Professional Documents
Culture Documents
HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN,
THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ
( BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU )
GIẢNG VIÊN: TH.S LÊ THANH HÀ
1
Bộ luật Napoleon,
https://www.napoleon-series.org/research/government/code/book2/c_title04.html#section2, truy cập ngày
16/4/2022
“Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông
và chôn dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông
Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử
dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên quyết định buộc gia đình ông Hòa phải
tháo dỡ là có căn cứ.
Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa
chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông
Hòa phải tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình ông
Trụ.”
Câu 3.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
- Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp
lí. Vì:
+Thứ nhất, ông Hòa đã lấn chiếm phần đất liền kề bên nhà ông Trụ không đúng quy
định trong giấy chứng nhận sử dụng đất và không có sự đồng ý của chủ bất động
sản liền kề là ông Trụ và bà Nguyên nên Tòa yêu cầu phải tháo dỡ là đúng với quy
định của pháp luật hiện hành.
+Thứ hai, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa
chôn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông
Hòa phải tháo dỡ là chưa đảm bảo được quyền lợi của gia đình ông Trụ và bà
Nguyên nên việc yêu cầu xét xử lại đối với vụ án trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao là hoàn toàn hợp lí và đúng đắn.
❖ Cơ sở pháp lý: Điều 265, 266 BLDS 2005.
Câu 3.7: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu
tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?
- Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ nhà đã
được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2):
“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây
dựng nhà (52,2 m2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị
quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”
Câu 3.8: Ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên
không?
- Ông Trê, bà Thi có biết và không phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên vì theo lời
trình bày của ông Hậu, phần đất đang tranh chấp là ông nhận chuyển nhượng từ anh
Kiệt, và khi ông làm nhà cơ bản trên phần đất đó thì ông Trê và bà Thi không có ý
kiến gì.
Câu 3.9: Nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì
ông Hậu có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi không? Vì sao?
Năm 1994, ông Hậu nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất của anh Trần
Thanh Kiệt, đồng nghĩa ông có quyền sử dụng, chiếm hữu đối với mảnh đất đỏ.
Nhưng khi sang nhượng, cả hai bên chỉ lập giấy tay, không ký giáp ranh và chủ đất
cũng chỉ chỉ ranh giới cho ông. Theo Điều 127 Luật Đất đai 2003 quy định về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
“1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ
ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng
nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình,
cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chúng nhà nước hoặc
chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.
2. Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp
lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ
cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Trường hợp các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà
nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài
chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo
cho các bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính. Trong thời hạn không quá
năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên tham gia
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi
đã nộp hồ sơ”.
Do cả hai bên chỉ lập giấy tay, không ký giáp ranh, không có công chứng nên thực
chất ông Hậu vẫn không có quyền được sử dụng miếng đất này và miếng đất này
vẫn thuộc về ông Trê, bà Thi. Chính vì vậy nếu ông Trê, bà Thi biết và phản đối thì
ông Hậu phải tháo dỡ phần lấn chiếm của mình căn cứ theo Điều 259 BLDS 2005 :
“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm
dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.” và
Điều 256 BLDS 2005: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu
người chiếm hữu,người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của
mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ
luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu
ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này.”
Câu 3.10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến phần đất ông Hậu lấn chiếm và xây nhà trên.
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông Hậu lấn chiếm và xây
nhà trên là hợp lý.
Căn cứ theo quy định tại Điều 189 BLDS 2005:
“Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này
là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người
chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có
căn cứ pháp luật.”
Vì vậy, việc ông Hậu lấn chiếm và xây nhà trên là chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình. Theo lời ông Hậu khai thì ông chỉ nhận được diện tích đất
trên do anh Trần Thanh Kiệt chuyển nhượng lại nhưng giấy biên nhận đề ngày 29-
3-1994 giữa ông Hậu và anh Kiệt lại không có xác nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, đồng thời diện tích đất mà ông Hậu mua từ anh Kiệt không nêu vị trí
cũng như tứ cận, cột mốc cụ thể, cũng không có xác nhận của các chủ đất liền kề.
Tòa án đã buộc ông Hậu trả phần đất trống và thanh toán chi phí phần đất ông đã
xây dựng nhà thuộc quyền sở hữu của ông Trê và bà Thi.
Hướng giải quyết chỉ hợp lý về mặt pháp luật nhưng xét về mặt tình thì ông Hậu có
khai sau khi sang nhượng xong ông đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất đang tranh
chấp, lúc ông xây nhà gia đình ông Trê không có ý kiến gì nên ông Hậu nghĩ việc
ông sử dụng phần đất trên là lẽ đương nhiên. Việc Tòa án bắt ông trả lại phần đất
trống đồng thời thanh toán chi phí cho phần đất đã xây nhà là có phần thiệt thòi đối
với ông Hậu.
Câu 3.11: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho
ông Trê, bà Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào của quyết định số 23 cho
câu trả lời?
Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà Thi
được xử lý theo cách buộc ông phải thanh toán chi phí cho phần đất trên.
Quyết định số 23 cho câu trả lời: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m²
đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu
cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m²) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng
phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp
lý.”
Câu 3.12: Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết
như Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không?
Nêu rõ Quyết định mà anh/chị biết.
Bản án số 08/2015/DS-PT ngày 23/09/2015 về tranh chấp ranh giới đất của Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang.
Nguyên đơn: Ông Hà Thành N - SN 1977.
Trú tại: tổ 4, thị trấn V, huyện V, tỉnh H.
Bị đơn: Ông Lâm Quốc C - SN 1973.
Trú tại: tổ 4, thị trấn V, huyện V, tỉnh H.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị T, bà T ủy quyền cho bà Phạm Thị P theo giấy ủy quyền ngày
19/5/2015;
- Bà Lý Thị N
Địa chỉ: Bà T; bà P và bà N đều trú tại tổ 04, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Giang.
Người kháng cáo: ông Hà Thành N là nguyên đơn trong vụ án.
Nhận định của Tòa án:
Ngày 07/12/2006 vợ chồng ông Hà Thành N và bà Nguyễn Thị T được UBND
huyện V cấp Giấy CNQSDĐ số: "H" 00158/QSDĐ 93/QĐ-UB đối với thửa đất số
68B, tờ bản đồ địa chính số 27 tại tổ 4 thị trấn V, diện tích thửa đất là 92 m². Ngày
28/12/2006 gia đình ông N được Phòng Hạ tầng Kinh tế huyện V tiến hành đo đạc
thực tế, xác định vị trí xây dựng nhà ở theo Hồ sơ xin phép xây dựng của gia đình
ngày 25/12/2006, có sự chứng kiến của các hộ liền kề. Theo Biên bản định vị ngày
28/12/2006 thì nhà ở của gia đình ông N được phép xây: Nhà 1 tầng, trục trước cách
tim đường 8,6 m, chiều ngang móng xây 4,0 m, chiều sâu móng xây 20 m; diện tích
xây dựng tầng 1 là 80 m². Tuy nhiên gia đình ông N chỉ mới xây dựng phần móng
nhà.
Ngày 07/6/2007 vợ chồng ông Mai Trung K và bà Lương Thị T được UBND huyện
V cấp Giấy CNQSDĐ số: "H" 00183/QSDĐ 60/QĐ-UB đối với thửa đất số 108, tờ
bản đồ giải thửa số 27 tại tổ 4 thị trấn V, diện tích thửa đất là 92 m² (liền kề với
thửa đất số 68B của vợ chồng ông N và bà T). Ngày 26/12/2012 vợ chồng ông C và
bà N nhận chuyển nhượng thửa đất trên của vợ chồng ông K và bà T và đã được
Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện V xác nhận ngày 23/01/2013. Ngày 05/4/2013 gia
đình ông C được Phòng Công thương huyện V tiến hành đo đạc thực tế, xác định vị
trí xây dựng nhà ở theo Hồ sơ xin phép xây dựng của gia đình ngày 22/3/2013, có
sự chứng kiến của các hộ liền kề. Ngày 22/5/2013 gia đình ông C và bà N được
UBND huyện V cấp Giấy phép xây dựng số 33/GPXD. Theo Biên bản định vị ngày
05/4/2013 và Giấy phép xây dựng số 33/GPXD ngày 22/5/2013 thì nhà ở của gia
đình ông C được phép xây: Nhà 2 tầng. Tầng 1 diện tích 72 m², trục trước cách tim
đường 11m, chiều ngang móng xây 4,0 m, chiều dài móng xây 18 m; tầng 2 diện
tích 78 m². Hiện tại gia đình ông C đã xây xong nhà theo Giấy phép xây dựng đã
được cấp và Biên bản định vị công trình, ngoài ra tại tầng 1 gia đình ông C còn xây
thêm phía trước, phần xây thêm này có trong sơ đồ thiết kế nhưng không có trong
Giấy phép xây dựng và Biên bản định vị.
Trong quá trình gia đình ông C xây nhà, giữa gia đình ông N và gia đình ông C đã
xảy ra tranh chấp. Ông N khởi kiện ông C yêu cầu phải trả lại diện tích đất 0,58 m²
đã lấn chiếm của gia đình ông hoặc đền bù bằng tiền là 50.000.000 đồng và đền bù
thiệt hại về móng nhà là 20.000.000 đồng. Tổng cộng là 70.000.000 đồng.
Kể từ khi gia đình ông N xây móng nhà tháng 12/2006, giữa gia đình ông N và hộ
liền kề là ông Trần T, sau này là ông K và bà T không xảy ra tranh chấp gì, như vậy
thể hiện ông T và sau này là ông K bà T đã công nhận ranh giới quyền sử dụng đất
của hộ ông N theo ranh giới móng nhà đã xây.
Ngày 05/4/2013 khi Phòng Công thương huyện V tiến hành đo đạc thực tế, xác định
vị trí xây dựng nhà ở cho gia đình ông C thì gia đình ông C và gia đình ông N đều
không có ý kiến gì, Như vậy thể hiện gia đình ông N và gia đình ông C đều nhất trí
với ranh giới đã xây móng của gia đình ông N. Giấy phép xây dựng số 33/GPXD
ngày 22/5/2013 của UBND huyện V cấp cho hộ ông C và bà N cũng nêu rõ: Chủ
đầu hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu xâm phạm quyền lợi hợp pháp
của các chủ sở hữu liền kề. Việc ông C khai: Khi xây dựng tôi không thấy móng
nhà anh N, khi đào móng phần tiếp giáp đất nhà anh N có đào thấy vật cứng, tôi
nghĩ là đá bàn nên đã xây thu móng vào 3,95 m là không đúng sự thật bởi lẽ: Theo
thiết kế được cấp phép xây dựng thì móng nhà ông C là móng trụ kết hợp móng
băng có chiều dài dọc hết chiều dài của nhà là 18 m; chiều sâu của móng là 1,8 m
đối với phần móng trụ và 1,2 m đối với phần móng băng so với cốt nền ( cốt nền là
0,45 m, cốt 0,0 là cốt vỉa hè). Do đó khi thi công phần móng ông C biết rõ gia đình
ông N đã xây phần móng nhà. Tuy nhiên ông C đã không có ý kiến gì với gia đình
ông N và khi thi công phần giằng móng ông C đã lấn sang phần móng gia đình ông
N đã xây.
Tại biên bản làm việc ngày 19/6/2013 của tổ công tác của UBND thị trấn V thể hiện
hộ ông C đã xây đè lên móng nhà ông N tại vị trí từ tim đường vào 11 m là 5 cm,
phần sau tại vị trí đo vào 23 m là 3 cm (Tại thời điểm này tường nhà ông C chưa trát
vữa).
Theo biên bản thẩm định tại chỗ ngày 09/7/2015 của TAND tỉnh Hà Giang thể hiện:
- Đối với phần móng nhà ông N: Nhà ông N đã xây móng đá cao độ đến mặt đất,
phần phía trước từ trục AD đến trục A4D4 xây trong ranh giới sử dụng đất, phần
phía sau từ trục AD đến trục BC xây lệch sang phần đất nhà bà N, cụ thể tại điểm B
xây lệch 0,44 m.
- Đối với nhà ông C: Nhà ông C đã xây dựng xong và xây chồng lấn lên móng đá
nhà ông N. Cụ thể diện tích đất gia đình ông C đã xây lấn lên đất của gia đình ông
N theo sơ đồ kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/7/12015 là:
Từ vị trí D đến vị trí D3: Diện tích đất xây chồng lấn là S1 = (1,45 + 3,50 + 2,00) x
0,06 x 1/2 = 0,2085 m².
Từ vị trí D đến vị trí D4: Diện tích đất xây chồng lấn là S2 = (4,75 - 0,90) x 1/2 x
0,06 x 1/2 = 0,05775 m².
Tổng diện tích đất xây chồng lấn là S = 0,2085 + 0,05775 = 0,26625 m².
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hà Thành
N: Buộc ông Lâm Quốc C phải trả cho ông Hà Thành N số tiền tương ứng với diện
tích 0,26625 m² đất đã xây chồng lấn lên móng nhà ông N là 3.195.000 đồng (giữ
nguyên ranh giới quyền sử dụng đất giữa hộ ông Hà Thành N và ông Lâm Quốc C
theo hiện trạng đã xây dựng) và hoàn trả cho ông Hà Thành N số tiền chi phí thẩm
định là 1.900.000 đồng. Tổng cộng ông Lâm Quốc C phải trả cho ông Hà Thành N
số tiền 5.095.000 đồng (Năm triệu không trăm chín lăm nghìn đồng).2
Câu 3.13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán trong Quyết định số 23 được bình luận ở đây?
- Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là thuyết
phục.
- Theo bản án, việc ông Hậu lấn chiếm và sử dụng phần đất thuộc quyền sở hữu của
ông Trê, bà Thi là có căn cứ pháp luật (dựa trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do bà Châu Kim Thi – vợ ông Trê đứng tên). Tuy nhiên, sau khi sang nhượng xong
ông đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất đang tranh chấp, lúc ông xây nhà gia đình
ông Trê không có ý kiến gì. Do đó, Tòa án đã không buộc ông Hậu phải tháo dỡ nhà
để trả lại phần đất đã chiếm hữu mà không có căn cứ pháp luật cho ông Trê, bà Thi
là:
- Việc tháo dỡ nhà ông Hậu trên phần đất lấn chiếm sẽ gây thiệt hại lớn cho ông
Hậu. Điều đó là không nên và để đảm bảo quyền và lợi ích kinh tế của cả hai bên,
Tòa án buộc ông Hậu trả 132,8 m² đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê
và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m²)
thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông
Trê và bà Thi.
- Ngoài ra, Hội đồng thẩm phán còn đề cập đến ngoài diện tích đất 52,2 m² nêu trên,
căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên
phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71 m² chưa được Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc ông hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán
giá trị quyền sử dụng cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của ông Trê và bà Thi.
2
Bản án 08/DS-PT ngày 23/09/2015 về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đât và yêu cầu bồi thường thiệt
hại tài sản (thuvienphapluat.vn)
Hội đồng thẩm phán không viện dẫn bất kỳ văn bản nào để cho rằng Tòa án phúc
thẩm giải quyết vụ việc trên là hợp lý cho thấy đây là một hướng giải quyết mang
tính sáng tạo, mới mẻ, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho cả hai bên.
Câu 3.14: Đối với phần chiếm không gian 10,71 m² và căn nhà phụ có diện tích
18,57 m² trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo
dỡ không?
Trong Quyết định số 23 có đoạn:
“... căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không
trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71m² chưa được Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh
toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi”
Và đoạn:
“... còn một căn nhà phụ có diện tích 18,57m² của ông Hậu xây dựng trên diện tích
đất mà Tòa án các cấp buộc ông Tận phải trả lại cho ông Trê, bà Thi nhưng Tòa án
các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn trong việc thi hành án”.
Vậy nên phần chiếm không gian 10,71 m² chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ. Còn căn nhà phụ có diện tích
18,57 m² thì Tòa án các cấp cũng chưa xem xét để giải quyết.
Câu 3.15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m² và
căn nhà phụ trên như thế nào?
Theo điều 259 BLDS 2005 quy định:
“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cẳn trở trái pháp luật phải chấm
dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Tòa án,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”
Với phần lấn chiếm không gian 10,71 m² thì có thể yêu cầu ông Hậu tháo dỡ hai
máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi.
Còn với căn nhà phụ thì ông Hậu có thể sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị
quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi. Nhưng nếu ông Trê muốn sử dụng thì
phải trả chi phí xây dựng cho ông Hậu.
Câu 3.16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và
không gian ở Việt Nam hiện nay.
- Hiện nay nhiều nơi ở Việt Nam, thực trạng quản lý đất đai vẫn còn lỏng lẻo.
Chẳng hạn, theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường thì hiện nay 190 nghìn ha
đất đang bị lấn chiếm. Tổng số diện tích đất nông, lâm nghiệp đang có tranh chấp,
bị lấn chiếm là 190.469 ha. Mặc dù, con số này có dấu hiệu sụt giảm, tuy vậy, tính
chất các vụ việc lấn chiếm đất đai diễn ra khá phức tạp.
- Qua thực tiễn xét xử cho thấy, việc xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và
không gian ở Việt Nam hiện nay có 2 hướng: buộc tháo dỡ và không buộc tháo dỡ
nhưng phải thanh toán phần giá trị quyền sử dụng đất cho chủ sở hữu.
- Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
lĩnh vực đất đai được kỳ vọng sẽ khắc phục được tình trạng lấn chiếm, không tuân
thủ quy định pháp luật.
Câu 3.17: Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù
hợp với BLDS 2015 không? Vì sao?
Theo khoản 2 điều 164 BLDS 2015 quy định:
“Chủ sở hữu chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải
trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Vậy nên ông Trê và bà thi có quyền yêu cầu Tòa án buộc ông Hậu phải trả lại phần
dất 132,8 m² đã lấn chiếm. Phần đất 52,2 m² đã xây dựng nhà thì giao cho ông Hậu
nhưng phải thanh toán giá trị sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
Theo điều 169 BLDS 2015 quy định:
“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu
người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền
yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó phải chấm
dứt hành vi vi phạm”.
Theo đó thì việc yêu cầu buộc tháo dỡ là có căn cứ pháp lí và vẫn chưa có quy định
rõ ràng, cụ thể về hướng giải quyết không buộc tháo dỡ mà thanh toán phần giá trị
quyền sử dụng đất cho người có quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Việc Hội đồng thẩm phán đề cập đến căn nhà có diện tích 18,57 m², việc xem xét
buộc ông Hậu tháo dỡ hay thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà
Thi ở phần chiếm không gian 10,71m², việc Hội đồng thẩm phán đồng thuận với
Tòa án cấp phúc thẩm là buộc ông Hậu phải trả phần đất lấn chiếm nhưng còn là đất
trống, còn phần đất đã xây dựng nhà thì giao cho ông Hậu nhưng phải thanh toán
giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
Qua những điều trên trên thì hướng giải quyết của Tòa án trong Quyết định số 23 là
còn phù hợp với BLDS 2015.
-Hết-