thân
mật, nhạy cảm của một phụ nữ đến cho gia đình cô ấy và chia sẻ chúng trên Facebook
(BBC , 2015).
The term revenge porn is a misnomer since not all perpetrators are motivated by revenge
(Franks, 2015) and not all content constitutes or serves the purpose of ‘pornography’.
First, in relation to motivations, whilst the paradigmatic revenge porn scenario might be
of a scorned and spiteful ex-lover posting images of his or her former partner onto
mainstream or ‘ex-girlfriend’ pornography sites, or imageboard and social media sites,
not all perpetrators distribute images out of vengeful motivations. The term revenge porn
is inadequate to describe many situations where intimate or explicit images are being
distributed for reasons such as coercion, blackmail, fun, sexual gratification, social status
or monetary gain. For individuals who solicit images on dedicated revenge porn threads
within online communities (such as reddit, 4Chan or 8Chan), or for those who provide
online platforms for the distribution of explicit images, revenge might not be a motive at
all.6 The term is furthermore inadequate to capture the harm caused where the
distribution or threat of distribution of an explicit image is deployed as a means of
intimidating, silencing or otherwise extending power and control over victims of
domestic and sexual violence (Henry and Powell, 2015a).
Thuật ngữ khiêu dâm trả thù là một cách viết chưa hoàn toàn chính xác vì không phải tất
cả thủ phạm đều có động cơ trả thù (Franks, 2015) và không phải tất cả nội dung đều cấu
thành hoặc phục vụ mục đích "nội dung khiêu dâm". Thứ nhất, liên quan đến động cơ,
trong khi yếu tố cấu thành tội khiêu dâm trả thù có thể là một người yêu cũ bị khinh bỉ và
uất hận đăng hình ảnh của bạn tình cũ của anh ấy hoặc cô ấy lên các trang web khiêu dâm
chính thống hay ‘ex-girlfriend’, hoặc các trang web truyền thông xã hội, nhưng không
phải tất cả các thủ phạm phát tán hình ảnh đều vì động cơ báo thù này. Thuật ngữ khiêu
dâm trả thù không đủ để mô tả các tình huống mà trong đó hình ảnh thân mật hay nhạy
cảm bị phát tán vì các lý do như ép buộc, tống tiền, thú vui tiêu khiển, thỏa mãn tình dục,
địa vị xã hội hoặc kiếm tiền. Đối với những cá nhân gạ gẫm hình ảnh trên các chủ đề
khiêu dâm trả thù chuyên dụng trong cộng đồng trực tuyến (chẳng hạn như reddit, 4Chan
hoặc 8Chan) hoặc đối với những người cung cấp nền tảng trực tuyến để phân phối hình
ảnh khiêu dâm, thì chắc chắc rằng động cơ của những người này không phải là trả thù.
Hơn nữa, thuật ngữ này không đủ khả năng để nắm bắt hết được tác hại gây ra khi việc
phát tán hoặc đe dọa phát tán hình ảnh khiêu dâm được triển khai như một phương tiện
đe dọa, bịt miệng hoặc mở rộng quyền lực và kiểm soát đối với các nạn nhân của bạo lực
gia đình và tình dục (Henry và Powell, 2015a).
The second issue with the terminology – both revenge porn and non-consensual
pornography – is that the focus is on the content of the image, which is framed as
pornography, regardless of the image or the intent of the original creator of that image.
Whilst this may fit with Dworkin and MacKinnon’s (1984: 321) definition of
pornography as ‘the graphic sexually explicit subordination of women’, it fails to
recognize that many images are not per se ‘sexually graphic’ (e.g. mid-dressed or shower
shots). Moreover, labelling the distribution of non-consensual images, pornography has
the potential both to minimize the harm done to victims and to liken the images to an
acceptable and/or desirable subgenre within commercially produced online pornography.
As Rackley and McGlynn (2014) also note:
[t]here is a danger that the framing of this form of harassment and abuse as
‘‘pornography’’ shifts attention away from the motivations and actions of the
perpetrators of the abuse and onto the content of the image and actions of the
victim.
Vấn đề thứ hai với thuật ngữ - cả khiêu dâm trả thù và khiêu dâm không có sự đồng thuận
- là nội dung của hình ảnh, bị đóng khung mặc định là nội dung khiêu dâm, bất kể hình
ảnh hay mục đích của người tạo ra hình ảnh đó. Mặc dù điều này có thể phù hợp với định
nghĩa của Dworkin và MacKinnon (1984: 321) về nội dung khiêu dâm là ‘đồ họa, hình
ảnh khiêu dâm của phụ nữ’, nhưng vẫn có những hình ảnh không phải là 'hình ảnh khiêu
dâm' (ví dụ như cảnh mặc quần áo sơ mi hoặc đang tắm). Hơn nữa, việc gắn nhãn cho
hành vi phát tán hình ảnh không có sự đồng thuận, nội dung khiêu dâm vừa có khả năng
giảm thiểu tác hại gây ra cho nạn nhân, vừa để ví những hình ảnh đó với một thế hệ nhỏ
hơn được chấp nhận hay mong muốn trong nội dung khiêu dâm trực tuyến được sản xuất
thương mại. Như Rackley và McGlynn (2014) cũng đã lưu ý rằng:
Vấn đề ở đây là mối nguy hiểm khi việc đóng khung hình thức quấy rối và lạm
dụng này là '' nội dung khiêu dâm '' khiến cho sự chú ý của chúng ta chuyển hướng
khỏi từ động cơ và hành động của thủ phạm và chuyển sang nội dung của hình ảnh
và hành động của nạn nhân.
Of course, pornography, it is widely agreed, is notoriously difficult to define due the
sheer diversity of ‘sexualized’ content and the interpretation of that content (e.g. whether
the intention or effect is sexual arousal). What constitutes pornography will very much
depend on the ‘production, distribution, or reception’ (Andrews, 2012: 460) and although
some images will be produced, distributed and received specifically as pornography,
many images fall outside of this frame. Again, like images taken and distributed of
intimate partners without their consent where the purpose is humiliation and not sexual
gratification (e.g. in the context of domestic violence), the content does not generally
serve the purpose of pornography and indeed the images may have been taken in the
context of a loving relationship.
Dĩ nhiên, nội dung khiêu dâm, được nhiều người đồng tình và cỗ vũ rộng rãi, vấn đề ở
đây là khó xác định do tính đa dạng tuyệt đối của nội dung 'kích dục' và cách giải thích
nội dung đó (ví dụ: cho dù mục đích hay tác dụng là kích dục). Điều gì cấu thành nội
dung khiêu dâm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc ‘sản xuất, phân phối hoặc tiếp nhận’
(Andrews, 2012: 460) và mặc dù một số hình ảnh sẽ được sản xuất, phân phối và tiếp
nhận, cụ thể là nội dung khiêu dâm, nhưng vẫn có rất nhiều hình ảnh nằm ngoài khung
này. Một lần nữa, giống như hành vi chụp lại và phát tán những hình ảnh khiêu dâm của
bạn tình lúc thân mật mà không có sự đồng ý của họ, thì hành vi này có mục đích là làm
nhục chứ không phải để thỏa mãn tình dục (ví dụ: trong bối cảnh bạo lực gia đình), nội
dung thường không phục vụ mục đích khiêu dâm và thực sự thì những hình ảnh đó có thể
đã từng được sử dụng khi cả hai còn trong mối quan hệ yêu đương.
Some have instead suggested that revenge porn is a form of sexual assault or ‘cyber
rape’.7 Whilst there are issues defining revenge porn in these terms (as either
pornography or sexual assault/rape), no other term to date has proved satisfactory to
capture the types of behaviours that emerge under this category. One alternative term is
‘imagebased sexual exploitation’ (see Powell, 2009, 2010). This mirrors debates
regarding child exploitation material, which uses this term to distinguish it from
pornography but yet at the same time highlights the harmful circumstances of its
production and the continued harm associated with its dissemination. First, image-based
sexual exploitation captures a wide variety of motivations driving the non-consensual
distribution of intimate images, including that of revenge. Second, such images
themselves need not be pornographic per se but rather are used as a form of sexual
exploitation (e.g. for sexual gratification, coercion, humiliation, revenge and other
reasons). And third, this term captures a broader range of contexts where the image was
originally produced, thus including situations where the victim has taken a selfie and has
shared it with someone else, but has not consented to any broader forms of distribution.
Such a term can also encapsulate situations where the perpetrator or someone else takes
the image or when a victim does not know they are being filmed or photographed.
Although we prefer this term for the abovementioned reasons, we nonetheless continue to
use ‘revenge pornography’ in this article due to its popular use in public and academic
discourses.
Thay vào đó, một số ý kiến cho rằng khiêu dâm trả thù là một hình thức tấn công tình dục
hoặc ‘hãm hiếp trên mạng'. Trong khi có những vấn đề về định nghĩa khiêu dâm trả thù
trong các thuật ngữ này (như khiêu dâm hoặc tấn công tình dục/hiếp dâm), cho đến nay
chưa có thuật ngữ nào khác chứng minh thỏa đáng nắm bắt các loại hành vi xuất hiện
trong danh mục này. Một thuật ngữ thay thế là "bóc lột tình dục dựa trên hình ảnh" (xem
Powell, 2009, 2010). Điều này phản ánh các cuộc tranh luận liên quan đến tài liệu bóc lột
trẻ em, khi sử dụng thuật ngữ này để phân biệt với nội dung khiêu dâm nhưng đồng thời
lại nêu bật các hoàn cảnh có hại của quá trình sản xuất và tác hại liên tục liên quan đến
việc phổ biến nội dung đó. Thứ nhất, việc tấn công tình dục dựa trên hình ảnh lưu giữ lại
được nhiều động cơ thúc đẩy việc phát tán các hình ảnh nhạy cảm mà không có sự đồng
thuận, bao gồm cả hành động trả thù. Thứ hai, bản thân những hình ảnh đó không cần
phải là khiêu dâm mà được sử dụng như một hình thức bóc lột tình dục (ví dụ: để thỏa
mãn tình dục, cưỡng bức, làm nhục, trả thù và các lý do khác). Và thứ ba, thuật ngữ này
ghi lại nhiều hoàn cảnh hơn về nơi hình ảnh được tạo ra ban đầu, do đó nó có thể bao
gồm được các tình huống nạn nhân đã chụp ảnh tự sướng và chia sẻ nó với người khác,
nhưng không đồng ý với bất kỳ hình thức phát tán rộng rãi nào. Thuật ngữ này cũng có
thể bao hàm các tình huống mà thủ phạm hoặc người khác lấy hình ảnh hay cả khi nạn
nhân không biết họ đang bị quay phim hoặc chụp ảnh. Mặc dù chúng tôi thích thuật ngữ
này hơn vì những lý do đã đề cập ở trên, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục sử dụng 'nội dung
khiêu dâm trả thù' trong bài viết này do nó được sử dụng phổ biến trong các bài diễn văn
công cộng và học thuật.
In response to the increasing prevalence of revenge pornography, as well the growing
appreciation of the significant harms and impacts on victims, a number of jurisdictions
have introduced specific legislation to criminalize the non-consensual distribution of
intimate images. These include the Philippines (2009; maximum (max.) sentence 7
years), Israel (2014; max. sentence 5 years), Japan (2014; max. sentence 3 years), Canada
(2014; max. sentence 5 years)9 , the United Kingdom (in England and Wales) (2014;
max. sentence 2 years)10 and New Zealand (2015; max. sentence 2 years).11 At the time
of writing, in the United States, 25 states had passed some form of revenge porn
legislation.12
Để đối phó với sự phổ biến ngày càng tăng của nội dung khiêu dâm trả thù, cũng như
việc đánh giá cao hơn những tác hại và tác động ngày càng tăng đối với nạn nhân, một số
khu vực tài phán đã ban hành luật cụ thể để hình sự hóa việc phát tán không có sự đồng
thuận của các hình ảnh thân mật. Chúng bao gồm Philippines (2009; tối đa (tối đa) án 7
năm), Israel (2014; tối đa 5 năm), Nhật Bản (2014; tối đa 3 năm), Canada (2014; tối đa 5
năm) 9, Vương quốc Anh (ở Anh và xứ Wales) (2014; tối đa câu 2 năm) 10 và New
Zealand (2015; tối đa câu 2 năm). Vào thời điểm viết bài, ở Hoa Kỳ, 25 tiểu bang đã
thông qua một số hình thức của luật khiêu dâm trả thù.
In Australia, Victoria is the only state or territory in Australia to have a specific offence
that makes it illegal to maliciously distribute, or threaten to distribute, intimate images of
another person without their consent (2014; max. sentence 2 years; section 41DA and
section 41DB, Crimes Amendment (Sexual Offences and Other Matters) Act 2014 (Vic)).
South Australia has broader legislation making it a criminal offence to distribute without
consent an ‘invasive’ image (2013; max. sentence 2 years; section 26C, Summary
Offences (Filming Offences) Amendment Act 2013 (SA)). At the Commonwealth
(federal) level, whilst there is no specific criminal offence in place, broader
telecommunications offences can and have been used in relation to using a ‘carriage
service to menace, harass or cause offence’ (section 474.17, Crimes Legislation
Amendment (Telecommunications Offences and Other Measures) Act (No. 2) 2004).13
In all other Australian states and territories without specific legislation, options for
criminal charges include stalking (where a course of conduct needs to be established),
blackmail, voyeurism or indecency. These existing criminal offences are ill-suited to the
diverse types of behaviours that are captured under the label of revenge pornography.
Moreover, prosecuting offenders under indecency or obscenity offences implies
problematically that the images themselves are offensive rather than the perpetrator’s
behaviour.
Tại Úc, Victoria là tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ duy nhất ở Úc có hành vi phạm tội cụ
thể là phát tán bất hợp pháp hoặc đe dọa phát tán hình ảnh thân mật của người khác mà
không có sự đồng ý của họ (2014; bản án tối đa 2 năm; mục 41DA và phần 41DB, Đạo
luật Sửa đổi Tội phạm (Vi phạm Tình dục và Các Vấn đề Khác) 2014 (Vic)). Nam Úc có
luật pháp rộng hơn khiến việc phát tán hình ảnh ‘xâm hại’ mà không được sự đồng ý
(2013; bản án tối đa 2 năm; mục 26C, Đạo luật sửa đổi Tóm tắt về Vi phạm (Quay phim)
2013 (SA)). Ở cấp độ Liên Bang, mặc dù không có tội hình sự cụ thể, nhưng các tội
phạm về viễn thông lớn hơn có thể và đã được sử dụng liên quan đến việc dùng 'dịch vụ
vận chuyển để đe dọa, quấy rối hoặc gây ra tội' (mục 474.17, Bản sửa đổi Luật về Tội
phạm ( Đạo luật về Vi phạm Viễn thông và Các biện pháp Khác) (Số 2) 2004). Ở tất cả
các bang và vùng lãnh thổ khác của Úc mà không có luật cụ thể, các yếu tố cấu thành để
buộc tội hình sự bao gồm rình rập (khi cần phải thiết lập một hành vi), tống tiền, nhìn
trộm hoặc phỉ báng người khác. Những hành vi phạm tội hiện có này không phù hợp với
các loại hành vi đa dạng được quy kết dưới nhãn nội dung khiêu dâm trả thù. Hơn nữa,
việc truy tố người phạm tội theo các tội khiếm nhã hoặc tục tĩu ngụ ý một vấn đề rằng
bản thân những hình ảnh đó là phản cảm chứ không phải là hành vi của thủ phạm.
The introduction of specific revenge pornography criminal legislation regardless of
jurisdiction raises four key issues. The first concerns the nature and content of the image.
Different jurisdictions use a range of terms, including ‘intimate images’, ‘private sexual
material’, ‘nude or semi-nude images’ and ‘sexually explicit images’. However, whilst in
many cases, the law specifies that private, sexual or intimate images must be those ‘not of
the kind ordinarily seen in public’ and must be what a reasonable person would consider
‘sexual’, in practice it is not clear what would constitute a sexual or ‘intimate’ image
(McGlynn and Rackley, 2015). The Victorian legislation, for example, defines ‘intimate
image’ as ‘a moving or still image that depicts (a) a person engaged in sexual activity; (b)
a person in a manner or content that is sexual; or (c) the genital or anal region of a person,
or, in the case of a female, the breasts’.

Sự ra đời của luật hình sự về nội dung khiêu dâm trả thù cụ thể bất kể quyền tài phán đã
đặt ra bốn vấn đề chính sau đây. Điều đầu tiên liên quan đến bản chất và nội dung của
hình ảnh. Các quyền tài phán khác nhau sử dụng nhiều thuật ngữ, bao gồm "hình ảnh
thân mật", "tư liệu tình dục thầm kín", "hình ảnh khỏa thân hoặc bán khỏa thân" và "hình
ảnh khiêu dâm". Tuy nhiên, trong khi có nhiều trường hợp, luật quy định rằng hình ảnh
riêng tư, tình dục hoặc thân mật phải là những hình ảnh 'không phải loại thường thấy ở
nơi công cộng' và phải là hình ảnh mà một người bình thường dĩ nhiên sẽ coi là 'gợi dục',
thế nhưng trong thực tế, những điều này đều không rõ ràng hay chỉ là loại hình ảnh ‘thân
mật’. Chẳng hạn, luật pháp Victoria định nghĩa 'hình ảnh thân mật' là 'dạng clip hay hình
ảnh tĩnh mô tả (a) một người tham gia vào hoạt động quan hệ tình dục; (b) một người
theo một cách hiểu nào đó đang thể hiện hình ảnh khiêu dâm; hoặc (c) bộ phận sinh dục
hay hậu môn của một người, ví dụ trong trường hợp của phụ nữ, thì đó có thể là ngực '.
It is unclear whether images that a ‘reasonable person’ in the community might not
consider either intimate or sexual would actually be covered by these divergent laws. For
instance, would existing laws criminalize the non-consensual distribution of an intimate
image of a Muslim woman in her underwear without her hijab on (Yosufzai, 2015)?
Similarly, it is unclear whether ‘female breasts’ include cleavage shots and whether
transgender or intersex persons are also protected under such legislation. We contend that
the law should take into account the nature and content of the image, the degree to which
the distribution affects the privacy of the person, as well as the degree to which the
distribution of images violates that person’s community’s standards of acceptable
conduct.
Chúng ta vẫn chưa được làm rõ rằng liệu những hình ảnh mà một người bình thường có
thể không coi đó là hình ảnh thân mật hay gợi dục nhưng vẫn bị các luật khác nhau che
đậy hay không. Ví dụ: liệu các luật hiện hành có hình sự hóa việc phát tán không có sự
đồng thuận của một phụ nữ Hồi giáo mặc nội y mà không đeo khăn trùm đầu không
(Yosufzai, 2015)? Tương tự, vẫn chưa rõ liệu 'ngực phụ nữ' có bao gồm những shot ảnh
từng phần hay không và liệu những người chuyển giới hoặc những người liên giới tính có
được bảo vệ theo luật như vậy hay không. Chúng tôi cho rằng luật phải tính đến bản chất
và nội dung của hình ảnh, mức độ ảnh hưởng đến quyền riêng tư của người đó, cũng như
mức độ mà việc phát tán hình ảnh vi phạm các tiêu chuẩn ứng xử được chấp nhận của
cộng đồng người đó.
The second issue concerns the intention of the perpetrator. Some jurisdictions require that
the accused must have distributed the image with the specific intent to cause emotional
distress, whilst others require ‘malicious intention’ or, alternatively, proof of harm to the
victim. As noted above, perpetrators may have diverse motivations for distributing
private sexual images without consent, including revenge, coercion, humiliation,
blackmail, sexual gratification, social notoriety and financial gain. Many perpetrators
then do not necessarily have the intention to cause harm or emotional distress. This poses
a challenge to legislators: Should laws apply to third parties who do not know that the
image was originally distributed without consent but who then goes on to distribute the
image? Or should the laws only apply if the person knows, or has reason to know, that
the other person did not consent to the distribution of the image? As legal scholar Citron
(2014: 15) claims, ‘[i]t should not be a crime, for instance, to repost a stranger’s nude
photos having no idea that person intended them to be kept private’. That does not mean
it is ethical to do so however, the law should only capture those who knowingly betray
another person’s privacy or those who were reckless to whether or not the person
consented to the distribution of the image (e.g. they did not give any thought to it).
Moreover, whilst proving intent to cause harm or distress might be relatively
straightforward in some cases, in others, the difficulty of proving intent of the original
distributor of the image, as well as others who repost and distribute the images, may
serve as an obstacle to successful revenge porn convictions (McGlynn and Rackley,
2015).
Vấn đề thứ hai liên quan đến động cơ của hung thủ. Một số khu vực pháp lý yêu cầu
người bị buộc tội phải phát tán hình ảnh với mục đích cụ thể để gây ra đau khổ về mặt
tinh thần, trong khi những khu vực khác yêu cầu 'ý định xấu' hoặc phải có bằng chứng về
tổn hại đến nạn nhân. Như đã lưu ý ở trên, thủ phạm có thể có nhiều động cơ khác nhau
để phát tán hình ảnh tình dục riêng tư mà không được sự đồng ý, bao gồm trả thù, cưỡng
bức, làm nhục, tống tiền, thỏa mãn tình dục, tai tiếng xã hội và lợi ích tài chính. Nhiều
thủ phạm sau đó không nhất thiết phải có ý định gây tổn hại hoặc đau khổ về tình cảm.
Điều này đặt ra một thách thức cho các nhà lập pháp: Liệu luật có nên áp dụng cho các
bên thứ ba không biết rằng hình ảnh ban đầu được phát tán mà không có sự đồng ý nhưng
sau đó có người lại tiếp tục phát tán những hình ảnh đó? Hay luật chỉ nên áp dụng nếu
người đó biết, hoặc có lý do để biết rằng người kia không đồng ý việc phân phối hình
ảnh? Như học giả pháp lý Citron (2014: 15) tuyên bố rằng, ‘không nên xem đây là phạm
tội, trong trường hợp: đăng lại ảnh khỏa thân của một người lạ mà không biết rằng người
đó muốn giữ chúng ở chế độ riêng tư”. Điều đó không có nghĩa là làm như vậy thì sẽ vi
phạm đạo đức, tuy nhiên, luật pháp chỉ nên quy chụp những người cố ý xâm phạm quyền
riêng tư của người khác hoặc những người liều lĩnh xem người đó có đồng ý cho việc
phát tán hình ảnh (ví dụ: họ không đưa ra bất kỳ suy nghĩ nào với nó). Hơn nữa, việc
chứng minh ý định gây tổn hại hoặc đau khổ có thể tương đối đơn giản trong một số
trường hợp, nhưng trong một số trường hợp khác, có thể sẽ gặp khó khăn trong việc
chứng minh ý định của những người phát tán hình ảnh ban đầu, cũng như những người
đăng lại và tiếp tục phát tán hình ảnh, có thể là một trở ngại để trả thù về khiêu dâm thành
công (McGlynn và Rackley, 2015).
A third issue concerns the harms of revenge pornography and whether this could replace
or supplement the mental element of the accused in specific legislation. It is important to
acknowledge that in some instances, there may be little or no harm to the subject of the
image. Conversely, in other situations, there may be adverse and farreaching physical,
psychological, social and financial consequences for victims, including risks to personal
safety due to stalking and/or further domestic violence; shame and humiliation; altered
relationships with others; reputational damage; loss of employment prospects; victim
blaming; withdrawal from social life and low self-esteem and paranoia among a whole
range of other afflictions (see Citron and Franks, 2014). Therefore, we argue that the
introduction of specific criminal legislation is important to acknowledge the harms
associated with the non-consensual distribution of intimate images. In the absence of
legal frameworks to address this serious and emerging issue, victims, perpetrators and the
community more generally will continue to place the blame on women, and in the
process, exacerbate existing psychological and social harms
Vấn đề thứ ba liên quan đến tác hại của nội dung khiêu dâm trả thù và liệu điều này có
thể thay thế hoặc bổ sung yếu tố tinh thần của bị cáo trong luật cụ thể hay không. Điều
quan trọng là phải thừa nhận rằng trong một số trường hợp, có thể có ít hoặc không gây
hại cho chủ thể của hình ảnh. Ngược lại, trong các tình huống khác, có thể gây ra những
hậu quả bất lợi và sâu sắc hơn về thể chất, tâm lý, xã hội và tài chính cho nạn nhân, bao
gồm các rủi ro đối với an toàn cá nhân do bị rình rập hoặc thêm hành vi bạo lực gia đình;
xấu hổ và nhục nhã; thay đổi mối quan hệ với những người khác; thiệt hại về danh tiếng;
mất đi cơ hội việc làm; đổ lỗi cho nạn nhân; rút lui khỏi cuộc sống xã hội và bị hạ thấp
lòng tự trọng và hoang tưởng cùng với hàng loạt những phiền não khác (xem Citron và
Franks, 2014). Do đó, chúng tôi cho rằng sự ra đời của luật hình sự là rất quan trọng để
thừa nhận những tác hại liên quan đến việc phát tán các hình ảnh thân mật nhạy cảm mà
không có sự đồng thuận. Trong trường hợp không có khuôn khổ pháp lý để giải quyết
vấn đề nghiêm trọng và đang nổi lên này, các nạn nhân, thủ phạm và cộng đồng nói
chung sẽ tiếp tục đổ lỗi cho phụ nữ, và trong quá trình đó, làm trầm trọng thêm các tác
hại hiện có về tâm lý và xã hội.
Finally, the fourth issue surrounding the criminalization of revenge pornography
concerns the platform or medium in which such images are shared and distributed and
how they are shared. For instance, does revenge pornography only include images
distributed in online form? Does ‘distribution’ also encapsulate the ‘showing’ or
‘sharing’ of these images (e.g. a person showing a video or photo on their mobile phone
to another person)? In some jurisdictions, it is made clear that images include photograph
or film sent as text messages, distributed on social networking sites or distributed in
offline form. This indicates that although revenge pornography is an emerging issue due
to the development of new technologies, it is not actually a new phenomenon as people
have been distributing intimate images without consent prior to the advent of smart
phones and social media.
Cuối cùng, vấn đề thứ tư xung quanh việc hình sự hóa nội dung khiêu dâm trả thù liên
quan đến nền tảng hoặc phương tiện mà những hình ảnh đó được chia sẻ và phát tán cũng
như cách chúng được chia sẻ. Ví dụ, có phải nội dung khiêu dâm trả thù chỉ bao gồm các
hình ảnh được phát tán dưới dạng trực tuyến? Có phải "phát tán" cũng chỉ gói gọn trong
việc "hiển thị" hoặc "chia sẻ" những hình ảnh này (ví dụ: một người hiển thị video hoặc
ảnh trên điện thoại di động của họ cho người khác)? Ở một số khu vực pháp lý, quy định
rõ rằng hình ảnh bao gồm ảnh chụp hoặc phim được gửi dưới dạng tin nhắn văn bản,
được phát tán trên các trang mạng xã hội hoặc được phát tán ở dạng ngoại tuyến. Điều
này chỉ ra rằng mặc dù nội dung khiêu dâm trả thù là một vấn đề đang nổi lên do sự phát
triển của công nghệ mới, nó thực sự không phải là một hiện tượng mới vì mọi người đã
phát tán những hình ảnh thân mật mà không có sự đồng ý trước khi điện thoại thông minh
và phương tiện truyền thông xã hội ra đời.
Furthermore, there is some debate about whether website operators should have
immunity from prosecution (Cecil, 2014; Franklin, 2014). In Australia, under proposed
federal legislation, website operators would be liable for up to 5 years if they possess,
control, produce, supply or obtain for commercial purposes or some kind of benefit
‘private sexual material for use through a carriage service’ (Criminal Code Amendment
(Private Sexual Material) Bill 2015). In other words, the onus is on the website operator
to take all steps to ensure that another person providing the image has verified that they
own the image and/or that the image is being distributed with the subject’s consent. It
should not be enough for websites to simply provide victims with an option of requesting
their images be removed from their websites. In October 2015, for instance, Pornhub, the
largest pornography site on the Internet, announced a reporting option for victims of
revenge pornography but did not take the extra step of requiring uploaders to verify
images are consensual (Brown, 2015).

Hơn nữa, có một số cuộc tranh luận về việc liệu các nhà điều hành trang web có nên được
miễn trừ truy tố hay không (Cecil, 2014; Franklin, 2014). Tại Úc, theo luật liên bang
được đề xuất, các nhà điều hành trang web sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý lên đến 5
năm nếu họ sở hữu, kiểm soát, sản xuất, cung cấp hoặc lấy các mục đích thương mại, một
số loại 'tài liệu tình dục riêng tư để sử dụng thông qua dịch vụ vận chuyển' (Hình sự Dự
luật Sửa đổi Bộ luật (Tài liệu Tình dục Riêng tư) 2015). Nói cách khác, nhà điều hành
trang web có trách nhiệm thực hiện tất cả các bước để đảm bảo rằng một người khác cung
cấp hình ảnh phải xác minh rằng họ sở hữu hình ảnh hoặc hình ảnh đang được phát tán
với sự đồng ý của chủ thể. Sẽ không đủ và đơn giản để các trang web chỉ cung cấp cho
nạn nhân một tùy chọn yêu cầu xóa hình ảnh của họ khỏi trang web. Ví dụ, vào tháng 10
năm 2015, Pornhub, trang web khiêu dâm lớn nhất trên Internet, đã công bố tùy chọn báo
cáo cho các nạn nhân của nội dung khiêu dâm trả thù nhưng không thực hiện thêm bước
yêu cầu người tải lên xác minh hình ảnh đã có sự đồng ý hay không (Brown, 2015).
Although there are a range of existing civil avenues available to victims (including under
civil laws such as anti-discrimination, copyright, breach of confidence and defamation),
neither civil or criminal laws adequately protect or provide a remedy for victims of
revenge pornography. This is for three key reasons. The first is that the costs associated
with civil litigation may be overly burdensome for the average victim who may not have
the financial means to bring civil action under existing laws. The second reason is that
existing criminal offences that are not specific to revenge pornography behaviours do not
capture the harms of revenge porn or provide an effective deterrent against these
behaviours since in the absence of legislation, perpetrators may not know that the
nonconsensual distribution of intimate images is a wrong. And third, neither new nor
existing civil or criminal laws are capable of stopping the spread of the image once it has
been posted online (see Citron and Franks, 2014).
Mặc dù một loạt các con đường pháp lý dân sự hiện có dành cho nạn nhân (bao gồm cả
theo luật dân sự như chống phân biệt đối xử, bản quyền, vi phạm lòng tin và phỉ báng), cả
luật dân sự và hình sự đều không bảo vệ hay cung cấp biện pháp khắc phục hậu quả cho
nạn nhân của hành vi khiêu dâm trả thù. Đây là vì ba lý do chính. Thứ nhất là chi phí liên
quan đến kiện tụng dân sự có thể quá nặng nề đối với nạn nhân không có địa vị quá cao,
những người không có đủ phương tiện tài chính để khởi kiện dân sự theo luật hiện hành.
Lý do thứ hai là các hành vi phạm tội hiện tại không dành riêng cho các hành vi khiêu
dâm trả thù, nó không nắm bắt được hoàn toàn các tác hại của khiêu dâm trả thù hay cung
cấp một biện pháp ngăn chặn hiệu quả đối với những hành vi này vì khi không có luật,
thủ phạm có thể không biết rằng việc phát tán hình ảnh thân mật một cách vô cớ là một
sai lầm. Và thứ ba, cả luật dân sự và luật hình sự mới cũng như hiện hành đều không có
khả năng ngăn chặn sự lan truyền của hình ảnh khi nó đã được đăng trực tuyến (xem
Citron và Franks, 2014).
Although some legal experts in the United States have argued that existing criminal
offences are sufficient to capture revenge porn behaviours (see e.g. Budde, 2014; Stokes,
2014), there has been increased pressure on lawmakers to introduce specific criminal
legislation – in Australia and elsewhere. Citron and Franks (2014: 349), for example,
argue that specific legislation is important ‘to convey the proper level of social
condemnation for this behaviour’. The benefit of specific legislation is that it captures
behaviours in the context of intimate partner violence (where the behaviour is part of an
overall pattern of intimidation and abuse) and those outside the domestic violence frame.
Specific legislation also has expressive value, sending a signal to the community that
such behaviours are abhorrent and deserve to be punished accordingly. The potential
outcome may be a move away from victim blaming.
Mặc dù một số chuyên gia pháp lý ở Hoa Kỳ đã lập luận rằng các tội hình sự hiện có đã
đủ để bắt các hành vi khiêu dâm trả thù (xem ví dụ ở Budde, 2014; Stokes, 2014), nhưng
lại gia tăng áp lực đối với các nhà lập pháp để đưa ra luật hình sự căn cứ - ở Úc và các
nơi khác. Ví dụ, Citron và Franks (2014: 349) cho rằng luật pháp cụ thể là quan trọng "để
truyền tải mức độ lên án thích hợp của xã hội đối với hành vi này". Lợi ích của pháp luật
căn cứ là nó ghi lại các hành vi trong bối cảnh bạo lực của bạn tình (trong đó hành vi là
một phần của mô hình tổng thể của hành vi đe dọa và lạm dụng) và những hành vi nằm
ngoài khuôn khổ bạo lực gia đình. Luật pháp căn cứ cũng có giá trị biểu đạt, gửi tín hiệu
đến cộng đồng rằng những hành vi như vậy là đáng ghê tởm và đáng bị trừng phạt. Kểt
quả đáng mong đợi có thể là con người sẽ tránh xa việc đổ lỗi cho nạn nhân.
These laws may also have a positive impact through better articulating community
standards about digital exchanges. One example is corporate levels of responsibility,
including website policies on unsolicited images. In 2014, for instance, reddit announced
a ban on the posting of sexually explicit images of a person without their consent after it
was heavily criticized for allowing the distribution of hacked nude photos of Hollywood
actors. In March 2015, Twitter followed suit, banning the posting of unauthorized sexual
images (individuals who do so will have their accounts locked and users will be required
to delete the content before they can return to using the site). In June 2015, Google
announced a new reporting mechanism for victims who can now request images of them
be excluded from Google Internet searches. In July 2015, Microsoft announced a similar
function that will enable victims to have content removed from its Bing search engine
and on its OneDrive and Xbox Live cloud services. Finally, as mentioned above,
Pornhub, in October 2015, also introduced a process that allows victims to request their
images be taken down from the site.
Các luật này cũng có thể có tác động tích cực thông qua việc trình bày rõ ràng hơn các
tiêu chuẩn cộng đồng về việc trao đổi trên Internet. Một ví dụ là các cấp độ trách nhiệm
của công ty, bao gồm các chính sách của trang web về hình ảnh không được yêu cầu. Ví
dụ, vào năm 2014, reddit đã tuyên bố cấm đăng hình ảnh khiêu dâm của một người mà
không có sự đồng ý của họ sau khi bị chỉ trích nặng nề vì cho phép phát tán ảnh khỏa
thân bị hack của các diễn viên Hollywood. Vào tháng 3 năm 2015, Twitter đã tuân theo
lệnh cấm đăng các hình ảnh tình dục trái phép (những cá nhân làm như vậy sẽ bị khóa tài
khoản và người dùng sẽ được yêu cầu xóa nội dung trước khi họ có thể quay lại sử dụng
trang web). Vào tháng 6 năm 2015, Google đã công bố một cơ chế báo cáo mới cho các
nạn nhân, những người hiện có thể yêu cầu loại trừ hình ảnh của họ khỏi các tìm kiếm
trên Internet của Google. Vào tháng 7 năm 2015, Microsoft đã công bố một chức năng
tương tự cho phép nạn nhân xóa nội dung khỏi công cụ tìm kiếm Bing và trên các dịch vụ
đám mây OneDrive và Xbox Live của họ. Cuối cùng, như đã đề cập ở trên, Pornhub, vào
tháng 10 năm 2015, cũng đã tạo ra một quy trình cho phép nạn nhân yêu cầu gỡ hình ảnh
của họ xuống khỏi trang web.
These developments, we contend, are further reminders of the importance of action
beyond the law to address the growing problem of TFSV. But most pertinently, together
changes in laws and policies at different levels demonstrate the importance of a
multifaceted approach to this issue. Yet one of the most pressing issues concerns the
persistence of sexually explicit or intimate images in cyberspace post-distribution and the
fact that many existing laws have very little impact on whether the content is removed,
particularly since many sites where the images are hosted are based outside the victim’s
country. As the Internet readily enables re-blogging and reposting, it may be impossible
to retract the image once it has been distributed. This is another reason why it is
important to look beyond law and to focus energies on primary prevention measures as
well as the development of codes of corporate and user responsibility and accountability
for tackling revenge pornography and other forms of digital violence.
Chúng tôi cho rằng những phát triển này là những lời nhắc nhở hơn thế nữa về tầm quan
trọng của hành động vượt quá pháp luật để giải quyết vấn đề ngày càng tăng của TFSV.
Nhưng rõ ràng nhất, những thay đổi về luật pháp và chính sách ở các cấp độ khác nhau
cho thấy tầm quan trọng của hướng tiếp cận nhiều mặt đối với vấn đề này. Tuy nhiên,
một trong những vấn đề cấp bách nhất liên quan đến sự tồn tại của các hình ảnh khiêu
dâm hay thân mật trong quá trình đăng tải lên mạng xã hội và thực tế là nhiều luật hiện
hành có rất ít tác động đến việc liệu nội dung có bị xóa hay không, đặc biệt vì nhiều trang
web lưu trữ hình ảnh ngoài nơi mà nạn nhân đang sinh sống. Vì Internet dễ dàng cho
phép viết lại bài viết và đăng lại, nên chúng ta không thể rút lại hình ảnh sau khi nó đã
được phát tán. Đây là một lý do khác tại sao điều quan trọng ở đây chính là phải nhìn xa
hơn luật pháp và tập trung sức lực vào các biện pháp phòng ngừa chính cũng như phát
triển các bộ quy tắc về trách nhiệm của công ty, người dùng và trách nhiệm giải quyết nội
dung khiêu dâm trả thù hay các hình thức tấn công trên nền tảng kỹ thuật số khác.
The Recording and/or Distribution of Sexual Assault Images
Whilst revenge pornography is currently receiving much attention internationally, it is
only one form of technology-facilitated image-based abuse. Another emerging behaviour
concerns the recording (‘creation’) and/or distribution of sexual assault images. The 2012
Steubenville Ohio case is one recent example. In that case, an incapacitated 16-year-old
girl was raped by two high school football players over a 6-hour period at various
locations. The rapes were recorded and then distributed via mobile phones and websites,
such as You Tube and Instagram. Two of the perpetrators (Ma’lik Richmond and Trent
Mays) were convicted in juvenile court for the rape of a minor and distributing child
pornography. Three adults were indicted for tampering with evidence and the obstruction
of justice and two young women pled guilty to aggravated menacing charges in relation
to tweets they sent threatening the victim (Welsh-Huggins, 2013).
Ghi lại hoặc phát tán các hình ảnh Cưỡng Dâm
Trong khi nội dung khiêu dâm trả thù hiện đang nhận được nhiều sự chú ý trên toàn thế
giới, nó chỉ là một hình thức lạm dụng hình ảnh được tạo điều kiện bởi công nghệ. Một
hành vi mới nổi khác cũng liên quan đến việc ghi lại và phát tán hình ảnh tấn công tình
dục/ cưỡng dâm. Trường hợp Steubenville Ohio năm 2012 là một ví dụ gần đây cho hành
vi tội phạm này. Một cô gái 16 tuổi mất năng lực nhận thức đã bị hai cầu thủ bóng đá
trung họv cưỡng hiếp trong khoảng thời gian 6 giờ tại nhiều địa điểm khác nhau. Các vụ
cưỡng hiếp được ghi lại và sau đó bị phát tán qua điện thoại di động và các trang web,
chẳng hạn như You Tube và Instagram. Hai trong số những thủ phạm (Ma’lik Richmond
và Trent Mays) đã bị kết án tại tòa án vị thành niên vì tội hiếp dâm trẻ vị thành niên và
phát tán nội dung khiêu dâm trẻ em. Ba người lớn khác cũng bị truy tố vì giả mạo bằng
chứng và cản trở quá trình thực thi công lý, cùng theo đó là hai phụ nữ trẻ bị kết án phạm
tội đe dọa trầm trọng vì các dòng tweet (tin nhắn trên một mạng xã hội) mà họ gửi đe dọa
nạn nhân (Welsh-Huggins, 2013).
The Steubenville case garnered enormous media attention, in part because of the biased
and victim blaming media reporting of the case but also because of the unprecedented
role that social media played in both the collection of evidence and the collective outrage
towards the event itself and the reaction to it. Although the dozens of individuals who
recorded and/or distributed the images onto social media sites were not prosecuted, in
court the mobile phone images and text messages helped to initiate the prosecution’s case
as well as provide evidence. Moreover, these images revealed the role of ‘bystanders’
who stood by and callously recorded the violence and then distributed the images via
mobile phone and social media. In addition to the behaviour of the two accused and the
authorities indicted for obstructing the course of justice, this was further ‘proof’ of the
problematic culture of rape that allowed not only such an incident to happen in the first
place but also allowed the abuse to be captured, disseminated and voraciously consumed
(Powell, 2015).
Vụ án Steubenville đã thu hút được sự một chú ý lớn của giới truyền thông, một phần vì
do truyền thông ngày càng được sử dụng rộng rãi và nạn nhân đã đưa tin về vụ việc này.
Tuy nhiên, cũng chính vì điều đó, mạng xã hội đã đóng vai trò chưa từng có trong việc
thu thập những bằng chứng và đón nhận một sự phẫn nộ cùng phản ứng vô cùng lớn của
cộng đồng mạng cho chính sự việc này. Mặc dù hàng chục cá nhân đã có hành vi ghi lại
hoặc phát tán hình ảnh lên các trang mạng xã hội không bị truy tố, nhưng hình ảnh và tin
nhắn văn bản trên điện thoại di động đã giúp khởi tố vụ án cũng như cung cấp bằng
chứng. Hơn nữa, những hình ảnh này cho thấy vai trò của ‘người ngoài cuộc’ đã nhẫn
tâm ghi lại cảnh bạo lực sau này đó phát tán hình ảnh qua điện thoại di động và mạng xã
hội. Ngoài hành vi của hai bị can và cơ quan chức năng đã truy tố tội cản trở người thi
hành công vụ, đây còn là bằng chứng cho thấy vấn nạn văn hóa hiếp dâm không chỉ dừng
lại ở việc xảy ra ban đầu mà còn là sự xâm phạm bằng cách phát tán, làm cho phổ biến
rộng rãi và lưu trữ lại từ cộng đồng mạng.
A surprisingly similar example concerns both the creation and distribution of images of
simulated sex acts by US soldiers (sodomy, oral sex and bondage) forced upon Iraqi
prisoners at Abu Ghraib during the war in Iraq in 2003. Although the acts themselves
have been widely condemned as homophobic, racist, misogynist and imperialist, as Puar
(2004: 531) suggests:
... what is exceptional here is not the actual violence itself, but rather the capture of these
acts on film, the photographic qualities which are reminiscent of vacation snapshots,
mementos of a good time, victory at last, or even the trophy won at summer camp.
(emphasis added).
Một ví dụ tương tự đáng ngạc nhiên liên quan đến cả việc tạo ra và phát tán các hình ảnh
mô phỏng hành vi tình dục của lính Mỹ (quan hệ tình dục bằng miệng, quan hệ tình dục
bằng miệng và trói buộc) đối với các tù nhân Iraq tại Abu Ghraib trong cuộc chiến ở Iraq
năm 2003. Mặc dù bản thân các hành vi này đã bị lên án rộng rãi như kỳ thị đồng tính,
phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa kì thị nữ giới và chủ nghĩa đế quốc, như Puar (2004: 531)
đã cho thấy:
... điều đặc biệt ở đây không phải chỉ là bản thân hành động cưỡng bức, mà còn là việc
ghi lại những hành động này trên phim, chất lượng của các loại phim ảnh này làm người
ta gợi nhớ đến những bức ảnh chụp nhanh trong kỳ nghỉ, kỷ vật ở một thời tốt đẹp, chiến
thắng ở những giây phút cuối hoặc thậm chí là chiếc cúp giành được tại trại hè (được
nhấn mạnh thêm).
He states that the dissemination of these images is ‘like pornography on the Internet ...
perpetuating humiliation ad nauseum’. Like the Steubenville case described above,
although prisoner abuse photographs helped to establish evidence for the criminal
charges against 11 US soldiers for dereliction of duty, maltreatment, aggravated assault
and battery (including a 10-year prison sentence for one soldier) and the demotion of the
commanding officer, the continual reproduction of the images on television, in
newspaper reports and even in academic publications, has received comparably little
condemnation and censure. Indeed, the only existing laws that can apply, at least in the
countries mentioned above, are in fact revenge porn laws or already existing laws
surrounding indecency or the use of a carriage service to menace, offend or harass.
However, in multiple jurisdictions that have specific criminal laws in place, the accused
must have intended to cause distress or harm. Therefore, if a person records a sexual
assault and then distributes these images in the absence of intending the distribution to
cause distress or harm, but for other motivations (e.g. to gain social status or ‘kudos’
among peers or to draw attention to human rights abuses), then such legislation may
simply not apply (Franks, 2015).
Ông ấy đã tuyên bố rằng việc phổ biến những hình ảnh này 'giống như nội dung khiêu
dâm trên Internet ... khiến bản thân nạn nhân sẽ bị sỉ nhục kéo dài.’. Giống như trường
hợp Steubenville được mô tả ở trên, mặc dù các bức ảnh lạm dụng tù nhân đã giúp thiết
lập bằng chứng cho các cáo buộc hình sự đối với 11 binh sĩ Hoa Kỳ vì tội bỏ nghĩa vụ,
ngược đãi, hành hung nghiêm trọng và phạm tội (bao gồm bản án 10 năm tù cho một binh
sĩ) và cách chức sĩ quan chỉ huy, thế nhưng việc tái tạo liên tục các hình ảnh trên truyền
hình, trên báo chí và thậm chí trong các ấn phẩm học thuật, đã nhận được rất ít sự lên án
và chỉ trích. Thật vậy, các luật hiện hành duy nhất có thể áp dụng, ít nhất là ở các quốc
gia được đề cập ở trên, trên thực tế là luật khiêu dâm trả thù hoặc các luật hiện hành xung
quanh việc phỉ báng hay sử dụng dịch vụ vận chuyển để đe dọa, xúc phạm hoặc quấy rối.
Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia cũng đã có luật hình sự căn cứ cụ thể, rằng bị cáo phải có ý
định gây ra đau khổ hoặc gây tổn hại. Do đó, nếu một người ghi lại cảnh cưỡng bức, hiếp
dâm và sau đó phát tán những hình ảnh này mà không có ý định phát tán để gây ra đau
khổ hoặc tổn hại, nhưng vì động cơ khác (ví dụ như để đạt được địa vị xã hội, 'thanh
danh' giữa những người đồng nghiệp hoặc để thu hút sự chú ý đến nhân quyền bị lạm
dụng), thì luật như vậy có thể đơn giản là không áp dụng được (Franks, 2015).
Another issue concerns whether the covert filming and distribution of consensual sex
constitutes a sexual assault or a rape under existing criminal law legislation. Consider, for
example, the Australian Defence Force Academy (ADFA) ‘Skype Scandal’, where a
male cadet secretly broadcast otherwise consensual sex with a female cadet via Skype so
that five of his peers could watch from another room without her knowledge or consent.
One of the two accused, Daniel McDonald, was found guilty in October 2013 under the
Australian Commonwealth telecommunications legislation, including sending offensive
material over the Internet and a related indecency offence (see Byrne, 2013). Whilst the
convictions recognize that the broadcasting of sex without consent was ‘offensive’ and
‘indecent’, they do not adequately acknowledge the harm experienced by the victim. It is
arguable that the victim’s consent was vitiated by the deception involved in broadcasting
the sexual encounter without consent. This is not dissimilar to other forms of sexual
activity by fraud or deception cases in Australia and internationally, where convictions
for rape have been successful despite the original consent of the victim to the act itself
(see e.g. Crowe, 2011, 2014; Syrota, 1995). However, such an approach is not without
limitations. For instance, some legal scholars suggest there is the potential to
inadvertently minimize the harms of rape as a physical, sexual violation, if the
psychological harms of sexual activity by fraud or deception are included under the same
offence category (see Roffee, 2015). This suggests, perhaps, that a separate sexual
offence may be needed to address the harms to victims in such instances.
Một vấn đề khác liên quan đến việc liệu hành vi quay lén và phát tán cảnh quan hệ tình
dục có đồng thuận thì có bị cấu thành phạm tội hành vi cuõng hiếp hay tấn công tình dục
theo luật hình sự hiện hành hay không? Ví dụ, hãy xem xét vụ ‘Vụ bê bối Skype’ của
Học viện Quốc phòng Úc (ADFA), nơi một nam học viên bí mật phát sóng cảnh quan hệ
tình dục có sự đồng thuận với một nữ học viên qua Skype để năm người bạn đồng lứa của
anh ta có thể xem từ phòng khác mà cô ấy không biết và không đồng ý với chuyện đó.
Một trong hai người bị buộc tội, Daniel McDonald, đã bị kết tội vào tháng 10 năm 2013
theo luật viễn thông của Khối Liên Bang Úc, bao gồm hành vi gửi tài liệu nhạy cảm để
làm nhục người khác qua Internet và một tội phỉ báng liên quan (xem Byrne, 2013).
Trong khi những người bị kết án thừa nhận rằng việc phát sóng cảnh quan hệ tình dục mà
không có sự đồng ý là ‘xúc phạm’ và ‘không đứng đắn’, nhưng họ lại không thừa nhận
một cách thỏa đáng những tổn hại mà nạn nhân phải trải qua. Có thể cho rằng sự đồng ý
của nạn nhân đã được chứng minh bằng hành vi lừa dối liên quan đến việc phát sóng
cảnh quan hệ tình dục mà không có sự đồng ý. Điều này không khác với các hình thức
hoạt động tình dục khác của các trường hợp lừa đảo hoặc lừa gạt ở Úc và các nước quốc
tế, nơi mà việc kết án tội hiếp dâm đã thành công bất chấp sự đồng ý ban đầu của nạn
nhân đối với chính hành vi đó (xem ví dụ: Crowe, 2011, 2014; Syrota, 1995). Tuy nhiên,
cách tiếp cận như vậy không phải là không có hạn chế. Ví dụ, một số học giả pháp lý cho
rằng, sẽ có khả năng vô tình giảm được phần nào tác hại của việc hiếp dâm nếu những tác
hại tinh thần của hoạt động tình dục do lừa đảo hay lừa dối được đưa vào cùng một loại
tội với hành vi xâm phạm thể chất. (xem Roffee, 2015). Điều này cho thấy, có lẽ, cần
phải có một hành vi phạm tội tình dục riêng biệt để giải quyết những tổn hại cho nạn
nhân trong những trường hợp như vậy.
In summary, the term revenge porn is inherently flawed to capture the motivations of the
accused persons who create and distribute images of sexual assault. These recordings and
their distribution may well be for human rights or evidence-gathering purposes (e.g. in
wartime), yet little attention has been given to the ethics or criminality of reproducing
torture images in this field. It is thus important to scrutinize these acts and to consider the
harms done to victims when violent images are distributed, regardless of the intention of
the distributor. Likewise, it is important to explore whether amendments are required to
existing sexual offences legislation to specifically criminalize the recording and/or
distribution of sexual assault (see Powell, 2010).
Tóm lại, thuật ngữ khiêu dâm trả thù vốn dĩ là thiếu sót khi dùng để chỉ động cơ của
những người bị buộc tội tạo ra và phát tán hình ảnh tấn công tình dục, hình ảnh cưỡng
hiếp. Những bản ghi lại này và việc phát tán chúng có thể là vì nhân quyền hay mục đích
thu thập bằng chứng (ví dụ như trong thời chiến), nhưng người ta ít chú ý đến vấn đề đạo
đức và tội ác của việc tái tạo các hình ảnh tra tấn này. Do đó, điều quan trọng là phải xem
xét kỹ lưỡng những hành vi này và xem xét những tác hại gây ra cho nạn nhân khi hình
ảnh bạo hành bị phát tán, bất kể ý định của người phát tán là gì. Tương tự như vậy, điều
quan trọng là phải tìm hiểu xem liệu pháp luật về tội phạm tình dục hiện hành có cần phải
sửa đổi để hình sự hóa cụ thể việc ghi lại hoặc phát tán hình ảnh cưỡng bức tình dục hay
không (xem Powell, 2010).
Technology-Facilitated Sexual Assault and Coercion
Online technologies such as mobile phones, email, social networking sites, chat rooms
and online dating sites (among a range of other platforms) are also being used by sexual
predators as a means of facilitating a rape or sexual assault, representing a further
example of TFSV. Indeed, there are at least three forms of online sexual coercion or
sexual assault via digital technologies that are emerging in media reports and case
examples. First, where a perpetrator befriends the victim online through a mobile phone
app, social network or online dating site before then meeting them in person and sexually
assaulting them. For example, in June 2012, popular social networking site Skout
suspended accounts of under-18s after a number of sexual assaults were carried out by
adult perpetrators against underage victims (e.g. Perlroth, 2012). In July 2014, a 22-year-
old man was arrested on a rape charge in Louisiana after allegedly raping a woman he
had met on the dating and ‘hook up’ app Tinder (Hodges, 2014). In September 2014, an
Irish woman in her 30s reported having been raped after meeting a man, also in his 30s,
on the Tinder app (McMenamy, 2014). In 2015, Tinder was once again under the
spotlight after users alleged that the app is helping sexual predators to contact and groom
underage youths (Huynh, 2015) as well as numerous adult assaults (Shadwell, 2015).
Tấn công và cưỡng bức tình dục dựa trên công nghệ
Các công nghệ trực tuyến như điện thoại di động, email, các trang mạng xã hội, phòng trò
chuyện và các trang web hẹn hò trực tuyến (trong số một loạt các nền tảng khác) cũng
đang được những kẻ săn mồi tình dục sử dụng như một phương tiện để tạo điều kiện cho
những vụ cưỡng hiếp hay tấn công tình dục, đại diện cho một ví dụ khác của TFSV. Thật
vậy, có ít nhất ba hình thức cưỡng bức tình dục trực tuyến hoặc tấn công tình dục thông
qua công nghệ kỹ thuật số đang xuất hiện trong các báo cáo truyền thông cũng như các ví
dụ điển hình gần đây. Đầu tiên, thủ phạm kết bạn với nạn nhân qua trực tuyến thông qua
ứng dụng điện thoại di động, mạng xã hội hoặc trang web hẹn hò trực tuyến trước khi gặp
trực tiếp bên ngoài và tấn công tình dục họ. Ví dụ: vào tháng 6 năm 2012, trang mạng xã
hội nổi tiếng Skout đã đình chỉ tài khoản của những người dưới 18 tuổi sau khi một số vụ
tấn công tình dục được thực hiện bởi thủ phạm người lớn đối với các nạn nhân vị thành
niên (ví dụ: Perlroth, 2012). Vào tháng 7 năm 2014, một người đàn ông 22 tuổi bị bắt với
cáo buộc hiếp dâm ở Louisiana sau khi bị cáo buộc cưỡng hiếp một phụ nữ mà anh ta đã
gặp trên ứng dụng hẹn hò và ‘móc nối’ là Tinder (Hodges, 2014). Vào tháng 9 năm 2014,
một phụ nữ Ireland ở độ tuổi 30 cho biết đã bị cưỡng hiếp sau khi gặp một người đàn
ông, cũng khoảng 30 tuổi, trên ứng dụng Tinder (McMenamy, 2014). Vào năm 2015,
Tinder một lần nữa trở thành tâm điểm chú ý sau khi người dùng cáo buộc rằng ứng dụng
này đang giúp những kẻ săn mồi tình dục liên lạc và tiếp cận những thanh niên chưa đủ
tuổi vị thành niên (Huynh, 2015) cũng như nhiều vụ cưỡng bức người lớn (Shadwell,
2015).
A further example concerns sexual coercion and ‘sextortion’, a form of non-physical
coercion where a person procures ‘sexual cooperation by putting some kind of pressure
on a victim’ (Barak, 2005: 80). This can take the form of eliciting private information or
a sexual image from a victim and using this material to blackmail, bribe or threaten the
victim to engage in either virtual or in-person sex acts. A third example concerns a form
of ‘rape by proxy’ (see Frosh and Dumais, 2014; O’Connor, 2013), where
communications technologies are employed to solicit a third party to sexually assault a
person, whether through deception, including false or mimicked identity, or more direct
means. Such has been the context of a number of cases reported in the media where a
perpetrator, often a male ex-intimate partner, has placed advertisements in online
classifieds or community forums inviting others to rape a victim, either by posing as the
victim or through direct requests. For instance, in December 2009, a Wyoming (US) man
placed an advertisement on Internet classifieds site Craigslist posing as his ex-girlfriend
and asking for ‘a real aggressive man with no concern for women’ (Correll, 2010).
According to media reports, one week later, a man who had responded to the
advertisement forced entry to the victim’s home and raped her at knifepoint. Whilst an
extreme example, the use of dating apps, online classifieds and community forums to
facilitate sexual crimes is an issue regularly featured in media reports (see Furness, 2012;
Meyer, 2012; Noonan, 2011), though currently there is little empirical data on the
prevalence of attempted and/or completed rape via such means.
Một ví dụ khác liên quan đến cưỡng bức tình dục và ‘tống tiền người khác qua hình thức
đe dọa phát tán hình ảnh về tình dục của họ’, một hình thức cưỡng bức phi thể xác trong
đó một người cố gắng ‘thỏa thuận tình dục bằng cách gây áp lực lên nạn nhân' (Barak,
2005: 80). Điều này có thể diễn ra dưới hình thức khơi gợi thông tin cá nhân hoặc hình
ảnh tình dục từ nạn nhân và sử dụng tài liệu này để tống tiền, mua chuộc hoặc đe dọa nạn
nhân thực hiện hành vi quan hệ tình dục ảo hay trực tiếp ngoài đời. Ví dụ thứ ba liên
quan đến một hình thức 'cưỡng hiếp qua người khác sai khiến’ (xem Frosh và Dumais,
2014; O'Connor, 2013), trong đó các công nghệ truyền thông được sử dụng để gạ gẫm
bên thứ ba tấn công tình dục một người, thông qua việc lừa lọc, bao gồm cả danh tính giả,
bắt chước nhận dạng của người quen nạn nhân, hoặc thông qua các phương tiện trực tiếp
hơn. Đó là bối cảnh của một số trường hợp được báo cáo trên các phương tiện truyền
thông, trong đó thủ phạm, thường là bạn tình cũ của nam giới, đã đăng quảng cáo trên các
trang rao vặt trực tuyến hoặc các diễn đàn cộng đồng để mời người khác hãm hiếp nạn
nhân, bằng cách đóng giả nạn nhân hoặc thông qua yêu cầu trực tiếp. Ví dụ, vào tháng 12
năm 2009, một người đàn ông Wyoming (Hoa Kỳ) đã đặt một quảng cáo trên trang web
rao vặt Internet Craigslist đóng giả là bạn gái cũ của hắn và yêu cầu "một người đàn ông
thực sự hung hăng, bạo lực và không quan tâm đến phụ nữ" (Correll, 2010). Theo báo
cáo của các phương tiện truyền thông, một tuần sau, một người đàn ông đã phản hồi lại
quảng cáo này đã ép vào nhà của nạn nhân và cưỡng hiếp cô bằng dao. Trong khi một ví
dụ điển hình, việc sử dụng các ứng dụng hẹn hò, rao vặt trực tuyến và các diễn đàn cộng
đồng để tạo điều kiện cho tội phạm tình dục là một vấn đề thường xuyên được đưa ra
trong các báo cáo truyền thông (xem Furness, 2012; Meyer, 2012; Noonan, 2011), mặc
dù hiện tại có rất ít dữ liệu thực nghiệm về sự phổ biến của hành vi cưỡng hiếp được cố
gắng thực hiện hay hoàn thành thông qua các phương tiện như vậy.
Sexual assault, whether facilitated by communications technology or otherwise, is
already subject to criminal legislation in all common law countries. As such, the extent to
which these behaviours can be understood as ‘new harms’ requiring amendment to
existing laws, or are simply sexual assault by a different means, is worthy of
interrogation. To some extent the manner through which a perpetrator accesses and
‘grooms’ both young and adult victims does not change the criminal nature of the contact
offence itself. Some jurisdictions are responding to the disturbing trend of rape by proxy
by considering criminal offences addressing communications that solicit others to commit
a sexual offence. For instance, in Maryland (US), a Senate Bill was passed (SB50, 14
April 2014), which prohibits a person from using the identity of an individual without
consent to invite, encourage or solicit another to commit a sexual offence against another
person (see also Frosh and Dumais, 2014). The sexual felony offence, with a 20-year
maximum penalty, recognizes the harm of such an act, regardless of whether a rape was
ultimately committed (at which point existing offences including aiding and abetting a
rape would apply). Furthermore, the mode of facilitation itself raises consideration of
whether third party service providers, such as dating applications, online classifieds and
community forums, ought to be required to take more proactive measures to address the
risk that their service is used to facilitate a sexual assault. For example, in many media
reports, perpetrators have used fake profiles either to misrepresent their age for the
purposes of targeting young victims and/or in an attempt to avoid detection (e.g. Inman,
2014; Portelli, 2015). Such cases suggest that service providers should consider more
rigorous approaches to confirming individuals’ identities linked to their profiles on such
apps and sites.
Tấn công tình dục, cho dù được hỗ trợ bởi công nghệ truyền thông hay bằng cách khác,
đã là đối tượng của luật hình sự ở tất cả các quốc gia theo luật định. Do đó, mức độ mà
những hành vi này có thể được hiểu là 'tác hại mới' đòi hỏi phải sửa đổi luật hiện hành,
hay chỉ đơn giản là tấn công tình dục bằng một phương thức khác, đáng bị thẩm vấn. Ở
một mức độ nào đó, cách thức mà thủ phạm tiếp cận và ‘những chú rể’ của cả nạn nhân
trẻ tuổi và người lớn không làm thay đổi bản chất tội phạm của hành vi phạm tội này.
Một số khu vực pháp lý đang có phản ứng lớn với xu hướng đáng lo ngại của hành vi
cưỡng hiếp theo ủy quyền bằng cách xem xét các hành vi phạm tội liên quan đến việc liên
lạc nhằm lôi kéo người khác thực hiện hành vi phạm tội tình dục. Ví dụ, ở Maryland
(Hoa Kỳ), một Dự luật của Thượng viện đã được thông qua (SB50, ngày 14 tháng 4 năm
2014), cấm một người sử dụng danh tính của một cá nhân mà không được sự đồng ý để
mời, khuyến khích hoặc gạ gẫm người khác phạm tội tình dục đối với nạn nhân (xem
thêm Frosh và Dumais, 2014). Tội danh tình dục, với hình phạt tối đa là 20 năm, ghi nhận
tác hại của hành vi như vậy, bất kể cuối cùng có thực hiện hành vi hiếp dâm hay không
(tại thời điểm đó, các tội danh hiện tại bao gồm hỗ trợ và tiếp tay cho một hành vi hiếp
dâm sẽ được áp dụng). Hơn nữa, phương thức tạo điều kiện đã làm tăng cân nhắc xem
liệu các nhà cung cấp dịch vụ bên thứ ba, chẳng hạn như các ứng dụng hẹn hò, rao vặt
trực tuyến và diễn đàn cộng đồng, có cần phải thực hiện các biện pháp chủ động hơn để
giải quyết nguy cơ dịch vụ của họ được sử dụng để tạo điều kiện cho một cuộc tấn công
tình dục hay không. Ví dụ, trong nhiều báo cáo trên các phương tiện truyền thông, thủ
phạm đã sử dụng hồ sơ giả để khai man tuổi của họ nhằm mục đích nhắm vào các nạn
nhân trẻ tuổi hoặc để tránh bị phát hiện hành vi mờ ám của mình (ví dụ: Inman, 2014;
Portelli, 2015). Những trường hợp như vậy đã đánh lê hồi chuông rằng các nhà cung cấp
dịch vụ nên xem xét các phương pháp tiếp cận chặt chẽ hơn để xác nhận danh tính của
các cá nhân được liên kết với hồ sơ của họ trên các ứng dụng và trang web của mình.
Cyberstalking and Criminal Harassment
The final example of TFSV concerns cyberstalking. Although there is no single and
universally agreed-upon definition of cyberstalking in the international research
literature, Reyns et al. (2012: 1153) describe it as ‘the repeated pursuit of an individual
using electronic or Internet-capable devices’. Such a definition is useful as it is inclusive
of a wide range of behaviours, whether perpetrated via mobile phone, email, instant
messages, chat services, online discussion or bulletin boards as well as social media or
other digital technologies. Cyberstalking includes repeated unwanted communications;
repeated unwanted sexual advances or requests; repeated threats of violence; as well as
surveillance and monitoring of a victim’s location, daily activities and/or
communications, whether facilitated by cameras, listening devices, computer software
and mobile phone applications, or global positioning system (GPS) location information
(see Reyns et al., 2012; Spitzberg and Hoobler, 2002)
Quấy rối trên mạng và quấy rối hình sự
Ví dụ cuối cùng về TFSV liên quan đến hành vi quấy rối qua mạng. Mặc dù không có
định nghĩa đúng hoàn toàn và thống nhất rộng rãi về hành vi quấy rối trên mạng trong các
tài liệu nghiên cứu quốc tế, Reyns et al. (2012: 1153) mô tả nó là "sự theo đuổi, quấy rối
lặp đi lặp lại của một cá nhân sử dụng các thiết bị điện tử hoặc kết nối Internet". Định
nghĩa như vậy rất hữu ích vì nó bao hàm nhiều loại hành vi, cho dù được thực hiện qua
điện thoại di động, email, tin nhắn tức thì, dịch vụ trò chuyện, thảo luận trực tuyến hoặc
bảng thông báo cũng như phương tiện truyền thông xã hội hoặc các công nghệ kỹ thuật
số khác. Quấy rối qua mạng bao gồm các thông tin liên lạc không mong muốn lặp đi lặp
lại; yêu cầu hay đề nghị hành vi quan hệ tình dục không mong muốn lặp đi lặp lại; những
lời đe dọa bạo lực không ngừng; cũng như việc giám sát và theo dõi vị trí của nạn nhân,
các hoạt động hàng ngày và thông tin liên lạc, cho dù được hỗ trợ bởi camera, thiết bị
nghe, phần mềm máy tính và ứng dụng điện thoại di động, hoặc thông tin vị trí của hệ
thống định vị toàn cầu (GPS) (xem Reyns và cộng sự, 2012 ; Spitzberg và Hoobler,
2002).
Whilst cyberstalking encompasses a range of digitally abusive behaviours that may be
perpetrated by intimate partners, sexual or dating partners, acquaintances and strangers
alike, research nonetheless suggests that perpetration and victimization are gendered in
particular ways. For example, whilst men also report stalking victimization, research and
crime data suggest that such victimization may be less common, is more likely to be
perpetrated by a stranger or acquaintance rather than by a partner or former partner and
causes less fear for male victims compared to female victims (see e.g. Logan, 2010;
Wigman, 2009).14 For women in particular, there appears to be much overlap between
cyberstalking and more conventional forms of stalking in terrestrial or offline spaces,
though there are also some apparent differences (Nobles et al., 2014). Cyberstalking, for
instance, when occurring in intimate partner violence contexts, might represent one
component of a broader pattern of abuse where male perpetrators use multiple strategies
to monitor, control, harass or threaten their often female victims (Diette et al., 2014;
Southworth et al., 2007; Woodlock, forthcoming). One notable difference made by
electronic communications and other technologies is that a stalking perpetrator can
potentially have constant access to their victims, extending the feelings of exposure,
vulnerability and fear of victims (Diette et al., 2014). Indeed, technologies give
perpetrators easy access to their victims, explaining why, in a recent survey of domestic
violence advocacy workers (DVRC, 2015), 98% of survey respondents said their clients
had experienced some form of technology-facilitated stalking and abuse. It is important
not to overlook the qualitative differences between offline and online forms of stalking in
terms of harms or impacts on victims. As stated by the US National Network to End
Domestic Violence (NNEDV) (2015) Safety Net Project, ‘Intimidation, threats, and
access of information about victims aren’t new tactics ... However, the use of technology
as a tool ... means that the harassment and abuse can be much more invasive, intensive,
and traumatising’ (emphasis added).
Mặc dù kỹ thuật mạng trực tuyến bao gồm một loạt các hành vi lạm dụng kỹ thuật số có
thể được thực hiện bởi các cặp đôi thân mật, có quan hệ tình dục hay trong mối quan hệ
hẹn hò, người quen và người lạ, nhưng nghiên cứu cho thấy rằng hành vi phạm tội với
nạn nhân có một sự cụ thể về giới tính. Ví dụ: trong khi nam giới cũng báo cáo về việc
theo dõi nạn nhân, dữ liệu nghiên cứu và tội phạm cho thấy rằng nạn nhân giới tính này
có thể ít phổ biến hơn, có nhiều khả năng xảy ra bởi một người lạ hoặc người quen hơn là
bạn tình hoặc bạn tình cũ và gây ra ít sợ hãi hơn đối với các nạn nhân nam nếu đem ra so
sánh với nạn nhân nữ (xem ví dụ: Logan, 2010; Wigman, 2009). Đối với phụ nữ nói
riêng, dường như có nhiều sự trùng lặp giữa hành vi qua mạng và các hình thức rình rập
thông thường hơn trong không gian ngoài đời hoặc ngoại tuyến, mặc dù cũng có một số
khác biệt rõ ràng (Quý tộc và cộng sự, 2014). Ví dụ: qua mạng, khi xảy ra trong bối cảnh
bạo lực do người quen, điều này có thể đại diện cho một thành phần của mô hình lạm
dụng rộng hơn, trong đó thủ phạm là nam giới sử dụng nhiều chiến lược để theo dõi,
kiểm soát, quấy rối hoặc đe dọa các nạn nhân thường là nữ của họ (Diette và cộng sự,
2014; Southworth et al., 2007; Woodlock, sắp xuất bản). Một điểm khác biệt đáng chú ý
được tạo ra bởi truyền thông điện tử và các công nghệ khác là thủ phạm rình rập có thể có
khả năng tiếp cận thường xuyên với nạn nhân của họ, kéo dài cảm giác bị phơi bày, tính
dễ bị tổn thương và nỗi sợ hãi của nạn nhân (Diette và cộng sự, 2014). Thật vậy, công
nghệ giúp thủ phạm dễ dàng tiếp cận nạn nhân của họ, giải thích lý do tại sao, trong một
cuộc khảo sát gần đây về những người ủng hộ bạo lực gia đình (DVRC, 2015), 98%
người trả lời khảo sát cho biết khách hàng của họ đã trải qua một số hình thức theo dõi và
lạm dụng do công nghệ tạo điều kiện. Điều quan trọng là không được bỏ qua sự khác biệt
về bản chất giữa các hình thức rình rập ngoại tuyến và trực tuyến với tác hại và tác động
đối với nạn nhân. Như đã nêu trong Dự án Mạng lưới ‘An toàn Mạng lưới Quốc gia Hoa
Kỳ’ về Chấm dứt Bạo lực Gia đình (NNEDV) (2015), 'la lối, đe dọa và truy cập thông tin
về nạn nhân không phải là chiến thuật mới... Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ như một
công cụ… có nghĩa là hành vi quấy rối và lạm dụng có thể gây xâm hại, sâu sắc và gây
tổn thương hơn nhiều’ đến nạn nhân.
Laws criminalizing stalking, whether in physical space or by electronic means, often
require three core elements: a ‘course of conduct’ (or repeated behaviours over time) that
is intrusive and/or unwanted and that threatens to harm or cause fear of harm to victims
(Spitzberg and Hoobler, 2002). For example, in Victoria (Australia) under the Crimes Act
1958 (Vic), stalking is defined as a person ‘engaging in a course of conduct which causes
apprehension and fear’ and includes any of the following behaviours: contacting the
victim by any means; publishing on the Internet or by email, or other electronic
communication to any person or statement or other material about the victim; tracing the
victim through electronic communication; keeping the victim under surveillance; and a
number of other acts. Whilst such legislation would appear to capture the harms of
stalking in the specific context of intimate partner violence, there are some limitations
with the framing of both a course of conduct and ‘causes apprehension and fear’ in the
context of emerging forms of digital harassment and abuse. Foremost of these is that
some single or one-off actions (such as posting a revenge pornography image alongside
identifying information and an invitation to others to contact, harass or rape the victim)
may in and of themselves cause considerable apprehension or fear in a victim. Second,
continuing with this particular example, the one-off action may in turn encourage and
result in subsequent harassment by third parties, or the extensive distribution of the
harassing content, such that the impact of the single act results in a series of actions by
others. Alternately, a repeated course of invasive conduct, such as repeatedly posting
offensive, malicious, or personal information about a person, might be humiliating,
shameful or harassing, but not cause fear or apprehension. In the United Kingdom, for
instance, a summary offence of criminal harassment exists as a separate offence to
stalking to address such instances where a course of conduct is harassing but does not
cause fear of violence, distress or alarm (see section 2 and section 2A, Protection from
Harassment Act 1997 (UK)).
Khi hình sự hóa hành vi theo dõi, cho dù trong không gian vật lý hay bằng các phương
tiện điện tử, thường yêu cầu ba yếu tố cốt lõi: 'quá trình ứng xử' (hoặc các hành vi lặp đi
lặp lại theo thời gian) có thể xâm nhập không mong muốn và có nguy cơ gây hại hoặc
gây sợ hãi cho nạn nhân (Spitzberg và Hoobler, 2002). Ví dụ, ở Victoria (Úc) theo Đạo
luật Tội phạm 1958 (Vic), rình rập được định nghĩa là một người 'tham gia vào một hành
vi gây ra mối e ngại và sự sợ hãi', bao gồm bất kỳ hành vi nào sau đây: tiếp cận với nạn
nhân bằng mọi cách; công bố trên Internet hoặc qua email, giao tiếp công nghệ cho bất kỳ
người nào các tài liệu về nạn nhân; truy tìm nạn nhân thông qua các trang truyền thông;
luôn để mắt đến nạn nhân trong tầm kiểm soát; cùng một số hành vi khác. Mặc dù luật
pháp hiện tại có vẻ như nắm bắt được tác hại của việc rình rập, cụ thể là hành vi bạo lực
do người quen gây ra, nhưng vẫn có một số hạn chế với việc định khung các hành vi ‘gây
ra sự e ngại và sợ hãi' trong bối cảnh các hình thức quấy rối kỹ thuật số đang nổi lên và bị
lạm dụng vô số kể. Điều quan trọng nhất trong số này là một số hành động đơn lẻ hay dù
chỉ duy nhất (chẳng hạn như đăng hình ảnh khiêu dâm trả thù cùng với thông tin nhận
dạng và lời mời người khác liên hệ, quấy rối hoặc hãm hiếp nạn nhân) có thể tự gây ra sự
e ngại hoặc sợ hãi đáng kể cho nạn nhân. Thứ hai, tiếp tục với ví dụ cụ thể này, hành
động thực hiện một lần có thể khuyến khích và dẫn đến hành động quấy rối tiếp theo của
các bên thứ ba hay phát tán rộng rãi nội dung quấy rối, sao cho tác động của một hành vi
duy nhất cũng đủ dẫn đến hàng loạt các hành vi phạm tội khác. Ngoài ra, một quá trình
lặp đi lặp lại của hành vi xâm hại, chẳng hạn như liên tục đăng thông tin xúc phạm, độc
hại hoặc riêng tư về một người, có thể là hành vi sỉ nhục, nhạy cảm hay quấy rối, nhưng
không gây ra sợ hãi hoặc e ngại. Ví dụ: ở Vương quốc Anh, một tội danh quấy rối hình sự
đã tồn tại như một tội danh rình rập riêng để giải quyết những trường hợp như vậy trong
đó hành vi quấy rối nhưng không gây ra nỗi sợ hãi về bạo lực, đau khổ hoặc báo động
(xem phần 2 và phần 2A , Đạo luật Bảo vệ khỏi Quấy rối 1997 (Anh)).
Further limitations of conventional stalking offences are brought into even sharper focus
when considering other, non-partner stalking or harassment-type behaviours that have
emerged in cyberspace. In online forums, games environments, email and social media,
for example, women and men appear to be increasingly targeted with threatening
language, threatening images (sometimes simulating a violent assault) and the posting of
identifying and/or private information (also known as ‘doxing’). Some scholars have
gone further to identify the online harassment and abuse directed at women in particular
as ‘gendertrolling’ (Mantilla, 2013), misogynist ‘e-bile’ (Jane, 2014) and sexist or
gender-based ‘hate speech’ (Lillian, 2007).

Có nhiều hạn chế hơn nữa trong các hành vi vi phạm theo dõi thông thường, đã được đưa
vào tiêu điểm khi xem xét các hành vi kiểu quấy rối, theo dõi nhưng không phải là người
quen, đã xuất hiện trên mạng. Ví dụ: trong các diễn đàn trực tuyến, diễn đàn game online,
email và phương tiện truyền thông xã hội, phụ nữ và nam giới dường như bị nhắm mục
tiêu ngày càng nhiều với ngôn ngữ và hình ảnh đe dọa (đôi khi mô phỏng một cuộc tấn
công bạo lực) và đăng thông tin nhận dạng, thông tin cá nhân (còn được gọi là 'doxing' –
hình thức đe dọa trực tuyên bằng cách sử dụng thông tin cá nhân, thông bí mật để quấy
rối, tống tiền hay đe dọa nạn nhân). Một số học giả đã đi xa hơn để xác định các hành vi
quấy rối và lạm dụng trực tuyến nhắm vào phụ nữ, cụ thể là 'người chuyển giới'
(Mantilla, 2013), 'e-bile' theo chủ nghĩa kì thị nữ giới (Jane, 2014) và 'lời nói căm thù'
dựa trên giới tính kì thị giới tính (Lillian, 2007).
Whilst much sexist trolling or hate speech might be more readily addressed in civil laws
(and is thus beyond the scope of this article), there are further offences of criminal
harassment that may apply in some instances where the hateful speech includes threats
directed at an individual. Many jurisdictions also include specific criminal offences
regarding communicating threats to kill or inflict bodily harm, such as in Australia at the
federal level (e.g. section 474.15 of the Criminal Code Act 1995 (Cth)). In Victoria, an
offence regarding threats to commit a sexual offence (section 43, Crimes Act 1958
(Vic)), includes ‘where a person (A): ‘makes to another person (B) a threat to rape or
sexually assault B or a third person (C); and ... A intends that B will believe, or believes
that B will probably believe, that A will carry out the threat’ (emphasis added).
Mặc dù có nhiều lời nói mang tính chất kích động giới tính, lời nói căm thù có thể được
giải quyết dễ dàng hơn trong luật dân sự (và do đó nằm ngoài phạm vi của bài viết này),
vẫn có những tội danh quấy rối hình sự có thể áp dụng trong một số trường hợp khi lời
nói căm thù bao gồm các lời đe dọa nhắm vào một cá nhân. Nhiều khu vực pháp lý cũng
bao gồm các tội hình sự cụ thể liên quan đến việc truyền đạt các mối đe dọa giết hoặc gây
tổn hại cho cơ thể, chẳng hạn như ở Úc ở cấp liên bang (ví dụ: mục 474.15 của Đạo luật
Bộ luật Hình sự 1995 (Cth)). Ở Victoria, một hành vi phạm tội liên quan đến việc đe dọa
thực hiện hành vi quan hệ tình dục (mục 43, Đạo luật Tội phạm 1958 (Vic)), bao gồm
'một người A:'đe dọa hiếp dâm hoặc tấn công tình dục người B hay người thứ ba C; và…
A nghĩ rằng B sẽ tin, rằng B có thể sẽ tin rằng A sẽ thực hiện lời đe dọa.’
One of the problems with online threats to kill, rape or inflict bodily harm is that despite
causing subjective fear, alarm or distress for a victim, such threats are not always taken
seriously as ‘credible’ or ‘real’ threats. For example, in New South Wales (Australia), in
order to meet the requirements of the threat to kill offence, the threat must be
communicated such that a reasonable person would take it to represent an actual proposal
to kill or harm and that a ‘merely hypothetical proposal will not suffice’ (R v. Leece,
1995, 78 A Crim R 531, Higgins J, at para. 536; emphasis added). Similar reasoning has
been applied to cases in other jurisdictions internationally, including a significant recent
US Supreme Court decision, in which it remains unclear whether threats to harm made
online (such as via Facebook), may constitute ‘real threats’ that a reasonable person
would expect to cause fear and are therefore not protected free speech.15 Whilst the
assumed distance of a harasser making threats to kill or rape on social media might lessen
the risk of actioning violence,16 for targets of such threats, the anonymity or diffused
identities of online harassers means that their proximity, connection to the victim, and/or
capacity to act on the threat are all unknowns. This in turn has the potential to cause
heightened fear.
Một trong những vấn đề đối với các mối đe dọa trực tuyến nhằm giết, hiếp dâm hay gây
tổn hại cho cơ thể là mặc dù gây ra nỗi sợ hãi, cảnh báo, sự đau khổ chủ quan đến cho
nạn nhân, nhưng những lời đe dọa đó không phải lúc nào cũng được coi là mối đe dọa
"đáng tin cậy" hay "thực sự". Ví dụ, ở New South Wales (Úc), để đáp ứng các yêu cầu
của mối đe dọa giết người, mối đe dọa phải được thông báo sao cho một người bình
thường sẽ lấy nó để đại diện cho một đề xuất thực sự về việc giết hoặc làm hại, hơn nữa
việc 'Đề xuất giả thuyết đơn thuần sẽ không đủ '(R v. Leece, 1995, 78 A Crim R 531,
Higgins J, tại đoạn 536; nhấn mạnh thêm). Lập luận tương tự đã được áp dụng cho các
trường hợp ở các khu vực tài phán khác trên thế giới, bao gồm một quyết định quan trọng
gần đây của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, trong đó vẫn chưa rõ liệu các mối đe dọa gây tổn hại
được thực hiện trực tuyến (chẳng hạn như thông qua Facebook), liệu có thể tạo thành 'các
mối đe dọa thực sự' mà một người gây ra nỗi sợ hãi, thì người này không được bảo vệ
quyền tự do ngôn luận của mình. Trong khi có thể giả định rằng kẻ quấy rối đưa ra lời đe
dọa giết hoặc hiếp dâm trên phương tiện truyền thông xã hội có thể làm giảm nguy cơ
hành động bạo lực, đối với phương diện là mục tiêu của những mối đe dọa như vậy, danh
tính ẩn danh, lan truyền của những kẻ quấy rối trực tuyến này có nghĩa là sự gần gũi của
họ, mối liên hệ với nạn nhân và khả năng hành động trước mối đe dọa đều là ẩn số. Điều
này lại có khả năng gây ra nỗi sợ hãi cao độ hơn nữa.
As in the other behaviours explored here, cyberstalking is an emerging and increasingly
common phenomenon that the law has struggled to keep pace with as the technology has
evolved. Many jurisdictions are yet to decide how to best capture the harms of criminal
harassment and cyberstalking in online spaces. The challenges of crossjurisdictional
detection and punishment continue to loom large, as do the issues surrounding the
distinctions and crossovers between conventional forms of criminal behaviour, and those
emerging behaviours where technology not only serves as a tool of abuse but can cause
new harms and present real threats to psychical and bodily autonomy, integrity and
freedom. Given the gendered nature of these various behaviours, it is important to look to
the criminal law as an important means of responding. However, attention must also be
given to a range of measures both within and beyond law, including acknowledgement
and action of the pervasive othering and objectification that occurs in both offline and
online spaces.
Như trong các hành vi khác được khám phá ở đây, Internet là một hiện tượng mới nổi và
ngày càng phổ biến mà luật pháp đã phải vật lộn để theo kịp khi công nghệ phát triển.
Nhiều khu vực pháp lý vẫn chưa quyết định làm thế nào để nắm bắt tốt nhất tác hại của
hành vi quấy rối và hoạt động theo dõi qua mạng trong không gian trực tuyến. Những
thách thức trong việc phát hiện và trừng phạt các hành vi nãy vẫn tiếp tục gây ra nhiều
khó khăn, cũng như các vấn đề xung quanh sự phân biệt và giao thoa giữa các hình thức
hành vi tội phạm thông thường và những hành vi mới nổi khi công nghệ không chỉ đóng
vai trò như một công cụ lạm dụng mà còn có thể gây ra những tác hại mới và hiện thực
hóa các mối đe dọa đối với quyền tự chủ, tính toàn vẹn và tự do về tinh thần và thể xác
của nạn nhân. Với bản chất giới tính của những hành vi khác nhau này, điều quan trọng là
phải xem luật hình sự như một phương tiện đối phó quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần phải
chú ý đến một loạt các biện pháp cả trong và ngoài luật pháp, bao gồm cả việc thừa nhận
và hành động đối với sự phản đối và khách quan hóa những hành vi phổ biến xảy ra trong
cả không gian ngoại tuyến và trực tuyến.
Conclusion
Whilst this article has focused on criminal law responses to various forms of TFSV, it is
important to emphatically state that law should not be seen as the sole remedy for these
offences. This is not only because increased criminalization poses a real challenge to
dealing with such harms but also because law is inherently modelled on a model of
individualized, depoliticized justice that fails to address the deeply embedded and
underlying (structural and individual) causes of gendered violence. As such, there should
be equal attention given to the policies and practices of service providers of online
communities and social media networks and their responsibility to proactively address
this problem by providing mechanisms for users to report offensive, hateful and/or
harassing content and dedicate sufficient resources towards monitoring and removing this
content. There are a range of other non-legal measures that can be developed to ensure
the ethical use of communications technology, including police and sector training
around the impacts of digital abuse as well as evidence gathering methods; clear
community guidelines; clear, consequential and enforceable terms of use on Internet
sites; greater care from website providers to ensure customer safety (e.g. on dating sites);
agreements between police and service providers to facilitate the timely gathering of
evidence; victim hotlines and other mechanisms to provide free and confidential advice;
and educational initiatives and public awareness campaigns designed to foster ethical
digital citizenship. Above all, the onus should not be on victims or potential victims to
ensure their own safety. Instead, attention needs to clearly shift to perpetrator behaviours
and the development of community standards around ethical digital relationships. There
are some key and perplexing challenges that cut across both conventional and
technology-facilitated forms of sexual violence and harassment. The first is how to
prevent violence before it occurs. Such ‘primary prevention’ measures include
educational programmes around respectful relationships or gender or sexuality which
must, in addition to tackling gender dichotomies and inequalities, also focus on ethical
digital interactions (Henry and Powell, 2014). The second most important issue is that we
must think very carefully about how to respond to violence and injustice after it happens:
what kind of criminal laws are appropriate and do they capture the harms associated with
online digital abuse? What role do non-criminal laws play and non-legal mechanisms
too? We would argue that a multipronged approach is essential to tackling gender-based
digital violence. As Butler (2004) asks, ‘how should justice be done?’ and ‘what just do
we owe to others?’. In relation to both primary prevention and justice responses, we
suggest that justice must be thought about beyond a perpetrator/victim paradigm. In other
words, it is vital to think also about the causes of violence, the measures we implement to
prevent this violence and the ways in which we respond when violence occurs – as both a
problem of individual and collective or societal dimensions. These two key challenges
demand we implement fundamental structural changes to the ways we think about
gender, sexuality and violence and ‘the other’ in an ever expanding and shifting digital
age full of peril and promise.
Phần kết luận
Mặc dù bài viết này đã tập trung vào các phản ứng của luật hình sự đối với các hình thức
TFSV khác nhau, nhưng điều quan trọng phải nhấn mạnh rằng luật pháp không nên được
coi là biện pháp khắc phục duy nhất cho những hành vi phạm tội này. Điều này không chỉ
bởi vì sự gia tăng tội phạm hóa đặt ra thách thức thực sự đối với những tác hại đó mà còn
bởi vì luật pháp vốn dĩ được mô phỏng theo mô hình công lý được cá nhân hóa, phi chính
trị hóa, nên không thể giải quyết được hết các nguyên nhân sâu xa và cơ bản (cấu thành
và cá nhân) của bạo lực giới. Do đó, cần có sự quan tâm bình đẳng đối với các chính sách
thực tiễn của các nhà cung cấp dịch vụ cộng đồng trực tuyến và mạng truyền thông xã hội
cùng theo đó là trách nhiệm của họ trong việc chủ động giải quyết vấn đề này bằng cách
cung cấp cơ chế để người dùng báo cáo nội dung xúc phạm, thù địch hoặc quấy rối, đồng
thời cung cấp đầy đủ nguồn lực theo hướng giám sát để loại bỏ nội dung này. Có một loạt
các biện pháp phi pháp lý khác có thể được phát triển để đảm bảo việc sử dụng công nghệ
truyền thông có đạo đức, bao gồm đào tạo cảnh sát và ngành về tác động của lạm dụng kỹ
thuật số cũng như các phương pháp thu thập bằng chứng; hướng dẫn cộng đồn mạng rõ
ràng; các điều khoản sử dụng rõ ràng, có hậu quả và có thể thực thi trên các trang
Internet; chăm sóc tốt hơn từ các nhà cung cấp trang web để đảm bảo an toàn cho khách
hàng (ví dụ: trên các trang web hẹn hò); thỏa thuận giữa cảnh sát và nhà cung cấp dịch vụ
để tạo điều kiện thu thập chứng cứ kịp thời; đường dây nóng của nạn nhân và các cơ chế
khác để cung cấp lời khuyên miễn phí và riêng tư; các sáng kiến giáo dục và các chiến
dịch nâng cao nhận thức cộng đồng được thiết kế để thúc đẩy quyền công dân kỹ thuật số
có đạo đức. Trên hết, các hành động này không được nhắm vào nạn nhân hoặc nạn nhân
tiềm năng để đảm bảo an toàn cho chính họ. Thay vào đó, sự chú ý cần chuyển sang các
hành vi của thủ phạm và sự phát triển của các tiêu chuẩn cộng đồng xung quanh các mối
quan hệ kỹ thuật số có đạo đức. Có một số thách thức chính và khó khăn đối với cả các
hình thức bạo lực và quấy rối tình dục thông thường và được hỗ trợ bởi công nghệ. Đầu
tiên là làm thế nào để ngăn chặn bạo lực trước khi nó xảy ra. Các biện pháp "phòng ngừa
chính" như vậy bao gồm các chương trình giáo dục về các mối quan hệ tôn trọng giới tính
hay tình dục, ngoài việc giải quyết sự phân đôi và bất bình đẳng về giới, còn phải tập
trung vào các tương tác kỹ thuật số có đạo đức (Henry và Powell, 2014). Vấn đề quan
trọng thứ hai là chúng ta phải suy nghĩ kỹ về cách ứng phó với bạo lực và bất công sau
khi nó xảy ra: loại luật hình sự nào là phù hợp và chúng có nắm bắt được những tác hại
liên quan đến lạm dụng kỹ thuật số trực tuyến hay không? Các luật phi hình sự và các cơ
chế phi pháp luật cũng có thể đóng vai trò gì? Chúng tôi cho rằng phương pháp tiếp cận
đa hướng là điều cần thiết để giải quyết bạo lực kỹ thuật số trên cơ sở giới. Như Butler
(2004) đặt câu hỏi, "công lý nên được thực hiện như thế nào?" Và "chúng ta nợ người
khác điều gì?". Liên quan đến cả biện pháp phòng ngừa chính và phản ứng công lý,
chúng tôi đề nghị rằng công lý phải được nghĩ đến ngoài mô hình thủ phạm và nạn nhân.
Nói cách khác, điều quan trọng là phải suy nghĩ về nguyên nhân của bạo lực, các biện
pháp chúng ta thực hiện để ngăn chặn bạo lực này và cách chúng ta ứng phó khi bạo lực
xảy ra - vì cả hai vấn đề của cá nhân và tập thể hoặc xã hội. Hai thách thức chính này đòi
hỏi chúng ta phải thực hiện những thay đổi cơ bản về cấu thành đối với cách chúng ta
nghĩ về giới tính, tình dục hay bạo lực và 'những thứ khác' trong thời đại kỹ thuật số ngày
càng mở rộng, thay đổi đầy rẫy với những nguy hiểm và hứa hẹn phía trước.
Lời cảm ơn
Chúng tôi muốn cảm ơn Brent Collett vì sự hỗ trợ nghiên cứu của ông, cũng như Martha
Piper, Alex Davis, các biên tập viên tạp chí và hai nhà phê bình ẩn danh đã đưa ra những
gợi ý cực kỳ hữu ích về cách cải thiện bài báo.
Tuyên bố về lợi ích xung đột
(Các) tác giả tuyên bố không có xung đột lợi ích tiềm ẩn nào liên quan đến nghiên cứu,
quyền tác giả và xuất bản bài báo này.
Tài trợ
(Các) tác giả tiết lộ đã nhận được hỗ trợ tài chính sau đây cho nghiên cứu, quyền tác giả
và xuất bản bài báo này: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Khám phá của Hội đồng
Nghiên cứu Úc (ARC) (DP130103094).
Chú thích.

You might also like