You are on page 1of 18

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KÝ SINH TRÙNG

CHUYÊN ĐỀ: HỌ BỌ XÍT


(REVUVIIDAE)
Danh sách nhóm 3:
1. Võ Thị Giang
2. Thái Nguyễn Như Hảo
3. Nguyễn Thị Kim Hiên
4. Võ Thị Thu Hiền
5. Trần Lê Khánh Huyền
6. Nguyễn Thị Hướng

GVHD: ThS PHAN CẨM LY


MỤC LỤC:
I. Hình thể:.................................................................................................................1
II. Đặc điểm sinh học, sinh thái học của bọ xít hút máu:..........................................2
1. Chu trình phát triển............................................................................................3
2. Hình dạng trứng:................................................................................................4
3. Vòng đời trứng:..................................................................................................5
4. Nghiên cứu khả năng nhịn đói của loài bọ xít hút máu......................................5
5. Nhiễm trùng tự nhiên và thực nghiệm với các loài Trypanosoma:....................6
III. Dịch tễ và vai trò trong y học ở Việt Nam:.........................................................6
1. Dịch tễ:...............................................................................................................6
2. Vai trò trong y học :...........................................................................................8
IV. Bệnh Chagas:.......................................................................................................9
1. Chu kỳ phát triển của Trypanosoma cruzi:........................................................9
2. Dịch tễ:.............................................................................................................11
3. Triệu chứng:.....................................................................................................12
4. Chẩn đoán:........................................................................................................13
5. Điều trị:............................................................................................................13
V. Phòng chống và điều trị ở Việt Nam:.................................................................14
1. Phòng chống:....................................................................................................14
2. Điều trị..............................................................................................................15
Tài liệu tham khảo...................................................................................................15

I. Hình thể:
- Kích thước thay đổi từ 1 –3 cm. Đầu dài và hẹp với cặp mắt kép lỗi. [3] 
- Bọ xít trưởng thành có đầu dài, râu dài, vòi được gập trong ổ miệng, khi hút
máu mới thò ra. [1]  
- Râu gồm 4 đốt mảnh, khoảng cách giữa râu và mắt thay đổi tùy loại; một vòi
mảnh mai, có 3 đốt quặp về phía bụng và có một cổ rõ rệt. Thân hình dẹp, dài và
khá hẹp, có cánh, có 3 đôi chân dài gồm 3 đốt. Màu nâu đậm với những vạch đỏ
hay vàng trên ngực, cánh và hai bên bụng. [3] 
- Chỉ thấy rõ đốt ngực thứ nhất, còn đốt thứ hai và thứ ba bị cánh che lấp. Bọ xít
có 2 cánh cứng bên ngoài, bên trong có 2 cánh mỏng. [1] 
- Ngực có 3 đôi chân dài. Nhìn từ mặt lưng chỉ thấy rõ ngực trước, còn ngực
giữa và ngực sau bị đổi cánh gấp lại che lấp. [3] 
- Mảnh lưng ngực trước hình thang, hai gốc trước của mảnh lưng ngực trước
nhô ra thành mấu lồi chếch về phía trước; hai mếp bên của mảnh lưng ngực trước
có đường viền màu hơi đỏ, bề mặt của mảnh lưng ngực trước không bằng
phẳng[4]. 
- Bụng bọ xít dài, cánh không che kín được bụng. Cánh gấp lại như cái kéo,
phía trên bụng, phủ tất cả, trừ hai bên mép [3] 
II. Đặc điểm sinh học, sinh thái học của bọ xít hút máu:
- Các loài bọ xít hút máu trong tự nhiên thường trú ẩn trong các bụi cây, trong
bẹ khô của các loài họ cọ, dừa hay trong những đống cành khô. Chúng làm tổ gần
ổ của động vật, gần các lán trại của con người, nơi chúng có thể có được nguồn
máu. Những nơi trú ẩn của bọ xít hút máu xung quanh con người bao gồm chuồng,
ổ của gia súc, gia cầm, trong kho chứa, trong các khe nứt và lỗ trên tường vách và
mái nhà. Đặc biệt, những ngôi nhà tranh có vách bằng đất đá được cho là đã tạo
những ổ sinh thái ổn định của bọ xít hút máu và là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến
sự nghiêm trọng của bệnh Với những ngôi nhà được xây dựng theo lối hiện đại, có
các bề mặt phẳng nhẵn và lối đi đóng kín không phải là nơi trú ẩn thường thấy của
bọ xít hút máu.
- Nếu phát hiện bọ xít hút máu trong nhà, thường do chúng bay từ bên ngoài
vào, tuy nhiên, cũng có trường hợp chúng làm tổ trong nhà cạnh nơi dành cho vật
nuôi, gần ổ chuột, dưới gầm giường hay trong góc phòng ngủ. Bọ xít hút máu sống
bắt buộc trên nguồn máu của động vật.  Chúng ẩn nấp vào ban ngày và tấn công
vào ban đêm. Các vị trí đốt máu là những vùng da hở, không được che chắn. Các
biểu hiện ngoài da khác nhau của vết đốt có thể bị nhầm lẫn với vết nhện cắn, với
biểu hiện của bệnh zona
1. Chu trình phát triển
- Sau khi thụ tinh, con cái hút máu, khoảng 10-15 ngày sau đó thì đẻ trứng màu
hồng vàng hay trắng tùy loại.  Trứng đứng thành điểm và riêng lẻ. Phát triển theo
kiểu biến thái không hoàn toàn. Khoảng 10-30 ngày sau trứng nở ra ấu trùng, giống
con trưởng thành nhưng chưa có cánh, lột xác 5 lần trong vòng 1 năm để cho ra
con trưởng thành. Chúng hút máu giữa những lần lột xác [3].
- Con trưởng thành sống ở vách tường, hang và ổ của những vật hang, tối bay đi
chính người và hút máu. Ở người thường chích ở chỗ như mặt, tay. Bữa ăn lâu 5-
10 phút [3].
 - Triatoma rubrofasciata là loài bọ xít hút máu duy nhất phân bố trên toàn cầu.
Ở châu Mỹ, loài này truyền ký sinh trùng Trypanosoma cruzi, gây bệnh Chagas.
Sự hiện diện của T. rubrofasciata ở một số nước châu Á gần đây đã tăng lên rất
nhiều. Ở Việt Nam, nó được tìm thấy với số lượng lớn, gắn liền với môi trường
sống của con người. Mặc dù T. rubrofasciata từ Châu Á không bị nhiễm Tryp.
cruzi, nó mang các ký sinh trùng khác như Trypanosoma lewisi và Trypanosoma
conorhini. 
- Trong điều kiện nuôi trong tủ ổn định(nhiệt độ: 30 0C; ẩm độ: 75 %), vòng đời
của loài bọ xít hút máu T. rubrofasciata là 327.56 ngày. Trong đó ở giai đoạn
trứng, thiếu trùng và giai đoạn tiền trưởng thành tương đương là 15.76 ngày,
298.65 ngày và 13.15 ngày, 3 đến 32 ngày. Thời gian đẻ trứng của bọ xít hút máu
kéo dài từ 3 đến 32 ngày và số lượng trứng tập trung ở ngày đẻ thứ 1 đến ngày đẻ
thứ 16 và ít dần ở các ngày sau đó.
- Loài bọ xít hút máu T. rubrofasciata là loài côn trùng sống dựa vào hút máu
của động vật trong đó có con người. Chúng phải thường xuyên hút máu của động
vật máu nóng để tồn tại, sinh sản và phát triển. Trong tự nhiên, thiếu trùng và
trưởng thành đều hút máu trực tiếp từ cơ thể vật chủ sống. Bình thường khi không
hút máu, vòi của bọ xít hút máu thu ngắn và gấp lại, xếp sát mặt dưới của ngực.
Khi bắt gặp vật chủ, bọ xít mới giương vòi cắm vuông góc vào cơ thể vật chủ và
hút máu cho tới khi no. Hoạt động hút máu của loài bọ xít này thường bao gồm 2
giai đoạn liên tiếp nhau. 

 Giai đoạn 1: chích nhanh làm tê vùng được hút máu. 


 Giai đoạn 2: chích hút máu. Thời gian cho việc hút máu tùy thuộc vào các
giai đoạn tuổi của bọ xít.

2. Hình dạng trứng: 

- Trứng có kích thước khoảng 1-1,5 mm, màu trắng ngà[4]. Trứng của T.
rubrofasciata có tỷ lệ nở rất cao; gần 98% (900 trứng, 882 nhộng của lứa đầu).
Một con cái của T. rubrofasciata có thể đẻ trứng vào bất kỳ thời điểm nào trong
năm nhưng số lượng trứng tăng dần từ tháng 1 đến tháng 7 (trung bình 144
trứng/con cái), trong khi giảm dần cho đến khi đạt mức thấp nhất vào tháng 12
(trung bình 53 trứng. mỗi nữ). Một con cái có thể đẻ tối thiểu 47 trứng và tối đa là
157 trứng [2].

Trứng của Triatoma rubrofasciata trước và sau khi nở.


a. Trứng mới đẻ, b. Trứng đang trong thời kỳ phát triển, c. Trứng trước khi nở,
d. Nhộng trồi ra khỏi trứng, e. Trứng màu mỡ rỗng, f. Trứng không sống được
(không nở)[2].
3. Vòng đời trứng: 
- Cần ít nhất 10 ngày để trứng nở và tối đa là 32 ngày (nhiệt độ thấp hơn trong
mùa đông). Sau khi nở, nhộng trùng giai đoạn đầu có thể tồn tại khoảng 2-3 tuần
mà không cần bữa ăn máu. Nhộng trùng giai đoạn 4 có khả năng chống đói cao
nhất, vì chúng có thể ở tối thiểu 38 ngày và tối đa 120 ngày sau khi lột xác mà
không cần thức ăn. Sức đề kháng thấp nhất được quan sát thấy ở nhộng giai đoạn
đầu và lâu nhất ở nhộng giai đoạn ba. Vòng đời (trứng mới đẻ cho đến khi con
trưởng thành chết) thay đổi từ 121 đến 394 ngày. Ngoài ra, cần tối thiểu 82 ngày và
tối đa 256 ngày để trứng có thể tồn tại đến tuổi trưởng thành.
 4. Nghiên cứu khả năng nhịn đói của loài bọ xít hút máu

- Ấu trùng bọ xít hút máu T. rubrofasciata trong phòng thí nghiệm có khả năng
nhịn đói rất cao trung bình từ 22,30 – 61,43 ngày. Tuy nhiên cũng có cá thể bọ xít
hút máu có khả năng nhịn đói từ 114-120 ngày. Đặc tính nhịn đói này cho thấy khả
năng thích nghi rất lớn của loài bọ xít hút máu này khi không có nguồn thức ăn và
cho phép chúng có một khoảng thời gian dài để đi tìm vật chủ. Trong thời gian
nhịn đói, nếu được hút máu 1 lần thì loài bọ xít này sẽ phát triển chuyển tuổi và
duy trì sinh sản.

5. Nhiễm trùng tự nhiên và thực nghiệm với các loài Trypanosoma: 


- T. rubrofasciata có khả năng xâm nhập vào nơi ở của con người tại các khu
vực đô thị của các thành phố lớn ở miền Trung Việt Nam, sử dụng cư dân trong
nhà làm nguồn thức ăn. Trong môi trường nông thôn ở thành thị và nông thôn, loài
này chủ yếu gắn với kết cấu gỗ và gỗ lưu trữ, rất phổ biến ở một số nước châu Á.
Triatoma rubrofasciata có vòng đời khá ngắn trong điều kiện môi trường phòng thí
nghiệm không được kiểm soát, có thể rất giống với những loài được tìm thấy trong
môi trường sống tự nhiên của chúng. Tỷ lệ sinh sản cao quanh năm của chúng, khả
năng chết đói cao, cũng như sự xuất hiện của loài này trong môi trường cộng sinh
với nguồn thức ăn sẵn có cao (trong trường hợp ở Việt Nam là chuột, chuột và gà)
là những yếu tố nguy cơ cần được xem xét. bằng các chiến dịch kiểm soát véc tơ.
Cuối cùng, một số phản ứng dị ứng do vết cắn của T. rubrofasciata và khả năng
nhiễm Tryp. lewisi cao của chúng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tích vai
trò và tác động của vector đối với sức khỏe con người.
III. Dịch tễ và vai trò trong y học ở Việt Nam:
1. Dịch tễ:
- Tại hội thảo quốc tế về thực trạng và vai trò dịch tễ của bọ xít hút máu tại Việt
Nam diễn ra tại Hà Nội ngày 20/06/2013, giáo sư Vũ Quang Côn - Chủ tịch Hội
Côn trùng học Việt Nam khẳng định tại Việt Nam, bọ xít hút máu người đã tồn tại
từ rất lâu nhưng mới được phát hiện từ năm 2011.

- Trong ba năm (2010 – 2012), chúng tôi đã thu thập được 1720 cá thể bọ xít
hút máu Triatoma rubrofasciata ở 236 địa điểm thuộc 20 tỉnh, thành phố. Số lượng
bọ xít thu thập được chủ yếu tại Hà Nội (164 điểm, 989 cá thể, chiếm tỷ lệ 57,3%);
Bắc Ninh (203 bọ xít ở 3 điểm) và Tp. Hồ Chí Minh (183 bọ xít ở 15 điểm); các
tỉnh thành khác bọ xít thu được không đáng kể. Số lượng bọ xít chủ yếu thu được
trong năm 2010 và 2011 (bảng 1). Các điểm thuộc quận, huyện, (tỉnh) như sau: Từ
Liêm, Thanh Trì, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Ba
Đình, Tây Hồ, Gia Lâm, Đông Anh, Hoài Đức, Thạch Thất, Thanh Oai và Mê Linh
(Hà Nội), TP. Lạng Sơn (tỉnh Lạng Sơn), TP. Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), Lạng
Giang, TP. Bắc Giang (tỉnh Bắc Giang), Tiên Du, Từ Sơn (tỉnh Bắc Ninh), Vĩnh
Tường (tỉnh Vĩnh Phúc), TP. Thanh Hóa, Hoằng Hóa (tỉnh Thanh Hóa), TP. Vinh
(tỉnh Nghệ An), Tp. Huế (tỉnh Thừa Thiên-Huế), Sơn Trà, Liên Chiểu, Hải Châu,
Thanh Khê (Tp. Đà Nẵng), Núi Thành, Hòa Cường Bắc (tỉnh Quảng Nam), Nghĩa
Kỳ (Quảng Ngãi), Bình Định (Quy Nhơn (11 điểm)), Phú Yên (Tuy Hòa), Phan
Rang (tỉnh Ninh Thuận), Quận I, Quận 8, Quận 10, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân
Bình (TP. Hồ Chí Minh), Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu), Cần Thơ (TP. Cần
Thơ) [5].

- Theo các nghiên cứu của Viện sốt rét–Ký sinh trùng–Côn trùng TP.HCM, có
nhiều loại bọ xít hút máu. Chúng được tìm thấy chủ yếu ở châu Mỹ, số ít khác ở
châu Á, châu Phi và châu Úc. Ở Việt Nam, có bốn loài bọ xít hút máu cũng được
ghi nhận và đang có xu hướng phát triển gia tăng số lượng ở nhiều địa phương, đặc
biệt ở các khu dân cư ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM.
- Các ổ bọ xít hút máu có cùng chung một tính chất là tập trung ở các khu dân
cư  gần nơi sinh sống của con người. Chúng thường trú và làm tổ trong các khe
giường, trần nhà, bàn ghế, quần áo và nhất là trong phòng ngủ. Chúng không
những chỉ xuất hiện ở các khu nhà ẩm thấp, tối tăm mà còn có mặt cả ở những khu
nhà cao tầng, đầy đủ tiện nghi. 
- Theo thống kê, trong số những trường hợp bị bọ xít hút máu người có đến gần
50% là trẻ em[9].
2. Vai trò trong y học :
- Là trung gian truyền bệnh truyền trùng roi đơn bào Trypanosoma cruzi gây
bệnh Chagas (do phân có chứa Trypanosoma cruzi, xâm nhập vào ký chủ qua vết
cào, gãi, qua niêm mạc, nhất là mắt).Hầu hết Bọ xít đều có thể chứa Trypanosoma
cruzi,nhưng chỉ có vài loại quan trọng truyền được bệnh :Triatoma infestans,
Panstrongylus megistus và Rhodnius prolixus. Nguồn bệnh gồm chó,chuột, các
loài gặm nhấm gấu trúc và nhiều động vật khác. Chúng di chuyển rất nhanh, vừa
bay, vừa nhảy. Chúng ẩn mình trong kế núi và những chỗ đục khoét đá ngày mới
ăn một lần. Từ 3 – 44% rệp bị nhiễm T.cruzi từ gia súc và thú hoang dã.
Trypanosoma phát triển ở ruột giữa và ruột sau rệp khoảng 20 ngày. Bệnh truyền
đi do phân rệp có chứa Trypanosoma, xâm nhập vào ký chủ qua vết cào, gãi, qua
niêm mạc, nhất là mắt, hiếm khi nhiễm do rệp này ụ máu tại chỗ đốt.
- Gây độc , dị ứng khi hút chích máu: Số lượng máu bị mất do Bọ xít hút máu
khá quan trọng, vì côn trùng có kích thước lớn. Bọ xít hút máu chích hút máu rất
êm, thường vào ban đêm, ký chủ ngủ say không phát hiện ,chỉ đến khi tác dụng của
mũi chích phát tán hoặc khi thức dậy mới có cảm giác ngứa ,nóng rát và nổi sần tại
chỗ bị chích. Nếu bị nhiều mũi một lúc ,có thẻ bị sốt[8].

IV. Bệnh Chagas:


- Bệnh  Chagas  là  một  bệnh  nguy hiểm có nguồn gốc từ Nam Mỹ, được ví
như đại dịch HIV mới ở châu Mỹ, hàng  năm  làm  chết  khoảng  12.000 người  và 
có 6-7  triệu  người  nhiễm bệnh [1]. Bệnh gây ra bởi loài trùng roi đơn  bào
Trypanosoma  cruzi  ký  sinh trong máu người và động vật.
- Bệnh  Chagas  được  phát  hiện  bởi một bác sĩ người Brazil tên là Carlos
Chagas  (1879-1939).
- Ông làm việc tại Viện Nghiên cứu Oswaldo Cruz và có nhiều thành tích xuất
sắc trong  lĩnh  vực  phòng  chống  sốt  rét. Năm 1907, ông tình cờ được biết đến
một loại côn trùng hút máu động vật có  xương  sống  và  người,  thuộc  họ Bọ xít
hút máu. Ông đã ngay lập tức xem xét loại côn trùng này theo hướng vector truyền 
bệnh  giữa  các  loài  động  vật và con người. Năm 1909, trong các công bố của
mình, bác sĩ Carlos Chagas đã mô tả một loài trùng roi ký sinh  mới  thuộc  giống
Trypanosoma và  đặt  tên  loài  này  là  “cruzi”, theo tên một người bạn đồng thời
là người đồng nghiệp dẫn dắt ông trong nghiên cứu, bác sĩ Oswaldo Cruz. Ông
cũng là người đầu tiên xác định các vật  chủ  là  động  vật  có  vú,  xác  định vector
truyền KST Trypanosoma cruzi cũng như mô tả các pha tiến triển của bệnh do loài
này gây ra trên người. Vì vậy, bệnh do KST Trypanosoma cruzi gây ra trên người
được đặt tên là bệnh Chagas theo tên của ông.
1. Chu kỳ phát triển của Trypanosoma cruzi:
- Trypanosoma cruzi là một loài trùng roi thuộc họ Trypanosomatidae trong bộ
Kinetoplastida. Các thể khác nhau của T. cruzi bao gồm amastigote, epimastigote
và trypomastigote. Ở giai đoạn trưởng thành (thể trypomastigote), T. cruzi có một
roi, có một ty thể trong bào tương và một nhân tế bào. Loài này hay bị nhầm lẫn
với KST Trypanosoma brucei gambiense hoặc Trypanosoma brucei rhodesiense,
hai loài gây bệnh ngủ châu Phi. Khác với các loài KST khác, T.cruzi không lây lan
qua nước bọt mà có trong phân của Bọ xít hút máu thải ra trong quá trình đốt mồi,
sau đó xâm nhập vào máu người qua vết xước đốt, vết thương hở hoặc các biểu mô
nhầy (ví dụ mắt, riệng). Phương thức lan truyền này của T.cruzi được phát hiện bởi
nhà KST người Pháp Brumpt Joseph (1877-1951). Ngoài ra, T. cruzi còn lây lan
trên người qua những con đường khác nhau như truyền máu, mẹ truyền sang con
và cấy ghép cơ quan nội tạng.
- Chu kỳ phát triển của Trypanosoma cruzi thông qua 2 giai đoạn: 
+ Giai đoạn phát triển ở bọ xít hút máu.

+ Giai đoạn phát triển trong các vật chủ động vật có vú hay người.
- KST T. cruzi tìm thấy trong máu vật chủ là thể trypomastigote.  Trong dạ dày
của bọ xít hút máu chúng biệt hóa thành thể epimastigote, bám vào thành dạ dày
hay ruột và nhân lên bằng nguyên phân. Trong phần cuối của ống tiêu hóa ở bọ xít
hút máu, thể epimastigote biệt hóa thành metacylic trypomastigote có hình dạng
của trypomastigote và đi ra ngoài theo phân, tiếp tục gây nhiễm các cá thể vật chủ
mới. Khi xâm nhập vào vật chủ mới, thể metacylic trypomastigote ký sinh trong
các tế bào tại vị trí lây nhiễm, chúng biệt hóa thành dạng amastigote và phân chia
đến khi tế bào bị phá hủy. Sau khi giải phóng khỏi các tế bào, đa số KST
amastigote xâm nhiễm các tế bào lân cận, một số biệt hóa thành thể
trypomastigote. Thể trypomastigote di chuyển theo dòng máu, lặp lại chu kỳ gây
nhiễm trên các vị trí mới, đồng thời truyền sang vật chủ trung gian là bọ xít hút
máu
2. Dịch tễ:
- Theo ước tính, có khoảng 8 triệu người bị bệnh Chagas và hơn 25 triệu người
có nguy cơ mắc bệnh trên toàn thế giới mỗi năm với hơn 12 nghìn ca tử vong.
Vùng phân bố tự nhiên của bệnh Chagas là châu Mỹ La Tinh, hiện  nay  đang  trở 
thành  một  vấn  đề y tế cộng đồng tại nhiều quốc gia nơi đây, trong đó Bolivia và
Argentina là hai  quốc  gia  bị  ảnh  hưởng  nặng  nề nhất  với  2,5  triệu  người 
nhiễm. Tỷ lệ dân số nhiễm bệnh cao ở các vùng nông thôn nghèo, với điều kiện
sinh  hoạt thấp,  trong  sinh  hoạt  của người dân tạo ra những nơi trú ẩn nhân tạo
cho Bọ xít hút máu. Hơn nữa, các động vật nuôi như lợn, chó, mèo... và các động
vật hoang dã như các loài gặm nhấm, khỉ,  sóc...  nhiễm  bệnh  đóng  vai  trò như ổ
chứa KST. Ngoài ra, sự lan truyền qua đường truyền máu cũng là một nguyên nhân
chính gây nên mức độ nghiêm trọng của bệnh Chagas ở các nước Mỹ La Tinh [4].

3. Triệu chứng:
- Các bệnh nhân xuất hiện trong hai giai đoạn: một cấp tính giai đoạn, trong đó
xảy ra không lâu sau khi một ban đầu bị nhiễm trùng, và một mãn tính giai đoạn đó
phát triển qua nhiều năm.
 Trong giai đoạn thể cấp tính, sau thời gian ủ bệnh âm thầm từ 1 - 3 tuần đầu,
bệnh có phản ứng tại chỗ vết đốt, nơi ký sinh trùng xâm nhập như bị phù nề do
viêm, hạch bạch huyết trong vùng gần chỗ vết đốt sưng lên; thường nếu bị đốt ở
vùng mặt thì bị viêm mí mắt một bên. Các dấu hiệu này kéo dài khoảng một tháng.
Sau đó, ký sinh trùng theo máu phát tán khắp cơ thể với biểu hiện sốt cao từ 38 -
40oC, sốt không đều, sốt kéo dài khoảng hai tuần. Ngoài ra, có các dấu hiệu đi kèm
như phù mặt, chi, điển hình là phù một bên mí mắt; viêm cơ tim cấp với triệu
chứng nhịp tim nhanh, tiếng tim nhỏ, huyết áp hạ, tim to; gan, lách, hạch bạch
huyết sưng to; đồng thời có những biểu hiện viêm não. Tuy nhiên, giai đoạn này
thường hay bị nhầm lẫn với nhiều bệnh khác không phải là duy nhất cho bệnh
Chagas.
 Giai đoạn thể mạn tính kéo dài nếu người bệnh vượt qua được giai đoạn cấp
tính. Trong giai đoạn này, các triệu chứng lâm sàng giảm dần nhưng không khỏi
hẳn. Bệnh chuyển qua thể mạn tính, tiến triển âm thầm và kéo dài. Bệnh có thể tái
xuất hiện với những biến chứng, di chứng ở não, tim và hệ tiêu hóa. Di chứng ở
tim thường gặp là biểu hiện hồi hộp, đau vùng trước tim, to tim toàn bộ gây nên sự
bất thường về nhịp tim và có thể dẫn đến tử vong đột ngột. Di chứng ở ruột thường
thấy là thực quản và đại tràng bị phì đại[7].

4. Chẩn đoán:
- Hiện nay, bệnh Chagas chủ yếu được chẩn đoán thông qua xác định KST trên
tiêu bản máu, mô sinh thiết từ bệnh nhân. Thể Trypomastigote của KST có thể
được tìm thấy trong máu bệnh nhân ở giai đoạn cấp tính. Với  bệnh  nhân  mãn
tính,  ngoài  việc xác  định  KST  trong  máu,  phương pháp phổ biến trong chẩn
đoán là các test  huyết  thanh.  Ngoài  ra,  KST có thể  được  nuôi  cấy  trong  môi
trường nhân tạo hoặc được lây nhiễm vào côn trùng, thường là Bọ xít hút máu và
xác định KST. Sinh thiết mô cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh nhân
mãn tính, đây là một phương pháp phức tạp nên không được ưu tiên mà chủ yếu để
xét nghiệm trên các bệnh nhân tử vong.
+ Xác định Trypanosoma cruzi trong màng máu dày, chiều dài khoảng 15µm ở
dạng rộng và 20µm ở dạng mảnh. Hình dạng: dạng rộng có hình chữ C; dạng mảnh
mai có hình chữ S[10].
5. Điều trị:

- Hiện nay có hai loại thuốc dùng để điều trị bệnh Chagas là Benzimidazole và
Nifurtimox với phác đồ điều trị được tổng hợp trong bảng.

-  Các loại thuốc này có tác dụng phá hủy sinh thể gây bệnh trong các tổ chức và
trong máu. Cả hai loại thuốc có những tác dụng không mong muốn. Benznidazol
có thể gây viêm da dị ứng, viêm dây thần kinh ngoại biên, chán ăn, giảm cân và
mất ngủ. Nifurtimox có thể gây chán ăn, giảm cân, viêm đa dây thần kinh, đau đầu,
chóng mặt, buồn nôn. Các tác dụng phụ có xu hướng thường xuyên và nghiêm
trọng hơn ở người lớn tuổi. Chống chỉ định đối với bệnh nhân có tiền sử viêm, suy
gan hay thận. Phụ nữ có thai cũng được khuyến cáo không sử dụng thuốc[4].

V. Phòng chống và điều trị ở Việt Nam:


1. Phòng chống:

- Hiện nay bọ xít hút máu chưa có loài thiên địch chưa có loại thuốc đặc trị. Vì
thế cách phòng chống tốt nhất là vệ sinh sạch sẽ khu vực đang sống, nhất là các nơi
ẩm thấp như khe giường, gầm tủ, gầm giường, dưới đệm. Để diệt bọ xít hút máu,
đựng chúng trong lọ kín và đổ cồn y tế vào lọ[6].

- Khó có thể kiểm soát được vì chúng thường ẩn trong hang của loài gậm nhấm
và hang trút.Lindane, hexachloro cyolohexane là thuốc có hiệu quả nhất[3].

- Có thể sử dụng dưới dạng treo 5% gamma isomer trong kerosene với 0,3%
Triton X-45 là chất làm trạng thái ổn định, xịt tường, mái nhà, lều trại, dùng với
liều 0,5-0,7 g isomer/lm2[3].

- Cũng có thể dùng dưới dạng bột , xịt vào giường, kẽ nứt, hốc trong tường, ở
mái rơm… hoặc bất cứ chỗ nào có thể ẩn náu[3].

- Mỗi lần xử lý có hiệu quả từ 3-6 tháng. Thuốc không hiệu quả trên trứng nên
phải xử lý lặp lại. Thuốc xịt DielDrin với tỷ lệ 1,2g/lm2 có hiệu quả cao.[3].

2. Điều trị

- Khi bị bọ xít hút máu trên da người sẽ xuất hiện vết đỏ, phù nề và rất ngứa.
Người bị hút máu không được gãi vì vết đốt có thể lan rộng, nên rửa sạch vết đốt
dưới vòi nước chảy, tránh viêm nhiễm bằng cách bôi kem chống dị ứng côn trùng.
Thông thường sau vài ngày vết đốt sẽ khỏi. Tuy nhiên cũng có trường hợp vết đốt
sưng to, viêm nhiễm. Khi đó cần đến cơ sở da liễu để điều trị[6].

- Làm giảm ngứa chỗ bị cắn bằng dung dịch ammoniac, rượu hay long não, bột
nhão phenol- bạc hà hay dung dịch calamin.
Tài liệu tham khảo

1. Học viện quân y, “ Bộ cánh nửa - Hemiptera”, Kí sinh trùng, học viện quân y
(2008)

Bộ cánh nửa- Hemiptera

2. Viện bảo vệ thực vật - Plant Protection Research Institute (PPRI), “Một số
thông tin về bọ xít hút máu” (2014)

https://ppri.org.vn/mot-so-thong-tin-ve-bo-xit-hut-mau-c39a68.html

3. PGS.TS. Trần Xuân Mai ,giáo trình ký sinh trùng y học ,bộ môn ký sinh
trùng, khoa y đại học y dược thành phố hồ chí minh ,nhà xuất bản y học 2015

4. Hiếu, Hồ Viết, et al. "Dịch tễ bệnh Chagas và tình hình nghiên cứu bọ xít hút
máu Triatoma rubrofassiata (De Geer, 1773) ở Việt Nam." Bản B của Tạp chí
Khoa học và Công nghệ Việt Nam 60.2 (2018).
https://b.vjst.vn/index.php/ban_b/article/view/275/267

5. PHÂN BỐ, TẬP TÍNH SINH THÁI VÀ TÁC HẠI CỦA LOÀI BỌ XÍT
HÚT MÁU TRIATOMA RUBROFASCIATA (DE GEER, 1773) Ở VIỆT NAM
Nguyễn Văn Châu*, Vũ Đức Chính* , Lê Thành Đồng**, Nguyễn Xuân
Quang***, Mai Đình Thắng** https://yhoctphcm.ump.edu.vn/index.php?
Content=ChiTietBai&idBai=11314

6. PGS.TS Trương Xuân Lam, Trưởng phòng Côn trùng học Thực nghiệm,
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật “Một số biện pháp phòng, chống bọ xít hút
máu người.”

https://tienphong.vn/chuyen-gia-bay-cach-phong-chong-bo-xit-hut-mau-
post695838.tpo

7. CN. Mai Đình Thắng, Viện Sốt Rét - Kí sinh trùng - Côn trùng Thành phố Hồ
Chí Minh “ Bọ xít hút máu và vai trò truyền bệnh”

https://www.impehcm.org.vn/noi-dung/ngoai-ky-sinh/bo-xit-hut-mau-va-vai-
tro-truyen-benh.html

8. Giáo trình Kí sinh trùng y học trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Bộ
môn Kí sinh - Vi nấm học. Chủ biên ThS.BS. Nhữ Thị Hoa, PGS. TS. Trần Thị
Hồng.

9. Báo sức khỏe và đời sống, Cơ quan ngôn luận Bộ Y Tế 22-06-2013

https://suckhoedoisong.vn/bo-xit-hut-mau-nguoi-lam-sao-tranh-16963558.htm?
fbclid=IwAR2ufJvCljbRTE7B9gSmVUV3TXkELt5Sq3jhpObbDO6BQkBDbqN4
FI6m9iM

10. WHO (2003), Manual of basic techniques for a health laboratory - 2nd
edition

You might also like