You are on page 1of 2

Dân ca Việt Nam 

là một thể loại âm nhạc cổ truyền của Việt Nam, được lưu truyền trong dân
gian. Dân ca có nhiều làn điệu từ khắp các miền cộng đồng người, thể hiện qua có nhạc hoặc
không có nhạc của các dân tộc Việt Nam. Do chính người dân lao động tự sáng tác theo tập quán,
phong tục. Trong sinh hoạt cộng đồng người quần cư trong vùng đất của họ, thường trong làng
xóm hay rộng hơn cả một miền. Các làn điệu dân ca thể hiện phong cách bình dân, sát với cuộc
sống lao động mọi người. Các dịp biểu diễn thường thường là lễ hội, hát làng nghề. Thường ngày
cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau, hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm
giữa người và người. Tuy nhiên mỗi tỉnh thành của Việt Nam lại có âm giọng và ca từ khác nhau
nên dân ca cũng có thể phân theo tỉnh nhưng gọi chung cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung
của miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt Nam.

Phân loại
Do đặc điểm xuất xứ, dân ca thường được phân loại theo vùng miền. Đôi khi nó cũng được phân
biệt theo dân tộc do đặc điểm phân bố cộng đồng người theo địa hình.
Theo vùng miền
Để phân định và gọi theo vùng miền hay từng tỉnh thì người ta phân định bằng "ca từ", bằng "âm
giọng" bằng cách "nhấn nhá", "luyến lấy", "ngân nga", "rê giọng",... mà chỉ ở vùng miền này có
thể hát hay từng tỉnh có thể hát được. Tuy chữ đọc thì giống nhau nhưng âm khi phát ra thì khác
nhau chút đỉnh mà những nơi khác không dùng hay cách nhấn nhá, luyến láy của địa phương đó
mà nơi khác không hát.
Đặc điểm tiếng địa phương, những địa danh là cách dễ nhận biết nhất xuất xứ của một bài dân ca,
cụ thể:[1]

 Dân ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng, thì, chứ...” và các dấu giọng như: sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những nốt nhạc sao cho việc phát âm được rõ nét. Một số
phụ âm được phát âm một cách đặc thù như: “r, d, gi” hay “s và x” phát âm giống nhau,
không phân biệt nặng nhẹ.
 Dân ca miền Trung thì thường có chữ “ ni, nớ, răng, rứa...” dấu sắc được đọc thành dấu hỏi
(so với giọng người Bắc), dấu hỏi và ngã đều được đọc giống nhau và trầm hơn chữ không
dấu.
 Dân ca miền Nam thì thường có chữ “má (mẹ), bậu (em), đặng (được)...” chữ “ê” đọc thành
chữ “ơ”, dấu ngã đọc thành dấu hỏi,... Nhưng nhìn chung thì vẫn là thoát thai từ lòng dân với
đậm tính chất mộc mạc giản dị của họ.
Theo dân tộc

 Người Kinh chia ra 3 vùng, Đồng bằng Bắc bộ; Trung bộ; Nam bộ: Bài chòi, Hò Huế, Ca trù, Cò
lả, Chầu văn, Hát dô, Hát dặm, Hát đúm, Hát ghẹo, Hát phường vải, Hát sắc bùa, Hát trống
quân, Hát ví, Hát xoan, Múa bóng rỗi, Hát vè, Hò, Lý, Lễ nhạc Phật giáo, Nhạc lễ Nam
Bộ, Quan họ, Xẩm.
 Các dân tộc khác chia theo địa lý nơi dân tộc đó ở, Tây bắc-Việt bắc; Tây Nguyên; Dân tộc
Chăm; Dân tộc Khơ me; Dân tộc Hoa: Hát Ayray, Hát À day, Hát Ba sắc, Hát Bơk Weng
non, Hát Cà lơi - Cha chấp, Hát cúng tìm vía, Hát dù kê, Hát duê, Hát đồng dao Kuh nrau,
R’bàng nrau, Hát Êmê kha bá, Hát Khan, Hát khắp sên, Hát kưứt, Hát H'ri, Hát Lam leo, Hát
lượn, Hát Lo khol, Hát sình ca, Hát sli, Hát soong hao, Hát Soọng-cô, Hát Thay mai, Hát tà
oải, Hát then, Hát vèo ca, Hát xà nớt, Hát xiêng.

Một số bài hát Dân ca


Dân ca Bắc bộ có nhiều bài nổi tiếng như: Cò lả, Trống cơm, Hát ru, Lý cây đa,... hay các bài dân
ca địa phương như: Bà rằng bà rí, Xe chỉ vá may (Dân ca Phú Thọ); Ba quan, Mời trầu, Hát
chào, Hát thầm, Trúc mai (Dân ca Hà Nam); Cây trúc xinh, Bèo dạt mây trôi, Giã bạn, Người ở
đừng về (Dân ca quan họ),...

 Dân ca Trung bộ có những bài nổi tiếng như: Lý mười thương  (ca Huế), Lý thương
nhau  (dân ca Quảng Nam), Hò đối đáp, Hát ví, Dặm..  (dân ca Nghệ Tĩnh), Đi cấy (dân ca
Thanh Hóa), Hò hụi, Hò giã gạo (Dân ca Bình Trị Thiên), Lý vọng phu, Lý thiên thai (Dân ca
khu 5), ...
 Dân ca Nam bộ gồm các điệu hò, lý, vè, tiêu biểu như: Ru con, Lý đất giồng, Bắc Kim Thang,
Lý cây bông, Lý dĩa bánh bò, Lý ngựa ô, lý quạ kêu, lý chiều chiều, Lý bông dừa, Lý con sáo,
Lý qua cầu...
Dân ca, Dân nhạc hoặc Âm nhạc dân gian bao gồm cả âm nhạc truyền thống cũng như thể
loại âm nhạc phát triển từ đó trong quá trình phục hồi văn hóa dân gian thế kỷ 20. Thuật ngữ này
lần đầu xuất hiện vào thế kỷ 19 nhưng ban đầu được sử dụng để chỉ loại hình âm nhạc có từ trước
đó. Một số loại âm nhạc dân gian có thể được gọi là nhạc thế giới.

Định nghĩa
Dân ca truyền thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau: âm nhạc truyền khẩu; âm
nhạc của người bình dân; âm nhạc mà người sáng tác vô danh, hoặc âm nhạc được biểu diễn theo
phong tục trong một thời gian dài. Những điều này tương phản với các thể loại âm nhạc thương
mại và cổ điển. Có người định nghĩa dân ca là những bài hát cổ không rõ người sáng tác; người
khác cho rằng đó là loại hình âm nhạc được lưu truyền và phát triển bằng cách truyền khẩu hoặc
được biểu diễn theo phong tục trong một thời gian dài.

Đặc điểm
Từ góc độ lịch sử, âm nhạc dân gian truyền thống có những đặc điểm sau:[1]Bản mẫu:Verification
needed

 Truyền khẩu
 Không rõ tác giả
 Thành quả của tập thể
 Mang nét văn hóa dân tộc
 Sử dụng trong những thời gian đặc biệt

Chủ đề
Các bản nhạc dân gian có được phân loại theo các chủ đề như

 Bài ca chiến tranh


 Bài ca uống rượu
 Bài ca lao động
 Bài ca tình yêu
 Bài ca trẻ con

You might also like