You are on page 1of 197

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


 

ĐOÀN NGỌC MINH

HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH


VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC
CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
 

ĐOÀN NGỌC MINH

HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH


VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI Y HỌC
CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC


Mã số : 62.22.80.01

Người hướng dẫn khoa học :


HD1: PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA
HD2: PGS.TS. LÝ VĂN XUÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2013


1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố.

Đoàn Ngọc Minh


2

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………. 4
1. Tính cấp thiết của đề tài .…………………………... 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ……….. 9
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ……... 15
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ……… 15
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài …………..….. 17
6. Đóng góp mới của đề tài ………………………………. 17
7. Kết cấu của luận án ………..…...……………........................... 18

CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,


PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ..…. 19
1.1. Nguồn gốc hình thành học thuyết Ngũ hành …….……….. 19
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại .. 19
1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc
cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành …..………. 35
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của học thuyết Ngũ hành…….. 41
1.2.1. Sự hình thành của học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến
đời nhà Hán …………………………………………….. 41
1.2.2. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành thời Hậu Hán …… 65
1.3. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam …………. 83
Kết luận chương 1 … …………………………………………... 91
CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA
HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI
VÀ CON NGƯỜI ……………. 94
2.1. Nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành .…….. 94
2.1.1. Những yếu tố cơ bản tạo nên Ngũ hành .……………..... 94
2.1.2. Sự biểu hiện của Ngũ hành trong tự nhiên,
xã hội và con người …………………………………………….104
2.1.3. Những quy luật cơ bản của Ngũ hành …………….… 119
2.2. Cách giải thích mới về thế giới của học thuyết Ngũ hành…….. 129
3

2.2.1. Quan điểm duy vật chất phác trong học thuyết Ngũ hành
về sự nhận thức và giải thích thế giới ……………….. 129
2.2.2. Học thuyết Ngũ hành với quan điểm biện chứng sơ khai… 132
Kết luận chương 2 ………………………………………………... 134
CHƯƠNG 3 : Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG ………….. 136
3.1. Khái quát về y học cổ truyền phương Đông và ý nghĩa
việc vận dụng học thuyết Ngũ hành đối với y học cổ truyền
phương Đông ………………………………………………… 136
3.2. Những biểu hiện của học thuyết Ngũ hành trong
bệnh lý người ………………………………….. ……… 142
3.2.1. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng thận ……... 143
3.2.2. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tâm ……… ……... 144
3.2.3. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng can … …………... 145
3.2.4. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng phế ....................... 146
3.2.5. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tỳ …………… 147
3.3. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh,
chẩn bệnh và chữa bệnh …………………………………… 148
3.3.1. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh …. 148
3.3.2. Chẩn bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 153
3.3.3. Chữa bệnh theo học thuyết Ngũ hành ………………… 161
3.3.4. Kết quả khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện
Khoa Y học cổ truyền thuộc bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh từ 2008 đến 2010 và giá trị
Tỳ Thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức khỏe
con người …………….…………………………………... 167
Kết luận chương 3…………………………………………... 180
KẾT LUẬN CHUNG ……………………………………… 182
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………… 186
4

MỞ ĐẦU

1. TÌNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI


Suốt mấy nghìn năm qua, kể từ thời thượng cổ, học thuyết Ngũ hành là
một trong những học thuyết quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến triết học Trung
Quốc nói riêng, triết học và văn hóa phương Đông nói chung. Không bao lâu
sau khi ra đời, nó đã chiếm vị trí nổi bật, chứng tỏ đó là một học thuyết nhất
quán, hoàn chỉnh không chỉ giải thích nguồn gốc và cơ cấu của vũ trụ, mà còn
góp phần vào giải thích những hiện tượng trong cuộc sống của con người.
Là một học thuyết phát triển mạnh ở phương Đông và tồn tại hàng
nghìn năm trong lịch sử, học thuyết Ngũ hành phát triển vượt ra ngoài phạm
vi triết học và đặt dấu ấn đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Các nguyên lý cơ bản của Ngũ hành đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực
của đời sống xã hội ở Trung Quốc và ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ
xung quanh như: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Đài Loan,
Hồng Kông, Singapore... Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, văn hoá, hôn nhân, gia đình, âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, quân sự, y
học cổ truyền, v.v..).
Ngũ hành là biểu tượng của một trong hai nền văn minh Trung Hoa
xưa. Từ thời thượng cổ đến thời Xuân Thu (thế kỉ thứ VIII, trước công
nguyên), đất Trung Hoa chia làm hai miền khác nhau về phương diện chủng
tộc và văn hoá: lưu vực sông Hoàng Hà và lưu vực sông Dương Tử. Hoa tộc
miền Bắc đã tổ chức thành một liên bang phong kiến rộng lớn, gồm hàng trăm
chư hầu, dọc theo bờ sông Hoàng Hà; trong khi dân tộc lưu vực sông Dương
Tử thì sống rời rạc, chia thành nhiều tiểu quốc độc lập. Nhà Trung Hoa học
người Pháp, Marcel Granet (1884-1940), cho rằng, rất có thể nguyên nhân của
sự phát triển văn minh chính thức Trung Hoa là sự tiếp xúc của hai nền văn
minh chính yếu, một bên là văn minh vùng cao ráo của lúa kê, một bên là văn
minh vùng đồng thấp của lúa gạo. Học thuyết Ngũ hành - tinh hoa của văn
5

minh Hoa tộc miền Bắc, được làm giàu, phong phú thêm bởi sự dung hoà với
văn minh ma phương hay Lạc Thư của Tam Miêu hình thành Hà Đồ; Hà Đồ
ghép với Âm Dương của Việt tộc miền Nam với Bát quái và Kinh Dịch làm
thành nền tảng văn hoá Trung Hoa, để rồi trên mảnh đất ấy mọc lên nhiều cổ
thụ triết lý đặc sắc và sum suê.
Nghiên cứu học thuyết Ngũ hành để không chỉ khám phá một lý luận
độc đáo khi luận bàn về bản nguyên và cấu trúc của vũ trụ, mà còn thấy được
tính ứng dụng cao của nó trong nhiều lĩnh vực xã hội, thậm chí có lĩnh vực
trừu tượng, huyền bí như: thiên văn, lịch số, phong thuỷ…trong đó đặc sắc và
hữu dụng nhất, phải kể đến y học cổ truyền phương Đông vốn đã tồn tại hàng
nghìn năm nay.
Trong lĩnh vực y học, các quy luật của Ngũ hành đã đặt dấu ấn ở
phương pháp quan sát, quy nạp, tìm sự tương quan của hoạt động sinh lý,
bệnh lý các tạng phủ để chẩn đoán bệnh tật, tìm tính năng, tác dụng của thuốc
và tiến hành hoạt động bào chế thuốc. Kể từ khi xuất hiện Hoàng đế Nội kinh
tố vấn và với ảnh hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, nền y học Trung Quốc
và nhiều nước phương Đông khác có những bước tiến đáng khâm phục.
Học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam từ rất sớm. Các nhà tư tưởng Việt
Nam tích cực tiếp nhận và nỗ lực vận dụng học thuyết này một cách sáng tạo
trong nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển nền y học dân tộc cổ truyền cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn lâm sàng. Một trong những tấm gương tiêu
biểu là đại danh y, nhà lý luận y học Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với
tác phẩm y học đồ sộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh. Y học cổ truyền
Việt Nam được hình thành ngay từ buổi đầu dựng nước và ngày càng phát
triển trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con
người. Cũng như y học cổ truyền Trung Quốc, cơ sở để xây dựng lý luận y
học cổ truyền Việt Nam không tách rời học thuyết Ngũ hành.
6

Trong khi người ta đang tiếp tục nâng cao tính ứng dụng của Ngũ hành
vào các lĩnh vực đời sống thì một lần nữa, nó lại chạm vào những vấn đề vi
mô của khoa học hiện đại.
Đầu thế kỉ XX, với những phát minh, đặc biệt là cơ học lượng tử cho
thấy trong thế giới vi mô định luật ngẫu nhiên có tính quyết định. Đây là thế
kỷ của những sự kiện vĩ đại: Sự ra đời của thuyết Tương đối, thuyết Giãn nở
của vũ trụ, Bức xạ tàn dư; thuyết Big Bang và sự thoát thai của vũ trụ, v.v..
Từ đây con người có tham vọng truy tìm tận căn nguyên của thế giới vi mô;
muốn tìm ra viên gạch cơ bản cuối cùng, quy luật cơ bản cuối cùng của vật lý,
nhưng đến nay vẫn chưa ai thực hiện được điều ấy. Cho tới những năm cuối
của thế kỷ XX, về mặt xã hội, những chủ thuyết lớn nếu không vận dụng sáng
tạo sẽ tất dẫn đến đổ vỡ; về tự nhiên, các nhà khoa học từ những nghiên cứu
công phu, nhận ra cái giới hạn của nhận thức. Sự đổ vỡ của những thể chế
quan liêu, giáo điều, sự trừng phạt của thiên nhiên chống lại sự cải tạo của
con người, chạy đua vũ trang, chiến tranh, khủng bố, phân biệt chủng tộc, bất
bình đẳng giới, chênh lệch giàu nghèo… cùng với sự phát minh ra lý thuyết
hỗn độn, hiệu ứng cánh bướm, hình học fractal, những hệ phi tuyến… là cơ sở
sâu xa cho sự xuất hiện tinh thần hậu hiện đại. Đối với hậu hiện đại, mọi sự
thật thường hằng sẽ biến mất, thay vào đó là những biểu hiện của những bề
mặt không bản chất. Trong thời hậu hiện đại, những lý thuyết có từ thời Ánh
sáng đều đã bị đổ vỡ (Lyotard).
Trong bối cảnh ấy, với sự thôi thúc của nền khoa học hậu hiện đại,
người ta lại nghĩ đến, nói đến tư tưởng của triết học phương Đông, trong đó
có học thuyết Ngũ hành với niềm tin vào một lý thuyết về sự thống nhất, góp
phần lắp vào khe hở của lý thuyết đương đại về thế giới.
Kể từ khi hai nền văn hoá Đông - Tây giao lưu và tiếp biến, thế giới lại
một lần nữa nhận thấy rằng: Ngũ hành là một cơ sở quan trọng tạo nên một
cái nhìn mới về sự huyền vĩ của văn hoá phương Đông. Khi bắt đầu tìm hiểu
khái niệm, nguyên lý của học thuyết này, ai cũng cảm thấy dường như mình
7

hiểu được nó, nhưng khi đi sâu khám phá bản chất và thực tại khách quan mà
nó phản ánh thì người ta lại bế tắc, cảm nhận rất rõ về tính chưa thuyết phục
của các ý kiến đã nêu. Biết bao luận bàn của hậu thế về diễn biến lịch sử, nội
dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành đang tiếp tục bỏ ngỏ. Chính cái
huyền vĩ của nó đã là một hấp dẫn. Nhưng, đó cũng chính là điểm tựa cho
những suy ngẫm khi tri kiến về những vấn đề của khoa học hiện đại.
Trong hơn bốn thập kỷ qua, khoa học lí thuyết của thế giới gần như bị
chững lại, khoa học thế giới đang lâm vào tình trạng thoái trào giống như đầu
thế kỉ XX. Những tiến bộ của công nghệ đang là nỗ lực cuối cùng để lấp kín
những khe hở của khoa học lí thuyết. Tương lai không sáng sủa của khoa học
duy lý, cho thấy rằng nhân loại đang tiến dần vào chặng đường khó khăn của
khoa học. Trong bối cảnh đó, nhà vật lí học nổi tiếng Stephen Hawking, sinh
năm 1942, đã nói về một lí thuyết thống nhất, mà nếu phát kiến được lý
thuyết đó thì “tất cả chúng ta, các nhà khoa học, các triết gia và cả mọi người
bình thường sẽ hiểu được và tham gia thảo luận câu hỏi vì sao vũ trụ và chúng
ta tồn tại” (Lược sử thời gian, S.Hawking). Nhưng theo ông, tri thức của khoa
học hiện đại chưa đủ nhân duyên để tự thân nó minh chứng cho sự tồn tại của
lý thuyết này, mà nó chỉ có thể được nhận dạng qua những tiêu chí khoa học
cho một lý thuyết khoa học và những điểm tương đồng với nó.
Theo Steven Weinberg - nhà vật lý người Mỹ, được tặng giải Nobel vì
có công thống nhất tương tác điện từ và tương tác yếu - thì một mục tiêu cơ
bản của vật lý là bằng cái nhìn thống nhất quan sát sự đa dạng của tự nhiên.
Những thành tựu từ thế kỉ XVII đến những năm 20 của thế kỷ XX là một sự
minh chứng cho một lý thuyết thống nhất: Từ sự thống nhất giữa cơ học thiên
thể và cơ học (trên) Trái đất của Newton thế kỷ XVII, giữa quang học và và
lý thuyết điện và từ của Maxwell ở thế kỷ XIX, thống nhất hình học không -
thời gian và lý thuyết hấp dẫn bởi Einstein năm 1905 và 1916, đến thống nhất
giữa hoá học và vật lý nguyên tử thông qua cơ học lượng tử ở thập kỷ 20 thế
8

kỷ XX. Và nay là thuyết thống nhất - một nỗ lực không thể một sớm một
chiều để hoàn thành.
Mặc dù chính Stephen Hawking, vào năm 2002, công bố bài giảng
Gödel & sự kết thúc của vật lý (Gödel & The End of Physics), thể hiện một sự
thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về Lý thuyết Cuối
cùng (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã phát biểu
trong Lược sử thời gian 11 năm trước, khi cho rằng: Tri thức khoa học hiện
đại không thể nào tìm ra được lý thuyết thống nhất và việc tìm ra lý thuyết
thống nhất là vô vọng, chỉ đơn giản là “Chính lý thuyết đó đã quyết định như
vậy”. Nhưng tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất khoa học thực sự đã tồn
tại. Chính từ cơ sở này sẽ quyết định một lý thuyết khoa học nào đó xuất phát
từ nền tảng tri thức của nền văn minh nhân loại, một khi thoả mãn các tiêu chí
của một lý thuyết thống nhất thì điều đó có nghĩa là nó sẽ chính là lý thuyết
thống nhất.
Và lí thuyết mà các nhà khoa học hàng đầu hiện nay mong đợi có thể
thấy được những gợi mở từ trong học thuyết Ngũ hành. Mặc dù có không ít
quan niệm khác nhau, thậm chí phủ định nó, nhưng dần dà người ta nhận ra
tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Bởi lẽ, “Ngũ hành là chỉ
vào thế lực tự nhiên, vì luôn luôn động nên gọi là Hành và phản chiếu vào
tinh thần người ta thành ra có những biến thái, động tác tâm lý, sinh lý”
(Nguyễn Đăng Thục), nó đã giải thích từ sự hình thành vũ trụ đến những vấn
đề liên quan tới con người. Thiên Hồng Phạm đã mở đầu: Sơ nhất viết Ngũ
hành. Thứ nhị viết kính dụng Ngũ sự để khẳng định một nguyên lý căn bản: Ở
vũ trụ chỉ có Ngũ hành, ở con người chỉ có Ngũ sự; Ngũ sự hoà với Ngũ
hành, tức Thiên - Nhân hợp nhất. Đấy là quan điểm Vạn vật nhất thể. Tư
tưởng này đã tồn tại mấy nghìn năm và học thuyết Ngũ hành vẫn thể hiện
bằng sự hiệu quả thiết thực và hữu dụng trong thực tiễn đời sống xã hội, nhất
là phương Đông từ xưa đến nay.
9

Hơn nữa, ở Việt Nam việc chữa bệnh bằng y học cổ truyền đã có hiệu
quả rõ rệt và được nhân dân ngày càng tin dùng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế
đó, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất mạnh vai trò của việc kết hợp y học cổ
truyền với y học hiện đại. Có thể nói đó là một trong những quan điểm cơ bản
về y tế của Đảng. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn một số nhận thức sai lệch
khi cho rằng, y học cổ truyền chỉ là tập hợp những kinh nghiệm dân dã về một
số bài thuốc và vị thuốc thông thường; rằng y học này chưa có cơ sở lý luận
rõ ràng, vì vậy hiệu quả chữa bệnh còn hạn chế; hoặc là quan niệm thổi phồng
vai trò của Ngũ hành và y học cổ truyền, cho rằng với sự chỉ dẫn của Ngũ
hành, y học cổ truyền có thể “chữa bách bệnh”. Rõ ràng là, quan điểm kết hợp
y học cổ truyền với y học hiện đại của Đảng và Nhà nước ta chưa được nhận
thức đầy đủ, chưa được vận dụng một cách nhuần nhuyễn và có hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu
cầu của nhân dân về chữa bệnh bằng y học cổ truyền, đồng thời góp phần
khẳng định y học cổ truyền là một khoa học với các phương pháp phòng và
chữa bệnh có hiệu quả, thì việc nghiên cứu cơ sở triết học của nó, mà trước
hết là nghiên cứu học thuyết Âm dương - Ngũ hành, là rất cần thiết. Vì chính
học thuyết Âm dương - Ngũ hành là cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân,
cơ chế phát sinh bệnh học, điều trị học và phòng bệnh của y học cổ truyền.
Đề tài luận án Học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của nó đối với y học cổ
truyền phương Đông góp phần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện học
thuyết Ngũ hành và vai trò của nó đối với y học cổ truyền phương Đông, qua
đó làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa việc bảo tồn và phát triển bằng cách
ứng dụng các tri thức y học cổ truyền trong việc phòng bệnh, chữa bệnh.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Từ thời cổ đại đến nay, với ý nghĩa thực tiễn khá sâu sắc của học thuyết
Ngũ hành và sự vận chuyển của nó để giải thích những hiện tượng tự nhiên,
xã hội và con người đã được nhiều nhà nghiên cứu phương Đông – trong đó
có Trung Quốc và Việt Nam quan tâm; và đã thu được những kết quả to lớn
10

cho cuộc sống, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu về học thuyết Âm dương
– Ngũ hành với y học cổ truyền phương Đông. Nội dung trên đã được thể
hiện trong khối lượng tài liệu to lớn của nhiều tác giả theo hai hướng: hướng
triết học và hướng y học.

Một là, hướng thứ nhất, có các công trình tiêu biểu: Đại cương triết học
Trung Quốc; Lịch sử triết học Trung Quốc của Hồng Tiềm - Nhiệm Hoa -
Uông Tử Tung (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1957); Đạo của Trương Lập
Văn chủ biên, Hồ Châu - Tạ Phúc Chinh - Nguyễn Văn Đức dịch (Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998). Triết giáo Đông phương của Dương
Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh, 2003); Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, Lê Anh
Minh dịch (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006); Trung Quốc triết
học sử đại cương của Hồ Thích, Huỳnh Minh Đức dịch (Nhà xuất bản Văn
hoá Thông tin, Hà Nội, 2004). Khi trình bày nội dung nghiên cứu này, các tác
giả kể trên đều khẳng định Âm dương và Ngũ hành là những phạm trù triết
học quan trọng trong thế giới quan của người Trung Quốc. Đó là những khái
niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh và biến hóa của
vũ trụ, là cội nguồn của các quan điểm duy vật và biện chứng trong các tư
tưởng triết học mang màu sắc Trung Quốc. Chẳng hạn tác giả Ngô Vinh
Chính đánh giá: “Việc sử dụng các phạm trù Âm dương và Ngũ hành đánh
dấu bước tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng
của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Đó là cội nguồn duy vật
và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Quốc”[17, tr.43].

Ngược dòng lịch sử quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy việc đánh giá
và vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành đã từng được đề cập rộng rãi
trong các tác phẩm của người Trung Quốc cổ xưa. Từ đời Hán trở đi, nhiều
tác giả như Lưu Biểu, Quảng Lô, Vương Bật, Phí Trực (đời Hán); Trịnh
Huyền (đời Hán); Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trình Hạo, Trình Di (đời Tống);
11

Hoàng Tôn Hy, Tôn Viêm, Mao Kỳ Linh, Hồ Vi, Huệ Đống, Trương Huệ
Ngôn, Lý Quang Địa (đời Thanh)… đều khẳng định tư tưởng chủ đạo trong
Kinh Dịch là tư tưởng về mối quan hệ giữa âm và dương. Trong những năm
gần đây một loạt các công trình nghiên cứu xuất bản ở Hồng Kông và Đài
Bắc (Đài Loan) như Chu Dịch tân giải của Tào Thăng; Chu Dịch cổ kinh kim
chú của Cao Hanh; Dịch học tân luận của Nghiêm Linh Phong… đều bàn về
lẽ biến hóa của Âm dương trong Kinh Dịch.

Kinh Dịch là sách nói về Âm dương, còn Kinh Thư là tác phẩm đầu tiên
của người Trung Quốc cổ đại đề cập tới khái niệm Ngũ hành, nghiên cứu và
dịch thuật về Kinh Thư ở Việt Nam đã được Thẩm Quỳnh biên dịch từ năm
1965 và là cơ sở cho nhiều tác giả Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và bàn luận
về thuyết Âm dương – Ngũ hành.

Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu riêng rẽ về các tác phẩm của người
Trung Quốc cổ đại xưa, khi đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ hành như Kinh
Thư, Kinh Dịch các tác giả Việt Nam cũng đề cập về thuyết Âm dương – Ngũ
hành từ góc độ nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc và phương Đông nói
chung. Có thể kể ra một số tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu những
năm gần đây như: Nguyễn Đăng Thục với Lịch sử triết học phương Đông
(Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1961); Nguyễn Tài Thư (chủ biên) với Lịch sử tư
tưởng Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993); Cao Xuân
Huy với Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu (Nhà xuất
bản Văn học – Hà Nội, 1995); Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc do
Doãn Chính (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997);
Triết lý phương Đông - Giá trị và bài học lịch sử của Doãn Chính (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Lịch sử triết học Trung Quốc của Hà
Thúc Minh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tập 1; 1999 tập
2)[67]; Từ điển triết học Trung Quốc của Doãn Chính (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2009),v.v.. Trong những tác phẩm kể trên, các tác giả đánh
12

giá cao vai trò và ý nghĩa của học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong lịch sử
phát triển các tư tưởng triết học phương Đông, đồng thời coi nó là một trong
các dòng triết học quan trọng có từ thời kỳ “Bách gia chư tử”.
Hai là, hướng thứ hai, có những công trình nghiên cứu đề cập học
thuyết Âm dương – Ngũ hành trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của
các khoa học và đời sống xã hội và con người như thiên văn học, dự đoán
học, nông học v.v… Trong lĩnh vực y học, học thuyết Âm dương - Ngũ hành
đã được các nhà tư tưởng và danh y nghiên cứu xưa nay đề cập hết sức rộng
rãi và sâu sắc. Từ đời Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện các bộ sách nổi tiếng
như Hoàng đế Nội kinh (chưa rõ tác giả); Thương hàn tạp bệnh luận; Kim
Quỹ yếu lược (của Trương Trọng Cảnh); Nạn kinh (của Tần Việt Nhận). Đây
là những tác phẩm lý luận y học đầu tiên của nền y học Trung Quốc cổ đại đã
biết lấy lý luận duy vật thô sơ là học thuyết Âm dương - Ngũ hành làm hệ
thống lý luận của y học. Dùng lý thuyết ấy để giải thích về mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, quan hệ lẫn nhau giữa các tạng phủ trong thân thể và
theo nguyên tắc của quan niệm chỉnh thể đã phát minh được những vấn đề có
quan hệ đến y học như bệnh lý, chẩn đoán, phòng bệnh, chữa bệnh v.v…
Ở Việt Nam, những công trình vận dụng học thuyết Âm dương - Ngũ
hành vào y học đã xuất hiện ngay từ thời Trần. Các tác phẩm và tác giả tiêu
biểu phải kể tới Chu An với Y học giản yếu, Tuệ Tĩnh với Nam dược thần
hiệu và Hồng nghĩa giác tư y thư. Đến thế kỷ XVIII, xuất hiện nhà tư tưởng,
nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác, với bộ sách Hải Thượng Lãn Ông Y tông
tâm lĩnh nổi tiếng (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 1993), trong đó ông đã vận
dụng học thuyết Âm dương - Ngũ hành để giải thích đời sống xã hội, và
phương pháp bảo vệ sức khỏe cho con người. Sang nửa cuối thế kỷ XIX, nhà
tư tưởng cũng đồng thời là nhà y học Nguyễn Đình Chiểu cũng đã vận dụng
học thuyết Âm dương – Ngũ hành để diễn giải các vấn đề về lý luận y học
trong tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp.
13

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có nhiều tác giả, nhiều
công trình nghiên cứu về học thuyết Âm dương - Ngũ hành trong lý luận y
học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Lê Trần Đức với các công trình
nghiên cứu về Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu… Hoàng Tuất
[117-118] với các công trình Học thuyết Âm dương và phương dược cổ
truyền; Học thuyết Tâm - Thận trong y học cổ truyền; Phó Đức Thảo [106]
với Học thuyết Thủy hỏa và mệnh môn trong y học cổ truyền; Lê Khánh Trai
với Khảo cứu về tiền đề Âm dương - Ngũ hành từ Kinh Dịch và mô hình kinh
mạch trong cơ thể người; Hoàng Phương [74] với Tích hợp đa văn hóa Đông
Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai; Trần Thúy [98] với Nội kinh v.v..
Tất cả các tác giả này đều khẳng định Âm dương – Ngũ hành là lý luận không
thể thiếu đối với y học cổ truyền.
Những năm gần đây, một số tác giả và các công trình nghiên cứu có xu
hướng đi sâu nghiên cứu tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và
những bình luận, đánh giá học thuyết Âm dương – Ngũ hành dưới nhiều góc
độ khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Nguyễn
Tài Thư với Lê Hữu Trác, nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y (in
trong cuốn: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1993); Nguyễn Đức Sự với Cơ sở triết học của bộ Lãn Ông tâm lĩnh và hiện
thực lịch sử nước ta thế kỷ XVIII (Tạp chí Triết học số 1-1974) và Bước đầu
tìm hiểu y lý của Hải Thượng Lãn Ông qua tập: “Ngoại cảm thông trị” (Tạp
chí Đông y, số 110 -111, 1970); Trần Sĩ Nghi với Học thuyết thủy hỏa của
Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông (Tạp chí Đông y số 1, năm 1971); Nguyễn
Văn Thọ với Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông đối chiếu với Tây
y (Tạp chí Phương Đông, số 17, năm 1952); Trần Văn Giàu với Sự phát triển
của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng 8 (Tập 1, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973); Nguyễn Đình Phủ với các công trình: Tìm
hiểu và ứng dụng triết lý Âm dương, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1998, và Tìm hiểu
và ứng dụng học thuyết Ngũ hành, Nxb. VHDT, Hà Nội, 2001 v.v.. Trong các
14

tác phẩm và các công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đã đề cập đến học
thuyết Âm dương – Ngũ hành và đều cho rằng: học thuyết Âm dương – Ngũ
hành là một trong những cơ sở triết học quan trọng để hình thành thế giới
quan duy vật phương Đông, đồng thời cũng là cơ sở triết học chủ yếu để xây
dựng lý luận y học cổ truyền phương Đông. Chẳng hạn, Trần Văn Giàu viết:
“Nước ta ở thế kỷ XIX từ triều đình cho tới thứ dân, qua các tầng lớp Nho sĩ,
từ trong sách vở cho tới những phong tục tập quán, đâu đấu cũng thấy dấu
vết ảnh hưởng của thuyết Âm dương – Ngũ hành”[ 34, tr.212], hoặc Đỗ Tất
Lợi viết: “Nghề làm thuốc không thể vượt ra ngoài nguyên lý Âm dương –
Ngũ hành… Việc điều trị bệnh tật là sự lặp lại cân bằng Âm dương trong con
người, giữa con người với trời đất” [54, tr.16]; Trần Văn Thụy trong bộ Hải
Thượng Y tông tâm lĩnh với sự vận dụng những tư tưởng triết học thời cổ
(Luận án Tiến sĩ Triết học, 1996) đã đề cập tới học thuyết Âm dương – Ngũ
hành và coi đó là một trong những tư tưởng triết học quan trọng của bộ Hải
Thượng y tông tâm lĩnh; Phạm Công Nhất trong Tư tưởng triết học về con
người qua tác phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông (Luận án Tiến sĩ triết
học, 2001); Trần Thị Huyên với Thuyết âm dương – ngũ hành với tác phẩm
Hoàng đế Nội kinh và Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2002);
Nguyễn Thị Hồng Mai với Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong tác
phẩm Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (Luận án Tiến sĩ, 2012). Với sự vận dụng
học thuyết Âm dương - Ngũ hành vào y học cổ truyền Việt Nam, đặc biệt học
thuyết Thủy hỏa của danh y Lê Hữu Trác trong tác phẩm Hải Thượng Lãn
Ông Y tông tâm lĩnh.
Nhìn chung, các tác giả và công trình nghiên cứu nói trên đều nói lên
mối quan hệ giữa Âm dương - Ngũ hành với các hoạt động sống của con
người và khẳng định lý thuyết này là cơ sở triết học chủ yếu cho việc hình
thành và phát triển lý luận và thực tiễn của nền y học cổ truyền phương Đông
từ xưa tới nay. Tuy vậy, các quan niệm trên còn rời rạc, tản mạn, chưa thành
hệ thống nhất quán. Có thể nói, cho đến nay, chưa có tác phẩm nào nghiên
15

cứu một cách tập trung và có hệ thống về sự hình thành và phát triển học
thuyết Ngũ hành trong y học cổ truyền phương Đông, đề tài “Học thuyết Ngũ
hành với ý nghĩa của nó đối với y học cổ truyền phương Đông” góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề trên.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ lịch sử phát triển, nội dung
cơ bản của học thuyết Ngũ hành và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển y
học cổ truyền của phương Đông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận án triển khai thực hiện các nhiệm vụ
như sau:
Một là, phân tích nguồn gốc và lịch sử hình thành của học thuyết Ngũ
hành và những nội dung cơ bản của học thuyết Ngũ hành;
Hai là, trình bày và phân tích ý nghĩa, phương pháp luận việc vận dụng
học thuyết Ngũ hành vào các chức năng sinh lý của các tạng cơ thể người;
Ba là, phân tích, rút ra ý nghĩa của học thuyết Ngũ hành trong lịch sử
và trong quá trình phát triển của y học cổ truyền phương Đông.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận án là nguồn gốc và nội dung cơ bản của
thuyết Ngũ hành; sự vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y học cổ truyền
Trung Quốc và Việt Nam; không đi sâu nghiên cứu Ngũ hành với Thiên can,
Địa chi, tức ngũ vận lục khí và những lĩnh vực khác.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Luận án được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là những nguyên lý về lịch sử Triết học, về
phép biện chứng duy vật; đồng thời sử dụng lý luận Triết học phương Đông
16

về Ngũ hành và lý luận y học cổ truyền phương Đông để hoàn thành mục tiêu
và nhiệm vụ của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận chung
Vấn đề học thuyết Ngũ hành và sự ứng dụng nó trong y học cổ truyền
phương Đông được nghiên cứu theo phương pháp triết học lịch sử. Các
nguyên tắc phương pháp luận được quán triệt là quan điểm toàn diện, lịch sử -
cụ thể và phát triển. Với phương pháp luận này cho phép nắm bắt và nhận
thức các khái niệm, phạm trù của học thuyết Ngũ hành được trình bày tương
đối toàn diện, chuẩn xác, như nó vốn có; việc khai thác tài liệu, thông tin phải
thực hiện phân tích phê phán một cách biện chứng, thấy được sự thống nhất
và khác biệt của luận đề mà các nhà triết học thời cổ đại Trung Quốc đặt ra và
điều chỉnh, bổ sung trong suốt quá trình phát triển của xã hội Trung Quốc;
thấy được tính không đồng nhất về giá trị của học thuyết đó trong những
những lĩnh vực khác nhau.
Các phương pháp cụ thể
Vấn đề nghiên cứu được tiếp cận và phân tích trên cơ sở phương pháp
lôgic và lịch sử kết hợp với phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống
hoá để thấy được nguyên lý Ngũ hành và những vấn đề y học cổ truyền có
liên quan và mang tính độc lập tương đối trong sự phát triển, có lôgic nội tại
và được hình thành, phát triển từ những điều kiện lịch sử nhất định của xã hội
Trung Quốc từ thời thượng cổ.
Việc thu thập và xử lí thông tin được thực hiện thông qua phương pháp
nghiên cứu lí thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm trù có liên quan và
nghiên cứu, khai thác tư liệu, văn bản; phương pháp so sánh cho thấy được sự
tương đồng và khác biệt khi trình bày sự biến đổi của Ngũ hành qua các thời
kỳ lịch sử; phương pháp thống kê số liệu thực tiễn từ 500 bệnh án góp phần
thực hiện những yêu cầu của nhiệm vụ luận án.
17

5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI


Nội dung và bản chất của học thuyết Ngũ hành được phân tích qua các
đặc điểm, sự biến hoá của năm hành chất và quy luật vận động của chúng;
tương quan Ngũ hành với những biểu hiện của tạng tượng trong cơ thể sinh lý
con người.
Kết quả nghiên cứu của luận án có nhiều ý nghĩa:
Ý nghĩa khoa học:
Luận án đưa đến một cách tiếp cận và phương pháp nhận thức mới về
các nguyên lý của học thuyết Ngũ hành, về đặc điểm các hành chất cơ bản của
Ngũ hành trong triết học phương Đông biểu hiện ra các mặt tự nhiên, xã hội
và con người, nơi tạng tượng, nơi sinh lý cơ thể người. Luận án còn đem đến
một hiểu biết tương đối có hệ thống về mối quan hệ giữa một vấn đề triết học
với một vấn đề thuộc về khoa học lý luận và thực hành y học cổ truyền
phương Đông trong lịch sử và hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả của luận án đem đến cơ sở y học cổ truyền một tài liệu không
chỉ có giá trị về lý luận mà còn cả thực tiễn để góp phần bảo vệ và phát huy
giá trị y học cổ truyển của dân tộc, trong đó có di sản y văn của các danh y
Việt Nam từ việc tiếp thu Ngũ hành đã xây dựng bộ sách quý báu về y thuật;
đề xuất phương pháp dưỡng sinh theo Ngũ hành, chẩn đoán và điều trị bệnh
cho con người theo Ngũ hành.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy môn lịch sử triết học phương Đông, môn y đức và đặc biệt là việc chẩn
đoán và hướng điều trị cũng như phòng bệnh, nâng cao sức khỏe con người.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Luận án có luận giải mới về nội dung học thuyết Ngũ hành ở hai mặt:
thứ nhất là tư tưởng duy vật chất phác về nhận thức thế giới; thứ hai là tư
tưởng biện chứng thô sơ.
18

Luận án đã nêu lên ý nghĩa việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào y
học cổ truyền phương Đông như: phép dưỡng sinh, phương pháp chẩn đoán
cũng như phép điều trị cho y học cổ truyền phương Đông.

Cụ thể, luận án có cuộc điều tra 504 bệnh án tại Khoa Y học cổ truyền
Bệnh viện Đại học Y dược Thành phồ Hồ Chí Minh để đề cao vai trò quan
trọng của sự tiêu hóa (ăn uống) có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề sức khỏe
con người.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục (đóng
riêng), luận án có 3 chương, 8 tiết.
19

Chương 1
NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

1.1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH


1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của Trung Quốc cổ đại
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng
tầng, triết học trong quá trình hình thành và phát triển luôn chịu sự chi phối,
quyết định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử triết học
hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng không có một học thuyết
hay trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống không; chúng bao
giờ cũng là sản phẩm của lịch sử, dân tộc và thời đại nhất định, đồng thời là
tấm gương phản chiếu sâu sắc đời sống muôn vẻ của lịch sử, dân tộc và của
thời đại đó. Đúng như C.Mác đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ
trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh
tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”
[61, tr.156]. Vì vậy, “Phàm đã gọi là một học thuyết quyết không thể là một
cái gì từ trên trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm ra
được nhiều nguyên nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó” [62, tr.53].
Quá trình hình thành và phát triển của các học thuyết, trường phái triết
học Trung Quốc thời cổ đại cũng không nằm ngoài tính quy luật nói trên.
Chúng ra đời không phải ngẫu nhiên hay từ ý muốn chủ quan của các nhà triết
học, mà từ những hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
Trung Quốc cổ đại. Do đó, sẽ là chủ quan, võ đoán, phi lịch sử khi nghiên cứu
tư tưởng của một học thuyết, trường phái triết học nào đó mà không chú ý tìm
hiểu thấu đáo những điều kiện kinh tế - xã hội – cái đã quy định nội dung,
tính chất và sự phát triển của nó như thế nào. Vì vậy, chỉ có trên cơ sở mổ xẻ,
phân tích sâu sắc những điều kiện lịch sử xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội thời Trung Quốc cổ đại mới có thể luận giải một cách có căn cứ khoa
20

học những vấn đề đặt ra liên quan đến nội dung tư tưởng của các học thuyết,
trường phái triết học sinh ra trong giai đoạn này. Trong số đó có học thuyết
Ngũ hành. Học thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu xem là yếu tố cơ bản
của văn hóa Trung Quốc cổ đại, thể hiện những quan niệm về cơ cấu của vũ
trụ, vạn vật, tâm lý và chính trị - xã hội của người Trung Quốc cổ đại, được
xây dựng dựa trên các quan sát, thực nghiệm của họ trong giai đoạn mà nền
kinh tế nông nghiệp hãy còn sơ khai. Tiến trình lịch sử Trung Quốc cổ đại bắt
đầu từ thời Hạ, Thương Ân, Chu, Xuân thu - Chiến quốc, nhà Tần.
Giai đoạn nhà Hạ
Khởi đầu, lịch sử Trung Quốc đã trải qua thời kỳ xã hội nguyên thủy
với các truyền thuyết về thời thượng cổ như Bàn Cổ, Tam hoàng, Ngũ đế.
Theo những truyền thuyết này, xã hội nguyên thủy Trung Quốc đã phát triển
tuần tự qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những phát
minh quan trọng như lửa, đồ đá, dụng cụ bằng xương động vật… chứng tỏ
thành quả của những nhận thức và lao động tuyệt vời mà nhân dân Trung
Quốc đã đạt được trong thời kỳ cổ đại.
Đời nhà Hạ 2205 - 1766 trước công nguyên, nhà nước chiếm hữu nô
lệ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc cổ đại là sự ra đời nhà Hạ, kết thúc thời
kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc từ trước đó hàng nghìn năm. Tuy nhiên, hiện
nay còn có một số quan điểm khác cho rằng nhà nước chiếm hữu nô lệ ra đời
vào thời Ân (1766 - 1027 tr.CN) (xem Trần Đình Hượu), hoặc (Petơrốp, Viện
sĩ Liên Xô) ra đời vào thời Tây Chu.
Như vậy, trong quá trình tìm hiểu thực tế cuộc sống để sinh tồn, con
người đã bước lần tìm hiểu bản nguyên của vũ trụ qua thực tiễn. Tư tưởng
Ngũ hành đã khởi đầu khám phá một vài yếu tố của Ngũ hành từ thời nhà Hạ
là đất, nước, cây cối và đặc biệt là lửa. Những khám phá ban đầu này (đất,
nước, cây cối và lửa), nó vừa là nhận thức mới về vật chất phục vụ cuộc sống,
vừa giúp cho lao động bước đầu tiến bộ của nhân dân Trung Quốc cổ đại thời
kỳ nhà Hạ.
21

Giai đoạn nhà Thương


Năm 1766 trước công nguyên, Thành Thang, vua một nước nhỏ (vốn
thuộc Hạ) ở vùng hạ lưu sông Hoàng Hà, vì nhà Hạ vô đạo nên nhà Thương
hội quân chư hầu đã lật đổ triều vua cuối cùng của nhà Hạ, lập nên nhà
Thương đặt đô tại đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay). Khoảng 300 năm
sau Công Nguyên vua tiếp theo của nhà Thương là Bàn Canh đã dời đô đến
đất Ân (thuộc thành phố An Dương tỉnh Hà Nam ngày nay). Vì thế, nhà
Thương còn được gọi là nhà Ân. Dưới triều đại Ân - Thương, nền kinh tế xã
hội có sự phân công sâu sắc giữa sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, và sản xuất
thủ công nghiệp. Các công cụ bằng đồng đã được sử dụng phổ biến góp phần
phát triển sản xuất. Thời Ân - Thương nông nghiệp đã trở thành ngành sản
xuất chủ yếu của xã hội. Về nhận thức, người đời Thương đã biết dùng mai
rùa, xương thú để bói toán xem lành dữ, may rủi và sáng tạo ra văn tự còn gọi
là ‘giáp cốt”. Họ còn biết chia ra lịch pháp để phục vụ cho việc xác định thời
vụ trong sản xuất nông nghiệp. Một năm được chia thành 12 tháng, một tháng
được chia thành 30 ngày, có tháng đủ, tháng thiếu, mỗi tuần có 10 ngày và
biết dùng hệ thống can - chi (gồm 10 can và 12 chi), phối hợp với nhau để
tính giờ, ngày, tháng và năm. Người Ân - Thương biết quan sát thiên văn, biết
được sự vận hành của mặt trăng và vị trí của nhiều ngôi sao, giải thích được
hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, tính được chu kỳ của thủy triều, tìm ra
quy luật sinh trưởng của cây trồng mà đặt ra lịch âm.
Nhà Thương từ khi xây dựng tới lúc diệt vong kéo dài khoảng 500
năm (có hơn 270 năm ở đất Ân), phát triển đến cực độ rồi dần dần bị suy
vong.
Trong giai đoạn nhà Thương (Ân), nhân dân Trung Quốc cổ đại đã từ
sự khám phá lửa dần đến khám phá chất kim loại đồng, một loại kim loại dễ
nóng chảy và định hình sắt loại công cụ lao động phục vụ cho con người tinh
xảo hơn dụng cụ lao động bằng đá. Từ đó dụng cụ đồ đồng được thay thể mà
dụng cụ đồ đá đã sử sụng trong lao động trước đây của người Trung Quốc cồ
22

đại. Từ thực tế khám phá đồ đồng, con người trong giai đoạn nhà Thương Ân
đã tiếp tục khám phá thêm một yếu tố vật chất nữa là yếu tố kim loại làm
hoàn thiện năm yếu tố của tư tưởng Ngũ hành. Như vậy, từ điều kiện kinh tế -
xã hội thời Thương Ân, nhân dân Trung Quốc cổ đại đã hoàn thiện các yếu tố
vật chất của Ngũ hành và tiếp tục phát triển củng cố sang đời Tây Chu với
công cụ đồ sắt.
Giai đoạn nhà Tây Chu và Xuân thu – Chiến quốc
Năm 1123 trước công nguyên, con của vua Chu Văn Vương là Chu
Vũ Vương đã nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân Thương lập ra nhà Chu, đóng đô ở
Hạo Kinh (phía tây thành Tây An ngày nay). Lịch sử gọi là Tây Chu.
Thời Tây Chu, lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ cao hơn nhiều so
với Ân – Thương. Việc sử dụng các công cụ, vật dụng bằng sắt bắt đầu xuất
hiện đã thúc đẩy một số ngành thủ công nghiệp phát triển, từ đó làm cho kỹ
thuật canh tác đất đai được cải thiện. Các lĩnh vực nhận thức về các khoa học
tự nhiên như: lịch pháp, thiên văn, địa lý, y học… cũng đã phát triển rất
mạnh. Về chính trị, hệ thống chính trị đã tương đối hoàn thiện hơn so với nhà
Ân – Thương trước đó. Là một nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế độ
chiếm hữu nô lệ, song cách thức quản lý quốc gia của nhà Chu lại theo kiểu
“phong hầu kiến địa” (cắt đất phong tước hầu) nặng về huyết thống, giòng
tộc. Người đứng đầu nhà Chu được gọi là “Thiên tử” có uy quyền tuyệt đối.
Cùng với sự hoàn thiện hệ thống chính trị, nhà Chu cũng tiến hành cải cách
quan hệ sản xuất, thực hiện rộng rãi chế độ “tỉnh điền”, một kiểu quản lý và
thu lợi từ đất đai (do nhân dân lao động trực tiếp sản xuất) của giai cấp thống
trị quý tộc nhà Chu lúc bấy giờ. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mọi mặt
đời sống xã hội so với thời kỳ Ân – Thương, các mâu thuẫn giai cấp trong
lòng xã hội tộc Chu đang dần dần bộc lộ gay gắt.
Tư tưởng triết học Trung Quốc có mầm mống từ thời tiền sử, nhưng
đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc mới thực sự trở thành một hệ thống. Xuân
Thu – Chiến Quốc, về niên đại, được xem là bắt đầu từ năm 771 và kết thúc
23

vào năm 221 trước công nguyên. Thời kỳ Đông Chu còn gọi là thời kỳ Xuân
thu – Chiến quốc (771 – 221 trước công nguyên), là giai đoạn giao thời giữa
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn và hình thái kinh tế - xã hội
phong kiến sơ kỳ. Thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc được chia thành hai giai
đoạn: giai đoạn Xuân thu và giai đoạn Chiến quốc.
Giai đoạn Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương lên
ngôi nhà Chu (năm 771 tr.CN), sau đó dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (Lạc
Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay) nên lịch sử gọi là Đông Chu. Tên “Xuân thu”
là gọi theo bộ sử biên niên của Khổng Tử (chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất
đời Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (từ năm 722 đến năm 481
trước công nguyên). Giai đoạn Chiến quốc bắt đầu từ Chu Nguyên Vương lên
ngôi vương triều nhà Chu (năm 403 trước công nguyên), kết thúc giai đoạn
cuối Tần tức là năm 221 trước công nguyên. Gọi là Chiến quốc vì giai đoạn
này lịch sử Trung Quốc cổ đại đã chứng kiến các cuộc chiến tranh khốc liệt
của các quốc gia vốn là chư hầu của nhà Chu (chủ yếu là cuộc chiến tranh
thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước lớn thời đó, còn gọi là “Chiến quốc thất
hùng” (Sở, Hàn, Ngụy, Tần, Yên, Tề, Triệu), kết cục là nước Tần tiêu diệt sáu
nước và thay thế vào đó bằng một quốc gia thống nhất mới do Tần Thủy
Hoàng đế đứng đầu. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc.
Theo Đàm Gia Kiện, “Tiên Tần - đặc biệt thời Xuân Thu – Chiến Quốc, là
ngọn nguồn đầu tiên một cao trào của sự phát triển triết học Trung Quốc, đã
xuất hiện đông đảo các nhà tư tưởng triết học thành một cục diện trăm nhà
đua tiếng” [43, tr.433].
Sự chuyển mình sôi động của thời Xuân Thu được thể hiện trên các
lĩnh vực: Về kinh tế, đây là thời kỳ mà nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển
tiếp từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sắt là một phát hiện của dân tộc
Di, một tộc người ở về phía Đông của Trung Quốc. Cư dân Hoa Hạ kế thừa
được công nghệ đúc sắt của người Di đã chế tạo ra nhiều công cụ lao động
bằng sắt. Sự ra đời của đồ sắt có thể coi như một cuộc cách mạng trong công
24

cụ sản xuất. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế cổ đại
Trung Quốc phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trước hết là nông nghiệp, ngành
kinh tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng, lâu đời trong đời sống xã hội Trung
Quốc.
Để tồn tại và phát triển, người Trung Quốc buộc phải không ngừng cải
tiến công cụ sản xuất, phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đồ sắt, người ta có
thể chế tạo ra các công cụ sản xuất tinh xảo hơn, mở mang diện tích canh tác,
phát triển hệ thống thủy lợi, các phương tiện vận chuyển, tạo mới vũ khí trong
các cuộc giao tranh. Nhờ vậy, nó đã góp phần giảm nhẹ sức lao động cơ bắp
của con người, mở rộng diện tích sản xuất, tăng năng suất lao động. Đặc biệt,
kỹ thuật canh tác nông nghiệp đã có tiến bộ vượt bậc với tri thức ngày càng
sâu sắc, phong phú. Họ đã tích lũy và phát triển kỹ thuật sản xuất nông nghiệp
thành một môn khoa học. Sách Quản Tử thời Xuân thu đã ghi lại việc chia đất
đai toàn quốc theo độ phì nhiêu làm ba cấp: thượng, trung, hạ. Trong đó, mỗi
cấp chia làm sáu loại và chỉ ra giống cây trồng thích hợp với mỗi loại đất đó.
Từ những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện
của đồ sắt, tất yếu dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất thời
Xuân thu. Nếu dưới thời Tây Chu, giai cấp quý tộc chủ nô nắm giữ toàn bộ
nguồn gốc mọi của cải trong xã hội, đó là sức lao động nô lệ và ruộng đất, thì
giờ đây, công xã đã giao hẳn đất công cho từng gia đình nông nô cày cấy
trong thời hạn lâu dài. Họ có điều kiện lưu canh, luân canh để tăng năng suất
cây trồng. Sự phân hóa đất công còn diễn ra mạnh mẽ, một phần do quý tộc
chuyển sang thương nhân giàu có, một phần do chư hầu phong cấp cho các
tướng lĩnh có công, một phần quý tộc chiếm làm ruộng tư, hay đất tự nhiên do
được phép khai hoang giờ đã trở thành đất của các nông dân tự do, v.v.. Chế
độ “tỉnh điền” dần dần tan rã, chế độ “tư hữu ruộng đất” từng bước hình
thành, đưa tới sự ra đời của giai cấp địa chủ phong kiến từng bước thay thế
giai cấp quý tộc chủ nô.
25

Theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã được chia cho nông nô
theo chữ “tỉnh” có chín ô, những nông nô cày cấy tám ô xung quanh, phải có
trách nhiệm cày cấy ô ở giữa để thu hoa lợi nộp cho triều đình. Khi chế độ tư
hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất giữa các nông nô có sự chênh
lệch, nhà nước đã ban hành chế độ thu thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng
(gọi là thuế sơ mẫu), bãi bỏ hình thức thu thuế cũ. Nước Lỗ là nước đầu tiên
thi hành chế độ thuế mới vào năm 594 tr.CN.
Đồ sắt ra đời thay thế đồ đồng, không những thúc đẩy nông nghiệp
phát triển, mà còn thúc đẩy tiểu thủ công nghiệp phát triển. Với tính ưu việt
của đồ sắt như: quặng sắt nhiều hơn quặng đồng, đồ sắt lại bền hơn, cứng hơn
và sắc bén hơn, sử dụng tiện lợi hơn đồ đồng, cho nên, việc sử dụng công cụ
bằng sắt ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phổ biến. Quá trình đó thực
sự góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự
phân công trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhanh chóng đạt tới trình độ
chuyên nghiệp cao, mở ra cơ hội cho một loạt các ngành nghề thủ công ra đời,
phát triển như: nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ
gốm, v.v.. Vào cuối thời Xuân thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt, số thợ lên
đến 300 người, nước Tấn trưng mua sắt để đúc đỉnh hình. Phản ánh về sự phát
triển của sản xuất thủ công nghiệp, mở mang ngành nghề, sách Chu Lễ viết:
“thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm
năm phần, thợ nề chiếm hai phần…”. Sự phát triển đa dạng của nhiều ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp về kinh tế đã có ý nghĩa tích cực trong việc giải
phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông, nâng cao đời
sống của người dân Trung Quốc thời cổ đại.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển đã tạo cơ sở cho thương
nghiệp phát triển hơn trước và tiền tệ ra đời. Trong xã hội hình thành một tầng
lớp thương nhân giàu có, danh tiếng như: Phạm Lãi, Huyền Cao (nước Trịnh),
Tử Cống (là học trò của Khổng Tử)… Họ ngày càng có thế lực, có nhiều
người kết giao với chư hầu, công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối với
26

đời sống chính trị đương thời. Tuy nhiên, do thực trạng khó khăn lúc bấy giờ
cản trở rất lớn đến việc giao lưu, buôn bán như xã hội rối ren, lãnh thổ chia
năm xẻ bảy, phương tiện giao thông thô sơ, đường sá hiểm trở khiến việc
buôn bán không phải ai cũng làm được, nó đòi hỏi phải có những con người
tháo vát, quyết đoán, mạo hiểm. Đặc biệt, trong quan niệm cổ truyền của
người Trung Quốc, luôn xem thường, khinh rẻ nghề buôn bán, với tư duy
“nông bản, thương mại”, “trọng nông ức thương” (coi trọng nông nghiệp, hạn
chế buôn bán). Chính vì thế, thương nghiệp lúc này chưa thực sự phát triển,
chưa có tác động ảnh hưởng lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội. Song sự
hình thành của nó, đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp mới -
tiền thân của một tầng lớp thương nhân sau này ngày càng tranh giành quyền
lợi với tầng lớp quý tộc cũ. Trường hợp Tử Cống, Huyền Cao của nước Trịnh
là một ví dụ.
Về chính trị xã hội, trước hết, đó là sự phân hóa trong cơ cấu giai cấp
thống trị - giai cấp mà tính cố kết, bền chặt của nó có ý nghĩa quyết định đến
sự vững bền của chế độ. Nếu như ở thời Tây Chu, giai cấp thống trị chỉ bao
gồm những quý tộc chủ nô, thì đến thời Xuân thu ngoài một bộ phận trong số
họ, còn được bổ sung ở tầng lớp tự do vì giàu có, tài ba mà trở nên có thế lực,
tầng lớp này bắt đầu chi phối xã hội theo cách của mình. Cả hai giai cấp, tầng
lớp này đều xuất hiện với tư cách là những quý tộc mới. Họ đã nhận thấy
đường lối, chính sách cai trị của quý tộc chủ nô là không còn phù hợp, cần
phải có sự đổi thay mới tồn tại. Sự xuất hiện của họ đã đe dọa trực tiếp đến
thế và lực của nhà Chu, là đầu mối của mọi sự biến đổi và chuyển mình của
xã hội Trung Quốc suốt thời Xuân thu - Chiến quốc.
Dưới thời Tây Chu, chế độ tông pháp còn được tôn nghiêm, cai trị xã
hội chủ yếu dựa vào lễ và tập tục; quý tộc chủ nô tùy tiện dùng hình phạt khắc
nghiệt trừng trị những kẻ làm trái ý mình. Điều đó, có tác dụng tích cực giúp
nhà Chu tồn tại hưng thịnh trong một thời gian dài. Nhưng cũng chính từ cách
cai trị đó đã gây ra nhiều bất công, oán thán âm ỉ kéo dài và cuối cùng nó đã
27

bùng nổ ở thời Xuân thu. Đến lúc này, chế độ tông pháp nhà Chu không còn
được tôn nghiêm, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa
thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, những liên hệ về kinh tế trên
cơ sở chiếm hữu ruộng đất tăng lên, trật tự lễ nghĩa nhà Chu dần dần bị phá
bỏ. Nếu thời Tây Chu, xã hội vận hành nhờ lễ, tập tục, các quan hệ xã hội
cũng được đánh giá theo tiêu chuẩn lễ, tập tục; thì đến thời Xuân thu lễ cũ đã
băng, tập tục cũ đã hoại. Những biến đổi, rạn nứt trên đã làm cho trật tự
quyền hành giữa Thiên tử, Chư hầu, Công khanh, đại phu chỉ còn là hình
thức, trên danh nghĩa. Thực chất, lúc này thiên tử nhà Chu hầu như không còn
quyền uy gì với các nước chư hầu. Thiên tử không còn đủ thực quyền xét xử
những cuộc tranh chấp giữa các nước chư hầu. Thời Tây Chu việc lễ, việc
nhạc, việc chính trị, việc hình phạt do thiên tử đề ra, và các nước chư hầu phải
theo đó mà thực hiện. Đến thời Xuân thu, hầu như không còn do thiên tử sắp
xếp, quyết định; mà đều do chư hầu, khanh đại phu tùy ý, tự tiện nêu ra và
thực hiện. Nhân cơ hội này nhiều nước đua nhau động binh, mượn tiếng, lấy
cớ khôi phục chế độ tông pháp nhà Chu với khẩu hiệu “tôn vương bài di”,
nhưng thực chất là để bảo vệ, khẳng định mở rộng quyền lực chính trị, kinh
tế… của mình, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ.
Thời Xuân thu, trong khoảng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ
giữa các nước chư hầu. Ngay trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc
tranh giành đất đai, địa vị, quyền thế giữa những quý tộc với nhau. Chẳng
hạn, vào năm 403 trước công nguyên, ở nước Tấn có ba dòng họ là Hàn,
Triệu, Ngụy đã nổi lên phế bỏ vua Tấn, dựng lên ba nước Hàn, Triệu, Ngụy.
Chiến tranh triền miên, khốc liệt giữa các nước chư hầu, các quý tộc đã tàn
phá xã hội nghiêm trọng.
Trước hết, chiến tranh dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các nước
chư hầu. Đầu thời Tây Chu có hơn một ngàn nước, đến cuối thời Xuân thu chỉ
còn hơn một trăm nước. Trước và sau thời Xuân thu, nước Sở thôn tính 45
nước, nước Tề đời Tề Hoàn Công thôn tính 35 nước, nước Tấn diệt 20 nước,
28

nước Lỗ diệt 12 nước, nước Tống diệt 6 nước, v.v.. Cuối thời Đông Chu, chỉ
còn 5 nước lớn: Tống, Sở, Tề, Tần, Việt và 4 nước nhỏ sắp bị diệt là Lỗ,
Tống, Trịnh, Vệ. Sau bao cuộc chinh phạt đẫm máu lẫn nhau, đến thời Chiến
quốc, chỉ còn 7 nước là Tề, Tần, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy (được gọi là thất
hùng).
Thứ đến, chiến tranh loạn lạc, trật tự lễ nghĩa băng hoại đã xô đẩy
người dân đến cùng khổ, mất mát. Trước áp lực đòi hỏi của cuộc chiến, các
lãnh chúa, quý tộc tăng cường mộ phu, bắt lính, bóc lột tàn khốc nhân dân lao
động. Người dân phải gánh chịu sưu cao, thuế nặng, phu phen, lao dịch nặng
nề. Dân lưu vong “đồng trong, ruộng ngoài bỏ hoang”. Không những thế, dân
còn chịu sự cướp bóc, đàn áp của các lãnh chúa, quý tộc. Họ đã không từ một
thủ đoạn nào để chiếm đoạt ruộng đất, cưỡng bức dân lành.
Chiến tranh giữa các nước chư hầu còn góp phần phá vỡ lễ nghĩa nhà
Chu, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia
tăng và mang tính phổ biến như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ
nghĩa của thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu, chế độ triều
cống cũng bị các chư hầu tự ý gạt bỏ. Thậm chí, các nước chư hầu lớn còn
mệnh danh thiên tử bắt các chư hầu nhỏ cống nạp và lệ thuộc vào mình. Theo
Tử Sản, mỗi lần nước Trịnh cống nạp cho nước Tấn “phải dùng đến một trăm
xe chở lụa và da thú, mà một trăm xe thì phải cả một ngàn người phục vụ”
[14, tr.35]. Ngoài ra, trong xã hội, cảnh bề tôi giết vua, anh em, vợ chồng sát
hại lẫn nhau thường xuyên xảy ra. Trước cảnh lễ nghĩa, cương thường đảo
lộn, đạo đức suy đồi, khiến Tề Cảnh Công phải than rằng: “Nghĩ như vua
chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình
cảnh hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho, có giữ được mà ăn chăng?” (Tín
như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc
nhi thực chư?) [17, tr.189]. Điều này cũng đã góp phần lý giải tại sao các bậc
quân tử, ẩn sĩ thời Khổng Tử đã phải thốt lên: “Khắp thiên hạ đều loạn lạc
như nước đổ cuồn cuộn. Ai có thể thay đổi được?” (Thao thao giả thiên hạ
29

giai thị dã. Nhi thùy dĩ dịch chi?) [18, tr.288 - 289]. Theo Khổng Tử, tất cả
thảm trạng xã hội trên, không phải nguyên nhân của một sớm một chiều, mà
nó đã âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Điều đó, chứng tỏ chế độ lễ nghĩa nhà Chu đã
trở thành hình thức, sáo rỗng, giả tạo. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” chỉ
là những thủ tục ngoại giao, đối phó, đạo đức giả; chứ không còn hàm chứa
sự cung kính, đạo đức, bổn phận của quan hệ thân tộc và trật tự xã hội nữa.
Kết cục, những cuộc chiến tranh triền miên, tàn khốc giữa các chư
hầu, quý tộc đã không những không khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà
Chu, mà còn thúc đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao, đưa
chế độ chiếm hữu nô lệ lao nhanh đến giờ phút cáo chung. Đó cũng là xu thế
tất yếu của lịch sử.
Thời Chiến quốc (475 – 221 tr.CN), tuy các cuộc chiến tranh và mâu
thuẫn xã hội từ thời Xuân thu vẫn tiếp tục và ngày càng diễn ra gay gắt và có
phần phức tạp hơn, nhưng về kinh tế, vẫn có bước phát triển mạnh mẽ. Trước
hết, là nghề luyện sắt đã không ngừng được mở rộng về quy mô, nâng cao về
kỹ thuật. Đó là sự ra đời của các trung tâm luyện sắt lớn, như trung tâm Hàm
Đan ở nước Triệu, Đường Khê ở nước Hàn, Lâm Truy ở nước Tề… Người
Trung Quốc thời đó vì thế đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú như
kinh nghiệm chọn khoáng sản, nhiên liệu, lò luyện, quạt gió, nóng chảy, đúc,
v.v.. Đặc biệt, một trong những khâu then chốt của luyện và nung đúc sắt là
kỹ thuật xử nhiệt, kỹ thuật xử lý tụ lửa đã đạt tới trình độ cao. Chính sự phát
triển của nghề luyện và nung đúc sắt đã tạo ra nhiều công cụ sản xuất như:
lưỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao… được sử dụng phổ biến. Điều đó, có ý nghĩa
quyết định trực tiếp đến sự phát triển, mở rộng của kỹ thuật thủy lợi và canh
tác, khai khẩn đất đai. Giờ đây, các công trình thủy lợi được xây dựng khắp
nơi từ lưu vực Hoàng Hà tới lưu vực Trường Giang, từ biển phía Đông đến
vùng Tứ Xuyên. Năm 597 tr.CN, Tôn Thúc Ngao của nước Sở từng chủ trì
xây dựng thủy khố theo mô hình lớn đầu tiên của Trung Quốc… công trình
tưới tiêu trữ nước Thược Pha. Từ năm 256 đến 251 tr.CN, Thái thú Lý Băng
30

của quận Thục nước Tần và con trai là Nhị Lang lãnh đạo nhân dân Tứ Xuyên
xây dựng công trình thủy lợi chủ chốt bờ đập Đô Giang nổi tiếng, trở thành
một kỳ tích trong lịch sử thủy lợi của Trung Quốc cổ đại, và cũng là một kỳ
tích trong lịch sử thủy lợi thế giới. Ngoài đập Đô Giang tiêu biểu, thời Tần
còn có kênh đào Trịnh Quốc do một người tên là Trịnh Quốc thiết kế. Nó có
tác dụng dẫn nước từ huyện Kinh (Thiểm Tây) vào Lạc Thủy, dài hơn 3000
dặm, biến hơn 200 vạn mẫu đất phèn chua của bình nguyên Quan Trung thành
đất canh tác đạt sản lượng cao. Đặc biệt, Tần Thủy Hoàng đế sau khi thống
nhất Trung Quốc, đã chú ý đến vấn đề giao thông vùng Tây Nam, giải quyết
vấn đề vận chuyển quân lương, sai sứ Lộc đào kênh Linh ở huyện Hưng An –
Quảng Tây dài hơn 30 dặm với thiết kế, bố cục đều rất khoa học, giữ vị trí
huy hoàng trong lịch sử hàng hải thế giới.
Cùng với thủy lợi là sự phát triển của nghề thủ công, như nghề làm đồ
gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng bạc, tiền kim loại
ra đời. Người Trung Quốc đã dùng khuôn kim loại để đúc tiền. Sự ra đời của
đồng tiền bằng kim loại đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành sinh
hoạt xã hội, kinh tế của Trung Quốc lúc bấy giờ, đã góp phần thúc đẩy mạnh
mẽ việc trao đổi, buôn bán hàng hóa. Những nơi như Hàm Dương nước Tần,
Thọ Xuân nước Sở, Lâm Truy nước Tề, Khai Phong nước Ngụy… đã trở
thành những trung tâm kinh tế sầm uất. Ngoài ra, xã hội Xuân thu – Chiến
quốc đã có các thành tựu sau:
Về thiên văn học, lúc bấy giờ người Trung Quốc đã biết sử dụng la
bàn, biết phân biệt và hệ thống vị trí của các vì sao. Đặc biệt, họ chỉ căn cứ
vào vị trí và tính chất của 28 ngôi sao, gọi là “nhị thập bát tú” để xây dựng lên
một thứ lịch âm rất khoa học. Trong lĩnh vực Y dược học, họ đã biết được các
vị thuốc cũng như các phương pháp chữa bệnh cơ bản. Qua thực tiễn lâm sàng
hết sức phong phú, họ đã biết cách tổng kết và viết ra những cuốn sách lý luận
y dược học đầu tiên hết sứ quý báu như Hoàng đế nội kinh, Thần Nông bản
thảo. Những danh y nổi tiếng xuất hiện như Biển Thước, Y Hòa v.v..
31

Về toán học, thời này cũng đã đạt được trình độ khá cao. Các nhà toán
học đã biết được các quan hệ về tỷ lệ giữa cạnh và góc trong một hình tam
giác, biết cách tính diện tích của các hình như hình vuông, hình tròn, biết sáng
chế và quy đổi giữa các đơn vị về đo lường…
Về nông học, họ đã có những kinh nghiệm khoa học đáng quý như
cách trị thủy đối với các con sông lớn, kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”, các
phương pháp về chuyên canh các loại cây lương thực…
Về văn học, họ đã để lại nhiều tác phẩm văn học quan trọng như Kinh
Thi (một tuyển tập thi ca gồm 305 bài thơ được nhân dân Trung Quốc cổ đại
sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm từ thời Tây Chu đến thời Xuân thu).
Về sử học, thời cổ đại người Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều bộ sử
có giá trị như Xuân thu, Tả truyện, Quốc ngữ…
Tuy nhiên, chiến tranh với tính chất tàn khốc, diễn ra triền miên giữa
các nước chư hầu đã đẩy cuộc sống của nhân dân lao động ngày càng cùng
cực, đau khổ. Mạnh Tử đã thốt lên rằng: “Đánh nhau tranh thành, giết người
thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất, giết người thây chất đầy đồng”.
“Càng về cuối thời Chiến quốc, tình cảnh càng bi đát: Nước Vệ bắt lính tới 1
phần 5 dân số, nước Tấn bắt ông già 73 tuổi ra tòng quân, nước Tề thu thuế
của dân tới 2 phần 3 hoa lợi, ruộng đất bỏ hoang, có kẻ đói quá, phải đổi con
cho nhau mà ăn thịt” [52, tr.34]. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mạnh
của nền kinh tế hàng hóa, sự biến đổi của đời sống xã hội đã phá vỡ chế độ
công xã nông thôn. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở thành
quan hệ sở hữu thống trị, chế độ thu thuế tính theo số lượng ruộng đất ra đời,
thay thế cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng. Đặc biệt, giờ đây việc mua
bán ruộng đất tự do diễn ra mạnh mẽ và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở
đường, tạo cơ hội cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay lãnh chúa, địa
chủ thắng trận, giàu có. Và, hậu quả tất yếu dẫn đến với đa số nông dân là mất
ruộng đất, phải đi cày thuê, cấy mướn, trở thành những tá điền, cố nông suốt
đời và thậm chí còn diễn ra nhiều đời. Chế độ bóc lột mới bằng phát canh thu
32

tô xuất hiện. Trong lòng xã hội, nảy sinh những yếu tố của quan hệ sản xuất
mới. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, đã đẩy xã hội đến nguy cơ đảo
lộn nghiêm trọng. Thực tiễn đòi hỏi cần phải có sự thay đổi về đường lối,
chính sách cai trị mới có thể cứu vớt nguy cơ thời cuộc. Hơn ai hết, giai cấp
thống trị đã nhận thấy điều đó, nên họ đã tiến hành một số biện pháp cải cách
nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào “Biến pháp” diễn
ra trong suốt thời Chiến quốc ở một loạt nước như: Ngụy, Triệu, Hàn, Tề,
Tần. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, ở nước Tề, Quản Trọng đã nêu ra
đường lối trị nước là phải dựa vào lễ, và dựa vào hình luật. Dựa vào hình luật
phải đề cao: “Luật, hình, lệnh, chính”. Theo ông, luật pháp là phải công khai
rõ ràng, phải dạy cho dân biết luật pháp và khi thực hành phải giữ lòng tin đối
với dân. Đề cao pháp luật, nhưng không được xem nhẹ nhân, nghĩa, lễ, trí
trong phép trị nước. Thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Đặng Tích ở nước
Trịnh còn chép hình như trên thẻ tre, gọi là “trúc hình” ban bố rộng rãi cho
dân chúng.
Vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, Tử Sản ở nước Trịnh cho đúc
“hình đỉnh”, ban bố pháp luật trên đỉnh đồng để mọi người biết và thực hiện.
Trong hàng loạt các “Biến pháp” trên, thì chủ trương “Biến pháp” của
Thương Ưởng là có hiệu quả nhất đối với nhà Tần. Vào năm 359 trước công
nguyên, ông đề xuất cải cách về luật pháp với những nội dung: xóa bỏ chế độ
“tông pháp”, xây dựng chế độ quận huyện; tổ chức liên gia, thực hiện chính
sách cáo gian, khuyến khích khai hoang, cày cấy nuôi tằm dệt lụa; thực hiện
thưởng phạt nghiêm minh. Đến năm 350 trước công nguyên, Thương Ưởng
tiếp tục đẩy mạnh cải cách, nhưng lần này chủ yếu thiên về hành chính và tài
chính: Khuyến khích khai hoang, thực hiện một thứ thuế thống nhất và công
bằng cho mọi người, thống nhất đồ đo lường… Tư tưởng xuyên suốt trong
phép trị nước của Thương Ưởng là đề cao pháp luật. Theo ông, pháp luật phải
tôn nghiêm, ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành,
ai có tội thì phải phạt và phạt nặng. Đó là cách “dĩ hình khử hình” (dùng hình
33

phạt để trừ bỏ hình phạt). Nhờ những cải cách và sử dụng pháp trị của
Thương Ưởng mà chỉ trong một thời gian ngắn, nước Tần đã trở thành nước
hùng mạnh nhất, lần lượt đánh bại sáu nước Ngụy, Tề, Sở, Yên, Hàn và Triệu
chấm dứt cuộc chiến tranh liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc, xác
lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước công
nguyên. Đó là đế chế Tần mà người có công thống nhất đất nước là A Chính
(tức Tần Thủy Hoàng đế).
Như vậy, những biến đổi toàn diện, phức tạp và sâu sắc của xã hội
Trung Quốc cổ đại từ Hạ, Thương, Chu đến thời Xuân thu - Chiến quốc đã
đặt ra hàng loạt những vấn đề về triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, pháp
luật, quân sự… thúc đẩy, yêu cầu các triết gia, các nhà tư tưởng đương thời
phải trăn trở, tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những diệu kế, những phương
pháp thực tiễn hơn để cứu đời, “tề gia trị quốc bình thiên hạ”, cho nên, thời kỳ
này đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng thiên tài, nhiều trường phái triết học lớn.
Nó đã thực sự trở thành điểm đỉnh của toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần xã
hội Trung Quốc cổ đại, như một mốc son chói lọi trong lịch sử tư tưởng
phương Đông. Như vậy, triết học cổ đại đã thực sự là một hình thái ý thức xã
hội phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại.
Sự phong phú, đa dạng của các hệ thống triết học thời Xuân thu -
Chiến quốc khiến người ta phải gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử” như trăm hoa
đua nở, trăm nhà đua tiếng (Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh). Mỗi
phái có hệ thống lý luận riêng cho việc trị nước, an dân, bình thiên hạ. “Phái
thì chủ trương nhân trị, phái thì lại bảo nếu người nào cũng yêu người khác
như người thân của mình thì không cần ai tranh giành với ai mà xã hội sẽ yên.
Phái thì lại bảo phải trở về với thời thượng cổ, nhà cầm quyền không can
thiệp vào công việc của dân, để dân sống một thời chất phác, hết ham muốn,
hết tranh giành; kẻ thì lại bảo phải dùng pháp luật cho nghiêm, thưởng phạt
công bằng thì nhà cầm quyền chẳng cần tài đức mà nước cũng trị” [8, tr.104].
Cho dù mỗi trường phái triết học kể trên là đại diện cho tiếng nói của mỗi
34

tầng lớp, giai cấp khác nhau, nhưng chúng đều được nhà cầm quyền khai thác
sử dụng, dù có thuyết bị chê là vu khoát không theo được. Vì vậy, thời Chiến
Quốc trở thành thời đại hoàng kim của triết học; ngôn luận được hoàn toàn tự
do bàn cãi, tranh luận không chỉ diễn ra giữa các trường phái triết học đối lập
với nhau, mà còn diễn ra giữa các triết gia trong cùng một trường phái.
Song, trong thời Xuân thu - Chiến quốc, có một học thuyết là cơ sở
của nhiều học thuyết khác là học thuyết Ngũ hành của trường phái Âm dương
gia. Phái Âm dương gia bắt đầu là Trâu Tạng sống trước Mạnh Tử. Và sau
Mạnh Tử, Trâu Diễn khởi xướng mạnh mẽ và đứng đầu học phái Âm dương
gia. Đa phần triết gia thuộc nước Tề chú trọng đến cái gọi là “thiên nhân chi
tế” (quan hệ giữa trời và người), đề xướng học thuyết Ngũ hành Âm dương.
Học thuyết Ngũ hành được đề cập trong nhiều học phái, kinh điển khác bắt
nguồn từ Kinh Thư, Tả truyện, Quốc ngữ đến các sách như Mạnh Tử (phái
“Nhân trị”), sách Lã thị xuân thu (phái Tạp gia), sách Hoàng đế nội kinh (phái
y học phương Đông).
Như vậy, tiến trình một giai đoạn dài từ Tây Chu, đến thời Xuân thu –
Chiến quốc, thời Tần, tư tưởng là phát triển từ năm vật chất cơ bản (kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ) của tư tưởng Ngũ hành họ đã phát triển bằng cách “quy làm
các thuộc tính vật chất” để quy về Ngũ hành ban đầu. Như vậy, từ giai đoạn
này tư tưởng Ngũ hành được biểu hiện ra tự nhiên rồi đến xã hội, cuối cùng là
con người. Ở con người, Ngũ hành được quy làm với ngũ tạng, lục phủ, ngũ
quan, ngũ tình… đóng góp bước đầu tư tưởng y học cổ truyền phương Đông
sau này trở thành lý luận y học cổ truyền phương Đông qua bộ Hoàng Đế Nội
kinh. Bởi vì bộ Hoàng Đế Nội kinh là do một loạt tác giả có trong nhân dân
Trung Quốc được kéo dài hình thành qua nhiều thời kỳ song song với sự hình
thành tư tưởng Ngũ hành. Thời kỳ này cũng đã xảy ra hàng loạt chiến tranh
tàn khốc đã dẫn đến người Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc, nhà Tần
đã dẫn đến nhận các hành, các hiện tượng xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính
chất của Ngũ hành đã xuất hiện tính tương khắc của các hành, các hiện tượng
35

xã hội, lịch sử theo sự quy loài tính chất của Ngũ hành (sách Mạnh Tử). Như
vậy, từ điều kiện kinh tế xã hội từ thời Xuân thu – Chiến quốc, thời nhà Tần,
học thuyết Ngũ hành đã dần hoàn thiện từ khám phá năm yếu tố vật chất ban
đầu, dần họ đã “quy loài theo tính chất” từ tự nhiên, xã hội, con người rất
phong phú và toàn diện, tiếp theo họ phát hiện quy luật tương khắc. Bao nhiêu
khám phá thực tiễn đó của người Trung Quốc, họ đã xây dựng học thuyết Ngũ
hành và sang đời Hán, với nhà tư tưởng Đổng Trọng Thư bổ sung và hoàn
thiện học thuyết Ngũ hành từ các dạng vật chất cơ bản đến các quy luật. Từ
điều kiện kinh tế - xã hội, người Trung Quốc cổ đại đã đóng góp một tư tưởng
duy vật tiến bộ ban đầu có giá trị khoa học cho việc giải thích mới về thế giới.
1.1.2. Nhu cầu tìm hiểu, giải thích thế giới của người Trung Quốc
cổ đại với sự hình thành học thuyết Ngũ hành
Khi con người xuất hiện trên trái đất này, từ ngàn xưa, thì con người
đã có nhu cầu tồn tại và phát triển. Muốn vậy họ cần phải hiểu, phải giải thích
được thế giới chung quanh. Con người Trung Quốc thời cổ đại cũng đã có
nhu cầu đó.
Cũng như một số nền triết học cổ đại khác, ngay từ thời nhà Hạ,
những mầm mống đầu tiên của triết học đã xuất hiện. Nhưng do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất còn cực kỳ thấp kém và do sự hạn chế về năng
lực nhận thức, đứng trước các thế lực của tự nhiên vô cùng mạnh mẽ luôn
luôn đe dọa tới đời sống con người như sấm sét, mưa bão, lụt lội, hạn hán,
dịch bệnh, thú dữ, v.v.. người Trung Quốc cổ đại đã giải thích chúng bằng
những biểu tượng và những quan niệm có tính chất hoang đường, thần bí. Các
bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy, ngay từ thời kỳ nguyên thủy, người
Trung Quốc cổ đại đã có quan niệm về sự bất tử của linh hồn, xuất hiện các
hiện tượng sùng bái, tôn thờ uy thế của những lực lượng tự nhiên, biểu tượng
cho ý chí, sức mạnh huyết thống của tổ tiên bộ lạc mình.
Bước sang giai đoạn tiếp theo, dưới các triều đại Ân Thương, Tây
Chu, thế giới quan thần thoại tôn giáo, duy tâm chủ nghĩa trở thành hình thái
36

ý thức chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Tư tưởng thờ
Trời (Thượng đế), đề cao vai trò của Thiên tử (vai trò của các bậc vua chúa
trong xã hội) đã thành ý thức thường trực và chi phối hành vi của rất nhiều
người trong xã hội.
Trải qua hành động thực tiễn lâu dài, những tri thức khoa học mà nhân
dân Trung Quốc lần lượt đạt được, bước sang thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc
đã góp phần thúc đẩy đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Hơn thế nữa,
nó đã góp phần phát triển trình độ nhận thức, làm cơ sở cho thế giới quan triết
học nảy nở và phát triển sau này.
Chính trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra
các vấn đề triết học, chính trị - xã hội, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,
ngoại giao… và đã kích thích trí tuệ con người, khiến các bậc danh sĩ đương
thời quan tâm lý giải để tìm ra phương pháp giải quyết “cứu đời, cứu người”
làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng và các học phái nổi tiếng. Sự phong
phú đa dạng, đan xen và có phần quyết liệt của các học phái triết học trong
thời Xuân thu - Chiến quốc, khiến người ta phải gọi đó là thời kỳ “Bách gia
chư tử” (trăm nhà nhiều thầy), có khi gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh,
bách hoa tề phóng” (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở).
Như vậy có thể nói, chính các điều kiện về lịch sử, kinh tế, chính trị,
xã hội đầy biến động và phức tạp của thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc đã làm
cho các tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại vốn bắt nguồn từ thần thoại
và tôn giáo thời cổ, đến thời kỳ này đã được hình thành bằng các hệ thống tri
thức lý luận chặt chẽ. Vì vậy, nó không chỉ giữ vai trò là cơ sở của thế giới
quan, nhân sinh quan mà còn là cơ sở để tạo ra phương pháp luận trong hoạt
động của người Trung Quốc thời cổ.
Chính trong bối cảnh đó, một trong những học thuyết triết học duy vật
Trung Quốc thời cổ đã hình thành và phát triển. Nó không chỉ để lại một dấu
ấn quan trọng trong sự phát triển của thời kỳ “Bách gia chư tử”, mà còn có
37

một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tư tưởng triết học duy vật
Trung Quốc mãi về sau, đó là thuyết Âm dương – Ngũ hành.
Học thuyết Âm dương – Ngũ hành đối lập với những quan điểm duy
tâm và tôn giáo, biểu hiện những tư tưởng duy vật chất phác và có tính chất
vô thần, tiến bộ, khẳng định vị trí và tác dụng hoạt động của con người trong
xã hội cũng như trong quan hệ với tự nhiên. Một số nhà tư tưởng đã giải thích
sự biến hóa của tự nhiên bằng sự hiểu biết về thiên văn và địa lý học. Bá Văn
Dương nhân vụ địa chấn năm 780 trước công nguyên đã cho rằng, thế lực
dương bị thế lực âm đè nén nên không thể lộ ra được tác dụng của nó nên sinh
ra động đất (theo Quốc ngữ). Quan sử Thúc Hưng lại quan niệm những hiện
tượng lạ lùng do tự nhiên sinh ra “là việc của Âm Dương”, không thể chi phối
được họa phúc vận mệnh của con người (theo Tả truyện).
Nổi bật trong tất cả các tư tưởng duy vật sơ khai thời đó là quan niệm
về sự tác động phối hợp của Ngũ hành, tức là năm yếu tố vật chất cơ bản đầu
tiên tạo thành vạn vật vũ trụ. Đó là các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
được thấy trong Kinh Thư, thiên Hồng phạm. Tư tưởng đó thể hiện rõ tính
chất duy vật chất phác và biện chứng tự phát trong tư duy người Trung Quốc
cổ đại, là Kinh Dịch.
Có thể nói học thuyết Ngũ hành là học thuyết triết học quan trọng
trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, phản ánh sự vận động biến hóa và
liên hệ lẫn nhau của các sự vật trong vũ trụ qua sự liên hệ, tương tác giữa các
hành chất tự nhiên cơ bản nhất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sự xuất hiện
của quan niệm Ngũ hành đánh dấu bước chuyển đầu tiên trong tư duy khoa
học của người Trung Quốc cổ đại nhằm thoát khỏi sự chi phối của thế giới
quan thần thoại và tôn giáo truyền thống ở Trung Quốc thời đó. Tư tưởng sâu
sắc của học thuyết Ngũ hành không những ảnh hưởng đến đời sống nhân dân
Trung Quốc cổ đại, mà còn ảnh hưởng đến quan điểm tư tưởng của hầu hết
các môn phái triết học sau này.
38

Như vậy, dưới các triều đại Thương Ân và Tây Chu, các tư tưởng triết
học Trung Quốc cổ đại đã được nảy sinh. Bên cạnh thế giới quan thần thoại,
tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí chiếm địa vị thống trị trong đời sống
tinh thần của con người, thì chính sự biến đổi của đời sống hiện thực, thực
tiễn sản xuất, cải tạo xã hội đã làm xuất hiện những quan điểm có tính chất
duy vật, chất phác. Đó là bước tiến quan trọng của người Trung Quốc cổ đại
trong quá trình lý giải thế giới xung quanh và sự nhận thức về mình. Tuy còn
hết sức thô sơ nhưng chủ nghĩa duy vật và vô thần hình thành trong thời kỳ
Thương Ân và Tây Chu thực sự là tư tưởng mở đường cho sự phát triển của
triết học Trung Quốc trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc sau này.
Phân tích về sự xuất hiện học thuyết Ngũ hành ta thấy, Cam thệ nói về
lịch sử đầu đời Hạ, còn Hồng phạm nói rằng Ngũ hành là cái mà Trời ban cho
Đại Vũ. Hai thiên Cam thệ và Hồng phạm cho thấy rằng học thuyết Ngũ hành
được nảy sinh đầu đời Hạ. Trước đây, nhiều người bác bỏ quan niệm học
thuyết Ngũ hành bắt nguồn từ đời Hạ (khoảng 2205 – 1776 tr.CN), vì họ cho
rằng đời Hạ chưa có kim loại. Chưa có kim loại thì chưa có cơ sở để tạo ra
khái niệm về hành Kim. Tuy nhiên, những khai quật khảo cổ tại di chỉ Nhị Lý
Đầu văn hóa (tương đương đời Hạ) và di chỉ Long Sơn văn hóa cho thấy đời
Hạ đã biết chế tạo những vật dụng bằng đồng. Điều này cho thấy người đời
Hạ đã biết luyện kim, mà Kim là một trong ngũ hành, do đó học thuyết Ngũ
hành bắt nguồn từ đời nhà Hạ cũng là hợp lý.
Yếu tố đầu tiên mà người Trung Quốc cổ đại biết đến là nước (Thủy),
vì sự sống nhờ nước, sau đó họ biết đến cây trái (Mộc), và ruộng đất (Thổ),
trồng trọt và đặc biệt tiếp theo là sự khám phá ra lửa (Hỏa) để họ sưởi ấm và
nấu chín thức ăn. Có thể thấy từ xa xưa bốn hành thủy, hỏa, mộc, thổ liên
quan mật thiết với đời sống con người. Sau cùng, việc phát hiện kim loại và
ứng dụng nó vào đời sống làm cho văn hóa nhân loại phát triển đáng kể.
Ngay từ đầu, học thuyết ngũ hành chỉ là năm yếu tố vật chất đơn thuần
giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt và lao động của con người. Rồi sau đó
39

tư tưởng triết học về Ngũ hành mới được nảy sinh. Học thuyết Ngũ hành xuất
phát từ thực tế cuộc sống từ thời nhà Hạ qua Cam thệ và Hồng phạm, theo
thời gian nó phát triển thành lý luận triết học với học phái Âm dương gia và
nhanh chóng có ảnh hưởng tới các học phái khác do tính thiết thực của nó, chi
phối rất nhiều lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội, con người.
Học thuyết Ngũ hành với những tư tưởng Kinh Dịch
Từ điều kiện kinh tế, xã hội chính trị của thời Trung Quốc cổ đại,
người dân có nhu cầu giải thích tự nhiên xã hội, học thuyết Ngũ hành cùng
với tư tưởng Kinh Dịch là cơ sở tư tưởng duy vật đầu tiên tuy còn thô sơ
nhưng đã đặt nền móng lý giải triết học khoa học cho con người. Phùng Hữu
Lan có nói về Kinh Dịch trong các góc độ như sau:
“Khổng Tử nói: Dịch bắt đầu từ Thái cực. Thái cực phân ra làm hai,
cho nên sinh ra trời đất. Trời đất có thời tiết xuân thu đông hạ, cho nên sinh ra
bốn mùa. Mỗi mùa đều có sự phân biệt Âm và Dương, cương và nhu, cho nên
sinh ra Bát quái. Bát quái được phân bố vị trí, thì đạo của trời đất thành lập,
và các biểu tượng sấm, gió, nước, lửa, núi, ao đầm được ấn định. Sự phân bố
của chúng là để áp dụng vào sự việc. Chấn sinh vạn vật ở hướng đông, vị trí ở
tháng 2. Tốn phân tán vạn vật ở hướng đông nam, vị trí ở tháng 4. Ly tăng
trưởng vạn vật ở hướng nam, vị trí ở tháng 5. Khôn nuôi dưỡng vạn vật ở
hướng tây nam, vị trí ở tháng 6. Đoài thu vạn vật ở hướng tây, vị trí ở tháng 8.
Càn chế tạo vạn vật ở hướng tây bắc, vị trí ở tháng 10. Khảm cất chứa vạn vật
ở hướng bắc, vị trí ở tháng 11. Cấn đánh dấu khởi thủy và chung cuộc của vạn
vật ở hướng đông bắc, vị trí ở tháng 12. Khí của Bát quái hết, thì bốn hướng
chính và bốn hướng phụ phân minh, đạo sinh-trưởng-thu-tàng hoàn bị, các thể
Âm Dương ổn định, đức của thần minh thông suốt, và vạn vật mỗi thứ hoàn
thành chủng loại của mình. Chúng đều được bao gồm trong Dịch. Đức của
Dịch lớn lắm thay” [52, tr.96]. Trong đoạn giải thích này lý giải sự xuất hiện
của Lưỡng nghi (sự phân hai của Thái cực), bốn mùa (tương ứng với Tứ
40

tượng), bốn mùa cộng với âm dương ra Bát quái (8 quẻ). Tất cả Lưỡng nghi,
Tứ tượng và Bát quái đều ở trong Dịch.
Ông còn nói rằng: “Thái cực phân ra rồi thì Lưỡng nghi thành lập.
Dương đi xuống giao với Âm, Âm đi lên giao với Dương, sinh ra Tứ tượng.
Dương giao với Âm, Âm giao với Dương, thì sinh ra Tứ tượng của trời.
Cương giao với nhu, nhu giao với cương, thì sinh ra Tứ tượng của đất. Từ đó,
Bát quái lập thành. Bát quái tác động qua lại, rồi sau đó sinh ra vạn vật. Cho
nên, một phân làm hai, hai phân làm bốn, bốn phân làm tám, tám phân làm
16, 16 phân làm 32, 32 phân làm 64” [52, tr.523].
Tổng hợp học thuyết Ngũ hành và Kinh Dịch, Chu Đôn Di đã trình
bày Thái cực đồ thuyết như sau: “Vô cực cũng là Thái cực. Thái cực động thì
sinh ra Dương; động tới cực điểm thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra Âm. Tĩnh tới cực
điểm thì trở lại động. Một động một tĩnh, làm căn bản cho nhau. Phân ra Âm
và Dương, thì lưỡng nghi thành lập. Dương biến Âm hợp, thì sinh ra: thủy
(nước), hỏa (lửa), mộc (gỗ), kim (kim loại), thổ (đất). Ngũ khí (năm khí của
ngũ hành) thuận hòa phân bố tạo ra sự vận hành của tứ thời (bốn mùa). Ngũ
hành hợp nhất là Âm Dương. Âm Dương hợp nhất là Thái cực. Thái cực có
gốc là Vô cực. Ngũ hành được sinh ra, mỗi hành có một tính. Cái chân của Vô
cực và cái tinh của Âm Dương ngũ hành, diệu hợp thì ngưng tụ. Càn đạo
thành nam, Khôn đạo thành nữ. Hai khí Âm Dương giao cảm, hóa sinh vạn
vật. Vạn vật sinh sôi biến hóa vô cùng” [52, tr.506].
Như vậy, cách giải thích thế giới mới thoát khỏi tư tưởng thần quyền
tôn giáo duy tâm là Kinh Dịch với các tư tưởng Vô cực hay Thái cực, lưỡng
nghi hay âm dương (trời đất), tứ tượng hay bốn mùa, bát quái làm ra 64 quẻ
hiệp cùng học thuyết Ngũ hành. Đó là hệ thống tư tưởng duy vật xuất phát từ
thời Trung Quốc cổ đại. Chu Hy đã giải thích: “Thái cực là tiêu chuẩn tối cao
của vạn vật trong trời đất”. Thái cực chính là sự tổng hòa của các Lý của vạn
vật trong trời đất, cho nên mọi Lý đều có đủ trong Thái cực. Chu Tử Ngữ
Loại chép:
41

“Thái cực, là Đạo thuộc hình nhi thượng. Âm Dương là Khí thuộc
hình nhi hạ. Do đó, từ phương diện hiển hiện mà xem nó, thì tuy động tĩnh
không đồng thời, Âm Dương không đồng vị, nhưng Thái cực thì chỗ nào cũng
có. Từ phương diện tế vi mà xem nó, thì tuy Thái cực trống không, thâm sâu,
vi tế, không hiển lộ”. [52, tr.601].
Chu Hy lại nói: “Thái cực chỉ là cái Lý của trời đất và vạn vật. Về trời
đất mà nói, thì trong trời đất vốn có Thái cực; về vạn vật mà nói, trong mỗi
loài mỗi thứ đều vốn có Thái cực”. “Khi chưa có trời đất thì đã có trước cái
Lý ấy rồi. Có Lý ấy rồi mới có trời đất; nếu không có Lý ấy, thì không có trời
đất, không có người, không có vật, đều không có gì cả. Có Lý ấy rồi, thì có
Khí lưu hành, sinh ra vạn vật” [52, tr.606].
Vậy Thái cực là cái đầu tiên, tối cao trong vạn vật và có sự hiện hữu
trong tất cả từ lưỡng nghi, tứ tượng, ngũ hành, bát quái và trong cả vạn vật.
Tiếp đến Lưỡng nghi, Lưỡng nghi là Âm dương, là trời đất. Kế tiếp là Tứ
tượng, Tứ tượng do âm dương giao thoa tạo ra thái âm, thiếu âm, thái dương,
thiếu dương thành tứ tượng. Tiếp tục tứ tượng đan chéo ra Bát quái. Tiếp tục
đan xen nữa ra 64 quẻ. Cuối cùng biến hóa ra vạn vật, vạn loài trong càn
khôn. Trong Kinh Dịch từ vạn tượng gom lại 64 quẻ, rồi Bát quái, tứ tượng,
tiêu biểu cho sự phân định là Âm Dương.
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỌC THUYẾT
NGŨ HÀNH
1.2.1. Sự hình thành của học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến
đời nhà Hán
Học thuyết Ngũ hành thời Tam đại (Hạ - Thương – Chu)
Cũng như học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành là yếu tố cơ
bản của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Năm 1923, Lương Khải Siêu viết bài
luận “Lai lịch của thuyết Âm dương Ngũ hành” (Âm dương Ngũ hành thuyết
chi lai lịch). Từ đó tới nay, nhiều học giả cũng thường xuyên nghiên cứu về
học thuyết này.
42

Học thuyết Ngũ hành nguyên thủy có từ bao giờ? Nội dung xưa nhất
của nó là gì? Hai câu hỏi này từ xưa tới nay chưa được giải đáp thỏa đáng để
dẫn tới một sự thống nhất được mọi người công nhận. Tư liệu tối cổ có ghi
chép về Ngũ hành có lẽ là sách Thượng thư (hay Kinh Thư), trong hai thiên:
Cam thệ và Hồng phạm.

Cam thệ - một thiên thuộc Hạ thư (sách đời Hạ) chép: “Vua nói: Hỡi
các ngươi coi sáu đạo quân, ta thề bảo các người. Họ Hữu Hỗ khinh thường
ngũ hành, trễ nải bỏ ba tháng chính đầu năm. Ý trời định tiêu diệt vận mệnh
của họ ấy” [78, tr.108].
Hồng phạm - một thiên thuộc Chu thư (sách đời Chu) chép rằng ngũ
hành là trù thứ nhất trong chín trù Hồng phạm mà Trời đã ban cho vua Vũ:
“Ông Cơ Tử nói rằng: Tôi nghe từ xưa ông Cổn làm ủng tắc đường nước lụt,
rối loạn cả ngũ hành. Thượng đế cả giận, không cho chín trù Hồng phạm, luân
thường vì thế phải đồi bại. Ông Cổn bị tử hình. Con ông Cổn là vua Vũ nổi
lên, Trời bèn cho vua Vũ chín trù Hồng phạm, luân thường vì thế mà bày ra
có thứ tự. Trù thứ nhất gọi là ngũ hành (…). Một là nước, hai là lửa, ba là các
thứ gỗ, bốn là các loài kim, năm là đất. Nói về tính thì nước thấm xuống dưới,
lửa bốc lên trên, gỗ có cong có thẳng, đồ kim khí tùy tay người thợ mà đổi
hình, đất để cấy lúa và gặt lúa. Nước thấm xuống dưới mà mặn. Lửa bốc lên
trên, vị đắng. Gỗ cong hay thẳng, vị chua. Đồ kim khí tùy tay người thợ mà
đổi hình, vị cay. Lúa cấy gặt, vị ngọt” [78, tr.221 - 224].
Như vậy, Cam thệ nói về lịch sử đầu đời Hạ, còn Hồng phạm nói rằng
Ngũ hành là cái mà Trời ban cho Đại Vũ. Hai thiên Cam thệ và Hồng phạm
cho thấy rằng tư tưởng ngũ hành nảy sinh đầu đời Hạ. Người cổ đại biết dùi
cây (mộc) lấy lửa (hỏa), cày cấy, trồng trọt trên ruộng đồng (thổ), dùng nước
(thủy) trong sinh hoạt và lao động. Có thể thấy từ xa xưa, thủy, hỏa, mộc, thổ
liên quan mật thiết với đời sống con người. Việc xuất hiện kim thuộc và lợi
dụng nó khiến đời sống và văn hóa nhân loại phát triển đáng kể.
43

Ngay từ đầu, ngũ hành chỉ là năm loại vật chất đơn thuần giữ vai trò
quan trọng trong sinh hoạt và lao động của con người. Rồi sau đó tư tưởng
triết học về Ngũ hành mới nảy sinh. Thí dụ, phân tích tính chất của năm hành:
tính chất của nước (thủy) là thấm xuống chỗ thấp, tính chất của lửa (hỏa) là
nóng và bốc lên cao, tính chất của gỗ (mộc) là cong hoặc thẳng, tính chất của
kim là mềm khi gặp nhiệt độ cao nên vật dụng kim loại có hình dáng tùy theo
bàn tay người thợ, tính chất của đất (thổ) là giúp thảo mộc sinh trưởng nên
người ta trồng trọt và cày cấy trên ruộng đồng. Hoặc có thể phân tích tính chất
ngũ hành theo năm vị, như thiên Hồng phạm đã nói. Tuy chúng ta không biết
đích xác tư tưởng triết học về Ngũ hành bắt đầu vào thời gian nào, nhưng
chắc chắn nó phải trải qua một quá trình phát triển lý luận khá dài. Từ thời
của ông Cơ Tử (mà thiên Hồng phạm đề cập) tới nay, ước chừng ba ngàn
năm. Do đó, có thể nói rằng tư tưởng triết học về Ngũ hành có lịch sử khoảng
ba ngàn năm.
Về lai lịch của học thuyết Ngũ hành, nhiều học giả Trung Quốc hiện
đại đã đưa ra rất nhiều suy đoán. Một số nhà nghiên cứu như Phạm Văn Lan
(Dữ Cố Hiệt Cương luận Ngũ hành thuyết đích khởi nguyên), Sầm Trọng
Miễn (Ngũ hành khởi tự hà thời), Kim Cảnh Phương (Tây Chu tại triết học
thượng đích lưỡng đại cống hiền), v.v.. cho rằng Ngũ hành có liên quan tới
năm ngón tay mà người xưa dùng để đếm. Một số nhà nghiên cứu như Quách
Mạt Nhược (Trung Quốc cổ đại xã hội nghiên cứu), Hồ Hậu Tuyên (Luận ngũ
phương quan niệm cập Trung Quốc xưng vị chi khởi nguyên), Bảng Phác (Âm
Dương ngũ hành thám nguyên), v.v.. cho rằng Ngũ hành có liên quan tới năm
hướng (trung ương, đông, tây, nam, bắc) mà người xưa quan sát để dự đoán
mưa gió có ảnh hưởng đến nông nghiệp. Có nhà nghiên cứu như Cố Hiệt
Cương (Thượng thư cam thệ hiệu thích dịch luận) cho rằng, việc người xưa
quan sát đường đi của các hành tinh và căn cứ quy luật của năm hành tinh đã
dẫn tới học thuyết Ngũ hành. Nhà nghiên cứu Lý Đức Vĩnh (Ngũ hành thám
nguyên) cho rằng Đại Vũ khi trị thủy đã căn cứ quy luật của đất, nước, lửa,
44

gỗ, kim loại mà dẹp yên thủy tai, do đó Ngũ hành bắt nguồn từ việc trị thủy.
Tuy các thuyết này giải thích khác nhau về nguồn gốc của học thuyết Ngũ
hành, nhưng lịch sử đã chứng minh học thuyết Ngũ hành đã tồn tại ba thiên
niên kỷ.
Như vậy, hai chữ Ngũ hành trong lịch sử Trung Quốc cổ đại lần đầu
tiên được ghi chép trong Thượng thư (hay Kinh Thư). Trong Thượng thư trình
bày hai phần: phần 1 giới thiệu Thượng thư; phần 2 trình bày xuất xứ hai chữ
Ngũ hành đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc cổ đại là trong Thượng thư ở hai
thiên Cam thệ và Hồng phạm.
Về thể tài của Kinh Thư, căn cứ vào nội dung của nó, Khổng An Quốc
đời Hán chia Kinh Thư ra làm sáu loại là: điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh.
Điển có nghĩa như hiến pháp, mô là kế hoạch thi hành, huấn là lời khích lệ
hoặc khuyên răn, cáo là lời ban bố hiểu dụ, thệ là lời thề ước, mệnh là lệnh sai
khiến. Đời Đường, Khổng Dĩnh Đạt thêm vào bốn thể tài nữa là: cống, ca,
chinh, phạm. Cống là bài nói về việc dâng đồ cống, ca là bài hát, chinh là lời
tuyên bố đi đánh giặc, dẹp loạn, phạm là khuôn phép cách thức trị nước, chăn
dân.
Trong thời Tần Thủy Hoàng đế, chấp thuận lời tâu của Tể tướng Lý
Tư rằng: “Các sách sử không phải chép về nhà Tần thì đốt đi. Không phải là
việc quan bác sĩ mà thiên hạ có người dám cất Thi, Thư và sách bách gia thì
phải đem đến nộp tại quan thú, quan úy để đốt đi. Ai dám nói chuyện cùng
nhau về Thi, Thư thì bắt bỏ chợ. Ai dám khen việc đời xưa mà chê việc đời
nay thì giết cả họ. Quan lại biết mà không cáo giác thì cũng xử đồng tội…
Những sách không bị bỏ là sách thuốc, sách bói và sách trồng trọt” (Sử ký,
Tần Thủy Hoàng bản kỷ). Tần Thủy Hoàng đế đã thực hiện chính sách “phần
thư khanh nho”, quan bác sĩ Phục Sinh giấu được một bản Kinh Thư trong
vách nhà. Đến đời Hán khi lệnh cấm lưu giữ sách Thi, Thư và chư tử bãi bỏ,
Phục Sinh tìm lại chỗ giấu cũ, trải qua cơn binh lửa sách chỉ còn lại 29 thiên.
Vua Văn Đế cho mời Phục Sinh vào triều giảng học, nhưng lúc ấy Phục Sinh
45

đã già không đi được, vua bèn sai Triều Thố đến thụ nghiệp. Triều Thố dùng
chữ lệ đời Hán chép Kinh Thư do Phục Sinh truyền thụ, và bản đó gọi là kim
văn Thượng Thư.
Đó là bước khởi đầu xuất hiện hai chữ Ngũ hành. Nội dung học thuyết
Ngũ hành được bồi đắp phát triển thêm tiếp theo vào thời Xuân thu.
* Học thuyết Ngũ hành thời Xuân thu – Chiến quốc
A. Thời Xuân thu
Thời Xuân thu (770 – 476 tr.CN), học thuyết Ngũ hành được kế thừa
và phát triển, có thể khái quát như sau:
Một là, Ngũ hành chỉ là năm loại vật chất thiết yếu trong sinh hoạt và
lao động của con người, như Hồng phạm đã viết. Quan điểm này được lập lại
trong Tả truyện (Tương Công năm 27, tức năm 546 tr.CN) qua lời của Tử
Hãn nước Tống: “Trời sinh năm thứ chất liệu, dân đều dùng chúng, không thể
bỏ một thứ nào trong đó” (Thiên sinh ngũ tài, dân tịnh dụng chi, phế nhất bất
khả). Từ “ngũ tài” ở đây ám chỉ ngũ hành. [40, tr.1001]
Đồng thời, học thuyết Ngũ hành còn được phát triển thêm. Tả truyện
(Văn Công năm 7, tức năm 620 tr.CN) chép: “Thủy, hỏa, kim, mộc, thổ, cốc
gọi là sáu phủ; chính đức (chỉnh đốn đạo đức dân chúng), lợi dụng (làm cho
việc sử dụng có lợi), hậu sinh (làm cho cuộc sống dân chúng sung túc) gọi là
ba việc”. Cốc (các loại hạt lương thực) thuộc mộc, như vậy sáu phủ (lục phủ)
cũng chính là ngũ hành [50, tr.410]. Điểm cần chú ý ở đây là thứ tự của ngũ
hành khác với thứ tự mà Hồng phạm đã nói (Thủy, hỏa, mộc, kim, thổ). Thứ
tự ở Tả Truyện là: Thủy, hỏa, kim, mộc, thổ. Thứ tự này cho thấy sự tương
khắc giữa ngũ hành: Thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc
thổ, thổ khắc thủy.
Trường hợp khác, trong Tả truyện (Ai Công năm 9, tức năm 486
tr.CN), Triệu Ương nước Tấn xem bói về việc cứu nước Trịnh, Sử Mặc xem
quẻ bói đáp: “Thủy thắng hỏa, nên có thể đánh nước Khương” [50, tr.1526].
46

Vào thời Xuân thu, người ta đã chú ý tính chất của Ngũ hành và đưa
ra học thuyết Ngũ hành tương khắc hay Ngũ hành tương thắng. Người dân
thời Xuân thu ắt phải trải qua một thời gian dài quan sát mới phát hiện tính
tương khắc của Ngũ hành. Chẳng hạn, họ đã kinh nghiệm rằng: nước dập tắt
lửa, lửa nấu chảy kim loại, vật kim loại (dao, búa) có thể chặt đốn cây cối, cây
nhọn có thể xoi đất và làm tơi đất, đất có thể dùng để đắp đập be bờ ngăn
nước, v.v.. Rồi dần dần sau đó họ mới hình thành thuyết ngũ hành tương
khắc.
Hai là, có học thuyết Ngũ hành tương khắc rồi, tất nhiên có học thuyết
Ngũ hành tương sinh. Nói chung, về thời đại của thuyết tương sinh, phần
đông học giả đều căn cứ thiên Thập nhị kỷ của sách Lã thị xuân thu và thiên
Nguyệt lệnh của sách Lễ ký, tức là cuối thời Chiến Quốc (475 - 221 tr.CN).
Tuy nhiên, có lẽ học thuyết Tương sinh đã nảy sinh cùng thời với học thuyết
Tương khắc (tức thời Xuân thu), rồi trải qua một thời gian học thuyết Tương
sinh mới trở nên hoàn bị vào cuối thời Chiến Quốc. Về sau, sách Xuân Thu
phồn lộ (Ngũ hành tương sinh) của Đổng Trọng Thư đời Hán giải thích sự
tương sinh và tương khắc (tương thắng): “Khí của trời đất hợp nhau làm một,
phân làm Âm dương, chia ra bốn mùa, bày ra làm ngũ hành. Hành là đi.
Chúng đi không giống nhau, nên gọi là ngũ hành. Ngũ hành là ngũ quan (năm
chức quan), so sánh thì sinh ra nhau và gián cách thì thắng nhau”. [49, tr.21].
Ba là, vào thời Xuân thu, ngũ hành được kết hợp thiên văn và lịch phổ
để giải thích ảnh hưởng qua lại giữa thiên đạo và nhân sự (tức là “thiên nhân
chi tế”). Trong Tả truyện, có vài đoạn cho thấy sự kết hợp ngũ hành với thiên
văn và lịch phổ.
Chiêu Công năm thứ 8 (tức năm 534 tr.CN): “Sở diệt Trần. Tấn hầu
hỏi Sử Triệu rằng: “Trần sẽ mất chăng?” Sử Triệu đáp: “Chưa mất (…) Trần
là dòng dõi Chuyên Húc. Khi tuế tinh (tức Jupiter) đến chòm sao Thuần Hỏa
thì (đời Chuyên Húc) bị diệt. Trần sẽ như thế. Nay (tuế tinh) ở chòm sao Tích
Thủy, bên sông Ngân Hà, nước Trần sẽ khôi phục” [49, tr.72].
47

Chiêu Công năm thứ 9 (tức năm 533 tr.CN): “Tháng 4, mùa hè, nước
Trần có một hỏa tai. Tỳ Táo của nước Trịnh nói: “Năm năm nữa, nước Trần
sẽ tái lập. Rồi sau 52 năm tái lập, Trần sẽ bị diệt vong (…). Trần thuộc hành
thủy. Hỏa khắc thủy, mà Sở thuộc hành hỏa. Nay hành hỏa xuất hiện, [thể
hiện qua] vụ cháy ở nước Trần, đuổi nước Sở và tái lập nước Trần. Các hành
phối thành số 5, nên ta nói 5 năm nữa Trần sẽ tái lập. Tuế tinh phải 5 lần đến
chòm sao Thuần Hỏa, sau đó Trần sẽ bị diệt vong. Sở khắc Trần nên chiếm
được Trần. Đó là đạo Trời. Vì thế ta nói (Trần bị diệt) sau 52 năm” [49, tr.72-
73].
Chiêu Công năm thứ 10 (tức năm 532 tr.CN): “Mùa xuân, tháng giêng
theo lịch nhà Chu, có ngôi sao lạ xuất hiện ở chòm Vụ Nữ. Tỳ Táo nước
Trịnh nói với Tử Sản rằng: “Tháng 7, ngày Mậu Tý, vua nước Tấn sẽ chết”
[49, tr.73].
Chiêu Công năm thứ 15 (tức năm 527 tr.CN): “Mùa xuân, lễ cúng tổ
tiên của vua sắp tổ chức tại miếu Vũ Công. Vua ra lệnh bá quan trai giới. Tử
Thận nói: “Ngày cúng tế này e có tai họa xảy ra. Ta thấy một quầng sáng màu
đen và đỏ, nó không phải là điềm lành cho buổi cúng tế, mà là khí của tang
ma. Nó sẽ xảy ra cho quan lo về cúng tế chăng?” [49, tr.73].
Chiêu Công năm thứ 17 (tức năm 525 tr.CN): “Mùa Đông, sao chổi
quét qua chòm sao Đại Thần (tức Đại Hỏa Tinh), đến phía tây sông Hán (tức
dãy Ngân Hà). Thân Tu nói: “Sao chổi vốn quét cái cũ mà phân bổ cái mới,
sự việc phát sinh trên trời thường tượng trưng cho điềm lành hoặc dữ. Nay
sao chổi quét sạch hỏa (tức Đại Thần), khi hỏa tái xuất hiện thì nhất định sẽ
phát ra tai ương. Các nước chư hầu ắt bị hỏa tai chăng?” Tử Thận nói:
“…Nếu hỏa tai phát sinh, e rằng bốn nước phải gánh chịu… [Hỏa tai sẽ xảy
ra] ở bốn nước Tống, Vệ, Trần, Trịnh chăng?... [Hỏa tai sẽ xảy ra] vào ngày
Bính Tý hoặc ngày Nhâm Ngọ chăng?...” Tỳ Táo ở nước Trịnh nói với Tử
Sản rằng: “… Nếu ta dùng các tế khí như quán giả và ngọc toản để cúng thần
thì nước Trịnh sẽ không bị hỏa tai” [49, tr.74].
48

Chiêu Công năm thứ 18 (tức năm 524 tr.CN): “Mùa xuân, tháng 2
theo lịch nhà Chu, ngày Ất Mão, quan đại phu Mao Đắc của nhà Chu giết
quan đại phu Mao Bá Quát để thế chỗ. Trường Hoằng nói: “Mao Đắc ắt sẽ
chết, vì đó là ngày mà Côn Ngô gây ác quá nhiều” (Côn Ngô quá xa xỉ độc ác,
nên cùng bị chết với vua Kiệt vào ngày Ất Mão) [49, tr.74].
Chiêu Công năm thứ 32 (tức năm 510 tr.CN): “Mùa hè, nước Ngô
đánh nước Việt… Sử Mặc nói: “Không tới 40 năm nữa, Việt chiếm lại Ngô
chăng? Nay Việt bị tuế tinh chiếu mà Ngô đánh phạt, ắt Việt bị tai ương” [49,
tr.74].
Những trích dẫn trên đây cho thấy Sử Triệu, Tỳ Táo, Tử Thận, Thân
Tu, Trường Hoằng, Sử Mặc đều lấy những hiện tượng thiên nhiên và “đạo
trời” (Thiên chi đạo) để tiên đoán việc con người (nhân sự). Họ kết hợp thiên
văn với lịch phổ và ngũ hành để giải thích sự ảnh hưởng qua lại giữa thiên
đạo và nhân sự từ sự liên quan giữa trời và người.
Bốn là, sự phối hợp giữa ngũ hành, tứ phương, tứ thời, ngũ âm, 12
tháng, 12 luật, thiên can, địa chi và các con số để tạo thành một hệ thống vũ
trụ. Âm Dương lưu hành trong hệ thống đó, khiến cho hệ thống hoạt động và
biến hóa mà sinh ra vạn vật. Những phối hợp như vậy đã có trong thuật số cổ
đại. Mặc Tử chép: “Tử Mặc Tử đi hướng Bắc đến nước Tề, gặp một thầy bói.
Thầy bói nói: “Hôm nay Đế giết rồng đen ở hướng bắc, mà tiên sinh có nước
da đen, nên không thể đi hướng bắc”. (…) Tử Mặc Tử đáp: “Người miền nam
không được đi bắc, người miền bắc không được đi nam. Nước da có màu đen,
nước da có màu trắng, tại sao lại không đi được? Hơn nữa, Đế lấy ngày Ất để
giết rồng xanh ở hướng đông, lấy ngày Bính Đinh để giết rồng đỏ ở hướng
nam, lấy ngày Canh Tân để giết rồng trắng ở hướng tây, lấy ngày Nhâm Quý
để giết rồng đen ở hướng Bắc, lấy ngày Mậu Kỷ để giết rồng vàng ở trung
ương. Nếu nghe lời của ông, tức là cấm thiên hạ đi đây đi đó rồi”. Ở đây thiên
can phối hợp ngũ sắc và tứ phương: Giáp Ất phối hợp màu xanh và hướng
đông, Bính Đinh phối hợp màu đỏ và hướng nam; Canh Tân phối hợp màu
49

trắng và hướng tây; Nhâm Quý phối hợp màu đen và hướng bắc; Mậu Kỷ
phối hợp màu vàng và trung ương. Sự phối hợp này trong thuật số không nhất
thiết có ý nghĩa về hệ thống vũ trụ. Nhưng về sau Âm Dương gia đã căn cứ sự
phối hợp này mà lập thuyết” [49, tr.13].
B. Thời Chiến quốc
Học thuyết Ngũ hành tiếp tục phát triển ở thời Chiến quốc (475 – 221
tr.CN) có thể khái quát như sau:
 Thứ nhất, tuy sách Trung dung của Tử Tư và sách Mạnh Tử
không hề đề cập Ngũ hành, nhưng sách Tuân tử (thiên Phi thập nhi tử) phê
bình Tử Tư và Mạnh Tử đã gán cho ngũ hành những ý nghĩa đạo đức “[Họ]
dựa theo thời xưa để lập thuyết, gọi nó là ngũ hành” (Ấn vãng cựu tạo thuyết,
ví chi ngũ hành). Lời lẽ của Âm Dương gia mới trộn lẫn vào học thuyết của
Mạnh Tử cho nên Tuân Tử mới nói như thế” [49, tr.12]. Các học giả sau này
căn cứ vào đó cho rằng, Ngũ hành cũng là một nội dung của học phái Tử Tư
và Mạnh Tử. Ngũ hành biến thành năm đức hạnh, gọi là ngũ thường: nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Ngũ hành và ngũ thường được gán ghép: “mộc-nhân, kim-
nghĩa, hỏa-lễ, thủy-trí, thổ-tín” [49, tr.88]. Riêng sách Mạnh Tử đã nói về
nghĩa sự tuần hoàn trùng hợp với học thuyết Ngũ hành như sau: “Nhân dân
Trung Quốc, trong quá trình sống, tồn tại trong xã hội gặp nhiều tai họa từ
thiên nhiên, sự hiểm ác của môi trường, chịu ách chiến họa… trong quá trình
chung sống với nghịch cảnh đó… con người đã nhận thấy dường như các hiện
tượng xã hội đều lặp đi lặp lại theo một tuần hoàn họ gọi là quy luật Ngũ
hành. Ví dụ như về vấn đề chính trị xã hội, ông Mạnh Tử thấy xuất hiện một
thời gian nhất định thì có một vị vua hay một bậc Thánh nhân ra đời để trị thế,
ông đã viết trong sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công, Chương hạ.
Trong quan điểm về sự biến hóa của lịch sử xã hội theo quy luật “nhất
trị, nhất loạn”, mang tính chất tuần hoàn của ông. Ông đã tìm cách gắn tính chất
(…) cho học thuyết Ngũ hành khi giải thích sự biến đổi của lịch sử. Ông khẳng
định rằng cứ năm trăm năm, theo chu kỳ vận chuyển tuần hoàn của Ngũ hành,
50

nhất định sẽ xuất hiện một đấng vương giả hiền đức để trị vì thiên hạ [13,
tr.221].
Mạnh Tử viết: “Từ khi trời sinh ra loài người đến nay đã lâu rồi. Cứ
một thời trị lại một thời loạn - Thiên hạ chi sinh cửu hĩ, nhất trị nhất loạn…”
[13, tr.221].
Vua Nghiêu, vua Thuấn thác đi rồi, đạo trị quốc của hai bậc Thánh
nhân ấy càng ngày càng suy. Những vị bạo chúa nối nhau lên mà ngất ngưởng
trên ngai vàng. Họ phá cung tường, nhà cửa của bá tánh để làm ao, xây hồ,
dân chúng chẳng có nơi để nương thân. Họ bỏ ruộng đất của bá tánh mà làm
thành vườn thảo mộc, bách thú, khiến dân chúng thiếu ăn, thiếu mặc. Lại
thêm những học thuyết tà vạy, những hành vi hung bạo nổi lên. Những vườn
thảo mộc, vườn bách thú cùng những ao hồ càng nhiều thì giống cầm thú quy
tụ càng đông. Cho đến đời vua Trụ, thiên hạ loạn đến cực điểm.
Lúc bấy giờ, vua Vũ Vương có em là Chu Công giúp sức hưng thịnh
đánh vua Trụ nhà Thương, làm cho vua Trụ phải tự thiêu mà chết. Ngài lại
chinh phạt vua nước Yên vì vua này ủng hộ vua Trụ. Ngài đuổi kẻ sủng ái của
vua Trụ là Phi Liêm ra tận góc biển và giết đi. Có năm chục vị vua các nước
chư hầu theo nhà Thương mà chống nhà Chu. Vũ Vương đều tiêu diệt tất cả.
Những đàn thú như cọp beo, tê giác, voi mà vua Trụ dung dưỡng, thì ngài thả
và đuổi đi xa. Thiên hạ đều lấy làm hân hoan vô hạn. Đó lại là một thời trị.
Kế đó, đời càng ngày càng suy, đạo càng bữa càng yếu, lại thêm
những học thuyết tà vạy, những hành vi hung bạo nổi lên. Nhân đó, có những
kẻ bề tôi giết vua, có những kẻ làm con giết cha. Đó lại là một thời loạn.
Đứng trước tình hình suy đồi và loạn nghịch ấy, Khổng Tử lấy làm lo
ngại, mới làm ra Kinh Xuân thu, chép các hành vi của những vị thiên tử, trong đó
Khổng Tử khen những việc thiện, chê những việc ác và dạy phép chính trị cho
các thiên tử. Bởi vậy, Khổng Tử có nói rằng: “Những người biết ta và trọng ta,
họa chăng là bởi Kinh Xuân thu mà thôi. Những kẻ chê ta và trách ta, họa chăng
tại Kinh Xuân thu mà thôi. Mãi cho đến nay, chẳng có bậc Thánh nhân ra đời mà
51

đem lại sự trị an trong thiên hạ, các vua chư hầu thì buông tuồng, chẳng theo lễ
nghĩa, hàng trí thức chẳng ra làm quan thì mạnh ai nấy bàn ngang luận càn.”
(Mạnh Tử, Đằng Văn Công hạ).
 Thứ hai, các môn trong thuật cổ đại như thiên văn, lịch phổ, ngũ
hành đều chú trọng quan hệ giữa trời và người, cho rằng giữa thiên đạo và
nhân sự có ảnh hưởng lẫn nhau. Đến thời Chiến quốc, người ta lại suy diễn và
lý luận hóa cái tư tưởng đó thành một vũ trụ quan xuyên suốt. Họ còn tưởng
tượng thêm mà suy đoán cõi thiên nhiên và cõi nhân sự. Đời Hán gọi họ là
Âm dương gia. Phái này cuối thời Chiến Quốc có thủ lĩnh là Trâu Diễn. Sử ký
của Tư Mã Thiên có chép: “Nước Tề có ba nhà gọi là Trâu Tử. Trước tiên là
Trâu Kỵ, đánh đàn cầm mà can gián Uy Vương (357 - 320 tr.CN), nhân đó
được dự vào chính sự, được phong làm Thành Hầu, và nhận ấn Tướng quốc.
Ông sống trước Mạnh Tử. Người kế là Trâu Diễn, sinh sau Mạnh Tử, vào thế
kỷ III tr.CN, là nhân vật trọng yếu của các nhà Âm dương Ngũ hành, là người
nước Tề, ở vùng giữa tỉnh Sơn Đông bây giờ. Trâu Diễn thấy vua chúa ngày
càng dâm dật xa xỉ, không trọng đức như Đại nhã [trong Kinh Thi] dạy để tu
chỉnh bản thân rồi ban bố đức ấy đến dân. Ông xem kỹ hiện tượng tiêu diệt và
sinh trưởng của Âm Dương rồi viết khoảng mười vạn chữ về những biến đổi
lạ lùng ấy trong thiên Đại thánh. Lời lẽ rất rộng khác thường. Trước thì
nghiệm ở vật nhỏ, sau suy diễn ở vật lớn, cho đến vô hạn. Trước thì thuật đời
nay, rồi tuần tự ngược lên tới thời Hoàng Đế, gồm những điều mà các học giả
đã nói. Ông còn theo sự thịnh suy của thời thế, chép cả những điều lành điềm
dữ và các chế độ. Ông suy rộng ra đến lúc trời đất chưa sinh, đến lúc mờ mịt
không thể khảo cứu đến cùng được. Trước tiên ông kể các danh sơn, sông lớn,
hang hố, cầm thú, các sản vật quý do thủy thổ sinh ra ở Trung Quốc; nhân đó
suy ra đến cái ở ngoài biển mà người ta chưa từng thấy. Ông nói từ lúc trời
đất mới tách rời cho đến nay, năm đức (tức ngũ hành) đổi dời, việc chính trị
tùy thời mà khác nhưng đều phù hợp với sự đổi dời ấy. Ông cho rằng cái mà
Nho gia gọi là Trung Quốc chỉ là một trong 81 phần của thiên hạ, Trung Quốc
52

có tên là Xích Huyện Thần Châu. Trong Xích Huyện Thần Châu vốn có Cửu
Châu, tức là 9 châu mà vua Vũ đã đặt ra [sau 9 năm trị thủy]. Nhưng chúng
không được tính vào số châu thực sự. Ngoài Trung Quốc còn có các châu
tương tự như Xích Huyện Thần Châu, cả thảy có 9 châu (kể cả Trung Quốc),
chúng mới gọi là 9 châu thực sự. Mỗi châu có biển nhỏ bao bọc, nên dân
chúng và cầm thú chẳng thể qua lại từ châu này sang châu kia. Chín châu là
một khu, và tạo thành một châu lớn. Có 9 châu lớn như thế, xung quanh có
biển lớn bao bọc, đó là chỗ trời đất giáp nhau. Thuật của Trâu Diễn đại loại
như thế, nhưng tóm lại là cốt ở nhân, nghĩa, tiết kiệm, thi hành lễ vua tôi, tôn
ti trên dưới, lục thân (tức là cha, mẹ, anh, em, vợ, con). Đó mới chỉ là khởi
đầu học thuyết của ông thôi. Các vương công và đại nhân thoạt thấy thuật đó,
bèn kinh sợ và muốn thay đổi theo, nhưng rồi sau cũng không làm được.
Chính bởi thế mà Trâu Diễn được trọng ở Tề; sang nước Lương, Lương Huệ
Vương (370 - 319 tr.CN) ra ngoài thành mà đón, dùng lễ chủ khách mà đãi;
sang nước Triệu, Bình Nguyên Quân đi men theo vệ đường [chứ không dám
đi giữa đường], tự quét chiếu ngồi cho ông ta; sang nước Yên, Yên Chiêu
Vương (311 - 279 tr.CN) cầm chổi quét đất dẫn đường, và xin ngồi vào hàng
đệ tử của ông ta để nghe dạy; vua xây cung điện bằng đá cho Trâu Diễn tại
Hạt Thạch rồi tự mình sang bái sư. Trâu Diễn có làm sách Chủ Vận (nay đã
thất lạc). Khi ông chu du chư hầu thì đều được trọng vọng như thế (…).
Người thứ ba là Trâu Thích, ông là một trong các học giả họ Trâu ở
nước Tề. Ông đã chọn lọc những điều trong học thuật của Trâu Diễn để chép
thành văn (…) Học thuyết của Trâu Diễn vu khoát, mênh mang, nói suông;
Trâu Thích có tài văn học nhưng ý tưởng của ông khó thi hành (…). Cho nên
người Tề truyền tụng rằng: “Trâu Diễn nói chuyện trên trời; Trâu Thích văn
chương trau chuốt”.
Về cái gọi là “năm đức đổi dời, việc chính trị tùy thời mà khác nhưng
đều phù hợp với sự đổi dời ấy”. Lã thị xuân thu chép: “Phàm đến lên vô số kể”.
53

Sử ký nói Trâu Diễn đi sang nước Yên, được tôn trọng vô cùng, bởi vì
thuyết Âm Dương Ngũ hành từ nước Tề truyền sang nước Yên. Từ đó về sau
bọn giỏi chuyện quái dị nổi lên vô số kể và bầu không khí Âm Dương Ngũ
hành lan tỏa khắp đời Tần và đời Hán.
Các nhà Âm dương Ngũ hành vốn gốc ở những nhà thuật số. Những
thuật số gia này ngày xưa được biết đến dưới tên “phương sĩ”. Trong phần
“Nghệ văn chi” (quyển 30) của sách Tiền Hán thư, được lập theo bộ Thất lược
của Lưu Hâm, những ngành thuật số ấy được gom vào 6 loại [49, tr.68].
Sáu ngành thuật số
Ngành thứ nhất là thiên văn. “Thiên văn” theo “Hán thư Nghệ văn
chí”, là “sắp thứ tự hai mươi tám sao, ghi chép sự vận chuyển của năm hành
tinh, của mặt trời mặt trăng để ghi những biến tượng lành dữ”.
Ngành thứ hai là lịch phổ. “Lịch phổ” là cách “xếp đặt vị trí bốn
mùa, chia đúng các tiết, hiểu giờ của mặt trời, mặt trăng, của năm hành tinh,
để khảo sát lạnh nóng, sống chết… Nhờ luật này, điều lo về tai ách, điều vui
vẻ tốt lành đều biết được rõ ràng”.
Ngành thứ ba là về Ngũ hành. “Phép đó, theo “Nghệ văn chí”, cũng
bắt đầu từ sự vận chuyển của ngũ đức (năm nguyên tố); suy cho cùng cực thì
không có gì là không thấu”.
Ngành thứ tư là bói bằng cỏ thi (thi bốc), và bằng mai rùa (mai bốc),
xương bò (ngưu bốc). Đó là những phép bói chính ở Trung Quốc xưa.
Ngành thứ năm là ngành Tạp chiêm.
Ngành thứ sáu là Hình pháp. Ngành sau này gồm ngành xem tướng và
ngành mà về sau người ta gọi là “phong thủy”. Phong thủy được căn cứ vào
khái niệm con người là sản vật của vũ trụ. Do đó, nhà cửa hay mồ mả phải
được bài trí theo cách nào cho hợp với những lực thiên nhiên, nghĩa là với gió
nước. Tóm lại, nội dung của Trâu Diễn và các nhà Âm dương gia tuy có xuất
hiện nhưng qua tài liệu khác như Sử ký của Tư Mã Thiên mà nguồn gốc chính
thức chưa rõ ràng.
54

Sử ký của Tư Mã Thiên chép: “[Trâu Diễn] nói từ lúc trời đất tách rời
cho đến nay, năm đức (tức ngũ hành) đổi dời, việc chính trị tùy thời mà khác
nhưng đều phù hợp với sự đổi dời ấy” [49, tr.227]. Như thế, Trâu Diễn phát
triển học thuyết Ngũ hành vào lĩnh vực chính trị.
Lý Thiện (mất năm 689 tr.CN) chú giải Thất Lược rằng: “Trong chu
kỳ ngũ đức của Trâu Diễn, đức này theo sau cái đức mà nó không thắng được.
Như mộc tiếp theo thổ, kim tiếp theo mộc, hỏa tiếp theo kim, thủy tiếp theo
hỏa” [49, tr.227]. Lý Thiện lại trích dẫn sách Trâu Tử (hiện không còn) rằng:
“Trong ngũ đức, đức này theo sau cái đức mà nó không thắng được. Đức của
nhà Ngu là thổ, đức của nhà Hạ là mộc. Đức của nhà Ân là kim. Đức của nhà
Chu là hỏa” [49, tr.227].
Học thuyết này lấy ngũ hành làm năm yếu tố thiên nhiên, gọi là ngũ
đức. Mỗi yếu tố này có lúc thịnh lúc suy. Khi nó thịnh thì thiên đạo và nhân
sự đều bị nó chi phối. Khi nó suy, thì cái yếu tố khắc nó sẽ thịnh lên. Mộc
khắc thổ, kim khắc mộc, hỏa khắc kim, thủy khắc hỏa, thổ khắc thủy. Sự tuần
hoàn này liên tục không ngừng, nên mới nói “từ lúc trời đất mới tách rời cho
đến nay, năm đức (tức ngũ hành) đổi dời, việc chính trị tùy thời mà khác
nhưng đều phù hợp với sự đổi dời ấy” [49, tr.227]. Các biến chuyển của lịch
sử con người đều là sự biểu hiện của các thế lực thiên nhiên đó. Mỗi triều đại
được đại biểu bằng một đức, màu sắc y phục và các chế độ của triều đại ấy
đều bị đức đó chi phối. Theo quan điểm này thì thiên đạo và nhân sự hợp làm
một và lịch sử chỉ là “hài kịch thần linh” (divine comedy). Các triết học về
lịch sử của người đời Hán đều dựa trên quan điểm này” [49, tr.227].
Đến thời Chiến quốc, các nhà triết học đã phát triển học thuyết Ngũ
hành thành một hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Đặc biệt, họ đã vận dụng học
thuyết Ngũ hành vào giải thích các hiện tượng lịch sử, xã hội, làm cho học
thuyết đó càng có những ý nghĩa quan trọng. Tư tưởng của học thuyết Ngũ
hành trong những thời kỳ sau này được trình bày chủ yếu thiên Nguyệt lệnh
55

trong các sách Lễ ký, Lã thị xuân thu và được Trâu Diễn (thế kỷ III tr.CN)
một Âm Dương gia nổi tiếng thời đó phát triển.
Lễ là tiêu chuẩn căn bản nhất để phân biệt con người với các loài
khác. Thiên Lễ vận nói: “Lễ nghĩa là đầu mối lớn của loài người”, không có
phân biệt lễ nghĩa là đạo cầm thú vậy” (Giao đặc sinh). Lễ còn có vai trò
trong việc quy định trật tự xã hội, tu dưỡng phẩm chất đạo đức con người.
Thiên Ai Cống vấn viết: “Dân sinh ra, lễ là lớn nhất, không có lễ thì không có
gì để làm lễ tiết thờ trời đất, không có lễ thì không có gì để phân biệt vị trí vua
tôi, trên dưới, lớn nhỏ. Không có lễ thì không có gì để phân biệt trai gái, cha
con, anh em”. Lễ ký cho rằng “làm chính trị, lễ là trước tiên, trong chính trị lễ
là cơ bản”coi cái căn bản của “lễ trị” là trị người theo trật tự lễ nghĩa, đạo
đức, pháp luật của xã hội mà giai cấp thống trị phải nắm chắc. Cho nên, Lễ ký
còn biểu dương những quan điểm về thiên mệnh, đạo trung dung, nhân tính
luận mà những phái phản động qua các thời đại ra sức lợi dụng.
Tiếp theo Thượng Thư, Lễ ký, học thuyết Ngũ hành được phát triển
trong Lã thị Xuân thu, một pho sách cổ đặc sắc của thời Tiền Tần Trung
Quốc.
Theo Sử ký, thiên Lã Bất Vi truyện thì Lã thị xuân thu ra đời là do Lã
Bất Vi khi làm Thừa tướng nước Tần “nghĩ rằng mạnh như nước Tần mà kém
cạnh người thì hổ thẹn”, “Ngụy có Tín Lăng Quân, Sở có Xuân Thân Quân,
Triệu có Bình Nguyên Quân, Tề có Mạnh Thường Quân, đều chiêu hiền đãi
sĩ, thết nuôi tân khách, bèn “cũng chiêu vời kẻ sĩ, đãi ngộ rất hậu, thực khách
có đến ba ngàn người”. Mà “thời bấy giờ chư hầu có nhiều biện sĩ, như bọn
Tuân Khanh, viết sách công bố trong thiên hạ”. Lã Bất Vi bèn sai các thực
khách của mình viết ra những đều nghe biết, tập hợp lại làm thành “Bát lãm”
và “Lục luận”, “Thập nhị kỉ” cộng hơn hai mươi vạn chữ, coi là có đủ “thiên
địa vạn vật cổ kim chi sự”, đặt tên là Lã thị xuân thu, và “đặt ở cổng chợ Hàm
Dương, treo ngàn lạng vàng trên đó, mời du sĩ tân khách chư hầu ai thêm bớt
được một chữ thì thưởng ngàn lạng vàng”.
56

Thực khách của họ Lã có đến ba ngàn người, dĩ nhiên không chung


một trường phái học thuật, biên soạn một bộ sách khổng lồ như vậy, ta có thể
hình dung công việc cực kì khó khăn phức tạp, và nội dung đa dạng, không
nhất quán là điều dễ hiểu. Ngay Hán thư Nghệ văn chí đã coi đó là tác phẩm
tiêu biểu của “tạp gia”, đánh giá rằng về học thuật, sách ấy “kiêm Nho Mặc,
hợp Danh Pháp” (gồm cả Nho lẫn Mặc gia, ghép cả Danh gia với Pháp gia).
Đối với Lã thị xuân thu, có những học giả đã vì họ Lã xuất thân con
buôn mà coi thường. Tuy nhiên, không thể không thừa nhận rằng hơn hai
mươi vạn chữ của sách ấy “chứa đủ mọi việc của trời đất vạn vật cổ kim”.
Sách chia ra thập nhị kỉ, bát lãm và lục luận. Thập nhị kỉ sắp xếp theo mười
hai tháng bốn mùa, mỗi kỉ có một thiên kỉ thủ (thiên đầu của kỉ) và bốn tử
thiên (thiên con) là năm thiên, cộng là sáu mươi thiên. Sau kỉ có một thiên Tự
ý, là lời tựa của kỉ. Bát lãm mỗi lãm có tám luận án, lấy thiên đầu làm tên lãm,
riêng Hữu thủy lãm thiếu một thiên, cộng sáu mươi ba thiên. Trọn bộ sách có
một trăm sáu mươi thiên.
Học thuyết Ngũ hành trong thiên Nguyệt lệnh. Kế tiếp sau thiên Hồng
phạm, tài liệu quan trọng nhất của Âm dương gia là thiên Nguyệt lệnh. Thiên
này trước tiên được tìm thấy trong tác phẩm Lã thị xuân thu xuất hiện vào
cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên. Về sau sách ấy được đưa vào sách Lễ
ký.
Cách cấu tạo vũ trụ trong thiên này được diễn tả bằng từ ngữ của Âm
Dương gia. Điều đáng chú ý hơn ở đây là cách cấu tạo này có tính chất vũ trụ,
nghĩa là liên quan tới thời gian và không gian.
Người Trung Quốc cổ đại ở về phía Bắc bán cầu, tất phải xem phương
Nam là phương của sức nóng và phương Bắc là phương của khí lạnh. Vì lý do
ấy, Âm Dương gia đưa ra sự tương quan giữa 4 mùa và 4 phương. Mùa hè có
tương quan với phương Nam, mùa đông có tương quan với phương Bắc, mùa
xuân có tương quan với phương Đông (vì mặt trời mọc ở phương Đông), mùa
thu có tương quan với phương Tây (vì mặt trời lặn ở phương Tây). Phái này
57

cũng coi sự thay đổi của ngày đêm như biểu thị sự thay đổi của 4 mùa trong
năm, trong một tỉ lệ chu kỳ nhỏ hơn. Cho nên, buổi sáng tượng trưng cho mùa
xuân, buổi trưa tượng trưng cho mùa hè, buổi chiều tượng trưng cho mùa thu
và buổi tối tượng trưng cho mùa đông.
Phương Nam và mùa hè thì nóng, vì phương Nam và mùa hè là lúc mà
hành Hỏa mạnh hơn cả. Phương Bắc và mùa đông thì lạnh, vì phương Bắc và
mùa đông là lúc mà hành Thủy mạnh hơn cả. Cũng vậy, Mộc là hành mạnh ở
phương Đông và mùa xuân bởi vì mùa xuân là mùa mà cây cỏ bắt đầu mọc,
và vì phương Đông có liên quan tới mùa xuân. Kim là hành mạnh ở phương
Tây và mùa thu, bởi vì kim khí được xem như là cứng và thô, vì mùa thu là
mùa gió, hết mùa của cây cỏ, và vì phương Tây có liên quan tới mùa thu.
Như vậy, bốn trong năm hành đã được cắt nghĩa; chỉ còn hành Thổ là
chưa có vị trí và mùa. Tuy nhiên, theo Nguyệt lệnh: Thổ là hành chính của
học thuyết Ngũ hành. Vì vậy, nó được đặt ở vị trí trung tâm của bốn mùa. Lúc
mà Thổ mạnh là vào một khoảng ngắn chen giữa các mùa gọi là Trưởng hạ.
Do lý thuyết vũ trụ ấy, Âm Dương gia đã cố giải thích những hiện
tượng tự nhiên bằng những từ ngữ vừa thời gian vừa không gian, và còn chủ
trương rằng những hiện tượng ấy còn liên quan tới sự thay đổi tâm tính cũng
như bệnh tật ở con người.
Thứ ba, học thuyết Âm Dương Ngũ hành phát triển và có ảnh hưởng
sâu rộng khắp đời Tần Hán, thể hiện trong các tác phẩm Lễ ký, Lã thị xuân
thu, Hoài Nam tử, và đặc biệt là Xuân thu phồn lộ của Đổng Trọng Thư.
Nguyệt lệnh trong Lã thị xuân thu và Lễ ký cùng với thiên Thời tắc
huấn trong Hoài Nam Tử đã lấy Ngũ hành phối hợp bốn mùa: xuân-mộc, hạ-
hỏa, thu-kim, đông-thủy; còn thổ thì không có sự phối hợp. Tuy nhiên, Nguyệt
lệnh thì nói trung ương là thổ. Còn Hoài Nam Tử thì phối hợp quý hạ với thổ.
Lấy bốn mùa và ngũ hành phối hợp với bốn hướng thì: xuân - mộc ở
hướng đông, hạ - hỏa ớ hướng nam, thu - kim ở hướng tây, đông - thủy ở
hướng bắc, và thổ ở trung ương.
58

Lấy bốn mùa và ngũ hành phối hợp với ngũ sắc thì: xuân - mộc với
xanh, hạ - hỏa với đỏ, thu - kim với trắng, đông - thủy với đen, và trung ương
– thổ với vàng.
Lấy thiên can phối hợp với chúng thì: xuân - mộc phối Giáp Ất, hạ -
hỏa phối Bính Đinh, thổ - trung ương phối Mậu Kỷ, thu - kim phối Canh Tân,
đông -thủy phối Nhâm Quý.
Lấy ngũ âm và 12 luật phối hợp với chúng thì: xuân - mộc với giốc, hạ
- hỏa với chủy, trung ương và thổ với cung, thu - kim với thương, đông - thủy
với vũ; mạnh xuân với thái thốc, trọng xuân với giáp chung, quý xuân với cô
tẩy; mạnh hạ với trung lữ, trọng hạ với nhuy tân, quý hạ với lâm chung; mạnh
thu với di tắc, trọng thu với nam lữ, quý thu với vô xã; mạnh đông với ứng
chung, trọng đông với hoàng chung, quý đông với đại lữ.
Lấy các con số phối hợp với chúng thì: xuân - mộc với 8, hạ - hỏa với
7, thu - kim với 9, đông - thủy với 6, và trung ương với 5.

HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH BIỂU HIỆN RA TỰ NHIÊN

5 hành 4 mùa 4 hướng 5 màu Thiên can 5 âm Số

Mộc Xuân Đông Xanh Giáp Ất Giốc 8

Hỏa Hạ Nam Đỏ Bính Đinh Chủy 7

Kim Thu Tây Trắng Canh Tân Thương 9

Thủy Đông Bắc Đen Nhâm Quý Vũ 6

Thổ - Trung Vàng Mậu Kỷ Cung 5


ương

XUÂN HẠ THU ĐÔNG

Mạnh Trọng Quý Mạnh Trọng hạ Quý hạ Mạnh thu Trọng thu Quý Mạnh Trọng Quý
xuân xuân xuân hạ thu đông đông đông

Thái thốc Giáp Cô tẩy Trung Nhuy tân Lâm chung Di tắc Nam lữ Vô xạ Ưng Hoàng Đại
chung lữ chung chung lữ

[49, tr.13-15]
59

Học thuyết Âm dương Ngũ hành cũng phát triển và có ảnh hưởng sâu
rộng khắp đời Hán, sách Hán Thư (Ngũ hành chí) chép: “Ngày xưa khi đạo
nhà Ân Thương mất thì Văn Vương diễn nghĩa Chu Dịch; khi đạo nhà Chu
suy thì Khổng Tử viết Xuân thu. Ngài noi theo Âm Dương của trời đất, dựa
theo cửu trưng (điềm gỡ) trong Hồng phạm, và như thế đạo trời và đạo người
trở nên sáng rỡ. Đời Hán nổi lên, nối tiếp sau khi đời Tần tiêu diệt học vấn;
trong hai đời vua Hán là Cảnh Đế và Vũ Đế, Đổng Trọng Thư chuyên nghiên
cứu Công Dương xuân thu, đầu tiên suy diễn lý Âm Dương, làm tông chỉ của
Nho gia” [49, tr.18].
* Thời Hán
Là thủ lĩnh của Nho gia đời Hán, Đổng Trọng Thư giảng giải rõ về
học thuyết Âm Dương Ngũ hành trong tác phẩm Xuân thu phồn lộ.
Xuân thu phồn lộ là trước tác chủ yếu của Đổng Trọng Thư, tổng cộng
có 17 quyển. Tác phẩm đã tiếp thu và phát triển học thuyết Thiên mệnh của
Khổng Mạnh và đề cao lý luận “Thiên nhân cảm ứng” cho rằng, tất cả vạn
vật, kể cả con người trên thế gian đều được trời sắp đặt một cách có mục đích,
không thể chống lại được, vì đó là ý chí của Trời. Xuân thu phồn lộ đã đưa ra
vũ trụ quan siêu hình “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến”, cho rằng địa chủ
quý tộc bóc lột nông dân, nông dân bị giai cấp bóc lột đều là tuân theo “đạo
trời”. Trên cơ sở đó, khi nghiên cứu về bản tính của con người, Đổng Trọng
Thư đã chia nhân tính thành ba đẳng cấp: thượng, trung, hạ trong thuyết “Tính
tam phẩm” có tính chất duy tâm của ông, tạo cơ sở lý luận cho sự thống trị
của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nhân dân lao động. Đặc biệt tư tưởng
“tam cương ngũ thường” mà Đổng Trọng Thư đề xuất trong tác phẩm là lý
luận đạo đức khắt khe nhằm trói buộc nhân dân lao động trong trật tự thể chế
của xã hội phong kiến. Học thuyết Ngũ hành cũng đã được Đổng Trọng Thư
nhắc lại và bàn thêm trong tác phẩm Xuân thu phồn lộ. Khi nói về Âm
Dương, ông cho rằng:
60

“Khí của trời đất, hợp thì là một, chia ra thì là âm và dương, tách ra
làm bốn mùa, bày xếp thành ngũ hành. “Hành” có nghĩa là vận hành. Vì sự
vận hành (của mỗi khí) không giống nhau nên mới gọi tên là Ngũ hành. Ngũ
hành là ngũ quan. Nó là “Tỉ” thành tương sinh. “Giám” thành tương thắng
(khắc) vậy.”
Đặc biệt, cách bày xếp của Đổng Trọng Thư khác với cách bày xếp cũ
trước đây. Ngũ hành theo thứ tự cũ như đã đề cập ở Hồng phạm trước đây là:
thủy, hỏa, mộc, kim, thổ.
Đổng Trọng Thư lại cho thứ tự tự nhiên của Ngũ hành là: Mộc, Hỏa,
Thổ, Kim, Thủy. Mộc là hành đầu tiên của ngũ hành. Thủy là hành cuối của
ngũ hành. Thổ là hành giữa của ngũ hành.
Theo ông, Ngũ hành lại có tương sinh (hành nọ sinh hành kia) và
tương khắc (hành nọ khắc hành kia) nữa. Ngoài ra, mỗi hành lại có một
phương vị nhất định, trong không gian, thời gian, mỗi hành làm chủ cái khí
của một mùa.
Về Ngũ hành tương sinh, trong sách Xuân thu phồn lộ, Đổng Trọng
Thư cho rằng: “Mộc sinh ra Hỏa, Hỏa sinh ra Thổ, Thổ sinh ra Kim, Kim sinh
ra Thủy, Thủy sinh ta Mộc… Mộc ở phía trái, Kim ở phía phải, Hỏa ở phía
trước, Thủy ở phía sau, Thổ ở chính giữa… Mộc ở phương Đông mà làm chủ
khí Xuân, Hỏa ở phương Nam mà làm chủ khí Hạ, Kim ở phương Tây mà
làm chủ khí Thu, Thủy ở phương Bắc mà làm chủ khí Đông. Cho nên Mộc
chủ sinh mà kim chủ sát, Hỏa chủ nóng mà Thủy chủ lạnh… Thổ ở chính
giữa, gọi là Thiên nhuận. Thổ là tay chân của trời, đức của Thổ tươi tốt,
không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ
được. Cho nên, có Ngũ hành mà lại chí có tứ thời, là vì Thổ kiêm cả tứ thời
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có một chức năng nhưng không nhờ nơi
Thổ thì Kim, Mộc, Thủy, Hỏa không đứng vững (không làm xong việc) khác
nào chua, mặn, cay, đắng mà không nhân có ngọt thì không thành vị được.
Chu Hi dựa theo Thái cực đồ thuyết của Liêm Khê đã nói về Âm dương và
61

Ngũ hành như sau: [52, tr.608] “Một động một tĩnh, tương tác làm gốc của
nhau, động rồi tĩnh, tĩnh rồi động, mở đóng qua lại, không ngưng nghỉ. Phân
ra Âm và Dương, lập thành lưỡng nghi. Lưỡng nghi là trời đất, ý nghĩa của nó
khác với ý nghĩa của lưỡng nghi trong quẻ Dịch […] Khi trời đất ở trạng thái
hỗn độn chưa phân, hai khí Âm dương hỗn hợp và u ám. Khi [trời đất đã]
phân ra rồi, ở chính giữa nó phóng ra sự sáng rỡ rộng khắp, và lưỡng nghi bắt
đầu thành lập.
Sự biến đổi của Dương và sự hợp lại của Âm sinh ra thủy, hỏa, mộc,
kim, thổ. Khí Âm dương là chất liệu sinh ra ngũ hành; trong các vật được sinh
ra trong trời đất, thì ngũ hành sinh ra đầu tiên. Đất tức là thổ, thổ thì bao hàm
nhiều loại kim và mộc. Giữa cõi trời đất, có việc gì mà không có ngũ hành?
Ngũ hành và Âm dương, bảy thứ này hỗn hợp, thì sinh ra chất liệu cho vạn
vật. Ngũ hành phân bố xuôi thuận, bốn mùa vận hành. Kim, mộc, thủy, hỏa
phân ra thuộc xuân, hạ, thu, đông. Thổ thì làm hưng vượng bốn mùa” [52,
tr.608].
Như vậy, Ngọt là gốc của Ngũ vị, Thổ là chủ của Ngũ hành. Chủ của
khí Ngũ hành là khí Thổ, cũng như Ngũ vị mà có được vị ngọt béo thì mới
thành” [49, tr.21].
Cũng trong Xuân thu phồn lộ (Ngũ hành chi nghĩa) lại một lần nữa tác
giả nhấn mạnh: “Trời có Ngũ hành: 1 - mộc, 2 - hỏa, 3 - thổ, 4 - kim, 5 - thủy.
Mộc ở đầu của Ngũ hành. Thủy ở cuối của Ngũ hành. Thổ ở giữa của Ngũ
hành. Đó là thứ tự theo trời của Ngũ hành. Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ
sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, đó là quan hệ cha con của chúng.
Mộc ở trái, kim ở phải, hỏa ở trước, thủy ở sau, thổ ở trung ương, đó là thứ tự
cha con nhận lĩnh nhau mà phân bố. Ngũ hành theo nhau, mỗi hành theo đúng
thứ tự của nó; quan chức của ngũ hành là mỗi hành thực hiện hết chức năng
của nó. Cho nên mộc ở hướng đông và chủ khí về mùa xuân; hỏa ở hướng
nam phương và chủ về khí mùa hạ; kim ở hướng tây và chủ khí về mùa thu;
thủy ở hướng bắc và chủ khí về mùa đông. Cho nên, mộc chủ về sinh, còn
62

kim chủ về sát, hỏa chủ về nóng, còn thủy chủ về lạnh. Thổ ở trung ương, gọi
là “thiên nhuận”. Thổ là cánh tay (trợ giúp) của trời. Đức của thổ tốt đẹp dồi
dào, và thổ không thể làm công việc của một mùa nào cả. Cho nên, trong ngũ
hành và tứ thời thì thổ bao gồm cả: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có
chức năng riêng, nhưng không có thổ, thì chúng không đứng được. Cũng như
chua, mặn, cay, đắng, nếu không có ngọt béo thì không thể thành vị. Ngọt là
gốc của ngũ vị; thổ là chủ của ngũ hành. Chủ của ngũ hành là khí thổ, giống
như ngũ vị phải có ngọt béo, không có nó thì không thành” [49, tr.21].
Về Ngũ hành tương thắng (tương khắc), sách Xuân thu phồn lộ cho
rằng: “Kim thắng mộc,… thủy thắng hỏa,… mộc thắng thổ,… hỏa thắng
kim,… thổ thắng thủy” [49, tr.21].
Thứ tự của Ngũ hành là: 1-mộc, 2-hỏa, 3-thổ, 4-kim, 5-thủy. Theo thứ
tự ấy thì tương sinh: mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy
[thủy sinh mộc]. Tức là hành 1 sinh hành 2, hành 2 sinh hành 3, hành 3 sinh
hành 4, hành 4 sinh hành 5. Đó gọi là “so sánh thì sinh ra nhau” (tỉ tương
sinh). Kim thắng mộc (bỏ qua thủy); mộc thắng thổ (bỏ qua hỏa); thổ thắng
thủy (bỏ qua kim), thủy thắng hỏa (bỏ qua mộc); hỏa thắng kim (bỏ qua thổ).
Đó gọi là “gián cách thì thắng nhau” (gián tương thắng) [49, tr.22].
Mỗi hành mộc, hỏa, kim, thủy, làm chủ một khí của bốn mùa, còn thổ
ở trung tâm là để trợ giúp. Bởi vì khí của bốn mùa có thịnh và suy, cho nên có
sự tuần hoàn và biến hóa của bốn mùa. Sở dĩ khí của bốn mùa có thịnh và suy
là do tác động của Âm Dương. Xuân thu phồn lộ (thiên Đạo vô nhị) chép:
“Đạo thường của trời là vật tương phản và hai thứ tương phản thì không cùng
lúc nổi lên, cho nên [đạo trời] gọi là Một. Một tức là không hai, đó là sự vận
hành của trời. Âm và Dương là hai vật tương phản, cho nên trong chúng hễ
cái này xuất thì cái kia nhập, hễ cái này bên trái thì cái kia bên phải. Mùa
xuân thì cả hai đều đi về hướng nam, mùa thu thì cả hai đều đi về bắc. Mùa hạ
thì cả hai gặp nhau ở phía trước, mùa đông thì cả hai đều đi về bắc. Mùa hạ
thì cả hai gặp nhau ở phía trước, mùa đông thì cả hai gặp nhau ở phía sau.
63

Cùng đi nhưng khác đường, gặp nhau nhưng mỗi cái đại biểu cho một lý
riêng. Đó là văn vẻ [mẫu mực] của chúng”. [49, tr.23].
Xuân thu phồn lộ (thiên Biện tại nhân) chép: “kim, mộc, thủy, hỏa,
mỗi hành ấy đều tuân theo chủ của mình, để theo Âm Dương và cùng hợp lực
với chúng mà thực hiện công việc chung. Kỳ thực, chẳng riêng có Âm Dương
mà thôi. Âm Dương nhân chúng (tức 4 hành ấy) để trợ giúp chủ của chúng.
Cho nên thiếu dương nhân mộc mà trợ giúp với sự sinh ra [của vạn vật] trong
mùa xuân. Thái dương nhân hỏa mà trợ giúp với sự nuôi dưỡng [của vạn vật]
trong mùa hạ. Thiếu âm nhân kim mà trợ giúp với sự thành tựu [của vạn vật]
trong mùa thu. Thái âm nhân thủy mà trợ giúp với sự ẩn tàng [của vạn vật]
trong mùa đông” [49, tr.25].
Học thuyết Ngũ hành với những tư tưởng Kinh Dịch liên quan: Vô
cực, Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái, 64 quái
Từ điều kiện kinh tế, xã hội chính trị của thời Trung Quốc cổ đại,
người dân có nhu cầu giải thích những hiện tượng của tự nhiên và xã hội, tư
tưởng Ngũ hành cùng với tư tưởng Kinh Dịch là cơ sở tư tưởng duy vật đầu
tiên tuy còn thô sơ nhưng đã đặt nền móng lý giải triết học khoa học cho con
người có nhận thức thế giới tiến bộ hơn. Phùng Hữu Lan có nói Kinh Dịch
trong các từ như sau:
“Khổng Tử nói: Dịch bắt đầu từ Thái cực. Thái cực phân ra làm hai,
cho nên sinh ra trời đất. Trời đất có thời tiết xuân thu đông hạ, cho nên sinh ra
bốn mùa. Mỗi mùa đều có sự phân biệt Âm và Dương, cương và nhu, cho nên
sinh ra Bát quái. Bát quái được phân bố vị trí, thì đạo của trời đất thành lập,
và các biểu tượng sấm, gió, nước, lửa, núi, ao đầm được ấn định. Sự phân bố
của chúng là để áp dụng vào sự việc. Chấn sinh vạn vật ở hướng đông, vị trí ở
tháng 2. Tốn phân tán vạn vật ở hướng đông nam, vị trí ở tháng 4. Ly tăng
trưởng vạn vật ở hướng nam, vị trí ở tháng 5. Khôn nuôi dưỡng vạn vật ở
hướng tây nam, vị trí ở tháng 6. Đoài thu vạn vật ở hướng tây, vị trí ở tháng 8.
Càn chế tạo vạn vật ở hướng tây bắc, vị trí ở tháng 10. Khảm cất chứa vạn vật
64

ở hướng bắc, vị trí ở tháng 11. Cấn đánh dấu khởi thủy và chung cuộc của vạn
vật ở hướng đông bắc, vị trí ở tháng 12. Khí của Bát quái hết, thì bốn hướng
chính và bốn hướng phụ phân minh, đạo sinh-trưởng-thu-tàng hoàn bị, các thể
Âm Dương ổn định, đức của thần minh thông suốt, và vạn vật mỗi thứ hoàn
thành chủng loại của mình. Chúng đều được bao gồm trong Dịch. Đức của
Dịch lớn lắm thay” [52, tr.96]. Trong đoạn giải thích này lý giải sự xuất hiện
của Lưỡng nghi (sự phân hai của Thái cực), bốn mùa (tương ứng với tứ
tượng), bốn mùa cộng với âm dương ra bát quái (8 quẻ). Tất cả lưỡng nghi, tứ
tượng và Bát quái đều ở trong Dịch.
Tiếp theo Khổng Tử thời Xuân thu đã nói hoàn thiện mang tính hệ
thống triết học và mãi về sau Thiệu Ung, Chu Hy cũng tiếp tục phát huy.
Thiệu Ung trong thiên Quan vật sách Hoàng Cực kinh thế cũng nói đến Thái
cực rằng “Đạo là Thái cực” (Đạo vi Thái cực).
Tổng hợp các tư tưởng Ngũ hành và Kinh Dịch, Chu Đôn Di đã trình
bày Thái cực đồ thuyết như sau: “Vô cực cũng là Thái cực. Thái cực động thì
sinh ra Dương; động tới cực điểm thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra Âm. Tĩnh tới cực
điểm thì trở lại động. Một động một tĩnh, làm căn bản cho nhau. Phân ra Âm
và Dương, thì lưỡng nghi thành lập. Dương biến Âm hợp, thì sinh ra: thủy
(nước), hỏa (lửa), mộc (gỗ), kim (kim loại), thổ (đất). Ngũ khí (năm khí của
ngũ hành) thuận hòa phân bố tạo ra sự vận hành của tứ thời (bốn mùa). Ngũ
hành hợp nhất là Âm dương. Âm dương hợp nhất là Thái cực. Thái cực có
gốc là Vô cực. Ngũ hành được sinh ra, mỗi hành có một tính. Cái chân của Vô
cực và cái tinh của Âm dương ngũ hành, diệu hợp thì ngưng tụ. Càn đạo
thành nam, Khôn đạo thành nữ. Hai khí Âm dương giao cảm, hóa sinh vạn
vật. Vạn vật sinh sôi biến hóa vô cùng” [52, tr.506].
Như vậy, cách giải thích thế giới mới đã thoát khỏi tư tưởng thần
quyền tôn giáo duy tâm là Kinh Dịch với các tư tưởng Vô cực hay Thái cực,
lưỡng nghi hay âm dương (trời đất), tứ tượng hay bốn mùa, bát quái làm ra 64
65

quẻ hiệp cùng tư tưởng ngũ hành. Đó là hệ thống tư tưởng duy vật xuất phát
từ thời Trung Quốc cổ đại.

1.2.2. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành thời Hậu Hán
Quan điểm về thế giới quan của nhà triết học Trung Quốc, tác giả Hà
Mai Nho trong 101 vấn đề triết học Trung Quốc, (Nxb. Văn hóa Bắc Kinh,
2008) [73] đã viết: “xuất phát từ đặc điểm của triết học Trung Quốc, triết học
Trung Quốc luôn là sự thống nhất trong đa dạng – Sự thống nhất thể hiện ở
các học thuyết mỗi người từ bức Hà đồ của Phục Hy đến (Chu Dịch). Đó là
thế giới quan của triết học và từ đó đưa thành muôn ngã. Đó là tính đặc thù
triết học mang “tinh thần Trung Quốc”.
Tiếp theo tinh thần triết học Trung Quốc được cụ thể hơn bởi hai ông
Ôn Hải Minh (Ôn Hải Minh, Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Văn hóa Bắc
Kinh, 2010) [65], giai đoạn triết học Trung Quốc thời Hậu Hán như sau: “Từ
thời Hậu Hán, các học thuyết triết học cổ đại được tổng hợp thành Dịch lý”
(Trong đó có sự tổng hợp của ngũ hành, âm dương, bát quái), hệ thống triết
học đầu tiên của Trung Quốc. Từ Dịch học mà nảy sinh xuất hiện thuyết Bát
quái, không tồn tại trong đời sống tinh thần triết học Trung Quốc như những
học thuyết độc lập nửa, chúng trở thành những yếu tố cơ bản tạo thành cấu
hình thế giới quan Trung Quốc”. Vì thế quan điểm và sự hiện diện của Ngũ
hành không mất đi, nó vẫn tồn tại và thể hiện trong những lĩnh vực cụ thể của
đời sống xã hội Trung Quốc: y học, sấm vĩ học, mệnh lý học (bói toán), nhân
tướng học, dự đoán dịch học.
Một học giả Trung Quốc khác là Ông La Hào (La Hào, Sự khác nhau
giữa triết học Trung Quốc và triết học phương Tây, Nxb. Tư tưởng Bắc Kinh,
2009) [35] lại khẳng định về việc không biến mất của các thành tố trong cấu
hình thế giới quan Trung Quốc. Ông viết: “gọi là cấu hình thế giới quan triết
học Trung Quốc, chứ không phải là hệ thống thế giới quan triết học như của
phương Đông, vì thế giới quan triết học Trung Quốc luôn thay đổi cấu trúc,
66

thiết chế bởi sự vận động của các thành tố trong cấu trúc và thiết chế đó.
Chẳng hạn thuyết Ngũ hành, một thành tố trong cấu hình thế giới quan triết
học Trung Quốc, luôn động, lúc ẩn, lúc hiện – nó dường như có, dường như
không trong vai trò của nó đối với thế giới quan Trung Quốc và chưa bao giờ
kể cả hiện nay nó biến mất trong cấu hình đó”.
Có thể nói, ở thời hậu Hán, học thuyết Ngũ hành phát triển gắn liền
với sấm vĩ học, Nhân tướng học, Y học, Mệnh lý học, Lý học…
Sấm vĩ học
Sấm và vĩ là hai loại khác nhau, sấm là ẩn ngữ lạ lùng trá ngụy nhằm
dự đoán việc cát hung, nói trước sự việc xảy ra về sau. Vĩ là giải thích Kinh
Dịch, là nhánh của kinh nhưng dần dần Vĩ thư biên soạn thần bí hóa với lời lẽ
yên vong trở nên giống sấm ở chỗ hoang đường [52, tr.85-88]. Các Kinh học
gia đời Tây Hán lấy lời nói của Âm dương gia để giải thích kinh điển Nho
gia. Kinh Dịch càng dễ tiếp nhận cách giải thích theo quan điểm của Âm
dương gia. Cái gọi là Dịch vĩ đã theo phương hướng này mà giải thích Kinh
Dịch. Kể từ nửa sau đời Tây Hán có Vĩ thư xuất hiện. Chữ vĩ (nghĩa gốc là
đường chỉ ngang của tấm vải) được dùng để đối ứng với chữ kinh (nghĩa gốc
là đường chỉ dọc của tấm vải). Ngoài Vĩ thư còn có Sấm thư. Tùy Thư kinh
tịch chí nói: “Cũng có kẻ bảo rằng: Khổng Tử đã biên soạn Lịch Kinh để nói
rõ đạo của trời và người rồi, nhưng biết đời sau không thể hiểu được ý nghĩa
của chúng, nên lập riêng Vĩ thư và sấm thư để lưu lại đời sau.
Vĩ và Sấm thường được gọi chung là sấm vĩ. Kỳ thực chúng là hai loại
khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu nói: “Phần lớn Nho gia gọi
chung là sấm vĩ, kỳ thực sấm là sấm, mà vĩ là vĩ, chẳng phải một loại. Sấm là
ẩn ngữ lạ lùng trá ngụy nhằm dự đoán việc cát hung; Sử ký (Tần Bản Kỷ) nói
Lư Sinh tâu lên vua những lời lẽ của Lục đồ, việc này đánh dấu sự khởi đầu
của sấm. Vĩ là một chi nhánh của Kinh, nhằm diễn giải ý nghĩa phụ. Sử ký
(Tự Tự) trích dẫn Kinh Dịch rằng: “Sai một ly, đi ngàn dặm”. Hán thư (Cái
Khoan Nhiêu truyện) trích dẫn Kinh Dịch: “Thời Ngũ đế, thiên hạ là của
67

chung; thời Tam vương thiên hạ là của một nhà”. Các nhà chú giải đều xem
đó là văn của Dịch vĩ. Từ đời Tần và đời Hán đến nay, ngày càng xa thánh
nhân [Khổng Tử], nên Nho gia suy diễn rồi luận thuyết, mỗi người tự viết
sách, ý tứ khác xa với kinh nguyên thủy. Chẳng hạn như Phục Sinh viết
Thượng Thư đại truyện, Đổng Trọng Thư viết Xuân thu phồn lộ và viết về
Âm Dương, Nếu ta khảo sát văn thể của các sách ấy thì biết chúng là Vĩ thư.
Chúng đặc biệt nổi tiếng với tên của tác giả, cho nên không thể gán cho
Khổng Tử đã viết. Những sách khác do tư nhân biên soạn, dần dần hỗn tạp, và
lấy lý thuyết thuật số mà nói. Chúng chẳng cho biết tác giả là ai, mà còn phụ
họa để thần bí hóa thuyết ấy. Lâu ngày truyền lại chúng càng mất tinh túy, lại
còn tăng thêm lời lẽ yêu vọng, dần dần vĩ thư hợp làm một với sấm thư”.
Hậu Hán thư chép việc Trương Hành dâng sớ lên vua rằng: “[Các
sách] nói trước sự việc gì sẽ xảy ra về sau […[ gọi là sấm thư. Khi sấm thư
bắt đầu xuất hiện, rất ít người biết nó […]. Kể từ Hán Thành Đế và Hán Ai Đế
(6-1 tr.CN) trở đi thì người ta mới bắt đầu nghe nói về chúng […]. Dường
như chúng là do bọn bình dân hư ngụy [ghi chép] làm tư liệu để người đời
chú ý”.
Sấm thư và Vĩ thư không thể bàn luận chung với nhau. Tuy nhiên phần
hoang đường trong Vĩ thư quả thực có thể xếp vào loại sấm. Cả hai loại sách
này đều là một loại sản phẩm từ một xu hướng chung của thời đại.
Như vậy, sấm và vĩ đều dựa vào Kinh Dịch Ngũ hành để giải thích dự
đoán việc sẽ xảy ra nhưng về phần hoang đường. Cùng phương thức dự đoán
việc sẽ xảy ra nhưng chính xác cụ thể hơn và cũng dựa vào Kinh Dịch ngũ
hành đó là môn dự trắc học Chu Dịch hay còn gọi là dự đoán Dịch học, còn
gọi là phép dự đoán Dịch học, còn gọi là phép dự trắc lục hào.
Nhân tướng học (Thái Luận Thi, Chu Tước Nhi (dịch), Mệnh, Mộ
Phong thủy yếu quyết, 2010, Nxb Thời đại, Hà Nội, 151,152, tr.164-167].
Từ thời Chiến Quốc đến đầu đời Hán, nhất là khi bước vào thời nhà
Hán, tướng học đã trở thành một bộ môn có hệ thống lý luận đặc thù. Những
68

sách tướng thư và tướng sĩ như: Đường Cử, Hứa Phụ. Đến Tây Phổ, Lý
Đường, nhất là sau Bắc Tống thì các sách tướng thuật đồng loạt ra đời như:
Ma y tướng pháp, Liễu Trang tướng pháp, Toàn tập thần tướng, Tướng thủy
kính, Tướng lý khắc chân…
Từ thời Xuân thu đến thời Minh Trị xuất hiện rất nhiều danh nhân văn
hóa như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Vương Sung, Lý Bạch, Tô Võ, Tư
Mã Quang, Hoàn Tôn Nghĩa… cùng nghiên cứu về tướng học. Mạnh Tử để
lại cách ngôn mà không ít người biết đến; Tuân Tử với Phi tưởng; Vương
Sung với Luận hành, trong đó có tập Tướng cốt; Tư Mã Quang có tập Tư Mã
thông giám.
Trong Thủy kính tập, Lý Bạch đã lấy một ví dụ làm mọi người kinh
ngạc: Khi Quách Tử Nghĩa còn là một binh sĩ, Lý Bạch qua tướng mạo của
người này mà cho đây là bậc tráng sĩ; hình, thần, sắc, lực đều có dư; tính tình
nhân đức. Đúng như lời Lý Bạch nói, Quách Tử Nghĩa trị an loan lạc, trở
thành vị tướng nổi tiếng.
Đến thời nhà Thanh, tướng học trở nên thực dụng, đơn giản hơn và bắt
đầu được lưu truyền rộng rãi. Tuy nhiên cùng với sự phát triển đó, tướng
thuật cũng trở thành công cụ cho rất nhiều những đạo sĩ giang hồ lừa gạt mọi
người. Họ chỉ hiểu biết sơ lược tướng thuật, thiếu kiến thức cơ bản về tướng
thuật, thậm chí còn xuyên tạc, tuyên truyền không đúng sự thật. Tướng học vì
thế mà bị trượt dốc, tiếng xấu ngày càng lan xa.
Tướng thuật dần dần rời bỏ những yếu tố thần bí, mê tín, dùng con
mắt khoa học để thẩm định lại giá trị xã hội của nó, để con người chú ý hơn
và có cái nhìn đúng đắn hơn về bộ môn khoa học đoán biết vận mệnh.
Học thuyết Ngũ hành vận dụng cụ thể vào việc phân loại tướng học;
chẳng hạn, khi xem xét người hình Kim ta thấy: khuôn mặt có dạng thức
vuông vắn, sắc da trắng, ngũ quan ngay ngắn và phần lớn có dạng vuông, thân
hình trung bình, không gầy, không béo, xương thịt rắn chắc và cân đối nhau;
69

người hình Kim thường có cá tính kiên cường, bảo thủ, thẳng thắn, có lập
trường chính kiến, rõ ràng không a dua theo số đông.
Đặc tính nổi bật nhất ở người hình Mộc là khuôn mặt đầy đặn ở phần
trên, phía dưới khuôn mặt và thân hình đều có dạng thon dài, râu tóc thanh tú,
tao nhã, màu da hơi xanh nhưng tất cả đều ngay ngắn.
* Học thuyết Ngũ hành với y học
Thời kỳ Hậu Hán, nền y học Trung Quốc đã đạt được những bước
phát triển mới, y học đã thoát khỏi sự lệ thuộc vào tục lệ thờ cúng và bói toán.
Người ta đã phát hiện ra hàng trăm cây thuốc và đã phân loại ra được công
năng, chủ trị các bệnh khác nhau. Sách Thần nông bản thảo (ra đời vào
khoảng thế kỷ I sau CN) có thể được coi là cuốn sách kinh điển về dược học
sớm nhất của người Trung Quốc cổ đại, hiện còn được lưu giữ”. Bộ sách đã
đề cập tới 365 loài dược vật, trong đó có 252 loài thực vật, 67 loài động vật,
46 loại khoáng vật… Ngoài việc phân loại dược vật, trong cuốn sách trên đã
trình bày khái quát lý luận về dược học như sự phối hợp giữa các vị thuốc,
cách bào chế, liều lượng và cách sử dụng… Những điều đó đã đặt cơ sở cho
sự phát triển lý luận Dược học về sau này [56, tr.305].
Bên cạnh những hiểu biết về dược học thì nhiều thành tựu y học của
Trung Quốc cổ đại cũng được khẳng định. Các thầy thuốc đương thời đã có
hiểu biết sâu sắc về hệ thống các kinh lạc, huyệt hội về giải phẫu các cơ quan,
các chức năng sinh lý cũng như các biểu hiện bệnh lý trong cơ thể con người.
Họ đã biết tới mối quan hệ của sự thay đổi khí hậu môi trường, điều kiện sinh
hoạt ăn uống với sự phát sinh các loại bệnh tật trong cơ thể con người. Chẳng
hạn, sách Lễ ký, thiên Nguyệt lệnh nói: “ Tháng giêng mà khí hậu mùa thu
(tức khí hậu phát sinh trái mùa) thời nhân dân bị dịch”. Lại nói: “Tháng trọng
đông (tháng 11) mà đất bùn lầy, thời nhân dân bị dịch” [51, tr.74].
Về phương pháp chữa bệnh, ngoài các phương pháp chữa trị bằng
thuốc (thuốc thang, thuốc tán, thuốc đắp), thời kỳ này người Trung Quốc đã
biết tới các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc như châm cứu (châm
70

kim, đốt mồi ngảu), xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh v.v…Nhiều
thầy thuốc nổi tiếng đã xuất hiện như Biển Thước (401-310 tr.CN), người
nước Tề, là thầy thuốc giỏi về y thuật. Ông đã biết kết hợp kinh nghiệm thực
tiễn của bản thân với kinh nghiệm của người xưa để xây dựng nên một hệ
thống các phương pháp chẩn đoán bệnh tật gọi là “Tứ chẩn” gồm: vọng, văn,
vấn, thiết (xem, nghe, hỏi, sờ nắn và bắt mạch). Các phương pháp chẩn bệnh
do ông xây dựng đã trở thành các phương pháp kinh điển của Đông y học
hiện nay. Thuần Vu Ý (205-137 tr.CN), là thầy thuốc nổi tiếng thời Tây Hán.
Ông không chỉ đi sâu nghiên cứu các phương pháp vọng, văn, vấn, thiết do
Biển Thước trước đây đã đề ra, mà còn đề cao và sử dụng một cách hiệu quả
đối với các phương pháp đó. Ông cũng là người đầu tiên đề xướng ra “y án”
(một phương pháp ghi chép bệnh án nhằm theo dõi và tổng kết kinh nghiệm
chữa bệnh hết sức khoa học). Đến thời Đông Hán, xuất hiện ngày càng nhiều
thầy thuốc trứ danh khác, trong đó phải kể tới các thầy thuốc rất giỏi, nổi
tiếng như Hoa Đà (140-208), một thầy thuốc có trình độ y thuật toàn diện,
Ông rất giỏi về ngoại khoa và thủ thuật (mổ xẻ), là người đầu tiên sử dụng
thành công và ứng dụng rộng rãi thuốc gây mê giúp cho người bệnh không có
cảm giác đau đớn trong khi đang tiến hành phẫu thuật mà ông gọi là “ma phí
tán”. Ông được người đời sau tôn xưng là “ngoại khoa thánh thử”, “ngoại
khoa tỵ tổ”. Trương Trọng Cảnh là người sống cùng thời với Hoa Đà, ông
không chỉ là một thầy thuốc trứ danh mà còn là một nhà lý luận học vĩ đại.
Tổng kết kinh nghiệm của người xưa, đặc biệt là dựa vào lý luận của sách Nội
Kinh đã ra đời không lâu trước đó, Trọng Cảnh đã viết nhiều tác phẩm lý luận
y học quan trọng, trong đó có hai tác phẩm y học nổi tiếng là “Thương hàn
tạp bệnh luận” và “Kim quỹ yếu lược” là những quyển sách có giá trị trong
“Y học Bảo khố” của Trung Quốc. Trọng Cảnh còn được ví như là một trong
những nhà y học ‘tối vĩ đại” của Trung Quốc xưa” [81, tr.17].
Về tổ chức y học, từ cuối Chiến Quốc, người Trung Quốc cổ đại
không chỉ biết phân loại nguyên nhân, từ đó chia ra các loại bệnh tật, mà họ
71

còn biết tổ chức đào tạo và phân các thầy thuốc ra từng chuyên khoa. Thời kỳ
này, nhà nước đã đặt ra các chế độ y vụ (tổ chức quản lý y tế ở cấp nhà nước)
gọi là “y sư”. Đến đời Tần, Hán, tổ chức này gọi là “Thái y lệnh thừa”. Sách
Hậu Hán thư, thiên Bách quan chí viết: “Thái y lệnh một người, 600 thạch,
cai quản các thầy thuốc. Dược thừa, phương thừa, hai người. Dược thừa coi
về dược phẩm; phương thừa coi về phương thang đều thuộc thiếu phủ” [56,
tr.113].
Nói chung, Y dược học cuối Chiến Quốc đã phát triển đa dạng cả về
số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, phần lớn kiến thức y học đương thời đều
phụ thuộc vào kinh nghiệm của từng thầy thuốc. Vấn đề đặt ra cho nền y học
lúc bấy giờ là cần phải có sự tổng kết và đúc rút kinh nghiệm đã đạt được từ
trước tới nay để hình thành một hệ thống lý luận cho phù hợp nhằm định
hướng và thúc đẩy nền y học tiếp tục phát triển. Bên cạnh đó, dưới ảnh hưởng
mạnh mẽ của thuyết Âm dương – Ngũ hành sau khi đã được kết hợp làm một
trong thời kỳ này cũng thôi thúc mạnh mẽ các nhà y học Trung Quốc, đặt ra
vấn đề tổng kết kinh nghiệm chữa bệnh của người xưa thành lý luận y học.
Bởi trong thực tế, tính chất bao quát và vai trò phương pháp luận khoa học
của học thuyết triết học này là cơ sở quan trọng cho phép các nhà y học có cái
nhìn khái quát hơn, đối với các vấn đề y học đương thời. Chính trong các điều
kiện kinh tế xã hội, lịch sử và văn hóa tư tưởng ấy đã cho ra đời tác phẩm
Hoàng đế nội kinh, một tác phẩm kinh điển lý luận y học sớm nhất của Trung
quốc cổ đại đồng thời cũng là một tác phẩm điển hình về sự vận dụng thuyết
Âm dương – Ngũ hành trong việc giải thích các vấn đề y học.
* Học thuyết Ngũ hành với Mệnh lý học
Từ quan niệm thiên mệnh đến thuật số: sự chuyển biến của mệnh lý
học truyền thống Trung Quốc
Mệnh lý học truyền thống Trung Quốc có nguồn gốc từ thời kỳ xã hội
chiếm hữu nô lệ, coi thuyết “thiên mệnh” là hạt nhân lý luận. Ngay từ thời
Ân, Chu, thuyết thiên mệnh đã rất phổ biến. Dựa vào những câu văn bói khắc
72

trên xương thú và những lời văn khắc trên đồ cúng tế trên những cổ vật được
khai quật có thể biết rằng: giai cấp thống trị đương thời tự xưng là “nhận
mệnh từ trời”, biến những ý muốn của mình thành mệnh lệnh của trời và gọi
đó là “thiên mệnh”.
Đến thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc, quan niệm thiên mệnh có thêm
một bước phát triển mới, được chư tử thời tiên Tần diễn giải, phát triển thêm
một bước dài. Khổng Tử chủ trương tri mệnh, Mặc Tử chủ trương phi mệnh,
Mạnh Tử chủ trương lập mệnh, Trang Tử chủ trương an mệnh, thuận mệnh,
Lão Tử chủ trương phục mệnh, Tuân Tử chủ trương chế mệnh. “Dịch truyện”,
“Trung dung”, “Lễ vận”, “Nhạc ký” đều nhắc đến chí mệnh, hậu mệnh, bản
mệnh, giáng mệnh. Thuyết của chư tử đều không giống nhau.
Sau đó, quan niệm thiên mệnh trải qua chủ trương “suy mệnh trời để
biết việc người”, “biết mệnh trời để hiểu cùng tận tự nhiên” của các phương sĩ
thời Tần, Hán, dần dần được hệ thống hóa, và cũng dần dần trở nên phổ cập,
được nhiều người chú ý. Tất cả mọi người từ đế vương đến dân chúng đều rất
hứng khởi và nhiệt tình tìm hiểu về thiên mệnh và nhân mệnh. Đồng thời,
thuật chiêm bốc ngày càng phát triển, Mệnh lý học đã có đầy đủ điều kiện để
trở thành một lĩnh vực học thuật riêng biệt.
Thời Lưỡng Hán, tác phẩm “Bạch hổ thông nghĩa” và “Luận hành”
của Vương Sung ra đời. Trong đó, những ghi chép về Mệnh lý học đã đánh
dấu cho bộ môn Mệnh lý học từ triết học truyền thống trở thành một bộ môn
độc lập. Trong “luận hành”, Vương Sung không chỉ chỉ ra căn cứ của thuật
đoán mệnh theo Ngũ hành mà còn đề cập đến sự xung khắc của con giáp và
mối liên quan đến quan hệ vợ chồng. Những điều này đều là lý luận thực tiễn
của việc luận mệnh. Vương Sung là người đi đầu trong lịch sử phát triển
Mệnh lý học của Trung Quốc.
Sau đó, Mệnh lý học truyền thống tiếp tục không ngừng phát triển,
sinh ra các loại thuật số (tượng số) dự đoán học như Kỳ môn độn giáp, Đại
lục nhâm, Tứ trụ Bát tự, Tử Vi Đẩu số. Những bộ môn này có quan hệ mật
73

thiết với nhau và mỗi thứ đều tự trở thành một hệ thống, phát triển độc lập và
dung hòa với nhau, cùng hình thành nên nền văn hóa mệnh lý vô cùng phong
phú, đa dạng.
Nội hàm của Mệnh lý học
Trong lời nói đầu của “Tam mệnh thông hội” thu thập trong “Tứ khố
toàn thư” có viết: “Trong hơn hai trăm năm từ thời Minh đến nay, những
người nghiên cứu về mệnh lý đều căn cứ vào quyển sách này”. “Tam mệnh
thông hội” sở dĩ có sức ảnh hưởng lớn như vậy là do nó hàm chứa nhiều nội
hàm văn hóa đặc sắc. Xét từ góc độ mệnh lý, chúng ta có thể sắp xếp những
nội hàm văn hóa đó thành những phương diện sau:
Quan niệm triết học và vũ trụ quan “thiên nhân hợp nhất”
“Thiên nhân hợp nhất” (trời và người hợp nhất” là quan niệm cơ bản
của triết học cổ điển Trung Quốc, nhấn mạnh sự cảm ứng giữa con người và
trời, cho rằng ba yếu tố trời – đất – người hợp thành một thể. Trời là khởi
nguyên của vạn vật, đất sinh ra vạn vật, con người hoàn thiện vạn vật. Con
người đứng đầu vạn vật có nguồn gốc từ trời, chịu sự chi phối của trời, đồng
thời phải tôn kính trời. Quan niệm triết học và vũ trụ quan chất phác này đã ăn
sâu vào tiềm thức của con người. Mệnh lý học đã lấy quan niệm này làm
nguồn gốc, phát triển thành quan niệm tổng hợp về vũ trụ, không gian và thời
gian, chủ trương đặt con người trở lại tọa độ của không gian và thời gian
trong vũ trụ, căn cứ vào đó để suy diễn sự việc của con người và cũng là
mượn trạng thái không gian và thời gian khi con người chào đời, đặc biệt là
trạng thái của can chi Ngũ hành để dự đoán về vận mệnh của con người.
Tư tưởng trung hòa
Trung hòa được coi là khuôn vàng thước ngọc của nguyên tắc xử thế
và làm người của văn hóa truyền thống Trung Quốc, là cảnh giới cao nhất của
việc tu dưỡng bản thân, đồng thời cũng là điều kiện tất yếu để hòa hợp vạn
vật. Trung hòa chính là trung chính bình hòa, và cũng chính là đạo lý trung
dung. Theo ghi chép trong “Lễ ký – Trung dung”: “Trung là cội gốc lớn của
74

thiên hạ, hòa là cái đạo thông đạt của thiên hạ. Đạt đến cảnh giới trung hòa,
trời đất yên vị, vạn vật sinh sôi”. Có thể thấy quan niệm trung hòa rất được
coi trọng trong xã hội cổ đại. Tư tưởng ôn hòa này được vận dụng rộng rãi
trong văn hóa mệnh lý. Trong “Tam mệnh thông hội”, “những quan niệm như
Ngũ hành kỵ hình khắc, nên cân bằng, mệnh cục không cần hoàn mỹ mà chỉ
cần hòa hợp đều là sự vận dụng cụ thể của tư tưởng trung hòa.
Quan niệm về đạo đức luân lý thời cổ đại
Đạo đức luân lý là hệ thống bảo đảm về tinh thần để duy trì trật tự xã
hội thời cổ đại. Trong xã hội cổ đại, yêu cầu về luân lý và đạo đức cùng với
tác dụng của nó đối với mỗi cá nhân trong xã hội luôn lớn hơn hầu hết các sức
mạnh khác. Tiêu chuẩn về luân lý đạo đức trên mọi phương diện cuộc sống có
ảnh hưởng rất sâu sắc tới văn hóa mệnh lý. Trong hệ thống Mệnh lý học
nghiên cứu, chúng ta có thể thấy sự vận dụng rộng rãi của quan hệ nhân luân
(lục thân), và sự nhấn mạnh việc tu dưỡng đạo đức. Quan niệm lấy đạo đức để
bổ sung những khiếm khuyết trong mệnh cục xét trên một số khía cạnh đã
thúc đẩy sự hài hòa của xã hội và việc không ngừng hoàn thiện bản thân.
* Học thuyết Ngũ hành với các nhà lý học
Kế thừa tư tưởng thời Trung Quốc cổ đại, đến Đời Tống rộ lên các
nhà Lý học kiệt xuất như: Chu Liêm Khê (Chu Đôn Di), Trình Di, Trình Hạo,
Chu Hy, Trương Tãi, Thiệu Ung… Họ đã vận dụng Kinh Dịch, học thuyết
Âm dương – Ngũ hành vào việc xây dựng trường phái lý học đặc sắc, đạt đến
trình độ cao về nhận thức lý luận.
Thiệu Ung (1011 - 1077) [15, tr.697-701]
Thiệu Ung hay Thiệu Khang Tiết là nhà triết học duy tâm thời Bắc
Tống, một trong những người khai sáng lý học Tống dinh, mà lý học dựa vào
Kinh Dịch, còn Âm dương – Ngũ hành để lập thuyết cho học phái của mình
Ông từng học Lý chí tài, thuộc về phái của Trần Đoàn theo Đạo giáo, chuyên
về tướng số học. Ông viết các sách: Hoàng cực kinh thế, Tiên thiên đồ, Ngư
tiều vấn đối; Vô danh công tuyên .v.v.. Ông cho rằng, trạng thái nguyên sơ
75

của vũ trụ là “thái cực”. “Thái cực” là vĩnh hằng bất biến. Theo sự biến hóa
tuần hoàn trong “tiên thiên đồ”, mà nhờ đó trời đất, vạn vật sinh thành, tiêu
diệt, có thủy có chung. Quá trình biến hóa của vạn vật, theo Thiệu Ung bắt
đầu từ “thái cực”. Trong “thái cực” bao gồm một động một tĩnh giao nhau mà
đạo của trời đất hết vậy. Lúc đầu mới tĩnh thì nhu sinh, tĩnh đến cùng cực thì
cương sinh. Một nhu một cương giao mà cái dụng của trời đất hết vậy.
Cái lớn của sự động gọi là thái dương, cái nhỏ của sự động gọi là thiếu
dương, cái lớn của sự tĩnh gọi là thiếu âm. Thái dương là mặt trời, thái âm là
mặt trăng, thiếu dương là các ngôi sao, thiếu âm là khoảng cao mờ trên trời:
nhật, nguyệt, tinh, thần giao với nhau mà cái thể của trời hết vậy. Thái nhu
làm nước, thái cương làm lửa, thiếu nhu làm đất, thiếu cương làm đá: thủy,
thổ, thạch giao với nhau mà cái thể của đất hết vậy.
Nóng biến cái tính của vật, lạnh biến cái tình của vật, ngày biến cái
hình của vật, đêm biến cái thể của vật, tính, tình, hình, thể giao với nhau mà
sự cảm của giống động vật, thực vật hết vậy. Mưa hóa sự chạy của vật, gió
hóa sự bay của vật, sương hóa loài cỏ của sự vật, sấm hóa loài cây của sự vật,
sự chạy, sự bay, loài cỏ , loài cây giao với nhau mà sự ứng của giống động
vật, thực vật hết vậy” (Hoàng cực kinh thế, Quan vật nội thiên).
“Người ta đối với nóng lạnh, ngày đêm không có lúc nào là không
biến đổi, đối với gió, mưa, sương, sấm không lúc nào là không hóa, đối với
tính, tình, hình, thể không có lúc nào là không cảm, đối với sự chạt, sự bay,
loài cỏ, loài cây không có lúc nào không ứng. Bởi thế, mắt trông rõ sắc vạn
vật, mũi ngửi rõ mùi vạn vật, miệng nếm mọi vị vạn vật” (Hoàng cực kinh
thế, Quan vật nội thiên). Cho nên, theo Thiệu Ung, con người là giống tối linh
trong vạn vật. Đó là quá trình sinh thành, biến hóa của vũ trụ vạn vật.
Nhưng trong quan niệm về “thái cực”, một mặt ông nói “đạo là thái
cực”, mặt khác, ông lại nói “tâm là thái cực”, tức tâm là nguồn gốc sản sinh ra
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thậm chí, ông còn quan niệm: “trời đất
tự ta mà ra, càn khôn chỉ ở thân mình” (Thiên địa tự ngã xuất, càn khôn chỉ tại
76

thân) (Hoàng cực kinh thế, Quan vật nội thiên). Từ đó, Thiệu Ung đã đi tới đề
cao nhận thức luận có tính chất tiên nghiệm duy tâm, rằng vạn vật có đủ ở
chính bản thân mình thì không có cái gì không đầy đủ trọn vẹn, muốn có sự
hiểu biết về sự vật, con người ta chẳng cần tiếp xúc với sự vật của thế giới
khách quan bên ngoài mà chỉ cần quan sát nội tâm của mình là đủ (nội tỉnh).
Trong học thuyết về thế giới, Thiệu Ung cũng đã thể hiện quan điểm
biện chứng sơ khai của mình khi trình bày về quá trình vận động, biến hóa
của vũ trụ, vạn vật. Ông cho rằng thế giới không phải chỉ được lập lên một lần
là xong, không hề có sự biến đổi nào, mà theo ông, nó trải qua quá trình phát
sinh, phát triển và diệt vong. Sau khi một thế giới này tiêu diệt thì lại sản sinh
ra một thế giới khác theo quy luật “âm dương tiêu trưởng”. Để biểu hiện tư
tưởng biện chứng sơ khai ấy của mình, Thiệu Ung luôn lấy thể và dụng của tứ
tượng mà lập thành số, thành đồ, cho nên bao giờ ông cũng dùng số bốn mà
phối hợp với nhau như: nhật, nguyệt, tinh, thần – thủy, hỏa, thổ, thạch làm thể
và dụng của trời đất; nóng, lạnh, ngày, đêm – mưa, gió, sương, sấm làm sự
biến và sự hóa của trời đất; tính, tình, hình, thể - chạy, bay, cỏ, cây làm sự
cảm và sự ứng của vạn vật, lấy nguyên, hội, vận, thế - tuế, nguyệt, nhật, thời
làm cái trước và cái sau của trời đất.
Trong triết học của mình, Thiệu Khương Tiết không chỉ áp dụng
nguyên lý “âm dương tiêu trưởng” để giải thích sự biến đổi của ngày đêm, mà
còn áp dụng để giải thích sự xoay chuyển của bốn mùa cũng như quá trình
biến hóa không ngừng của thế giới. Chu kỳ của quá trình biến hóa, sinh diệt
của vũ trụ ông gọi là một “nguyên”.
Theo Thiệu Ung mỗi một “nguyên” có 129.600 năm, gồm 12 “hội”,
mỗi một “hội” là 10.800 năm gồm có 30 “vận”, mỗi một “vận” là 360 năm có
12 “thế”, mỗi một “thế” là 30 năm. Vậy một “nguyên” – một chu trình biến
hóa của vũ trụ, vạn vật có 12 “hội”, 360 “vận”, 4.320 “thế”.
Ứng với sự biến hóa tuần hoàn của trời đất, vạn vật, trong “tiên thiên
đồ, Thiệu Ung cho xã hội loài người có bốn kỳ, đó là “hoàng”, “đế”, “vương”,
77

“bá”, trong đó thời kỳ sau không bằng thời kỳ trước. Như vậy, với “tiên thiên
tượng số học” cách nhìn của Thiệu Khương Tiết về vấn đề nguồn gốc của vũ
trụ vạn vật căn bản vẫn mang đậm màu sắc của chủ nghĩa duy tâm thần bí. Tư
tưởng ấy của ông đã ảnh hưởng rất lớn đối với triết học của Chu Hy sau này.
Chu Đôn Di (1017-1073) [15, tr.63-66]
Nhà Lý học tiếp theo là Chu Đôn Di (1017-1073), hiệu là Liêm Khê,
tác phẩm của ông chủ yếu là hai cuốn Thái cực đồ và Thông Thư.
Trong quan điểm về thế giới, trên cơ sở tư tưởng về “đạo”, “thái cực”
trong những tác phẩm kinh điển của Nho gia như Dịch truyện và Trung dung,
có sự khảo cứu một phần tư tưởng của Đạo gia và Vô cực đồ của Trần Đoàn –
một đồ đệ của Đạo giáo thời Ngũ Đại, Chu Đôn Di đã đưa ra học thuyết về
quá trình phát sinh, phát triển của thế giới một cách giản ước nhưng có tính hệ
thống hơn. Ông gọi trạng thái hỗn độn đầu tiên của vũ trụ là “thái cực”. “Thái
cực” vô hình , vô danh, vô thủy, vô chung, nên cũng gọi là “vô cực”. “Vô
cực” không phải là không mà chính là cái tự tại, sâu kín, không có khởi đầu,
không có kết thúc, bất sinh bất diệt. Cho nên, ở đầu cuốn Thái cực đồ thuyết,
ông nói: “Vô cực nhi thái cực. Điều đó có nghĩa là Chu Đôn Di đã coi “thái
cực”, “lý” của tinh thần khách thể là tính thứ nhất, sinh ra thế giới vạn vật, và
thế giới vạn vật là tính thứ hai, do “thái cực” biến hóa mà thành. Do vậy, về
mặt bản thể luận, ông đã rơi vào khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Đây chính là một trong những tiền đề lý luận để các nhà triết học của
phái Lý học sau này kế thừa và phát triển trong hệ thống triết học của mình.
Trình Di (1033-1107) [15, tr.810-813] cũng nhà triết học về Lý học
thời Bắc Tống, ông có các sách: Dịch truyện, Xuân Thu truyện, Mạnh Tử giải;
Ngữ lục.
Học thuyết của Trình Di thực chất là sự tiếp nối tư tưởng của chủ
nghĩa duy tâm trong triết học Trung Quốc cổ đại. Nhưng trực tiếp hơn thì tư
tưởng về “lý”, “thiên lý” của Trình Di là sự kết hợp của triết học Trương Tái
về “khí”, “thái hư” và “tiên thiên đồ” của Thiệu Ung. Theo Thiệu Ung thì
78

những đồ hình cũng như các quẻ dịch chính là sự biểu thị những nghĩa lý sâu
xa, những quy tắc có tính chất trừu tượng, tồn tại một cách tuyệt đối vĩnh
viễn, đằng sau các sự vật, hiện tượng, hữu hạn, hữu hình, chi phối sự biến hóa
của vũ trụ vạn vật. Nhưng trước khi các quẻ tượng được người ta phát minh
ra biểu hiện những quy tắc đó, thì “dịch” đã có trước trong ý tưởng của con
người rồi. Ông nói: “Trước khi vạch nét, thì đã có dịch” (Nhị trình di thư,
quyển 2). Trên cơ sở đó Trình Di đã xây dựng môn Lý học trong Nho học thời
Tống – Minh.
Trong bản thể luận, theo quan điểm của Trình Di thì “đạo”, “lý” hay
“thiên lý” là cơ sở của thế giới vật chất tồn tại. “Lý” là một thực thể tuyệt đối,
bất sinh bất diệt và tồn tại phổ biến trong mọi sự vật, hiện tượng của vũ trụ,
không ở đâu không có “lý”, không có vật nào mà không bị chi phối bởi “lý”.
Một vật nào đó sinh ra và tồn tại như nó có đều phải có một quy tắc riêng,
một thể thức riêng được định trước cho vật ấy. Quy tắc đó chính là cái mà
Trình Di gọi là “lý” và vật chất thể hiện theo “lý” hay quy tắc ấy ông gọi là
“khí”. Trình Di phân biệt “lý” tức cái trừu tượng siêu hình, tồn tại thông qua
các sự vật cụ thể hữu hình là cái thuộc về “hình nhi thượng”, và “khí” tức các
sự vật cụ thể hữu hình là biểu hiện cụ thể của “lý” là thuộc về “hình nhi hạ”.
Trong đó, theo ông “lý” là tính thứ nhất, quyết định sự tồn tại của sự vật cụ
thể hữu hình, tức “lý tiên khí hậu”, còn “khí” có tính vật chất được sản sinh,
tồn tại nhờ cái “lý”, có tính chất tinh thần.
Như thế, trong quan điểm về thế giới, cũng như Trình Hạo, Trình Di
khẳng định rằng “trên trời chỉ có một lý”, “vạn vật đều cùng một thiên lý”.
Nhưng quan điểm về “lý” của Trình Di khác với Trình Hạo ở chỗ, nếu Trình
Hạo nói “thiên tức lý tức tâm”, thì Trình di lại cho rằng “lý” là từ trời, gọi là
“thiên lý”, nhưng có ở tâm con người, “lý xuất chư thiên nhi cụ chư tâm”
(Trình Di thư, quyển 2). Ông nói: “Ở trời là mệnh, ở nghĩa là lý, ở người là
tĩnh, chủ của nó là tâm”. (Nhị Trình di thư, quyển 18).
79

Trình Di cho rằng, “lý” tồn tại trong đời sống xã hội chính là những
quy phạm đạo đức và nguyên tắc chính trị của chế độ phong kiến. Sở dĩ người
ta không nhận thức được cái “thiên lý” ấy là do ham muốn, nhục dục của con
người (nhân dục) là che mờ cái “lý” bản nhiên vốn có, trời cho, nên trong đời
sống, con người phải tu tâm dưỡng tính “diệt tư dục, tắc thiên lý minh hỹ”,
tức diệt bỏ được những ham muốn vật chất tầm thường, những dục vọng riêng
tư thầm kín, tất rõ được “lý” trời. Cái “lý” mà Trình Di nói ở đây chủ yếu là
chỉ cái “lý vua tôi, cha con” trong xã hội phong kiến. Ông gọi những đạo lý,
giáo điều phong kiến ấy là “lý trời”. “Trăm lý đều tại, phô bày khắp nơi, có
khi nào nói được đạo vua được thêm… Không vì vua Nghiêu mà còn, chẳng
vì vua Kiệt mà mất. Nguyên lai lý vẫn như cũ” (Nhị Trình di thư, quyển 2).
Tóm lại, “tất cả lý ấy vốn sẵn có trong tâm con người, nhưng do vật dục, tình
cảm mê hoặc làm cho thiên lý mất đi, nên thánh nhân muốn tìm cho ra” (Nhị
Trình di thư, quyển 25).
Trình Hạo ( 1032-1085) [15, tr.813-816]
Trình Hạo là một trong những nhân vật đặt nền móng Lý học thời Bắc
Tống. Ông cùng em Trình Di là học trò của Chu Liêm Khê và đỗ Tiến sĩ. Ông
cùng em biên soạn tác phẩm “Nhị Trình di thư” và các học trò đã chép lời dạy
của ông thành tập Ngữ lục nổi tiếng về triết học.
Về triết học, ông cũng như Trình Di đều cho rằng “lý” hay “thiên lý”
là bản thể của thế giới vạn vật, “trên trời chỉ có một lý”, “vạn vật đều cùng
một thiên lý”. “Lý” không sinh, không diệt, tồn tại cùng khắp, không ở đâu
không có lý. Nhưng ông lại coi “lý trời” là thực thể thoát ly vạn vật, vượt lên
trên thế giới vật chất, ở trong tâm của con người, “trời tức là lý tức tâm”
(thiên tức lý tức tâm).
Trình Hạo rất tán đồng thiên “Tây minh” với chủ đề “vạn vật nhất
thể” của Trương Tái. Đó cũng là tư tưởng chủ yếu về “thiên tức lý tức tâm”
của ông. Theo ông, sự đồng thể với vạn vật là đặc tính căn bản của đức nhân
con người. Vì sao ông lại quan niệm như vậy? Trong Hệ từ của Chu Dịch có
80

câu: “Đức lớn của trời đất là sinh”, “sinh” là đem lại sự sống cho vạn vật. Con
người sinh ra là kết quả của sự bẩm thụ tinh khí âm dương, nên hợp với đức
sinh của trời đất, bản tính của con người là thiện, là nhân. Như thế trong
khoảng trời đất tuy có chia ra vạn vật khác nhau nhưng về bản tính, vật nào
cũng như nhau, cũng như tứ chi bách thể của con người vậy. Đạo của trời đất
là cái tính của ta, khí của trời đất là cái hình của ta. Vạn vật vì thế có đủ trong
ta. Ta với vạn vật là đồng thể. Vậy thì tâm ta phải yêu khắp mọi vật. Do đó,
Trình Hạo nói: “Nhân đến rất mực thì trời đất là một thể”. “Học giả trước hết
cần biết nhân, kẻ nhân hồn nhiên đồng thể với vạn vật. Nghĩa, lễ, trí, tín đều
là nhân. Biết được lý ấy, thành kính mà giữ, chỉ cần từng ấy mà thôi… Đạo ấy
không đối lại với vật. Cái dụng của trời đất đều là cái dụng của ta. Mạnh Tử
nói muôn vật đều đủ ở trong ta. Ta phải suy nghĩ mà hiểu rằng quả thật như
vậy…” (Nhị Trình di thư, quyển 2).
“Lý” hay “thiên lý” không chỉ là nguyên tắc tối cao của giới tự nhiên
mà còn là nguyên tắc tối cao của đời sống con người, theo Trình Hạo đó là
các quy phạm đạo đức và nguyên tắc thể chế xã hội phong kiến. Ông quan
niệm trật tự chế độ phong kiến và luân lý cương thường “quân thần phụ tử” là
“cái lý cố định của thiên hạ” (thiên hạ chi định lý) không thể thay đổi. Nhưng
trong đời sống xã hội “thiên lý” bản nhiên ấy lại bị những ham muốn vật chất
tầm thường của con người lôi kéo, che lấp, làm “tổn thương đến trời, phương
hại đến lý” (thương thiên hại lý). Do vậy, Trình Hạo chủ trương bỏ dục vọng,
bảo tồn “thiên lý”, nghĩa là con người ta phải giữ gìn luân lý đạo đức nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín trời phú cho, bỏ những nhục dục tổn hại đến “thiên lý”. Rõ
ràng học thuyết về “thiên lý”, “nhân tính” của Trình Hạo đã biểu hiện rõ tính
chất giai cấp trong triết học của ông và nó trở thành công cụ tinh thần đắc lực
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị phong kiến đương thời.
Chu Hy (1130-1200) [15, tr.66-73]
Chu Hy một trong những đại biểu kiệt xuất của Lý học đời Tống. Ông
học Lý Đẳng nên tiếp thu được tư tưởng của Nhị Trình. Ông để lại các sách:
81

Dịch bản nghĩa, Dịch học khải mông; Cận tư lục; Văn tập, Ngữ loại, Gia lễ…
Đặc biệt, ông viết bộ sách gọi là Tứ thư hay Tứ thư tập chú rút các thiên Đại
học và Trung dung từ Lễ ký hợp với sách Luận ngữ và Mạnh Tử. Ngoài ra,
người đời sau biên tập lại các tác phẩm của ông thành các bộ Chu tử di thư,
Chu tử đại toàn tập, Chu tử ngữ lục.
Trong quan điểm về thế giới, Chu Hy đã tổng hợp học thuyết Thái cực
của Chu Đôn Di và tư tưởng về “lý”, “khí” của Trình Di, dung hòa, phát triển
thành vũ trụ quan triết học đặc sắc của mình. Ông cho rằng, thái cực là căn
bản, là toàn thể vũ trụ vạn vật. Thái cực bao hàm “lý” và “khí”. Trong đó “lý”
là cái có trước, “khí” là cái có sau, “lý” là đạo, hình nhi thượng, là gốc của sự
sinh ra vạn vật. Khí là khí chất, thuộc hình nhi hạ, là khí cụ, chất liệu để tạo
thành sự vật. (Đáp thư Hoàng Đạo Phu)…
Chu Hy nói: “Thái cực là cái hết sức, ngoài nó thì không có gì có
được. Rất cao, rất diệu, rất tinh, rất thần (nghĩa là cái hoàn mỹ, hoàn thiện,
vĩnh viễn tồn tại, không có sự vận động tạo tác nào, không có sự khởi đầu và
cũng không có sự kết thúc). Liêm Khê sợ có người tưởng rằng thái cực là hữu
hình nên nói: “Vô cực nhi thái cực”… Thế là trong vô cùng cũng có cái lý rất
cao, hết sức, trên hết” (Chu tử toàn thư, quyển 49).
Chu Hy nói: “Vạn vật hữu nhất thái cực – điều đó có nghĩa là vạn vật,
vạn vật đều do thái cực, cái “lý” cao nhất này sản sinh ra, tức là cái gọi là “lý
nhất”.
Như vậy, có thể nói quan điểm về “lý” của Chu Hy chính là sự khách
quan hóa và tuyệt đối hóa cái chung, cái phổ biến chính là kết quả của sự
phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của sự vật hiện tượng khách quan
vào trong ý thức của con người, là sự phóng đại những quy luật của sự vật của
con người được nhận thức, hiện tượng cụ thể mà nó phản ánh. Thực chất, đó
là sự biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong quan điểm thế giới
của Chu Hy nói riêng và Lý học của Nho học chung.
Đới Chấn (1723-1777) [15, tr.191-199]
82

Ông là duy vật nổi tiếng của học phái Càn Long đời nhà Thanh. Ông
uyên bác thâm sâu nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, số học, văn tự, âm
vận… sự uyên bác về khoa học tự nhiên giúp ông chứng minh cho quan điểm
duy vật chủ nghĩa. Trong quan điểm về thế giới, Đới Chấn cho rằng khí bao
gồm trong nó có âm dương, ngũ hành là cơ sở vật chất của thế giới, đồng thời
cũng là “thực thể” của “Đạo”. “Đạo” theo ông không phải là cái gì đó trừu
tượng, siêu tự nhiên, cũng không phải là “lý” có tính chất tinh thần tồn tại độc
lập tách rời khí như phái Lý học quan niệm, mà nó chỉ là quá trình biến hóa,
sinh sôi không ngừng của “khí”. Ông viết: “Khí biến hóa mà lưu hành, sinh
sôi không ngừng cho nên gọi là đạo” (Mạnh Tử tự nghĩa sơ chứng).
Theo ông, mọi sự vật hữu hình, cụ thể, đa dạng của thế giới đều là sản
vật của “khí hóa”. “Khí” là thứ “phức tạp thiên biến vạn hóa”, do đó nó cũng
hình thành sự vật cụ thể muôn màu muôn vẻ khác nhau. Bởi vậy, ông bác bỏ
quan điểm của các nhà Lý học phân chia “đạo” (lý) và “khí” (vật) thành “hình
nhi thượng” và “hình nhi hạ” rạch ròi, trong đó “lý” là “hình nhi thượng”, tồn
tại vĩnh viễn, tuyệt đối và chi phối “khí” là “hình nhi hạ”. Ông chỉ ra rằng:
“Siêu hình nghĩa là khí chưa biến thành cái có hình chất; hình nhi hạ nghĩa là
khí đã thành sự vật cụ thể có hình chất” (Mạnh Tử tự nghĩa sơ chứng). Qua
đó, ông đã phủ nhận sự tồn tại của thế giới “hình nhi thượng” siêu vật chất
thống trị thế giới vật chất. Ông cho rằng “lý” chỉ là quy tắc của sự vật cụ thể;
sự vật đa dạng thì mỗi vật đều có những quy tắc khác nhau. Ông nói, gốc và
lá của thực vật thu hút một cách có phân biệt chất dinh dưỡng trong đất và
hấp thu ánh sáng mặt trời, gió, mưa bên ngoài, đó là cái “lý” của thực vật sinh
trưởng; loài động vật thì hít thở không khí, ăn uống, hấp thụ những thức nuôi
sống nó trong tự nhiên, làm cho khí huyết tuần hoàn không ngừng, đó là cái
“lý” của động vật sinh tồn” (Tự ngôn). Do đó, ông khẳng định “lý” nằm ở
trong sự vật khách quan, “không phải ngoài sự vật có nghĩa lý riêng” (Mạnh
Tử tự nghĩa sơ chứng). Ông khẳng định quy luật liên hệ với tồn tại vật chất
của sự vật. Từ đó, ông bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan
83

cho “lý có trước sự vật” trong môn phái Lý học Trình Chu. Ông cũng không
tán thành luận điểm “lý là một mà phân ra khác nhau – lý nhất phân thù” của
Chu Hy. Theo ông, trên quy tắc điều lý của sự vật cụ thể, không thể có cái
“lý” tuyệt đối, tối cao nào đó tồn tại vượt ra ngoài sự vật.
1.3. Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành vào Việt Nam
Học thuyết Âm dương – Ngũ hành từ lâu tại Trung Quốc đã được vận
dụng nhuần nhuyễn vào y học thể hiện qua bộ Hoàng đế Nội kinh. Do ảnh
hưởng văn hóa, trong đó có văn tự Trung Quốc ra khắp vùng phương Đông,
trong đó có Việt Nam. Chữ viết là chữ Nho ăn khớp với lý học là Kinh Dịch,
Âm dương Ngũ hành đồng thời có tác động rất lớn vào y học phương Đông.
Như vậy, con đường ảnh hưởng học thuyết Ngũ hành và y học cổ truyền
phương Đông vào Việt Nam, xuất phát từ sự ảnh hưởng văn hóa, văn tự viết,
ảnh hưởng tới giới trí thức, giới thầy thuốc, giới Nho gia Việt Nam.
Học thuyết Âm dương – Ngũ hành cũng đã được các thế hệ thầy thuốc
Việt Nam trước đó vận dụng dưới nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn, ngay
từ đời Lý, một nhà sư kiêm thầy thuốc Nguyễn Minh Không đã biết dựa vào
nguyên tắc “sinh khắc” của Ngũ hành để đề ra một phép chữa bệnh mà ông
gọi là “dẫn hỏa quy nguyên” để chữa khỏi bệnh điên loạn cho vua Lý lúc bấy
giờ là Lý Thần Tông. Đến thời Trần, Chu Văn An, một nhà Nho nổi tiếng,
một nhà lý luận y học uyên thâm, trong các tác phẩm y học của mình, thường
chú ý tới các nguyên tắc cơ bản trong học thuyết Âm dương – Ngũ hành để
trình bày các vấn đề lý luận y học. Trong tác phẩm Y học yếu giải tập chú di
biến, Chu An đã trình bày khá hệ thống những hiểu biết của mình đối với học
thuyết Âm dương – Ngũ hành, đồng thời khẳng định vai trò không thể thiếu
được của thuyết này trong việc xây dựng lý luận y học đương thời. Đặc biệt
thời kỳ này đã xuất hiện nhà y học nổi tiếng Tuệ Tĩnh (tức thiền sư Nguyễn
Bá Tĩnh rất tinh thông về y thuật, nhất là khả năng chữa bệnh bằng thuốc
nam, được người đời tôn xưng là “ông Thánh của thuốc Nam”. Tuệ Tĩnh cũng
là một nhà lý luận y học khá sâu sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm y học rất nổi
84

tiếng như Nam dược thần hiệu, Hồng nghĩa giác tư y thư trong đó cho thấy
ông có một trình độ hiểu biết và khả năng vận dụng khá nhuần nhuyễn học
thuyết Âm dương – Ngũ hành trong thực tiễn chữa bệnh hằng ngày. Chẳng
hạn, trong tác phẩm Nam dược thần hiệu khi lý giải về cơ chế và quá trình
bệnh sinh của mắt con người, ông viết:
Mắt của con người ví như mặt trăng của thiên nhiên, hợp nhất của
Ngũ hành mà thành hình thể, hợp khí của Âm dương mà thành tinh quang.
Cho nên, nếu bình thường thì hai mắt sáng suốt, nếu trái thường thì màng mắt
kéo lên. Bệnh ở mắt có chia từng bộ phận khác nhau như con ngươi thuộc
thận, thận hư thì chảy nước mắt; khóe mắt thuộc can, can phong thì chảy nước
mắt sống; tròng mắt thuộc phế, phế hàn thì máu che lấp tròng; hai mí mắt
thuộc tỳ, tỳ hàn thì mắt sinh lông quặm, bốn khóe mắt thuộc tâm, tâm nhiệt
thì con ngươi bé lại mộng thịt nổi lên.
Điều đó chứng tỏ rằng chính do sự vận dụng của học thuyết Âm
dương – Ngũ hành mà Tuệ Tĩnh đã có cái nhìn tương đối toàn diện song cũng
hết sức cụ thể đối với từng bộ phận của cơ thể con người. Quan điểm y học
của Tuệ Tĩnh nhờ đó có sự liên kết chặt chẽ giữa kinh nghiệm lâm sàng và
học thuyết Ngũ hành.
Nhìn chung, trước khi bộ Hải Thượng Y tông tâm lĩnh xuất hiện thì
thuyết Âm dương – Ngũ hành đã được các y gia nước ta thời đó đề cập vận
dụng tương đối có kết quả. Bên cạnh tác phẩm y học còn lưu truyền thì có
nhiều thầy thuốc giỏi đã biết vận dụng và phát triển học thuyết Âm dương –
Ngũ hành trong thực tiễn lâm sàng, song họ không để lại các trước tác cho đời
sau, hoặc giả có để lại thì cũng đã thất truyền. Điều đó làm cho chúng ta ngày
nay, khi nhìn vào lịch sử rất dễ nhận ra một nhược điểm đó là sự vận dụng
của thuyết Âm dương – Ngũ hành trong y học nước ta còn mang tính phiến
diện và chưa có hệ thống. Chỉ đến thế ký XVIII, khi bộ Hải Thượng Y tông
tâm lĩnh của Lê Hữu Trác xuất hiện thì thuyết Âm dương – Ngũ hành mới
thật sự được đề cập một cách sâu sắc toàn diện, có thể xem xét được mọi vấn
85

đề của y học đương thời với tư cách là một cơ sở triết học quan trọng của y
học.
Thế kỷ XVIII là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Các
vương triều phong kiến Việt Nam sau nhiều thế kỷ phát triển và hưng thịnh đã
rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội.
Thế kỷ XVIII cũng là thế kỷ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các trào
lưu tư tưởng Việt Nam có xu hướng phê phán và gắn liền với việc giải quyết
các vấn đề thực tiễn xã hội.
Trong bối cảnh đó, học thuyết Âm dương – Ngũ hành vốn được các
nhà tư tưởng Việt Nam nghiên cứu và vận dụng rải rác trước đây thì nay lại
được các nhà tư tưởng đặc biệt đề cao. Điều này cũng còn có lý do khách
quan, đó là sự ảnh hưởng các học thuyết triết học của Nho gia đời Tống (Tống
Nho), với các đại biểu như Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy đã rất
thành công khi vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong đạo Nho.
Khi các học thuyết triết học đó vào Việt Nam thì chúng có ảnh hưởng mạnh
mẽ tới thế giới quan triết học của các nhà tư tưởng lúc bấy giờ. Nhiều nhà tư
tưởng đã vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành để trình bày quan điểm
của mình, như Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Bùi Dương Lịch v.v… Chẳng
hạn, Lê Quý Đôn đã dùng học thuyết Âm dương – Ngũ hành để chứng minh
mối quan hệ giữa “khí” và “lý”. Bùi Dương Lịch dùng Âm dương – Ngũ hành
mà thuyết minh cho những lẽ tử sinh, họa phúc, tai dị, v.v.. Trong tác phẩm
Nghệ An ký, Bùi Dương Lịch viết:
Con người ta sinh ra, chẳng ai là không bẩm được khí Âm dương –
Ngũ hành. Kẻ nào bẩm được khí tinh tú thì ngưng kết thành ánh sáng màu đỏ;
đã vậy thì kẻ nào bẩm được khí hỗn trọc tất phải ngưng kết thành khói đen.
Xét đỏ hay đen không thể ngoài Âm dương – Ngũ hành mà có thể có được.
Như vậy, việc vận dụng và phát triển học thuyết Âm dương – Ngũ
hành là một trào lưu phổ biến của các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này.
Trong bối cảnh đó, Lê Hữu Trác vận dụng học thuyết Âm dương – Ngũ hành
86

vào việc nghiên cứu và trình bày các vấn đề y học là một hướng đi đúng đắn.
Điều đó đã được ông thể hiện qua tác phẩm y học đồ sộ còn để lại đến ngày
nay, đó là bộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh.
Chiều sâu của việc nghiên cứu học thuật trong bộ Hải Thượng Lãn
Ông Y tông tâm lĩnh còn biểu hiện ở chỗ mọi chi tiết, mọi mặt riêng rẽ của y
học được nêu ra ở đây đều xoay quanh và luận chứng cho những vấn đề mà
Lê Hữu Trác cho là cốt yếu nhất, huyền diệu nhất của y học, như vấn đề Thủy
Hỏa tiên thiên và vai trò của mệnh môn thận.
Về phương diện triết học, điều đặc biệt có ý nghĩa là bộ Hải Thượng
Lãn Ông Y tông tâm lĩnh, tác phẩm y học kiệt xuất trong lịch sử y học Việt
Nam, đã tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa việc xây dựng và phát triển các tri
thức y học với thế giới quan và phương pháp luận triết học. Thông qua tác
phẩm, chúng ta thấy học thuyết Âm dương – Ngũ hành đã được Hải Thượng
Lãn Ông Y tông tâm lĩnh vận dụng một cách toàn diện và sáng tạo nhằm tiếp
tục phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam đương thời cả về phương diện lý
luận và thực tiễn lâm sàng.
Học thuyết này đã được ông đề cập trong hầu hết các tác phẩm y học
của mình, trong đó chủ yếu tập trung vào các quyển: Khôn hóa thái chân, Nội
kinh yếu chỉ, Đạo lưu dư vận, Y gia quan niệm, Y hải cầu nguyên, Huyền Tẫn
phát vi, Vận khí bí điển v.v.. Đặc biệt, trong cuốn Y gia quan niệm, ông dành
hẳn những mục riêng như Âm dương - Ngũ hành để bàn sâu hơn nữa học
thuyết này từ góc độ lý luận. Điều đó cho thấy, ông coi trọng vai trò của học
thuyết Âm dương - Ngũ hành đối với việc nhận thức và triển khai hệ thống lý
luận y học như thế nào. Ông viết:
“Hiền triết đời xưa nói: “Học Kinh Dịch đã rồi mới nói tới chuyện làm
thuốc”. Nhưng nói học Kinh Dịch không phải là học những quẻ, những hào,
những từ của Kinh Dịch mà cần học để biết quy luật biến hóa của Âm dương,
quy luật sinh khắc của Ngũ hành tựa như chiếc vòng không đầu không cuối.
Vì bệnh tật phát sinh ra cũng đều do sự thịnh suy của Âm dương và do sự
87

thắng phúc của Ngũ hành. Nghề làm thuốc đâu có thể vượt ra ngoài nguyên lý
của Âm dương – Ngũ hành mà cứu chữa được những bệnh tật nguy nan. Cho
nên tôi đem mục Âm dương – Ngũ hành để đặt tên đầu sách rồi lần lượt đến
từng bộ vị tạng phủ, kinh lạc, mạch yếu và các chương luận trị để mở đầu cho
việc bước vào ngành Y, có thể lấy đó làm cương lĩnh rồi theo từng loại mà
suy rộng ra mãi” [93, tr.217].
Kế thừa những tư tưởng hợp lý của người xưa, đặc biệt là từ tư tưởng
Âm dương - Ngũ hành trong tác phẩm Kinh Dịch và Nội Kinh, Lê Hữu Trác
đã nêu lên quá trình phát triển tự nhiên của thế giới vật chất. Với tư cách là
một nhà lý luận y học kiêm lâm sàng học, ông đã chứng minh nguồn gốc tự
nhiên của con người bằng việc giải thích và kiểm nghiệm các quá trình bệnh
sinh, bệnh lý của con người trên nhiều phương diện: từ chức năng sinh lý đến
nguyên nhân bệnh sinh, từ đó nêu ra các phương pháp chẩn đoán, các phương
pháp phòng bệnh và trị bệnh cho con người trên lập trường duy vật.
Trong tác phẩm Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh, học thuyết Ngũ
hành được vận dụng vào cơ thể người là học thuyết Tạng tượng mà cụ thể là
ngũ tạng đặc biệt chú ý tạng thận. Lê Hữu Trác trình bày tiếp về thủy hỏa như
sau: Âm dương là phạm trù trừu tượng thì thủy hỏa lại là phạm trù cụ thể.
Thủy hỏa là hai trong năm yếu tố của Ngũ hành, song Thủy Hỏa còn là đại
diện cho Âm dương. Nội kinh cho rằng: trong các yếu tố của Ngũ hành thì có
thể dùng Thủy và Hỏa là hai loại sự vật mà con người quen thuộc nhất, đặc
biệt mà tính đối lập và thống nhất điển hình cho Âm dương. Chính vì vậy,
quan niệm Âm dương luôn gắn liền với quan hệ về Thủy Hỏa. Khi bàn về mối
quan hệ giữa Thủy Hỏa và Âm dương, đặc biệt là vai trò của Thủy Hỏa trong
Ngũ hành, Lê Hữu Trác khẳng định:
Thủy Hỏa là dấu hiệu của Âm dương, là thực thể của Âm dương. Mặt
trời, mặt trăng là tinh hoa của Thủy Hỏa, rét và nóng là tác dụng của Thủy
Hỏa; làm cho sự vật sống là Hỏa, vinh nhuận sự vật là Thủy; không có Hỏa
88

thì tiêu diệt, không có Thủy thì cháy khô cho nên trong Ngũ hành Thủy và
Hỏa là quan trọng hơn cả [93, tr.304-305].
Với ý nghĩa đó, trong thực tế khi nói tới Âm dương không thể không
nói tới Thủy Hỏa và trong lý thuyết về Thủy Hỏa lại càng không thể không
bàn về Âm dương.
Kế thừa các quan điểm hợp lý về mối quan hệ giữa Âm dương, thủy
hỏa đã được thể hiện trong Kinh Dịch, đặc biệt là trong Nội kinh, với phương
pháp tư duy độc lập và sáng tạo, Lê Hữu Trác đã làm phong phú thêm lý
thuyết Thủy Hỏa của mình trong điều kiện thực tiễn y học Việt Nam. Theo
ông vì tính của Hỏa thời bốc lên phải khiến cho nó đi xuống, tính của Thủy
thấm xuống phải khiến cho nó đi lên, thủy lên, hỏa xuống như thế gọi là giao
nhau tức là thủy hỏa “ký tế”. Thủy hỏa mà ký tế thì Âm dương bình hòa, thủy
hỏa tách rời nhau (vị tế) thì Âm dương chia lìa, sinh mạng người có cơ bị đe
dọa. Người thầy thuốc giỏi là phải biết phân biệt được vị trí và quy luật lên
xuống của Thủy hỏa mà điều chỉnh Âm dương cho phù hợp. Nếu người chân
âm thịnh thì phải bổ chân dương, khí âm nhờ đó theo khí dương mà bay lên,
nay thời chỉ biết bổ âm sẽ ảnh hưởng tới tỳ vị, lại tuyệt mất nguồn sinh hóa
của hậu thiên. Như vậy “bổ âm phải đồng thời thêm vào vị bổ dương”.
Thông thường bổ Âm để củng cố chân thủy, Lãn Ông khuyên nên
dùng bài Lục vị, còn để bổ nguyên khí, củng cố chân hỏa của thận (nhất là
những người hỏa lực yếu hoặc hỏa không thăng, thủy không giáng) thì dùng
bài Bát vị. Với những người mà bệnh Âm dương đều hư yếu thì Lãn Ông lại
khuyên nên dùng “Thập bổ hoàn” (tức bài thập toàn đại bổ) để không thiên
lệch.
Để điều trị thủy hỏa được thích đáng, Lãn Ông còn đề ra một phương
pháp chẩn đoán hết sức độc đáo dựa trên các nguyên lý của Dịch học và của
Nội kinh đó là bắt mạch của thận (ông gọi là “mạch thủy hỏa tiên thiên”). Đó
là phương pháp bắt mạch để biết được tình trạng hoạt động của tạng thận, một
tạng có vai trò chủ chốt trong năm tạng của cơ thể con người.
89

Theo Lãn Ông thì thủy thuộc âm, hỏa thuộc dương, vì vậy việc phân
biệt thủy hỏa của thận cũng là phân biệt Âm dương của thận. Mạch của thận
thuộc bộ xích hai bên cổ cánh tay (vị trí của hai ngón áp út khi đặt lên thốn
khẩu).
Về vai trò của thủy hỏa tiên thiên và mệnh môn thận, Lê Hữu Trác đi
đến khẳng định rằng đối với con người một khi có sự mất cân đối và sự suy
kiệt của chân thủy, chân hỏa thì cơ thể sẽ suy nhược, chính khí sẽ sa sút. Cho
nên, phương hướng điều trị trước tiên phải chú trọng tới tạng thận để điều hòa
thủy hỏa tiên thiên, bối bổ chính khí, khắc phục trạng thái hư nhược của cơ
thể. Ông nói: “Phàm bệnh đều do chính khí hư mà đưa đến, nếu chính khí
vững chắc thì tà khí không có chỗ để lấn vào, hễ thấy tà khí có thừa, là do
chính khí không đầy đủ” [93,316]. Lại nói: “Có người hỏi: tôi chữa bệnh
thường dùng các vị thuốc khí huyết cho uống sơ sài một vài thang, có bệnh
khỏi ngay, có bệnh bớt chậm, rồi liền cho uống bài lục vị, bát vị mà bệnh
nặng lập tức lành ngay, thế thì người ta bị bệnh đều do thủy hỏa cả ư ? Tôi trả
lời: trong Nội kinh nói: “Trăm bệnh cảm vào vốn do hư mà đến”. Lại nói:
“Bệnh mới thì phân ra nội phương hay ngoại cảm, bệnh lâu thì đều quy vào
hư cả”. Lại nói: “Pháp chữa trăm bệnh rút cục căn bản cũng như chữa một
bệnh”, còn nói: “Biết được điều cốt yếu một lời là đủ hết” [93, tr.416].
Do chỗ chân thủy, chân hỏa và điểm nguyên dương (mệnh môn) của
con người có liên hệ chặt chẽ với tạng thận cho nên trong phương thức lấy bổ
chính khí làm chính thì ông chú ý đến việc bổ thận hơn cả vì như ông nói:
Xét trăm bệnh gây ra, không bệnh nào là không vì hỏa, mà hỏa phát ra
không khi nào là không do hư, mà gốc của chúng hư không khi nào là không
do thận. Hễ thận nguyên đầy đủ thì mọi hiện tượng đều yên mà mọi bệnh tật
không có nữa. Người ta sống là nhờ vào tác dụng của Âm dương thủy hỏa, mà
thận là gốc rễ chung của cả Âm dương thủy hỏa. Nếu Âm dương mất điều
hòa, thủy hỏa thiên lệch thì trăm bệnh sinh ra ngay. Về cách chữa thì cứu âm
không gì bằng làm mạnh chân thủy, bổ dương thì không gì bằng bổ ích chân
90

hỏa, mà thận vừa là thủy tạng, vừa là hỏa tạng. Cho nên cứu Âm dương mà
không tìm ra chủ của thủy, nguồn của hỏa, bỏ rơi tạng thủy hỏa, bỏ bài Lục
vị, Bát vị thì không tìm thấy cửa, tất không có lối vào” [93, tr.435].
Lê Hữu Trác hết sức nhấn mạnh vai trò của chân thủy chân hỏa và
mệnh môn thận, song ông vẫn nhận rõ tầm quan trọng của khí huyết, tỳ vị.
Ông cho rằng: “Khí chạy thì huyết theo cùng, âm huyết là cơ sở của dương
khí”, và khí huyết sở dĩ được hóa sinh là nhờ vào công năng của tỳ vị. Cho
nên, ông cũng chú trọng đến vấn đề tiêu hóa, bài tiết, giữ gìn và bồi bổ tỳ vị
để cho nguồn hóa sinh của hậu thiên được điều hòa, khí huyết được đầy đủ thì
cơ thể sẽ khỏe mạnh.
Có thể nói, quan niệm của Lê Hữu Trác về thủy hỏa với phương
hướng điều trị lấy việc bồi bổ cơ thể làm chính mà trước hết là bổ thận, đồng
thời có kết hợp với bổ tỳ vị khí huyết một cách thích đáng đã trở thành luồng
tư tưởng quán xuyến trong hầu hết các chương mục của bộ Hải Thượng Lãn
Ông Y tông tâm lĩnh. Chính trên cơ sở khoa học đó mà ông có nhiều sáng kiến
và đưa ra nhiều phương thuốc độc đáo phù hợp với điều kiện thực tiễn lâm
sàng ở Việt Nam, như các phương thuốc tiếp bổ Âm dương, bổ thần, bổ thổ
cố trung, đặc biệt là các phương như phù dương liễu âm, hạnh tâm gia giảm
để chữa bệnh cho trẻ em v.v..
Để có được thành công đó, trước hết Lê Hữu Trác đã quán triệt và vận
dụng một cách đúng đắn các thành tựu y học và triết học phương Đông cổ đại
mà trước hết là thuyết Âm dương - Ngũ hành vào thực tiễn y học Việt Nam.
Việc đề xuất và vận dụng thành công lý thuyết thủy hỏa vào lý luận và thực
tiễn của nền y học cổ truyền nước ta thời đó là một minh chứng cho thái độ
nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học cùng với phong cách tư duy độc lập,
sáng tạo của Lê Hữu Trác. Qua các tác phẩm y học của ông, học thuyết Âm
dương - Ngũ hành đã được vận dụng và phát triển thêm một bước mới. Nó
không chỉ khẳng định vai trò không thể thiếu được của học thuyết này trong
việc xây dựng và phát triển lý luận y học cổ truyền phương Đông mà còn chỉ
91

ra vai trò to lớn của triết học đối với sự phát triển của y học cổ truyền phương
Đông nói chung và y học cổ truyền Việt Nam nói riêng.
Kêt luận chương 1
Ở thế giới cổ đại có vài nền văn hóa sớm nhất của loài người. Một
trong vài nền văn hóa đó là Trung Quốc cổ đại. Lịch sử tư tưởng triết học
Trung Quốc cổ đại đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau từ đồ
đá đến đồng rồi đồ sắt, và các tiến bộ khoa học lần lượt được người Trung
Quốc cổ đại khám phá. Nhân dân Trung Quốc cổ đại đã đấu tranh bền bỉ
trong việc chinh phục thiên nhiên, xây dựng, phát triển và hoàn thiện dần các
phát minh công cụ lao động, sinh hoạt ở nhiều dạng khác nhau phong phú
trong cuộc sống, từ đó dẫn đến hoàn thiện dần các chế độ kinh tế, chính trị và
xã hội qua các thời đại. Chính trong quá trình lịch sử tồn tại và phát triển cuộc
sống, tư tưởng triết học cũng đã phản ánh qua từng giai đoạn lịch sử để ngày
càng phát triển và hoàn thiện, trong đó có học thuyết Ngũ hành.
Do nhu cầu giải thích thế giới một cách khoa học để xa dần thói mê
tín dị đoan mang tính hoang đường thần bí trong nhận thức triết học, học
thuyết Ngũ hành được hình thành dần dần theo thời gian, bắt đầu từ nước, lửa
rồi đến mộc, kim loại, đồng rồi sắt và đất. Đó là năm yếu tố vật chất cấu tạo ra
Ngũ hành và được viết thành văn tự đầu tiên trong thiên Hồng phạm, thiên
Cam thệ của Kinh Thư. Tương tự như vậy, quan niệm về Âm dương được
phát hiện trong Kinh Dịch, Kinh Dịch còn phát triển quan niệm Âm dương ra
tứ tượng, rồi bát quái, 64 quẻ….
Theo Âm dương gia thì các quan niệm Âm và Dương là cặp phạm trù
triết học trừu tượng đầu tiên phản ánh nhận thức của người Trung Quốc cổ đại
về vũ trụ và tự nhiên. Âm dương là đại biểu cho hai mặt của sự việc hoặc hai
sự vật thống nhất và đối lập với nhau tồn tại phổ biến không chỉ trong tự
nhiên và vũ trụ, mà còn cả trong xã hội và bản thân con người.
Bên cạnh quan niệm Âm dương, quan niệm Ngũ hành, là thể hiện
nhận thức của người Trung Quốc cổ đại về vũ trụ, tự nhiên, xã hội và cả con
92

người (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Hai quan niệm Âm dương và Ngũ hành
được kết hợp với nhau để giải thích thế giới, xã hội và con người một cách cụ
thể sinh động. Vì vậy, học thuyết Âm dương – Ngũ hành có ảnh hưởng sâu
rộng đến sự phát triển văn hóa Trung Quốc cổ đại nói riêng và phương Đông
nói chung.
Riêng về sự hình thành học thuyết Ngũ hành từ thời cổ đại đến đời
Hán là một quá trình quan sát tự nhiên rất lâu dài rồi được ghi vào văn tự ở
Kinh Thư, tiếp sau hoàn thiện đủ các hành chất, các quy luật bởi nhà tư tưởng
Đổng Trọng Thư đời Hán. Về thời Hậu Hán, học thuyết Ngũ hành được vận
dụng trong các ngành và các thời kỳ theo dòng lịch sử Trung Quốc. Các
ngành được học thuyết Ngũ hành làm cơ sở lý luận gồm: sấm vĩ học, dự trác
học, nhân tướng học, mệnh lý học, đặc biệt ngành y học cổ truyền. Tiếp theo
từ Đổng Trọng Thư đã hoàn thiện học thuyết Ngũ hành, học thuyết Ngũ hành
cùng với Kinh Dịch đã sống mãi trong cuộc sống theo dòng lịch sử Trung
Quốc từ Hậu Hán cho đến đời Thanh và tận ngày nay. Học thuyết Ngũ hành
cùng với Kinh Dịch tồn tại phát triển trong cuộc sống lúc ẩn, lúc hiện ở dạng
cấu hình Kinh Dịch. Đó là đặc điểm của triết học phương Đông với cấu hình
Kinh Dịch; khác với phương Tây mang tính hệ thống triết học.
Về y học, học thuyết Ngũ hành đã được các nhà y thuật Trung Quốc
đều vận dụng qua các thời kỳ lịch sử Trung Quốc để lại nền triết học (tức là y
học với lý luận Âm dương – Ngũ hành) một di sản đồ sộ nhiều tác phẩm khác
nhau vẫn còn giá trị mãi theo thời gian cho đến ngày nay.

Với giá trị thực tiễn hiệu quả nền y học cổ truyền với nền tảng lý luận
âm dương – ngũ hành đã nhanh chóng lan truyền từ Trung Quốc với bộ
Hoàng đế Nội kinh, rồi tiếp theo sang các nước lân cận ở phương Đông, trong
đó có Việt Nam. Để vận dụng nền y học cổ truyền trên khi đến Việt Nam đã
sáng tạo cho hợp với dân Việt, đất Việt; nước Việt ta có bộ Hải Thượng Lãn
Ông Y tông tâm lĩnh. Tác giả Lê Hữu Trác đã có công lớp tiếp theo bộ Hoàng
đế Nội kinh một lần nữa vận dụng tài tình lý luân Âm dương - Ngũ hành vào
93

nền y học cổ truyền phù hợp phong thổ đất Việt, người Việt đã góp công điều
trị, giữ gìn sức khỏe cho nhân dân Việt Nam.
94

Chương 2

NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN

CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ


CON NGƯỜI

2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH


2.1.1. Những yếu tố cơ bản tạo nên Ngũ hành
Trước hết, cần có cái nhìn về ý nghĩa thuật ngữ “ngũ hành”. “Ngũ
hành là năm yếu tố vật chất đầu tiên hay năm thứ khí cơ bản cấu tạo nên vũ
trụ vạn vật, trong đó mỗi yếu tố không chỉ có những tính chất và đặc trưng
riêng mà ý nghĩa của nó còn biểu hiện cho các đặc tính khác nhau của tất cả
các sự vật, hiện tượng trong thế giới” [15, tr.417]. Một định nghĩa khá chi tiết
về Ngũ hành như sau: “Ngũ hành là khái niệm triết học Trung Quốc cổ đại chỉ
năm yếu tố cơ bản của vũ trụ, trên cơ sở năm vật thể thân cận nhất với con
người, mộc (gỗ, cây cối), hỏa (lửa), thổ (đất), kim (vàng, kim loại), thủy
(nước)” [45, tr.143]. Từ Ngũ hành xuất hiện đầu tiên trong Kinh Thư ở thiên
Hồng Phạm khi nói tới chín điều mục lớn của phép cai trị, điều mục đứng đầu
là Ngũ hành được ghi theo thứ tự: thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Cần nắm vững và
vận dụng thích đáng mới có được một nền chính trị tốt gọi là “ngũ hành”,
trong đó “hành” là “đi, vận chuyển”, hành là khí lực thuận theo lẽ trời (hành
giả thuận thiên chi khí). Do đó, xã hội không đơn thuần chỉ năm vật thể, mà
còn chỉ năng lượng bên trong của các vật thể. Đổng Trọng Thư đời Tây Hán
ấn định lại thứ tự trước sau của Ngũ hành, đặt hành thổ ở giữa, với đất là
trung tâm: mộc, hỏa, kim, thủy. Thứ tự này cũng làm sáng tỏ quan hệ giữa
Ngũ hành với nhau, gồm hai thứ: tương sinh (hành nọ sinh hành kia) và tương
khắc (hành nọ tiêu hủy hành kia). Quan hệ tương sinh: Mộc sinh Hỏa (gỗ đốt
thành lửa), Hỏa sinh Thổ (lửa thiêu các thứ thành than, biến ra đất), Thổ sinh
Kim (đất biến chất rắn thành kim loại), Kim sinh Thủy (kim loại bị nung nóng
thành chất lỏng), Thủy sinh Mộc (có nước, cây cối mới sống). Quan hệ tương
95

khắc: Mộc khắc Thổ (cây ăn mòn đất), Hỏa khắc Kim (lửa làm cháy kim
loại), Thổ khắc thủy (đất hút nước), Kim khắc Mộc (kim loại cắt gỗ), Thủy
khắc Hỏa (nước dập tắt lửa). Hai quan hệ trên thường được thể hiện bằng một
vòng tròn có năm điểm ở đầu năm vòng cung phân đều nhau. Ngũ hành được
ghi trên một chấm theo thứ tự: “Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy” theo chiều kim
đồng hồ. Giữa hai hành sát nhau là quan hệ tương sinh, giữa hai hành cách
nhau hơn một đơn vị là quan hệ tương khắc.
Ngũ hành được coi như nằm bên trong mọi sự vật của vũ trụ, đồng
thời thể hiện mối quan hệ tương sinh, tương khắc giữa các sự vật, Do đó,
tương ứng với Ngũ hành đã có nhiều cụm sự vật bắt đầu bằng chữ ngũ (5)
(sắp xếp tương ứng với thứ tự: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Ví dụ: Ngũ phương
(Đông, nam, trung ương, tây, bắc), ngũ sắc (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), ngũ
quan (mắt, lưỡi, miệng, mũi, tai), ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn), ngũ
tạng (can, tâm, tỳ, phế, thận), ngũ khí trong Đông y (phong, thử, thấp, táo,
hàn).
Học thuyết Ngũ hành và học thuyết Âm dương thể hiện mối tương
quan chặt chẽ giữa các vật thể trong vũ trụ, giữa vũ trụ và con người. Vì vậy,
hai thuyết này có những yếu tố duy vật sơ khai và phép biện chứng tự phát.
Nhưng những người duy tâm thường thần bí hóa các thuyết này, khiến nhiều
người bị mê hoặc. Tuy nhiên, các yếu tố hợp lý của chúng vẫn được lưu
truyền đến ngày nay. Trong đó, một số vận dụng trong y học cổ truyền (chẩn
đoán, bốc thuốc, châm cứu) để xác định thực hư của từng cơ quan trong cơ
thể con người, hoạt động của chúng, quan hệ của chúng với nhau, quan hệ của
chúng với thiên nhiên trong vấn đề sức khỏe, bệnh tật, chẩn đoán, thuốc men,
điều trị. Tuy nhiên, khuynh hướng trước đây có gì mọi việc vào chung Ngũ
hành nên không tránh khỏi sự khiên cưỡng, như ghép bốn mùa vào Ngũ hành.
Xuân (mộc), Hạ (hỏa), Thu (kim), Đông (thủy) và có nhiều thuyết hoặc là
tháng 6 gọi là trưởng hạ), hoặc là 4 tháng (3,6,9,12) của mỗi mùa, hoặc 12
ngày cuối các tháng cuối mỗi mùa nói trên, và đặt tên là “ngũ quý” cho hợp
96

với Ngũ hành. Ngoài ra, học thuyết Ngũ hành còn được sử dụng trong các
môn thuật số (phong thủy, bói toán, tướng số) mang tính chất thần bí.
Tác giả Đào Duy Anh trong quyển Hán Việt tự điển (Nhà xuất bản
Trường Thi, 1957, tr.41) đã định nghĩa: Ngũ hành: năm chất Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ. Định nghĩa trên chưa nói hết ý nghĩa của Ngũ hành. Ngũ hành cần
được hiểu như sau: Ngũ là năm, hành là vận động, di chuyển, chuyển hóa.
Học thuyết Ngũ hành biểu thị (diễn đạt) năm yếu tố vật chất cơ bản vận động,
tương tác và chuyển hóa lẫn nhau theo những quy luật nhất định. (Các quy
luật của Ngũ hành là: tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương thắng, phản
sinh, phản khắc, hỗn mang).
Đi sâu tìm hiểu nội dung học thuyết Ngũ hành, có thể thấy: Nhờ quan
sát bầu trời, vũ trụ và những thay đổi trong xã hội, trong con người mà người
xưa đã xây dựng nên học thuyết Ngũ hành. Ngũ hành là một trong những
phạm trù triết học mang tính khái quát, trừu tượng đầu tiên của người Trung
Quốc cổ đại, nhằm giải thích nguồn gốc, cấu trúc và quá trình biến hóa của
vạn vật trong vũ trụ. Nó đánh dấu bước phát triển của tư duy khoa học nhằm
thoát khỏi sự chi phối của tư tưởng duy tâm tôn giáo về cái gọi là Thượng đế,
quỷ thần đang thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Quốc đương
thời (tức thời Hạ, Thương, Chu). Đó là một trong những cội nguồn của chủ
nghĩa duy vật và tư tưởng biện chứng sơ khai trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc. Vì thế nên ngũ hành là năm yếu tố vật chất đầu tiên hay năm thứ khí cơ
bản của vũ trụ vạn vật, gồm: Mộc 木 (gỗ), Hỏa 火 (lửa), Thổ 土 (đất), Kim 金

(kim khí), Thủy 水 (nước). Theo các Âm Dương gia, mỗi yếu tố trong ngũ
hành có những tính chất và đặc trưng riêng biểu hiện cho các tính chất, đặc
trưng của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và con người.
Học thuyết Ngũ hành xuất phát từ Kinh Dịch cổ. Nguồn gốc của học
thuyết này là từ một mô hình tối cổ về các con số gọi là Hà đồ. Tương truyền
do trời ban cho vua Phục Hy, một ông vua thần thoại của Trung Quốc, cách
97

đây khoảng 4000 năm. Khi Ngài đi tuần thú phương Nam, qua sông Hoàng
Hà, bỗng thấy một con Long Mã hiện lên, trên lưng nó có những chấm đen
trắng.
Khi về ngài mới phỏng theo mà vẽ lại thành một bảng ký hiệu 10 số
đếm bằng các chấm đen và trắng, xếp thành hai vòng trong và ngoài, theo
đúng 4 phương: Nam, Bắc, Đông, Tây. Ở chính giữa là hai số 5 và 10. Ngài
gọi là Hà đồ, tức là bức vẽ trên sông Hoàng Hà (chỉ là hình vẽ chứ không có
chữ vì sự phát minh thuộc thời chưa có chữ viết).
Bảng Hà đồ chia 10 số đếm thành 2 loại số đối xứng nhau :
Số Dương, số Cơ, số Trời : 1,3,5,7,9 (chấm trắng)
Số Âm, số Ngẫu, số Đất : 2,4,6,8,10 (chấm đen).
Số sinh : 1,2,3,4,5.
Số thành : 6,7,8,9,10.
Tuy nhiên, trong Hà đồ không phải chỉ có Âm Dương, bởi vì chỉ riêng
cơ chế Âm Dương thì không đủ giải thích mọi biến thiên phức tạp của vũ trụ.
Trong đồ hình còn có cả nội dung tương tác của 10 số đếm, thông qua sự định
vị 5 con số đầu tiên là 5 con số sinh, đại diện cho 5 yếu tố vận động trong vũ
trụ, đã được ghi rõ trong bài ca quyết :
Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi.
Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi.
Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành chi.
Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi.
Thiên ngũ sinh Thổ, Địa thập thành chi.
Nghĩa là :
Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Đất 6.
Số Đất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7.
Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Đất 8.
Số Đất 4 sinh Kim, thành số Trời 9.
Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Đất 10.
98

Như vậy Ngũ hành đã được định cùng 5 cặp số Sinh Thành ra chúng,
có vị trí Tiên Thiên theo đúng các hướng của các cặp số :
1-6 : Hành Thủy, phương Bắc
2-7, Hành Hỏa, phương Nam.
3-8 : hành Mộc, phương Đông.
4-9 : Hành Kim, phương Tây.
5-10 : Hành Thổ, ở trung tâm.
Những thuộc tính vốn có ấy của năm khí gọi là “năm đức”. Nước thì
lạnh và luôn chảy xuống thấp. Lửa thì nóng và bốc lên cao. Gỗ có tính chất
cong lại và thẳng ra. Kim khí có tính chất phụ thuộc và biến đổi bởi sự tác
động bên ngoài. Đất thì tiếp nhận hạt giống và làm mùa. Trong đó nước tạo
nên vị mặn, lửa tạo nên vị đắng, gỗ tạo nên vị chua, kim khí tạo nên vị cay.
Sự tiếp nhận gieo hạt giống và làm mùa của đất tạo nên vị ngọt.
Thiên Hồng phạm viết: “Thứ nhất trong cửu trù là Ngũ hành. Thứ nhất
trong ngũ hành là thủy, thứ nhì là hỏa, thứ ba là mộc, thứ tư là kim, thứ năm
là thổ. Thủy là ướt và thấm xuống dưới, hỏa là nóng và bốc lên cao, gỗ là
cong và thẳng, kim là theo và biến đổi, thổ để cấy lúa và gặt lúa. Nước thấm
xuống dưới mà mặn, Lửa bốc lên cao, vị đắng. Gỗ cong và thẳng, vị chua. Đồ
kim khí tùy tay người thợ mà biến đổi hình, vị cay. Lúa cấy gặt vị ngọt”[…].
Là những yếu tố căn bản đầu tiên của vũ trụ, những năng tính của năm loại
vật chất ấy quy định các tính chất, chủng loại và nguồn gốc của vạn vật trong
thế giới. Hỏa có tính chất nóng nên chủ và hành mạnh phương nam, mùa hạ,
màu đỏ. Mộc tượng trưng cho thực vật có năng tính sinh trưởng nên chủ và
hành mạnh phương đông, mùa xuân, màu xanh vì mùa xuân là mùa cỏ cây
đâm chồi nảy lộc và phương đông có tương quan với mùa xuân. Kim chủ và
hành mạnh phương tây, mùa thu, màu trắng, vì kim khí có tính chất cứng và
khô khan và vì phương tây có liên quan tới mùa thu khô ráo, có gió, cây cỏ
rụng lá, hết mùa. Thủy có tính chất ẩm ướt và chảy xuống dưới nên chủ và
hành mạnh ở phương bắc, mùa đông, màu đen, vì phương bắc và mùa đông
99

có liên quan tới băng tuyết, giá lạnh. Còn hành thổ giúp cho các hành khác và
bốn mùa nên nó được coi là vị trí trung tâm của bốn mùa. Thổ hành mạnh vào
khoảng ngắn giữa mùa hạ và mùa thu.
Ngũ hành không chỉ biểu hiện những hiện tượng của tự nhiên mà còn
biểu hiện tính chất, năng lực của con người và các mối quan hệ xã hội. Trong
thiên Hồng phạm, sau phạm trù ngũ hành và ứng với phạm trù ngũ hành là
phạm trù ngũ sự. Trong đó viết: “ Thứ nhì là ngũ sự: mạo, ngôn, thị, thính, tư.
Dáng mạo phải kính cẩn. Ngôn lời phải thuận lẽ phải. Trong nhìn nên sáng
suốt. Nghe phải cho rõ ràng. Suy nghĩ phải thấu suốt. Kính làm cho nghiêm,
thuận làm cho điều hòa, sáng suốt làm cho khôn, rõ ràng làm cho nhanh lẹ,
sâu làm cho thánh”[…].
Phạm trù thứ tám trong Hồng phạm gọi là “dấu”. “Các dấu là mưa,
sáng, nóng, lạnh và hợp thời. Nếu cả năm đến đủ theo mỗi cái thì tốt. Một cái
rất nhiều là dữ, một cái rất ít cũng dữ. Dấu tốt là: đức nghiêm của vua có mưa
hợp thời. Vua sửa trị hay có nắng hợp thời. Vua minh triết có ấm hợp thời.
Vua mưu trí, lo liệu có lạnh hợp thời. Đức sáng suốt của vua có gió hợp thời.
Dấu xấu là : vua làm việc rồ dại thì trời mưa nhiều. Vua làm việc sai lầm thì
trời nắng nhiều. Lười biếng thì trời nóng nhiều. Làm việc cấp bách thì trời rét
nhiều. Làm việc tối tăm thì trời gió nhiều” […].
Về ngũ hành biểu hiện cho việc chính trị xã hội, Lã thị xuân thu, thiên
Ứng đồng viết: “Phàm đế vương sắp hưng thì trời cho dân thấy nước điềm
lành. Thời Hoàng đế trời cho thấy vô số trùng đất và cào cào châu chấu.
Hoàng đế nói: “Khí đất bay lên”. Khí đất bay lên nên Hoàng đế lấy màu vàng
làm màu của mình, coi sự việc lấy thổ làm mẫu. Thời vua Vũ (sáng lập nhà
Hạ), trời cho dân thấy trước cây cối đều không chết trong mùa thu và mùa
đông. Vua Vũ nói: “Khí mộc bay lên”. Khí mộc bay lên nên vua Vũ lấy màu
xanh làm màu của mình, còn sự việc lấy mộc làm mẫu. Đến thời vua Thang,
trời cho dân thấy trước một số lưỡi dao xuất hiện ở sông. Vua Thang nói:
“Khí kim bay lên”. Khí kim bay lên nên vua Thang lấy màu trắng làm màu
100

của mình, còn sự việc lấy kim làm mẫu. Đến thời Văn Vương (sáng lập nhà
Chu), trời cho dân thấy trước lửa cháy, cùng lúc đó chim lông đỏ ngậm sách
đỏ bay đậu ở đền thờ thần xã của nhà Chu. Văn Vương nói: “Khí hỏa bay
lên”. Khí hỏa bay lên nên Văn Vương lấy màu đỏ làm màu của mình, còn sự
việc thì lấy hỏa làm mẫu. Thay thế hỏa ắt là thủy. Trời cũng cho thấy khí thủy
bay lên. Khí thủy bay lên nên màu đen được xem là màu của nó, sự việc lấy
thủy làm mẫu. Nếu khí thủy đến mà không ai biết, thì hoạt động của nó khi
chu kỳ đã đủ sẽ tái hồi về thổ...” [49, tr.223].
Ngũ hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy khi tương tác lẫn nhau cũng
phải theo cơ chế hai chiều đối xứng là âm và dương, tức cơ chế tương sinh và
tương khắc. Đây là tinh thần căn bản của thuyết Ngũ hành. Theo đó cứ hai
hành đứng kề cận nhau thì sinh cho nhau, luân chuyển mãi không ngừng, các
hành cách nhau thì khắc chế nhau, và cứ thế mà luân lưu mãi, biểu thị cho
triết lý cao siêu của sự đổi thay, biến dịch của vũ trụ tự nhiên.Người xưa dùng
những khái niệm về Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy để diễn tả vận động thế giới
vạn vật.
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ vượt bậc về khoa học, trong đó có sự phát
triển khoa học vũ trụ (có những khám phá qua các bức ảnh chụp về vận động
vũ trụ), sự phát triển về toán học (các nhà toán học đã sáng tạo ra những ký
hiệu toán học mới), sự phát triển về sinh học (như sinh học phân tử, giải mã
toàn bộ gen người, các loài vật khác…) và nhiều ngành khoa học khác, đã
không ngừng bổ sung, phát triển học thuyết Ngũ hành.
Do ý nghĩa chữ “hành” có nghĩa là hoạt động, tạo tác. Các nhà Âm
Dương gia gọi sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các hành chất của
Ngũ hành là các quy luật vận động Ngũ hành theo học thuyết Ngũ hành.
101

Sơ đồ quan hệ sinh khắc – tạng tượng


Trong sơ đồ truyền thống, có 5 đối tượng, được đặt tên là Kim - Thủy
- Mộc - Hỏa - Thổ. Ta quan sát thấy một đối tượng có hai mũi tên đi vào và
hai mũi tên đi ra. Hai mũi tên liền vạch và hai mũi tên đứt nét. Cặp mũi tên
liền vạch được gọi là quan hệ tương sinh, cặp mũi tên đứt nét được gọi là
quan hệ tương khắc. Ví dụ xét đối tượng Hỏa, nó là con của Mộc, và là mẹ
của Thổ. Mối quan hệ mẹ con đó được hiểu là một đối tượng sẽ sinh ra đối
tượng ngay sau nó trong vòng Ngũ hành và lại là con đẻ của đối tượng ngay
phía trước. Đồng thời trong quá trình sinh trưởng và vận động ấy nó sẽ làm
phiền phức đối tượng khác (Kim), làm mất cơm ăn áo mặc của đối tượng đó.
Ngược lại cũng còn một đối tượng khác nữa (Thủy) khắc chế quá trình sinh
trưởng của nó. Đó gọi là quan hệ tương khắc. Ta diễn tả mối quan hệ sinh
khắc đó sau:

Hỏa bị Thủy
khắc chế

Mộc là mẹ của Hỏa Hỏa sinh ra con là Thổ

HỎA
Hỏa sẽ làm
phiền kim

Quan hệ tương sinh – tương khắc


102

Như vậy, nếu xem đối tượng Hỏa là lửa đang cháy thì một cách trực
quan ta thấy các quan hệ sinh – khắc trên rất hợp lý : Muốn có lửa cháy phải
có gỗ (Mộc, quan hệ mẹ con), lửa cháy sẽ sinh ra than tro (Thổ). Nhưng trong
quá trình lửa cháy nó sẽ làm phiền đối tượng Kim, làm Kim bị nóng, biến
dạng, chảy thành nước. Trong khi lửa (Hỏa) đang tập trung tác động lên một
đối tượng khác thì nó hoàn toàn có thể bị nước (Thủy) khắc hại, có thể còn bị
dập tắt, nếu nước mạnh và nhiều. Các hành khác cũng có quan hệ sinh khắc
tương tự.
Nhưng vấn đề đặt ra, tại sao chỉ có 5 hành, không phải 4 hay 6, hay
nhiều hơn nữa? Liệu 5 hành có thể mô tả muôn hình vạn trạng của tự nhiên và
xã hội hay chưa?
Do vậy, để giải mã Ngũ hành trước hết không thể quan niệm nó như là
các đối tượng vật chất thuần túy, mà phải xem các hành là biểu tượng của các
dạng…
Ngũ hành là 5 biểu tượng, 5 giai đoạn và 5 trạng thái của sự vận động
phát triển.
Hành Kim có biểu hiện bên ngoài như những quá trình thu gom tích
lũy, năng lượng, tiền bạc, tài năng, đức độ, sức mạnh, khối lượng, vật chất…
Trong thời đại ngày nay Kim là sự học tập không ngừng. Trong Phật học,
Kim là “tinh tiến”. Tất cả các vòng Ngũ hành đều bắt đầu từ tích Kim.
Hành Thủy có biểu hiện bên ngoài như những quá trình lan tỏa cái
tinh túy thu góp mà giai đoạn Kim đã thực hiện được. Nó lặng lẽ, từ tốn, thấm
sâu, thử sai và sửa chữa.
Hành Mộc là sự sáng tạo ra cái mới, hoặc là một mô hình, một đối
tượng, một quần thể, một tổ chức…Tính chất của Mộc vô cùng mạnh mẽ và
cứng rắn, đôi khi cũng rất mềm dẻo và uyển chuyển.
Hành Hỏa là cái gì có biểu hiện bên ngoài ở độ cao về số lượng,
mạnh về cường độ, ít sáng tạo, nhiều sao chép, thu nạp năng lượng từ bên
ngoài ít khắt khe. Biểu hiện ào ào, mãnh liệt, biến đổi nhanh về lượng.
103

Hành Thổ là quá trình lụi tàn của Hỏa, sự xuống dốc, suy kiệt. Biểu
hiện ra bên ngoài là nặng nề, chậm biến đổi, cam chịu, chấp nhận…
Năm hành ấy nối tiếp nhau, xoay vòng vô tận, không ngừng không
nghỉ, lúc nhanh lúc chậm, lúc sinh lúc khắc. Mỗi người bằng kinh nghiệm
sống của mình sẽ thấy Ngũ hành dưới các dáng vẻ khác nhau, sinh động biến
ảo khác nhau, nhưng đường nét cơ bản của Ngũ hành là như trên đã miêu tả.
Nhấn mạnh theo danh từ khoa học mới, thì Ngũ hành có 3 điểm khác
biệt với kinh điển cổ thư, đó là :
- Ngũ hành mang tính quá trình động, chứ không luôn luôn là các vật
thể tĩnh, các đối tượng cụ thể.
- Thời lượng của mỗi hành rất biến ảo, ngắn dài, có khi trong một
vòng hành Kim được tính bằng năm, mà thời lượng của Thủy và Mộc chỉ tính
bằng tháng, hoặc ngày.
- Ý chí cá nhân có thể tác động mạnh mẽ lên Ngũ hành, đặc biệt các ý
chí có tầm ảnh hưởng vĩ mô.
Tóm lại, kết cấu vai trò chức năng và các yếu tố trong ngũ hành là các
yếu tố của ngũ hành không tồn tại một cách tĩnh tại, biệt lập, thụ động mà
chúng là những yếu tố hoạt động, liên hệ tương tác lẫn nhau, nên còn gọi là
năm tác nhân hay năm hành chất. Các hành chất có quan hệ học thuyết Âm
Dương và các biểu hiện của học thuyết Ngũ hành trong tự nhiên, xã hội và
con người như sau :
Hình Thái cực Ngũ hành và thời gian thăng giáng
NAM
TÂM
HỎA

PHẾ
ĐÔNG KIM TÂY
CAN MỘC

THỦY

THẬN
BẮC
104

Hình trên trình bày, thủy là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực
âm, hỏa là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương; mộc chủ thăng
phát nên ở trên, ứng với vị trí phương đông; kim chủ thăng giáng nên ở bên
phải ứng với phương tây; thổ là mẹ của số thành nên ở giữa. Khí hóa vận
hành, Âm Dương thăng giáng (lên xuống). Vì vậy Thận thuộc thủy thương tể
(chảy lên), Tâm thuộc hỏa hạ giáng (giáng xuống); Can thuộc mộc tả thăng
(hướng sang trái, đi lên). Phế thuộc kim hữu giáng (hướng sang phải) đi
xuống, tức là Nguyên lý Âm Dương Thái cực hóa sinh ngũ hành, ngũ hành lại
sinh ra ngũ tạng, vì vậy thăng giáng khí cơ của tạng phủ phải truy ngược dòng
Thái cực.
2.1.2. SỰ BIỂU HIỆN CỦA NGŨ HÀNH TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI,
CON NGƯỜI
Đầu tiên là sự biểu hiện Ngũ hành trong giới tự nhiên như sau:
Về màu sắc, theo Nội kinh, sắc chân tạng của can là “xanh như cỏ
tươi”, tỳ là “vàng như chỉ thực”, tâm là “đỏ như máu”, thận là “đen như mồ
hóng”. Sắc chân tạng tượng trưng tình trạng tinh khí tạng phủ sắp tuyệt.
Ngũ hành có quan hệ về thái độ con người, về khí hậu, mùa trong năm
và quát trình phát triển như sau:
Nội kinh ghi rằng: “Trong giới tự nhiên có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông đắp đổi. Có năm hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy biến hóa khác nhau.
Từ đó sinh ra khí phong, thử, thấp, táo, hàn, nó ảnh hưởng tới vạn vật rồi làm
nên quy luật sinh, trưởng hóa, thu, tàng. Trong con người cũng vậy, chức
năng sinh lý của ngũ tạng trong cơ thể cũng có thể sinh ra năm thứ hoạt động
tinh thần (giận, mừng, lo, buồn thương, sợ). Can chủ giận, tâm chủ mừng, tỳ
chủ lo, phế chủ buồn thương, thận chủ sợ […]”.
Về quá trình phát triển, theo kinh điển xưa: Ngũ hành được thể hiện ra
các mùa và chúng luôn lien hệ, tương tác với nhau. Chẳng hạn, mùa Xuân chủ
sinh, nhưng sở dĩ mà có được công dụng của “Sinh” thực ra cũng nhờ cái
công bế tàng của mùa Đông vậy; mùa Hạ chủ trưởng, sở dĩ có cái công dụng
105

của trưởng chính là nhờ cái công phá trần của mùa Xuân; mùa Thu chủ thâu,
sở dĩ có được cái công dụng thâu súc, chính là nhờ cái công trưởng dưỡng của
mùa Hạ; mùa Đông chủ bế tàng, sở dĩ được cái công dụng bế tàng, chính là
nhờ cái công thành thục của mùa Thu.
Ngũ hành với phương hướng:

5 + 2 = 7
5 + 4 = 9
5 + 3 = 8
5 + 1 = 6

Sơ đồ trên cho ta thấy rằng, vòng tròn trắng ở trong hình là Dương số
(1,3,5,7,9), vòng tròn đen là Âm số (2,4,6,8,10).
Dương số 1 và Âm số 6 (1 số chẵn phối với 1 số lẻ) cùng ở về
phương Bắc.
Tương tự, tiếp theo một số chẵn phối với 1 số lẻ, ta có các số ứng với
các phương như: số 2,7 ứng với phương Nam; số 3,8 ứng với phương Đông;
số 4,9 ứng với phương Tây; số 5,10 ứng với Trung ương.
106

Năm hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy do số chẵn lẻ Âm Dương như
thế mà sinh thành ở 5 phương Bắc, Nam, Đông, Tây, Trung ương.
Ngũ hành với khí hậu
Xem ở Trời có 5 khí là phong, hàn, thử, thấp, táo. Thuốc có 5 tính là
hàn, nhiệt, ôn, lương và bình. Người có 5 tạng là tâm, can, tỳ, phế, thận.
Huyệt có tinh, vinh, du, kinh, hợp. Nếu chỉ dùng 2 chữ Âm Dương thì không
đủ để quy nạp, vậy phải dùng đến cả ngũ hành.
Ngũ hành với thời tiết
Mùa Xuân là thời kỳ phát triển, đó là lúc mà vạn vật trỗi dậy để hướng
vinh, sinh lý của thực vật lúc này là lúc tối thịnh, bởi thế, cổ nhân mới dùng
chữ Mộc để đại biểu cho mùa xuân. Mùa Hè nóng nực, sức nóng của cả năm
đến đây là cực độ, bởi thế nên dùng chữ Hỏa để đại biểu cho mùa hạ. Mùa thu
cây vàng lá rụng, có cái khí túc sát chẳng khác gì khung cảnh tàn phá sau
trận chiến tranh, bởi thế mới dùng chữ Kim để biểu thị cho mùa thu. Khí
của mùa đông lạnh lẽo, mà nước cũng lạnh, mùa đông lại đối lập với mùa hè,
thành dùng chữ Thủy để đại biểu cho mùa đông. Còn “Hạ chí nhất âm sinh”,
đó là phần Trung ương của cả một năm, khí hậu lúc ấy có nhiều thấp khí, bởi
thế nên dùng chữ Thổ để đại biểu cho mùa hạ.
Nói rằng mộc sinh hỏa, đó là mùa xuân hết thì hạ kế tiếp. Hạ vốn sinh
từ trong mùa xuân. Hỏa sinh thổ, đó là chỉ thấy tháng 3 của mùa hạ tức là
trưởng hạ, Trưởng hạ vốn sanh ra trong mùa hạ; thổ sinh kim đó là chỉ lúc
trưởng hạ hết thì mùa thu kế tiếp, mùa thu vốn sinh từ trong trưởng hạ.
Ngũ hành với quẻ dịch
Các quẻ, tượng của Dịch có thể được Ngũ hành hóa hay ngược lại, có
thể dịch hóa Ngũ hành :
* Quẻ Ly
Quẻ Ly tựa như miệng lò, trong lò thì có lửa, tượng trưng cho vui vẻ,
nóng, vậy quẻ Ly tương ứng với hành Hỏa.
* Quẻ Khảm
107

Quẻ Khảm tựa như nước, hiểm trở, khó khăn nên quẻ này tương ứng
với hành Thủy.
* Quẻ Cấn
Quẻ Cấn là ngọn núi (đất) hợp với hành Thổ.
Quẻ Khôn
Khôn là đất, cũng hợp với hành Thổ.
* Quẻ Càn
Quẻ càn là cứng rắn, cao hợp với hành Kim.
Quẻ Đoài
Đoài là đầm cũng thuộc hành Kim
* Quẻ Chấn
Quẻ Chấn tượng trưng cho sự năng động, sự sống nên hợp với hành
Mộc.
Quẻ Tốn
Tốn là gió, thuộc hành Mộc.
Ngũ hành với âm thanh
Can mộc thể hiện ra âm thanh bên ngoài với con người là tiếng hét,
thét.
Tương tự, Ngũ hành thể hiện âm thanh tiếp sau ta có tâm hỏa là tiếng
cười; tỳ thổ là tiếng hát; phế kim là tiếng khóc; thận thủy là tiếng rên.
Ngũ hành với thời gian trong một ngày:
Can mộc tương ứng với thời gian trong ngày là buổi sáng. Tương tự,
Ngũ hành thể hiện thời gian trong một ngày tiếp sau, tâm hỏa là buổi trưa, Tỳ
thổ là xế trưa, Phế kim là hoàng hôn, Thận thủy là nửa đêm.
Ngũ hành với các con số Hà đồ
Hành Mộc tương ứng số 3, hành Hỏa tương ứng số 2, hành Thổ tương
ứng số 5, hành Kim tương ứng số 4, hành Thủy tương ứng số 1.
Về cửu cung với học thuyết Ngũ hành được thể hiện như sau:
Hành Mộc tương ứng với số 3,4.
108

Hành Hỏa tương ứng với số 9


Hành Thổ tương ứng với số 5,8,2.
Hành Kim tương ứng với số 7,6.
Hành Thủy tương ứng với số 1.
Ngũ hành tương ứng với các giai đoạn phát triển Âm Dương
Hành Mộc tương ứng ở giai đoạn sinh Dương cực. Tương tự tương
ứng tiếp theo, hành Hỏa là giai đoạn hoàn chỉnh Dương cực; hành Thổ là giai
đoạn Âm Dương cân bằng; hành Kim là giai đoạn sinh Âm cực; hành Thủy là
giai đoạn hoàn chỉnh Âm cực.
Ngũ hành với tình trạng năng lượng các sự vật hiện tượng
Hành Mộc tương ứng với năng lượng của sự vật hiện tượng ở tình trạng
nảy sinh. Tương ứng tiếp theo, hành Hỏa ứng với tình trạng mở rộng; hành Thổ
ứng với tình trạng cân bằng; hành Kim ứng với tình trạng thu nhỏ; hành Thủy
ứng với tình trạng bảo tồn.
Ngũ hành với các quả tử
Hành Mộc tương ứng với quả mận. Tương tự, tương ứng quả tử tiếp
theo, hành Hỏa là quả mơ; hành Thổ là quả táo, chà là; hành Kim là quả đào;
hành Thủy là hạt dẻ.
Ngũ hành với ngũ cốc
Hành Mộc tương ứng với lúa mì. Tương tự, tương ứng tiếp theo, hành
Hỏa ứng là đậu; hành Thổ là gạo; hành Kim là hạt gai dầu; hành Thủy là hạt
kê.
Ngũ hành với các tinh tú thiên văn
Hành Mộc tương ứng với tinh tú thiên văn là Mộc tinh (Tuế tinh).
Tương tự, tương ứng tiếp theo, hành Hỏa là Hỏa tinh (Huỳnh tinh); hành Thổ
là Thổ tinh (Trấn tinh); hành Kim là Kim tinh (Thái Bạch); hành Thủy là
Thủy tinh (Thần tinh).
109

Ngũ hành với thế đất trong lĩnh vực địa lý


Hành Mộc trong lĩnh vực địa lý tương ứng với thế đất dài. Tương tự,
tương ứng tiếp theo là hành Hỏa thế đất nhọn; hành Thổ thế đất vuông; hành
Kim thế đất tròn; hành Thủy thế đất ngoằn ngoèo.
Ngũ hành với trạng thái phát triển của các sự vật
Hành Mộc thể hiện sự phát triển ở trạng thái Sinh. Tương tự, thể hiện
sự phát triển ở trạng thái tiếp theo, hành Hỏa là Trưởng; hành Thổ là Hóa;
hành Kim là Thâu; hành Thủy là Tàn.
Ngũ hành với vật biểu hiện
Hành Mộc tương ứng với vật biểu hiện là thanh long. Tương tự, sự
tương ứng với vật biểu hiện tiếp theo, hành Hỏa là chu tước; hành Thổ là kỳ
lân; hành Kim là bạch hổ; hành Thủy là huyền vũ.
Ngũ hành với ngũ tân
Hành Mộc tương ứng với dịch tân là dịch mật. Tương tự, sự tương
ứng với dịch tân tiếp theo, hành Hỏa là mồ hôi; hành Thổ là nước dãi; hành
Kim là nước mắt; hành Thủy là nước tiểu.
Ngũ hành với bốn mùa
Hành Mộc tương ứng với mùa xuân. Tương tự, sự tương ứng với mùa
tiếp theo, hành Hỏa là mùa hạ; hành Thổ là trưởng hạ, cuối mùa; hành Kim là
mùa thu; hành Thủy là mùa đông.
Ngũ hành với không khí, thời tiết
Hành Mộc tương ứng với không khí thời tiết ấm. Tương tự, sự tương
ứng với thời tiết tiếp theo, hành Hỏa là nóng; hành Thổ là ẩm; hành Kim là
mát; hành Thủy là lạnh.
Ngũ hành biểu hiện trong lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại
Mộc khí thắng thì nhà Hạ. Tương tự, vì khó thắng các nhà tiếp theo,
hành Hỏa là nhà Chu; hành Thổ là Hoàng Đế; hành Kim là nhà Thương; hành
Thủy là nhà Tần.
110

Vận dụng Ngũ hành vào giải thích các lĩnh vực xã hội, màu sắc, sự vật
tương thích với ngũ hành, các Âm Dương gia cho rằng quá trình vận động,
biến chuyển của lịch sử xã hội loài người cũng bị chi phối bởi năm thế lực vật
chất ấy và phải tuân theo sự biến hóa của ngũ hành. Họ cho rằng sự tiêu vong
và sự xuất hiện của mỗi triều đại vua chúa trong lịch sử đều là sự thể hiện của
một thứ thế lực ngũ hành và sự phát triển của lịch sử là theo trình tự “Ngũ
hành tương thắng”. Họ nói thời Hoàng Đế là “khí đất thắng”, triều đại nhà Hạ
thay thế cho thời kỳ Hoàng Đế là tuân theo quy luật “mộc thắng thổ”, triều đại
nhà Ân – Thương lật đổ triều đại nhà Hạ là thể hiện quy luật “kim thắng
mộc”, triều đại nhà Chu lật đổ triều đại nhà Ân là thể hiện quy luật “hỏa thắng
kim”. Và họ xem thời đại bấy giờ là thời đại “thủy thắng hỏa”, cho nên “thủy
đức” là đức của nhà Tần. Họ yêu cầu bọn thống trị phải sắp đặt chính sách cai
trị ứng với “điềm trời” báo trước hiện ra qua các hiện tượng của tự nhiên,
tuân theo quy luật biến hóa của ngũ hành. Sách Lã thị xuân thu, VIII, 2, viết:
“Phàm đế vương sắp lên ngôi, trời trước hiện điềm lành báo cho thiên hạ.
Thời Hoàng Đế nói “Khí đất thắng”, khí đất thắng nên chuộng sắc màu vàng,
việc phỏng theo hành thổ. Đến đời vua Vũ nhà Hạ, trời trước hiện ra cỏ cây,
thu đông không chết. Vua Vũ nói: “Khí gỗ thắng”, khí gỗ thắng nên chuộng
sắc màu xanh, việc phỏng theo hành mộc. Đến thời vua Thang người sáng lập
ra nhà Thương, trời trước hiện ra lưỡi dao trong nước. Vua Thang nói: “Khí
kim thắng”, khí kim thắng nên chuộng sắc trắng, việc phỏng theo hành kim.
Đến đời vua Văn người sáng lập ra nhà Chu, trời trước hiện ra lửa, quạ đỏ
ngậm sách đỏ, đậu tại đền xã nhà Chu. Vua Văn nói: “Khí hỏa thắng”, khí hỏa
thắng nên chuộng sắc màu đỏ, việc phỏng theo hành hỏa.
Thay cho lửa là nước. Trời lại hiện ra khí nước thắng. Khí nước thắng
nên chuộng sắc màu đen, việc phỏng theo hành thủy. Khi vòng đã đủ, lại bắt
đầu từ hành thổ…” (Lã thị xuân thu, VIII, 2).
Trong Sử ký, Tư Mã Thiên cũng nói: “Tần Thủy Hoàng xét việc năm
đức lần lượt thay đổi nhau, nên cho nhà Chu được “hỏa đức”, nhà Tần thay
111

thế nhà Chu thì phải theo cái đức mà hành hỏa không thắng được. Cho nên, từ
nay “thủy đức” là đức bắt đầu của nhà Tần, mọi việc phỏng theo hành thủy,
đổi đầu năm, việc triều cống chúc mừng bắt đầu từ mồng một tháng mười. Áo
quần, cờ tiết, cờ mao đều dùng màu đen, lấy số sáu làm đơn vị, các phù và các
mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa,
sông Hoàng Hà đổi tên thành Đức Thủy. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay
gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạch, không
dùng nhân đức, lễ nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức” […].
Ngũ hành với thú loài động vật tương ứng
Can mộc tương ứng với loài động vật thuộc loài có vảy.`Tương tự, sự
tương ứng với loài động vật: thuộc loài tiếp theo, hành hỏa là loài lông vũ;
hành thổ là loài da nhẵn; hành kim là loài lông mao; hành thủy là loài mai
cứng.
Ngũ hành với các nốt tân nhạc
Hành Mộc tương ứng tân nhạc với nốt Mi. Tương tự, sự tương ứng tên
nhạc với các nốt tiếp theo, hành Hỏa là Sol; hành Thổ là Đô; hành Kim là Ré;
hành Thủy là La.
Ngũ hành với Ngũ đức
Hành Mộc tương ứng với đức Nhân. Tương tự sự tương ứng các đức
tiếp theo, hành Hỏa là Trí; hành Thổ là Tín; hành Kim là Nghĩa; hành Thủy là
Lễ.
Ngũ hành biểu hiện ra ngũ đức và ngũ chí (cảm xúc)
Hành mộc biểu hiện ra đức Nhân và cảm xúc là giận. Tương tự sự
biểu hiện các đức và các cảm xúc tiếp theo, hành hỏa là Trí và mừng; hành
thổ là Tín và lo; hành kim là Nghĩa và buồn; hành thủy là Lễ và sợ.
Ngũ hành biểu hiện ra tình cảm và thái độ
Hành mộc biểu hiện ra tình cảm hô hào, cổ súy và thái độ giận dữ.
Tương tự, sự biểu hiện ra tình cảm và thái độ tiếp theo, hành hỏa là yêu
thương và vui, mừng rỡ; hành thổ biểu hiện là thơm thảo, cổ súy và thái độ
112

suy nghĩ; hành kim biểu hiện là luyến tiếc và buồn thương; hành thủy biểu
hiện là thủ thỉ, yếu ớt và sợ hãi.
Sau cùng, vận dụng Ngũ hành vào con người.
Ngũ hành với tạng, huyệt của Âm kinh và Dương kinh
Vì thế không trách gì cổ nhân đã theo Tứ thời khí thọ bệnh cũng phải
coi chính khí đang ở sâu hay cạn để chẩn đoán, cho nên người dùng châm khi
trị bệnh phải theo đúng sự sâu cản khí của Tứ thời để mà chọn huyệt sâu hay
cạn. Mùa xuân châm huyệt Tỉnh, mùa Hạ châm huyệt Vinh, mùa Quí Hạ
châm huyệt Du, mùa Thu châm huyệt Kinh, mùa Đông châm huyệt Hợp, vì
mùa xuân châm huyệt Tỉnh đó là tà khí đang ở tại Can, mùa Hạ châm huyệt
Vinh đó là tà khí đang ở tại Tâm, mùa Quí hạ châm huyệt Du đó là tà khí
đang ở tại Tỳ, mùa Thu châm huyệt Kinh đó là tà khí đang ở tại Phế, mùa
Đông châm huyệt Hợp đó là tà khí đang ở tại Thận. Sự biểu hiện của bệnh tật
rất đa dạng, sự vận hành của Tứ thời có độ số của chúng nhưng đều gắn liền
với 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Ôn thuộc Mộc, nhiệt thuộc Hỏa, lương thuộc Kim, hàn thuộc Thủy,
bình thuộc Thổ. Trong Âm kinh: tĩnh thuộc Mộc, vinh thuộc Hỏa, du thuộc
Thổ, kinh thuộc Kim, hợp thuộc Thủy. Trong Dương kinh : tĩnh thuộc Kim,
vinh thuộc Thủy, du thuộc Mộc, kinh thuộc Hỏa, hợp thuộc Thổ.
Ngũ hành với lục phủ
+ Đởm có quan hệ biểu lý tạng phủ với Can. Can Đởm hay phối hợp
sinh bệnh và lấy bệnh ở Can là chính để chẩn đoán và chữa bệnh. Kết hợp vận
dụng ngũ hành Đởm. Các triệu chứng bệnh gồm: vàng da, đau mạng sườn,
khi sốt khi rét, miệng đắng nôn mửa ra nước đắng.
+ Vị có quan hệ biểu lý tạng phủ với Tỳ. Tỳ Vị hay phối hợp sinh ra
bệnh và lấy bệnh ở Tỳ là chính để chẩn đoán và chữa bệnh. Kết hợp vận dụng
ngũ hành của Tỳ.
Các triệu chứng gồm: đau lâm râm vùng trung quản, nôn ra nước
trong, ăn mau đói, ợ chua, đầy bụng, bón.
113

+ Tiểu trường có quan hệ biểu lý tạng phủ với Tâm. Nếu Tâm hỏa
vượng, nhiệt xuống tiểu trường gây ra các triệu chứng về Tâm hỏa kèm theo
tiểu tiện ngắn đỏ, thậm chí đái buốt, đái ra máu, lỡ môi miệng. Tiểu trường và
Tâm hay phối hợp sinh ra bệnh và lấy bệnh ở Tâm là chính để chẩn đoán và
chữa bệnh. Kết hợp vận dụng ngũ hành của Tiểu trường.
+ Đại trường có quan hệ biểu lý tạng phủ với Phế. Phế, Đại trường
hay phối hợp sinh ra bệnh và lấy bệnh ở Phế làm chính để chẩn đoán và chữa
bệnh. Kết hợp vận dụng ngũ hành của Đại trường. Trên lâm sàng xuất hiện
các triệu chứng của Đại trường sau đây: ỉa lỏng, sôi ruột, khô miệng, bón, cầu
ra máu, đại tiện không tự chủ.
+ Bàng quang có quan hệ biểu lý tạng phủ với Thận. Thận và Bàng
quang hay phối hợp sinh ra bệnh và lấy bệnh ở Thận là chính để chẩn đoán và
chữa bệnh. Kết hợp vận dụng ngũ hành của Bàng quang. Trên lâm sàng, xuất
hiện các triệu chứng của bàng quang : nước tiểu trong đi nhiều lần, nước tiểu
đỏ, són đái, nóng trong ống tiểu, tiểu không tự chủ, bí đái.
+ Tam tiêu có quan hệ biểu lý tạng phủ với Tâm bào lạc. Tâm bào lạc
và Tam tiêu hay phối hợp sinh ra bệnh và lấy bệnh ở Tâm bào lạc là chính để
chẩn đoán và chữa bệnh. Kết hợp vận dụng ngũ hành của Tam tiêu. Trên lâm
sàng xuất hiện các triệu chứng của Tam tiêu sau đây: bụng căng đầy, cứng
đầy ở bụng dưới, tiểu không thông, đái nhiều lần lắc rắc, phù da, phù thủng,
đái dầm. Các triệu chứng của Tâm bào lạc sau đây: nói bậy, xâm xoàng muốn
té, bứt rứt nóng ruột, căng tức sườn ngực, lưỡi không nói được, hồi hộp không
yên, đau tim, rối loạn tâm thần như hay cười vô cớ.
Học thuyết Ngũ hành thuyết minh sự biến hóa của tự nhiên, từ hiện
tượng tự nhiên người ta dùng phương pháp so sánh để nói lên mối quan hệ
với sinh lý của cơ thể con người. Chẳng hạn, lấy hành Mộc trong Ngũ hành
làm trung tâm, dùng quan điểm “thiên nhân tương ứng” kết hợp với khí hậu
biến hóa của tự nhiên giới có ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của thực vật trên
mặt đất, từ đó liên hệ tới tạng khí bên trong cơ thể là can, từ can lại kết hợp
114

đến chức năng sinh lý của tổ chức khí quan bên ngoài liên hệ tới mặt động tư
tưởng cũng như trên biến hóa của bệnh lý.
Với phương pháp loại suy, phương Đông dương khí thăng mà sinh
phong, phong khí có thể làm cho Mộc khí vượng thịnh, Mộc khí hay sinh vị
chua, vị chua hay tư dưỡng can khí, can khí lại hay tư dưỡng vào gân, gân nhu
hòa thì lại có thể sinh dưỡng cho tâm, can khí lại liên quan với mắt.
Nội kinh quy nạp:
Ở khoảng không là gió, ứng với trên mặt đất. Mộc khí, ứng với con
người là gân, ứng với ngũ tạng là can, ứng với ngũ sắc là màu xanh, ứng với
âm là giốc, ứng với thanh là tiếng hét, ứng với biến động là nắm tay, ứng với
thất khiếu là con mắt, ứng với ngũ vị là chua, ứng với tình chí là tức giận.
Tương tự, phương Nam dương khí nóng nhiều sinh nhiệt có thể làm
cho Hỏa khí thịnh, Hỏa có thể sinh vị đắng, vị đắng có thể tư dưỡng cho tâm
khí, tâm khí có thể hóa sinh khí huyết, khí huyết sung túc thì lại sinh dưỡng
cho tỳ. Tâm khí có liên hệ với lưỡi.
Trung ương đất bằng sinh thấp, thấp hay làm cho Thổ khí vượng, Thổ
khí sinh ra vị ngọt, vị ngọt hay tư dưỡng tỳ khí, tỳ khí lạc hay tư dưỡng cơ
nhục, cơ nhục đầy đặn thì sinh dưỡng cho phế. Tỳ khí quan hệ với miệng.
Phương Tây khí trời cấp mà sinh táo (ráo), táo hay làm cho Kim khí
vượng, kim loại hay sinh vị cay, vị cay hay tư dưỡng phế khí, phế khí đủ hay
tư dưỡng da lông, da lông mướt thì sinh dưỡng ở thận, phế khí có liên hệ
tới mũi.
Phương Bắc âm u ngưng đọng mà sinh hàn, hàn khí hay làm vượng
Thủy khí, Thủy khí sinh vị mặn, vị mặn hay tư dưỡng thận khí, thận khí hay
tư dưỡng xương tủy, xương tủy đầy đủ thì lại hay sinh dưỡng cho can. Thận
khí liên quan ở tai.
Ngũ hành với vấn đề bệnh lý
Nội kinh ghi rằng: Tâm ứng hợp với huyết mạch, sự vinh nhuận của
tâm biểu hiện khí sắc ở vùng mặt, chế ước tâm là Thận (Thủy khắc Hỏa), phế
115

ứng hợp với da, vinh nhuận của phế biểu hiện ở da, chế ước phế là tâm (Hỏa
khắc Kim). Can tương ứng với cân, sự vinh nhuận của can biểu hiện ở móng
tay chân, chế ước can là phế (Kim khắc Mộc). Tỳ ứng hợp với bắp thịt, sự
vinh nhuận của tỳ biểu hiện ở môi miệng, chế ước Tỳ là Can (Mộc khắc Thổ).
Thận tương ứng với xương, sự vinh nhuận của nó biểu hiện ở tóc, chế ước
Thận là tỳ (Thổ khắc Thủy).
Mặc dù sinh khắc như thế, nhưng trong ngũ hành khi có một hành lấn
trội lên thì có thể sinh tổn hại cho nên phải có một hành đến khắc chế nó; có
chế ước như thế sau đó mới có sinh hóa.
Nhân tố đặc biệt gây bệnh của ngũ tạng với tổ chức và đưa ra phương
pháp trị liệu trong Nội kinh là lấy buồn phiền thắng tức giận, lấy sợ hãi thắng
vui mừng, lấy vui mừng thắng lo lắng, lấy suy nghĩ thắng sợ hãi, lấy tức giận
thắng suy nghĩ v.v.. Sách ghi rằng:
Tức giận thì tổn hại tới can, nhưng bi ai có thể ức chế được giận dữ.
Phong khí hay làm tổn thương gân, nhưng ráo có thể ức chế được
phong khí. Ăn quá nhiều vị chua hại gân, nhưng vị cay có thể ức chế được
vị chua.
Vui mừng tổn hại tới tâm, nhưng sợ sệt thì ức chế được vui mừng.
Nhiệt hay làm tổn thương khí, nhưng hàn khí có thể ức chế được nóng sốt, vị
đắng hay tổn thương tới khí, nhưng vị mặn có thể ức chế được vị đắng.
Lo nghĩ có thể hại tỳ, nhưng nổi giận thì ức chế được lo lắng. Thấp
khí hay tổn hại bắp thịt nhưng phong khí có thể ức chế được thấp khí. Vị ngọt
hay tổn thương thịt, nhưng vị chua hay ức chế vị ngọt.
Ưu sầu hay hại tới phế, nhưng sự vui mừng có thể ức chế sự ưu sầu.
Nhiệt hay làm hại da lông, nhưng sự lạnh lẽo có thể làm hạ được nóng sốt. Sợ
sệt hại thận nhưng lo nghĩ sẽ ức chế lo sợ. Lạnh hại huyết nhưng ráo thì ức
chế được lạnh. Mặn hay hại huyết nhưng vị ngọt hay ức chế được vị mặn.
Về chức năng sinh lý cơ thể con người, ông Thời Nhật Dân đã giải
thích về Ngũ hành tương khắc trên nhân thể, ông nói:
116

Mộc khắc Thổ: Thổ đại biểu cho cơ quan tiêu hóa. Tinh thần uất kết
thường ảnh hưởng tới rối loạn tiêu hóa nên có mạch huyền, đó là hiện tượng
thần kinh bị căng thẳng. Cổ nhân nói Huyền là mạch của Can, bởi thế nên
dùng mấy chữ Mộc khắc Thổ để thuyết minh trạng thái ấy. Đại khái, thủy chỉ
công dụng của cơ quan bài tiết nước tiểu, cặn bã trong cơ thể.
Thủy khắc Hỏa: Đại khái lấy “Hỏa” đại biểu cho công dụng của thể
Ôn và tâm tạng cùng sự tuần hoàn. Thể Ôn xuống thấp, tim suy nhược, sinh ra
thể dạng nước đình trệ như trong trường hợp phù tim chẳng hạn.
Hỏa khắc Kim: Đại khái lấy Kim đại biểu cho công dụng của cơ quan
hô hấp. Trong phổi có phục nhiệt sinh ra các chứng như ho, thổ huyết, phát
sốt, khát nước, tâm phiền...
Kim khắc Mộc: Đại khái, Kim đây chỉ công dụng của cơ quan hô hấp.
Mộc chỉ hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm vì bị bệnh mà biến động, nếu
có bệnh thường rối loạn về hô hấp, cổ nhân gọi đó là “Mộc hỏa hình Kim,
vũ phế”.
Thổ khắc Thủy: Đại khái, Thổ đáng là chỉ công dụng của cơ quan tiêu
hóa, muốn trị bệnh cho người có thấp khí ứ đọng (đình thủy) thì trước hết
phải lo điều lý cơ quan tiêu hóa, cổ nhân nói đó là “bổ Thổ dĩ chế Thủy” (bổ
Thổ để áp chế Thủy).
Ngũ hành với hành động, hành vi ở con người
Bệnh ở gân: tay chân co quắp, thuộc Can bệnh.
Bệnh ở mũi: hắt hơi, sổ mũi, chảy máu cam... thuộc Phế bệnh.
Bệnh ở miệng: ăn kém, nôn ọe, lạt miệng, loét miệng... thuộc Tỳ vị
bệnh.
Bệnh ở xương tủy: chậm biết đi, chậm mọc răng, đau nhức xương, tóc
bạc sớm, tay chân run cứng, hay sợ sệt... thuộc Thận bệnh.
Bệnh ở mạch: hay nhăn nhó thuộc Tâm bệnh.
117

Ngũ hành với việc bào chế thuốc


Sao với dấm cho vị thuốc vào Can.
Sao với đường, mật cho vị thuốc vào Tỳ.
Sao với muối cho vị thuốc vào Thận.
Sao với gừng cho vị thuốc vào Phế.
Ngũ hành với Ngũ sự tương ứng
Can mộc thể hiện sự vật hiện tượng qua hình dáng. Tương tự sự thể
hiện sự vật, hiện tượng tiếp theo, Tâm hỏa là tướng mạo; Tỳ thổ là lời nói;
Phế kim là lắng nghe; Thận thủy là tư duy.
Tóm tắt các quan hệ nêu trên ứng với học thuyết Ngũ hành được diễn
tả dưới bảng kê sau:
Ngũ hành biểu hiện ra tự nhiên
Ngũ hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Số Hà Đồ 3 2 5 4 1
Cửu cung 3,4 9 5,8,2 7,6 1
Giai đoạn sinh Dương hoàn chỉnh Âm - Dương sinh Âm cực hoàn chỉnh
phát triển Âm cực Dương cực cân bằng Âm cực
Dương
Tình trạng Năng nảy sinh mở rộng cân bằng thu nhỏ bảo tồn
lượng
Không khí thời Ấm Nóng Ẩm Mát Lạnh
tiết
Thế đất Dài Nhọn Vuông Tròn Ngoằn
ngoèo
Quá trình phát sinh trưởng hóa thâu tàn
triển
Vật biểu thanh long chu tước kỳ lân bạch hổ huyền vũ
Quả tử mận mơ táo, đào hạt dẻ
chà là
Ngũ cốc lúa mì đậu gạo hạt gai dầu hạt kê
Thiên văn Mộc tinh Hỏa tinh Thổ tinh Kim tinh (Thái Thủy tinh
(Tuế Tinh) (Huỳnh tinh) (Trấn tinh) Bạch) (Thần tinh)
Quẻ Bát quái tốn, chấn ly khôn, cấn càn, đoài khảm
118

Thập can Giáp, Ất Bính, Đinh Mậu, Kỷ Canh, Tân Nhâm, Quý
Thập nhị chi Dần, Mão Tỵ, Ngọ Thìn, Tuất, Thân, Dậu Tí, Hợi
Sửu, Mùi
Thời gian trong rạng sáng giữa trưa chiều tối nửa đêm
ngày
Bốn phương Đông Nam Trung tâm Tây Bắc
hướng
Bốn mùa Xuân Hạ Tháng cuối Thu Đông
quý, mùa
trưởng hạ
Màu sắc xanh đỏ vàng trắng đen
Mùi vị chua đắng ngọt cay mặn
Khí hậu phong thử thấp táo Hỏa
Ngũ âm Giốc Chùy Cung Thường Vũ

Ngũ hành biểu hiện ra xã hội


Ngũ hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Thú nuôi Chó Dê cừu Gia súc nói Gà Heo
chung
Thú loài Có vảy Lông vũ Da nhăn Lông mao Mai cứng
động vật
Tân nhạc Mi Sol Đô Rê La
Ngũ đức Nhân Trí Tín Nghĩa Lễ
Ngũ chí (xúc Giận Mừng Lo Buồn Sợ
cảm)
Tình cảm hô hào, cổ yêu thương thảo thơm luyến tiếc thủ thỉ, yếu ớt
súy
Thái độ giận dữ mừng rỡ, vui suy nghĩ buồn thương sợ hãi

Ngũ hành biểu hiện ra con người


Ngũ hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Ngũ thể của cơ thể gân mạch thịt da lông xương
Ngũ tạng can (gan) tâm (tim) tỳ (lá lách) phế (phổi) thận
Lục phủ đảm (mật) tiểu trường vị (dạ dày) đại trường bàng
(ruột non) (ruột già) quang
119

(bọng đái)
Ngũ khiếu mắt lưỡi miệng mũi tai
Ngũ tân bùn (dịch mồ hôi nước dãi nước mắt nước tiểu
mật)
Giọng hét, thét cười, nói ca, hát khóc rên
Bào chế sao dấm sao đường mật sao gừng sao muối
Huyệt âm kinh tĩnh vinh sự kinh hợp

Huyệt dương kinh du kinh hợp tỉnh vinh


Ngũ sự hình dáng tướng mạo lời nói lắng nghe tư duy
Hành động nắm chặt, nhăn nhó nôn ọe ho, hen run, sợ
co quắp

2.1.3. Những quy luật cơ bản của Ngũ hành


Trong học thuyết Ngũ hành, các hành chất không thụ động, tĩnh tại,
giữa các hành chất (hay còn gọi là các yếu tố) chúng tác động lẫn nhau, đó là
các yếu tố biện chứng trong học thuyết Ngũ hành bởi chữ “hành” có nghĩa là
vận động. Sự tương tác vận động của ngũ hành được biểu hiện thành quy luật
nhất định. Có 7 quy luật tương tác, vận động của ngũ hành nhưng bắt đầu là
hai quy luật căn bản nhất là: Ngũ hành tương sinh và Ngũ hành tương khắc.
Ngoài ra, do tính phong phú của vạn vật trong vũ trụ và trong cuộc sống, quy
luật vận động ngũ hành thực tế được biểu hiện và tuân theo bảy quy luật: quy
luật Ngũ hành tương sinh, quy luật Ngũ hành tương khắc (hay tương thắng),
quy luật Ngũ hành tương thừa, quy luật Ngũ hành tương vũ, quy luật Ngũ
hành phản sinh, quy luật Ngũ hành phản khắc, quy luật hỗn mang của Ngũ
hành. Sau đây là sự trình bày các quy luật của ngũ hành:
QUY LUẬT NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH
“Tương” là quan hệ, tương tác, liên hệ với nhau, tác động qua lại.

“Sinh” 生 có nghĩa là hàm ý nuôi dưỡng, giúp đỡ, sinh ra, là sống, là dựa vào

nhau mà tồn tại. Tương sinh là quan hệ giúp đỡ lẫn nhau, sinh ra, dựa vào
nhau mà tồn tại. Quy luật Ngũ hành tương sinh là quá trình các yếu tố của ngũ
120

hành liên hệ, tác động, chuyển hóa, sinh thành lẫn nhau giữa các hành chất,
tức Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh
Mộc; khẳng định một điều là mọi vật trong tự nhiên không tự sinh ra và
không tự mất đi, chúng được chuyển từ dạng này sang dạng khác. Vì thế quy
luật Ngũ hành đặc trưng cho sự chuyển hóa vật chất trong vũ trụ. Bằng trực
quan, cổ nhân đã đúc kết quy luật tương sinh như sau:
Nước (Thủy) là môi trường sinh ra sự sống (Mộc). Cây cối được sinh
từ nước (Thủy) tồn tại và phát triển tạo ra năng lượng (Hỏa). Đến lượt mình
lửa (Hỏa) sẽ đốt cháy mọi thứ thành đất (Thổ). Trong đất có đá (Thạch –
Kim) nên Thổ sinh Kim. Kim loại nấu chảy thành chất lỏng (thủy), do đó Kim
sinh Thủy.
Quy luật tương sinh được mô tả theo sơ đồ sau :

Trong mô hình biểu diễn quy luật tương sinh như trên, có thể biểu đạt
như sau: Hành đứng trước mũi tên sẽ sinh ra hành đứng sau nó. Quy luật này
như mẹ - con và sự nương tựa này được khép kín.
Quy luật tương sinh Ngũ hành khẳng định một điều là mọi vật trong tự
nhiên không tự sinh ra và không tự mất đi, chúng được chuyển từ dạng này
sang dạng khác.Vì thế quy luật Ngũ hành đặc trưng cho sự chuyển hóa vật
chất trong vũ trụ.
QUY LUẬT NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
Nếu mọi sự vật cứ tương sinh hoài thì các sự vật tăng trưởng mãi đến
một lúc nào sẽ bị phá hủy. Như vậy, mọi sự vật cần có sự kềm chế để tạo sự
quân bình. Đó là quy luật tương khắc tất yếu tồn tại trong mọi sự vật.
“Tương” là quan hệ, tác động qua lại.
121

“Khắc” 克 có nghĩa là hàm ý ức chế, đối lập, chế ước với nhau, ngăn trở.

[Còn gọi là “thắng”, đồng nghĩa với “khắc” 克 trong quy luật tương khắc]

Ngũ hành tương khắc (tương thắng) là quá trình các yếu tố của ngũ
hành chế ước, bài xích, khắc chế lẫn nhau; hay là sự bài xích, chế ước, triệt
tiêu lẫn nhau giữa các hành chất. Trong đó Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim,
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
Quy luật Ngũ hành tương khắc được biểu diễn bằng sơ đồ sau:

HỎA

MỘC THỔ

THỦY KIM

Như vậy mỗi hành trên đỉnh ngôi sao luôn tương khắc hai chiều : Mỗi
hành bị hành khác khắc và chính nó khắc, kiềm chế hành khác ở đỉnh ngôi sao
(theo chiều mũi tên).
Mối quan hệ Sinh – Khắc là quan hệ hỗ tương, nhịp nhàng, ràng
buộc nhau:
- Mộc khắc Thổ, Thổ sinh Kim, để rồi Kim khắc Mộc.
- Thổ khắc Thủy, Thủy sinh Mộc, để rồi Mộc khắc Thổ.
- Kim khắc Mộc, Mộc sinh Hỏa, để rồi Hỏa khắc Kim.
- Hỏa khắc Kim, Kim sinh Thủy, để rồi Thủy khắc Hỏa.
- Thủy khắc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, để rồi Thổ khắc Thủy.
Vạn vật trong tự nhiên tồn tại chịu tương tác lẫn nhau, có cái là
nguyên nhân tạo ra (sinh) nhưng cũng có cái lại ức chế, kìm hãm và chống lại
(khắc). Hiện tượng khắc - chế lẫn nhau tạo nên sự cân bằng trong mọi sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ - cân bằng vũ trụ.
122

Ngũ hành tương sinh, bên trong Ngũ hành tương khắc,
có lồng tương khắc có bao vòng ngoài tương sinh
QUY LUẬT NGŨ HÀNH TƯƠNG THỪA
Nguyên lai, sự vận động phát triển của Ngũ hành được trình bày, lý
giải qua hai quy luật Ngũ hành tương sinh và Ngũ hành tương khắc; nhưng
trong quá trình phát triển do tính chất phức tạp của sự liên hệ, tác động của
các hình chất, người ta đã phát triển thêm các quy luật khác của Ngũ hành. Đó
là tương thừa, tương vũ của Ngũ hành, quy luật hỗn mang của Ngũ hành.
Thừa nghĩa là dư, lấn át, thái quá, vượng, thịnh quá. Quy luật Tương
thừa là quy luật khắc khác thường của Ngũ hành: Hành khắc quá mạnh,
vượng (thừa) nên quy luật khắc xảy ra một cách dữ dội, khắc nhiều hơn bình
thường, khắc thừa.
Ví dụ: Mộc thái quá (quá cứng) nên có thể xuyên phá làm hủy hoại
Thổ, khi đó ta nói Mộc tương thừa Thổ.
QUY LUẬT NGŨ HÀNH TƯƠNG VŨ
Vũ là khinh lờn, không có sự kiềm chế, quy luật khắc xảy ra trong
trường hợp bất cập, suy yếu của hành chủ động đi khắc.
Quy luật tương vũ của Ngũ hành là quy luật hạn chế tương khắc, tức
là hành bị khắc mạnh lên và chống lại sự khắc của hành chủ động đi khắc nên
gọi hành bị khắc vũ lại, làm yếu hành chủ đi khắc.
Ví dụ: Vừa rồi Mộc cứng (thái) quá làm cho Kim không khắc được.
Mộc khinh lờn Kim trong hai trường hợp: Mộc vượng hoặc Kim quá bất cập,
yếu quá.
Qua ví dụ trên hai quy luật Ngũ hành tương thừa và Ngũ hành tương
vũ đồng thời tồn tại với hành Mộc theo sơ đồ:
123

a. Quan hệ khi Mộc thái quá

KIM MỘC THỔ

TƯƠNG VŨ TƯƠNG THỪA

b. Quan hệ khi Mộc bất cập

KIM MỘC THỔ

TƯƠNG THỪA TƯƠNG VŨ


Ngũ hành có mối quan hệ nhiều chiều, ngoài 4 quy luật đã bàn ở trên
chúng ta xét thêm hai quy luật phản sinh và phản khắc.
Quy luật phản sinh là quan hệ một hành quá vượng gián tiếp sinh ra
một hành khác cũng vượng theo.
Quy luật phản khắc là quan hệ một hành quá vượng khắc mạnh (tương
thừa) làm hành bị khắc bất cập nên sinh ra hành con suy yếu không khắc lại
nổi hành vượng nói trên.
Cụ thể phản sinh, phản khắc.
Hỏa phản sinh Mộc và phản khắc Thủy
Hỏa thái quá sẽ tương thừa Kim làm hành Kim suy yếu nên Kim bất
cập sẽ tương vũ Mộc, không khắc được Mộc làm Mộc vượng theo Hỏa. Mộc
càng vượng thì Hỏa càng thái quá, ta có: Hỏa phản sinh Mộc. Mặt khác Hỏa
thái quá, Kim bất cập, suy yếu nên sinh ra Thủy suy yếu làm Thủy không
khắc nổi Hỏa, như vậy Hỏa phản khắc Thủy.
Thổ phản sinh Hỏa và phản khắc Mộc
Thổ thái quá sẽ tương thừa Thủy làm hành Thủy suy yếu, nên Thủy
bất cập sẽ tương vũ Hỏa, không khắc được Hỏa, kết quả Hỏa vượng. Hỏa
càng vượng thì Thổ càng vượng, ta có Thổ phản sinh Hỏa. Mặt khác vì Thổ
124

thái quá làm Thủy suy yếu, Thủy bất cập sinh ra Mộc yếu nên Mộc không
khắc được Thổ: Thổ phản khắc Mộc.
Kim phản sinh Thổ và phản khắc Hỏa
Kim thái quá sẽ tương thừa Mộc làm hành Mộc suy yếu, Mộc bất cập
sẽ tương vũ Thổ nên Thổ vượng theo Kim. Thổ càng vượng thì Kim lại thái
quá, ra có Kim phản sinh Thổ. Mặt khác vì Mộc bất cập suy yếu sẽ sinh ra
Hỏa kém, kết quả Hỏa không khắc được Kim, ta có Kim phản khắc Hỏa.
Thủy phản sinh Kim và phản khắc Thổ.
Thủy thái quá sẽ tương thừa Hỏa làm Hỏa bất cập nên tương vũ kim,
kết quả hành Kim vượng. Kim càng vượng thì Thủy càng thái quá, ta có Thủy
phản sinh Kim. Tương tự như trên khi Hỏa bất cập suy yếu sẽ sinh ra Thổ bất
cập không khắc nổi Thủy, vậy Thủy phản khắc Thổ.
Mộc phản sinh Thủy và phản khắc Kim
Mộc thái quá sẽ tương thừa Thổ làm hành Thổ suy yếu, Thổ bất cập sẽ
tương vũ Thủy kết quả Thủy vượng. Thủy càng vượng thì mộc càng thái quá,
ta có Mộc phản sinh Thủy. Cuối cùng là Thổ bất cập sinh ra Kim suy yếu mà
Kim bất cập sẽ không khắc nổi Mộc, ta lại có Mộc phản khắc Kim.
QUY LUẬT HỖN MANG: là sự tổng hợp tất cả các quy luật.
* Khái niệm
Ngũ hành với hai quy luật cơ bản sinh – khắc sẽ cho thêm những kết
luận sau:
Hai hành tương sinh hoặc cùng mạnh, vượng hoặc cùng yếu (suy)
Hai hành tương khắc: cái này thịnh thì cái kia suy.
Tuy nhiên, các sự vật không phải bao giờ cũng tuân thủ quy luật như
vậy một cách tuyệt đối. Có khi cả hai hành tương sinh lại nghịch nhau : mẹ
yếu – con mạnh hoặc ngược lại. Nguyên nhân là do các hành khắc quá yếu
(tương vũ). Có khi cả hai hành tương khắc lại thuận nhau: cùng yếu hoặc
cùng mạnh, nguyên nhân do là do có hiện tượng phản sinh và phản khắc. Điều
này được thể hiện ở mô hình hỗn mang dưới đây:
125

* Một mô hình hỗn mang


Ta xét một mô hình hỗn mang khi hai hành Mộc và Hỏa có chiều
ngược nhau: Mộc (suy) sinh ra Hỏa (vượng).
Mô hình này như hình vẽ :

Ta có: 3 hành: MỘC, KIM, THỦY suy.


2 hành: HỎA, THỔ vượng.
Nguồn gốc của sự hỗn mang này là ở Thủy suy. Vì Thủy bất cập nên
tương vũ Hỏa làm Hỏa vượng. Thủy suy nên Thủy sinh ra Mộc suy. Với mô
hình hỗn mang này chỉ cần làm cho Thủy mạnh lên (bổ Thủy) là hóa giải quy
luật hỗn mang để có chiều thuận, nghịch phù hợp Ngũ hành.
Học thuyết Ngũ hành với Học thuyết Âm Dương
Vấn đề nguồn gốc về thuyết Âm Dương - Ngũ hành
Khi nghiên cứu về thuyết Âm Dương - Ngũ hành, hầu hết các nhà lý
học hiện đại đều cho rằng: Âm Dương và Ngũ hành là hai học thuyết riêng
biệt không liên quan với nhau được phát hiện ở hai thời kỳ khác nhau. Sở dĩ
có hiện tượng này bởi những cổ thư chữ Hán chưa hề có một bản văn nào
được coi là xuất hiện ở trước thời Tần Hán, thể hiện một cách hoàn chỉnh
phương pháp ứng dụng của thuyết đó, ngoại trừ cuốn Hoàng đế Nội kinh Tố
vấn mà nội dung của nó ghi nhận có xuất xứ từ thời Hoàng Đế (khoảng 300
năm tr.CN) (?)
Quan niệm về lịch sử hình thành thuyết Âm Dương và Ngũ hành trong
cổ thư chữ Hán cũng được các học giả nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau.
126

Trong sách Đại cương triết học lịch sử Trung Quốc (Phùng Hữu Lan, Nhà in
lần đầu Đại học Sư phạm Huế 1964, xuất bản Thanh niên, 1999, tái bản người
dịch Nguyễn Văn Dương), viết như sau:
“Tại Trung Quốc xưa có hai luồng tư tưởng đã cố giải thích cấu tạo và
nguồn gốc vũ trụ. Một luồng tư tưởng dựa trên những trước tác của Âm
Dương gia, và luồng tư tưởng sau dựa trên vài phần trong “Dịch truyện” do
các nhà Nho khuyết danh đưa phụ vào bản Dịch nguyên thủy. Hình như hai
luồng tư tưởng ấy đã tiến triển độc lập, không liên quan với nhau. Trong thiên
“Hồng phạm” và thiên “Nguyệt lệnh” mà ta đã xét, Ngũ hành được đề cập mà
thấy không nói tới Âm Dương, trong “Dịch truyện”, trái lại, chỉ thấy nói tới
Âm Dương mà không nói tới Ngũ hành” [6, tr.83]
Nhưng về sau, hai luồng tư tưởng ấy kết hợp làm một. Sự hợp nhất đã
thấy thời Tư Mã Đàm (chết năm 110 tr.CN) khiến cho gom lại trong bộ Sử ký,
dưới tên Âm Dương gia hay các nhà Âm Dương Ngũ hành mà người đứng
đầu là Trâu Diễn viết mười vạn chữ về những biến đổi lạ lùng ấy trong thiên
Đại Thành. Ông viết lời lẽ rất rộng khác thường. Trên cơ sở quan niệm “thiên
nhân chi số”.
Luận thuyết mối quan hệ giữa học thuyết Ngũ hành và học thuyết
Âm dương
Về luận thuyết giữa học thuyết Âm dương và học thuyết Ngũ hành
được lý giải từ Âm dương biến sanh tứ tượng và một yếu tố trung tâm tạo ra
ngũ hành như sau :
Theo Kinh Dịch: từ khối hồng mông mờ mờ mịt mịt huân tập lâu ngày
tạo ra tiếng nổ “big bang”, đó là khối yến sáng lớn vô cùng là Thái cực, Thái
cực biến sinh lưỡng nghi. Đó là Âm dương, từ 1 âm, 1 dương là biến sinh tiếp
nửa ra thái và thiếu như: 1 dương sinh ra Thái dương và Thiếu dương; 1 âm
sinh ra Thái âm và Thiếu âm. Bốn cái Thái dương, Thiếu dương, Thái âm,
Thiếu âm tạo ra Tứ tượng, bốn cái đó được dung hợp một chất trung tâm tạo
ra Ngũ hành.
127

Như vậy Âm dương tạo ra Ngũ hành và Ngũ hành bao hàm có Âm
dương. Giữa Âm dương và Ngũ hành có một giai đoạn chuyển tiếp là tứ
tượng. Đổng Trọng Thư đã giải thích vấn đề nêu trên qua tác phẩm “Xuân thu
phồn lộ” như sau:
“Khí của trời đất, hợp thì là một, chia ra thì là Âm và dương, tách ra
làm bốn mùa, bày xếp thành ngũ hành. “Hành” có nghĩa là vận hành. Vì sự
vận hành (của mỗi khí) không giống nhau nên mới gọi tên là ngũ hành. Ngũ
hành là ngũ quan”.
Để nói lên mối quan hệ của Âm dương và Ngũ hành, ông lý giải sự
kiện đó như sau:
“Gặp lúc khí dương đang thịnh mà hành Mộc, hành Hỏa lại được
dương ấy giúp vào thành mùa Xuân, mùa Hạ và vạn vật sinh trưởng. Gặp lúc
khí Âm đang thịnh mà hành Kim, hành Thủy lại gặp được khí Âm ấy giúp
vào, thì thành mùa Thu, mùa Đông và vạn vật thu tàng. Vì hai khí Âm dương
đắp đổi thịnh suy và luân luân lưu chuyển, cho nên ảnh hưởng của nó đối với
ngũ hành không dứt, mà bốn mùa vì thế cũng xoay vần không ngừng”.
Theo ông, mỗi mùa có một khí làm chủ, vậy mỗi hành làm chủ cái khí
của mỗi mùa. Mỗi hành lại có một phương vị nhất định trong không gian,
thời gian. Ông cho rằng ở ngũ hành có tương sinh (hành nọ sinh ra hành kia)
và tương khắc (hành nọ khắc hành kia), một hành vừa có sinh, vừa có khắc.
“Mộc sinh ra Hỏa, Hỏa sinh ra Thổ, Thổ sinh ra Kim, Kim sinh ra
Thủy, Thủy sinh ra Mộc. Mộc ở phía trái, Kim ở phía phải, Hỏa ở phía trước,
Thủy ở phía sau, Thổ ở chính giữa. Mộc ở phương Đông mà làm chủ khí
Xuân, Hỏa ở phương Nam mà làm chủ khí Hạ, Kim ở phương Tây mà làm
chủ khí Thu, Thủy ở phương Bắc mà làm chủ khí Đông. Cho nên Mộc chủ
sinh mà Kim chủ sát, Hỏa chủ nóng mà thủy chủ lạnh. Đối với thuật thì tinh
khí của can, tâm, thận, phế quy về Tỳ Thổ trung cung hoặc có thể hiểu là
Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần (trong bao hàm Mộc, Hỏa) quy
thành Thổ chân ý của Mậu Kỷ […] có thể phản hoàn tới Thái Cực […] [51,
128

tr.290] Thổ ở chính giữa, gọi là Thiên nhuận. Thổ là tay chân của Trời; đức
của Thổ tươi tốt, không thể dựa vào công việc của một mùa mà mệnh danh
cho Thổ được. Cho nên, có Ngũ hành mà lại chỉ có tứ thời, là vì Thổ kiêm cả
tứ thời Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có một chức vụ không nhờ nơi
Thổ thì Kim, Mộc, Thủy, Hỏa không đứng vững (không làm xong việc) khác
nào chua, mặn, cay, đắng mà không nhân có ngọt thì không thành vị được.
Như vậy, Ngọt là gốc của Ngũ vị, Thổ là chủ của Ngũ hành. Chủ của
khí ngũ hành là khí Thổ, cũng như, ngũ vị mà có được vị ngọt béo, thì mới
thành. Nói cách khác, hành Thổ là điểm Thái cực trong Ngũ hành. Chính vì
thế mà các nhà luyện đan chú ý hành Thổ (Tỳ thổ) để giữ gìn sức khỏe trường
thọ cho bản thân mình [51, tr.290].
Tóm lại, sự quan hệ giữa học thuyết Âm dương và học thuyết Ngũ
hành là Âm dương phát triển ra Ngũ hành qua trung gian của tứ tượng, tứ
tượng nhờ có yếu tố trung tâm là hành Thổ hòa hợp Tứ tượng hay bốn mùa,
hay 4 hành Mộc, Hỏa, Kim, Thủy tạo ra Ngũ hành và ngược lại trong Ngũ
hành có chứa đựng (bao quát) Âm Dương.
Nói cách khác, Âm dương và Ngũ hành đều là sự khái quát tính chất
vật chất khác nhau. Âm dương là sự khái quát tính chất của vật chất ở dạng
đơn giản hơn. Còn ngũ hành là sự khái quát tính chất của vật chất ở dạng phát
triển phức tạp cụ thể hơn qua bốn mùa hay tứ tượng, và chúng (tứ tượng, bốn
mùa) được liên hệ gắn kết qua hành Thổ tạo ra Ngũ hành (Mộc, Hỏa, Thổ,
Kim, Thủy).
Kết luận về các quy luật của học thuyết Ngũ hành
Vạn vật trong vũ trụ tồn tại chịu sự tương tác lẫn nhau, có cái là
nguyên nhân tạo ra (sinh) nhưng cũng có cái ức chế, chống lại nó (khắc). Quy
luật cơ bản đó là tương sinh và tương khắc Ngũ hành. Các quy luật tương
sinh, tương khắc Ngũ hành tạo cho sự cân bằng vũ trụ, các quy luật tương
thừa, tương vũ, phản sinh, phản khắc và hỗn mang là nguyên nhân làm mất
cân bằng vũ trụ.
129

Các hành chất và các quy luật trong học thuyết Ngũ hành vì thế được
vận dụng rất chặt chẽ trong Y lý cổ truyền, đặc biệt diễn giải rõ trong học
thuyết Tạng tượng.
Với sự biểu hiện năm hành chất ra tự nhiên, xã hội và con người, nội
dung học thuyết ngũ hành gồm hai nội dung: một là năm hành chất, hai là mối
quan hệ giữa các hành chất (hay còn gọi là các quy luật của học thuyết Ngũ
hành). Nội dung học thuyết Ngũ hành lúc đầu chỉ là sự mô tả chi tiết “tĩnh”,
phát sinh luôn là hai mặt đối lập của vật chất là Âm Dương, giai đoạn “tĩnh”
này là giai đoạn khởi đầu nguồn gốc của học thuyết ngũ hành là lúc xuất hiện
học thuyết Ngũ hành trong thiên “Hồng phạm” của Kinh Thư, về sau, đến thời
điểm hoàn thiện, khi xuất hiện quyển “Xuân thu phồn lộ” của Đổng Trọng
Thư. Đến lúc này, các hành chất đã được mô tả là ở trạng thái “động”. Đây là
hình thức “biện chứng thô sơ”, thể hiện sự dịch chuyển của vật chất. Nó thống
nhất ở hành thổ, hành thổ như là tính “Thái cực” trong Ngũ hành, làm cho bốn
hành còn lại là Mộc, Hỏa, Kim, Thủy có khuynh hướng quy gia, một yếu tố
thống nhất của vật chất trong học thuyết Ngũ hành. Yếu tố “động” này thể
hiện ý nghĩa hành là đi, di chuyển. Ngoài ra yếu tố “động” ấy còn có các từ
như : “vận”, “chuyển”… Vì thế học thuyết Ngũ hành còn có quan hệ với học
thuyết “Âm dương”, với học thuyết “Ngũ vận lục khí”. Đặc biệt, Học thuyết
Ngũ hành còn thể hiện trong học thuyết Tạng tượng để phục vụ sức khỏe con
người trong y khoa. Với góc độ phản ánh oàn diện sự vật thế giới vật chất từ
lĩnh vực, phương hướng, âm thanh, màu sắc, mùi vị, địa lý… học thuyết Ngũ
hành đều thể hiện cụ thể.
2.2. Cách giải thích mới về thế giới của học thuyết Ngũ hành
2.2.1. Quan điểm duy vật chất phác trong học thuyết Ngũ hành về
sự nhận thức và giải thích thế giới
Học thuyết Ngũ hành xuất hiện sớm trong lịch sử triết học Trung
Quốc, nó ra đời có mục đích là lý giải thế giới tự nhiên bằng chính thế giới tự
nhiên. Nhưng, trước khi học thuyết Ngũ hành xuất hiện người Trung Quốc cổ
130

đại đã có quan điểm: thần thoại, tôn giáo mang tinh thần bí. Học thuyết Ngũ
hành là cơ sở giải thích thế giới vạn vật trong đó có cả tự nhiên, xã hội và con
người.
Thế giới quan thần thoại, tôn giáo trở thành hình thái ý thức chiếm địa
vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội thời bấy giờ. Quý tộc và tăng lữ
nhà Thương và nhà Chu cho rằng sự biến hóa của mọi sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, trong đời sống xã hội cũng như vận mệnh của con người đều
do ý chí của Thượng đế, “Thiên mệnh” và ý chí của quỷ thần chi phối. Chính
quyền, tài sản, sự thông minh, trí tuệ và sự sống lâu của kẻ thống trị cùng
cuộc sống làm tôi tớ cực khổ của nhân dân lao động đều do Thượng đế ban
cho. Giai cấp quý tộc phong kiến tự cho mình là những người chịu mệnh lệnh
của Thượng đế để cai trị nhân dân trên mặt đất và tự xưng là con của Trời, gọi
là “Thiên tử”; mọi người dân phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chúng,
vì đó là phục tùng ý chí của Thượng đế và quỷ thần. Nếu không, Trời và quỷ
thần sẽ trừng phạt nghiêm khắc, gieo xuống cho nhân dân những tai họa nặng
nề bằng những hiện tượng bất thường diễn ra trong tự nhiên như lụt lội, hạn
hán, dịch bệnh, chết chóc v.v.. [16, tr.234]
Các giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo để ru ngủ quần chúng, đề cao
thuyết “Thiên mệnh” để khuất phục quần chúng, song đã bị tư tưởng duy vật
chất phác thuyết năm hành chất chống lại bằng sự giải thích mới về thế giới.
Với bước tiến bộ về nhận thức, lấy thế giới tự nhiên để giải thích thế
giới tự nhiên với năm hành chất khác nhau (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy), học
thuyết Ngũ hành đã đặt nền móng tư duy khoa học mặc dù còn sơ khai. Lý
giải cho trình độ sơ khai về duy vật đó, là do trình độ sản xuất nông nghiệp
lúc bấy giờ còn lạc hậu, thấp kém, vì vậy, phải dựa vào kinh nghiệm thực tế
để nhận thức về thế giới tự nhiên; Kinh nghiệm thực tế sơ khai dựa vào các sự
vật cụ thể với các hành chất cụ thể trong cuộc sống, đồng hóa vật chất với vật
thể, mà chưa có điều kiện phân tích bản chất của sự vật. Đến đời Lưỡng Hán
(năm 136 tr.CN), nhà tư tưởng Đổng Trọng Thư đã bổ sung tư tưởng duy vật
131

chất phác trên với tư tưởng “Thập đoan” đó là “Trời, Đất, Âm, Dương, Mộc,
Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, cộng lại là 9, cùng với Người là 10, số trời hoàn tất
vậy. (Xuân thu phồn lộ, Thiên địa âm dương) [16, tr.351].
Tư tưởng của Đổng Trọng Thư, tuy có tiến bộ hơn so với thuyết thiên
mệnh nhưng vẫn còn mang tính sơ khai. Đồng thời tư tưởng này cũng bộc lộ
sự hạn chế, bởi vì đó là tư tưởng duy vật không triệt để ở chỗ nó đồng nhất
vật chất với vật thể, một dạng cụ thể của vật chất đã dẫn đến sự hạn chế tiếp
theo là: không hiểu rõ được bản chất của các hiện tượng tinh thần cũng như
mối quan hệ giữa tinh thần với vật chất, không có cơ sở xác định những biểu
hiện của vật chất trong đời sống xã hội, nên cũng không có cơ sở để đứng trên
quan điểm duy vật khi giải thích vấn đề xã hội nên tư tưởng Đổng Trọng Thư
đã bị “trượt sang quan điểm duy tâm thần quyền tôn giáo”. [16, tr.380-381].
Về nhận thức khoa học sơ khai của học thuyết Ngũ hành với năm yếu
tố cơ bản chủ yếu, chỉ dựa trên kinh nghiệm, trình độ tư duy nhận thức thô sơ,
chưa khái quát được đặc tính chung nhất của thế giới vật chất, chưa đưa ra
khái niệm về bản chất, bản nguyên của vật chất đúng đắn khoa học, vì vậy,
nhận thức thế giới bằng năm yếu tố dù tiến bộ nhưng vẫn mang tính cụ thể,
cảm tính.
Ngoài ra, sự hạn chế của học thuyết Ngũ hành cũng bắt nguồn từ sự
hạn chế của thực tiễn sản xuất. Do sự hạn chế đó mà con người chưa tìm ra
bản chất của sự vật, nhận thức cải tạo sự vật.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng sự ra đời của học thuyết
Ngũ hành đã đóng góp với ý nghĩa thứ nhứt về tính vật chất của thế giới, đã
giúp loài người nhận thức khoa học hơn, có cách nhìn thế giới đúng đắn hơn.
Điều kiện được thể hiện: - Thứ nhất, giải thích thế giới bằng chính bản thân
thế giới, thứ hai giải phóng tư tưởng con người ra khỏi thế giới quan thần
quyền duy tâm đang phổ biến ở Trung Quốc cổ đại.
132

2.2.2. Học thuyết Ngũ hành với quan điểm biện chứng sơ khai
- Học thuyết Ngũ hành đã không chỉ thể hiện thế giới quan duy vật chất
phác, mà còn thể hiện tư duy biện chứng trong việc nhận thức thế giới, xã hội
và con người: Học thuyết Ngũ hành đã giải thích quá trình hình thành, tồn tại,
phát triển thế giới qua sự biến đổi phát triển của năm hành chất. Nó tác động,
biến đổi và phát triển dựa trên cơ sở quy luật tương sinh và tương khắc.

Tư tưởng biện chứng của học thuyết Ngũ hành được nảy sinh từ thời
Xuân thu – Chiến quốc với quy luật “tương khắc” (hay tương thắng) và quy
luật “tương sinh”. Sự phát hiện quy luật tương sinh, tương khắc của năm hành
chất được phát hiện đầu tiên bằng phương pháp trực quan của người Trung
Quốc cổ đại. Cả hai quy luật tương sinh và tương khắc luôn phát huy tác dụng
và bổ sung cho nhau tạo nên trạng thái quân bình trong thế giới vật chất. Bởi
vì, trong thế giới nếu chỉ có tương sinh, thì thế giới vật chất phát triển đến một
lúc nào đó sẽ bùng nổ, tự tiêu diệt; và ngược lại, nếu chỉ có tương khắc thì
đến một lúc nào đó thế giới vật chất cũng sẽ tự bị thu hẹp dẫn đến tiêu vong.
Về sau, giữa các hành chất, phát triển thêm các quy luật tương thừa, tương vũ,
phản sinh, phản khắc và hỗn mang, tổng cộng có 7 quy luật tất cả, nhưng
trọng tâm vẫn là hai quy luật chính: tương sinh và tương khắc.

Tư tưởng “sinh, khắc” là tư tưởng đầu tiên về sự vận động biện chứng của
học thuyết Ngũ hành. Nó thể hiện một thế giới quan có tính cách mạng và tiến
bộ hơn so với quan niệm nguyên sơ trước đó về thế giới. Sự vận động “sinh,
khắc” còn thể hiện phương pháp luận mới, tiến bộ vì nó chỉ ra rằng các sự vật,
hiện tượng trong thế giới, xã hội, con người không đứng yên, không tĩnh tại, mà
luôn vận động, biến đổi và luân chuyển không ngừng.

Như trên đã nêu, các sự vật, hiện tượng trong thế giới, xã hội và con người
luôn luôn vận động, chuyển hóa lẫn nhau theo quy luật cơ bản : tương sinh,
tương khắc. Nó nói lên rằng, sự vận động biện chứng của năm hành chất là sự
vận động vĩnh viễn, chúng không tự mất đi mà chỉ chuyển hóa, phối hợp, quan
133

hệ, tác động chế ước lẫn nhau. Chính sự vận động biện chứng của Ngũ hành đã
làm cho bốn mùa vận chuyển, các triều đại lịch sử biến dưỡng, các tính chất của
ngũ hành tương ứng trong con người làm con người biến đổi; thời khắc của thế
giới do đó vận động không ngừng.

Mặc dù đạt được “ hạt nhân” biện chứng trong sự vận động phát triển
nhưng vẫn còn mang tính sơ khai, chất phác. Tư tưởng vận động của học thuyết
Ngũ hành chưa đi sâu phân tích những yếu tố bên trong của sự vật, hiện tượng
của thế giới cho nên chưa vẽ nên bức tranh chung của thế giới về sự vận động
toàn diện và bất diệt.
Học thuyết Ngũ hành mô tả sự tiến hóa bằng sự lặp đi lặp lại, tuần hoàn
bên ngoài; do đó, nó không thể hiện tính phủ định biện chứng, không tạo ra sự
biến đổi về chất bên trong, cho nên không tạo ra sinh khí cho sự vận động. Học
thuyết Ngũ hành chỉ miêu tả sự vận động bằng một vòng tròn trên một mặt
phẳng mà không vẽ lên được sự vận động theo đường xoắn ốc đi lên.
Về sự hạn chế của tính biện chứng sơ khai trong học thuyết Ngũ hành,
Đổng Trọng Thư đã có tư tưởng sau: “Ông xem quân đội và bộ máy trừng phạt
của nhà vua là biểu hiện của thế lực “Kim”, quần chúng nhân dân là biểu hiện
thế lực của hành “Mộc”. Cho nên chính phủ trấn áp nông dân bạo động là thể
hiện đúng theo quy luật “kim khắc mộc”. Tuy Đổng Trọng Thư đã cố gắng đưa
các phạm trù “khí”, “âm dương”, “ngũ hành” v.v… để giải thích quy luật biến
hóa của thế giới, nhưng với quan điểm duy tâm thần bí, Ông lại cho rằng tất cả
những thứ ấy đều bị ý chí của Thượng đế chi phối, ý chí của trời thông qua các
thế lực “âm dương”, “ngũ hành” v.v…để quy định giới tự nhiên và vận mệnh
loài người. Vì thế, triết học của ông mang đậm màu sắc mục đích luận. Đổng
Trọng Thư còn đưa vũ trụ quan siêu hình “Trời không đổi, đạo cũng không đổi –
Thiên bất biến, đạo diệc bất biến” (Hán thư, Truyện Đổng Trọng Thư). Ông đã
phủ nhận sự phát triển và biến hóa của thế giới khách quan” [16, tr.385-386).
134

Như vậy, đóng góp ý nghĩa thứ hai của học thuyết Ngũ hành đó là tư
tưởng biện chứng. Tư tưởng biện chứng trong học thuyết Ngũ hành được
thể hiện một cách cô đọng ở hai điểm sau :
Thứ nhất, Ngũ hành thừa nhận vạn vật, thế giới, kể cả tâm tính con
người, luôn trong trạng thái thường xuyên biến đổi, luân chuyển không
ngừng.
Thứ hai, nó chỉ ra nguyên nhân vận động biến đổi của vạn vật, vũ trụ, xã
hội là sự tác động biến đổi và chuyển hóa giữa năm hành chất trên quan hệ tương
sinh, tương khắc và những quan hệ khác (tương thừa, tương vũ; phản sinh,
phản khắc).Tư tưởng biện chứng của học thuyết Ngũ hành đã có đóng góp
nhất định: Về nhận thức, nó phủ nhận vai trò tồn tại của Thượng Đế trong thế
giới.
Về phương pháp luận, nó cố gắng giải thích những biến đổi của thế giới
thông quan tư tưởng biện chứng và vô thần. Tuy nhiên, do hạn chế điều kiện
lịch sử, trình độ nhận thức, tư tưởng biện chứng của học thuyết Ngũ hành mới
chỉ là phép biện chứng tự phát:
- Dù nó giải thích sự vận động biến đổi vũ trụ, vạn vật bằng sự chuyển
hóa do sự tác động (tương sinh, tương khắc) của các hành chất đối lập mâu
thuẩn, nhưng nó chưa giải thích được động lực bên trong của sự vận động, đó
là sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập của sự vật.
- Hơn nữa, học thuyết Ngũ hành nêu ra sự vận động biến đổi vạn vật
với quy luật: tương sinh, tương khắc, nhưng là sự vận động lặp lại mà không
tạo ra cái mới.
Kết luận chương 2
Xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại, nhân dân
Trung Quốc đã đấu tranh sinh tồn và phát triển. Các thời kỳ đồ đá, đồ đồng,
đồ sắt là cơ sở cho sự phát triển sản xuất, kinh tế, cuộc sống. Họ lần lượt
khám phá nước (thủy), lửa (hỏa), cây cối (mộc), rồi kim loại (kim), bao trùm
là đất (thổ) trong thực tế cuộc sống. Từ thực tế kinh nghiệm dần dần họ rút ra
135

lý luận về vật chất trong cuộc sống đều cấu tạo bởi năm thành tố vật chất cơ
bản là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và các sự vật này không tồn tại độc lập mà nó
luôn vận động không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau tạo thế tồn tại cân bằng.
Sự vận động và chuyển hóa lẫn nhau luôn theo hai quy luật cơ bản là tương
sinh và tương khắc. Trên cơ sở hai quy luật cơ bản đó phát triển thêm năm
quy luật tương ứng tiếp theo là: tương thừa, tương vũ, phản khắc và hỗn
mang. Đó là nền tảng của học thuyết Ngũ hành. Năm yếu tố vật chất đó nó
còn bao hàm tương ứng năm yếu tố cơ năng, thuộc tính, các biểu huện ở tất cả
các phương diện trong cuộc sống. Nó còn kết hợp với Kinh Dịch từ thuyết
Âm dương, rồi Tứ tượng, đến Bát quái, 64 quẻ v.v.., tiếp đến nó kết hợp tứ
phương, tứ thời, ngũ âm, 12 tháng, 12 luật, thiên can địa chi và các con số Hà
đồ, Lạc thư để ngày càng hoàn thiện và cuối cùng cấu hình thành một cấu
hình tư tưởng phương Đông, phát triển và nhất quán, cụ thể có tính ứng dụng
cao về mọi mặt và trong mọi lĩnh vực.
Năm hành chất của học thuyết Ngũ hành biểu hiện tương ứng ra tự
nhiên, xã hội và con người. Học thuyết Ngũ hành biểu hiện ra tự nhiên như:
tình trạng năng lượng, thế đấtm quá trình phát triển các sinh vật, ngũ cốc,
thiên văn, bốn phương, bốn mùa, màu sắc, ngũ vị, ngũ âm v.v.. Học thuyết
Ngũ hành biểu hiện ra xã hội như tình cảm, thái độ, ngũ đức, thú nuôi v.v..
Học thuyết Ngũ hành biểu hiện ra con người như: Ngũ tạng, lục phủ, giọng
nói, ngũ khiếu, ngũ sự, ngũ tân (năm loại trong cơ thể).
Học thuyết Ngũ hành đã có hai đóng góp lớn về mặt nhận thức mới về
thế giới. Thứ nhất, học thuyết Ngũ hành đóng góp nhận thức khoa học về thế
giới là giải thích thế giới bằng chính thế giới phát triển thế giới. Nó không cầu
viện đến Chúa Trời, Thần linh, Thượng Đế.
Thứ hai, học thuyết Ngũ hành đóng góp nhận thức khoa học về thế giới
là nhận thức thế giới biện chứng ở điểm: các quy luật với 2 quy luật chính:
Tương sinh, tương khắc và năm quy luật khác: Tương thừa, tương vũ, phản
sinh, phản khắc, hỗn mang.
136

Chương 3
Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG

3.1. KHÁI QUÁT VỀ Y HỌC CỔ TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ Ý


NGHĨA VIỆC VẬN DỤNG HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ
TRUYỀN PHƯƠNG ĐÔNG
Để tìm hiểu ý nghĩa của học thuyết Ngũ hành với y học cổ truyền
phương Đông, ta cần tìm hiểu:
Y học cổ truyền phương Đông bao gồm các lĩnh vực: lý luận cơ bản;
dược học cổ truyền; châm cứu học; dưỡng sinh cổ truyền. Ba lĩnh vực dược
học cổ truyền, châm cứu học, Dưỡng sinh cổ truyền đều dựa vào lý luận cơ
bản. Nền lý luận cơ bản bao gồm:
 Học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành
Học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành, nguyên nhân gây bệnh,
học thuyết Tạng tượng, bệnh chứng luận trị, phương pháp chẩn đoán theo y
học cổ truyền, bát pháp (cách thức trị bệnh theo y học cổ truyền).
Học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành là những tư tưởng của
triết học phương Đông được vận dụng toàn bộ vào y học cổ truyền từ lý luận,
dược học, châm cứu, dưỡng sinh.
 Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân gây bệnh theo y học cổ truyền chia làm 3 nguyên nhân:
Nhóm nguyên nhân bên ngoài gây bệnh, nhóm nguyên nhân bên trong gây
bệnh, nhóm nguyên nhân khác. Nhóm nguyên nhân bên ngoài gây bệnh là do
môi trường khí hậu tấn công gây bệnh cho con người gồm lục dâm (sáu loại
khí) là: phong (gió); hàn (lạnh); thử (nắng); thấp (ẩm ướt); táo (khô); hỏa
(nóng). Nhóm nguyên nhân bên trong do tính chí, tâm lý, cảm xúc của con
người tự gây bệnh cho mình gây triệu chứng Đông y gọi là nội thương; Các
tình chí tâm lý đó là thất tình ( bảy loại tình cảm): vui mừng, giận, lo, buồn,
137

nghĩ, sợ, kinh. Nhóm nguyên nhân khác: đàm ẩm, ăn uống, lao nhọc, phòng
thất không điều độ, ứ huyết. Đàm ẩm do đàm nhiều làm cho khó thở, ho
hen… Ăn uống do ăn thực phẩm ngộ độc, để lâu, uống nhiều rượu cồn… Lao
nhọc làm việc quá sức, làm việc không nghỉ ngơi, làm việc quá nặng. Phòng
thất không điều độ là sinh hoạt tình dục quá nhiều, quá dầy hao nhiều tinh
khí… ứ huyết là do tai nạn bên ngoài chấn thương có thể gây gãy xương, xuất
huyết trong, gây chảy máu, trầy xước.
 Phương pháp chẩn đoán
Phương pháp chẩn đoán gồm có các phép: phép tứ chẩn, phép bát
cương.
Phép tứ chẩn là phép chẩn đoán bệnh từ nong đến sâu đầu tiên là vọng
chẩn (tức là xem tướng bệnh), văn chẩn (là nghe tiếng nói, hơi thở, ngửi mùi
từ cơ thể), vấn chẩn (là đưa ra hệ thống câu hỏi truy tìm lịch sử gia đình bệnh
nhân, tìm nguyên nhân sâu xa gây ra bệnh, tìm hiểu nguyên nhân nội, ngoại
hay nguyên nhân khác gây ra bệnh), thiết chẩn (là bắt mạch và sờ khám). Bắt
mạch là ba ngòn tay (trỏ, giữa, áp út) để xem hai bện tay, tay phải để xem
phần khí, tay trái để xem phần huyết, cụ thể tay phải để xem tạng phế (phổi),
tạng tỳ (lá lách), tạng thận dương; và tay trái để xem tạng tâm (tim), tạng can
(gan), tạng thận âm. Việc sờ khám là dùng tay sờ khám để biết da khô, ẩm,
phù thủng, hay rắn chắc, nóng hay lạnh, ấn vào các kinh, các huyệt (nhất vùng
du huyệt ở lưng), vùng phản xạ ở tay, ở chân, ở mặt, ở lỗ tai v.v.. để xác định
tạng phủ bị bệnh.
Phép bát cương gồm 4 cặp là: âm dương, biểu lý, hàn nhiệt. hư thực.
Việc chẩn đoán bát cương mang tính chất tổng quát, là bước đầu giúp cho
thầy thuốc có được cái nhìn chung, toàn diện về loại bệnh chứng (với âm
dương, dương chứng), nơi đang bị bệnh (bệnh này ngoài da, ngoài phủ, là
biểu, bệnh sâu trong tạng là lý), hiện tượng bệnh (thiên về nóng là nhiệt hay
thiên về lành là hàn), tình trạng xung đột giữa cơ thể và nguyên nhân bệnh
(nếu bệnh làm cơ thể suy kém là hư hay gây bệnh phát mạnh là thực).
138

 Học thuyết Tạng tượng


Học thuyết tạng tượng bao gồm hệ thống tạng, hệ thống phủ, hệ thống
phủ kỳ hằng. Hệ thống tạng gồm chức năng sinh lý của các tạng gồm: phế,
tâm, can, tỳ, thận. Hệ thống phủ gồm chức năng sinh lý của các phủ gồm: Đại
trường, tiểu trường, tam tiêu, đởm, vị, bàng quang. Phủ kỳ hằng gồm chức
năng sinh lý của: não tủy, tủy xương, xương, mạch, tử cung. Tạng là tổ chức,
cơ quan ở trong cơ thể người. Tượng là biểu tượng của hình thái, của tình
trạng sinh lý bình thường, của tình trạng bệnh lý phản ảnh ra bên ngoài. Như
vậy, học thuyết Tạng tượng bao hàm ý nghĩa sinh lý và giải phẩu. Học thuyết
Tạng tượng hoàn toàn phản ảnh chính xác, đầy đủ những học thuyết triết học
phương Đông như âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp nhất vào quá trình
phòng và trị bệnh. Học thuyết Tạng tượng không chỉ đưa vào giải phẩu học
mà chủ yếu bao gồm mối quan hệ giữa tạng (hoặc phủ) này với tạng (phủ)
khác. Nói rộng ra hơn học thuyết Tạng tượng là sự quan hệ thống nhất giữa
các tạng với tạng, phủ với phủ, tạng phủ với ngũ quan, cửu khiếu, với kinh
lạc, với các huyệt và với môi trường bên ngoài và chủ sử các quan hệ đó là
các tạng.
 Bát pháp
Đó là tám cách dùng thuốc để điều trị tùy theo loại bịnh đối với bát
cương gồm có: Hãn pháp, làm ra mồ hôi để trị bệnh ở biểu. Thổ pháp làm cho
nôn ra trong trường hợp đờm nhớt gây ra bế tắc ở hầu họng hoặc thức ăn độc,
mà thời gian chưa lâu hoặc thức ăn không tiêu đình trệ ở bao tử. Hạ pháp làm
cho đi cầu tức là dùng thuốc tẩy và nhuận tràng để đưa các chất ứ đọng ra
ngoài cơ thể bằng phương pháp đại tiện. Hòa pháp: làm cho điều hòa, là
phương pháp dùng thuốc để sơ thông, điều hòa khí huyết của tạng phủ và để
chữa chứng tà ở bán biểu, bán lý (nửa trong nửa ngoài hay bệnh lưng chừng).
Ôn háp: làm cho ấm, dùng để chữa các bệnh thuộc hàn, hư hàn (lạnh lâu
ngày). Thanh pháp: làm cho mát, dùng để chữa các bệnh thuộc về nhiệt. Tiêu
pháp: làm biến mất các tích tụ, ngưng trệ, dùng để chữa các rối loạn tiêu hóa
139

hoặc chóng xung huyết. Bổ pháp dùng để chữa bệnh hư, suy yếu do khí lực
yếu, gầy yếu, thiếu máu hoặc chức năng từng tạng phủ bị hư. Thuốc bổ có các
loại: bổ khí, bổ huyết, bổ âm, bổ dương.
 Bệnh chứng luận trị
Dùng lý luận âm dương, ngũ hành, học thuyết tạng tượng, nguyên nhân
gây bệnh, bát cương, phương pháp chẩn đoán để định bệnh và dùng bát pháp
để đề ra phương pháp trị bệnh thích hợp cho từng bệnh khác nhau, cho từng
dạng người khác nhau (Nam, phụ, lão, ấu) cho từng vùng cư trú khác nhau.
Như vậy, y học cổ truyền có các loại bệnh chứng luận trị như: Bệnh chứng
luận trị theo lục kinh, bệnh chứng luận trị theo ngũ tạng (hay tạng tượng),
bệnh chứng luận trị theo Bát cương v.v..
3.1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết Ngũ hành đối với
y học cổ truyền phương Đông
Ứng dụng học thuyết Ngũ hành trong y học, tức là căn cứ vào sự “quy
loại thuốc tính của sự vật”; vận dụng các quy luật “Sinh khắc, thừa vũ, cang
hại thừa chế” để giải thích một cách cụ thể sinh lý của cơ thể, biến hóa của
bệnh lý, và chỉ đạo thực tiễn trị bệnh trên lâm sàng.
Đầu tiên trong tình trạng sinh lý, ta có: giữa các tổ chức tạng phủ trong
cơ thể có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hoạt động sinh lý của cơ thể.
Tất cả các bộ phận đều tồn tại trong quan hệ tương sinh lẫn nhau, chế
ước lẫn nhau, đồng thời sự hoạt động bất kỳ tạng nào cũng đều có liên hệ nhất
định với hoàn cảnh ngoại lai. Vì thế khi nghiên cứu bất kỳ một tạng nào cũng
cần phải liên hệ đến những mặt liên quan khác, cần phải dựa vào toàn diện mà
khảo sát vấn đề. Ví dụ như khi nghiên cứu hoạt động ngũ tạng với năm mùa,
năm khí, giữa tạng và tạng, ngũ thể với ngũ vị…Tất cả những vấn đề này đều
dùng quan hệ sinh khắc, chế hóa của ngũ hành và sự liên quan của chúng với
ngũ vị, ngũ sắc, ngũ quan, thể chất và hoạt động về tình chí giúp hiểu biết về
các hiện tượng sinh lý các tạng phủ dễ dàng hơn.
140

Kế tiếp, trong tình trạng bệnh lý, ta có: căn cứ vào Ngũ hành, tìm vị trí
phát sinh một chứng bệnh của một tạng hay một phủ, để đề ra phương pháp
chữa bệnh thích hợp.
Sự phát sinh ra một chứng bệnh ở một tạng phủ nào đó có thể xảy ra
năm vị trí khác nhau sau đây:
- Chính tà: Do bản thân tạng phủ ấy có bệnh.
- Hư tà: Do tạng trước nó gây bệnh cho nó, còn gọi là bệnh từ mẹ
truyền sang con.
- Thực tà: Do tạng sau nó gây bệnh cho nó, còn gọi là bệnh từ con
truyền sang mẹ.
- Vi tà: Do tạng khắc tạng đó mà gây ra bệnh (tương thừa).
- Tặc tà: Do tạng đó không khắc được tạng khác mà gây ra bệnh
(tương vũ).
Đó là sự phát sinh và truyền biến bệnh theo quy luật tương sinh, tương
khắc hay theo quan hệ chế hóa.
Ngoài ra sự phát sinh bệnh ở ngũ tạng còn do:
Thí dụ: Mùa Xuân hay bị Can bệnh
Mùa Hạ hay bị Tâm bệnh
Trưởng Hạ hay bị bệnh Tỳ
Mùa Thu hay bị bệnh Phế
Mùa Đông hay bị bệnh Thận.
- Thắng khí tăng thêm:
Thí dụ: Phong khí thái quá có thể làm cho Can dương thịnh lên mà xuất
hiện chứng nhức đầu, chóng mặt, cũng có thể xâm lấn Tỳ thổ mà phát sinh
tiết tả, đau bụng.
Nhiệt khí thái quá có thể làm cho Tâm dương cang thịnh lên mà xuất
hiện chứng trúng thử ngã ra hôn mê; cũng có thể xâm phạm vào Phế Kim mà
xuất hiện chứng ho, suyễn…
141

Tóm lại, vận dụng các quy luật truyền biến bệnh tật trong ngũ hành
không nên cầu kỳ, máy móc mà nên kết hợp với tình hình hư thực của các
tạng với tất cả các mối liên quan như: ăn uống, sinh hoạt, tinh thần… Vì tất cả
sự phát sinh và phát triển bệnh tật đều có điều kiện nhất định, có thể linh động
mà không được máy móc.
Tiếp theo, trong chẩn đoán, ta có:
Ứng dụng Ngũ hành vào chẩn đoán, chủ yếu là căn cứ vào những gì
thu được qua tứ chẩn, vận dụng quy luật sinh khắc của Ngũ hành để suy đoán
bệnh tật, như quan sát ngũ sắc, ngũ vị, ngũ quan, thể chất để tìm bệnh tạng
phủ liên quan.
a. Ngũ sắc: sắc vàng thuộc Tỳ, sắc trắng thuộc Phế, sắc xanh thuộc
Can, sắc đỏ thuộc Tâm, sắc đen thuộc Thận.
b. Ngũ chí: Giận dữ, cáu gắt bệnh ở Can; sợ hãi bệnh ở Thận; cười nói
huyên thuyên bệnh ở Tâm; lo nghĩ bệnh ở Tỳ; buồn rầu bệnh ở Phế.
c. Ngũ khiếu và ngũ thể:
- Bệnh ở cân: tay chân co quắp, thuộc Can bệnh.
- Bệnh ở mũi: hắt hơi, sổ mũi, chảy máu cam… thuộc Phế bệnh.
- Bệnh ở miệng: ăn kém, lạt miệng, loét miệng… thuộc Tỳ Vị bệnh.
- Bệnh ở xương tủy: Chậm biết đi, chậm mọc rằng, đau nhức xương,
tóc bạc sớm …thuộc Thận bệnh.
Sau cùng, trong điều trị, ta có:
Đề ra nguyên tắc chữa bệnh như là:
Hư thì bổ mẹ; thực thì tả con.
Trong châm cứu: Người ta tìm ra loại huyệt ngũ du để điều trị bệnh của
tạng thích ứng.
Trong điều trị bằng thuốc thì đưa ngũ vị (chua, cay, đắng, mặn, ngọt)
để dùng thuốc theo vị thích ứng chữa bệnh Ngũ tạng (can, phế, tâm, thận, tỳ).
Từ việc vận dụng học thuyết Ngũ hành vào nền y học cổ truyền phương
Đông nêu trên ta có thể rút ra các ý nghĩa như sau:
142

Ta thấy có sự thống nhất từ ngũ quan, ngũ thể, lục phủ (phủ tam tiêu là
phủ liên kết khí các tạng Phế, Tỳ, Thận) với ngũ tạng, lấy ngũ tạng làm cốt lõi
và trung tâm. Vậy học thuyết Tạng tượng làm trung tâm cho sự quy kết của
sinh lý, bệnh lý, làm nền tảng cho cơ thể người và cho nền y học cổ truyền
phương Đông. Học thuyết Tạng tượng đều bị chi phối bởi Ngũ vị, ngũ sắc,
ngũ khí, quá trình phát triển, bốn mùa với tứ quý (tháng cuối của quý (3
tháng)). Như vậy, học thuyết Tạng tượng có sự thống nhất các con số từ ngoài
đến trong cơ thể do sự “quy loại của thuộc tính của sự vật “và” sự vận động:
sinh khắc, thừa vũ của học thuyết Ngũ hành. Ngoài ra, đối với ngành Dược
học cổ truyền, học thuyết Ngũ hành với tính quy loại thuộc tính cho từng cây
thuốc, vị thuốc được chia ra năm vị chua, cay, đắng, mặn, ngọt và có thể xếp
loại để phân chia biết được từng vị thuốc, từng cây thuốc đi vào tác dụng cho
từng tạng bị bệnh thích ứng để điều trị. Đó là giá trị thực tiễn cho việc vận
dụng ngũ vị của ngũ hành để dẫn thuốc vào ngũ tạng bị bệnh thích ứng.
Lại nữa, đối với ngành châm cứu học, các du huyệt trong cơ thể là nơi
để vừa kiểm tra, vừa điều trị các tạng bị bệnh tương ứng. Cho nên, nói cách
khác, học thuyết Ngũ hành có tính quyết định và tính toàn diện cho việc vận
dụng vào học thuyết tương ứng nói riêng và nền y học cổ truyền nói chung.
Đó là ý nghĩa to lớn, mang tính thiết thực cho việc vận dụng học thuyết Ngũ
hành vào nền y học cổ truyền phương Đông.
3.2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
TRONG BỆNH LÝ NGƯỜI

Số sinh thành của Ngũ hành ẩn chứa trong sự sinh thành và kết thúc
của vạn vật tự nhiên có quan hệ mật thiết với đặc trưng sinh lý của tạng phủ
cơ thể người. Do đó, y học cổ truyền phương Đông đã vận dụng những tính
chất, đặc trưng của các hành chất và sự liên hệ, tương tác giữa chúng để giải
thích bệnh lý người; như là phương pháp luận của y học như sau:
143

3.2.1. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng thận

Thủy ở vị trí số một là số sinh của Hà đồ, thủy là chí âm, là gốc của
sinh mệnh, là gốc của vạn vật. Cho nên thủy là số bắt đầu của trời, thận ứng
với thủy ở phương Bắc thuộc quẻ Khảm. Thận thủy không thuần âm, một hào
dương ở giữa hai hào âm, hai chân thủy ẩn giấu trong một chân hỏa, vì vậy
thận dương cực kỳ quý báu không thể hao tán. Thận thủy ẩn ở cung Trập, cho
nên thận là gốc của phong tàng. Trong Nội kinh nói: “Người 40 tuổi, âm khí
còn nửa”, biểu thị ý nghĩa quan trọng của người trung niên bảo vệ thận tinh,
thận là chỗ tàng tinh, tinh là mẹ của khí, túc thiếu âm kinh thận “ghẻ gốc
lưỡi”, tinh khí của nó rót ở lưỡi, dưới lưỡi là kim tân, ngọc dịch là nguồn trên
của thận thủy, nước dãi là dịch của thận. Vậy từ tuổi trung niên phải bảo
dưỡng tinh, nuốt tân dịch để bổ cứu thận thủy. Thận âm là gốc âm ngũ tạng,
thận âm quan hệ đến cân bằng âm dương toàn thân, vì thủy là bắt đầu của số
trời, là gốc của vạn vật, vì vậy chú ý bảo vệ thận âm (tinh) là ý nghĩa quan
trọng số một của việc duy trì sinh mệnh lâu dài. Thận là thủy số một của trời,
thủy sinh mộc, can thuộc mộc vì vậy can thận có quan hệ cùng gốc quan
trọng, dưỡng thận thủy để cứu giúp khí âm của can cực kỳ có ý nghĩa đối với
bệnh học tuổi già. Quẻ Khảm ứng với thận thủy, quẻ Ly ứng với tâm hỏa, quẻ
Khảm và Ly giao thái (ảnh hưởng qua lại với nhau), thủy hỏa ký tế, là khâu
chính trong sinh mệnh học cơ thể người, vì vậy nhà dưỡng sinh cực lực coi
trọng bổ thận thủy, thêm tinh bổ não, cho rằng đó là biện pháp cải lão hoàn
đồng. Nhà khí công tiến hành tu luyện với quẻ Khảm quẻ Ly thông giao nhau,
khí vận tâm thận. Lý luận ở chỗ sau khi cơ thể xuất sinh, quẻ Càn từ quẻ
thuần dương biến thành quẻ Ly hai hào dương kẹp ở giữa một hào âm, quẻ
Khôn từ quẻ thuần âm biến thành quẻ Khảm hai hào âm kẹp ở giữa một hào
dương, cho nên Đạo gia sáng lập lý luận lấy Khảm bổ sung Ly để làm cho
quẻ Ly khôi phục lại quẻ Càn, lấy khí âm trong quẻ Ly cứu giúp thận thủy,
làm cho Khảm trở lại quẻ thuần âm… Do vậy, mà bổ cứu thận âm của cơ thể
để đạt được mục đích dưỡng sinh hoàn đồng, cũng chứng tỏ nước không chỉ ở
144

trong tự nhiên mà còn ở trong sinh vật, trong khoa học, sinh mệnh cơ thể
người đều là vật chất cực kỳ quan trọng, vạch rõ bảo hộ thận tâm (tinh) có vai
trò quan trọng trong khoa học sinh mệnh cơ thể người. Bảo hộ gồm có 2 ý
nghĩa:

- Đối kháng hao tinh tức bế tinh, tức tránh phòng dục.

- Dùng thức ăn, thuốc bổ thận âm, luyện tinh dịch để bổ thận âm.

3.2.2. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng tâm

Số vị trí thứ hai của Hà đồ sinh Hỏa, vị trí Hỏa ở phía Nam, thuộc quẻ
Ly. Hỏa là mặt trời, tượng trưng dương khí, là nguồn gốc vận động của Thủy.
Có Thủy Hỏa, âm dương mới có thể khí hóa, vạn vật mới có thể sinh sôi, cho
nên Hỏa đại diện tính dương ôn nhiệt. Khí của hỏa thông ở tâm, cho nên tâm
ứng với quẻ Ly, Hỏa sinh thổ, tỳ ứng với Thổ, cho nên tâm và tỳ có quan hệ
mật thiết. Kinh Thượng Thư, Hồng Phạm viết: “Hỏa tinh nóng bốc lên”, vì
vậy thường dễ hao tán. Hỏa ở cơ thể người ngoài Hỏa của tâm (quân hỏa) ra
còn có Hỏa của mệnh môn (tướng hỏa), Hỏa long lôi của can thận… Bất luận
quân hỏa, tướng hỏa đều nên ẩn giấu bên trong, không nên vượt lên quá
nhiều.

Tâm chủ tàng thần, vì vậy nhà sinh mệnh học Trung Quốc qua các đời
đều chú ý đến liễm thần minh Hỏa để tiềm dương cô âm.

Chu Dịch nêu lên “rồng ẩn chưa dùng được”. “Rồng lên cao quá có hối
hận”, tức biểu thị ẩn dương nên bảo vệ, thịnh vương nên cất giấu, có ý nghĩa
quan trọng trong sinh mệnh học. Nội kinh rất coi trọng tác dụng của tâm, nêu
ra: “Tâm động thì lục phủ ngũ tạng đều động” (Linh khu, Khẩu ấn) “để mất
thần khí thì chết, còn có thần khí thì sống” (Linh khu, Thiên niên) “Tâm giữ
chức phận chủ tể trong toàn thân, nếu sáng suốt thì các tạng được yên. Đó là
lý lẽ căn bản, nếu dưởng sinh theo lý lẽ này thì được sống thọ” (Tố vấn, Linh
145

khu bí điển). Tóm lại, tâm ảnh hưởng rất lớn đối với sinh lý, bệnh lý cơ thể
người.

Các nhà dưỡng sinh Trung Quốc đều chú ý giữ gìn bên trong tâm thần,
bảo vệ tâm hỏa, như những phương luyện tậm “tọa vong” của Khổng Tử, “hư
vô” của Lão Tử, “dưỡng thần”, “thủ nhất” của Trang Tử, “Thiền định” của
Phật giáo, đều là sự tĩnh tọa để giữ gìn khí Hỏa của quẻ Ly ở bên trong. Giữ
gìn bên trong khí Hỏa của quẻ Ly để bảo vệ tâm thần có ý nghĩa quan trọng
trong sinh mệnh học cơ thể người.

Giữ tâm cho thanh, thanh tâm là một yếu tố quan trọng cho tâm hỏa.

3.2.3. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng can

Mộc là số thứ ba của Hà đồ, Mộc đại diện cho sự sống mới, đánh dấu
mầm móng vận động của vạn vật, tượng trưng cái bắt đầu của sinh mệnh. Cho
nên, Bát quái Chu Dịch lấy quẻ Chấn ứng với mùa xuân, phương vị chánh
đông. Chấn thuộc sấm Kinh Dịch, Thuyết quái viết: “Sấm là động vậy”, “vạn
vật xuất ra ở phương chấn, chấn là phương đông”, “chấn là sấm”. Can thuộc
mộc có tính chất như sấm gió, cho nên can là tạng thăng phát có ý nghĩa quan
trọng trong khoa học sinh mệnh người. Khí của can vượng thì tinh thần vui
vẻ, hớn hở; người mà khí của can hư tổn thì ủy mị, ủ rũ, vì vậy sự thịnh
vượng và suy giảm của sức sống cơ thể có quan hệ với sự tác động của can.
Gió sấm có tác dụng rất lớn đối với sự điều tiết âm dương ấm lạnh, tương tự
can cũng có tác dụng quan trọng đối với âm dương khí huyết con người. Can
có thể điều tiết lượng máu, cho nên Hoàng đế Nội kinh gọi nó là: “Can là gốc
của việc hạn chế cực thịnh”.

Ngoài ra, can cất giữ tàng chứa hồn, lại có tác dụng điều tiết tâm thần,
có thể thấy ý nghĩa của can trong cơ thể rất lớn. Điều cốt lõi của việc bảo
dưỡng can ở chỗ tính mộc thăng phát, cho nên phải trợ giúp can khí ôn thăng,
vì vậy sáng sớm nên tập luyện để trợ giúp can ôn thăng, từ đó để có ích đối
với sự thăng phát của khí dương toàn thân, đó là chỗ dựa lý luận này. Mộc
146

thích điều đạt ghét uất kết, vì vậy điều tiết tình cảm ý chí, duy trì tinh thần
thoải mái là điều cốt lõi để dưỡng can. Những người trường thọ của Trung
Quốc hầu như trăm phần trăm đều lạc quan, học đến già mà mắt vẫn còn sáng,
tay chân nhanh nhẹn, mắt tỏ là khiếu của can, mắt nói lên tình hình khí của
can chưa suy. Linh khu, Thiên niên viết: “Người 50 tuổi khí của can bắt đầu
suy, lá gan bắt đầu mỏng, dịch đởm bắt đầu khô, mắt bắt đầu mờ” chứng tỏ
khí của can là tạng khí suy già sớm nhất. Vì can thuộc tạng của phong mộc,
ứng với quẻ Chấn (sấm), vì vậy cương cứng chủ động dễ hao tổn. Điều đó
cho thấy giảm bớt tức giận, điều hòa tình cảm ý chí, bảo dưỡng khí của can là
vấn đề không thể coi thường trong sinh mệnh học. Những người trường thọ sở
dĩ mắt không mờ, là bởi không buồn bực, tức giận làm cho can khí điều đạt,
cho nên đã kéo chậm quá trình lão hóa. Muốn vậy, cần bớt sự ham muốn để
không bị mất mình dẫn đến tức giận.

Đó là quả dục, bớt lòng ham muốn, là một phương pháp dưỡng sinh.

3.2.4. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng phế

Số bốn là số cuối của Hà đồ, tượng trưng vạn vật có bắt đầu tất phải có
cuối, có sinh trưởng tất phải có thu cất. Số 4 là quẻ Đoài ở chính Tây. Kinh
Dịch, Thuyết quái viết: “đầm để làm cho vui vẻ”, có nghĩa tháng 9 vạn vật
thành thục. Hình tượng quẻ Đoài là đầm, tưới nhuận đất lớn, phế ứng với
Đoài thuộc Kim, dịch của phế làm nhuận ngũ tạng. Tố vấn, Kinh mạch biệt
luận thiên: “Phế lại đem khí huyết thông tống đạt đến trăm mạch của toàn
thân”. “Chất nước được thăng hoa phân bủa bốn bề, ngoài thì phân bố đến da
lông, trong thì rót vào kinh mạch của ngũ tạng”, “phế ứng với quẻ Đoài, ở
tháng 9, chủ thu cất vạn vật, trong cơ thể phế nên túc giáng, người đến tuổi
trung niên, khí của phế nên được thu liễm, trong một đời người, can là tạng
thăng phát, chủ động, hao tổn rất lớn, suy thoái cũng sớm nhất. Linh khu,
Thiên niên bàn tới người đến 50 tuổi, khí can bắt đầu suy. Khí của phế chủ
thu, hao tổn tương đối ít, vì vật lão hóa tương đối chậm, đến 80 tuổi phế bắt
147

đầu mới suy. Linh khu, Thiên niên viết: “Người đến 50 tuổi khí của can bắt
đầu suy, can bắt đầu mỏng, chất dịch của đởm bắt đầu hết, mắt bắt đầu mờ.
Người 60 tuổi, khí của tâm bắt đầu suy, người trong lòng khổ lo buồn, huyết
khí trì trệ vì thế thích nằm. Người 70 tuổi, khí của tỳ hư, da khô. Người 80
tuổi, khí của phế suy, mất hồn phách, không còn minh mẫn nên hay nói nhầm.
Người 90 tuổi thì khí của thận khô kiệt, kinh mạch của tứ táng hư không.
Người 100 tuổi, ngũ tạng đều hư, thần khí đều mất, chỉ còn lại hình hài xương
cốt mà kết thúc cuộc đời”. Phế là Kim, khí táo thông ở phế, dễ tổn hao chất
dịch của phế, vì vậy giữ gìn nhuận phế là khâu quan trọng để bảo vệ phế. Phế
là suối cao của Thủy, suối cao chảy cạn thì Thủy không thể phân bố bốn phía.
Phế chủ khí, trong đời người khí của phế hao trán không ít, vì vậy từ tuổi
trung niên về sau phải chú ý nhuận phế, giữ gìn phế nhuận theo đặc tính sinh
lý. Trong khí công, lấy khí, thu khí là biện pháp quan trọng để bảo vệ khí của
phế, có ý nghĩa quan trọng trong sinh mệnh học cơ thể.

Dưỡng khí là một trong những phương pháp dưỡng sinh.

3.2.5. Ngũ hành với biểu hiện bệnh lý ở tạng Tỳ

Số 5 làm mẫu số của Hà đồ, Thổ là mẹ của vạn vật, số thành dựa vào
đó mà nảy sinh, số 5 ở trung ương, tượng quẻ Khôn, thuộc Thổ. Thổ ứng với
trưởng hạ chủ nuôi lớn vạn vật. Kinh Dịch, Thuyết quái viết: “Khôn là đất,
vạn vật đều được nuôi dưỡng” lại nói “Khôn cất giữ vạn vật”. Kinh Dịch,
Khôn quái, Thoán viết: “Đức Nguyên của Khôn nuôi dưỡng vạn vật với đức
thuận thừa “thiên đạo” vận hành với đức dày che chở vạn vật, đức hợp vô
biên đều nói về tính nuôi lớn và cất giữ của đất, tỳ ứng với thổ. Tỳ là nguồn
gốc hóa sinh vạn vật, vì vậy kiện tỳ bồi dưỡng Thổ là cơ sở quan trọng để duy
trì quá trình sinh mệnh. Trong quá trình khí cơ thăng giáng, tỳ là trục giữa của
sự chuyển động điều khiển sự thăng giáng khí cơ của tạng phủ con người.
Trong ngũ tạng, sự gánh vác của tỳ rất lớn, vì vậy muốn bảo vệ tỳ thì phải chú
ý tiết chế ăn uống, nhà khí công có chủ trương “tịch cốc” (tiết thực) tức là
148

công pháp để tỳ được nghỉ ngơi bằng cách tạm thời không đưa thức ăn bào
người. Ở nước ngoài có người một tuần giảm ăn một lần, đó là nhằm cho tý vị
có được cơ hội nghỉ ngơi, kiện vận tỳ thổ là khâu chủ yếu duy trì hoạt động
sinh mệnh cơ thể. Đông y cực kỳ coi trọng tỳ thổ, cũng rất chú trọng vị khí,
cho rằng có vị khí thì sống, không có vị khí thì chết. Tỳ vị luận của Lý Đông
Viên là tác phẩm nổi tiếng về sự bảo vệ tỳ vị.

Tiết chế ăn uống (tiết thực) là một trong những phương pháp dưỡng sinh.

3.3. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VỚI PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH,
CHẨN BỆNH VÀ CHỮA BỆNH

3.3.1. Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh

Học thuyết Ngũ hành không chỉ thể hiện tư duy triết học biện chứng tự
phát khá đặc sắc mà nó còn được thông qua học thuyết Tạng tượng, sinh lý
con người được ứng dụng trong đời sống con người, đặc việt là học thuyết
Ngũ hành ứng dụng trong phép dưỡng sinh.

“Thiên nhất sinh thủy” với thận là thủy tạng

Thủy ở vị trí số một là số sinh của Hà đồ, thủy là chí âm, là gốc của
sinh mệnh, là gốc của vạn vật. Cho nên thủy là số bắt đầu của trời, thận ứng
với thủy ở phương bắc thuộc quẻ Khảm. Thận thủy không thuần âm, một hào
dương ở giữa hai hào âm, hai chân thủy ẩn giấu trong một chân hỏa, vì vậy
thận dương cực kỳ quý báu không thể hao tán. Thận thủy ẩn ở cung Trập, cho
nên thận là gốc của phong tàng. Trong Nội kinh nói: “Người 40 tuổi, âm khí
còn nửa”, biểu thị ý nghĩa quan trọng của người trung niên bảo vệ thận tinh,
thận là chỗ tàng tinh, tinh là mẹ của khí, túc thiếu âm kinh thận “ghẻ gốc
lưỡi”, tinh khí của nó rót ở lượi, dưới lưỡi là kim tân, ngọc dịch là nguồn trên
của thận thủy, nước dãi là dịch của thận. Vậy từ tuổi trung niên phải bảo
dưỡng tinh nuốt tân dịch để bổ cứu thận thủy. Thận âm là gốc âm ngũ tạng,
thận âm quan hệ đến cân bằng âm dương toàn thân, vì thủy là bắt đầu của số
149

trời, là gốc của vạn vật, vì vậy chú ý bảo vệ thận âm (tinh) là ý nghĩa quan
trọng số một của việc duy trì sinh mệnh lâu dài. Thận là thủy số một của trời,
thủy sinh mộc, can thuộc mộc vì vậy can thận có quan hệ cùng gốc quan
trọng, dưỡng thận thủy để cứu giúp khí âm của can cực kỳ có ý nghĩa đối với
bệnh học tuổi già. Quẻ Khảm ứng với thận thủy, quẻ Ly ứng với tâm hỏa, quẻ
Khảm và Ly giao thái (ảnh hưởng qua lại với nhau), thủy hỏa ký tế, là khâu
chính trong sinh mệnh học cơ thể người, vì vậy nhà dưỡng sinh cực lực coi
trọng bổ thận thủy, thêm tinh bổ não, cho rằng đó là biện pháp cải lão hoàn
đồng. Nhà khí công tiến hành tu luyện với quẻ Khảm quẻ Ly thông giao nhau,
khí vận tâm thận. Lý luận ở chỗ sau khi cơ thể xuất sinh, quẻ Càn từ quẻ
thuần dương biến thành quẻ Ly hai hào dương kẹp ở giữa một hào âm, quẻ
Khôn từ quẻ thuần âm biến thành quẻ Khảm hai hào âm kẹp ở giữa một hào
dương, cho nên đạo gia sáng lập lý luận lấy Khảm bổ sung Ly để làm cho quẻ
Ly khôi phục lại quẻ Càn, lấy khí âm trong quẻ Ly cứu giúp thận thủy, làm
cho Khảm trở lại quẻ thuần âm… Do vậy, mà bổ cứu thận âm của cơ thể để
đạt được mục đích dưỡng sinh hoàn đồng, cũng chứng tỏ nước không chỉ ở
trong tự nhiên mà còn ở trong sinh vật, trong khoa học sinh mệnh cơ thể
người đều là vật chất cực kỳ quan trọng, vạch rõ bảo hộ thận âm (tinh) có vai
trò quan trọng trong khoa học sinh mệnh cơ thể người. Bảo hộ gồm có 2 ý
nghĩa:

- Đối kháng hao tinh tức bế tinh, tức tránh phòng dục.

- Dùng thức ăn, thuốc bổ thận âm, luyện tinh dịch để bổ thận âm.

“Địa nhị sinh hỏa” với tâm là hỏa tạng

Số vị trí thứ hai của Hà đồ sinh Hỏa, vị trí Hỏa ở phía Nam, thuộc quẻ
Ly. Hỏa là mặt trời, tượng trưng dương khí, là nguồn gốc vận động của Thủy.
Có Thủy Hỏa, âm dương mới có thể khí hóa, vạn vật mới có thể sinh sôi, cho
nên Hỏa đại diện tính dương ôn nhiệt. Khí của hỏa thông ở tâm, cho nên tâm
ứng với quẻ Ly, Hỏa sinh thổ, tỳ ứng với Thổ, cho nên tâm và tỳ có quan hệ
150

mật thiết. Kinh Thượng tư, Hồng Phạm viết: “Hỏa tinh nóng bốc lên”, vì vậy
thường dễ hao tán. Hỏa ở cơ thể người ngoài Hỏa của tâm (quân hỏa) ra còn
có Hỏa của mệnh môn (tướng hỏa), Hỏa long lôi của can thận… Bất luận
quân hỏa, tướng hỏa đều nên ẩn giấu bên trong, không nên vượt lên quá
nhiều.

Tâm chủ tàng thần, vì vậy nhà sinh mệnh học Trung Quốc qua các đời
đều chú ý đến liễm thần minh Hỏa để tiềm dương cô âm.

Chu Dịch nêu lên “rồng ẩn chưa dùng được”. “Rồng lên cao quá có hối
hận”, tức biểu thị ẩn dương nên bảo vệ, thịnh vương nên cất giấu, có ý nghĩa
quan trọng trong sinh mệnh học. Nội kinh rất coi trọng tác dụng của tâm, nêu
ra: “Tâm động thì lục phủ ngũ tạng đều động” (Linh khu, Khẩu ấn) “để mất
thần khí thì chết, còn có thần khí thì sống” (Linh khu, Thiên niên) “Tâm giữ
chức phận chủ tể trong toàn thân, nếu sáng suốt thì các tạng được yên. Đó là
lý lẽ căn bản, nếu dưởng sinh theo lý lẽ này thì được sống thọ” (Tố vấn, Linh
khu bí điển). Tóm lại, tâm ảnh hưởng rất lớn đối với sinh lý, bệnh lý cơ thể
người.

Các nhà dưỡng sinh Trung Quốc đều chú ý giữ gìn bên trong tâm thần,
bảo vệ tâm hỏa, như những phương luyện tậm “tọa vong” của Khổng Tử, “hư
vô” của Lão Tử, “dưỡng thần”, “thủ nhất” của Trang Tử, “Thiền định” của
Phật giáo, đều là sự tĩnh tọa để giữ gìn khí Hỏa của quẻ Ly ở bên trong. Giữ
gìn bên trong khí Hỏa của quẻ Ly để bảo vệ tâm thần có ý nghĩa quan trọng
trong sinh mệnh học cơ thể người.

Giữ tâm cho thanh, Thanh tâm là một yếu tố quan trọng cho tâm hỏa.

“Thiên tam sinh mộc” với can là phong tạng

Mộc là số thứ ba của Hà đồ, Mộc đại diện cho sự sống mới, đánh dấu
mầm móng vận động của vạn vật, tượng trưng cái bắt đầu của sinh mệnh. Cho
nên, Bát quái Chu dịch lấy quẻ Chấn ứng với mùa xuân, phương vị chánh
151

đông. Chấn thuộc sấm Kinh Dịch, Thuyết quái viết: “Sấm là động vậy”, “vạn
vật xuất ra ở phương chấn, chấn là phương đông”, “chấn là sấm”. Can thuộc
mộc có tính chất như sấm gió, cho nên can là tạng thăng phát có ý nghĩa quan
trọng trong khoa học sinh mệnh người. Khí của can vượng thì tinh thần vui
vẻ, hớn hở; người mà khí của can hư tổn thì ủy mị, ủ rũ, vì vậy sự thịnh
vượng và suy giảm của sức sống cơ thể có quan hệ với sự tác động của can.
Gió sấm có tác dụng rất lớn đối với sự điều tiết âm dương ấm lạnh, tương tự
can cũng có tác dụng quan trọng đối với âm dương khí huyết con người. Can
có thể điều tiết lượng máu, cho nên Hoàng đế Nội kinh gọi nó là: “Can là gốc
của việc hạn chế cực thịnh”.

Ngoài ra, can cất giữ tàng chứa hồn, lại có tác dụng điều tiết tâm thần,
có thể thấy ý nghĩa của can trong cơ thể rất lớn. Điều cốt lõi của việc bảo
dưỡng can ở chỗ tính mộc thăng phát, cho nên phải trợ giúp can khí ôn thăng,
vì vậy sáng sớm nên tập luyện để trợ giúp can ôn thăng, từ đó để có ích đối
với sự thăng phát của khí dương toàn thân, đó là chỗ dựa lý luận này. Mộc
thích điều đạt ghét uất kết, vì vậy điều tiết tình cảm ý chí, duy trì tinh thần
thoải mái là điều cốt lõi để dưỡng can. Những người trường thọ của Trung
Quốc hầu như trăm phần trăm đều lạc quan, học đến già mà mắt vẫn còn sáng,
tay chân nhanh nhẹn, mắt tỏ là khiếu của can, mắt nói lên tình hình khí của
can chưa suy. Linh khu, Thiên niên viết: “Người 50 tuổi khí của can bắt đầu
suy, lá gan bắt đầu mỏng, dịch đởm bắt đầu khô, mắt bắt đầu mờ” chứng tỏ
khí của can là tạng khí suy già sớm nhất. Vì can thuộc tạng của phong mộc,
ứng với quẻ Chấn (sấm), vì vậy cương cứng chủ động dễ hao tổn. Điều đó
cho thấy giảm bớt tức giận, điều hòa tình cảm ý chí, bảo dưỡng khí của can là
vấn đề không thể coi thường trong sinh mệnh học. Những người trường thọ sở
dĩ mắt không mờ, là bởi không buồn bực, tức giận làm cho can khí điều đạt,
cho nên đã kéo chậm quá trình lão hóa. Muốn vậy, cần bớt sự ham muốn để
không bị mất mình dẫn đến tức giận.
152

Đó là quả dục, bớt lòng ham muốn, là một phương pháp dưỡng sinh.

“Địa tứ sinh kim” với phế là tạng Kim

Số bốn là số cuối của Hà đồ, tượng trưng vạn vật có bắt đầu tất phải có
cuối, có sinh trưởng tất phải có thu cất. Số 4 là quẻ Đoài ở chính Tây. Kinh
Dịch, Thuyết quái viết: “ đầm để làm cho vui vẻ”, có nghĩa tháng 9 vạn vật
thành thục. Hình tượng quẻ Đoài là đầm, tưới nhuận đất lớn, phế ứng với
Đoài thuộc Kim, dịch của phế làm nhuận ngũ tạng. Tố vấn, Kinh mạch biệt
luận thiên: “Phế lại đem khí huyết thông tống đạt đến trăm mạch của toàn
thân”. “Chất nước được thăng hoa phân bủa bốn bề, ngoài thì phân bố đến da
lông, trong thì rót vào kinh mạch của ngũ tạng”, “phế ứng với quẻ Đoài, ở
tháng 9, chủ thu cất vạn vật, trong cơ thể phế nên túc giáng, người đến tuổi
trung niên, khí của phế nên được thu liễm, trong một đời người, can là tạng
thăng phát, chủ động, hao tổn rất lớn, suy thoái cũng sớm nhất. Linh khu,
Thiên niên bàn tới người đến 50 tuổi, khí can bắt đầu suy. Khí của phế chủ
thu, hao tổn tương đối ít, vì vật lão hóa tương đối chậm, đến 80 tuổi phế bắt
đầu mới suy. Linh khu, Thiên niên viết: “Người đến 50 tuổi khí của can bắt
đầu suy, can bắt đầu mỏng, chất dịch của đởm bắt đầu hết, mắt bắt đầu mờ.
Người 60 tuổi, khí của tâm bắt đầu suy, người trong lòng khổ lo buồn, huyết
khí trì trệ vì thế thích nằm. Người 70 tuổi, khí của tỳ hư, da khô. Người 80
tuổi, khí của phế suy, mất hồn phách, không còn minh mẫn nên hay nói nhầm.
Người 90 tuổi thì khí của thận khô kiệt, kinh mạch của tứ táng hư không.
Người 100 tuổi, ngũ tạng đều hư, thần khí đều mất, chỉ còn lại hình hài xương
cốt mà kết thúc cuộc đời”. Phế là Kim, khí táo thông ở phế, dễ tổn hao chất
dịch của phề, vì vậy giữ gìn nhuận phế là khâu quan trọng để bảo vệ phế. Phế
là suối cao của Thủy, suối cao chảy cạn thì Thủy không thể phân bố bốn phía.
Phế chủ khí, trong đời người khí của phế hao trán không ít, vì vậy từ tuổi
trung niên về sau phải chú ý nhuận phế, giữ gìn phế nhuận theo đặc tính sinh
153

lý. Trong khí công, lấy khí, thu khí là biện pháp quan trọng để bảo vệ khí của
phế, có ý nghĩa quan trọng trong sinh mệnh học cơ thể.

Dưỡng khí là một phương pháp dưỡng sinh.

“Thiên ngũ sinh thổ” với tỳ là thổ tạng

Số năm làm mẫu số của Hà đồ, Thổ là mẹ của vạn vật, số thành dựa
vào đó mà nảy sinh, số 5 ở trung ương, tượng quẻ Khôn, thuộc Thổ. Thổ ứng
với trưởng hạ chủ nuôi lớn vạn vật. Kinh Dịch, thuyết Quái viết: “Khôn là đất,
vạn vật đều được nuôi dưỡng” lại nói “Khôn cất giữ vạn vật”. Kinh Dịch,
Khôn quái, Thoán viết: “Đức Nguyên của Khôn nuôi dưỡng vạn vật với đức
thuận thừa “thiên đạo” vận hành với đức dày che chở vạn vật, đức hợp vô
biên đều nói về tính nuôi lớn và cất giữ của đất, tỳ ứng với thổ. Tỳ là nguồn
gốc hóa sinh vạn vật, vì vậy kiện tỳ bồi dưỡng Thổ là cơ sở quan trọng để duy
trì quá trình sinh mệnh. Trong quá trình khí cơ thăng giáng, tỳ là trục giữa của
sự chuyển động điều khiển sự thăng giáng khí cơ của tạng phủ con người.
Trong ngũ tạng, sự gánh vác của tỳ rất lớn, vì vậy muốn bảo vệ tỳ thì phải chú
ý tiết chế ăn uống, nhà khí công có chủ trương “tịch cốc” (tiết thực) tức là
công pháp để tỳ được nghỉ ngơi bằng cách tạm thời không đưa thức ăn bào
người. Ở nước ngoài có người một tuần giảm ăn một lần, đó là nhằm cho tý vị
có được cơ hội nghỉ ngơi, kiện vận tỳ thổ là khâu chủ yếu duy trì hoạt động
sinh mệnh cơ thể. Đông y cực kỳ coi trọng tỳ thổ, cũng rất chú trọng vị khí,
cho rằng có vị khí thì sống, không có vị khí thì chết. Tỳ vị luận của Lý Đông
Viên là tác phẩm nổi tiếng về sự bảo vệ tỳ vị.

Tiết chế ăn uống (tiết thực) là một phương pháp dưỡng sinh.

3.3.2. Chẩn bệnh theo học thuyết Ngũ hành

Ngoài phép dưỡng sinh, sự ứng dụng học thuyết Ngũ hành còn được
vận dụng đặc biệt trong y học. Bởi vì trong học thuyết Ngũ hành xuất phát từ
quan niệm “Thiên nhân tương đồng” hay “Thiên nhân hiệp nhất”, cho nên y
154

học cổ Đông phương vận dụng học thuyết Ngũ hành trong cơ thể con người
bằng học thuyết Tạng tượng như là phương pháp luận quan trọng nhất. Học
thuyết Tạng tượng đã giúp nền tảng lý luận cho y học phương Đông trong hai
khâu quan trọng là chẩn đoán và chữa bệnh (còn gọi là điều trị).

Chẩn đoán bệnh là một khâu quan trọng trong việc chữa bệnh. Vì chẩn
đoán đúng bệnh sẽ có tiên lượng đúng tình trạng bệnh, tìm y thuật phù hợp để
điều trị giúp bệnh nhân đỡ bệnh và ít tốn kém tiền bạc và thời gian.

Trong y học phương Đông, chẩn bệnh được thực hiện phối hợp Bát
cương và Tứ chẩn.

Bát cương dựa trên nền tảng triết lý Âm Dương. Các chứng âm thịnh sẽ
biểu hiện trong Lý – Hư – Hàn; còn chứng dương thịnh sẽ biểu hiện trong
Biểu – Thực – Nhiệt.

Tứ chẩn gồm 04 phương pháp khám bệnh (Vọng chẩn, Văn chẩn, Vấn
chẩn và Thiết chẩn).

Tứ chẩn dựa trên mối quan hệ tương sinh và tương khắc của Ngũ hành
để kết luận bệnh. Vấn đề quan trọng của Tứ chẩn là phải biết rõ học thuyết
Ngũ hành để suy luận về mối quan hệ bệnh lý, gốc và ngọn của bệnh. Kết hợp
Bát cương với Tứ chẩn cũng như tài năng, kinh nghiệm “quen việc” người
thầy thuốc có thể tiên lượng chính xác về bệnh, y thuật… chữa trị [98, tr.97].

VỌNG CHẨN

Vọng chẩn là tiến hành quan sát người bệnh, dựa trên y lý để biết bệnh
ở đâu, mức độ bệnh nặng, nhẹ…

Quan sát ngũ sự

Tiến hành quan sát ngay khi vừa gặp người bệnh. Các đối tượng ngũ
sự: Hình dáng, Tướng mạo… của người bệnh cần được chú ý ngay. Ví dụ:
bệnh nhân có hình dáng khỏe mạnh, đô con… nếu có bệnh thường là bệnh
155

mới mắc, cấp tính… Còn bệnh nhân có hình dáng tiều tụy, mệt mỏi… thì
bệnh đã mãn tính.

Quan sát da dẻ, sắc mặt

Màu sắc của da, sắc của mặt thể hiện rõ ràng tình trạng bệnh lý nội
tạng.

- Sắc mặt xao xao, ủ dột: Bệnh suy nhược

- Sắc mặt đỏ, giận dữ: Bệnh cấp tính

- Sắc mặt vàng úa: Bệnh gan

- Sắc mặt trắng nhợt: thiếu máu, suy kiệt

- Sắc mặt u tối, đen sạm: táo bón, suy thận.

Quan sát các khiếu của tạng phủ

a. Mắt: Mắt là khiếu của Can, nên:

- Mắt lóng lánh, năng động - Can khỏe

- Mắt đỏ, tức máu - Can nóng

- Mắt vàng, lờ đờ - Gan nhiễm, suy

- Mắt trừng, không có hồn - Suy kiệt và có thể sắp chết

b. Lưỡi: Lưỡi là khiếu của Tâm, nên:

- Nếu lưỡi nứt đỏ : Tim nhiệt

- Lưỡi rêu, trắng đục : Tim suy

c. Miệng: Miệng là khiếu của Tỳ, nên khi miệng có

- Môi hồng, đẹp là nhuận : Tỳ khí hòa thuận

- Môi bệu, khô : Tỳ bất túc

- Môi bệu chảy dài : Tỳ khí khô kiệt.

d. Mũi: Mũi là khiếu của Phế, nên khi:


156

- Mũi thông, thở đều là Phế tốt

- Mũi nghẹt là Phế thịnh

- Mũi sổ, chảy máu là Phế nhiệt.

e. Tai: Tai là khiếu của Thận, nên tai là nơi biểu hiện bệnh của thận.
Độ suy giảm của thính giác là sự biến động của thận. Thận suy thì nghe kém,
ù tai…

Quan sát gân – cốt

Gân cốt gồm tứ chi, móng tay, móng chân, răng và tóc. Khi khám bệnh,
thầy thuốc có thể quan sát Gân – Cốt để kết luận bệnh lý.

a. Răng: là phần thừa của xương (cốt) liên quan đến tủy sống mà tủy
do thận tạo nên, vậy Răng là nơi biểu hiện bệnh của Thận

Răng chắc - Thận khỏe

Răng ê ẩm - Đau thận, suy thận

Răng rụng - Thận kiệt

b. Tóc: là phần thừa của huyết nên nhìn tóc có thể đoán bệnh. Tóc bạc
sớm do máu huyết kém. Tóc rụng, ít tóc do thận suy.

c. Móng chân, tay: là phần thừa của da, cơ gân. Làm chủ Cân là can,
nên bệnh của gan được thể hiện trên móng chân, móng tay:

- Màu hồng, sáng đẹp, dày cứng là Can khí nhuận.

- Màu xám, khô, thô kệch, dễ gãy là Can khí kiệt.

Quan sát hành động

Hành động liên quan đến tạng – phủ. Khi tiếp xúc người bệnh, thầy
thuốc có thể quan sát hành động mà suy ra bệnh lý:

a. Co quắp, nắm chặt: là hành động liên quan đến bệnh của gan, mật.
157

b. Vui mừng hoặc nhăn nhó: Nếu vui mừng quá độ hoặc nhăn nhó
luôn luôn là biểu hiện tâm bất an.

c. Nôn ọe, ói mửa: là hành động liên quan đến hệ tiêu hóa: Tỳ - Vị.

d. Ho hen, thở: là hành động liên quan đến hệ hô hấp: Phế - Đại
trường.

e. Run, sợ: là hành động thể hiện bệnh lý ở Thận.

Như vậy thông qua quan sát 5 đối tượng – Ngũ tượng, da dẻ nét mặt,
các khiếu, gân cốt và hành động, có thể giúp đưa ra một kết luận bệnh lý trên
cơ sở các quy luật Ngũ hành [98, tr.98-100].

VĂN CHẨN

Văn chẩn là tiến hành nghe âm thanh giọng nói, hơi thở, ngửi mùi vị
của hơi thở, của mồ hôi, thậm chí cả các chất thải để kết luận bệnh lý.

Văn chẩn thường đi với kết luận Bát cương, chủ yếu là kết luận hai
chứng Hàn – Nhiệt. Vì hai chứng này tạo ra âm thanh, mùi vị đối kháng nhau.

Nghe giọng nói

Giọng nói thể hiện rõ nhất tình trạng “Nội tại” của sức lực.

 To, khỏe, có sức, nói nhiều: Thực chứng

 Trầm, yếu, ít hơi, ngại nói: Hàn chứng

Nghe hơi thở

 Thở dồn, mạnh gấp: Phế khí thực

 Thở ngắt, yếu, ngắn hơn: Phế khí hư

Nghe tiếng ho, tiếng nấc

 Ho nhiều đờm, dồn ép, tức ngực: Phế khí thực

 Ho khan, ít đờm: Phế khí hư


158

 Nấc liên tục, cao, to: Thương hàn

 Nấc yếu, thấp, nhỏ: Hư hàn

Ngửi mùi hôi

Mùi hôi ở quần áo, hương vị chỗ bệnh nhân nằm cũng góp phần cho
biết bệnh:

 Vị chua nồng: tỳ vị nhiệt

 Vị hôi, tanh: Tỳ vị hàn, suy kiệt

Ngửi mùi các chất thải

 Phân người bệnh:

- Nồng nặc: Tỳ vị nhiệt

- Hôi tanh: Tỳ vị hàn

 Nước tiểu người bệnh: - Nồng nặc, ít: Thận nhiệt

- Nhiều, ít hôi: Thận hư, hàn. [98,101-102]

VẤN CHẨN

Vấn chẩn là tiến hành hỏi, trao đổi với người bệnh về các thông tin liên
quan đến bệnh và người bệnh để từ đó có kết luận chính xác về bệnh, có sách
lược đúng trong thuật chữa trị. Tùy từng cách giao tiếp giữa thầy thuốc với
bệnh nhân (Có bệnh nhân không thể trả lời như bệnh trúng gió, tai nạn, điên
khùng, trẻ em...) để có thể rút ra kết luận. Với một bệnh nhân bình thường,
chúng ta có thể hỏi 5 vấn đề chính sau:

Triệu chứng bệnh

Mặc dù triệu chứng bệnh có nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng nhất
thiết phải hỏi người bệnh những nét lớn của bệnh. Khi biết triệu chứng, cơ
quan bộ phận trên người bệnh, thầy thuốc có thể dựa vào ngũ hành, âm dương
y lý mà kết luận.
159

Thời gian lâm bệnh

Hỏi thời gian lâm bệnh giúp biết được tình trạng bệnh ở giai đoạn nào,
cấp tính hay mãn tính..., để khẳng định dùng y thuật nào phù hợp, để tiên
lượng bệnh lý đúng.

Các phương pháp đã chữa trị

Có nhiều phương pháp để chữa bệnh, cho nên để chẩn đoán bệnh cũng
cần hỏi bệnh nhân trước đó đã dùng phương pháp gì, bao lâu, hiệu quả, hậu
quả...

Tuổi tác, địa chỉ

Bệnh, sức khỏe phụ thuộc vào độ tuổi của người bệnh đó. Địa chỉ, địa
phương lại thích hợp với y thuật sẽ được áp dụng, sẽ được chăm sóc theo điều
kiện xa, gần...

Hoàn cảnh sống của người bệnh

Nhiều bệnh nhân sau khi thổ lộ nỗi niềm, hoàn cảnh sống và được thầy
thuốc hướng dẫn thay đổi thái độ, hoàn cảnh sống mà hết bệnh, không cần
đến thuốc hoặc giải pháp điều trị tốn kém. Môi trường sống đóng vai trò quan
trọng trong sức khỏe, cho nên phải hỏi, biết và thông cảm với người bệnh [67,
tr.102 – 103].

THIẾT CHẨN

Thiết chẩn là bắt mạch để đoán bệnh. Vì mạch là nguồn Khí – Huyết
của cơ thể nên thông qua bắt mạch có thể đoán chính xác tình trạng sức khỏe,
bệnh tật.

 Để bắt mạch người bệnh để tay trên gối mềm (thường gối nhung
màu đỏ), tay để ngửa, người bệnh có thể nằm hoặc ngồi.
160

 Thầy thuốc dùng ba ngón tay đối diện với tay người bệnh để bắt
mạch, ngón nhẫn, ngón giữa và ngón trỏ nằm trên động mạch quay ở cổ tay
bệnh nhân.

Thủ thuật bắt mạch:

Ấn mạnh: Dùng cả 3 đầu ngón tay ấn xuống, có thể ấn nhẹ, ấn mạnh.

Khi ấn nhẹ mà nghe thấy mạch thường là mạch phù.

Ấn vừa mà nghe thấy mạch là mạch hoạt.

Ấn mạnh mới nghe thấy mạch là mạch trầm.

Khám mạch: Bắt cả 3 bộ và cả hai tay để đánh giá tổng quan (khám).
Sau đó đi từng chi tiết – đơn khám.

Thời mạch: Chọn thời điểm mà bắt mạch:

- Sáng sớm: lúc âm chưa tan hết, Dương chưa thịnh hẳn.

- Chiều tối: lúc dương chưa tan hết, Âm chưa thịnh hẳn.

Là thời mạch dễ cho kết quả chính xác.

Đo mạch: Hít một hơi – thở một lượt là một nhịp thở, cứ một nhịp thở
phải đếm được mạch:

Mạch bình thường: 4-5 nhịp

Mạch chậm : ít hơn 3 nhịp

Mạch nhanh: nhiều hơn 6 nhịp

Mạch quan hệ chặt chẽ với khí – huyết nên dựa vào nhịp có thể biết
suy – thịnh của khí huyết.

Việc biết kết hợp nhiều khả năng để đoán bệnh là một nghệ thuật và là
một kỹ thuật của thầy thuốc. Riêng chẩn bệnh theo Ngũ hành là một phương
pháp độc đáo. Phương pháp Hậu thiên: tứ chẩn. Phương pháp này đòi hỏi phải
161

hiểu biết tường tận mối quan hệ sinh khắc ngũ hành cũng như sự trải nghiệm,
thông qua thực tiễn làm giàu kho kinh nghiệm của bản thân thầy thuốc.

Ngày nay do khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, nên vấn đề khám bệnh
trở nên chính xác hơn. Các phân tích cận lâm sang như: phim, siêu âm, scaner
sẽ giúp chúng ta tiên lượng chính xác hơn. Vì thế nên sử dụng mọi điều tốt
đẹp của truyền thống và hiện đại để phục vụ lợi ích của con người một cách
tốt nhất [98, tr.103-105].

3.3.3. Chữa bệnh theo học thuyết Ngũ hành

Sau khi đã chẩn đoán đúng bệnh, biết được nguyên nhân do đâu, liên
quan đến tạng phủ nào, cơ quan bộ phận nào.., phân tích và tổng hợp được
bệnh lý, thầy thuốc có thể dung một hay nhiều y thuật cần thiết để chữa bệnh.
Cơ sở y lý của nền y học cổ truyền phương Đông đã được xây dựng trên nền
tảng của triết học phương Đông: Âm Dương và Ngũ hành, vì thế khi dùng y
thuật nào đó cũng cần lưu ý hai phương pháp: chữa bệnh theo Tiên thiên và
chữa bệnh theo Hậu thiên.

Chữa bệnh theo phương pháp Hậu thiên

Cũng như Ngũ hành, các tạng phủ trong con người vận hành một cách
hài hòa các mối quan hệ tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ, phản
sinh, phản khắc và hỗn mang. Các mối quan hệ Ngũ hành này là nguyên nhân
làm cân bằng hệ thống các cơ quan bộ phận trong con người. Các mối quan
hệ đó giúp cho con người tự điều chỉnh mà chữa bệnh. Như vậy Ngũ hành vận
động đã sản sinh ra một y thuật không ai không có: Tự điều chỉnh.

Một khi cơ thể không đủ khả năng tự điều chỉnh, cần có sự can thiệp từ
bên ngoài thì chúng ta nhờ đến bác sĩ, thầy thuốc khác… cũng dựa theo Ngũ
hành.
162

Chữa bệnh theo hệ Mẹ - Con

Trong con người, mỗi Tạng (phủ) đứng trước trong vòng Ngũ hành
sinh ra Tạng (phủ) đứng sau, vì thế có mối quan hệ Mẹ (sinh) – Con (được
sinh). Vòng Ngũ hành này kín dẫn đến Tạng (phủ) vừa là Mẹ cũng vừa là
Con.

Thực tế bệnh, theo Y học cổ truyền có nhiều nguyên nhân: bên trong
thường là do từ bên ngoài xâm nhập.Ví dụ tà khí chẳng hạn được chia thành 5
loại:

 Chính tà: là tà ở tạng phủ có bệnh chưa lây truyền.

 Hư tà: là tà từ Mẹ truyền sang Con.

 Thực tà: là tà từ Con truyền sang Mẹ.

 Vĩ tà: là tà từ tạng (phủ) thua quật lại tạng (phủ) thắng (thường ở
quan hệ khắc).

 Tặc tà: là tà từ tạng (phủ) thắng thừa cơ đánh mạnh gây bệnh nặng ở
tạng phủ thua (thường ở quan hệ khắc).

Ví dụ về mối quan hệ tà ở tạng phủ như sau: bệnh mất ngủ - chứng
bệnh của tâm. Bệnh này có thể do 5 loại tà sau:

 Bản thân tâm bệnh: thực tà gây bất an và mất ngủ khi chữa bệnh
phải điều Tâm, an thần.

 Tâm bệnh là do Can – Đởm: Hư tà. Chữa bệnh phải dưỡng Can, an
thần.

 Tỳ vị thừa khí độc bốc lên hại Tâm: Thực tà. Chữa bệnh phải tiêu
thực, an thần.

 Phế, Đại trường đánh ngược lại làm Tâm bệnh: Vĩ tà. Cách chữa: lợi
khí, an thần.
163

Bệnh có thể do Thận phù nhiều, tiểu lắm.. gây bệnh cho Tâm. Chữa
bệnh bằng cách tiêu thủy, an thần, giảm bớt tiểu đêm, thanh tâm.

Nguyên tắc chữa bệnh theo quan hệ Mẹ - Con có 5 phép trị:

Với chính tà: Tạng hư thì bổ, tạng thực thì tả.

Với hư tà: Bổ tạng Mẹ “Con hư bổ Mẹ”.

Với thực tà: “Mẹ thực tả con”.

Với vi tà: phải tả kẻ thua, bổ kẻ thắng (Quan hệ khắc: đánh tạng phủ
đứng trước, bổ tạng phủ đứng sau).

Với tặc tà: Phải bổ kẻ thua, tả kẻ thắng (quan hệ khắc).

Một nguyên tắc chữa bệnh theo phương pháp Hậu thiên thường được
chú ý nhất là: “Con hư bổ mẹ”, và “Mẹ thực tả con”.

Chữa bệnh theo phương pháp “Con hư bổ Mẹ”

Một khi Tạng (phủ) con bị hư nghĩa là khí, huyết của chúng bị suy kiệt,
yếu không đủ dẫn đến các cơ quan Tạng phủ đó bị suy.

Ví dụ: Tỳ vị hư yếu làm cho ăn uống kém, tiêu hóa rối loạn, cơ thể
thiếu dinh dưỡng nên gầy, yếu, không năng động, thiếu sức sống…

Tỳ hư thì khí, huyết đều kém, đặc biệt liên quan đến Tâm. Tâm – Tiểu
trường là Tạng (phủ) Mẹ của Tỳ vị. Chữa bệnh trong trường hợp này phải Bổ
Mẹ: Làm cho Tâm vượng huyết an bình trong cơ thể, ngủ được… sẽ dẫn đến
ăn được.

Một ví dụ khác: Thận – Bàng quang là Tạng và Phủ đóng vai trò Con
của Phế - Đại trường. Trường hợp Con hư là Thận hư. Thận là Tạng chủ về
nước (Thủy) tức là thủy dịch và tinh dịch, giúp cơ thể cường tráng, năng động
và thong minh. Nếu thận hư, tức là suy kiệt tinh dịch và thủy dịch – dẫn đến
xương khô, ù tai, tủy kém, tóc bạc, răng long, cột sống nhức mỏi, không
164

nhanh nhạy… Muốn chữa bệnh Thận hư phải tiến hành bổ Phế vì Phế là Mẹ
của Thận.

Phương pháp chữa bệnh “Con hư bổ Mẹ” với mục đích làm cho Tạng
(phủ) – Sinh (Mẹ) khỏe để có nhiều khí huyết tốt cung cấp, hỗ trợ cho Con –
Tạng (phủ) được sinh (trong quan hệ tương sinh của Ngũ hành).

Chữa bệnh theo phương pháp “Mẹ thực tả Con”

Cũng theo quan hệ tương sinh Ngũ hành, nếu Tạng (phủ) Mẹ thực tức
là khí dư, thừa. Khi dư thừa (dương thịnh) này có thể là do Con đẩy lên mà
có, vì vậy có thể tả Con, làm giảm khả năng cung cấp lượng dư thừa này.
Phương pháp chữa bệnh đó được gọi là “Mẹ thực tả con”.

Ví dụ: Phế thực, triệu chứng dư thừa, thừa khí sẽ ho hen, thừa dịch sẽ
hen suyễn. Khí thừa là do Thận cường thịnh hoặc tán khí lên, muốn chữa
bệnh ho hen phải chữa “Tả” thận vì Thận là “Con” của Phế [98, tr.117-119].

Chữa bệnh theo Ngũ thương (Ngũ chí)

Trong mỗi tạng phủ, cũng như thân thể có 6 loại khí: Nguyên khí (chân
khí), Trung khí; Dương khí; Vệ khí; Thang khí và Trọc khí.

Khí vận hành thì huyết vận hành, khí ngừng thì huyết trệ dẫn đến bệnh.

Ngũ thương là nguyên nhân dẫn đến xáo trộn khí: Tán, nghịch, kết,
trệ… Vì vậy, Ngũ thương liên quan đến bệnh của Tạng phủ.

Diễn biến tâm lý và tình trạng sức khỏe của mỗi người luôn gắn chặt
với nhau. Nhiều bệnh có nguyên nhân từ biểu hiện quá độ trạng thái tâm lý và
cung cách ứng xử của mỗi người.

Chữa bệnh theo Ngũ thương là sử dụng khả năng của thầy thuốc và
thân nhân tạo nên một đột biến tâm lý cho bệnh nhân (theo ngôn ngữ hiện đại
là tạo một cú shock tâm lý) để làm thay đổi khí – huyết tạo nên sự cân bằng
trong cơ thể.
165

Ví dụ: Giận quá làm Can khí nghịch lên

Vui mừng quá làm Tâm khí hoãn.

Lo lắng quá làm Tỳ khí kết.

Bi ai quá làm Phế khí tiêu.

Sợ hãi quá làm Thận khí tán.

Có thể sử dụng “vũ khí” này để chữa các bệnh cho mình và cho bệnh
nhân:

- Mừng quá hại Tâm thì lấy sợ hãi mà chữa.

- Giận quá hại Can thì lấy thương cảm bi ai mà chữa.

- Lo lắng tư lự quá hại Tỳ thì lấy giận mà chữa.

- Bi ai thương cảm quá hại Phế thì lấy mừng rỡ mà chữa.

- Sợ hãi quá hại Thận thì lấy lo lắng, tự lực mà chữa.

Phương pháp Ngũ thương này dựa trên kết tán … của khí. Ví dụ: Nếu
người bệnh tức ngực, không muốn ăn kể cả cháo, thuốc… đó là chứng của Tỳ
khí kết mà nguyên nhân là lo nghĩ, tư lự quá độ. Muốn chữa bệnh này thì chỉ
cần làm cho bệnh nhân giận dữ quá độ làm khí nghịch lên mà thoát ra, người
sẽ nhẹ đi dễ chịu và ăn uống trở lại bình thường [98, tr.119-121].

Chữa bệnh theo Ngũ sắc, Ngũ vị

Tình trạng sức khỏe của thân thể và mỗi tạng phủ cũng liên quan đến
màu sắc và mùi vị. Phương pháp chữa bệnh thu Ngũ sác và Ngũ vị đã được cổ
nhân thực hiện một cách thấm nhuần học thuyết Ngũ hành. Màu sắc và mùi vị
có tác dụng kích thích sự hưng phấn, thay đổi tình trạng tâm lý, tác dụng bổ
dương tăng dịch vị, hấp thụ trong quá trình tiêu hóa và có tác dụng chữa bệnh
trực tiếp.
166

Màu sắc và mùi vị có thể dùng để chữa bệnh dưới dạng thuốc hoặc thức
ăn. Ngoài ra, cổ nhân còn dùng mùi vị, màu sắc để chữa bệnh trực tiếp. Ví dụ:
Nghẹt mũi, khó thở là bệnh hô hấp thuộc Phế có thể chữa bằng hương liệu
(các loại dầu) thơm, cay. Bệnh lao phổi, viêm phế quản mãn tính… cần được
tiếp xúc ánh sáng - màu sắc là màu của Kim loại hợp với Phế.

Một ví dụ khác: vị chua thuộc hành Mộc tương ứng tạng Can. Chua là
vị của Can. Có thể dùng để tẩy độc của Gan, nhưng dùng nhiều chua lại hại
đến Gan [98, tr.121-122].

Chữa bệnh theo giờ vượng của khí

Theo Ngũ hành, căn cứ vào sự vượng – suy của khí để kết hợp Bổ - Tả
khi chữa bệnh: Vào giờ vượng khí ở kinh thuộc Tạng phủ nào thì tả ở kinh đó,
còn bổ được tiến hành vào giờ khí yếu kém nhất. Ví dụ, đối với bệnh huyết áp
cao: bệnh này thuộc TIM – MẠCH, tại thời điểm 11 – 13 giờ khí vượng ở
kinh Tâm, nên có thể tả, ngược lại sẽ bổ vào lúc 23 – 01 giờ đêm.

Một ví dụ khác, chứng đau lưng do Thận sẽ bổ vào lúc 5 – 7 giờ, còn tả
vào lúc 17 – 19 giờ [98, tr.122].

HỌC THUYẾT TỲ THỔ KHÍ HUYẾT

Trong phương pháp Tiên thiên – chữa bệnh theo Âm – Dương, cổ nhân
đã xây dựng học thuyết Thủy – Hỏa: Tâm – Thận và được dùng để bổ Thận
tàng tinh dịch huyết. Còn phương pháp Hậu thiên – chữa bệnh theo Ngũ
hành, cổ nhân lại xây dựng thuyết Tỳ Thổ khí huyết: Bổ trung ích khí.

Vì Tạng – Phủ nào cũng có khí và huyết. Muốn đảm bảo khí huyết phải
có nguồn cung cấp: dinh dưỡng của thực phẩm, qua con đường tiêu hóa, tức
là bổ dưỡng qua Tỳ. Tỳ vị hợp hành Thổ, nên học thuyết mang tôn chỉ Tỳ
Thổ khí huyết [98, tr.122-123].
167

Chữa bệnh theo phương pháp bồi bổ tỳ thổ

Ăn uống tốt: Việc ăn uống đủ chất, đủ dinh dưỡng cũng như việc nên
ăn gì và kiêng gì đóng vai trò tạo lập và duy trì sức khỏe. Ăn uống đầy đủ sẽ
tạo nên sinh khí, có da, có thịt,… lấn át được bệnh tật.

Ăn uống đúng: Do ăn uống liên quan đến hầu hết các bệnh, nên phải
biết cơ thể mình cần gì và không cần gì.

Uống thuốc: Với Tỳ thổ khí huyết, các bài thuốc được sưu tầm phong
phú và đa dạng. Chủ yếu chữa Tỳ Thổ là Bổ và Tiêu. Thuốc dùng để Bổ Tỳ vị
phần nhiều là các vị thuốc quý, hiếm, ít độc hại. Các vị thuốc bổ có tác dụng
lợi mật, mát gan, bổ gan, kích thích tiêu hóa, giàu các yếu tố vi lượng cũng
như sinh tố Vitamin A,B,C… Một số vị thuốc quý dùng cho Tỳ Thổ khí huyết
là: nhân sâm, hoàng kỳ, đương quy, bạch truật, long nhãn, cam thảo…

3.3.4. Kết quả khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện Khoa Y học cổ
truyền thuộc bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ
2008 đến 2010 và giá trị Tỳ Thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức
khỏe con người

Tính biện chứng về y lý cổ truyền qua học thuyết ngũ hành đã được
khẳng định theo thời gian tại một số nước ưa chuộng nền y học cổ truyền như:
Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc v.v.. Lý luận của học thuyết ngũ
hành áp dụng vào y học cổ truyền, được chúng tôi kiểm chứng thực tế tại
Bệnh viện Y học Cổ truyền, là cơ sở 3 của Bệnh viện Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh, với 504 bệnh án.
Phương pháp tiến hành thực nghiệm trên bệnh án của bệnh nhân từ năm
2008 đến 2010, gồm cả nam lẫn nữ, có độ tuổi từ 18 - 90, được ghi nhận ngày
vào viện và triệu chứng bệnh: ngày vào viện để quy ra thời gian trong mùa
của hành nào và triệu chứng bệnh để quy ra tạng của hành nào bị bệnh. Tức là
lấy học thuyết ngũ hành để đối chiếu hai yếu tố: thời gian phát bệnh trong
năm và các tạng của hành nào bị bệnh theo ngũ hành.
168

Phân tích số liệu của 504 bệnh án để tìm mối liên quan:

Mối liên quan giữa triệu chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng
nhập viện

Tháng nhập viện là Mộc (tháng 1,2 âm lịch)

Triệu chứng n (%) Giới [n(%)] P

Nam Nữ

Gan 3 (5,66) 0 3 (100,00)

Tâm 15 (28,30) 6 (40,00) 9 (60,00)

Dạ dày 13 (24,53) 6 (46,15) 7 (53,85) 0,386

Phổi 5 (9,44) 2 (40,00) 3 (60,00)

Thận 12 (22,63) 6 (50,00) 6 (50,00)

Khác 5 (9,44) 1 (20,00) 4 (80,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng nhập viện là tháng Mộc
(P=0,386>0,05).

Tháng nhập viện là Hỏa (tháng 4,5 âm lịch)

Triệu chứng n (%) Giới [n(%)] P

Nam Nữ

Gan 15 (15,78) 4 (26,67) 11 (73,33)

Tâm 26 (27,36) 9 (34,62) 17 (65,38)

Dạ dày 21 (22,11) 9 (42,86) 12 (57,14) 0,513

Phổi 9 (9,48) 6 (66,67) 3 (33,33)

Thận 22 (23,16) 9 (40,91) 13 (59,09)

Khác 2 (1,11) 1 (50,00) 1 (50,00)


169

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng nhập viện là tháng Hỏa
(P=0,513>0,05).

Tháng nhập viện là Thổ (tháng 3,6,9,12 âm lịch)

Triệu chứng n (%) Giới [n(%)] P

Nam Nữ

Gan 34 (18,89) 11 (32,35) 23 (67,65)

Tâm 39 (21,67) 22 (56,41) 17 (43,59)

Dạ dày 28 (15,56) 13 (46,43) 15 (53,57) 0,140

Phổi 12 (6,67) 6 (50,00) 6 (50,00)

Thận 56 (31,11) 18 (32,14) 38 (67,86)

Khác 11 (6,11) 3 (27,27) 1 (72,73)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng nhập viện là tháng Thổ
(P=0,140>0,05).

Tháng nhập viện là Kim (tháng 7,8 âm lịch)

Triệu chứng n (%) Giới [n(%)] P

Nam Nữ

Gan 18 (23,08) 4 (22,22) 14 (77,78)

Tâm 22 (28,21) 5 (22,73) 17 (77,27)

Dạ dày 12 (15,38) 8 (66,67) 4 (33,33) 0,013

Phổi 6 (7,69) 5 (83,33) 1 (16,67)

Thận 15 (19,23) 4 (26,67) 11 (73,33)

Khác 5 (6,41) 2 (40,00) 3 (60,00)


170

Kết quả phân tích cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa triệu
chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng nhập viện là tháng Kim
(P=0,013<0,05). Trong tháng Kim thì :

- Bệnh nhân Nữ bị bệnh gan nhiều gấp 3 lần bệnh nhân nam bị bệnh
gan.

- Bệnh nhân Nữ bệnh Tâm nhiều gấp 3 lần bệnh nhân nam bị bệnh
tâm.

- Bệnh nhân Nam bệnh dạ dày nhiều gấp 2 lần bệnh nhân nữ bệnh dạ
dày.

- Bệnh nhân Nam bệnh phổi nhiều gấp 5 lần bệnh nhân nữ bệnh phổi.

- Bệnh nhân nữ bệnh thận nhiều gấp 3 lần bệnh nhân nam bệnh thận.

- Bệnh nhân nữ mắc các triệu chứng khác nhiều gấp 1,5 lần các bệnh
nhân nam.

Tháng nhập viện là Thủy (tháng 10,11 âm lịch)

Triệu chứng n (%) Giới [n(%)] P

Nam Nữ

Gan 18 (18,37) 7 (38,89) 11 (61,11)

Tâm 24 (24,49) 12 (50,00) 12 (50,00)

Dạ dày 21 (21,43) 8 (38,10) 13 (61,90) 0,221

Phổi 6 (6,12) 4 (66,67) 2 (33,33)

Thận 25 (25,51) 7 (28,00) 18 (72,00)

Khác 4 (4,08) 0 4 (100,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng mắc bệnh và giới tính theo tháng nhập viện là tháng Thủy
(P=0,221>0,05).
171

* Mối liên quan giữa triệu chứng mắc bệnh và nhóm tuổi theo
tháng nhập viện.

Tháng nhập viện là Mộc (tháng 1,2 âm lịch)

Triệu n (%) Tuổi Tuổi P


chứng <30 30-39 40-49 >_50

Gan 3 (5,66) 0 0 0 3 (100,00)

Tâm 15 0 0 1 (6,67) 14 (93,33) 0,154


(28,30)

Dạ dày 13 1 (7,69) 3 (23,08) 1 (7,69) 8 (61,54)


(24,53)

Phổi 5 (9,43) 0 0 1 (20,00) 4 (80,00)

Thận 12 0 0 5 (41,67) 7 (58,33)


(22,64)

Khác 5 (9,43) 0 0 1 (20,00) 4 (80,00)

Kết quả phân tích ghi nhận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng nhập viện và nhóm tuổi ở tháng vào viện là tháng Mộc
(P=0,154>0,05).

Tháng nhập viện là Hỏa (tháng 3,5 âm lịch)

Triệu n (%) Tuổi Tuổi P


chứng <30 30-39 40-49 >_50

Gan 15 1 (6,67) 0 0 14 (93,33)


(15,79)

Tâm 26 2 (7,69) 2 (7,69) 1 (3,85) 21 (80,77)


(27,37)
172

Dạ dày 21 0 1 (4,76) 1 (4,76) 19 (90,48)


(22,11) 0,154
Phổi 9 (9,47) 1 (11,11) 0 0 8 )88,89)

Thận 22 0 3 (13,64) 4 (18,18) 15 (68,18)


(23,16)

Khác 2(2,11) 1(50,00) 0 0 1 (50,00)

Kết quả phân tích ghi nhận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng nhập viện và nhóm tuổi ở tháng vào viện là tháng Hỏa
(P=0,154>0,05).

Tháng nhập viện là Thổ (tháng 3,6,9,12)

Triệu N (%) Tuổi Tuổi P


chứng <30 30-39 40-49 >_50

Gan 34(18,39) 4(11,76) 3(8,82) 5(14,71) 22(64,71)

Tâm 39 (21,67) 1(2,56) 1(2,56) 4(10,26) 33(84,62)

Dạ dày 28(15,56) 0 1(3,57) 4(14,29) 23(82,14)

Phổi 12(6,67) 0 0 1(8,33) 11(91,67) 0,230

Thận 56(31,11) 2(3,57) 8(14,29) 10(17,86) 36(64,29)

Khác 11(6,11) 0 1(9,09) 3(27,27) 7(63,64)

Kết quả phân tích ghi nhận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng nhập viện và nhóm tuổi ở tháng vào viện là tháng Thổ
(P=0,230>0,05).

Tháng nhập viện là Kim (tháng 7,8 âm lịch)

Triệu n (%) Tuổi Tuổi P


chứng <30 30-39 40-49 >_50

Gan 18(23,08) 0 0 1(5,56) 17(94,44)


173

Tâm 22(28,21) 1(4,55) 1(4,55) 2(9,09) 18(81,82)

Dạ dày 12(15,38) 0 0 3(25,00) 9(75,00)

Phổi 6 (7,69) 0 0 0 6(100,00) 0,236

Thận 15(19,23) 0 2(13,33) 3(20,00) 10(66,67)

Khác 5(6,41) 1(20,00) 0 0 4(80,00)

Kết quả phân tích ghi nhận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng nhập viện và nhóm tuổi ở tháng vào viện là tháng Kim
(P=0,236<0.05).

Tháng nhập viện là Thủy (tháng 10,11 âm lịch)

Triệu n (%) Tuổi Tuổi P


chứng <30 30-39 40-49 >_50

Gan 18(18,56) 0 1(5,56) 1(5,56) 16(88,89)

Tâm 24(24,74) 1(4,17) 0 3(12,50) 20(83,33)

Dạ dày 21(21,65) 1(4,76) 1 (4,76) 2(9,52) 17(80,95)

Phổi 5(5,15) 0 1(20,00) 1(20,00) 3(60,00) 0,828

Thận 25(25,77) 0 2(8,00) 2(8,00) 21(84,00)

Khác 4(4,12) 0 1(25,00) 0 3(75,00)

Kết quả phân tích ghi nhận không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng nhập viện và nhóm tuổi ở tháng vào viện là tháng Thủy
(p=0,828>0.05).
174

KẾT QUẢ

Đặc tính đối tượng

Đặc tính n %

Nam 201 39,88

Giới Nữ 303 60,12

< 30 tuổi 17 3,38

≤ 30-39 tuổi 32 8,36

Tuổi >_40- 49 tuổi 60 11,93

>_ 50 tuổi 394 78,33

Mộc 53 10,52

Hỏa 95 18,85

Tháng vào viện Thổ 180 35,71

Kim 78 15,48

Thủy 98 19,44

Gan 88 17,46

Tâm 126 25,00

Bệnh Dạ dày 95 18,85

Phổi 38 7,54

Thận 130 25,79

Khác 27 5,36

Trong tổng số 504 đối tượng tham gia nghiên cứu :

- Tỉ lệ nam nữ là 1:1,5

- Đa số lớn hơn 50 tuổi (78,33%)


175

- Các đối tượng vào viện vào tháng Thổ (tháng 1; 4;7;10) là cao nhất
(35,71%)

- Các đối tượng vào viện chủ yếu là bị bệnh về thận.

Theo giới tính

Giới [n(%)]

Đặc điểm Nam Nữ p

<30 tuổi 10(4,98) 8(2,32)

>_30-39 tuổi 13(6,47) 19(6,29)

Tuổi >_40- 49 tuổi 28 (13,93) 32(10,60) 0,237

>_ 50 tuổi 150 (74,63) 244(80,79)

Mộc 24(11,94) 29(9,57)

Hỏa 38(18,91) 57(18,81)

Tháng vào Thổ 73(36,32) 107(35,51) 0,0870


viện
Kim 28(13,93) 50(16,50)

Thủy 38(18,91) 60(19,80)

Gan 26(12,94) 62(20,46)

Tâm 54(26,87) 72(23,76)

Bệnh Dạ dày 44 (21,89) 51(16,83) 0,011

Phổi 23(11,44) 15(4,95)

Thận 44(21,89) 86(28,38)

Khác 10(4,98) 17(5,61)

Nhận xét:

- Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính và triệu chứng
chính của các đối tượng khi vào viện (P=0,011<0,05) : nam vào viện
176

chủ yếu do các triệu chứng chính liên quan đến tâm (26,87%), còn
nữ vào viện chủ yếu do các triệu chứng liên quan đến thận
(28,38%).

Mối liên quan giữa tháng vào viện và triệu chứng chính theo giới
tính:

Nữ

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng N (%)
Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 62(20,46) 3(4,84) 11(17,74) 23(37,10) 14(22,58) 11(17,73)

Tâm 72(23,76) 9(12,50) 17(23,61) 17(23,61) 17(23,61) 12(16,67)

Dạ 51(26,83) 7(13,73) 12(23,53) 15(29,41) 4(7,84) 13(25,49)


dày 0,217
Phổi 15(4,95) 3(20,00) 3(20,00) 6(40,00) 1(6,67) 2(13,33)

Thận 86(28,38) 6(6,98) 13(15,12) 38(44,19) 11(12,79) 18)20,93)

Khác 17(5,61) 1(5,88) 1(5,88) 8(47,06) 3(17,65) 4(23,53)

- Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống
kê giữa triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối
tượng nữ (P=0,207>0,05).

Nam

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng N (%)
Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 26(12,94) 0(0,00) 4(15,38) 11(42,31) 4(15,38) 7(26,92)

Tâm 54(26,87) 6(11,11) 9)16,67) 22(40,74) 5(9,26) 12(22,22)

Dạ 44(21,89) 6(13,64) 9(20,45) 13(29,55) 8(18,18) 8(18,18) 0,424


dày
177

Phổi 23(11,44) 2(8,70) 6(26,09) 6(26,09) 5(21,74) 4(17,39)

Thận 44(21,89) 6(13,64) 9(20,45) 18(40,91) 4(9,09) 7(15,91)

Khác 10(4,98) 4(40,00) 1(10,00) 3(30,00) 2(20,00) 0(0,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối tượng nam
(P=0,424>0,05).

Mối liên quan giữa tháng vào viện và triệu chứng chính theo nhóm tuổi

Nhỏ hơn 30 tuổi

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng N (%)
Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 5(29,41) 0(0,00) 1(20,00) 4(80,00) 0(0,00) 0(0,00)

Tâm 5(29,41) 0(0,00) 2(20,00) 1(20,00) 1(20,00) 1(20,00)

Dạ 2(11,76) 1(50,00) 0(0,00) 0(0,00) 0(0,00) 1(50,00)


dày 0,201
Phổi 1(5,88) 0(0,00) 1(100,00) 0(0,00) 0(0,00) 0(0,00)

Thận 2(11,76) 0(0,00) 0(0,00) 2(100,00) 0(0,00) 0(0,00)

Khác 2(11,76) 0(0,00) 1(50,00) 0(0,00) 1(50,00) 0(0,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối tượng nhỏ hơn 30
tuổi (P=0,201>0,05).

Từ 30 đến 39 tuổi

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng N (%) Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 4(12,50) 0(0,00) 0(0,00) 3(75,00) 0(0,00) 1(25,00)

Tâm 4(12,50) 0(0,00) 2(50,00) 1(25,00) 1(25,00) 0(0,00)


178

Dạ 6(18,75) 3(50,00) 1(16,67) 1(16,67) 0(0,00) 1(16,67)


dày 0,120
Phổi 1(3,13) 0(0,00) 0(0,00) 0(0,00) 0(0,00) 1(100,00)

Thận 15(46,88) 0(0,00) 3(20,00) 8(53,33) 2(13,33) 2(13,33)

Khác 2(6,25) 0(0,00) 0(0,00) 1(50,00) 0(0,00) 1(50,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối tượng từ 30 tuổi đến
39 tuổi (P=0,120>0,05).

Từ 40 đến 49 tuổi

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng N (%)
Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 7(11,67) 0(0,00) 0(0,00) 5(71,43) 1(14,29) 1(14,29)

Tâm 11(18,33) 1(9,09) 1(9,09) 4(36,36) 2(18,18) 3(27,27)

Dạ 11(18,33) 1(9,09) 1(9,09) 4(36,36) 3(27,27) 2(18,18) 0,858


dày

Phổi 3(5,00) 1(33,33) 0(0,00) 1(33,33) 0(0,00) 1(33,33)

Thận 24(40,00) 5(20,83) 4(16,67) 10(41,67) 3(12,50) 2(8,33)

Khác 4(6,67) 1(25,00) 0(0,00) 3(75,00) 0(0,00) 0(0,00)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối tượng từ 40 tuổi đến
49 tuổi (P=0,858>0,05).

Từ 50 tuổi trở lên

Triệu Tháng vào viện [n(%)]


chứng
N (%) Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy P

Gan 72(18,27) 3(4,17) 14(19,44) 22(30,56) 17(23,61) 16(22,22)


179

Tâm 106(26,9) 14(13,21) 21(19,81) 33(31,13) 18(16,98) 20(18,87)

Dạ 76(19,29) 8(10,53) 19(25,00) 23(30,26) 9(11,84) 17(22,37) 0,440


dày

Phổi 32(8,12) 4(12,50) 8(25,00) 11(34,38) 6(18,75) 3(9,38)

Thận 89(22,59) 7(7,87) 15(16,85) 36(40,45) 10(11,24) 21(23,60)

Khác 19(4,82) 4(21,05) 1(5,26) 7(36,84) 4(21,05) 3(15,79)

Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
triệu chứng chính khi vào viện và tháng vào viện của đối tượng từ 50 tuổi trở
lên (P=0,440>0,05).

Tóm lại, theo phân tích số liệu 504 bệnh án tại Bệnh viện Y học cổ
truyền thuộc Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008
đến năm 2010, cho thấy điều có ý nghĩa quan trọng nhất là tất cả các loại bệnh
đều nhập nhiều ở tháng thổ. Bệnh nhân nam triệu chứng chính là ở tạng tâm,
còn bệnh nhân nữ là ở tạng thận.

Riêng yếu tố nhập viện ở tháng Thổ, có thể rút ra vấn đề ăn uống thực
dưỡng rất quan trọng cho sức khỏe con người vì theo ngũ hành thì hành Thổ
là hành trong bốn hành còn lại: Thận, Can, Tâm, Phế. Hễ khi hành Thổ suy,
tức ăn uống kém thì các hành còn lại cũng yếu (bị bệnh). Cho nên để cho toàn
thân không bị bệnh, lúc nào cũng chú ý trợ giúp bằng nhiều cách để cho tiêu
hóa lúc nào cũng tốt thì sẽ không bệnh. Người xưa từng nói: “bệnh tùng khẩu
nhập” là vậy.

* Giá trị Tỳ thổ của học thuyết Ngũ hành đối với sức khỏe con
người

Kết quả cuộc kháo sát trên cho ta rút ra về phòng bệnh phù hợp với
trường phái hậu thiên (trường phái chú ý về tỳ vị), hướng phòng bệnh là
thường xuyên tập luyện hai tay để làm vượng hành Thổ giúp ích cho tiêu hóa.
180

Ngoài ra, chúng ta thường dùng củ gừng là dược chất để kích thích tiêu hóa
trong ăn uống, qua đó có tác dụng phòng bệnh nhờ làm vượng hành Thổ.

Về trị bệnh, trong sử dụng thuốc thang, người thầy thuốc bóc thuốc để
trị các tạng, các loại bệnh đã dùng một số vị để kích thích tiêu hóa (như là
gừng, hương phụ tái chế, sa nhân, trần bì,) rồi bóc các vị thuốc hòa lại để trị
bệnh là cũng dựa vào tỷ thổ của học thuyết Ngũ hành.

Trong trị bệnh bằng phương pháp châm cứu theo trường phái hậu thiên
(tức là chú ý đến tỳ vị), các nhà châm cứu đều chú ý châm hoặc cứu bổ huyệt
túc tâm lý để kích thích vượng khí của tỳ vị, tức là làm vượng hành Thổ để trị
bệnh.

Tóm lại, bằng nhiều phương pháp khác nhau để bảo vệ sức khỏe con
người trong cuộc sống, luôn luôn không để tiêu hóa bị bệnh. Nếu để tiêu hóa
kém lâu ngày, hai là để ăn quá nhiều mà ít vận động lâu ngày. Đó là hai
nguyên nhân dẫn đến những bệnh lý khác nhau cho năm tạng của Ngũ hành.

Kết luận chương 3

Học thuyết Ngũ hành trong triết lý phương Đông từ ngàn xưa là cơ sở
lý luận được vận dụng vào nhiều học phái khác nhau, đặc biệt nó cùng với
học thuyết Âm dương chi phối vào y học tại Trung Quốc là bộ Hoàng đế Nội
kinh, còn tại Việt Nam là bộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh tạo ra nền
y học cổ truyền phương Đông giúp đỡ sức khỏe cho người dân phương Đông.
Đó là ý nghĩa đặc biệt của học thuyết Ngũ hành thể hiện ở chương 3.

Học thuyết Ngũ hành đã đưa chúng ta đến nhận thức thể giới ở năm
dạng vật chất đầu tiên và luôn biến đổi theo quy luật nhất định. Riêng ở cơ thể
con người, học thuyết Ngũ hành cho chúng ta nhận thức các bộ phận trong
người gồm 5 tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận có những tính năng khác nhau và có
mối quan hệ chi phối theo quy luật sinh khắc như học thuyết Ngũ hành. Đó là
học thuyết Tạng tượng. Học thuyết Tạng tượng là học thuyết nêu ra các biểu
181

hiện bệnh lý cụ thể của các tạng tượng liên quan: tâm, can, tỳ, phế, thận. Học
thuyết Tạng tượng giúp cho các thầy thuốc có cơ sở để chẩn đoán chính xác
bệnh và đưa ra phương pháp trị bệnh. Nếu các tạng tương thích chuyên hóa
với thế quân bình cùng với thiên nhiên thì sống tốt sống khỏe đó là quy tắc
giúp con người sống dưỡng sinh. Còn các quy luật tương tác mất quân bình
thì sinh ra bệnh và người thầy thuốc cần có phép thích hợp như châm cứu,
uống thuốc v.v.. để phục hồi lại sự cân bằng các quy luật của ngũ tạng, của
âm dương để đem lại sự bình phục sức khỏe cho con người. Sự tìm ra nguyên
nhân gây bệnh nền y học cổ truyền từ xưa đã đưa ra phương pháp tứ chẩn là:
vọng, văn, vấn, thiết. Nếu xem tướng sắc người, nghe âm thanh phát ra từ con
người, hỏi để biết các sinh hoạt liên quan đến con người, và cuối cùng xem 6
bộ mạch ở hai tay: phải trái và ở ba bộ thốn, quan, xích mà thấy tất cả là bình
thường, hòa hoãn thì là không bệnh, còn như bất bình thường hay thái quá
hoặc bất cập là bệnh lý. Từ đó biết nguyên nhân gây bệnh, nó có thể là thực
chứng hay là hư chứng. Nếu thực chứng thì phép trị bệnh là tả (đánh) nguyên
nhân gây bệnh, còn nếu bệnh hư thì bổ (bù đắp) nguyên nhân gây bệnh.

Đặc biệt qua khảo sát 504 bệnh án tại Bệnh viện Y học cổ truyền thuộc
bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho phép ta thấy bệnh lý
của năm tạng trong cơ thể người đều biểu hiện thiên hướng ở tạng Tỳ. Tạng
Tỳ biến hóa ở vấn đề tiêu hóa ăn uống. Hễ biểu hiện ăn uống kém cỏi là dấu
hiệu quan trọng, là nguồn gốc phát ra các bệnh ở các tạng trong cơ thể. Việc
phát hiện dấu hiệu tiêu hóa kém là nguồn gốc của nhiều bệnh khác nhau, nền
y học cổ truyền từ xưa và đến nay đã xác tín, và y văn Tây y đã từng đề cập.
Hơn nữa, người xưa cho rằng “bệnh tùng khẩu nhập”, nghĩa là ăn uống không
điều độ, không hợp lý là nguồn gốc dẫn đến nhiều bệnh lý (hành thổ bị tác
động xấu). Vì vậy học thuyết Ngũ hành một lần nữa đã được vận dụng rất
hiệu quả trong y học để bảo vệ sức khỏe cho con người, nâng cao cuộc sống
ngày càng tươi đẹp.
182

KẾT LUẬN

Nền văn hóa Trung Quốc cổ đại cùng với một số nền văn hóa khác như
Hy Lạp, Ấn Độ… hợp lại là những nền văn hóa đầu tiên có giá trị lớn trên
hành tinh này. Chiếc nôi của Trung Quốc cổ đại có giá trị lớn là do quá trình
sống đấu tranh sinh tồn bền bỉ trong cuộc chinh phục thiên nhiên của nhân
dân Trung Quốc cổ đại. Quá trình đấu tranh sinh tồn bền bỉ của nhân dân
Trung Quốc cổ đại đã trải qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt… và dẫn đến
cuộc sống phát triển phong phú ngày càng hoàn thiện. Cơ sở kinh tế - xã hội
của Trung Quốc ngày càng được hoàn thiện cũng kéo theo sự phát triển của
nền triết học phương Đông nói chung và học thuyết Ngũ hành nói riêng.
Từ thời cổ đại, con người đã khám phá nước lửa, rồi đến mộc, kim loại,
đồ đồng rồi đồ sắt, bao quát khắp nơi là đất. Đó là sự phát hiện của con người
từ thực tế cuộc sống và dần dần họ khái quát lên thành lý luận học thuật. Thứ
nhứt, thuật ngữ Ngũ hành xuất hiện trên văn bản đầu tiên trong các thiên
Hồng phạm, Cam thệ trong Kinh thư. Tồn tại song song có một trục khác là
các tư tưởng của Kinh Dịch với âm dương, tứ tượng, bát quái, 64 quẻ… cũng
do từ sự quan sát của con người trong thực tế cuộc sống, rồi đúc kết dần thành
lý luận. Thứ hai, trục tư tưởng trên đã hợp nhất, bổ sung, hoàn thiện lẫn nhau
thành một khối tư tưởng thống nhất do công của các nhà tư tưởng Đổng
Trọng Thư đời Hán. Sau đời Hán, các thời kỳ lịch sử của Trung Quốc cho đến
tận ngày nay nó đã được vận dụng rất nhiều lĩnh vực từ sấm vĩ, dự trác học,
mệnh lý học, nhân tướng học… và đồng thời trải qua các thời kỳ ngày càng
hoàn thiện áp dụng trong cuộc sống.
Học thuyết Ngũ hành còn làm cơ sở lý luận cho các học phái khác
nhau: Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Tuân Tử, Lão Tử… đặc biệt là y học với quyển
sách tổ là Hoàng đế Nội kinh, vẫn còn giá trị như kinh điển của y học cổ
truyền phương Đông.
183

Học thuyết Ngũ hành đã ảnh hưởng sâu đậm trong y học, và sách
Hoàng đế Nội kinh có giá trị đối với nền y học cổ truyền Trung Quốc. Riêng ở
Việt Nam Lê Hữu Trác, với tinh thần tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, Cụ đã
viết bộ Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh để lại nền lý luận đồ sộ cho y
học cổ truyền Việt Nam.
Đóng góp tiến bộ về mặt nhận thức, học thuyết Ngũ hành đã đóng góp
hai điểm: (1) là Nó nhận thức thế giới ở dạng vật chất với năm thành tố cơ
bản: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. (2) là Các dạng vật chất đó không đứng yên
mà nó luôn vận động theo các quy luật nhất định. Tuy còn ở dạng lý luận thô
sơ và biện chứng chất phác, nhưng học thuyết Ngũ hành đã góp phần giải
phóng con người ra khỏi thế giới quan duy tâm và tư tưởng thần quyền tôn
giáo.
Từ lý luận Ngũ hành vận dụng vào y học, sách Hoàng đế Nội kinh
(Trung Quốc) và tiếp theo sau bộ y thuật Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm
lĩnh (Việt Nam) đã góp phần quan trọng vào việc giải thích các bộ phận cơ
thể người là năm tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, gọi chung là học thuyết
Tạng tượng. Học thuyết Ngũ hành vận dùng vào học thuyết Tạng tượng đã
giải thích chức năng hoạt động của từng tạng. Học thuyết Ngũ hành đã giúp
cho việc giải thích mối quan hệ giữa các tạng theo quy luật sinh khắc, từ đó
làm cơ sở cho nền y học cổ truyền đánh giả nếu các tạng phủ vận động bình
thường là sức khỏe tốt, còn các tạng xảy ra khác thường hay làm mất thế quân
bình so với quy luật sinh khắc của Ngũ hành thì đó là bệnh lý. Nếu sự bất
thường ở dạng thái quá thì đó là bệnh thực. Nếu bệnh đó là bất thường ở dạng
bất cập, yếu ớt đó là bệnh hư. Nếu bệnh thực thì tả (đánh nguyên nhân gây
bệnh), bệnh sẽ trở lại bình thường, thì khỏi bệnh. Theo Hải Thượng Lãn Ông
Y tông tâm lĩnh cho rằng người bệnh trong cuộc sống thường đa phần là hư,
cho nên cần nhất là bổ thận, bổ thận thì sẽ vựt dậy con bệnh, trị được hư
chứng và sẽ khỏi bệnh.
184

Việc vận dụng nền triết – y của y học cổ truyền, cụ thể là Ngũ hành vào
cơ thể, ta có năm tạng trong cơ thể sẽ mất cân đối gây bệnh. Năm tạng: Tâm,
Can, Tỳ, Phế, Thận thì cần chú ý ở tạng nào để biết dấu hiệu sẽ nguy cơ sinh
ra bệnh? Đó là tạng Tỳ với chức năng là tiêu hóa. Quan sát 504 bệnh án tại
Khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh,
thống kê cho thấy các biểu hiện tạng Tỳ có ảnh hưởng đến các bệnh ở tạng
còn lại. Ăn ít, hay ăn nhiều quá, trái bình thường sẽ gây ra nhiều thứ bệnh.
Ngoài ra, các bệnh lý của các tạng theo y học cổ truyền dùng để chẩn đoán
bệnh và đưa ra hướng điều trị như: dụng dược, chế độ dưỡng sinh, luyện tập.
chọn huyệt, châm cứu thích hợp v.v..

Tóm lại, học thuyết Ngũ hành là lý luận rất có giá trị từ xưa đến nay,
làm cơ sở cho nhiều ngành, đặc biệt là nền y học cổ truyền. Nó không bao giờ
mất đi mà nó hòa quyện với các tư tưởng khác nhau như Kinh Dịch, âm
dương, tứ tượng… tạo thành một cấu hình tư tưởng của phương Đông và tồn
tại mãi.
185

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đoàn Ngọc Minh, Vận dụng học thuyết Ngũ hành vào việc giải thích y
sinh lý bịnh theo Y học cổ truyền, Luận văn Cao học năm 2009.
2. Đoàn Ngọc Minh, Sự phát triển của học thuyết Ngũ hành từ nguyên thủy
đến đời Hán, Tạp chí Khoa học Xã hội, tháng 9 (133) -2009, tr.3-12.
3. Đoàn Ngọc Minh, Học thuyết Ngũ hành với phương pháp dưỡng sinh, tập
san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 48, tháng 3 -2010, tr.19-24.
4. Đoàn Ngọc Minh, Đổng Trọng Thư – một danh Nho đời Lưỡng Hán, tạp
chí Triết học, số 10 (245), 2011, tr.82-88.
186

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vạn Dân Anh (tập 1), 2011, Tam mệnh thông hội, Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội.

2. Vạn Dân Anh (tập 2), 2011, Tam mệnh thông hội, Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội.

3. Vạn Dân Anh (tập 3), 2011, Tam mệnh thông hội, Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội.

4. Vũ Triệu An, 1978, Đại cương sinh lý bệnh học, Nxb. Y học Hà Nội.

5. Nguyễn Vũ Tuấn Anh, 1999, Thời Hùng Vương và Bí ẩn lục thập hoa
giáp. Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

6. Nguyễn Vũ Tuấn Anh, 2000(?), Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb. Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội .

7. Bách gia Thiên thiên hạ, sách Nam Hoa kinh, chư tử “thiên Giả Nghị liệt
truyện, sách Sử Ký.

8. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, 1992, Đại cương triết học Trung Quốc
(thượng và hạ), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992, tái bản.

9. Hoàng Bảo Châu, 1981, Học thuyết Ngũ hành, y học thực hành (7-8),
tr.23-27.

10.Phan Bội Châu, 1996, Chu Dịch, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, tái bản.

11.Dương Kế Châu, 1991, Châm cứu đại thành (toàn tập) (bản dịch), Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản).

12.Nguyễn Thúc Chi, 2009, Thức uống chăm sóc sức khỏe, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.

13.Doãn Chính (chủ biên), 1997, Đại cương Lịch sử triết học Trung Quốc,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
187

14.Doãn Chính, 2006, Triết lý phương Đông – Giá trị và bài học lịch sử, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15.Doãn Chính, 2009, Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.

16.Doãn Chính, 2012, Lịch sử triết học Phương Đông, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

17.Ngô Vinh Chính - Vương Niệm Quý, 1994, Đại cương lịch sử văn hóa
Trung Quốc, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

18.Đoàn Trung Còn (dịch), Luận ngữ, 1950, Nxb. Trí Đức TÙng Thơ (thư),
Sài Gòn.

19.Phan Dẫn, Phạm Trọng Văn, Vũ Quốc Lương, 2001, Giác mạc (giải phẫu,
sinh lý, miễn dịch, phẫu thuật), Hội Y học xuất bản.

20.Will Durant, 2002, Lịch sử văn minh Trung Quốc (bản dịch của Nguyễn
Hiến Lê), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tái bản.

21. Trịnh Bỉnh Di, 2001, Chuyên đề sinh lý. Tập 2, Sinh lý học trí tụê, Hội Y
học xuất bản.

22.Trịnh Bỉnh Di - Lê Thành Uyên - Đoàn Yến, 1979, Một số thăm dò chức
năng sinh lý, Hội Y học xuất bản.

23.Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh, 1999, Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng
Trung Quốc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

24.Dương Ngọc Dũng, Lê Anh Minh, 2003, Triết giáo Đông phương, Nxb.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

25.Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000, Các Nghị quyết của Trung ương Đảng
1996-1999, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26.Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
188

27.Lê Trần Đức, 1998, Chu Văn An và y học yếu giải, Nxb. Y học, Hà Nội.

28.Lê Trần Đức, 1993, Nguyễn Đình Chiểu với Ngư tiều vấn đáp y thuật,
Nxb. Y học, Hà Nội.

29.Lê Trần Đức, 1993, Thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông,
Nxb. Y học, Hà Nội.

30.Lê Trần Đức, 1993, Tuệ Tĩnh và nền y học cổ truyền Việt Nam, Nxb.Y
học, Hà Nội.

31. Huỳnh Minh Đức, 1981, Tý Ngọ lưu chú, Thành hội Y học Dân tộc TP.
Biên Hòa lưu hành nội bộ.

32.Huỳnh Minh Đức, 1986, Tý Ngọ lưu chú (tài liệu đánh máy), lưu hành nội
bộ.

33. Nguyễn Văn Đức, 2006, Đoán bệnh qua tướng mạo, Nxb. Phương Đông.

34.Trần Văn Giàu, 1973, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng Tháng 8, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. La Hạo, 2009, Sự khác nhau giữa triết học Trung Quốc và triết học
phương Tây, Nxb. Tư tưởng Bắc Kinh, bản dịch.

36.Nguyễn Lê Trung Hiếu, 2007, Phân độ lâm sàng và điện sinh lý thần kinh
trong hội chứng ống cổ tay, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

37. Thiệu Vĩ Hoa, 2003, Chu Dịch với dự đoán học, Nxb. Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.

38.Đỗ Minh Hợp, 1998, Lịch sử phép biện chứng, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

39. Lê Hưng, 2008, Tâm thiền Lẽ dịch xôn xao, Nxb. Tổng hợp Tp. Hổ Chí
Minh.

40. Vương Thủ Khiêm, Kim Tú Trân, Vương Phụng Xuân (dịch chú), 1990,
Tả truyện Toàn dịch, (thượng, hạ), Quý Châu, Nxb. Nhân dân.
189

41. Trần Khiết, 1991, Lý pháp phương Dược, Nxb. Y học ,Hà Nội.

42.Trần Khiết, 1998, Thuốc – thức ăn thiết yếu, Nxb. Y học, Hà Nội.

43.Đàm Gia Kiện (chủ biên), 1993, Lịch sử văn hóa Trung Quốc (bản dịch
của Trương Chính, Phan Văn Các, Thanh Giang), Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

44.Thiên Kim, 2009,Trà thảo dược, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

45.Từ điển Bách khoa Việt Nam, 2003, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

46.Học viện Trung Y Nam kinh, 1959, Trung Y học khái luận (2 tập), Hội Y
học Cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh.

47. Phùng Hữu Lan, 1999, Đại cương triết học sử Trung Quốc (bản dịch
Nguyễn Văn Dương), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

48.Phùng Hữu Lan, 1999, Đại cương triết học sử Trung Quốc, tập1, (Lê Anh
Minh dịch), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49.Phùng Hữu Lan, 1999, Đại cương triết học sử Trung Quốc, tập 2, (Lê Anh
Minh dịch), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50.Lưu Tùng Lâm, Đặng Thủ Nghiêu, 2007, Dịch học với dưỡng sinh, Nxb.
Hà Nội.

51. Hoàng Hán Lập, 1996, Dịch học dữ Khí công,Thượng Hải: Nxb. Học
thuật.

52. Nguyễn Hiến Lê, 2004, Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Thanh Niên,
Hà Nội.

53.Trần Thị Thanh Liêm (Chủ tịch Hội đồng dịch thuật), 2002, Kinh điển văn
hóa 5000 năm Trung Quốc, Dương lịch, Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

54.Đỗ Tất Lợi, 2001, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb. Hà Nội.
190

55. Dương Lực, Lê Quý Ngưu, Lương Tú Vân biên dịch, 2006, Chu Dịch và
Đông Y học, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

56. Nguyễn Hữu Lương, 1997, Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông phương,
Nxb. Tp.Hồ Chí Minh.

57.Phạm Đình Lựu, 2002, Thực tập sinh lý học, In lần thứ nhất, Bộ môn sinh
lý học - Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

58.Phạm Đình Lựu, 2002, Thực tập sinh lý học, Bộ môn Sinh lý học, Trường
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

59.Phạm Đình Lựu, 2004, Sinh lý học Y khoa (tập 1), Nxb.Y học, TP.HCM.

60. Phạm Đình Lựu, 2003, Sinh lý học Y khoa (tập 2), Nxb.Y học, TP.HCM.

61.C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

62.C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

63. Hồ Chí Minh, 1996, Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64.Lê Minh, Nguyễn Mạnh Hùng, 1980, Điện tâm đồ trong sinh lý và bệnh lý,
Nxb. Y học, Hà Nội.

65.Ôn Hải Minh, 2010, Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Văn hóa Bắc
Kinh.

66.Trần Thị Liên Minh, 2002, Một số chuyên đề sinh lý học, Y học, TP.HCM.

67.Hà Thúc Minh, 1988, Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh.

68.Lê Tôn Nghiêm, 2001, Lịch sử triết học Tây phương (tập 1), Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh, tái bản.
191

69.Lê Tôn Nghiêm, 2001, Lịch sử triết học Tây phương (tập 2), Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh, tái bản.

70.Phan Ngọc (dịch), 2007, Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb. Văn học Hà Nội.

71.Lê Quý Ngưu, Trần Thị Như Đức, 1993, Châm cứu - Học thuyết Ngũ hành
kim vàng - kim bạc. Nxb Thuận Hóa, Huế.

72.Nguyễn Tôn Nhan, 1998, Kinh Lễ, Nxb. Văn hóa, TP.HCM.

73.Hà Nại Nho, 2008, 101 vấn đề triết học Trung Quốc, Nxb. Văn hóa Bắc
Kinh.

74. Hoàng Phương, 1996, Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho chiến lược giáo
dục tương lai, Nxb. Văn hóa – Thông tin.

75. Nguyễn Đình Phư, 2001, Tìm hiểu & ứng dụng Học thuyết Ngũ hành.
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

76. Nguyễn Hoàng Phương, 1996, Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một
chiến lược giáo dục tương lai, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77.Lê Văn Quán, 1995, Chu Dịch vũ trụ quan. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

78.Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, 1999, Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

79. Thẩm Quỳnh (dịch), 1973, Kinh Thư, Trung tâm học liệu – Bộ Giáo dục
Sài Gòn xuất bản.

80. Trần Văn Sáng, 2000, Sinh học phân tử và miễn dịch học trong bệnh lý hô
hấp, Nxb. Y học, Hà Nội.

81.Nguyễn Tử Siêu (dịch), ?, Hoàng đế Nội kinh toàn tập, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh.

82. Phương Sinh, Cát Hùng, 2007, Lập tứ trụ dự đoán đời người, Nxb. Đà Nẵng.
192

83. Sodeman và Sudeman, 1972, Sinh bệnh lý học (Cơ chế của bịnh); Phần
VI, chương 19 và 20. Hệ thống tuần hoàn, từ trang 380 đến hết trang 500,
Bản dịch quyển, Physiologic Pathology, Sài Gòn.

84.Lý Ngọc Sơn, Lý Kiện Dân, 2004, Chữa bệnh theo Chu Dịch, Nxb. Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.

85. Thái Luận Thi, 2010, Mệnh, mộ, Phong thủy yếu quyết, Chu Tước Nhi
(dịch), Nxb. Thời đại, Hà Nội.

86. Hồ Thích, 2004, Trung Quốc Triết học sử đại cương (bản dịch của Huỳnh
Minh Đức), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

87.Tư Mã Thiên, 2006, Sử ký Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, Nxb. Văn học
Hà Nội.

88.Nguyễn Tài Thu – Trần Thúy – Lê Khánh Trai (1999), Cấu trúc logic hệ
kinh lạc, Nxb. Y học, Hà Nội.

89.Nguyễn Tài Thu, 1993, (chủ biên)- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa
học – xã hội, Hà Nội, tập 1.

90.Nguyễn Tài Thu, 1982, Thử tìm hiểu vị trí ba đạo Nho, Phật, Lão trong
lịch sử tư tưởng Việt Nam triết học (1), tr.120-131.

91.Nguyễn Tài Thu, 2005, Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.

92.Nguyễn Đăng Thục, 1997, Lịch sử triết học phương Đông (gồm 5 tập),
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản lần 2).

93.Lê Hữu Trác, 1993, Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh (gồm 4 tập),
Nxb.Y học, Hà Nội, tập 1.

94.Lê Hữu Trác, 1993, Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh (gồm 4 tập),
Nxb.Y học, Hà Nội, tập 2.
193

95.Lê Hữu Trác, 1993, Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh (gồm 4 tập),
Nxb.Y học, Hà Nội, tập 3.

96.Lê Hữu Trác, 1993, Hải Thượng Lãn Ông Y tông tâm lĩnh (gồm 4 tập),
Nxb.Y học, Hà Nội, tập 4.

97.Kinh Thư, 1972 - Trung tâm Học liệu - Bộ Giáo dục Saigon.

98.Trần Thúy (Chủ biên), 1995, Nội kinh, Nxb. Y học, Hà Nội.

99.Trần Thúy (Chủ biên), 1996, Điều trị nội khoa bằng y học cổ truyền,
Trường Đại học Y Hà Nội xuất bản.

100. Trần Văn Tích, 1983, Một số bài giảng sinh lý học. Tập 2, Tập hình vẽ
sinh lý học.

101. Hồng Tiềm - Nhiệm Hoa - Uông Tử Trung, 1957, Lịch sử triết học
Trung Quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

102. Nguyễn Hùng Trương, 2002, Từ điển “Lời hay ý đẹp”, Nxb. Thanh
Niên.

103. Tuệ Tĩnh (Thái Bá Tĩnh), 1996, Hồng Nghĩa giác tư y thư, Bản dịch,
Nxb. Y học, Hà Nội.

104. Tuệ Tĩnh (Thái Bá Tĩnh), 1997, Nam dược Thần học, Nxb. Y học, Hà
Nội.

105. Phó Đức Thảo, 1998, Thuyết Thủy Hỏa, Hội Y học cổ truyền TP.HCM
kết hợp Bệnh viện Y học cổ truyền Buôn Mê Thuột xuất bản.

106. Nguyễn Tấn Gi Trọng, 1977, Sinh lý học, tập 1, Nxb.Y học TP.HCM.

107. Đỗ Đình Tuân, 1998, Đông y lược khảo, Nxb. Mũi Cà Mau.

108. Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Y học cổ truyền dân tộc, 1985), Y
học cổ truyền dân tộc, Nxb. Y học, Hà Nội.
194

109. Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Sinh lý học, 2001, Sinh lý học (tập
1), Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa, Hội Y học, Hà Nội.

110. Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Sinh lý học, 2001, Sinh lý học (tập
2), Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa, Hội Y học, Hà Nội.

111. Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Bộ môn Sinh lý, 1991,
Sinh lý học y khoa, TP.HCM

112. Trường Đại học Y Khoa Hà Nội, 1976, Tóm tắt các công trình khoa
học về sinh lý bệnh học và y học thực nghiệm, Hà Nội.

113. Trường Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh, 1997, Bài giảng Y học cổ
truyền chuyên khoa Y học cổ truyền, Lưu hành nội bộ.

114. Trường Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh, 1998, Bài giảng Bệnh học
và điều trị chuyên khoa Y học cổ truyền, Lưu hành nội bộ.

115. Trường Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh, Bộ môn Sinh lý bệnh 1990,
Bài giảng sinh lý bệnh (tái bản), Nxb. Y học, Hà Nội.

116. Hoàng Tuấn, 2001, Học thuyết Âm dương và phương dược cổ truyền,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

117. Hoàng Tuấn, 1995, Học thuyết Tâm - thận trong Y học cổ truyền, Nxb.
Y học, Hà Nội.

118. Lý Minh Tuấn, (?), Dịch học tân thư, tập 1: Triết học phương Đông (tài
liệu lưu hành nội bộ).

119. Lý Minh Tuấn, (?), Dịch học tân thư, tập 2: Triết học phương Đông (tài
liệu lưu hành nội bộ).

120. Trương Lập Văn (chủ biên), 1998, Đạo (bản dịch Hồ Châu, Tạ Phúc
Chính, Nguyễn Văn Đức), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
195

121. Nguyễn Thị Kim Vân, 2006, Tình trạng dinh dưỡng và một số bệnh lý
thường gặp ở học sinh Trường Tiểu học Nguyễn Tạo Thành Phố Cà Mau,
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

122. Lã Bất Vi, 1999, Lã Thị Xuân Thu bản dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

123. Trí Việt – Gia Linh, 2009, 15 thực phẩm và 150 món ăn, Nxb. Hà Nội.

124. Nguyễn Khắc Viện, 1983, Từ sinh lý đến dưỡng sinh, Nxb. Y học, Hà
Nội.

125. Trung tâm Dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, thành phần dinh
dưỡng 400 thức ăn thông dụng, Nxb. Y học, Hà Nội.

126. Trần Văn Thụy, 2001, Đại danh y Lãn ông và cơ sở tư tưởng của nghề
làm thuốc, chữa bệnh, Nxb. Y học, Hà Nội.

127. Trần Thị Huyền, 2002, Thuyết Âm dương – Ngũ hành với tác phẩm
“Hoàng đế Nội kinh” và “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh”, Viện Triết học,
Hà Nội.

128. Nguyễn Thị Hồng Mai, 2012, Tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác
trong tác phẩm Hải Thượng Y tông tâm lĩnh”, Trường Đại học Khoa học
Xã hội Tp. Hồ Chí Minh.

Tài liệu nước ngoài

129. Ngũ hành đại nghĩa, cổ thư, tư liệu của Thư viện Tổng hợp Tp.Hồ Chí
Minh (tài liệu chữ Hán).

You might also like