You are on page 1of 273

OSHO

Mã Tổ
Gương rỗng

Bài nói về thiền

HÀ NỘI 9/2003
OSHO

Ma Tsu
The Empty
Mirror

Talks on Zen
Mục lục

1. Gương.................................................................................. 1
2. Gieo mầm...........................................................................25
3. Mận chín.............................................................................45
4. Véo mũi.............................................................................. 67
5. Như bò............................................................................... 87
6. Thợ săn............................................................................109
7. Về cội nguồn..................................................................... 133
8. Khoảnh khắc này..............................................................168
9. Không gợn sóng...............................................................199
9. Ngó trăng.......................................................................... 225
Về Osho...............................................................................249

i
Giới thiệu

Tôi đã gọi loạt bài này là Mã Tổ: Gương rỗng


bởi một lẽ đơn giản là toàn bộ giáo huấn của
ông ấy là, "Không phản ứng. Hiện hữu, và
phản xạ…"

Một tóm tắt đơn giản về một giáo huấn đơn giản. Tất
nhiên, trong tính đơn giản của nó, những lời này bao la và
tràn đầy gợi ý.
"Không phản ứng." Một điều như vậy thực sự có thể
được sao? Từ ngay lúc bắt đầu chúng ta đã được huấn
luyện để phản ứng. "Không" - và chúng ta học dừng lại.
"Chào" - và chúng ta học mỉm cười. Và hết tầng nọ tới
tầng kia chúng ta chỉ là mớ lộn xộn lung tung của những
phản ứng được huấn luyện, cái mà chúng ta gọi là "bản
thân tôi."
Cái nào trong số đó đem chúng ta tới "hiện hữu"
không phải là ý tưởng thật phổ biến. Cái gì hiện hữu? Bác
sĩ, luật sư, công dân tốt sao? Người Mĩ, người Nhật,
người Đức? Công nhân giỏi, thiên tài vĩ đại, nghệ sĩ nổi

ii
tiếng? Người Ki tô giáo, Phật tử?... Không phải thế sao?
Vậy thì cái gì?
"Và phản xạ" - như tấm gương, không như quá trình
suy nghĩ chúng ta đã đi tới gắn với lời. Rõ ràng, hai điều
đầu là điều kiện tiên quyết cho điều thứ ba; bằng không
người Mĩ sẽ tiếp tục phản ứng như người Mĩ, bác sĩ sẽ
theo đơn thuốc của mình và người Ki tô giáo sẽ theo
Jesus. Và chúng ta tìm thấy mình đứng sau chỗ bắt đầu
của vòng tròn - phản ứng với mọi thứ (vâng, mọi thứ -
thậm chí khi ai đó khiêu khích chúng ta và chúng ta
"không phản ứng" thì phần lớn chúng ta thực tế kìm nén
phản ứng đã xảy ra bên trong mình) cố gắng để là cái gì
đó, và "phản xạ" lại giống như điên khùng về điều nó
nghĩa là gì.
Và điều đó diễn ra như vậy mãi. Một số trong chúng
ta mang việc làm điều đó trong nhiều kiếp sống của mình,
một số trong chúng ta thành điên khùng và một số trong
chúng ta bắt đầu tìm kiếm cách để nhảy ra khỏi bánh xe.
Osho Rajneesh hôm nay, giống như Mã Tổ đã trong
thời của ông ấy, là tái đảm bảo rằng điều đó, như chúng ta
vẫn sợ, sẽ không đem tới gãy xương và chết, mà thay vì
thế là tính toàn bộ mới và sống.
Tại đây trong những trang này bạn sẽ không tìm ra
những bình luận học thuật vẫn là đặc trưng cho hầu hết
các sách về Thiền ở phương Tây - những sách mà, trong
nỗ lực làm cho Thiền thành lĩnh hội được cho tâm trí lí lẽ,
lại phá huỷ đi chính thông điệp của nó và thêm những
tầng khác vào chính hiểu biết mà Thiền nhằm vứt đi.
Ngược lại, Thiền sư thế kỉ thứ 6 Mã Tổ không được
"giải thích" gì ở đây cả - công trình của ông ấy vẫn được

iii
tiếp tục và được làm tươi tắn cho thời đại chúng ta đang
sống. Và trong việc nói về Mã Tổ, Osho Rajneesh đang
nói về bản thân mình:

Sự tồn tại làm ra cơn khát chỉ sau khi nó đã tạo


ra nước để làm dịu cơn khát. Nếu có đệ tử,
người tìm kiếm, người truy tìm, sự tồn tại xoay
xở để họ sẽ tìm ra thầy, người có thể thấy trong
họ tương lai có thể của họ là gì, và có thể giúp
họ là chính họ.
Chức năng của bạn trong việc hiện hữu ở đây
là để đem cuộc truy tìm vàng đó trở lại trong
thế giới này - và tôi đang cố gắng từ mọi góc
độ khác nhau, các cách tiếp cận khác nhau tới
chân lí, với hi vọng rằng cái gì đó có thể nẩy
ra trong bạn và mở ra cánh cửa đã từng đóng
trong nhiều năm, trong hàng thế kỉ…

Cánh cửa mở ra trong những trang này thoáng nhìn


về phía bên kia - bên ngoài bánh xe, nơi có thể không
phản ứng mà chỉ hiện hữu, và phản xạ.
Lực sống của cuộc sống đang tuôn chảy ngay gần
đây. Sao không uống nó và được giải khát đi?

Ma Deva Sarito
Poona, 1989

iv
Lưu ý cho độc giả

Phần cuối mỗi bài nói trong loạt này tuân theo một
cách in nào đó mà có thể gây khó hiểu với độc giả còn
chưa hiện diện tại chính sự kiện.
Đầu tiên là thời gian của Sardar Gurudayal Singh.
“Sardarji” là một đệ tử lâu năm có tiếng cười nồng nhiệt
và tiêm nhiễm đã làm nẩy sinh việc mang tên anh ấy cho
lúc kể chuyện cười.
Chuyện cười được tiếp sau bởi việc thiền bao gồm
bốn phần. Mỗi giai đoạn của thiền đều được báo trước bởi
một tín hiệu từ Osho cho người đánh trống, Nivedano.
Nhịp trống này được biểu diễn trong văn bản là như sau:

(tiếng trống)

Giai đoạn thứ nhất của thiền là nói lảm nhảm, mà


Osho đã mô tả là “lau sạch tâm trí bạn khỏi mọi loại bụi

v
bặm... nói bất kì ngôn ngữ nào mà bạn không biết... ném
tất cả sự mất trí của bạn ra.”
Trong vài khoảnh khắc căn phòng tràn đầy sự điên
khùng, khi hàng nghìn người hô, hét, lảm nhảm điều vô
nghĩa và vung vẩy tay chân mình khắp xung quanh.
Tiếng lắp bắp được biểu thị trong văn bản như sau:

(nói lắp bắp)

Giai đoạn thứ hai là thời kì ngồi im lặng, tập trung


tâm thức vào trung tâm, điểm chứng kiến.

Giai đoạn thứ ba là “buông bỏ” - mỗi người ngã vô


nỗ lực xuống đất, cho phép các biên giới vốn vẫn giữ họ
phân tách nay tan biến đi.
Và nhịp trống cuối cùng báo cho toàn thể hội chúng
trở lại tư thế ngồi, như họ được hướng dẫn trong việc làm
cho kinh nghiệm thiền của mình ngày càng là một phần
của cuộc sống thường ngày. Những người tham dự được
hướng dẫn qua từng giai đoạn của thiền theo lời của Thầy,
và toàn bộ văn bản của từng buổi thiền tối được tái tạo lại
ở đây.

vi
1. Gương

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Khi Nam Nhạc Hoài Nhượng lần đầu tiên gặp
Mã Tổ, bằng trực giác ông ấy nhận ra anh ta
là pháp khí.
Ông ấy tới thăm Mã Tổ trong am khi Mã Tổ
đang thiền, và hỏi: "Khi toạ thiền, đại đức
muốn đạt tới cái gì?"
"Đạt tới phật tính" là lời đáp của Mã Tổ.
Nam Nhạc Hoài Nhượng bèn nhặt lấy mẩu
gạch và bắt đầu mài nó lên phiến đá ngay
trước am Mã Tổ. Mã Tổ hỏi, "Thầy mài gạch
để làm gì?"
"Ta muốn mài nó thành gương," Nam Nhạc
Hoài Nhượng đáp.
Thấy buồn cười, Mã Tổ nói, "Làm sao thầy có
thể hi vọng mài mẩu gạch thành gương được?"
Nam Nhạc Hoài Nhượng bẻ lại, "Mẩu gạch
không mài được thành gương, thì làm sao toạ
thiền thành phật được?"
"Vậy phải làm sao?" Mã Tổ hỏi.

1
Nam Nhạc Hoài Nhượng đáp, "Như bò kéo xe
vậy: xe không đi thì đánh xe hay đánh bò?"
Mã Tổ im lặng.
"Trong việc học toạ thiền," Nam Nhạc Hoài
Nhượng nói tiếp, "Ông mong bắt chước toạ
Phật hay ông mong học toạ thiền? Nếu toạ
Phật thì Phật không có tư thế cố định. Nếu toạ
thiền, thì thiền không chỉ có ngồi hay nằm.
"Pháp diễn ra mãi và không bao giờ trụ vào
cái gì. Do vậy ông phải không gắn bó, không
buông bỏ bất kì pha đặc biệt nào của nó. Tự
ngồi theo Phật là giết Phật. Bị gắn bó với tư
thế ngồi là không hiểu nguyên lí bản chất."

Maneesha, chúng ta đang bắt đầu một loạt bài nói


mới: Mã Tổ - Gương rỗng. Mã Tổ1 cũng còn được biết tới
dưới cái tên Baso. Tôi không dùng cái tên Baso này, vì
loạt bài nói thứ hai của chúng ta sẽ là về người Nhật Bản
Basho - nhà thơ Thiền huyền môn vĩ đại. Và bản thân cái
tên Mã Tổ có nhiều ý nghĩa hơn là cái tên phổ biến của
ông ấy, Baso.
Trước khi tôi thảo luận về lời kinh này, một lưu ý
tiểu sử về Mã Tổ là tuyệt đối cần thiết, bởi vì ông ấy
không được thế giới biết tới. Ông ấy là một trong những
1
Ma tsu - Mã Tổ Đạo Nhất (zh. măzǔ dàoyī/Ma-tsu Tao-i 馬祖道一,
ja. baso dōitsu), 709-788, là một Thiền sư Trung Quốc đời nhà Đường, và là
môn đệ và người đắc pháp duy nhất của Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Sư có rất nhiều môn đệ đắc đạo như Bách Trượng Huệ Hải, Nam Tuyền Phổ
Nguyện, Đại Mai Pháp Thường, Đại Châu Huệ Hải, Trí Tạng Tây
Đường, Trí Thường Quy Tông, Bảo Triệt Ma Cốc, Tề An, Thạch Cựu...

2
thiên tài không may đó mà thế giới bằng mọi cách đã cố
gắng bỏ qua, quên đi rằng họ thậm chí vẫn tồn tại. Ngay
cả cái ý tưởng rằng họ tồn tại cũng làm tổn thương cho
bản ngã của đám đông. Đám đông đã gây hại cho mọi
thiên tài, bởi vì chính sự tồn tại của thiên tài dẫn bạn về
sinh linh chậm tiến. Mọi thầy chứng ngộ đều là bằng
chứng rằng bạn đang sống trong bóng tối, rằng bạn phải
biến đổi bóng tối của mình thành cuộc sống, thành ánh
sáng.
Điều đó dường như là nhiệm vụ lớn lao thế - nó
không phải vậy đâu, nhưng có có vẻ như là nhiệm vụ lớn
lao - biến đổi việc mù của bạn thành đôi mắt cảm nhận rõ
ràng; biến đổi bóng tối của bạn thành ánh sáng buổi sáng
đẹp đẽ. Đấy là điều đơn giản, điều đơn giản nhất trên thế
giới, nhưng chính bởi vì nó đơn giản nên nó không hấp
dẫn tâm trí. Tâm trí quan tâm tới việc làm những thứ lớn
lao. Ham muốn đằng sau mọi tham vọng của tâm trí là
phải mang tính đặc biệt. Và bạn có thể đặc biệt chỉ với
thành tựu đặc biệt.
Vấn đề với Thiền là ở chỗ nó muốn bạn hoàn toàn
đơn giản, không đặc biệt. Nó chống lại chính ham muốn
của tâm trí, cái không phải là một hiện tượng nhỏ - nó là
ham muốn cũ cả bốn triệu năm, điều mọi người đều đang
mang trong những kiếp sống khác nhau. Tâm trí không
thể hiểu được tại sao bạn phải đơn giản khi bạn có thể là
đặc biệt, tại sao bạn phải khiêm tốn khi bạn có thể mạnh
mẽ. Và tâm trí thì nặng nề, nó mang trọng lượng lớn của
quá khứ. Khoảnh khắc tâm trí thấy bất kì ai khiêm tốn,
đơn giản, tự nhiên, phật, thì lập tức nó lên án người đó,
bởi vì người như vậy chống lại toàn thể cái tạo ra tâm trí
con người.

3
Và theo một cách nào đó thì tâm trí cũng phải. Để là
phật bạn sẽ phải vứt bỏ tâm trí hoàn toàn, bạn sẽ phải trở
thành gương rỗng.

Mã Tổ sinh ra ở Trung Quốc vào năm 709.


Ông ấy là nhân vật quan trọng nhất trong lịch
sử Thiền sau tổ thứ sáu, Huệ Năng. Huệ Năng
bảo Nam Nhạc Hoài Nhượng, người sẽ trở
thành thầy của Mã Tổ, về lời tiên tri rằng Nam
Nhạc Hoài Nhượng sẽ có đệ tử "ngựa non can
trường" sẽ “giẫm đạp thiên hạ." Trong tiếng
Trung Quốc, từ ‘Mã' của Mã Tổ nghĩa là
“ngựa”'.
Ngay từ khi còn là đứa trẻ, Mã Tổ đã xuất gia
tại ấp nhà; trước tuổi hai mươi, ông ấy đã là
sư thọ giới.

Ông ấy là một thiên tài bẩm sinh, và cho dù có


những lời tiên tri về ông ấy của các thầy khác - rằng ông
ấy không nên bị coi như XYZ, ông ấy có khả năng trở
thành một thầy vĩ đại - và lời tiên tri này đã ứng nghiệm.
Đôi khi có thể có việc thầy nhìn vào đứa trẻ khi đứa
trẻ còn chưa bị xã hội làm biến chất, thầy có thể thấy tiềm
năng của nó rõ ràng. Và đó là điều thầy lớn khác, Huệ
Năng2, nói cho Nam Nhạc Hoài Nhượng3.
2
Eno - Huệ Năng (Năng, zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, đắc
đạo lúc chưa xuất gia, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông, môn đệ và pháp tự
của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
3
Nam Nhạc Hoài Nhượng (zh. nányuè huáiràng 南嶽懷讓, ja. nangaku
ejō), 677-744, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ được truyền tâm ấn của
Lục tổ Huệ Năng và là một trong hai ngọn lửa thiền chiếu sáng rực rỡ
đời nhà Đường (ngọn đuốc thứ hai là Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư).

4
Huệ Năng là tổ thứ sáu sau Bồ đề đạt ma. Ông ấy
bảo Nam Nhạc Hoài Nhượng, "Đứa trẻ này sẽ trở thành
thầy vĩ đại đấy, chú ý vào." Và cuối cùng Mã Tổ đã
không chỉ trở thành thầy vĩ đại, mà còn là thầy quan trọng
thứ hai sau Huệ Năng. Lời tiên tri của Huệ Năng đã được
ứng nghiệm còn hơn là ông ấy trông đợi. Mã Tổ đã tự
chứng tỏ mình là thầy vĩ đại hơn lời tiên tri đã nói.
Nhưng định mệnh kì lạ của ông ấy là ông ấy không
được thế giới biết tới. Có lẽ ông ấy đi trước thời đại mình
quá; có lẽ ông ấy đi quá xa với đám đông bình thường; có
lẽ giáo huấn của ông ấy tinh tế tới mức tâm trí bình
thường không có khả năng hiểu được nó.
Nhưng dù bất kì nguyên nhân nào, chúng ta cũng
đang làm sống lại Mã Tổ. Chúng ta muốn ông ấy được
chấp nhận trong lịch sử tâm thức, ở đúng tầm cỡ của ông
ấy.

Câu chuyện Maneesha đã đem tới:

Khi Nam Nhạc Hoài Nhượng lần đầu tiên gặp


Mã Tổ, bằng trực giác ông ấy nhận ra ông này
là pháp khí.

Thầy không là gì ngoài sự sáng tỏ, trong suốt. Với


thầy, mọi sự không thấy được với bạn lại trở thành thấy
được. Tiềm năng của bạn là cái gì đó không thể thấy
được, là bí ẩn của bản thể bạn. Nhưng với thầy nó gần
như cuốn sách mở; thầy có thể đọc nó. Và có thầy như
thế, người có thể đọc tiềm năng của bạn và có thể giúp
Môn đệ lừng danh nối dòng của Sư là Mã Tổ Đạo Nhất.

5
bạn trưởng thành theo tiềm năng của mình - là phúc lành
lớn nhất mà người ta có thể có được.

Khi Nam Nhạc Hoài Nhượng lần đầu tiên gặp


Mã Tổ, bằng trực giác ông ấy nhận ra anh ta
là pháp khí.

Đây là những biểu dụ. "Pháp khí" là để nói rằng


người đó sẽ trở thành sự hiện diện toả sáng khắp xung
quanh. Mọi người từ xa hàng nghìn dặm đường sẽ tới, bị
kéo bởi lực vô hình, như lực hấp dẫn, không biết tại sao
họ lại bị kéo tới người nào đó. Họ sẽ hiểu chỉ khi họ đã
tới người đó - đã cảm thấy năng lượng của người đó, đã
dịu đi cơn khát của mình. Thế thì họ sẽ biết rằng lực tinh
tế nào đó đã kéo họ tới để hoàn thành định mệnh của họ.
Mới vài ngày trước đây, tôi mới đi tới biết rằng cây
cũng có nhạy cảm nào đó về nước. Nhà khoa học đã thám
sát điều này đã ngạc nhiên mà thấy rằng có cây không có
nước xung quanh, ngoài trừ ở cách đó quãng bốn trăm
mét có đường ống nước. Nhưng cây đã lan rễ của nó tới
đường ống nước đó, bóp vỡ ống nước, và làm nước chảy
ra nuôi dưỡng cây.
Nhà khoa học này lo nghĩ bởi vì ông ta không thể
tìm ra nước nào quanh cây cả, và ông ta không nghĩ rằng
nó đã lấy nước từ ống nước mà nó làm vỡ ra bằng rễ của
nó. Ông ta thấy khó hiểu - làm sao cây này lại biết về ống
nước kia từ cách xa bốn trăm mét? Và nó đã không mọc
rễ đi chỗ khác, chỉ hướng thẳng tới ống nước này.
Cây không thể sống được nếu thiếu nước. Chắc chắn
nó phải có cảm nhận nào đó, tri thức ẩn kín nào đó về

6
nước ở đâu, cho dù nước ở bên trong đường ống, và ở xa
bốn trăm mét.
Điều tương tự cũng là tình huống với bạn đấy, nếu
cuộc truy tìm chân lí của bạn là chân thực, không phải là
tò mò. Từ xa xôi hàng nghìn dặm, bạn sẽ bắt đầu bị hút
tới nơi cơn khát của bạn có thể được làm dịu. Sự tồn tại
làm ra cơn khát chỉ sau khi nó đã tạo ra nước để làm dịu
cơn khát. Nếu có đệ tử, người tìm kiếm, người truy tìm,
thì sự tồn tại xoay xở để họ sẽ tìm ra thầy, người có thể
thấy trong họ tương lai có thể của họ là gì, và có thể giúp
họ là chính họ.
Thầy không có ý thức hệ, thầy không phải là nhà
truyền giáo, thầy không lập chương trình bạn. Ngược lại
thầy giải chương trình bạn; thầy lấy đi mọi ý thức hệ của
bạn, định kiến của bạn, chính tâm trí bạn, để cho cái trống
rỗng thuần khiết của bản thể bạn bắt đầu phát triển.
Các thầy đã mất rồi, toàn thể thế giới của việc truy
tìm chân lí vàng đã trở thành kí ức. Và vào mọi thời
người ta đều nghĩ, "Có lẽ chư phật chỉ là tưởng tượng của
chúng ta" - bởi vì họ đã biến mất khỏi thế giới trần tục
này.
Chủ định của bạn trong việc ở đây là để đem cuộc
truy tìm vàng đó trở lại thế giới này. Và tôi đang cố gắng
từ mọi góc độ khác nhau - tất cả mọi thầy này đều là
những góc độ khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau
tới chân lí - hi vọng rằng cái gì đó có thể nhoáng lên trong
bạn và mở ra cánh cửa đã từng đóng trong hàng thế kỉ.

7
Ông ấy tới thăm Mã Tổ trong am khi Mã Tổ
đang thiền, và hỏi: "Khi toạ thiền, đại đức
muốn đạt tới cái gì?"

Lưu ý về điều đó: Nam Nhạc Hoài Nhượng là thầy


đã được thừa nhận còn Mã Tổ chỉ là một đệ tử trẻ, nhưng
ông ấy lại gọi Mã Tổ là "đại đức." Với thầy, hiện tại của
bạn không chỉ là hiện tại, nó còn là tương lai của bạn nữa.
Thầy biết bạn, rằng một ngày nào đó bạn sẽ trở thành
phật. Không thành vấn đề là điều đó phải mất vài ngày
hay vài năm hay vài kiếp. Bởi vì Nam Nhạc Hoài Nhượng
có thể thấy phật tính của mình, ông ấy đã gọi ngay cả một
đệ tử là "đại đức."
Điều đó làm tôi nhớ tới kiếp sống quá khứ của Phật
Gautam, khi ông ấy chưa là phật, và ông ấy nghe nói về
một thầy vĩ đại đã trở nên chứng ngộ. Ông ấy tới để xem,
chỉ từ tò mò thôi, hiện tượng chứng ngộ là gì, và làm sao
điều đó tạo ra khác biệt trong con người.
Ông ấy đã chạm chân người này, mặc dầu ông ấy
không có ý định làm như vậy; nhưng ngay khi ông ấy đi
vào trường năng lượng của người đó, một cách tự phát
người đó chạm chân ông ấy. Ông ấy tự hỏi tại sao ông này
chạm chân mình, bởi vì ông ấy không tới đó để là đệ tử.
Nhưng chính vùng đó, chính bầu không khí đó, chính chỗ
đó - và cái gì đó trong trái tim ông ấy bắt đầu ngân lên
tiếng chuông, rằng có lẽ ông ấy đã tới gần nhà mình, mà
không có ý định có ý thức nào cả.
Chỉ tự phát ông ấy đã chạm chân người kia. Điều đó
đã là phép mầu cho ông ấy, bởi vì ông ấy chưa bao giờ
chạm chân ai cả. Ông ấy không phải là con người của

8
niềm tin hay đức tin; ông ấy là một thanh niên, rất hay
biện luận. Đây là một hành động kì lạ mà ông ấy đã làm,
nhưng còn kì lạ hơn thế là việc khi ông ấy đứng dậy, thì
thầy lại chạm chân ông ấy.
Ông ấy nói, "Thầy làm gì vậy? Ngay chỗ đầu tiên,
tôi không có ý tưởng, không ham muốn, không ý định
chạm chân thầy - nhưng chuyện đó đã xảy ra. Tôi chỉ
quan sát nó xảy ra mặc bản thân mình. Và bây giờ thầy
chạm chân tôi! - tôi không là ai cả, tôi thậm chí không
biết ABC về chứng ngộ. Tôi mới chỉ tới đây vì tò mò
thôi."
Thầy nói, "Ông có thể không biết điều được chứa
trong hạt mầm của ông, nhưng ta biết. Ta có thể thấy rằng
một ngày nào đó ông sẽ trở thành phật. Hôm qua ta còn
chưa là phật, hôm nay ta là phật; hôm nay ông chưa là
phật, ngày mai ông sẽ là phật. Khác biệt nhỏ bé về thời
gian này không tạo khác biệt gì."
Nam Nhạc Hoài Nhượng nói với Mã Tổ, người đang
thiền trong am, "Khi toạ thiền, đại đức muốn đạt tới cái
gì?"
"Đạt tới phật tính" là lời đáp của Mã Tổ.
Cần phải hiểu rằng phật tính không thể được đạt tới,
nó đã là bản tính của bạn rồi. Nếu bạn cố gắng đạt tới nó,
bạn sẽ bỏ lỡ nó. Bạn chỉ phải thảnh thơi và nhìn vào bên
trong mình, và phật đã ở đó rồi trong sự huy hoàng tuyệt
đối
Việc dùng từ ‘đạt tới’ nghĩa là cái gì đó phải được
làm, bạn phải đi đâu đó. Có khả năng thất bại - bạn có thể
thành công, bạn có thể không thành công. Và đạt tới bao

9
giờ cũng là của thế giới bên ngoài, của thế giới đối thể -
giầu có, hay danh vọng, hay quyền lực...
Nhưng phật tính không phải là việc đạt tới. Nó đơn
giản là việc nhớ lại, dường như bạn đã quên cái gì đó, rồi
bỗng nhiên trong trạng thái thảnh thơi im lặng bạn nhớ ra
nó.
Tôi nghĩ mọi người trong các bạn lúc này lúc khác
phải đã đi tới kinh nghiệm này khi bạn biết rằng bạn biết
cái gì đó, và bạn nói rằng nó ở ngay trên đầu lưỡi, nhưng
bạn vẫn không thể nào nhớ ra nổi. Một cảm giác rất kì lạ
và kì dị nảy sinh vào lúc đó. Bạn biết tên của ai đó - bạn
tuyệt đối chắc chắn rằng mình biết, bạn thậm chí có thể
nhắm mắt và thấy người đó - bạn cảm thấy rằng cái tên
chỉ ở ngay đầu lưỡi, nhưng bạn mắc kẹt ở đó, nó không
được diễn đạt ra.
Đấy là một cảm giác rất kì quái - rằng bạn biết nó,
và bạn biết rằng bạn biết, vậy mà bạn không thể diễn đạt
được nó ra. Nó chỉ ở ngay đầu lưỡi bạn, nhưng bạn càng
cố gắng thì lại càng khó nhớ ra hơn.
Lí do là ở chỗ mọi nỗ lực đều làm cho tâm trí bạn
thành căng thẳng; và tâm trí càng căng thẳng nó càng trở
nên bị đóng kín. Điều cần là... bạn nên đi ra vườn, và bắt
đầu đào đất hay tưới cây, và quên mọi sự về anh chàng
này đi, cái tên mà bạn đang cố nhớ, và đang ở ngay trên
đầu lưỡi bạn. Chỉ đơn giản phun nó ra. Tham gia vào cái
gì đó đơn giản - tưới hoa hồng; và trong khi bạn tưới hoa,
tâm trí sẽ bắt đầu thảnh thơi. Việc đóng sẽ bắt đầu mở ra,
và bỗng nhiên, không từ đâu cả, cái tên trồi lên bề mặt.
Trong khi bạn đang cố gắng, bạn không thể nào
kiếm được nó. Nhưng khi bạn không cố gắng, và bạn đơn

10
giản vứt bỏ ý tưởng kiếm nó, nó quay lại với một lực xô
đấy thế. Là phật đích xác giống như thế.
Mọi điều tôi dạy cho các bạn không phải là triết lí,
nó thậm chí không thể được gọi là giáo huấn. Tôi đơn
giản giúp bạn thảnh thơi tới điểm mà bạn có thể nhớ điều
bạn đã quên hoàn toàn. Việc nhớ lại đó sẽ làm cho bạn
nhận biết về phật tính của mình.
Việc nhớ lại đó không phải là thành tựu bởi vì phật
đã ở bên trong bạn rồi; do đó từ 'đạt tới' là không đúng.
Nhưng việc đáp lại của Mã Tổ có thể được hiểu với chút
ít từ bi thêm. Ông ấy không biết đích xác phật tính là gì,
ông ấy chỉ có cảm giác rằng có cái gì đó cần được tìm ra,
có cái gì đó thiếu trong cuộc sống của ông ấy, cần cho nó
nghĩa và ý nghĩa.
Từ 'phật' đơn giản nghĩa là người đang tìm kiếm
nhận biết. Nhưng bởi vì anh ta không biết rằng điều mình
đang tìm kiếm là ở bên trong mình, nên anh ta hoàn toàn
có thể dùng từ 'đạt tới'. Anh ta đang dùng từ sai, nhưng
khát khao của anh ta là đúng. Anh ta đang trên con đường
đúng, anh chỉ dùng từ sai. Và bạn phải tha thứ cho anh ta
vì anh ta chỉ là người tìm kiếm, anh ta còn chưa là thầy.

Nam Nhạc Hoài Nhượng bèn nhặt lấy mẩu


gạch và bắt đầu mài nó lên phiến đá ngay
trước am Mã Tổ. Mã Tổ hỏi, "Thầy mài gạch
để làm gì?"

Điều này sẽ cho bạn cảm giác nào đó về cách các


Thiền sư mang tính duy nhất trong nỗ lực của họ để đánh
thức các đệ tử của mình. Đây là một cách thức kì lạ,

11
nhưng tự phát, vì không ai khác đã làm điều đó trước đây,
mà cả về sau nữa. Chỉ mỗi Nam Nhạc Hoài Nhượng làm
nó.

Mã Tổ hỏi, "Thầy mài gạch để làm gì?"


"Ta muốn mài nó thành gương," Nam Nhạc
Hoài Nhượng đáp.
Thấy buồn cười, Mã Tổ nói, "Làm sao thầy có
thể hi vọng mài mẩu gạch thành gương được?"
Nam Nhạc Hoài Nhượng bẻ lại, "Mẩu gạch
không mài được thành gương, thì làm sao toạ
thiền thành phật được?"

"Làm sao ông có thể - giữ nguyên mình, ngồi đó


trong am - mà trở thành phật được? Gạch không thể trở
thành gương, mà chỉ ngồi thôi ông cũng không thể thành
phật được. Ông có thể có cùng tư thế như phật, cùng tư
thế hoa sen đấy, nhưng chỉ ngồi giống ông ấy không có
nghĩa là ông trở thành ông ấy. Nỗ lực của ông cũng vô ích
như nỗ lực của ta mài viên gạch thành gương vậy."
Điều ông ấy đang nói thực tế là điều bạn không thể
trở thành gương chỉ bằng việc mài giũa tâm trí bạn. Bạn
đang làm gì ở đây? Chỉ mài tâm trí bạn, và cố gắng làm ra
gương từ nó. Phật là gương; phật đơn giản phản xạ, ông
ấy không phản ứng. Ông ấy bao giờ cũng trống rỗng như
gương. Mọi thứ tới và đi trước gương, nhưng chúng
không để lại dấu vết gì trên gương.

"Vậy phải làm sao?" Mã Tổ hỏi.


Nam Nhạc Hoài Nhượng đáp, "Như bò kéo xe
vậy: xe không đi thì đánh xe hay đánh bò?"

12
Mã Tổ im lặng.
"Trong việc học toạ thiền," Nam Nhạc Hoài
Nhượng nói tiếp, "ông mong bắt chước toạ
Phật hay ông mong học toạ thiền? Nếu toạ
Phật thì Phật không có tư thế cố định - lúc thì
ông ấy đứng, lúc thì ông ấy đi, lúc thì ông ấy
ngủ nữa - Nếu toạ thiền, thì thiền không chỉ có
ngồi hay nằm. Pháp diễn ra mãi và không bao
giờ trụ vào cái gì."

Nó không có hình dạng đặc biệt, nó không có nơi


chốn đặc biệt; nó cứ chuyển vào các dạng khác nhau. Bạn
sẽ không có khả năng tìm ra nó trong bất kì dạng nào,
trong bất kì ai, trong bất kì tư thế nào. Bạn sẽ phải nhìn
vào bên trong. Nó chỉ được tìm thấy trong cái trống rỗng,
bởi vì cái trống rỗng không thể ngồi, không thể đứng,
không thể nằm. Cái trống rỗng chỉ là cái trống rỗng; nó là
trống rỗng vĩnh hằng. Đó là điều duy nhất vĩnh hằng - trái
tim trống rỗng của bạn.

"Pháp diễn ra mãi và không bao giờ trụ vào


cái gì. Do vậy ông phải không gắn bó, không
buông bỏ bất kì pha đặc biệt nào của nó.
Tự ngồi theo Phật là giết Phật."

Chính điều uy nghiêm của Thiền là nói mọi sự một


cách trực tiếp, thẳng thắn. Không tôn giáo nào khác có
dũng cảm đó.
Nam Nhạc Hoài Nhượng đang nói với Mã Tổ, "Tự
ngồi theo phật" - lấy tư thế của Phật - "là giết phật."
Đừng giết nhé...

13
Trước khi chết Phật Gautam nói với đệ tử của mình,
"Đừng làm tượng ta, bởi vì điều đó sẽ gây ấn tượng sai
cho mọi người. Họ sẽ nghĩ rằng nếu họ ngồi theo tư thế
này, họ sẽ thành phật."
Nhưng ai nghe? Ngày nay còn có nhiều tượng Phật
hơn bất kì ai khác. Thực tế, trong các tiếng như A rập, Péc
xic, Urdu - bởi vì người Hồi giáo chống lại tượng - từ về
tượng là 'but'; và `but' chỉ là một dạng của 'buddha' phật.
Trong tiếng Phạn 'budh' là nguyên gốc của buddha phật -
là nhận biết. Từ 'buddh' rất dễ làm ra 'but'.
Điều này đã xảy ra bởi vì người Hồi giáo bắt gặp
nhiều tượng Phật hơn bất kì ai khác. Và họ đã phá huỷ
tượng; bất kì nơi đâu họ tới họ đều phá huỷ tượng. Họ đã
phá huỷ những mảnh nghệ thuật đẹp đẽ. Chống lại tượng
không có nghĩa là bạn phải phá huỷ tượng.
Theo cách này bạn có thể thấy tâm trí vô ý thức
chuyển từ cực đoan này sang cực đoan kia như thế nào.
Phật Gautam nói, "Đừng làm tượng ta, bởi vì mọi người
có thể nghĩ rằng chỉ bởi việc ngồi trong tư thế hoa sen mà
họ có thể trở nên nhận biết. Để nó như thế này - rằng nhận
biết không có hình dạng, họ phải tìm nó bên trong mình.
Họ không thể tìm được nó trong tượng phật. Đừng phân
tán họ bởi tượng bên ngoài - bởi vì tâm trí con người hay
bị phân tán bởi bất kì cái gì, nó trở nên bị gắn bó với bất
kì cái gì..."
Tôi đã nghe nói về một ni cô phật tử có một bức
tượng nhỏ của Phật Gautam, được làm bằng vàng ròng, và
cô ấy thường mang nó khi đi từ tu viện nọ sang tu viện
kia. Nhưng vấn đề của cô ấy là ở chỗ mọi sáng cô ấy sẽ
thờ phật của mình, và cô ấy sẽ thắp hương - nhưng hương

14
lại không thể định hướng được, nó có thể bay sang phật
khác trong chùa. Bây giờ điều này là rất tệ - phật của
riêng cô ấy ngồi đó, còn hương và nhang cô ấy cúng
dường lại bay sang phật nào đó khác.
Thường đã có - và vẫn có - các ngôi chùa với nhiều
phật. Và cô ấy bị gắn bó với phật riêng của mình nhiều tới
mức điều đó trở thành vấn đề. Phật của cô ấy và phật
khác...
Cuối cùng cô ấy tìm ra được một cách để cho hương
bay tới phật của mình - vì cô ấy cúng dường hương của
mình, và các phật khác lại được hưởng. Cô ấy đã làm một
ống tre nhỏ, giống như ống thông, và cô ấy đốt hương của
mình, để cho khói hương theo lỗ ống bay lên mũi của phật
riêng của mình.
Nhưng thế rồi lại nảy sinh vấn đề khác: mũi phật của
cô ấy bị đen lại. Cô ấy rất thất vọng; một phật bằng vàng,
phật vàng ròng, với mũi đen - điều đó không hợp. Ông ta
trông gần như người da đen...!
Cô ấy hỏi các sư già hơn, "Phải làm gì bây giờ đây?
Nếu tôi không để ống tre này ở đó, thì hương... không ai
biết nó đi đâu cả. Nó cứ đi tới mọi loại chư phật; nhưng
tôi đang cúng dường nó cho phật của tôi. Và bây giờ vì
cái ống tre này, mũi và cả mặt lại bị đen. Tôi phải làm
gì?"
Vị sư cô ấy hỏi cười phá lên và nói, "Cô là loại đàn
bà ngu lắm! Cô không hiểu sự kiện đơn giản là tất cả chư
phật đều như nhau, họ là tượng của cùng một người. Cô
đã trở nên gắn bó với phật của cô, mà toàn thể giáo huấn
của Phật là không gắn bó.

15
"Điều đó là hoàn toàn phải; Phật đã chỉ ra cho cô
rằng gắn bó làm cô bẩn. Cho nên nhận biết về điều đó đi!
Tới thợ kim hoàn để ông ta có thể lau sạch và đánh bóng
lại phật của cô. Nhưng từ nay trở đi, nghĩ tới Phật thôi.
Bất kì phật nào, bất kì phật nào nhận hương... có lẽ ông ấy
xứng đáng với việc đó! Và cô nên sung sướng rằng nó đã
tới ai đó, bởi vì tất cả những bức tượng đó đều biểu thị
cho cùng một người."
Phật tử, những người đi theo của phật, đã không
nghe lời nói cuối cùng của ông ấy, "Đừng làm tượng ta.
Để ta biểu thị cho cái vô hình dạng; chỉ hương thơm,
không hoa."
Và đã có cực đoan khác. Mohammed chống lại
tượng, bởi vì nếu bạn tôn thờ tượng... nó là tảng đá, và
việc tôn thờ tảng đá là rào chắn cho việc tôn thờ Thượng
đế. Cho nên mọi rào chắn đều phải bị loại bỏ.
Điều đó hoàn toàn được nếu ai đó sẵn lòng loại bỏ
nó, nhưng người Hồi giáo đã bắt đầu loại bỏ rào chắn của
người khác. Họ quên mất tất cả về Thượng đế. Toàn bộ
lịch sử của họ trở thành việc tiêu huỷ các bức tượng.
Tôn thờ tượng không thể đưa bạn đạt tới phật mà
phá huỷ tượng cũng không thể đưa bạn tới phật được. Bạn
phải đi vào bên trong; bên ngoài không cái gì có thể cho
bạn điều vĩnh hằng, điều tối thượng, chân lí có thể làm
dịu cơn khát của bạn.

"Tự ngồi theo Phật là giết Phật. Bị gắn bó với


tư thế ngồi là không hiểu nguyên lí bản chất."

16
Nguyên lí bản chất không bao giờ là đối thể; nó là
tính chủ thể của bạn. Nguyên lí bản chất không có hình
dạng; nó là cái trống rỗng tuyệt đối. Nguyên lí bản chất là
gương; nó chỉ phản xạ, nó không phán xét thiện hay ác,
tốt hay xấu.
Chi-Hsien viết:

Tôi có tiềm năng;


Nó được thấy trong nháy mắt.
Người không hiểu
không thể được gọi là sư.

Điều đó áp dụng cho bạn đích xác như cách nó áp


dụng được cho các đệ tử của Chi-Hsien. Tôi có tiềm năng;
nó được thấy trong nháy mắt. Nó không phải là hiện
tượng xa xôi gì. Chỉ nhắm mắt lại, và nhìn im lặng, sâu,
và nó có đó. Nó đã ở đó từ vĩnh hằng; chỉ đợi bạn về nhà.
Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Tất cả chúng tôi, mười nghìn chư phật, có phải
đều là pháp khí tiềm năng không?

Maneesha, liên quan tới pháp khí tiềm năng thì


không ai là ngoại lệ cả. Tất cả các bạn đều có tiềm năng
đó - cùng tiềm năng đó, cùng đỉnh cao nhất của tâm thức,
như bất kì phật nào. Nhưng bạn phải đi vào bên trong và
tìm ra kho báu của mình. Bên ngoài bạn là kẻ ăn xin, mọi
người đều là kẻ ăn xin.

17
Alexander Đại đế tới Ấn Độ quãng ba trăm năm sau
khi Phật đã mất. Ông ta muốn gặp thầy nào đó. Tên tuổi
và danh tiếng của Phật đã vang xa sang bờ bên kia - thậm
chí tới cả Hi Lạp và Athens.
Thầy của Alexander là cha đẻ của logic phương Tây,
Aristotle. Aristotle đã bảo ông ấy, "Ông sắp đi chinh phục
thế giới, ông phải tới Ấn Độ. Ta không muốn ông đem cái
gì về làm quà cho ta, chỉ cần gặp một thầy chứng ngộ
thôi. Ta đã nghe nói nhiều rồi, nhưng điều đó dường như
không thể hiểu thấu được. Và hơn nữa, bởi vì ta là nhà
logic, ta không thể chấp nhận được cái gì chừng nào nó
còn chưa hợp lệ về luận lí, có bằng chứng, có biện luận."
Trên đường quay về, Alexander nhớ rằng ông ta
phải tìm ra một thầy. Ông ấy hỏi mọi người và họ nói,
"Điều đó khó lắm. Cho dù ông có thể tìm ra một thầy thì
chúng tôi vẫn cho rằng ông ấy sẽ không thể đồng ý đi
cùng ông sang Hi Lạp đâu."
Alexander nói, "Chớ lo về điều đó. Nếu ta muốn
đem Himalayas sang Hi Lạp thì ta vẫn có thể làm được
điều đó mà!"
Chung cuộc ông ta cũng tìm thấy một thầy. Nhiều
người đã nói, "Vâng, ông ấy là người đã chứng ngộ. Ông
ấy sống trần trụi bên sông."
Alexander đi tới người đó, và với lưỡi kiếm tuốt trần
ông ta nói, "Ta muốn ông đi cùng ta! Ông sẽ được nghênh
tiếp theo nghi thức hoàng gia; mọi tiện nghi đều có sẵn
cho ông. Ông sẽ là vị khách hoàng gia, cho nên đừng lo
nghĩ về điều gì. Nhưng ta muốn ông tới Hi Lạp, bởi vì
thầy ta muốn gặp một người chứng ngộ."

18
Ông già cười to. Ông ấy nói, "Ngay chỗ đầu tiên, cất
lưỡi kiếm của ông vào bao đi - đây không phải là cách tới
gặp thầy. Và xuống ngựa đi!"
Alexander chưa bao giờ nghe thấy những lời đầy
thẩm quyền đến thế - mà lại từ một người trần trụi, không
có gì cả.
Còn người này nói, "Nhớ rằng ông có thể chinh
phục được cả thế giới, nhưng ông vẫn là kẻ ăn xin. Bây
giờ ông đang cầu xin ta đi cùng ông. Nhưng khi có liên
quan tới ta, ta đã đi tới điểm không còn chuyển động nữa.
Ta không đi đâu cả, ta chưa bao giờ đi đâu cả. Ta bao giờ
cũng ở đây và bây giờ. Thời gian đã dừng lại, tâm trí đã
dừng lại..."
Alexander giận lắm. Ông ta nói, "Ta sẽ chặt đầu ông
nếu ông không đi cùng ta!"
Người này nói, "Đó là một ý hay đấy. Ông có thể lấy
đầu, nhưng ta vẫn không tới. Và nhớ: khi ông chặt đầu ta,
ông sẽ quan sát cái đầu rơi xuống đất và ta cũng quan sát.
Quan sát là bí mật của chúng ta, về nói với thầy ông thế -
và lấy đầu ta đi."
Bây giờ rất khó mà lấy đầu của người như vậy,
người không sợ chút nào. Alexander nói, "Ta phải đi mà
không có thầy."
Ông già nói, "Nói với thầy của ông rằng chứng ngộ
không phải là cái gì đó mà ông có thể đem đi từ bên
ngoài. Ông không thể xuất khẩu được nó - ông phải thám
hiểm nó bên trong bản thân mình. Vứt bỏ mọi logic, mọi
cái hợp lí, mọi tâm trí, và đi vào bên trong sâu nhất có thể
được. Tại chính tận cùng của việc tìm kiếm của ông, ông
sẽ tìm thấy phật.

19
"Việc tới của ta sẽ không hữu dụng gì. Ta sẽ không
từ chối, bởi vì không có gì khác biệt với ta về nơi ta ở -
nhưng thấy ta, ông có thấy chứng ngộ nào không? Mà cả
thầy ông cũng không thể thấy được chứng ngộ nào. Để
thấy chứng ngộ, ông cần một chút ít kinh nghiệm về
chứng ngộ, ít nhất cũng mang tính thiền nào đó. Và ta cho
rằng thiền vẫn còn chưa đi vào tâm thức mọi người ở
phương Tây."
Thật kì lạ, ngay cả ngày nay - hai nghìn ba trăm năm
kể từ thời Alexander mà cũng không có ích gì - thiền vẫn
là một khái niệm phương Đông. Vẫn chỉ ở phương Đông
mọi người mới trở nên khao khát truy tìm bên trong.
Nỗ lực của tôi là để lan toả ngọn lửa này trên khắp
thế giới, để phá huỷ đi sự phân biệt giữa Đông và Tây.
Nhưng mọi cản trở vẫn đang được tạo ra. Tất cả các bạn
đều phải đem ngọn lửa thiền về nước mình. Chỉ những bắt
đầu nhỏ, và không mấy chốc nó có thể trở thành đám cháy
mãnh liệt.
Ngoại trừ thiền không có cách nào để biết tới bản
thân mình - trong sự thuần khiết của bạn, trong sự hồn
nhiên hoàn toàn của bạn, giống như gương. Nhưng tất cả
các bạn đều là pháp khí, khí cụ của nguyên lí cơ bản. Bạn
có thể nhận ra nó, bạn có thể không nhận ra nó. Bạn đang
mang nó, bạn đang thai nghén nó - bạn có sinh nó ra
không, đấy lại là vấn đề khác. Chỉ một chút ít thảnh thơi,
chỉ chút ít nhìn vào trong, và cánh cửa của những tiềm
năng mênh mông mở ra. Bạn không còn là ăn xin nữa.
Không chinh phục thế giới này các bạn đã chinh phục
toàn thể vũ trụ. Chỉ chinh phục bản thân bạn.

20
Mùa mưa đã tới để nghe tiếng cười của bạn. (Một
tiếng cười to và quen thuộc cất lên từ hàng ghế sau của
thính phòng.) Và Sardar Gurudayal Singh đã bắt đầu nó
rồi.

Ba đứa trẻ sannyasin gặp nhau trong đạo tràng và


bắt đầu nói chuyện với nhau.
"Chúng mày biết không," đứa trẻ Đức nói, "ông cậu
tao là linh mục, và tất cả mọi người đều gọi cậu ấy là 'cha
thiêng liêng.'"
"Chưa là gì nhé," đứa trẻ Nhật Bản nói. "Ông tao là
Thiền sư, ngay cả vua cũng phải chạm chân ông ấy."
"Chưa là gì nhé, tụi mày," đứa trẻ Mĩ nói. "Mẹ tao
nặng một trăm năm mươi cân, và khi mẹ tao bước đi trên
phố, mọi người đều nhìn bà ấy và nói, 'Lạy chúa tôi!'"

Cha Finger có chút ít rắc rối với cô gái tóc vàng


mười sáu tuổi và cảnh sát. Ông ấy lập tức tới gặp luật sư
của mình, Boris Babblebrain. "Nếu ông thắng được vụ
kiện này cho tôi," Finger nói, "Tôi sẽ cho ông một nghìn
đô la."
"Được rồi," Babblebrain đồng ý, "kiếm vài nhân
chứng đi."
Cha Finger tìm quanh khu giáo dân của mình và
xoay xở tìm được hai gã già và một bà ăn cắp làm nhân
chứng cho mình. Họ kể đúng câu chuyện, và ông ấy thắng
kiện.

21
"Tôi đã cãi thắng cho vụ kiện của ông rồi đấy,"
Babblebrain nói. "Bây giờ, một nghìn đô la của tôi đâu?"
"Được rồi," Cha Finger đáp, "kiếm vài nhân chứng
đi!"

Tại bữa tiệc tiếp tân sang trọng ở Hollywood, Sheik


Ali Baba, nhà triệu phú dầu hoả thần thoại, gặp Brenda
Babblebrain và yêu cô ấy.
Sheik Ali Baba tới gần chồng cô ta, Boris, luật sư,
và dẫn ông này vào góc phòng yên tĩnh.
"Tôi phải ngủ với vợ ông," Ali Baba nói, "và đổi lại,
tôi sẽ trả cho ông lượng vàng bằng trọng lượng cô ấy."
Boris dùng dằng, và thế rồi anh ta cứ khăng khăng anh ta
cần vài ngày nữa. "Để nghĩ về việc mặc cả này sao?" Ali
Baba hỏi một cách lo âu.
"Không, không!" Boris kêu lên, "để làm cô ấy béo
lên đã!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng.
Để thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.

22
Nhắm mắt lại, và nhìn vào trong với sự khẩn thiết và
toàn bộ nhiều nhất. Đi ngày một sâu hơn... bạn đang đi
vào không gian chúng ta gọi là phật.
Buổi tối đẹp này có thể trở thành thay đổi triệt để
lớn lao trong cuộc sống của bạn, nếu bạn đủ dũng cảm để
đi tiếp, giống như mũi tên, đi vào chính trung tâm bản thể
bạn. Bạn chỉ là nhân chứng, gương rỗng.
Để làm cho điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi đi. Quan sát - thân thể không phải là bạn,
tâm trí không phải là bạn. Chỉ việc quan sát, chỉ việc
chứng kiến mới là bạn. Việc chứng kiến này là vĩnh hằng
của bạn.
Với việc chứng kiến này mọi cực lạc tới, mọi phúc
lành tới, điều mà sự tồn tại có thể dâng cho bạn.
Bạn càng ở sâu hơn, bạn càng mang tính quan sát
nhiều hơn - càng im lặng hơn, càng an bình hơn. Đó là
biến cố lớn lao. Mọi tối bạn đi sâu thêm một chút vào
phật tính của mình.
Nhìn quanh không gian trống rỗng này bên trong
bạn; bạn phải nhớ nó, hai mươi bốn giờ, khi bạn quay lại
từ cuộc hành trình bên trong.
Nivedano...
(tiếng trống)

23
Quay lại, nhưng quay lại như chư phật - an bình, im
lặng, với cái đẹp.
Ngồi xuống vài khoảnh khắc như gương; nhớ lại thế
giới bên trong của mình, thu lấy kinh nghiệm này để cho
nó có thể trở thành dòng chảy ngầm trong cuộc sống
thường ngày của bạn.
Tôi không muốn bất kì ai trốn chạy khỏi cuộc sống;
tôi muốn mọi người đều làm cho cuộc sống phong phú
hơn; phúc lạc hơn, cực lạc hơn. Tôi hoàn toàn ủng hộ
cuộc sống, bởi vì với tôi cuộc sống là Thượng đế duy
nhất. Phật là cái tên khác cho cuộc sống.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

24
2. Gieo mầm

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Sau khi nghe lời khai thị đầu tiên của thầy,
Nam Nhạc Hoài Nhượng, về nghĩa của pháp,
Mã Tổ cảm thấy như mình vừa uống nước cam
lồ tuyệt diệu. Sụp lạy thầy, Mã Tổ hỏi, "Phải
làm sao để hợp với vô tướng tam muội?"
Thầy nói, "Khi ông chuyên tâm theo con đường
của trí huệ bên trong, điều đó cũng giống như
gieo hạt vậy. Khi ta dẫn giải cho ông tinh tuý
của pháp, điều đó giống như mưa rào từ trên
trời. Nếu ông cảm nhận giáo huấn này, ông
được định mệnh thấy đạo."
Mã Tổ lại hỏi: "Vì Đạo không sắc tướng, làm
sao thấy được?"
Thầy nói: "Pháp nhãn của tâm linh bên trong
ông có khả năng cảm nhận đạo. Vô tướng tam
muội cũng như vậy."
"Có việc làm và không làm không?" Mã Tổ
hỏi.

25
Với điều này, thầy đáp, "Nếu người ta thấy đạo
theo quan điểm làm và không làm, hay tụ và
tán, thì người ta không thực sự thấy đạo đâu.
nghe kệ của ta đây:
"Mảnh đất của vô trí
chứa nhiều hạt mầm
tất cả đều mọc lên
khi trời mưa xuống.
Hoa tam muội
ngoài sắc và tướng.
Làm sao có thể có
biến đổi nào nữa?"
Tương truyền rằng lúc đó, Mã Tổ được khai
ngộ, tâm trí siêu việt trên thế giới hiện tượng.
Ông ấy theo hầu thầy suốt mười năm. Trong
thời kì này, ông ấy ngày càng tiến sâu vào
thiền.

Maneesha, một thầy vĩ đại với thẩm quyền riêng của


mình, Nam Nhạc Hoài Nhượng, đang làm việc trên một
thầy vĩ đại, Mã Tổ, người ngay bây giờ chỉ là hạt mầm,
nhưng chứa phật vĩ đại.
Các bạn cũng là hạt mầm. Điều đó là tuỳ ở bạn nếu
bạn vẫn còn đóng. Thế thì bạn sẽ không bao giờ biết được
bản tính tối thượng của mình là phật. Một chút ít dũng
cảm, một chút ít cởi mở, một chút ít chết đi lớp vỏ bọc
của hạt mầm và phật bắt đầu đâm chồi ra trong bạn.
Bạn không thể trách khí hậu được. Mưa có đó. Mây
thậm chí đã vào trong thính phòng này, chúng trôi qua

26
ngay trước mắt tôi. Mây mới gần thế... nhưng điều kì lạ là
ở chỗ mây càng gần, thì hạt mầm càng trở nên sợ hãi hơn.
Sợ cái không biết, sợ... người ta không bao giờ biết cái gì
sắp xảy ra bên ngoài. Ẩn kín bên trong lớp vỏ, hạt mầm
cảm thấy an toàn hơn, an ninh hơn.
Trên con đường của Thiền bạn phải học những từ
quan trọng này: cởi mở, vui mừng trong bất an ninh -
thách thức từ cái không biết bao giờ cũng được đón chào.
Đó là cách thức trưởng thành. Phần lớn mọi người trong
thế giới này, người mà Wilhelm Reich đã gọi là "con
người nhỏ bé," đều chết đi như con người nhỏ bé, mặc
dầu định mệnh của họ không phải là con người nhỏ bé.
Wilhelm Reich hoàn toàn phải đối với quần chúng, đám
đông, để gọi cuốn sách của mình là Lắng nghe, hỡi con
người bé nhỏ - Listen, Little Man. Nhưng ông ấy tuyệt đối
sai bởi vì ông ấy đã không thể thấy được rằng ẩn bên
trong con người bé nhỏ đó là phật vĩ đại nhất.
Ông ấy đơn giản kết án con người bé nhỏ bởi vì tất
cả mọi con người bé nhỏ đều kết án ông ấy. Ông ấy là
một thiên tài; không phải là phật nhưng là một người
khổng lồ về trí tuệ, và ông ấy đã bị đám đông kết án. Cuối
cùng ông ấy bị buộc sống trong các bức tường của nhà
thương điên. Và ông ấy đã nói những điều nhạy cảm vô
cùng. Ông ấy đã đem ra một lãnh thổ mới để được khám
phá.
Nhưng tất cả những người sợ sệt đó, sợ cái không
biết, sợ mất an ninh và an toàn của số dư ngân hàng, đã
buộc ông ấy vào nhà thương điên. Và ông ấy không điên.
Trong những ngày ở nhà thương điên, ông ấy đã viết
những cuốn sách hay nhất của mình. Chúng là bằng
chứng rằng ông ấy không điên. Nhưng các chính khách và

27
đám đông và chính phủ tất cả đều thông đồng để buộc ông
ấy sống trong nhà thương điên. Họ tất cả đều cười vào
những khám phá vô cùng có giá trị của ông ấy về năng
lượng con người. Một cách tự nhiên ông ấy giận là phải.
Cho nên khi ông ấy viết cuốn sách Lắng nghe, hỡi
con người bé nhỏ - Listen, Little Man, điều đó không phải
bắt nguồn từ từ bi, nó là từ phản ứng. Họ đã làm hại ông
ấy, và ông ấy ít nhất cũng có khả năng lên án họ. Cuốn
sách của ông ấy là hay trong việc mô tả con người bé nhỏ.
Nhưng phần bản chất của con người bé nhỏ là hạt mầm,
tiềm năng của người đó, điều Reich hoàn toàn quên mất
trong cơn giận của mình.
Bằng không thì ông ấy đã rất gần trở nên chứng ngộ.
Nhưng trong cơn giận của mình, phản ứng của mình, ông
ấy đã không thể nào thấy được vấn đề là mọi người nhất
định sẽ lên án ông ấy - việc là thiên tài của ông ấy đã đủ
là lí do cho việc kết án ông ấy. Họ nhất định phải đóng
đinh ông ấy và điều đó phải được hiểu như quá trình tự
nhiên của mọi sự. Nhưng ông ấy đã không thể hiểu nổi
rằng chính cái gì đó phải xảy ra cho mọi thiên tài, người
mở ra cánh cửa của bất an ninh.
Và bởi vì đám mây giận dữ lớn lao này, ông ấy đã
hoàn toàn mù quáng, không có khả năng thấy rằng con
người bé nhỏ là phật, ẩn sâu bên dưới như hạt mầm.
Nam Nhạc Hoài Nhượng đang khai thị Mã Tổ.

Sau khi nghe lời khai thị đầu tiên của thầy,
Nam Nhạc Hoài Nhượng, về nghĩa của pháp,
Mã Tổ cảm thấy như mình vừa uống nước cam

28
lồ tuyệt vời. Sụp lạy thầy, Mã Tổ hỏi, "Phải
làm sao để hợp với vô tướng tam muội?"

Điều đầu tiên cần hiểu là nghĩa của pháp - dharma.


Không may tiếng Phạn từ 'dharma' - hay tiếng Pali từ mà
Phật hay dùng, 'dhamma' - đã bị các nhà thông thiên dịch
sai là 'tôn giáo', và theo các học giả nó đã được dịch thành
'pháp (luật)', luật tối thượng. Cả hai đều bỏ lỡ vấn đề.
Pháp - dharma không phải là tôn giáo. Thực tế nếu
bạn đi tới gốc rễ của từ này, thì tôn giáo nghĩa là cái ràng
buộc bạn lại, còn pháp nghĩa là cái giải phóng bạn ra.
Chúng tuyệt đối mâu thuẫn với nhau. Pháp đơn giản nghĩa
là bản tính cố hữu của bạn. Nó không được viết trong
kinh sách và không ai có thể nói cho bạn pháp của bạn là
gì. Bạn phải tự tìm nó. Đây là phẩm hạnh lớn lao, được sự
tồn tại ban cho từng cá nhân, rằng bạn không phải sống
theo tri thức vay mượn. Nguồn sống của cuộc sống chỉ
tuôn chảy ngay cạnh đó thôi. Sao không uống nó và được
giải khát đi?
Mã Tổ nói, sau khi hiểu nghĩa của pháp, rằng ông ấy
cảm thấy như mình vừa uống nước cam lồ tuyệt diệu. Bạn
càng đi sâu vào trong thiền của mình, thì bạn càng tới gần
dòng suối vĩnh hằng của cội nguồn cuộc sống của bạn. Nó
là nước cam lồ thuần khiết, bởi vì nó tuyên bố về cái bất
tử của bạn, nó tuyên bố cái vĩnh hằng của bạn. Nó tuyên
bố rằng cái chết là hư cấu; điều đó chưa bao giờ xảy ra và
sẽ không bao giờ xảy ra cho bất kì ai. Người ta chỉ đổi
nhà; người ta lấy một dạng khác hay có thể đi vào sự tồn
tại vô hình dạng.

29
Phát biểu của Mã Tổ rằng ông ấy cảm thấy như mình
vừa uống nước cam lồ tuyệt diệu chỉ ra hiểu biết vô cùng
của ông ấy. Ông ấy là người rất mới trong thiền, ông ấy
còn trẻ thế. Nhưng tuổi tác không liên quan gì tới việc
nhận ra của bạn. Không phải là khi bạn già đi thì bạn mới
có khả năng trở thành phật dễ dàng. Ngược lại, bạn càng
già đi càng trở thành khó khăn hơn cho bạn để vứt bỏ đi
thói quen, quan niệm, ý thức hệ cả đời của bạn.
Mới hai năm trước đây Giáo hoàng Polack đã ở Ấn
Độ và ông ta đã rất ngạc nhiên khi thấy rằng chính những
người nghèo và mồ côi đã được cải đạo thành Ki tô giáo
đang làm cùng điều họ đã từng làm trước đây trong nhà
thờ: thắp hương, đem hoa tới cho Jesus Christ. Ông ấy
không thể nào tin nổi điều các linh mục này đang làm, bởi
vì những người này đã làm đích xác điều họ quen làm
trong đền chùa của họ. Thay vì Krishna, bây giờ Christ có
đó, mọi thứ khác vẫn thế.
Nhưng các các linh mục bảo ông ấy rằng họ phải suy
xét, thoả hiệp. Những người này không thể hiểu nổi tôn
giáo mà không có hương, không có hoa. Và giáo hoàng
nhân nhượng rằng với người Ki tô giáo Ấn Độ thì thế là
được.
Khi bạn già đi, sự việc trở nên rất khó để thay đổi ý
thức hệ của bạn, niềm tin cả đời của bạn. Điều đó trở nên
ngày một khó hơn. Người già trở nên cứng rắn, và theo
cùng cách đó mọi thứ quanh người đó cũng trở nên cứng
rắn. Tình huống tốt nhất để trưởng thành trong tiềm năng
của bạn là thời niên thiếu. Tiếp đó là thời thanh niên của
bạn. Với phần lớn mọi người có lẽ thời niên thiếu sẽ bị bố
mẹ, tu sĩ làm hỏng mất.

30
Tôn giáo đích thực phải phụ thuộc vào tuổi trẻ, bởi
vì tuổi trẻ có bản chất nổi dậy nào đó của nó. Thanh niên
có thể nổi dậy chống lại toàn bộ quá khứ mà không mặc
cảm gì. Anh ta có thể chùi sạch trái tim mình mọi kinh
sách và tượng cũ, và thách thức cái không biết khuấy
động trái tim mình. Anh ta muốn chấp nhận thách thức
lớn lao, và đây là thách thức lớn lao nhất trong cuộc sống
- cho phép hạt mầm của bạn mở ra hướng tới những bầu
trời không biết, tới những làn gió, mặt trời, cơn mưa;
người ta không bao giờ biết cái gì sẽ xảy ra cả.
Không có ai để hướng dẫn hạt mầm, không có kinh
sách cho hạt mầm đọc. Hạt mầm đang nhận lấy rủi ro
bằng việc bước ra, và bạn nên hiểu rằng rủi ro không phải
là nhỏ đâu. Rủi ro này đích xác là cái chết đấy. Hạt mầm
phải chết đi trong đất; chỉ thế thì chồi của tiềm năng của
hạt mầm mới bắt đầu mọc lên. Có lẽ nó sẽ trở thành hoa
hồng, hay hoa sen, hay loại hoa nào đó. Điều đó không
thành vấn đề. Điều thành vấn đề là việc nở hoa, không
phải là cái tên hoa. Hoa dại cũng đẹp như hoa hồng quí
giá. Theo một cách nào đó chúng là anh em, rằng chúng
cả hai đã đi tới việc nở hoa của mình. Chúng cả hai đều
tận hưởng niềm vui của sự trưởng thành, chúng cả hai đều
đã thấy bằng con mắt riêng của mình điều được ẩn kín
trong hạt mầm của chúng. Chúng cả hai đã nhận lấy cùng
rủi ro và cùng thách thức.
Trong thực tế đó là cái chết và sự phục sinh. Hạt
mầm chết đi và phục sinh thành nhiều bông hoa, thành
nhiều quả, thành nhiều hạt mầm. Người ta nói rằng chỉ
một hạt mầm cũng có thể làm cho cả trái đất thành xanh
tươi. Chỉ một cây thôi thì không phải là tiềm năng của nó.

31
Trên một cây đó hàng nghìn hạt mầm sẽ lại tới, mỗi hạt
mầm lại mang hàng nghìn hạt mầm.
Chỉ một hạt mầm có thể lấp đầy cả trái đất với mầu
lục tuyệt đối. Khả năng mênh mông thế trong một hạt
mầm nhỏ bé! Và bạn là hạt mầm sống, có ý thức. Điều
quí giá nhất trong sự tồn tại là ở bên trong bạn: tâm thức.
Hạt mầm đang dò dẫm trong bóng tối, vẫn đang tìm
đường. Còn bạn là ý thức, bạn có chút ít ánh sáng, nhưng
nếu bạn không đi từ vị trí của mình, bạn vẫn còn là con
người bé nhỏ. Trong thực tế bạn ghét tất cả những người
đã sang bờ bên kia bởi vì chính việc sang của họ lên án
bạn, rằng bạn đã thất bại không hoàn thành được định
mệnh riêng của bạn.

Sụp lạy thầy, Mã Tổ hỏi, "Phải làm sao để hợp


với vô tướng tam muội?"

Thầy phải đã nói với ông ấy rằng chừng nào ông ấy


còn chưa trở nên hoà hợp với sự tồn tại trong im lặng
hoàn toàn, ông ấy không thể nào biết được pháp, chính
nguyên lí của cuộc sống và sự tồn tại. Câu hỏi của Mã Tổ
là câu hỏi của người tìm kiếm chân thực. Ông ấy yêu mến
điều thầy nói, ông ấy cảm thấy nó dường như là nước cam
lồ tuyệt diệu - nhưng ông ấy sẽ không tin vào nó. Vẫn còn
có những điều cần được giải quyết. Câu hỏi của ông ấy
không phải là câu hỏi của học sinh, nó là câu hỏi của
người sẽ trở thành thầy.

"Phải làm sao để hợp với vô tướng tam muội?"

32
Ông ấy đã cắt bỏ đi mọi câu hỏi không cần thiết và
đi tới đích xác điều đúng, làm sao người ta phải hài hoà
với vô tướng tam muội.
Tam muội - samadhi là từ tiếng Phạn, rất hay trong
nghĩa của nó. Nó bắt nguồn từ một gốc nghĩa là, nơi
không có câu hỏi và không có câu trả lời, khi im lặng của
bạn sâu lắng tới mức bạn thậm chí không có câu hỏi nữa;
câu trả lời bị bỏ nơi xa xăm nhưng bạn thậm chí không có
cả câu hỏi. Hồn nhiên như thế, chỉ là im lặng, được gọi là
tam muội samadhi. Và trong tam muội này bạn có thể rơi
vào hoà hợp với nhịp đập của vũ trụ. Chỉ trong tam muội
bạn có thể trở thành một với cái toàn thể. Không có cách
khác.
Mọi ngày điều chúng ta đang làm nhân danh thiền là
đi tới tam muội. Thiền là chỗ bắt đầu và tam muội là chỗ
kết thúc. Câu hỏi của Mã Tổ là câu hỏi của phật tiềm
năng. Ông ấy không hỏi về điều không tinh tuý, chỉ hỏi
những điều tinh tuý.

Thầy nói, "Khi ông chuyên tâm theo con đường


của trí huệ bên trong, điều đó cũng giống như
gieo hạt vậy. Khi ta dẫn giải cho ông tinh tuý
của pháp, điều đó giống như mưa rào từ trên
trời. Nếu ông cảm nhận giáo huấn này, ông
được định mệnh thấy đạo."

Đạo trong tiếng Trung Quốc để chỉ điều chúng ta gọi


là tam muội; người Nhật gọi nó là satori, người Trung
Quốc gọi nó là đạo. Đạo có lẽ là từ tốt nhất trong tất cả
các cách diễn đạt này, bởi vì nó không phải là một phần
của ngôn ngữ. Nó đơn giản chỉ ra cái gì đó không thể diễn

33
đạt được, cái gì đó bạn có thể biết nhưng không thể nói
được, cái gì đó bạn có thể sống nhưng không thể diễn tả
được. Nó là cái gì đó bạn có thể nhảy múa, bạn có thể ca
hát, nhưng bạn không thể thốt ra lời về nó được. Bạn có
thể là nó; bạn có thể là cách diễn đạt của Đạo, nhưng bạn
không thể nói cái bạn đang diễn đạt.

Mã Tổ lại hỏi: "Vì Đạo không sắc tướng, làm


sao thấy được?"

Bạn phải hiểu đối thoại này rất sâu sắc, bởi vì nó sẽ
cho bạn chiều hướng đúng về điều phải được hỏi. Có
hàng nghìn thứ để hỏi, nhưng điều tinh tuý lại rất ít và
chừng nào mà bạn còn chưa bắt đầu bằng việc hỏi điều
tinh tuý, bạn sẽ không đi tới gần chân lí.
Khi Nam Nhạc Hoài Nhượng nhắc tới Đạo, Mã Tổ
lập tức hỏi: "Vì Đạo không sắc tướng, làm sao thấy được?
- thầy vừa nói rằng nếu tôi đi vào tam muội, tôi sẽ thấy
Đạo mà."
Thầy nói: "Pháp nhãn của tâm linh bên trong của
con có khả năng cảm nhận đạo. Vô tướng tam muội cũng
như vậy."
Chính bởi lí do này mà phương Đông đã phát triển
khái niệm về con mắt thứ ba. Hai con mắt này chỉ có thể
thấy hình tướng, mầu sắc, nhưng chúng không thể thấy
cái vô hình và vô sắc. Đối với cái vô hình và vô sắc chúng
là mù. Trong tam muội bạn nhắm những con mắt này lại
và một cảm nhận mới, mà có thể gọi một cách biểu tượng
là 'con mắt thứ ba', nảy sinh trong bạn; nhạy cảm mới có

34
thể cảm và thấy điều vốn là không thể thấy được đối với
các giác quan bên ngoài của bạn.
Pháp nhãn, chính là con mắt thứ ba của tâm linh bên
trong của bạn, có khả năng cảm nhận Đạo. Khi tôi nói với
bạn trong thiền, "đi sâu hơn, nhìn sâu hơn," là tôi đang cố
gắng theo mọi cách để cho con mắt thứ ba của bạn, vẫn
còn đang ngủ, được mở ra. Mã Tổ vẫn hỏi, "Có việc làm
và không làm không?"
Chúng ta có thể làm cái gì đó bên trong không?
Chúng ta có thể làm ra phật bên trong không? Vẫn có
sáng tạo nào đó bên trong chứ? Đó là câu hỏi rất sâu sắc.

Với điều này, thầy đáp, "Nếu người ta thấy đạo


theo quan điểm làm và không làm, hay tụ và
tán, thì người ta không thực sự thấy đạo đâu.
nghe kệ của ta đây"

Ông ấy nói rằng khi có liên quan tới thế giới bên
trong của bạn thì phật đã có đó rồi; bạn không phải làm ra
điều đó. Mọi thứ đều như nó đáng phải vậy trong thế giới
bên trong của bạn.
Tôi nhớ tới một nhà khoa học Nga, Kirlian, người đã
mang một cách nhìn mới cho nhà khoa học khách quan;
hệ luỵ của điều này lớn lắm. Ông ấy là nhà nhiếp ảnh lớn
và ông ấy đã hoàn thiện và làm tinh vi cho ống kính của
mình. Toàn thể ý tưởng của ông ấy là ở chỗ nếu cái gì đó
bị ẩn dấu trong hạt mầm như một tiềm năng, thế thì có lẽ
có thể chụp được ảnh của tiềm năng đó bằng ống kính tốt
hơn.

35
Đó đã là một ý tưởng kì lạ, nhưng các nhà khoa học
và nhà huyền môn và các triết gia và các nhà thơ tất cả
đều có chút ít kì quái. Mọi người đều cố thuyết phục ông
ấy: "Đừng làm điều vô nghĩa thế, làm sao ông có thể thấy
được hoa hồng trong hạt mầm?"
Ông ấy nói, "Nếu nó sẽ hiện hữu, thế thì nó phải
hiện diện bằng cách nào đó - có lẽ mắt chúng ta không có
khả năng thấy được nó." Và cuối cùng ông ấy đã thành
công. Ông ấy xoay xở tạo ra ống kính có thể chụp ảnh của
điều sẽ xảy ra trong tương lai. Ông ấy sẽ đặt hạt mầm
trước máy ảnh của mình và tấm ảnh sẽ là của bông hoa
hồng.
Và thế rồi ông ấy sẽ đợi cho hạt mầm này chết đi
trong đất - và đó là một trong những phép mầu của thiên
tài hiện đại, là khi hoa hồng thực xuất hiện, nó đích xác
hệt như trong chiếc ảnh. Ông ấy đã bắt được tương lai vào
trong cái lưới của mình.
Ông ấy đã trở nên bị thuyết phục rằng nếu điều đó
mà đúng cho hạt mầm thì người ta có thể dùng điều đó
trong nhiều việc. Chẳng hạn, kĩ thuật chụp ảnh của
Kirlian bây giờ đã trở thành điều tuyệt đối phải có ở trong
các bệnh viện Nga. Mọi người tới chỉ để được kiểm tra,
để xem liệu có khả năng bị bệnh tật nào trong tương lai
hay không.
Ống kính của ông ấy thậm chí đã trở thành ngày một
tinh tế hơn sau khi ông ấy chết; cả một trường phái các
nhà nhiếp ảnh kiểu Kirlian đã làm việc theo điều đó. Họ
có thể thấy được ít nhất từ sáu tháng trước. Nếu bạn sắp
bị ốm trong khoảng thời gian sáu tháng, thì tấm ảnh sẽ chỉ
ra điều đó - rằng sau sáu tháng bạn sẽ bị ung thư. Không

36
có cách khác để tìm ra điều đó, nhưng điều đó có thể được
trị liệu mặc dầu nó còn chưa trở nên biểu lộ. Đó là phúc
lành vô cùng cho y học. Chúng ta có thể chữa cho mọi
người trước khi họ bị ốm.
Điều chúng ta thấy bằng mắt của mình không phải là
tất cả. Ngay cả trong thế giới bên ngoài thì mắt chúng ta
cũng có giới hạn. Kĩ thuật chụp ảnh của Kirlian đã vượt
hơn mắt chúng ta khi nhìn vào thế giới đối thể. Theo cùng
cách đó con mắt thứ ba mở vào thế giới bên trong và đem
bạn tới toàn thể tiềm năng của bạn trong sự tràn đầy của
nó. Bạn không phải làm gì, bạn chỉ phải nhận ra nó. Phật
không được làm ra, phật chỉ được nhớ tới.
Nam Nhạc Hoài Nhượng nói, "Nghe kệ của ta đây."
Đó là cách thức cổ đại; 'kệ' nghĩa là thơ ca. "Điều ta có thể
nói được bằng văn xuôi thì ta đã nói rồi. Bây giờ nghe thơ
của ta. Cái gì đó mà ta đã không thể nào nói được trong
văn xuôi lại có thể được nói trong thơ đấy.

"Mảnh đất của vô trí


chứa nhiều hạt mầm
tất cả đều mọc lên
khi trời mưa xuống.

Chúng đã tới và bây giờ điều đó là tuỳ ở bạn đón


nhận lấy thách thức.

Hoa tam muội


ngoài sắc và tướng.
Làm sao có thể có
biến đổi nào nữa?"

37
Tương truyền rằng lúc đó, Mã Tổ được khai
ngộ, tâm trí siêu việt trên thế giới hiện tượng.
Ông ấy theo hầu thầy suốt mười năm. Trong
thời kì này, ông ấy ngày càng tiến sâu vào
thiền.

Kanzan đã viết:

Trong nhà tôi có một cái hang,


và trong hang không có gì cả -
thuần khiết và trống rỗng diệu kì,
chói lọi, với ánh sáng
như mặt trời.
Bữa ăn chay sẽ có tác dụng
cho thân thể già này,
tấm áo khoác tả tơi sẽ che phủ
hình dạng ma quái này.
Cứ để cả nghìn thánh xuất hiện
trước tôi - tôi có
phật của chân lí siêu phàm!

Một khi bạn đã nhìn vào cái hang bên trong của
mình và đã tìm ra ánh sáng, cuộc sống, chính ngọn nguồn
của bản thể bạn, thế thì cái gọi là các thánh nhân không có
nghĩa gì cả. Họ chỉ là các nhà đạo đức, tuân theo một hệ
thống đạo đức nào đó, những niềm tin, nhưng họ không
có chân lí. Nếu bạn có chân lí thế thì ngay cả nghìn thánh
nhân cũng không thể nặng hơn phật của bạn. Phật của bạn
là điều tối thượng và nó không được vay mượn. Bạn đã
khám phá ra nó.

38
Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Tôi yêu mến cách diễn đạt, "Bước một bước tới
Allah và ông ấy sẽ chạy nghìn bước tới bạn."
Điều đó dường như gợi ý rằng sự cảm thụ
không phải hoàn toàn thụ động chờ đợi mà yêu
cầu sự tham gia nào đó.
Ngay cả để nhận một bông hoa, người ta không
phải giữ nó trong tay sao? Hay tôi trên đường
sai rồi?

Đúng đấy, Maneesha, bạn trên con đường sai rồi.


Câu ngạn ngữ đó có nguồn gốc từ Hồi giáo, "Bước một
bước tới Allah và ngài sẽ chạy nghìn bước tới bạn."
Nhưng trong thế giới của Thiền thì không có Allah,
và khi có liên quan tới bên trong của bạn, chỉ bước một
bước thôi và bạn là Allah. Không ai chạy tới cả. Ngược
lại, bạn đi tới chỗ dừng lại. Chỉ một bước, bên trong - câu
ngạn ngữ đó của người Hồi giáo vẫn là về Thượng đế bên
ngoài - bạn bước một bước và Thượng đế sẽ chạy về phía
bạn. Nhưng loại Thượng đế đó không tồn tại, cho nên
đừng phí bước đi của bạn một cách không cần thiết! Tiết
kiệm nó đi, bạn sẽ cần nó để đi vào trong. Và khoảnh
khắc bạn đi một bước vào trong, bạn là Allah. Trong thế
giới của Thiền loại phát biểu đó không áp dụng được chút
nào.

39
Bây giờ mây đã tới, thực sự với khẩn trương vô
cùng! Năm nay Pune sẽ bị lụt mà không cần
Shankaracharya phải tự tử. Chỉ tiếng cười của mười nghìn
chư phật là đủ để gọi tất cả mây của thế giới. Chúng
không cần hộ chiếu nào, visa nào. Chúng không phải đi
qua bất kì hải quan nào. Chúng là chư phật tự do di
chuyển trong bầu trời, và khi chúng thấy mười nghìn chư
phật tụ tập, thì tự nhiên chúng chạy tới - đặc biệt vào lúc
tôi sẽ kể cho bạn chuyện cười.
Sardar Gurudayal Singh đâu rồi? Cười to lên. Cuốn
sách này định dành cho Sardar Gurudayal Singh, người
duy nhất trong lịch sử cười trước khi chuyện cười được
kể. Tin cậy đến thế! Bạn nên học tin cậy từ Sardar
Gurudayal Singh.

Maggie MacTavish chết và bỏ lại Hamish già thành


người goá vợ. Điều ấy làm nhẹ nhõm cho ông ấy tới mức
ông ấy phấn khởi quá chạy xô tới gặp ông Tomb, người
làm dịch vụ lễ tang. "Để chôn vợ tôi phải tốn bao nhiêu?"
Hamish hỏi.
"Năm trăm bảng," Tomb đáp, xoa xoa hai tay.
"Những năm trăm cơ à?" Hamish lúng búng, giữ
chặt lấy hầu bao. "Ông không thể lấy ít hơn được sao?"
"Thôi được," ông Tomb đáp, "giá rẻ nhất mà tôi có
thể làm được là ba trăm bảng."
"Lạy Trời!" Hamish rền rĩ, vừa đếm tiền ra, "tôi ước
là bà ấy vẫn còn sống!"

40
Magic Mushroom Melvin, ông già hippie, bận rộn
làm bữa trưa cho ông bạn thân của mình, Buffalo Grass.
"Úi, cậu!" Melvin nói, bước lùi lại từ bồn rửa bát và
ngồi xuống hút vài điếu thuốc. "Đó là công thức làm món
ăn phóng túng nhất mà tớ đã từng thử."
"Hấp dẫn đấy, cậu!" Buffalo Grass nói, trong một
đám khói. "Cái gì vậy?"
"Đấy là món sa lát, cậu!" Melvin nói. "Này, mát đấy,
cậu - sa lát!" Buffalo Grass đồng ý. "Cậu làm nó thế nào
vậy?"
"Thế này, nó dễ lắm, cậu!" Melvin nói, "cậu cắt rau
diếp, khoai tây, dưa chuột và cà rốt; rồi cậu ném một ít
LSD vào, đứng lùi ra, và quan sát món sa lát tự nó lắc
nó!"

Dilly và Dally là anh em sinh đôi giống hệt nhau,


sống ở một thị trấn nhỏ gần biển.
Dilly có gia đình còn Dally vẫn một mình, nhưng
anh ta giữ một chiếc thuyền chèo nhỏ.
Một hôm vợ Dilly chết, và vài ngày sau, chiếc
thuyền chèo của Dally cũng bị chìm.
Đang bước đi trên phố một tuần sau đó, Dally gặp bà
Godball, vợ ông giám mục. Bà Godball lầm Dally, người
chủ thuyền, là Dilly, người vừa mất vợ. "Tôi rất buồn khi
biết tin về mất mát to lớn của anh!" Bà Godball nói.
"Ôi, cám ơn bà quá!" Dally, thuyền nhân, đáp,
"nhưng tôi không buồn chút nào đâu. Nó là cái đồ cũ rích
ngay từ đầu rồi. Nó có một vết nứt khổng lồ đằng trước và

41
một lỗ hổng lớn đằng sau, mà cứ mỗi ngày lại to hơn khi
tôi dùng nó. Nó sặc mùi cá ươn và thường rò rỉ nước mọi
lúc. Đáy nó mới thực sự bị xước tệ lắm và bất kì khi nào
có gió thì thật không an toàn mà tới gần nó.
"Tuần trước, ba gã đàn ông tới để tìm trò vui, cho
nên tôi cho họ thuê nó. Tôi bảo họ cứ thoải mái với nó đi,
nhưng cả ba kẻ ngốc đó đều muốn chui vào nó một lúc.
Tất nhiên, nó nứt toác từ sau ra trước. Bây giờ thì nó qua
đời rồi, và tôi rất sung sướng về điều đó!"
Bà Godball ngất xỉu.
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn
hoàn toàn bị đông cứng. Nhìn vào bên trong với thôi thúc
khẩn thiết. Đi ngày một sâu hơn, cho tới khi bạn tới cội
nguồn của chính bản thể mình. Nó ở rất gần - chỉ một
bước thôi và bạn là phật.
Buổi tối đẹp thế, và mưa nhảy múa hân hoan trong
im lặng của bạn, hân hoan trong tam muội của bạn.
Chư phật mây này đã tới từ nơi xa xăm thế, đừng để
họ xuống thấp. Đi ngày một sâu hơn không cần phải sợ.
Đó là không gian riêng của bạn và đó là quyền tập
ấm riêng của bạn để là phật.

42
Để làm cho điều đó tuyệt đối rõ ràng rằng bạn không
là thân thể, không là tâm trí, mà chỉ là một nhân chứng,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và chỉ là nhân chứng. Việc chứng kiến


này là cái tên khác của phật.
Việc chứng kiến làm bạn thành gương rỗng, phản xạ
mọi thứ mà không bị đồng nhất. Và đây là phép màu của
thiền; nó cho bạn tự do, nó cho bạn cõi bên kia.
Thu lấy kinh nghiệm này, hương thơm này, bởi vì
sắp đến lúc bạn sẽ được gọi lại.
Nếm nước cam lồ, dòng suối chảy vĩnh hằng của
cuộc sống bạn, để nó chìm sâu vào từng thớ thịt bạn, bởi
vì điều đó sẽ là cách sống hai mươi bốn tiếng.
Sống hay chết, bạn phải vẫn còn như phật.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại như phật với tam muội, với
cảm giác về nước cam lồ. Ngồi xuống vài khoảnh khắc,
chỉ hồi tưởng lại kinh nghiệm về nơi bạn vừa ở, về điều
bạn đã là.
Mọi ngày điều đó phải trở nên ngày một sâu hơn.

Được chứ, Maneesha??

43
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội chư phật được chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

44
3. Mận chín

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một hôm, khi Mã Tổ đang trên đường về nhà
từ Giang Tây, ông ấy dừng lại để thăm thầy cũ
của mình, Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi Mã Tổ
đã thắp hương và cúi lạy Nam Nhạc Hoài
Nhượng, Nam Nhạc Hoài Nhượng cho ông ấy
bài thơ này:
"Ta khuyên ông đừng về nhà.
Nếu ông về, Đạo bất động.
Và bà già
hàng xóm
sẽ nói về tên huý của ông."
Mã Tổ cung kính lĩnh hội và tự thề không bao
giờ về nhà nữa, dù ông ấy có thể được tái sinh.
Chỉ ở tại Giang Tây, đệ tử từ khắp Trung Quốc
vẫn kéo tới.
Một hôm một sư tên là Đại Mai4 tới nhập nhóm
tu tập với Mã Tổ. Đại Mai hỏi thầy: "Phật là
gì?"
4
Ta-Mei - Đại Mai Pháp Thường

45
Mã Tổ đáp: "Nó là tâm hiện tại."
Nghe thấy điều này, Đại Mai liền đại ngộ. Ông
ấy lui về ở núi, nhiều năm không để ý tới thời
gian trôi; ông ấy chỉ thấy núi quanh mình hết
xanh lại tới vàng.
Một hôm, Mã Tổ phái một sư tới để thử ông ta.
Sư này hỏi Đại Mai, "Khi hoà thượng gặp Mã
Tổ hồi trước, được nghe lời nào mà ông ấy đã
chứng ngộ?"
Đại Mai đáp, "Chính lời của Mã Tổ, 'Tâm hiện
tại là Phật.'"
"Bây giờ cách thức của thầy khác rồi," sư bảo
Đại Mai.
"Vậy thế nó là gì?" Đại Mai hỏi.
"Mã Tổ bây giờ nói rằng chính tâm này là Phật
lại không là tâm cũng không là Phật," sư đáp.
"Lão già này!" Đại Mai nói. "khi nào thì lão
mới thôi làm tâm trí mọi người khỏi lẫn lộn
đây? Kệ lão với cái 'không là tâm không là
Phật'. Ta vẫn cứ 'Tâm hiện tại này tự nó là
Phật.'"
Khi sứ giả này kể cho Mã Tổ về cuộc trao đổi,
Mã Tổ bình luận: "Mai đã chín rồi."

Maneesha, một trong những điều quan trọng nhất


cần được ghi nhớ là ở chỗ Thiền sư không phải triết gia.
Ông ấy không dựa trên lí lẽ. Về cơ bản ông ấy rất phi lí và
ngớ ngẩn, nhưng ông ấy đảm đương một cách nhiệm màu
- từ cái ngớ ngẩn, từ những phát biểu mâu thuẫn của mình
- để tạo ra thông điệp rõ ràng cho bạn. Hôm nay ông ấy có

46
thể nói điều gì đó rồi mai lại điều gì đó khác. Nếu bạn
đem tâm trí logic của mình vào trong nó, bạn sẽ nghĩ rằng
bạn bị làm cho lẫn lộn. Nhưng có những cách khác nhau
để nói lên cùng một điều. Thực tế ngay cả trong việc tạo
ra mâu thuẫn thì vẫn có thể trao được cùng một thông
điệp.
Đây là một trong những đóng góp lớn lao của Thiền,
rằng không có mâu thuẫn. Mọi thứ đều đang diễn đạt
cùng chân lí, cùng thực tại. Nhành cỏ nhỏ nhất và ngôi
sao lớn nhất không đem lại cho bạn thông điệp khác nhau.
Không ai thấp hơn và không ai cao hơn trong sự tồn tại.
Không có cấp bậc. Và khi có liên quan tới chân lí, về cơ
bản nó là không diễn đạt được. Nhưng nếu bạn muốn diễn
đạt cái không diễn đạt được, thế thì bạn có thể dùng ngay
cả các từ mâu thuẫn để chỉ ra cùng một điều.
Hai ngón tay khác nhau, bắt nguồn từ hai góc độ
khác nhau, có thể trỏ tới cùng một mặt trăng. Tâm trí có
thể thấy điều đó là khó. Thực tế toàn bộ công việc của các
Thiền sư là làm cho mọi thứ thành khó với tâm trí tới mức
bạn trở nên mệt mỏi với tâm trí, mệt mỏi với suy nghĩ, và
bạn đẩy nó sang bên. Vào khoảnh khắc nghỉ ngơi đó, khi
bạn đã đẩy tâm trí sang bên, nó lại đem bạn tới cánh cửa
của sự tồn tại. Giai thoại nhỏ này là rất có ý nghĩa.

Mã Tổ ở với thầy mình, Nam Nhạc Hoài


Nhượng, trong hơn mười năm.
Khi ra đi, ông ấy đã trở thành sư trụ trì của
chùa Kai-yuan tại Giang Tây.
Trong buổi lễ, Mã Tổ tuân theo sát sao sự sáng
suốt cơ sở của tổ thứ sáu, Huệ Năng - một cách

47
đặc biệt, rằng không có phật bên ngoài tâm trí
riêng của người ta.

Từ 'tâm' này có thể được hiểu như tâm trí bình


thường, đầy những ý nghĩ, xúc động, tình cảm và gắn bó.
Và cũng tâm này cũng có thể được coi như trống rỗng.
Bạn có thể làm trống rỗng nó hết mọi ý nghĩ, hết mọi xúc
động. Và khoảnh khắc tâm trí này trống rỗng, không có
khác biệt giữa tâm trí và vô trí. Cho nên không cần phải bị
lẫn lộn.
Vài thầy sẽ dùng: "Tâm trí hiện tại chứa mọi thứ,
ngay cả phật." Nhưng điều kiện là ở chỗ tâm trí phải trống
rỗng. Thế thì bản thân nó là phật.
Phát biểu riêng của Phật là có ý nghĩa. Ông ấy nói,
"Chính thân thể này, là phật; chính tâm trí này, là thiên
đường hoa sen." Nhưng ông ấy cũng liên tục nói rằng bạn
không là thân thể, bạn không là tâm trí. Thế thì ông ấy
ngụ ý gì với mâu thuẫn này? Ông ấy đơn giản nói rằng
nếu bạn không bị đồng nhất với thân thể này, thì chính
thân thể này là phật như bất kì cái gì trong thế giới. Nếu
bạn không bị chất đầy những ý nghĩ, chính tâm trí này
cũng mênh mang như toàn thể bầu trời. Ông ấy không tự
mâu thuẫn mình, ông ấy đơn giản dùng cách thức mâu
thuẫn để chỉ ra chân lí.
Huệ Năng là người đã giới thiệu Mã Tổ cho Nam
Nhạc Hoài Nhượng. Huệ Năng đã già và Mã Tổ còn rất
trẻ, cho nên ông ấy không nhận trách nhiệm hướng dẫn
Mã Tổ vào thiền. Ông ấy trao trách nhiệm này cho Nam
Nhạc Hoài Nhượng người sẽ là kế tục của ông ấy khi ông
ấy chết. Nhưng cách thức mà Huệ Năng giới thiệu Mã Tổ

48
cho Nam Nhạc Hoài Nhượng sáng suốt thế: "Rất cẩn thận
với chàng thanh niên này. Anh ta sẽ là phật, và anh ta sẽ
là người kế tục ông, cũng như ông là người kế tục ta. Rất
tôn kính, biết ơn, rằng ông đã có được một người đang
mấp mé trở thành phật trong tay ông."
Mã Tổ gần với giáo huấn của Huệ Năng hơn mặc
dầu Huệ Năng không phải là thầy của ông ấy, nhưng Huệ
Năng đã thấy tiềm năng của ông ấy - khả năng, tương lai
chưa thấy được. Và đồng thời ông ấy đã thấy rằng cái chết
của mình đang tới gần hơn, cho nên nhận trách nhiệm với
đệ tử vào khoảnh khắc này sẽ là sai, và đặc biệt đối với
một đệ tử cần sự chăm nom vô cùng vì người đó đang
mấp mé của sự bùng nổ. Vì quá già rồi nên ông ấy nghĩ
tốt hơn cả là nên trao Mã Tổ vào tay người kế tục mình,
Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Nam Nhạc Hoài Nhượng là thầy theo nghĩa riêng
của ông ấy. Giáo huấn của ông ấy không chỉ là việc tuân
theo Huệ Năng. Trong thế giới của Thiền không nhất thiết
đệ tử phải theo thầy đến từng chi tiết. Tất cả mọi điều cần
thiết là ở chỗ đệ tử nên hiểu sự hiện diện của thầy, nhận
thức nền tảng của thầy. Không nên còn mãi niềm tin trong
đệ tử mà nên trở thành sự từng trải thực tế. Học thuyết và
niềm tin không thành vấn đề gì cả. Điều thành vấn đề là
sự hiện diện của thầy và nhận thức của thầy, và sự huy
hoàng mà nhận thức đó đem lại cùng nó.
Huệ Năng chưa bao giờ yêu cầu Nam Nhạc Hoài
Nhượng phải tuân theo mình - Nam Nhạc Hoài Nhượng
có cách tiếp cận riêng của ông ấy - nhưng Huệ Năng đã
chọn Nam Nhạc Hoài Nhượng là người kế tục mình. Điều
này rất lạ. Nó không xảy ra ở bất kì chỗ nào khác trên
toàn thế giới. Người ta chọn người kế tục theo họ tới từng

49
chi tiết. Nhưng Thiền là duy nhất theo đủ mọi cách. Vấn
đề không phải là tuân theo, nó là ở chỗ con người này
cũng đã nhận thức ra. Phương pháp của người đó có thể
khác, phương cách của người đó có thể khác, cách tiếp
cận của người đó có thể khác, người đó vẫn có thể là
người kế tục.
Nhưng thật kì lạ, mặc dầu Huệ Năng đã trao trách
nhiệm khai tâm cho Nam Nhạc Hoài Nhượng, Mã Tổ về
cơ bản vẫn gần với giáo huấn của Huệ Năng hơn, gần với
phương pháp của Huệ Năng về việc chỉ ra chân lí. Huệ
Năng đã bắt được thoáng nhìn về tương lai của anh ta.
Nam Nhạc Hoài Nhượng làm mọi sự chăm nom và giúp
anh ta để trở thành thầy chứng ngộ. Nhưng anh ta bao giờ
cũng dành lòng biết ơn nhiều hơn tới Huệ Năng bởi chính
lí do này: rằng ông ấy đã từ chối khai tâm cho anh ta, bởi
vì cái chết của ông ấy đã rất gần; và ông ấy đã đặt anh ta
vào bàn tay của người đúng, người sẽ chăm nom anh ta,
bởi vì mùa xuân của anh ta đang sắp tới rồi. Anh ta sẽ nở
hoa, và Huệ Năng sẽ không có đó.
Chắc chắn Mã Tổ và Huệ Năng, không có mối quan
hệ thầy đệ tử nào, đã tới rất gần nhau trong trái tim. Trái
tim họ bắt đầu đập theo cùng nhịp. Giáo huấn của thầy
anh ta là khác theo nhiều cách, đặc biệt từ giáo huấn của
Huệ Năng là không có phật bên ngoài tâm trí riêng của
người ta.
Nhưng nhớ điều đó, khi Huệ Năng nói 'tâm', bạn
cũng có thể dịch nó là 'vô trí'. Điều ông ấy ngụ ý là 'tâm
trí trống rỗng' tương đương với 'vô trí'. Cái gì còn lại
trong tâm trí trống rỗng? - chỉ không gian thuần khiết.
Vấn đề là tuỳ bạn thích gọi nó là tâm trí trống rỗng hay vô

50
trí. Nhưng cả hai đều tương đương, không có trong từ
điển, nhưng có trong kinh nghiệm mang tính tồn tại.

Một hôm, khi Mã Tổ đang trên đường về nhà


từ Giang Tây, ông ấy dừng lại để thăm thầy cũ
của mình, Nam Nhạc Hoài Nhượng.

Ông ấy bây giờ là một thầy theo quyền riêng của


mình. Ông ấy đã đi tới Giang Tây và đã về nhà từ đó, và
ông ấy dừng lại để thăm thầy cũ của mình, Nam Nhạc
Hoài Nhượng. Khi Mã Tổ đã thắp hương và cúi lạy Nam
Nhạc Hoài Nhượng, Nam Nhạc Hoài Nhượng cho ông ấy
bài thơ này...
Điều này nữa cũng phải được hiểu. Ngay cả khi đệ
tử trở nên chứng ngộ, điều đó không thành vấn đề, lòng
biết ơn của người đó thậm chí còn trở nên đầy hơn.
Không phải là bây giờ không cần tới thầy nữa. Không
phải là "Bây giờ ta đã ngang hàng với thầy rồi, bây giờ ta
kinh nghiệm cùng phật tính như thầy." Không, người ta
không nghĩ theo cách đó, bởi vì đó là cách thức của bản
ngã. Bản ngã đã bị mất từ lâu rồi. Cách thức của biết ơn,
cách thức của khiêm tốn là ở chỗ "Mặc dầu ta có thể đã
trở thành phật, thầy ta đã là người chỉ lối hướng tới con
đường đúng, và ta sẽ vẫn còn mãi mãi trong lòng biết ơn
sâu sắc với thầy."
Xá Lợi Phất5, một trong những đại đệ tử của Phật, đã
trở nên chứng ngộ. Với nước mắt lưng tròng ông ấy tới
Phật và ông ấy nói, "Tôi đã lẩn tránh chứng ngộ, nhưng
thầy cứ nhẫn nại mãi. Bây giờ tôi chứng ngộ và mắt tôi
đầy nước mắt bởi vì tôi biết thầy sẽ phái tôi đi xa thầy, chỉ
5
Sariputta

51
để lan toả ngọn lửa. Và tôi hiểu từ bi của thầy, rằng thầy
liên tục nhận biết về nhiều người có thể trở thành chư
phật; chỉ cần một chút ít hỗ trợ. Những người còn chưa đi
rất xa khỏi bản thân mình có thể được gọi lại rất dễ dàng."
Phật nói, "Thế sao ông khóc?"
Ông ấy nói, "Tôi khóc vì tôi sẽ không thể nào chạm
chân thầy hàng ngày như tôi đã làm trong hai mươi năm
qua."
Phật nói, "Làm một điều này. Mang theo cùng ông
một chiếc bản đồ, và nhớ hướng ta đang ngụ. Cúi lạy theo
hướng đó. Chạm chân chỉ là biểu tượng, chạm đất đi - bởi
vì sau rốt thân thể này được làm bằng đất, và một ngày
nào đó nó sẽ quay trở về với đất. Cho nên chạm đất không
chỉ là chạm chân ta, mà còn là chạm chân của mọi chư
phật đã từng xuất hiện. Họ tất cả đều đã tan biến thân thể
mình trong đất. Cho nên không cần đâu, và điều có vẻ
không phải là việc người chứng ngộ kêu khóc."
Xá Lợi Phất nói, "Tôi không quan tâm điều mọi
người nghĩ, nhưng thực tế là nước mắt cứ chảy ra. Và
theo giáo huấn của thầy, tôi phải tự phát và chân thực.
Cho dù thầy nói, 'Đừng khóc,' thì tôi cũng không định
nghe theo. Nước mắt cứ trào ra, tôi làm gì được? Tôi
không thể là người đạo đức giả, cứ mỉm cười khi mắt đầy
nước mắt."
Tương truyền rằng Xá Lợi Phất, dù ở bất kì đâu, vào
buổi sáng đều nhìn vào bản đồ, tìm ra đích xác nơi Phật ở,
và theo hướng đó ông ấy cúi lạy và chạm chân của Phật.
Rồi ông ấy có tới hàng nghìn đệ tử của riêng mình và họ
nói, "Điều đó có vẻ không phải. Thầy không cần làm cử
chỉ như vậy. Bản thân thầy đã là phật rồi."

52
Ông ấy nói, "Điều đó đúng, bản thân ta là phật,
nhưng ta sẽ không phải là phật nếu ta không gặp Phật
Gautam. Chính việc gặp gỡ với con người này đã làm lẩy
cò cái gì đó trong ta, đã thiêu đốt đi mọi cái giả và đem
tới mọi cái thật trong sự thuần khiết và sáng tỏ tinh khôi.
Ta mang nợ con người này nhiều lắm đến mức không có
cách nào trả được cho ông ấy cả. Mọi điều ta có thể làm là
chạm chân ông ấy từ xa hàng dặm đường."
Ông ấy tiếp tục thế cho tới tận hơi thở cuối cùng.
Trước khi chết - ông ấy chết trước Phật Gautam - điều
cuối cùng ông ấy đã nói cho các đệ tử của mình là, "Tha
thứ cho ta vì các ông không thể thấy được những bàn
chân vô hình đó. Để ta chạm chân thầy ta lần cuối cùng."
Và ông ấy cúi lạy, nước mắt chảy dài từ đôi mắt, và ông
ấy chết trong tư thế đó. Ông ấy đã không đứng dậy nữa.
Đây mới là tính nhân bản thực - khiêm tốn, thành tâm,
yêu thương, tin cậy.
Mã Tổ, đến thăm thầy cũ của mình, đã thắp hương
trước ông ấy như các bạn thắp hương trước tượng phật và
cúi lạy Nam Nhạc Hoài Nhượng. Nam Nhạc Hoài
Nhượng cho ông ta bài kệ, bài thơ này:

"Ta khuyên ông đừng về nhà.


Nếu ông về, Đạo bất động.
Và bà già
hàng xóm
sẽ nói về tên huý của ông."
Mã Tổ cung kính lĩnh hội và tự thề không bao
giờ về nhà nữa, dù ông ấy có thể được tái sinh.
Chỉ ở tại Giang Tây, đệ tử từ khắp Trung Quốc
vẫn kéo tới.

53
Lời khuyên rất kì lạ nhưng có nghĩa. Nam Nhạc
Hoài Nhượng bảo ông ấy đừng về nhà nữa. Nó ngụ ý
nhiều điều. Nó ngụ ý rằng bây giờ bạn vô gia cư. Khoảnh
khắc bạn trở nên chứng ngộ thì bạn không có nhà, thậm
chí thân thể bạn cũng không phải là nhà bạn. Bây giờ toàn
thể sự tồn tại là nhà bạn, cho nên chấm dứt thói quen cũ
thỉnh thoảng lại đi về nhà. Không có nhà cho bạn nữa.
Bạn là đám mây vô gia cư bồng bềnh trên trời, trong tự do
toàn bộ, không gắn bó vào cái gì cả.

Nếu ông về, Đạo bất động.

Nam Nhạc Hoài Nhượng đang nói, "Nếu ông không


nghe lời khuyên của ta và cứ về nhà, nhớ rằng Đạo của
ông, phật trống rỗng bên trong của ông, không bao giờ đi
đâu cả. Cho nên ông chỉ đang hành động; chỉ là thân thể
chết, cái xác đang đi. Bản thể thực của ông là bất động;
nó chưa bao giờ đi đâu cả, nó bao giờ cũng ở đây và bây
giờ." Và ông ấy nói, "Và bà già hàng xóm sẽ nói về tên
huý của ông."
Tên thời trẻ con của Mã Tổ là Baso. Nam Nhạc Hoài
Nhượng đang làm trò đùa về tên ông ấy, rằng bà già hàng
xóm nhà ông ấy sẽ gọi ông ấy là Baso. Họ sẽ không thừa
nhận rằng ông ấy không còn là Baso nữa, rằng ông ấy là
Mã Tổ, rằng ông ấy là thầy lớn. Trong mắt họ ông ấy sẽ
vẫn như cũ; họ đã thấy ông ấy được sinh ra, và họ đã thấy
ông ấy lớn lên. Rất khó cho họ nhận ra rằng ông ấy đã trở
thành phật, và họ sẽ nghĩ điều đó rất xúc phạm tới Phật.

54
Mã Tổ cung kính lĩnh hội và tự thề không bao
giờ về nhà nữa, dù ông ấy có thể được tái sinh.

Ông ấy đang nói rằng cho dù ông ấy có được tái sinh


lần nữa - mặc dầu người chứng ngộ không bao giờ tái
sinh lại - ông ấy đã đưa ra lời hứa là cho dù ông ấy có
được tái sinh đi tái sinh lại, thì ông ấy sẽ không bao giờ
về nhà cả. Ông ấy đã hiểu việc vô gia cư, tính một mình
của mình.

Chỉ ở tại Giang Tây, đệ tử từ khắp Trung Quốc


vẫn kéo tới.
Một hôm một sư tên là Đại Mai tới nhập nhóm
tu tập với Mã Tổ. Đại Mai hỏi thầy: "Phật là
gì?"
Mã Tổ đáp: "Nó là tâm hiện tại." - giáo huấn
của Huệ Năng mà ông ấy theo cả đời.

Nhưng nhớ rằng tâm trí không bao giờ trong hiện tại
cả; nó hoặc ở trong quá khứ hoặc trong tương lai. Trong
hiện tại là tâm trí trống rỗng. Bạn có thể gọi nó là tâm trí
hiện tại nếu bạn quan tâm tới việc dùng các từ khẳng định
hay bạn có thể gọi nó là vô trí, nếu bạn muốn dùng sự phủ
định. Chân lí có thể được diễn đạt theo hai cách, phủ định
hay khẳng định. Tâm trí hiện tại thực tế nghĩa là vô trí.
Với những người hiểu tính hiện tại, mọi tâm trí đều biến
mất. Tâm trí có thể trong quá khứ, tâm trí có thể trong
tương lai, nhưng không bao giờ trong hiện tại. Do đó ở
trong hiện tại đơn giản nghĩa là thoát ra ngoài sự nắm giữ
của tâm trí.

55
Mã Tổ đáp: "Nó là tâm hiện tại."
Nghe thấy điều này, Đại Mai liền đại ngộ. Ông
ấy lui về ở núi, nhiều năm không để ý tới thời
gian trôi; ông ấy chỉ thấy núi quanh mình hết
xanh lại tới vàng.
Một hôm, Mã Tổ phái một sư tới để thử ông ta.
Sư này hỏi Đại Mai, "Khi hoà thượng gặp Mã
Tổ hồi trước, được nghe lời nào mà ông ấy đã
chứng ngộ?"
Đại Mai đáp, "Chính lời của Mã Tổ, 'Tâm hiện
tại là Phật.'"
"Bây giờ cách thức của thầy khác rồi," sư bảo
Đại Mai.
"Vậy thế nó là gì?" Đại Mai hỏi.
"Mã Tổ bây giờ nói rằng chính tâm này là Phật
lại không là tâm cũng không là Phật," sư đáp.

Chính tâm trí này không là phật không là tâm trí.


Bây giờ Mã Tổ đang dạy theo cách này.

"Lão già này!" Đại Mai nói. "khi nào thì lão
mới thôi làm tâm trí mọi người khỏi lẫn lộn
đây? Kệ lão với cái 'không là tâm không là
Phật'. Ta vẫn cứ 'Tâm hiện tại này tự nó là
Phật.'"

Ông ấy đã hiểu rõ ràng rằng Mã Tổ đã đổi cách diễn


đạt của mình từ khẳng định sang phủ định. Ông ấy có thể
gây lẫn lộn cho người thường, nhưng ông ấy không thể
làm lẫn lộn người đã chứng ngộ.

56
"Lão già này!" Đại Mai nói. "khi nào thì lão
mới thôi làm tâm trí mọi người khỏi lẫn lộn
đây?

Không cần phải thay đổi, cách diễn đạt cũ vẫn hoàn
hảo.

Kệ lão với cái 'không là tâm không là Phật'. Ta


vẫn cứ 'Tâm hiện tại này tự nó là Phật.'"

Bạn có thể nghĩ rằng ông ấy không đồng ý với thầy


mình, Mã Tổ, nhưng thế thì bạn đã không hiểu được nó.
Ông ấy đồng ý hoàn toàn. Ông ấy hiểu rằng điều đó là
cùng nghĩa. Thầy chỉ thay đổi cách diễn đạt từ khẳng định
sang phủ định. Chỉ cách diễn đạt là thay đổi, không phải
là cái được diễn đạt. Cho nên ông ấy nói, "Cứ để cho lão
già làm bất kì điều gì lão muốn, nhưng ta cứ nhấn mạnh
rằng bản thân tâm trí hiện tại này là phật."

Khi sứ giả này kể cho Mã Tổ về cuộc trao đổi,


Mã Tổ bình luận: "Mai đã chín rồi."

Mã Tổ đã hiểu rất rõ rằng Đại Mai đã trở nên chứng


ngộ. Bất kì người không chứng ngộ nào cũng sẽ bị lẫn lộn
bởi vì tâm trí không chứng ngộ không bao giờ có thể nghĩ
được rằng khẳng định và phủ định lại có thể có cùng ý
nghĩa và có cùng nghĩa. Có chỗ mà có và không không
phải là mâu thuẫn.
Mã Tổ nói, "Mai đã chín rồi."

57
Tên của Đại Mai, trong tiếng Trung Quốc, nghĩa là
'quả mai lớn'.
Takuan đã viết:

Mặt trăng không định nhìn


bóng nó ở khắp mọi nơi,
Vũng nước cũng không định
cho trăng cư ngụ.
Nước hồ Hirosawa trong xanh làm sao!

Tu viện của Takuan ở gần hồ Hirosawa. Trong bài


thơ nhỏ này hàm chứa toàn bộ điều tinh tuý của Thiền.
Mặt trăng không định nhìn bóng nó ở khắp mọi nơi...
Bạn có cho rằng trăng có ý định nào để nhìn bóng nó
và phản chiếu nó trong hàng nghìn biển và hồ không? Nó
không có ý định nào hết cả. Và mặt khác, Vũng nước
cũng không định cho trăng cư ngụ.
Vũng nước, hồ hay đại dương đều ham muốn cho
trăng cư ngụ, hay đều có ý định phản xạ trăng.
Nước hồ Hirosawa trong xanh làm sao!
Nó thậm chí không bị quấy rối bởi việc phản xạ của
trăng. Nó không bận tâm. Bài thơ của ông ấy đang nói
bạn sống mà không có ý định, không có mục đích, không
có ham muốn thành đạt nào, tham vọng nào. Chỉ sống tự
phát, khoảnh khắc tiếp khoảnh khắc. Bất kì cái gì xảy ra,
chấp nhận nó một cách hân hoan, vui mừng, không phàn
nàn hay miễn cưỡng gì.
Cho dù chết có tới, cứ để nó được đón chào đi. Nhảy
múa, hát bài ca. Đó đã là truyền thống trong Thiền. Người

58
ta trông đợi ở từng thầy - và họ tất cả đều đã làm điều đó -
rằng trước khi chết họ nên viết ra một bài kệ nhỏ hàm
chứa toàn thể giáo huấn của họ.
Nó chỉ ra hai điều: rằng họ hoàn toàn nhận biết về
chết, và rằng thậm chí trong chết họ cũng không buồn gì.
Bài kệ của họ nói lên niềm vui của họ, sự hoàn thành của
họ. Không đòi hỏi bạn điều gì, sự tồn tại đã đem mọi thứ
cho bạn.
Người sống với ý định thì nhất định cảm thấy thất
vọng. Người sống với trông đợi nhất định cảm thấy thất
vọng vì sự tồn tại không có nghĩa vụ gì với bạn cả. Nhưng
nếu bạn sống mà không có ý định, không trông đợi, thì
điều màu nhiệm là bạn lại thấy rằng mọi thứ mà bạn đã
từng mơ ước tới đều được đáp ứng. Mặt trăng được phản
xạ trong hồ - hồ chưa bao giờ đòi hỏi về điều đó, trăng
chưa bao giờ dự định về điều đó. Đừng đem ham muốn
của bạn, tham vọng của bạn và trông đợi của bạn vào;
chúng là những thứ phá rối. Chúng tạo ra hỗn loạn trong
tâm trí của bạn. Nhưng nếu không có ý định về cái gì,
Nước hồ Hirosawa trong xanh làm sao!
Trăng được phản xạ nhưng nước thậm chí không
xúc động. Trăng đẹp thế và hồ Hirosawa phản xạ một
cách tự nhiên, tự phát. Nếu nó không được phản xạ, chắc
sẽ không có thất vọng gì. Có trăng hay không trăng,
không có vấn đề gì. Hồ Hirosawa im lặng. Và điều đó nên
là tâm thức bên trong của bạn - chỉ là hồ im lặng.

Maneesha đã hỏi:

59
Thầy kính yêu của chúng tôi,
Thầy ngạc nhiên lắm nếu một buổi tối thầy
xuất hiện trong Thính phòng Phật Gautam và
mọi điều thầy có thể thấy là một căn phòng bao
la toàn những gương rỗng, hay hàng hàng lớp
lớp những quả mai chín, mọng nước.
Thầy có thực nghĩ điều đó là có thể không? Có
gì xảy ra không? Hay tốt hơn: không có gì xảy
ra sao?

Maneesha, điều đó đang xảy ra hàng ngày. Cả căn


phòng này đầy những gương và đầy những quả mai lớn.
Bạn nhìn Avirbhava, quả mai đang múa.
Bây giờ đã tới điểm của tiếng cười và Gurudayal
Singh đang ngồi rất gần hôm nay. Bây giờ đây là loạt
chuyện dành cho anh ấy.

Luscious Miss Willing gặp rắc rối với việc ngủ.


Giấc mơ của cô ấy và thực tại của cô ấy toàn những hoạt
động dục mà cô ấy không thể biết được cái gì là thực cái
gì không. Thế là cô ấy tới gặp bác sĩ Feelgood để xin giúp
đỡ chuyên môn.
Đó là lần tới khám đầu tiên, cho nên Feelgood nghe
mọi vấn đề của cô ấy, thế rồi bắt đầu huyên thuyên về đủ
mọi loại thuật ngữ dục của phái Freud. "Xin ông đợi cho
một phút," Miss Willing ngắt lời. "Biểu tượng dương vật
là gì vậy?"

60
"Biểu tượng dương vật," Feelgood giải thích, "biểu
thị cho dương vật."
"Được," cô gái nói, "dương vật là gì?"
"Tôi đoán," Feelgood nói, một cái cười toe toét hiện
trên khuôn mặt anh ta, "cách tốt nhất để giải thích nó là
chỉ cho cô." Thế là Feelgood đứng dậy, cởi quần ra, và
kéo máy của mình ra. "Cái này, thưa bà trẻ," Feelgood nói
một cách tự hào, "là dương vật!"
"Ồ!" Miss Willing nói và mỉm cười. "Ông ngụ ý nó
giống như chim chứ gì, chỉ nhỏ hơn!"

Ông tổng thống lôi thôi, có tuổi, Ronald Reagan,


đang đợi lên máy bay của tổng thống sang châu Âu.
Thư kí riêng của ông ta Reginald, người tới chia tay
ông ta, nghiêng mình về phía Ronnie và thì thào, "Thông
báo của ông cho ông Bill đồng dục là gì?"
"Ồ, vâng," Reagan nói. "bảo ông ấy rằng tôi sẽ trả
tiền cho ông ấy khi tôi quay về!"

"Tôi không thấy ông ở buổi giao hợp nhiều người


nữa," Marvyn nói, Thiên thần của địa ngục, với ông bạn
già, Pigpen. "Có chuyện gì vậy?"
"Tôi mới xây dựng gia đình," Pigpen nói.
"Đừng bậy bạ, ông bạn!" Marvyn nói. "Giao cấu hợp
pháp có tốt hơn loại chuyên nghiệp không?"
"Nó không tốt được thế," Pigpen đáp, "nhưng ít nhất
ông không phải đứng xếp hàng đợi nó!"

61
Fergus và Funky bị lạc trong sa mạc thiêu đốt của
Sahara cháy bỏng. Họ đã bò bằng tay và đầu gối hàng
ngày để tìm nước. Gần như vào cuối sự cố gắng của họ,
thì họ bỗng nhiên phát hiện ra một người ở nơi xa với một
khán đài nhỏ, đang bán cái gì đó.
Fergus và Funky lăn lộn và bò theo cách của mình
tới người kia, và với lưỡi thè cả ra họ kêu lên, "Nước! Xin
cho chúng tôi nước với!"
"Rất tiếc, các anh bạn," người này nói, "Tôi muốn
cho lắm, nhưng tôi lại không có nước. Tôi đang bán
cravat. Lấy cái nào đẹp đi nếu các ông thích cravat bảnh!"
"Cravat sao?" Funky la lên, và anh ta ngất xỉu.
"Không," Fergus nói, "chúng tôi không cần cravat nguyền
rủa nào - chúng tôi cần nước!" Và cả hai người khát lại lê
thân mình đi.
Ba ngày sau, từ chỗ xa, một toà nhà lớn hiện lên trên
đường chân trời. Hứng khởi, bộ đôi mòn mỏi tả tơi lê thân
mình tới nó. Đó là Khách sạn cát giao cấu.
Fergus bò lên tới người gác cổng, đang đứng cứng
nhắc trong bộ quân phục ba mảnh.
"Nước đâu!" Fergus, với đôi môi nứt nẻ run rảy.
"Chúng tôi cần đi vào và kiếm nước!"
"Rất tiếc thưa ông ấy," người gác cổng đáp. "Nhưng
tôi sợ là các ông ấy không vào được nếu không có
cravat!"

Nivedano...

62
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể hoàn toàn
đông cứng. Nhìn vào bên trong thật sâu nhất có thể được.
Đây là con đường. Tại chính đầu của con đường
này, bạn là phật. Và cuộc hành trình rất ngắn - chỉ môt
bước thôi.
Cần sự thôi thúc toàn bộ và sự chân thực tuyệt đối
để nhìn thẳng vào trong bản thể riêng của bạn. Có gương
chúng ta đã nói tới. Gương là phật. Nó là bản tính vĩnh
hằng của bạn.
Đi ngày một sâu hơn. Bạn phải đi vào trong cho tới
khi bạn tìm ra bản thân mình. Đừng ngần ngại. Không có
nỗi sợ. Tất nhiên bạn một mình, nhưng tính một mình này
là kinh nghiệm đẹp đẽ, lớn lao. Và trên con đường này
bạn sẽ không gặp ai ngoại trừ bản thân bạn.
Để làm điều đó thành rõ ràng rằng bạn chỉ là gương,
nhân chứng cho thân thể mình, cho tâm trí mình, cho mọi
thứ,

Nivedano...
(tiếng trống)

63
Thảnh thơi, và chỉ là gương chứng kiến, quan sát,
phản xạ mọi thứ. Làm những điều này mà không có ý
định nào để được phản xạ, mà bạn cũng không có ý định
nào để bắt giữ các phản xạ của chúng.
Là cái hồ im lặng Hirosawa, và tất cả mọi phúc lạc
đều là của bạn, và buổi tối nay trở thành phúc lành.
Khoảnh khắc hiện tại này trở thành vô trí, vô thời gian,
chỉ là sự thuần khiết, một không gian vô biên.
Đây là tự do của bạn. Và chừng nào bạn còn chưa là
phật, thì bạn không tự do. Bạn không biết gì về tự do.
Để kinh nghiệm này chìm sâu trong mọi thớ thịt của
bản thể bạn. Được thấm đẫm, được uống thoả thích.
Khi bạn quay lại, quay lại được ướt sũng bằng màn
sương của bản tính phật của bạn. Và nhớ không gian này,
con đường này, bởi vì bạn phải mang nó hai mươi bốn giờ
trong mọi hành động của mình. Ngồi, đứng, đi, ngủ, bạn
phải vẫn còn là phật. Thế thì toàn thể sự tồn tại trở thành
niềm cực lạc.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng đem cùng bạn mọi kinh nghiệm


này, từ từ, im lặng, duyên dáng. Ngồi xuống vài khoảnh
khắc, hồi tưởng lại nơi bạn đã từng tới, nhớ lại niềm hân
hoan và im lặng của việc chỉ là gương, tự do mênh mông

64
tới khi bạn chỉ là gương không bị gắn bó vào cái gì, vô
gia cư, một mình.
Bạn trở thành đỉnh Everest của tâm thức.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

65
66
4. Véo mũi

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một hôm, khi Bách TrượngBách Trượng Huệ
Hải6 tới thăm thầy mình, Mã Tổ, một bầy
ngỗng trời bay qua trên đầu.
Mã Tổ hỏi, "Chúng là gì vậy?"
"Chúng là ngỗng trời, thưa thầy," Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải nói.
"Chúng ở đâu?" Thầy hỏi.
"Chúng đã bay mất rồi, thưa thầy," Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải đáp.
Mã Tổ bỗng nhiên túm lấy mũi của Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải và véo một cái.
Đau quá, Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải
la lên. Mã Tổ nói, "Ông nói chúng đã bay mất,
nhưng tất cả vẫn thế chúng đã từng ở đây từ
chính lúc ban đầu."
Vào khoảnh khắc đó, Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải chứng ngộ.
Ngày hôm sau, vào buổi tụ tập thường lệ, Mã
Tổ không ngồi được khi Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải tới cuốn chiếu của thầy, làm
cho thầy té xuống từ bục. Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải theo thầy vào phòng.

6
Hyakujo

67
Mã Tổ nói, "Vừa rồi, trước khi ta bắt đầu nói,
điều gì xúi ông cuốn chiếu của ta lại?"
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải nói, "Hôm
qua thầy véo mũi tôi và tôi thấy đau nhói."
"Ông đã dùng tâm trí của mình ở đâu hôm
qua?" Mã Tổ hỏi.
Mọi điều mà đệ tử này nói là, "Tôi không còn
thấy đau mũi hôm nay nữa."
Từ đó thầy bình, "Ông đã hiểu thấu đáo câu
chuyện hôm qua."
Một dịp khác, ngay khi Mã Tổ ngồi xuống ghế
thiền như thường lệ, ông ấy nhổ lên ghế.
Một sư hỏi, "Sao thầy lại nhổ?"
Mã Tổ nói, "Khi ta ngồi đây, đã có núi, sông,
và toàn thể vũ trụ tự nhiên ở trước ta. Ta khạc
nhổ vì ta không thích điều đó."
Sư nói, "Nhưng vũ trụ huy hoàng thế! Sao thầy
không thích điều đó?"
Mã Tổ đáp, "Nó có thể huy hoàng với ông,
nhưng nó là ghê tởm với ta."
Sư tiếp tục, "Đây là trạng thái tinh thần gì thế
này?"
Mã Tổ nói, "Đây là trạng thái của bồ tát."

Maneesha, đây là một số trong những câu chuyện


lớn trong lịch sử của Thiền. Chúng chỉ ra việc hiểu của
bạn trong hành động của bạn. Khi thầy hành động theo
một cách nào đó, đệ tử phải đáp ứng một cách tự phát,
không qua suy nghĩ, mà qua chính trái tim trống rỗng của
mình.

68
Thiền chung cuộc là phương cách, hàng nghìn
phương cách, đã được các thầy khác nhau tạo ra để gợi
thức tỉnh trong bạn. Đọc chúng người ta có thể nghĩ
chúng chỉ là giai thoại, câu chuyện, câu đố. Chúng không
phải vậy, chúng là sự trao đổi, và trao đổi có giá trị lớn
nhất.

Một hôm, khi Bách TrượngBách Trượng Huệ


Hải tới thăm thầy mình, Mã Tổ, một bầy ngỗng
trời bay qua trên đầu.
Mã Tổ hỏi, "Chúng là gì vậy?"
"Chúng là ngỗng trời, thưa thầy," Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải nói.
"Chúng đâu rồi?" Thầy hỏi.
"Chúng đã bay mất rồi, thưa thầy," Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải đáp.
Mã Tổ bỗng nhiên túm lấy mũi của Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải và véo một cái.
Đau quá, Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải
la lên. Mã Tổ nói, "Ông nói chúng đã bay mất,
nhưng tất cả vẫn thế chúng đã từng ở đây từ
chính lúc ban đầu."
Vào khoảnh khắc đó, Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải chứng ngộ.

Với bất kì nhà tư tưởng thông thường nào điều này


sẽ có vẻ giống như phát biểu ngớ ngẩn. Nhưng với người
đã hài hoà trong thiền, điều này có thể trở thành điểm
thức tỉnh mênh mông. Không phải là Mã Tổ không biết
rằng ngỗng đã bay mất. Không phải là ông ấy không biết
rằng ngỗng đã có đó. Ông ấy không cần bất kì câu trả lời
hiểu biết nào. Ông ấy cần sự đáp ứng mà Bách

69
TrượngBách Trượng Huệ Hải đã bỏ lỡ ngay từ đầu, khi
Mã Tổ hỏi ông ấy, "Chúng là gì vậy?" Hiển nhiên Mã Tổ
biết chúng là gì.
Cho nên nhớ, đấy không phải là câu hỏi hay điều tra
về việc biết sự vật. Tại điểm này Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải đã lỡ. Đáp ứng của ông ấy là qua tâm trí;
ông ấy nói, "Chúng là ngỗng trời, thưa thầy."
Đó sẽ là đáp ứng của bất kì ai khác trên toàn thế
giới. Nó không bắt nguồn từ trái tim trống rỗng. Nó
không bắt nguồn từ gương của cái không. Nó chỉ là… bất
kì đứa trẻ nào cũng nói điều đó. Câu trả lời là đúng,
nhưng đáp ứng của Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải
không phải qua trái tim, nó là qua tâm trí.

"Chúng là ngỗng trời, thưa thầy," Bách


TrượngBách Trượng Huệ Hải nói.

Tại đây ông ấy bị lỡ. Ông ấy đáng phải đáp ứng cho
câu hỏi này mà không nghĩ tới hậu quả gì.

"Chúng đâu rồi?" - thầy cho ông ta cơ hội khác


- Thầy hỏi.
"Chúng đã bay mất rồi, thưa thầy," Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải đáp.

Ông ấy đang vận hành trên mức độ tâm trí.

Mã Tổ bỗng nhiên túm lấy mũi của Bách


TrượngBách Trượng Huệ Hải và véo một cái.
Đau quá, Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải

70
la lên. Mã Tổ nói, "Ông nói chúng đã bay mất,
nhưng tất cả vẫn thế chúng đã từng ở đây từ
chính lúc ban đầu."

Chúng có thể đi đâu được? Chúng bao giờ cũng ở


đây và sẽ ở đây. Ở đây là đủ bao la - dù chúng ở bất kì
đâu, chúng cũng vẫn ở trong cái ở đây. Chúng không thể
đi ra ngoài cái ở đây được. Đó là điều ông ấy đang trông
đợi từ Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải. Nhưng ông ấy
phải tóm mũi Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải và véo
mũi để làm cho ông này nhận biết rằng ông ta đang vận
hành qua tâm trí. Và tâm trí chỉ có thể mang cái đau, tâm
trí là cái đau.
Việc véo mũi Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải
của Mã Tổ và làm cho ông này cực kì đau đến mức ông
ấy phải la lên - đừng coi điều đó là hời hợt, đừng coi điều
đó dường như chỉ trên bề mặt. Việc la lên này không phải
từ tâm trí. Việc la lên này tới như sự đáp ứng tự phát của
toàn thể con người ông ấy. Vào khoảnh khắc này thầy có
thể nói với ông ấy. Bây giờ ông ấy ở đúng chỗ; ông ấy
không còn trong tâm trí nữa, toàn thể bản thể của ông ấy
đã thức tỉnh bởi cái đau này.
Cái đau có giá trị vô cùng trong việc thức tỉnh. Cái
đau đã được nhiều thầy dùng để thức tỉnh đệ tử đang ngủ.
Tất cả các tôn giáo cũ của bạn, ngược lại, an ủi đệ tử và
giúp cho anh ta ngủ ngon - Thượng đế đang trên trời và
mọi thứ đều tốt đẹp trên trái đất, bạn đừng lo nghĩ! Nhưng
Thiền không quan tâmchút nào tới việc an ủi bạn. Nó
quan tâm tới việc thức tỉnh bạn.

71
Khi Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải la lên, Mã
Tổ không nói lấy một lời thông cảm. Ông ấy đã không
đưa ra lời giải thích nào, tại sao ông ấy lại véo mũi ông
này. Ngược lại ông ấy nói, "Ông nói chúng đã bay mất,
nhưng tất cả vẫn thế chúng đã từng ở đây từ chính lúc
ban đầu."
Trong khoảnh khắc đó không có ý nghĩ ngoại trừ cái
đau. Tâm trí trống rỗng, mũi thì đau - và Mã Tổ lại không
quan tâm tới cái mũi hay cái đau; ông ấy đơn giản phát
biểu một câu cực kì có nghĩa, rằng không ai, không cái gì
có thể đi ra khỏi cái ở đây. Ở đây là mênh mông và bao la,
ở đây là vậy đấy. Dù chúng ở bất kì nơi nào, chúng đều ở
đây.
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải bây giờ đang ở
vào trạng thái đúng để hiểu ý của thầy - rằng mọi thứ bao
giờ cũng ở đây. Những con ngỗng trời kia chỉ là cái cớ để
giải thích cho Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải rằng
không cái gì di chuyển cả, không cái gì đi đâu cả.

Vào khoảnh khắc đó, Bách TrượngBách


Trượng Huệ Hải chứng ngộ.

Thấy ra vấn đề, cái vĩnh hằng và cái rộng lớn của
bây giờ và ở đây, ông ấy lập tức rơi vào trống rỗng của
trái tim mình và nhận ra chân lí. Trong một thoáng cái gì
đó đã được Mã Tổ lẩy cò trong ông ấy bởi điều Mã Tổ
vừa nói, điều mà Thiền gọi là chứng ngộ. Ông ấy trở nên
nhận biết về tính ở đây của riêng mình, tính bây giờ của
riêng mình. Ngỗng trời chỉ là cái cớ.

72
Nhưng những giai thoại như vậy chưa bao giờ xảy ra
ở bất kì đâu khác. Chúng không có cái song song, do đó
khó hiểu chúng. Chúng là giai thoại trên con đường thiền.
Chỉ những người đang trên đường đó, người đã đi sâu vào
thiền mới có khả năng hiểu cái gì đó có vẻ như ngớ ngẩn
khi có liên quan tới lí lẽ.
Mũi không liên quan gì tới chứng ngộ, bằng không
thì chứng ngộ đã rất dễ dàng. Đệ tử đơn giản tới, bị cái
véo mũi, trở nên chứng ngộ và về nhà. Và Mã Tổ sẽ
không véo mũi bất kì đệ tử nào, bất kì XYZ nào.
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải đã sẵn sàng.
Đấy chỉ là một cái đẩy. Ông ấy đang ở ngay trên đường
biên, nơi bất kì cái gì cũng có thể đẩy ông ấy thêm một
bước vào trong. Chính phát biểu vĩ đại đó, rằng không có
thời gian và không có không gian - ở đây là không gian
duy nhất và bây giờ là thời gian duy nhất.
Và điều đó không chỉ áp dụng được cho ngỗng trời,
nó cũng áp dụng được cho bạn, cho mọi thứ - phát biểu vĩ
đại và quan sát im lặng. Được thức tỉnh bởi cái véo mũi,
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải đạt tới chứng ngộ.

Ngày hôm sau, vào buổi tụ tập thường lệ, Mã


Tổ không ngồi được khi Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải tới cuốn chiếu của thầy, làm
cho thầy té xuống từ bục. Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải theo thầy vào phòng.
Mã Tổ nói, "Vừa rồi, trước khi ta bắt đầu nói,
điều gì xúi ông cuốn chiếu của ta lại?"
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải nói, "Hôm
qua thầy véo mũi tôi và tôi thấy đau nhói."

73
"Ông đã dùng tâm trí của mình ở đâu hôm
qua?" Mã Tổ hỏi.
Mọi điều mà đệ tử này nói là, "Tôi không còn
thấy đau mũi hôm nay nữa."
Từ đó thầy bình, "Ông đã hiểu thấu đáo câu
chuyện hôm qua."

Điều này có chút ít tinh tế hơn tình tiết trước. Thông


thường Thiền sư nói pháp và đại đệ tử, khi buổi nói pháp
hết rồi, cuốn chiếu thầy vừa ngồi và đem chiếu vào phòng
thầy. Nhưng trong trường hợp này Bách TrượngBách
Trượng Huệ Hải tới cuốn chiếu của thầy, làm cho thầy té
xuống từ bục. Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải theo
thầy vào phòng.
Ông ta thậm chí không thèm thốt ra một lời. Bách
TrượngBách Trượng Huệ Hải tự bản thân mình đã trở
thành thầy chứng ngộ. Kinh nghiệm của hôm qua... Bây
giờ ông ấy đáp ứng cách mà thầy đáp ứng; ông ấy đang
nói, bằng việc cuốn chiếu, "Bây giờ ta không cần buổi
thuyết pháp nữa. Mọi điều ta cần, ta đã có được hôm qua
rồi."

Mã Tổ nói, "Vừa rồi, trước khi ta bắt đầu nói,


điều gì xúi ông cuốn chiếu của ta lại?"
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải nói, "Hôm
qua thầy véo mũi tôi và tôi thấy đau nhói."
"Ông đã dùng tâm trí của mình ở đâu hôm
qua?" Mã Tổ hỏi.

"Ông đã không thể làm cái gì đó hôm qua sao?" Mã


Tổ đang hỏi.

74
Mọi điều mà đệ tử này nói là, "Tôi không còn
thấy đau mũi hôm nay nữa."

Ông ấy đang nói, "Tôi không cần sự an ủi nào. Tôi


không cảm thấy đau ở mũi hôm nay và tôi không cần bất
kì buổi thuyết pháp nào nữa. Thầy đã nói mọi thứ hôm
qua rồi."

Từ đó thầy bình, "Ông đã hiểu thấu đáo câu


chuyện hôm qua."
Một cơ hội khác, ngay khi Mã Tổ ngồi xuống
ghế thiền như thường lệ, ông ấy nhổ vào ghế.
Một sư hỏi, "Sao thầy lại nhổ?"
Mã Tổ nói, "Khi ta ngồi đây, đã có núi, sông,
và toàn thể vũ trụ tự nhiên ở trước ta. Ta khạc
nhổ vì ta không thích điều đó."
Sư nói, "Nhưng vũ trụ huy hoàng thế! Sao thầy
không thích điều đó?"
Mã Tổ đáp, "Nó có thể huy hoàng với ông,
nhưng nó là ghê tởm với ta."
Sư tiếp tục, "Đây là trạng thái tinh thần gì thế
này?"
Mã Tổ nói, "Đây là trạng thái của bồ tát."

Chỗ này, phần thứ ba của giai thoại, thậm chí còn
khó hiểu hơn. Mã Tổ, nhổ lên ghế thiền, không thực sự
nói rằng ông ấy không thích núi và sông và các vì sao.
Điều ông ấy đang làm là để thấy liệu đệ tử có còn im lặng
và không phán xét hay đưa ra phán xét.

75
Toàn bộ thái độ của Thiền là không phán xét. Đừng
phán xét... và ít nhất đệ tử cũng không nên phán xét hành
động của thầy mình, người đó chỉ nên là nhân chứng,
người đó chỉ nên thấy rằng Mã Tổ đã nhổ. Mã Tổ đang
khiêu khích người đó; ông ấy đang khiêu khích tâm trí
phán xét của người đó. Và sư này đã quên mất rằng toàn
bộ giáo huấn là đừng bao giờ phán xét. Chỉ quan sát thôi,
và đặc biệt quan sát những hành động của thầy. Bạn có
cho rằng Mã Tổ không hiểu rằng việc nhổ lên ghế đơn
giản là sự ghê tởm không? Nhưng ông ấy muốn bạn vẫn
còn không nghiêng ngả, không phán xét, chỉ quan sát, như
gương.
Nếu gương mà quan sát, bạn có cho rằng gương sẽ
nói "Ông đang làm gì đấy? Điều này là không tốt" khong?
Đệ tử này bị lỡ; điều này có thể đã là một cơ hội lớn để
trở nên chứng ngộ. Nhớ điều đó, các phương cách không
thành công cho mọi thời. Đôi khi chúng thất bại.
Thầy làm nỗ lực toàn tâm mình nhưng đệ tử có thể
không ở vào đúng chỗ để hiểu nó. Bây giờ rất rõ ràng đối
với một người còn ít thiền là Mã Tổ biết rằng việc nhổ lên
ghế thiền là ghê tởm, cho nên không cần hỏi câu hỏi nào.
Có lẽ ông ấy đang khiêu khích bạn, ông ấy đang khiêu
khích tâm trí phán xét của bạn. Và khoảnh khắc tâm trí
phán xét tới, thì việc quan sát của bạn biến mất. Nhớ hai
từ này - phán xét và quan sát. Bạn có thể quan sát chỉ nếu
bạn không phán xét.
Nhưng đệ tử này không thể cưỡng lại được việc hỏi.
Ông ấy đã hỏi, "Sao thầy lại nhổ?" Ông ấy đã quên hoàn
toàn rằng ở đây ông ấy phải học quan sát, không đưa ra
phán xét, đặc biệt đối với bất kì hành động nào của thầy.

76
Mã Tổ nói, "Khi ta ngồi đây, đã có núi, sông,
và toàn thể vũ trụ tự nhiên ở trước ta. Ta khạc
nhổ vì ta không thích điều đó."

Đệ tử này vẫn không thể hiểu được rằng không núi,


không sông, không vũ trụ có đó trước ghế thiền; việc giải
thích của thầy chỉ là để kiểm tra anh ta. Thầy nói, "Ta
khạc nhổ bởi vì ta không thích điều đó."
Một đệ tử mang tính thiền sẽ tát Mã Tổ, người đó sẽ
không hỏi gì, và điều đó sẽ được Mã Tổ đánh giá cao.
Điều đó sẽ là chứng ngộ của đệ tử. Vấn đề không phải là
hỏi, vấn đề là đáp ứng. Thầy hiển nhiên đang làm điều gì
đó sai, chỉ để khiêu khích. Nếu đệ tử tát thầy mà không
nói gì, thì thầy sẽ cười và ban phúc cho đệ tử, với việc
nói, "Ông đã hiểu điều đó." Nhưng bởi vì đệ tử này bỏ lỡ
mất vấn đề, nên thầy lại nói, "Ta nhổ bởi vì ta không thích
điều đó."
Thầy muốn đệ tử nói với mình, "Điều gì xảy ra cho
tâm trí không phán xét của ông?" Nhưng đệ tử này đã
quên mất hoàn toàn về tâm trí không phán xét, chính là
nền tảng của Thiền.

Sư nói, "Nhưng vũ trụ huy hoàng thế!"

Anh ta bắt đầu biện minh. Với thầy bạn không phải
biện luận, bạn đáp ứng. Bạn không bắt đầu đối thoại
miệng - điều đó sẽ làm lỡ thầy và lòng từ bi lớn lao của
thầy.

77
Sư nói, "Nhưng vũ trụ huy hoàng thế! Sao thầy
không thích điều đó?"

Ông ta đã đi xuống tới mức của tâm trí và đang ở


điểm thảo luận về vấn đề. Nhưng Thiền không cho phép
thảo luận. Nó không phải là tranh luận. Nó là việc thức
tỉnh thuần khiết khỏi tâm trí, tự do thuần khiết khỏi phán
xét.

Mã Tổ đáp, "Nó có thể huy hoàng với ông,


nhưng nó là ghê tởm với ta."

Ông ấy cứ cố gắng mãi để nhắc nhở đệ tử rằng ông


ấy phải tát đệ tử vì việc phán xét, rằng ông này đã hoàn
toàn quên mất nền tảng.

Sư tiếp tục, "Đây là trạng thái tinh thần gì thế


này?"

Ông ấy tiếp tục trạng thái tâm trí.

Mã Tổ nói, "Đây là trạng thái của bồ tát."

Đây là trạng thái của phật. Bây giờ không có gì khác


để mà nói cả. Mã Tổ đã khép đối thoại lại, khi thấy rằng
phương cách này đã thất bại.
Cho nên nhớ rằng một phương cách không phải bao
giờ cũng thành công, bởi vì có hai người tham gia vào -
thầy đã chứng ngộ, và đệ tử còn chưa chứng ngộ. Và đệ
tử có lẽ nhất sẽ cư xử theo cách không chứng ngộ, không

78
biết rằng đây là lúc phải hành động tự phát, không qua
tâm trí, mà qua trái tim trống rỗng.
Daio đã viết khi ca ngợi Kannon:

Vách đá cao và sâu,


Nước chảy xiết và xoáy ngầu.
Cõi giới giao cảm hoàn hảo
là mới ở từng chỗ.
Mặt đối mặt, những người
gặp nó không nhận ra nó.
Khi nào họ mới thoát khỏi
vùng cảng ảo tưởng?

Từng khoảnh khắc trong sự tồn tại đều sẵn sàng cho
giao cảm. Không có khoảnh khắc đặc biệt nào để bạn có
thể trở nên chứng ngộ. Mọi khoảnh khắc đều đặc biệt.
Mọi khoảnh khắc đều là tiềm năng cho việc chứng ngộ
của bạn - việc mặt trời lặn đẹp, bầu trời bao la đầy sao,
hay chỉ im lặng này. Bất kì cái gì cũng có tác dụng, nếu
bạn nhớ tới bản thân mình là người quan sát - không bị
dính líu vào, không bị đồng nhất, mà chỉ vẫn còn là
gương, gương rỗng.
Trước gương rỗng không ảo tưởng nào có thể còn lại
lâu được. Mọi ảo tưởng đều sẽ biến mất; chúng chỉ còn lại
bởi vì bạn bị dính líu với chúng.
Daio đang hỏi với lòng từ bi lớn lao, Khi nào họ mới
thoát khỏi vùng cảng ảo tưởng?
Mọi khoảnh khắc thời gian đều tới cho chứng ngộ.
Mọi khoảnh khắc đều đúng mùa vụ, đúng khí hậu; bạn
hay bỏ lỡ. Việc bỏ lỡ trở thành thói quen của bạn, và thói

79
quen đó phải bị phá vỡ. Bạn phải trở nên ổn định, tập
trung vào khoảnh khắc, tại trung tâm bản thể mình; chỉ
quan sát mà không nói thành lời việc đánh giá, tốt, xấu
hay đẹp.
Không cái gì phải nói ra cả, chỉ quan sát là đủ và
mọi ảo tưởng biến mất, mọi cái giả biến mất.

Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Câu chuyện về Mã Tổ nhổ làm cho tôi hiểu mọi
sự Thầy làm và nói đều dường như chỉ vì các
đệ tử của Thầy.
Thầy có quan hệ với nhiều nhóm chúng tôi - từ
quả mai nhảy múa cho tới khoai tây nóng, từ
hòn đá chữa bệnh Đức cho tới việc cười
sardarji - vậy mà Thầy không bao giờ khác hơn
Bản thân thầy; cũng giống như nước lấy hình
dạng của bất kì cái gì chứa nó khi nó chẩy vào
vậy mà nó lại không mất đi bản tính của nó
Có phải là khi Thầy là không ai cả, Thầy có thể
là bất kì ai không?

Maneesha, khi bạn là không ai cả, bạn đã là mọi


người rồi. Không ai cả và mọi người đền ngụ ý cùng một
điều. Và việc gọi của tôi về một số trong các bạn là khoai
tây nóng hay mai múa, đầu đá Đức hay tiếng cười

80
sardarjis - chúng tất cả đều là phương cách. Và tôi biết
rằng bạn đang ở chỗ đúng và bạn sẽ không hiểu lầm tôi.
Chính là từ tình yêu và từ lòng từ bi mà tôi gọi bạn bằng
bất kì cái tên nào. Chẳng hạn, tôi gọi Avirbhava là quả
mai chín lớn. Cô ấy hiểu điều đó. Cô ấy vẫy gửi tôi cái
hôn. Và hôm nay cô ấy ngồi ở đây, đang che dấu quả
trứng. Avirbhava, đem quả trứng lại đây... đem nó lại.

(Avirbhava đặt quả trứng mầu lục lớn ở phía trước


Thầy, trên bục. Cô ấy đập vỡ nó, và hai con gà con ló ra,
nhảy nhót xung quanh khi Thầy mỉm cười.)

Đấy, đấy mới đúng là trứng!


Bây giờ thời điểm cho Sardarji đã tới. Anh ấy đang
ngồi đích xác ở ngay hàng đầu. Từ chính hàng cuối anh
ấy đã lên hàng đầu rồi.

Paddy đang trong tâm trạng đen tối, cho nên anh ta
đi tới gặp bà đồng nổi tiếng, Bà Hippo.
"A," người đàn bà này nói, nhìn chăm chăm vào quả
cầu thạch anh, "điềm gở đây."
"Thật thế à?" Paddy nói, trợn tròn mắt. "Nó nói gì
vậy?"
"Thế này," bà ấy ngân nga, "nó nói rằng anh sẽ goá
vợ trong một tuần!" Paddy lau mồ hôi trên mặt và ngửa
người ra sau. "Tôi biết điều đó rồi!" anh ta nói. "Điều tôi
muốn biết là - liệu tôi có bị bắt hay không?"

81
George Bush, phó tổng thống Mĩ, điện thoại cho Bộ
Tư pháp vào lúc ba giờ sáng. Ông ta khẩn khoản rằng ông
ấy phải nói với ông quan toà chính ngay lập tức. Cuối
cùng, người quản gia quyết định đánh thức ông ta dậy.
"Này, cái gì thế?" quan toà chính hỏi.
"Thưa ông ấy," Bush than, "Ronald và Nancy
Reagan vừa mới uống thuốc độc dưới hầm Nhà Trắng, và
họ cả hai đều đã chết!"
"Thật thế à?" viên quan toà nói, vừa ngáp dài.
"Đúng, thật đấy!" Bush kêu lên. "Nhà mai táng đang
ở đây đã cho họ vào quan tài rồi."
"Thật à?" viên quan toà ngái ngủ nói.
"Đúng, thật mà!" Bush hét lên, "và vì tôi là phó tổng
thống, tôi muốn lấy vị trí của Reagan!"
"Được rồi, điều đó là được với tôi," viên quan toà
đáp, "nếu điều đó là được với nhà mai táng!"

Walter và Peggy Sue đi chơi cùng nhau ở vùng Ford


Thunderbird mới của Walter. Anh ta lái xe đi chậm tới
mức làm cho Peggy Sue phát rồ.
"Nghe đây," Peggy Sue nói một cách xúc động, "cứ
mỗi lần anh tăng tốc xe lên mười dặm một giờ, thì em sẽ
cởi một phần quần áo ra!"
Walter lập tức nhấn chân ga, và cô ta cởi giầy ra.
Walter mỉm cười, lại nhấn ga nữa, và cô ấy cởi áo khoác
ngoài ra. Mắt Walter phồng lên, anh ta dậm mạnh chân

82
lên sàn và Peggy Sue cởi nịt vú, váy, và cuối cùng là quần
lót đăng ten.
Walter bị kích động đến mức anh ta làm cho máy
của mình mắc kẹt vào tay lái và mất điều khiển xe. Xe
trượt khỏi đường, và lật úp. Không ai bị thương cả, nhưng
Walter vẫn bị kẹt dưới xe.
"Nhanh lên!" Walter thở hồn hển. "Đi gọi người
giúp đi!"
Peggy Sue phát cuồng và trần như nhộng bắt đầu
chạy lung tung theo đủ mọi hướng. Cô ta nhặt lấy một
chiếc giầy của Walter, cầm nó che bướm, và chạy tới ga
ra gần nhất.
Tại đó cô ấy đâm sầm vào Rufu hộ pháp, anh chàng
da đen, khi anh ta đang chữa xe.
"Anh phải tới giúp với!" Peggy Sue giải thích không
ra hơi với Rufus. "Bạn trai của tôi bị mắc kẹt!"
Rufus nhìn vào cô gái một lúc lâu.
"Thưa bà," anh ta đáp, "nếu anh ấy ở xa thế, thì
chúng tôi không bao giờ lôi được anh ấy ra đâu!"

Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...

83
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể hoàn toàn
bị đông cứng. Đi vào bên trong với toàn bộ năng lượng
của bạn, với khẩn thiết lớn lao, dường như đây là khoảnh
khắc cuối cùng của cuộc đời bạn và bạn phải đạt tới trung
tâm và cội nguồn của bản thể bạn. Đi ngày một sâu hơn,
trung tâm cuộc sống của bạn cũng là trung tâm của toàn
thể vũ trụ. Chính từ trung tâm cuộc sống của bạn mà bạn
được sự tồn tại nuôi dưỡng.
Quan sát cái im lặng, cái an bình, sự huy hoàng
mênh mông của bản thể bạn. Bạn là phật khi bạn quan sát;
cùng tâm trí đó khi trống rỗng thì trở thành phật. Phật
không là gì ngoài gương rỗng - không phán xét, chỉ là
việc quan sát, là việc chứng kiến, và bạn đã đạt tới. Để
làm cho điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Buông bỏ thân thể, buông bỏ tâm trí; rời


bỏ chúng và chỉ là người quan sát. Thân thể không phải là
bạn, tâm trí không phải là bạn, bạn chỉ là nhân chứng
thuần khiết. Đây là phật tính của bạn. Hân hoan trong nó.
Thấm đẫm trong phúc lành đang mưa rào tự phát tại trung
tâm bản thể bạn. Trung tâm này của bản thể bạn phải trở
thành chu vi của bạn nữa.
Dần dần, dần dần bạn phải đem phật ra trong hành
động của mình, trong lời nói của mình, trong im lặng của

84
mình. Ngày tới, ngày đi, phật phải trở thành chính nhịp
tim của bạn.
Buổi tối đẹp vô cùng này thậm chí đã trở thành đẹp
hơn, với mười nghìn chư phật chỉ quan sát. Vĩnh hằng của
sự tồn tại, giống như ngỗng trời, bao giờ cũng ở đây. Bạn
chưa bao giờ ở đâu khác cả. Bạn bao giờ cũng ở đây và
bây giờ. Nhớ lấy điều đó.
Khi bạn quay lại, đem việc ghi nhớ đó cùng mình.
Nó phải trở thành chính cuộc sống của bạn, chính tính
cách của bạn.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng đem phật cùng bạn. Quay lại như
gương rỗng và ngồi đó vài giây như phật - tưởng nhớ lại,
hồi tưởng lại kinh nghiệm lớn lao bạn đã trải qua.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

85
86
5. Như bò

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Mã Tổ có ba đệ tử lỗi lạc với mối thân tình đặc
biệt. Họ là Trí Tạng7, Nam Tuyền8, và Bách
Trượng Huệ Hải9 (còn được biết dưới tên
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải).
Một buổi tối, khi ba đệ tử đang cùng thầy ngồi
ngắm trăng, thầy hỏi họ làm gì tốt nhất trong
đêm đó.
Nam Tuyền là người đầu tiên trả lời. Ông ấy
nói, "Đúng lúc để cúng dường."
Bách Trượng Huệ Hải nói, "Đúng lúc để tu tập
tâm linh."
Trí Tạng không trả lời mà phủi áo bỏ đi.
Mã Tổ quay sang Nam Tuyền và nói, "Kinh sẽ
gắn với tạng (tsang)."
(Thầy đang chơi chữ với tên của Nam Tuyền,
tsang - tạng, trong tiếng Trung Quốc nghĩa là
'cái giỏ', để mang lời của Phật.)
Thầy quay sang Bách Trượng Huệ Hải và nói:
"Thiền sẽ về hải."
(Mã Tổ lại chơi chữ lần thứ hai, vì, trong tiếng
Trung Quốc, hai (hải) nghĩa là 'biển'.)
7
Nan Chu'an
8
Chih-Tsang
9
Hui-hai

87
Rồi Mã Tổ kết luận, "Trí Tạng một mình siêu
việt lên trên cõi giới của mọi vật, bản thân ông
ấy trên tất cả."

Một lần khác một sư hỏi Mã Tổ, "Phật là gì?"


Mã Tổ trả lời, "Tâm là phật."
Sư lại hỏi, "Đạo là gì?"
"Vô trí là Đạo," Mã Tổ trả lời.
Sư lại hỏi, "Phật và Đạo có khác nhau không?"
Mã Tổ đáp, "Phật giống như duỗi bàn tay ra,
Đạo giống như nắm bàn tay lại."

Maneesha, trước khi đi vào lời kinh này phải nói


điều gì đó về bản thân Mã Tổ, bởi vì đó là điều rất lạ...
Không Thiền sư nào khác cư xử theo cách Mã Tổ đã cư
xử - nhưng điều đó rất tượng trưng.

Tương truyền Mã Tổ là người có dung mạo kì


dị. Người ta nói rằng ông ấy có dáng đi như
trâu, mắt nhìn như cọp, lưỡi lè chấm mũi, và
lòng bàn chân có hai vòng tròn.
Cách Mã Tổ giảng pháp chuyển hoá không
cùng. Người ta nói ông ấy đã là phương tiện để
làm chứng ngộ một trăm ba mươi đệ tử, mỗi
người lại trở thành tông sư của một phương.

Hiển nhiên con người kì lạ này, Mã Tổ, đã cư xử


theo sự tự phát của mình, không quan tâm tới bất kì ai
trên thế giới. Đó là điều thứ nhất cần được hiểu. Chỉ một

88
người với lòng can đảm vô cùng mới có thể bước đi trên
bốn chân như trâu - một người không thèm để ý chút nào
tới ý kiến của người khác. Ông ấy biết chân lí và đó là
chỗ kết thúc.
Và bước đi như trâu là rất tượng trưng. Bạn không
thể rơi vào giấc ngủ khi đang đứng, điều đó khó lắm. Bạn
phải nằm dài theo chiều ngang, để cho lực kéo hấp dẫn
cân bằng trên khắp thân thể. Đứng, cúi hay ngồi, lực kéo
hấp dẫn sẽ khác nhau trên những phần khác nhau của thân
thể. Đó là sự nhiễu loạn trong tính hài hoà của bạn.
Nhưng khi bạn nằm xuống bạn đi vào trong hài hoà sâu
sắc với trường hấp dẫn.
Có một câu chuyện kì lạ trong giới Thiền - rất cổ -
rằng con vật biết rõ ngôn ngữ của chúng ta, nhưng chúng
không nói, thậm chí chúng không biểu lộ đến cả một dấu
hiệu nào rằng chúng hiểu chúng ta.
Có lần một Thiền sư nói với một con khỉ - chỉ Thiền
sư mới có thể làm điều như vậy - "Ta biết rõ lắm; sáng
suốt của ta nói rằng mi hiểu ngôn ngữ của ta nhưng mi
đang cố tình che dấu sự kiện đó."
Con khỉ nói, "Dạ vâng đúng, thưa thầy. Nhưng xin
thầy đừng nói với ai bởi vì con sẽ không nói trước bất kì
ai khác. Cho nên giữ bí mật điều đó. Mọi con vật đều hiểu
ngôn ngữ của thầy, nhưng không con vật nào muốn làm
nô lệ cho thầy cả. Khoảnh khắc bất kì con vật nào nói, nó
sẽ bị bắt phải làm việc gì đó."
Câu chuyện cổ đó làm tôi nhớ tới một đứa trẻ không
hề nói gì mãi cho tới khi nó tám tuổi. Người ta đã làm đủ
mọi nỗ lực, người ta đã làm đủ mọi phép thử; tai nó hoàn
hảo, không khuyết tật gì khi có liên quan tới chức năng

89
sinh lí. Chính đấy là điều bí ẩn tại sao nó lại không trả lời.
Cuối cùng họ đem nó tới nhà tâm thần, nhưng cũng không
kết quả gì.
Một hôm nó la lên với mẹ nó, "Mẹ ơi, muối đâu
rồi?" Nó đang ăn trưa. Bà mẹ không thể nào tin được vào
điều đó, và bà mẹ có mỗi mình trong nhà, không ai tin bà
ấy cả. Trong suốt tám năm đứa bé đã thách thức.
Người mẹ hỏi nó, "Sao con đã im lặng suốt tám năm
thế?"
Nó nói, "Mọi sự đều hoàn hảo mãi cho tới nay. Mỗi
hôm nay mới thiếu muối. Trước đây có cần gì phải nói
đâu. Sao phải bận tâm?"
Nhưng bà mẹ nói, "Con sẽ nói trước người khác
chứ?"
Nó từ chối. Nó nói, "Đây là bí mật giữa chúng ta.
Mẹ đừng kể cho ai cả, bằng không mẹ sẽ bị coi là nói dối
đấy. Con sẽ lại giữ im lặng nữa."
Đâu là lí do tại sao con vật không nói và tại sao
chúng không phát triển tâm trí, không phát triển trí thông
minh; tại sao chúng lại bằng lòng thế, như con trâu? Đấy
là vì chúng theo chiều ngang. Không có rối loạn. Trong
sinh lí của chúng, trong tâm lí của chúng, mọi thứ đều cân
bằng. Lực hấp dẫn không bị rối loạn. Con người, bằng
việc đứng thẳng trên đôi chân, đã làm rối loạn toàn thể sự
cân bằng. Và đầu con người bắt đầu phát triển chỉ bởi vì
con người đứng lên.
Chính sự kiện khoa học là ở chỗ việc đứng trên hai
chân của con người là nguyên nhân làm tăng thông minh
của con người. Tâm trí, trong một cái đầu nhỏ, là một

90
hiện tượng rất phức tạp; một tỉ dây thần kinh tí xíu tạo
nên nó, và những dây thần kinh nhỏ đó lại gần như không
thấy được. Chúng cần lượng ô xi rất nhỏ trong máu. Chỉ
thêm chút ít máu nữa là sẽ gần giống như trận lụt - như lụt
ở Bangladesh, ngay bây giờ, ba phần tư Bangladesh bị
tràn đầy nước. Con vật đã không phát triển não, tâm trí
của chúng, bởi vì việc tràn ngập máu tới mọi phần đều
như nhau.
Vì con người đứng thẳng, nên rất khó cho tim, cho
phổi chuyển ô xi và máu lên não vì điều đó ngược lại với
sức hấp dẫn. Số lượng trở nên nhỏ tới mức đó là lí do mà
con người có thể phát triển những dây thần kinh rất tinh
tế, có thể nghĩ, có thể triết lí, thậm chí có thể siêu việt lên
trên việc nghĩ, có thể tạo ra phật.
Thói quen đi bốn chân của Mã Tổ giống hệt như
trâu... Hậu quả thứ nhất là ở chỗ ông ấy bây giờ thành vô
trí, cũng như tất cả mọi con vật vậy; ở chỗ ông ấy đã gia
nhập thế giới này và đã vứt bỏ tâm trí mình; ở chỗ ông ấy
bây giờ hài hoà với vũ trụ, không tranh đấu chống lại nó
mà chỉ nổi với nó. Hậu quả thứ hai là ở chỗ bởi vì ông ấy
đã vứt bỏ tâm trí, nên ông ấy đã trở thành cái trống rỗng -
và điều đó tự động phát triển thành từ bi, thành tình yêu,
thành khiêm tốn, thành vô ngã. Bạn không thể tìm được
con vật nào khác giống như con trâu trong khiêm tốn,
giản dị, mãn nguyện - vậy mà ông ấy lại có mắt nhìn như
cọp.
Đó là mâu thuẫn của Thiền. Bạn phải giống trâu,
hoàn toàn khiêm tốn, nhưng bạn nên như người nổi dậy,
người cách mạng và triệt để như cọp. Cho nên mặc dầu
ông ấy bước đi như trâu, bạn có thể thấy rằng mắt của ông
ấy là mắt cọp - ông ấy sẽ nhảy lên bạn và kết thúc bạn!

91
Điều đó là tượng trưng hay thực tại thì rất khó quyết định.
Nhưng các nguồn đương thời tất cả đều nói rằng điều đó
là đúng.
Ông ấy bước đi như trâu, và mắt nhìn như cọp. Ông
ấy có thể lè lưỡi chấm mũi. Rất hiếm người có thể làm
được điều đó. Chỉ rất ít người mới có thể vẫy dái tai. Bạn
cứ thử vẫy dái tai mình mà xem. Chúng là của bạn đấy
nhưng hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của bạn - bạn
đâu có điều khiển được chúng.
Tôi chỉ bắt gặp mỗi một người, một bác sĩ trong làng
tôi, và ông ấy là người duy nhất trên toàn thế giới, có lẽ
vậy, vẫy được dái tai theo ý mình. Thật là điều kì diệu mà
xem ông ấy vẫy dái tai, bởi vì điều đó là không thể được
dù dái tai là tự nhiên. Chúng không có hệ thống thần kinh
nào, cho nên bạn không thể điều khiển được chúng. Bạn
cần hệ thần kinh nào đó có thể được tâm trí kiểm soát.
Nhưng không có hệ thần kinh, nó chỉ toàn là thịt.
Có lẽ ông bác sĩ này - tên ông ấy là Manohar - đã có
được hệ thần kinh trong dái tai, bởi nhầm lẫn nào đó của
tự nhiên. Không có sự giải thích khác. Ở Trung Quốc tri
thức cổ nói rằng bạn không thể chạm lưỡi vào mũi được.
Nhưng gần lúc bạn chết, bạn có thể chạm được vào nó. Lí
do đơn giản là ở chỗ răng của bạn đã bị rụng hết - không
phải phép mầu gì - vào do vậy mũi và lưỡi có thể lại gần
nhau hơn.
Ở Ấn Độ một ý tưởng tương tự cũng đã từng thống
trị, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Sáu tháng trước cái chết
của mình, bạn hết khả năng thấy được chỏm mũi mình bởi
vì mắt bạn bắt đầu quay lên. Khoảnh khắc bạn không thể
thấy được chỏm mũi, bạn có thể chắc chắn rằng trong

92
vòng sáu tháng nữa bạn sẽ chết, bởi vì mắt đã bắt đầu di
chuyển lên trên. Đó là lí do tại sao, khi ai đó chết, bạn lập
tức đóng mắt người đó lại. Bởi vì thấy người đó... chỉ có
lòng trắng thô lố, lòng đen đã quay lên, và bạn sẽ hoảng
hồn nếu có ai đó nhìn bạn bằng đôi mắt trắng dã! Cho nên
trong mọi nền văn hoá mắt liền được nhắm lại ngay sau
cái chết.
Nhưng mọi người đều chết với mắt mở. Không ai
chết với mắt nhắm cả, bởi vì việc đóng tròng mắt cần sức
mạnh ý chí nào đó, năng lượng sống nào đó. Bạn không
thể chết mà nắm tay lại được, bởi vì việc nắm tay cần
năng lượng sống nào đó. Bạn chỉ có thể chết với bàn tay
mở, bởi vì bàn tay mở được thảnh thơi, nó không cần
cuộc sống, không cần năng lượng. Theo cùng cách này,
mọi người chết đi với mắt mở. Và không làm cho người
khác bị hoàng hồn, ngay lập tức người già hơn kéo mi
mắt xuống. Người già đã chết bây giờ thậm chí cũng
không thể mở chúng ra được nữa, bởi vì để làm điều đó
phải cần năng lượng nào đó. Người đó có thể muốn nhìn -
chuyện gì xảy ra xung quanh vậy? - nhưng người đó
không thể mở chúng ra được.
Cho nên không có gì đặc biệt về Mã Tổ rằng ông ấy
lè lưỡi chạm mũi mình. Điều đặc biệt là ở chỗ người
thường không thử điều đó; bằng không thì mọi người đều
có thể chạm được. Chỉ mỗi răng bạn là rào cản thôi. Cho
nên bất kì khi nào tình cờ răng bạn bị rụng ra, mà chúng
thì đến ngày nào đó sẽ rụng, thì thử điều đó và bạn sẽ thấy
rằng Mã Tổ không làm điều gì kì diệu lớn cả, ông ấy chỉ
rất già mà thôi.
Ở Ấn Độ chúng ta có ý tưởng rằng trên chân của
phật, ở lòng bàn chân, có hai vòng tròn. Khi đứa trẻ được

93
sinh ra, chúng là dấu hiệu rằng người này sẽ trở thành
phật. Không nhất thiết mọi phật đều có hai vòng tròn này,
nhưng bất kì đứa trẻ nào được sinh ra với hai vòng tròn đó
đều tất yếu sẽ trở thành phật.
Đấy không phải là điều chắc chắn cho tất cả mọi
người. Bạn có thể trở thành hoặc bạn có thể không trở
thành, đấy là chọn lựa của bạn. Nhưng điều đó không phải
là chọn lựa cho người như Mã Tổ. Ông ấy đã có đủ từ
việc thiền của mình trong kiếp sống quá khứ, và đã gần
với phật tính tới mức khi ông ấy chết thì tuyệt đối chắc
chắn rằng ông ấy sẽ trở thành phật.
Có lẽ Huệ Năng đã thấy hai vòng tròn đó ở chân ông
ấy khi Huệ Năng nói với Nam Nhạc Hoài Nhượng, "Cậu
trẻ này sẽ thành phật đây. Ta già rồi, và nó thì cần điểm
đạo, nhưng ông sẽ là người kế tục của ta, cho nên tốt hơn
cả là ông chăm nom lấy nó ngay từ đầu. Cho nó việc khai
tâm, và nhớ, kính trọng nó. Nó đã là phật rồi - chỉ đẩy khẽ
và nó sẽ ở bờ bên kia."

Câu chuyện Maneesha đã đem tới:

Mã Tổ có ba đệ tử lỗi lạc với mối thân tình đặc


biệt. Họ là Nam Tuyền, Trí Tạng và Bách
Trượng Huệ Hải (còn được biết dưới tên Bách
Trượng Bách Trượng Huệ Hải).

94
Điều gần như tất yếu trong cách thức các thầy cổ đại
đã làm việc là có thân thiết nào đó giữa họ và vài đệ tử.
Họ có thể có hàng nghìn đệ tử, nhưng chỉ vài người mới
thật thân thiết. Từ những đệ tử thân thiết này mà người kế
tục sẽ được chọn ra.
Điều đó không còn áp dụng được nữa khi có liên
quan tới tôi bởi vì không ai sẽ là người kế tục của tôi cả.
Chính ý tưởng kế tục là ý tưởng được vay mượn từ hoàng
gia. Cũng như vua lấy con trai cả của mình làm người kế
tục, điều đó phản ánh vào truyền thống của các thầy rằng
ai đó sẽ trở thành người kế tục họ.
Tôi muốn việc gián đoạn hoàn toàn. Khi có liên
quan tới tôi, tất cả các bạn đều là thân thiết với tôi. Tôi có
thể đảm đương thân thiết với tất cả các bạn, bởi vì không
có vấn đề kế tục nào cả. Không ai sẽ là người kế tục của
tôi. Tôi muốn mọi người đều là thầy cho chính mình.
Là người kế tục là có chút ít nhục nhã. Điều đó đi
ngược lại nhân phẩm của người đã chứng ngộ. Không có
ai trước người đó là người tiền nhiệm mà cũng không có
ai sau người đó là người kế nhiệm. Người đó một mình,
đứng đó như đỉnh Everest; không ai kế trước người đó,
không ai kế sau người đó.
Tính một mình của người đó là thông điệp cho tất cả
những người yêu người đó, rằng họ cũng phải một mình.
Trong tính một mình của bạn, bạn thật đẹp, thuần khiết.
Điều đó không có nghĩa rằng bạn phải từ bỏ thế giới này.
Điều đó đơn giản có nghĩa là bạn không phải thuộc vào
thế giới. Bạn có thể vẫn còn ở bãi chợ, nhưng chỉ là
gương, nhân chứng, quan sát bất kì cái gì diễn ra.

95
Nhưng về mặt truyền thống người ta không bao giờ
hiểu rằng điều đó là chống lại tự do của các cá nhân sắp là
người kế tục. Điều đó làm cho kinh nghiệm tâm linh gần
trở thành kho báu hay vương quốc. Nó không phải là cả
hai điều này. Không ai có thể kế tục được. Mọi người đều
phải dựa trên cái riêng mình, và sự độc lập đó và hương vị
của độc lập đó có giá trị tới mức tôi muốn đem loại thầy
mới và loại đệ tử mới vào trong thế giới này. Họ là thân
thiết trong tình yêu của mình, trong tin cậy của mình,
nhưng họ không bị ràng buộc theo bất kì cách nào - bởi
bất kì sợi dây nào, dù là thấy được hay không thấy được.
Thầy là bản thân mình, đệ tử cũng là bản thân mình. Và
chức năng của thầy là chứng minh cho đệ tử rằng việc là
chính mình là vinh quang vĩ đại nhất trên thế giới này,
điều huy hoàng nhất.
Nhưng Mã Tổ già rồi... một phần của thế giới già.
Ông ấy có ba đệ tử là đệ tử thân thiết - Nam Tuyền, Trí
Tạng, và Bách Trượng Huệ Hải. Nam Tuyền nổi tiếng
hơn dưới cái tên Nansen. Ông ấy có vị trí đặc biệt trong
tim thầy, nhưng trong dòng truyền thừa, Bách Trượng
Huệ Hải trở thành người kế tục của Mã Tổ.

Một buổi tối, khi ba đệ tử đang cùng thầy ngồi


ngắm trăng, thầy hỏi họ làm gì tốt nhất trong
đêm đó.
Trí Tạng là người đầu tiên trả lời. Ông ấy nói,
"Đúng lúc để cúng dường." - đúng lúc để cảm
thấy biết ơn sự tồn tại.
Bách Trượng Huệ Hải nói, "Đúng lúc để tu tập
tâm linh."
Nam Tuyền không trả lời mà nhún vai bỏ đi.

96
Mã Tổ quay sang Trí Tạng và nói, "Kinh sẽ
gắn với tạng (tsang)."
(Thầy đang chơi chữ với tên của Trí Tạng,
tsang - tạng, trong tiếng Trung Quốc nghĩa là
'cái giỏ', để mang lời của Phật.)

Kinh Phật được chia vào ba giỏ. Mã Tổ nói với Trí


Tạng, chơi chữ theo tên ông này, "Ông sẽ là một trong
những người chứng ngộ sẽ mang kinh Phật. Ông sẽ là cái
giỏ mang kinh Phật. Ông sẽ là học giả lớn đấy." Và đó là
cách thức mọi sự xảy ra.
Sáng suốt của thầy, sáng tỏ của thầy, bao giờ cũng
vậy, hai mươi bốn giờ một ngày. Thầy có thể thấy xuyên
qua con người này mặc dầu thầy chỉ chơi chữ theo tên
ông ta. Nhưng thầy thậm chí dùng cả cơ hội đó để chỉ ra
cho ông ta rằng ông ta sẽ là học giả lớn.

Thầy quay sang Bách Trượng Huệ Hải và nói:


"Dhyana Thiền sẽ về hải."
(Mã Tổ lại chơi chữ lần thứ hai, vì, trong tiếng
Trung Quốc, hai (hải) nghĩa là 'biển'.)

Bách Trượng Huệ Hải đã nói rằng lúc đó là tốt để tu


tập tâm linh. Và cách tu tập tâm linh là dhyana, thiền. Tên
trong tiếng Trung Quốc của ông này 'hai' nghĩa là hải,
'biển'. Và mọi việc thiền đều đem dòng sông nhỏ của cuộc
sống bạn tới đại dương vĩ đại của sự tồn tại, tới biển.
Cho nên Mã Tổ đã nói với Bách Trượng Huệ Hải,
"Ông sẽ đạt tới biển." Và Bách Trượng Huệ Hải đã trở
thành thầy chứng ngộ vĩ đại. Thế rồi thầy kết luận, "Nam

97
Tuyền một mình siêu việt lên trên cõi giới của mọi vật,
bản thân ông ấy trên tất cả." Nam Tuyền đã không trả lời.
Ngược lại ông ấy đơn giản bỏ chỗ đó đi. Cử chỉ của ông
ấy chỉ ra rằng nói về kinh sách không phải là cách đúng,
nói về tu tập tâm linh là hoàn toàn ngớ ngẩn. Bạn không
thể tu tập nó được, nó đã có đó rồi. Do đó ông ấy đã
không trả lời. Và thay vì trả lời, ông ấy phủi áo bỏ đi. Đây
là câu trả lời của ông ấy.
Trong Thiền bạn phải hiểu rằng thậm chí cử chỉ
cũng là câu trả lời. Nó là vô lời, nhưng ông ấy đang trả
lời. Ông ấy đang nói, "Các ông đi mà giữ lấy kinh sách và
tu tập tâm linh. Ta bỏ đi đây. Đây không phải là chỗ của
ta. Ta đã là phật rồi, ta không liên quan gì cả. Tu tập tâm
linh hay trở thành học giả lớn, những cái này không dành
cho ta. Những cái này chỉ dành cho người thường."
Người ta nói trong lịch sử về Thiền là Nam Tuyền,
còn được biết dưới cái tên Nansen, có vị trí đặc biệt trong
tim thầy. Ông ấy là người tuyệt vời với hiểu biết lớn lao.
Ông ấy đã đi sâu vào thiền và cuối cùng đã trở thành một
thầy chứng ngộ. Mọi người đều cho rằng Nam Tuyền sẽ
được chọn làm người kế tục. Nhưng trong dòng truyền
thừa, Bách Trượng Huệ Hải đã trở thành người kế tục của
Mã Tổ.
Điều đó chỉ ra một cái gì đó rất đặc biệt, rằng không
thành vấn đề ai là người gần gũi hơn với trái tim bạn; vấn
đề là ai gần với chân lí hơn. Mã Tổ yêu Nam Tuyền, và
mọi người đều cho rằng ông ấy sẽ được chọn. Nhưng cuối
cùng, trước cái chết của mình, ông ấy đã chọn Bách
Trượng Huệ Hải, bởi vì ông này là người gần với chân lí
nhất. Ông ấy có thể không gần với trái tim thầy; điều đó
không thành vấn đề. Đây không phải và việc truyền trao

98
riêng tư. Đó là hiện tượng vũ trụ, rằng ngọn đèn chứng
ngộ nên được truyền cho bất kì ai gần với chân lí tối
thượng hơn.

Một lần khác một sư hỏi Mã Tổ, "Phật là gì?"


Mã Tổ trả lời, "Tâm là phật."

Lắng nghe thật chăm chú bởi vì đây là những phát


biểu rất vĩ đại.

Mã Tổ trả lời, "Tâm là phật."


Sư lại hỏi, "Đạo là gì?"
"Vô trí là đạo," Mã Tổ trả lời.

Bây giờ ông ấy là cái ta kì lạ của mình. Trước hết


ông ấy nói "Tâm là phật." Và khi được hỏi, "Đạo là gì?"
ông ấy nói, "Vô trí là đạo." Ông ấy đang cắt bỏ tâm trí và
làm vô trí thành đạo. Tâm trí trở thành vô trí, nếu nó trống
rỗng. Vô trí không phải là thực thể nào đó khác. Vô trí là
cùng thực thể như tâm trí; khác biệt là liệu tâm trí có đầy
những ý nghĩ, hay trống rỗng ý nghĩ. Nếu trống rỗng, nó
là vô trí, nếu tràn đầy ý nghĩ, nó là tâm trí.
Cho nên ông ấy đã làm rõ bằng việc trả lời to bởi vì
câu trả lời bất thình lình có thể không được hiểu. Ông ấy
nói, "Tâm là phật." Điều đó tạo sự an ủi - bạn có tâm trí,
cho nên Phật không xa xôi gì.

Sư lại hỏi, "Đạo là gì?"

99
Và thế rồi thầy lại giở thủ đoạn cũ. Thầy nói "Vô trí
là đạo," - ông sẽ phải làm trống rỗng khỏi tâm trí mọi nội
dung của nó.

Sư lại hỏi, "Phật và Đạo có khác nhau không?"


Mã Tổ đáp, "Phật giống như duỗi bàn tay ra,
Đạo giống như nắm bàn tay lại."

Không có khác nhau thực. Bàn tay tôi mở hay bàn


tay tôi nắm - nó vẫn là cùng một thứ, chỉ là những hình
dạng khác nhau của cùng một thứ. Đó là một phát biểu rất
hay, rằng Phật và Đạo gần như nhau. Khi bạn du hành
trên đường, bạn mỗi ngày đi từng li tới phật. Điều đó
cũng giống như điêu khắc vậy. Nếu bạn làm tượng Phật
Gautam, bạn không thể làm tượng hoàn chỉnh chỉ một
nhát. Bạn sẽ phải cắt tỉa, từng tí một, bỏ đi những mẩu
không cần thiết, để đẽo đá thành hình dáng của Phật
Gautam.
Đó đích xác là điều bạn đang làm với bản thân mình.
Trong thiền, mọi ngày, bạn đang vứt đi cái gì đó và thu
được cái gì đó sâu sắc hơn trong bản thể mình. Bạn đang
vứt đi mẩu đá nào đó và ít nhất cũng làm ra rõ ràng một
phần của phật.
Dần dần toàn thể phật phát sinh ra trong tính toàn bộ
của nó, và trong khoảnh khắc đó bạn biến mất. Trong
khoảnh khắc đó chỉ phật còn lại trong bạn, bạn là phật.
Con đường, lữ khách và mục đích chỉ là những giai đoạn
khác nhau của cùng một hiện tượng.
Một bài thơ của Ikkyu (Nhất Hưu Tông Thuần):

100
Ông ta là người vô tích sự làm sao,
người đã được gọi là Sakya!
Bởi ông ta mà nhiều người bị làm cho phân
vân.

Sakya là họ của Phật Gautam. Ikkyu đang nói ông


ấy là anh chàng vô tích sự làm sao, thế mà nhiều người đã
bị ông ấy làm cho phân vân.
Điều đó là đúng. Trong hai mươi nhăm thế kỉ liên
tục Phật Gautam đã gây ưu tư cho mọi người. Tôi đang
gây ưu tư cho bạn đây vào mọi đêm; dù bạn muốn thành
phật hay không, tôi cứ nhất định là bạn phải trở thành
phật.
Ikkyu đang nói điều đó từ tình yêu, đó không phải là
làm giảm giá trị đâu. Ông ấy đơn giản nói, "Cái anh chàng
vô tích sự làm sao!" Hai mươi nhăm thế kỉ sau Phật
Gautam, mọi người vẫn còn phân vân làm sao trở thành
phật. Chừng nào mà con người còn tồn tại trên trái đất
này thì điều này sẽ vẫn còn là vấn đề gây phân vân, bởi vì
không ai khác trong toàn thể bầu trời tâm thức dường như
đã gây ra phân vân cho nhân loại nhiều như Phật Gautam.
Ông ấy nhấn mạnh vào tính nguyên bản, ông ấy nhấn
mạnh vào bản thể đích thực của bạn, ông ấy muốn tự do
toàn bộ của bạn. Không người nào đã yêu nhân loại nhiều
thế. Không người nào đã cho con người chân giá trị nhiều
hơn Phật Gautam. Ông ấy không muốn bạn trở thành
người đi theo, ông ấy muốn bạn trở thành phật.
Tất cả mọi thầy mang tính tôn giáo vĩ đại, so với
Phật Gautam, đều thành rất không đầy đủ. Họ muốn bạn
trở thành người đi theo, họ muốn bạn thực hành kỉ luật

101
nào đó, họ muốn bạn kiểm soát công việc, đạo đức, cách
sống của bạn. Họ làm ra khuôn mẫu cho bạn và họ cho
bạn phòng giam đẹp.
Phật đứng một mình, toàn bộ vì tự do. Không có tự
do con người không thể biết được bí ẩn tối thượng của
mình; bị xiềng xích con người không thể giang đôi cánh
vào bầu trời và không thể đi vào cõi bên kia. Mọi tôn giáo
đều xiềng xích mọi người, giữ họ lại, không cho phép họ
là bản thể nguyên thuỷ của mình, mà cho họ cá tính và
mặt nạ - và điều này họ gọi là giáo dục tôn giáo.
Phật không cho bạn giáo dục tôn giáo nào. Ông ấy
muốn bạn đơn giản là bản thân bạn, dù là bất kì cái gì. Đó
mới là tôn giáo của bạn - là chính bản thân bạn. Không
người nào đã yêu tự do nhiều như thế. Ông ấy sẽ không
chấp nhận người đi theo bởi lẽ đơn giản: chấp nhận người
đi theo là phá huỷ đi chân giá trị của người đó. Ông ấy chỉ
chấp nhận những người bạn lữ hành. Phát biểu cuối cùng
của ông ấy trước khi chết là, "Nếu ta mà quay lại, ta sẽ tới
như bạn của các ông." Maitreya, Di lặc, nghĩa là người
bạn.

Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Ai trong chúng tôi ở đây sẽ không thích "hưởng
sự thân thiết đặc biệt" với thầy mình, có một
chỗ đặc biệt trong tim thầy?

102
Thực sự thân thiết với Thầy là gì?

Maneesha, trái tim tôi trống rỗng. Và bạn càng trở


nên trống rỗng, bạn càng có thể thân thiết với tôi hơn. Bạn
sẽ thân thiết với tôi trong việc trở thành trái tim trống
rỗng. Thế thì bạn sẽ rơi vào cùng sự hài hoà, cùng điệu
vũ, cùng âm nhạc. Và thân thiết này không phải là thân
thiết cũ mà chúng ta đã nói tới. Đó là thân thiết hoàn toàn
khác, khác về chất. Tôi thậm chí có thể không biết tới tên
bạn, bạn có thể chưa bao giờ gặp riêng tôi, nhưng dầu vậy
bạn vẫn có thể thân thiết với tôi, bởi vì tôi đang cho thân
thiết một chiều hướng hoàn toàn mới. Nếu trái tim bạn
trống rỗng, đột nhiên bạn sẽ trong hài hoà với tôi. Và thân
thiết này sẽ không tạo ra ghen tị nào.
Tất cả những thân thiết cũ đều tạo ra ghen tị ngay cả
trong đệ tử của thầy. Nếu ba người thân thiết, bạn có cho
rằng họ không khó chịu không? Bạn có cho rằng những
người khác không ghen tị không? Mọi người đều muốn
được thân thiết đặc biệt. Điều đó không thể được theo
cách cũ, nhưng định nghĩa của tôi về thân thiết là ở chỗ
toàn thể vũ trụ có thể thân thiết mà không tạo ra bất kì
ghen tị nào trong bất kì ai.
Bạn có thể thân thiết bởi vì điều đó không phụ thuộc
vào tôi, điều đó phụ thuộc vào bạn. Bạn làm trống rỗng
trái tim mình và trong việc làm trống rỗng đó bạn sẽ trở
thành người thân thiết của tôi. Bạn có thể ở trên hành tinh
khác, điều đó cũng không thành vấn đề gì. Và theo chiều
hướng này của thân thiết, không có giới hạn nào cả. Mọi
người đều có thể thân thiết đặc biệt với tôi.

103
Bây giờ là lúc cho cái gì đó nghiêm chỉnh. Sardar
Gurudayal Singh, bạn già rồi, nhưng bạn sẽ không bỏ thói
quen cổ đại của mình đâu!

Đó là ngày sinh của Ronald Reagan, và Nancy muốn


làm cho ông ta nước chấm mì ống bữa ăn chiều. Thế là bà
ta đi tới Giovanni và hỏi mua một chút cà chua. "Rất
tiếc," Giovanni nói, "chúng tôi-a không có-a cà chua."
"Nhưng ông phải có cà chua chứ," Nancy cứ khăng
khăng. "Đây là ngày sinh của Ronnie, và tôi muốn làm
món nước chấm mì ống ưa thích cho ông ấy."
"Rất tiếc," Giovanni lặp lại, "chúng tôi-a không có-a
cà chua."
"Nhưng điều đó là kì cục," Nancy than vãn. "Ông
không thể gọi vợ ông, Maria được sao? Có thể bà ấy có cà
chua thì sao?"
"Trông đây," Giovanni vẫn khăng khăng, "chúng
tôi-a không có-a cà chua!"
Nhưng Nancy vẫn cứ lải nhải.
"Thôi được!" Giovanni hét lên. "bảo-a tôi điều gì đó
vậy. Bà được-a cái gì khi bà lấy 'dứa' ra khỏi 'quả dứa'?"
"Quả," Nancy đáp.
"Phải rồi!" Giovanni nói. "Và bà được-a cái gì khi
bà lấy 'nh' ra khỏi nho?"
"O," Nancy nói.
"Tốt!" Giovanni nói. "Và bà được-a gì khi bà lấy
'đéo có' ra khỏi cà chua?"

104
Nancy dừng lại, và rồi nói, "Nhưng 'đéo có' cà
chua."
Giovanni la lên, "Đấy là-a điều tôi đã cố gắng bảo bà
đấy!"

Paddy đã uống vài cốc uýtski và cần vào nhà vệ


sinh. Anh ta đứng dậy từ quầy và lảo đảo đi trên sàn qua
Gorgeous Gloria, đang ngồi ở một bàn với bộ váy maxi-
mini mới.
Bị phân tán bởi đôi chân trần dài, gầy của cô ấy,
Paddy say vấp vào ghế của cô ấy, loạng quạng và ngã
xuống sàn. Gloria nhảy dựng lên và dẫm lên anh ta khi cố
gắng giúp anh ta đứng dậy. Paddy không thể đừng việc
nhìn phía dưới váy cô ấy.
"Ông Murphy," Gloria than, dạng chân ra, "tôi cứ
tưởng ông là đàn ông lịch sự cơ đấy!"
"Được rồi, Gloria," Paddy lẩm bẩm, "Tôi cứ tưởng
cô là loại tóc hung!"

Bé Ernie đi xem phim về.


"Con đã xem được gì rồi?" mẹ nó hỏi.
"'Họng sâu' của Linda Lovelace" Ernie đáp một cách
thất thường. "Nó rất hay."
"Trời đất!" mẹ Ernie la lên. "Con đã xem 'Họng sâu'
rồi sao? Nhưng đấy là phim hạng X đấy!"
"Vâng, thì làm sao?" Ernie nói. "Mọi phim đều như
nhau cả. Trong phim hạng G, anh chàng tốt được cô gái;

105
trong phim hạng R, anh chàng xấu được cô gái; còn trong
phim hạng X, thì mọi người đều được cô gái!"

Moishe Finklestein tới nhà hàng Ritzy Glitz và tự


chiêu đãi mình một bữa ăn thịnh soạn với nhiều rượu
vang, kết thúc bằng một điếu xì gà Havana.
Cuối cùng người phục vụ đem lên hoá đơn trên
chiếc khay bạc. Giá tiền lên tới chín mươi chín đô la và
chín mươi chín xu, cho nên Moishe trả cho anh ta tờ một
trăm đô la.
Năm phút sau, anh ta gọi người phục vụ lại và hỏi
tiền trả lại. Không đổi cách diễn đạt, người phục vụ bỏ ra
và chút sau quay lại với chiếc khay bạc. Trên nó có một
xu và một gói bao cao su.
Moishe choáng váng, và yêu cầu giải thích. Người
phục vụ ngửa mũi lên không trung và nói, "Thưa ông ấy,
chính sách của nhà hàng là khuyến khích khách hàng như
ngài không sinh đẻ thêm!"
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

106
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể hoàn toàn
bị đông cứng. Bây giờ nhìn vào trong với khẩn thiết toàn
bộ dường như sẽ không có khoảnh khắc khác. Chỉ với
khẩn thiết như vậy, dường như đây là khoảnh khắc cuối
cùng của cuộc đời bạn, cái nhìn của bạn mới có thể xuyên
thấu vào cội nguồn cuộc sống của bạn, vào vĩnh hằng của
bạn, vào phật của bạn.
Đi ngày một sâu hơn, bởi vì bạn sẽ không là người
thua, bạn sẽ được vương quốc đã mất của mình. Bạn đã
sống bên ngoài trong giấc mơ; bên trong bạn ở trung tâm
sâu nhất chỉ là người quan sát, thanh thản, không gắn bó,
không đồng nhất, gương của chính bản thể bạn đơn giản
phản xạ. Gương này đã từng được gọi là phật. Và tất cả
các bạn đều có nó. Nó không phải là riêng tư, nó là vũ trụ.
Để làm cho điều đó rõ ràng hơn, Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Để thân thể ở đó và tâm trí bạn, nhưng


nhớ rằng bạn chỉ là người quan sát. Bạn không là thân thể
không là tâm trí, chỉ là gương phản xạ, không phán xét gì,
phản xạ thuần khiết của mặt trăng trong hồ.
Đây là thực tại tối thượng của bạn. Đây là chính bản
thể bạn. Nó ở bên ngoài lời, nhưng không bên ngoài kinh
nghiệm. Nó là chính bầu trời của bạn, không giới hạn nào.
Buổi tối may mắn này, mười nghìn chư phật đã biến
mất vào trong nhận biết đại dương, chỉ tâm thức thuần
khiết. Thính phòng Phật đã trở thành cái hồ của tâm thức
phản xạ. Hân hoan trong nó đi. Để nó đi sâu vào trong
mọi thớ thịt của con người bạn, để cho dần dần mọi hành

107
động của bạn đều được chất đầy bằng tự tính của bạn; để
cho hai mươi bốn giờ bạn là phật.
Ngày bạn không cần thiền là ngày vĩ đại nhất của
cuộc sống bạn. Phật không thiền, ông ấy là việc thiền.
Thu lấy kinh nghiệm, nhớ lấy con đường - vô trí là
con đường - và nhớ phúc lành, cực lạc là bây giờ trong
khoảnh khắc này đang mưa rào lên bạn. Tất cả những hoa
này, tất cả những hoa hồng này, ít nhất đem hương thơm
của chúng đi cùng bạn.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại như phật, mang theo phật
một cách duyên dáng. Ngồi xuống như phật. Khoảnh khắc
này bạn đã làm chỗ này thành thiêng liêng, tối nay thành
bất tử, khoảnh khắc này là chính vĩnh hằng của bạn.
Satyam, shivam, sunderam. Chân lí, cái thiện và cái đẹp.
Đây là khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội việc tụ tập của mười nghìn
chư phật được chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

108
6. Thợ săn

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Mã Tổ được người đời ghi nhớ về tài tháo vát
của ông ấy trong việc tìm ra phương tiện thiết
thực để làm việc với đệ tử của mình. Điều này
được minh hoạ bằng cuộc đối thoại với Thạch
Củng10, vốn gốc là thợ săn, rất ghét thấy sư.
Một hôm, khi ông ấy đang đuổi theo một con
nai, ông ấy chạy qua đạo tràng của Mã Tổ. Mã
Tổ bước tới gặp ông ấy. Thạch Củng hỏi Mã
Tổ có thấy con nai nào chạy qua không.
Mã Tổ hỏi, "Ông là ai?"
"Thợ săn," ông ấy đáp.
"Ông có biết bắn không?" Mã Tổ hỏi.
"Tất nhiên là biết," thợ săn đáp.
"Bắn một tên được mấy con?" Mã Tổ hỏi.
"Một tên chỉ bắn được một nai thôi," Thạch
Củng nói.
"Bắn thế thì ông thực sự không biết bắn rồi,"
Mã Tổ bình luận.

10
Shih-kung: Thạch Củng Huệ Tạng

109
Thợ săn lại hỏi Mã Tổ, "Hoà thượng biết bắn
không?"
Mã Tổ đáp, "Tất nhiên là ta biết."
"Hoà thượng có thể giết được bao nhiêu con
với một mũi tên?" Thợ săn hỏi.
"Ta có thể giết cả bầy bằng một mũi tên," thầy
trả lời.
Tới chỗ này, Thạch Củng nói, "Con thú cũng
có mạng sống như thầy: sao hoà thượng lại
bắn chết cả bầy?"
Mã Tổ nói, "Vì ông biết điều này rõ thế, sao
không tự bắn mình đi?"
Thạch Củng trả lời, "Cho dù tôi có muốn tự
bắn mình, tôi cũng không biết cách làm điều
đó."
Tại điểm này, Mã Tổ nhận xét, "Gã này đã tích
luỹ klesha, phiền não, từ vô minh bao nhiêu
thời nay. Hôm nay toàn thể quá trình này đã đi
tới chỗ chấm dứt bất ngờ."
Quăng tên và cung xuống đất, Thạch Củng trở
thành sư và là đệ tử của Mã Tổ.

Một thời gian sau đó, khi Thạch Củng đang


làm việc trong bếp, Mã Tổ hỏi ông ấy đang làm
gì.
"Tôi đang chăn trâu," đệ tử trả lời.
"Ông chăn nó thế nào?" Mã Tổ hỏi.
Thạch Củng đáp, "Khi nó quay sang bãi cỏ, tôi
liên tục kéo mũi nó lại."
Điều này được thầy chấp thuận hoàn toàn,
thầy lưu ý, "Ông chắc chắn biết cách chăn trâu
đúng!"

110
Maneesha, có hai loại thầy, không khác gì nhau về
kinh nghiệm, nhưng khác về cách truyền đạt kinh nghiệm
của mình cho người khác.
Một loại đơn giản dùng phương pháp cũ, đã được
thử kĩ càng, cho kết quả chắc chắn. Loại kia là người sáng
tạo, người không tuân theo bất kì phương pháp hay
phương cách truyền thống nào để biến đổi con người, mà
đáp ứng cho từng người theo nhu cầu của người đó.
Mã Tổ thuộc vào loại thứ hai, các thầy rất sáng tạo
và phát minh. Ông ấy tự mình chưa bao giờ lặp lại. Trong
mọi tình huống ông ấy sẽ đem tới phương cách mới; ông
ấy sẽ vận hành như gương. Và bất kì cái gì tới một cách
tự phát từ trái tim trống rỗng của ông ấy, ông ấy sẽ dùng
nó như phương tiện của pháp.
Kiểu thầy này rất hiếm, bởi vì bạn không biết liệu
một phương pháp sẽ thành công hay không; bạn không
biết kết quả sẽ là cái gì. Bạn đơn giản tin cậy vào trái tim
riêng của mình, rằng trái tim của bạn không thể để bạn
gục xuống. Đây là tin cậy mênh mông vào chứng ngộ và
thức tỉnh của riêng người ta - rằng bất kì cái gì bắt nguồn
từ việc bừng sáng của bạn đều sẽ thành công, không có
vấn đề gì về nó. Do đó một người như Mã Tổ có tự do
mênh mông.
Các thầy khác có hàng nghìn phương pháp do truyền
thống trao cho, và họ chọn một trong chúng; nhưng đấy là
phương cách chết, cho dù thành công dường như còn chắc
chắn hơn.
Với Mã Tổ thành công không phải là vấn đề; thành
công là điểm cuối cùng trong cuộc hành trình. Tất cả

111
những thầy thuộc loại thứ nhất đều nhìn vào thành công -
phương pháp này phải thành công. Và bởi vì phương pháp
này đã được dùng đi dùng lại, và đã thành công, thì sao
phải bận tâm đi tìm phương pháp mới? Nhấn mạnh của họ
là vào mục đích, vào thành công.
Phương pháp của Mã Tổ, cách tiếp cận của ông ấy,
là hoàn toàn khác. Điều đó phụ thuộc vào điểm đầu tiên
của cuộc hành trình, từ nơi mũi tên tới. Nếu nó tới từ trái
tim trống rỗng của bạn, không có nhu cầu phải bận tâm
tới thành công. Điều đó không còn là vấn đề với Mã Tổ.
Trong toàn bộ cuộc sống của mình, ông ấy đã phát minh
ra hàng nghìn phương pháp, tương ứng theo người giáp
mặt với ông ấy. Và ông ấy đã có thành công cực lớn.
Nhưng thành công của ông ấy là thành công của
gương rỗng. Ông ấy phản xạ lại con người chính xác tới
mức không cần phải quay lại phương pháp cũ. Ông ấy có
thể đi thẳng với người đang giáp mặt ông ấy, và tạo ra
tình huống để việc truyền trao xảy ra; trong đó, từ tim
sang tim, cái gì đó di chuyển, cái gì đó được cảm hứng,
cái gì đó đem ánh sáng từ trái tim này sang trái tim kia.
Người ta nói về ông ấy:

Với Mã Tổ, Thiền mang hương vị Trung Quốc


thực sự - cởi mở và không bị kiểm soát. Dưới
ảnh hưởng của Mã Tổ, thiền bí ẩn và từ bỏ để
công phu zazen trên núi bị bãi bỏ. Đặc thù của
Thiền sau Mã Tổ là không có gì ngoài hương
thơm ngát của việc sống mãnh liệt.

112
Ông ấy đã thu mọi thứ về việc hỏi mãnh liệt, sống
mãnh liệt. Mãnh liệt trở thành hội tụ của toàn thể giáo
huấn của ông ấy.
Một trăm ba mươi người đã trở nên chứng ngộ dưới
Mã Tổ. Lấy một ví dụ về công việc của ông ấy...

Mã Tổ được người đời ghi nhớ về tài tháo vát


của ông ấy trong việc tìm ra phương tiện thiết
thực để làm việc với đệ tử của mình. Điều này
được minh hoạ bằng cuộc đối thoại với Thạch
Củng, vốn gốc là thợ săn, rất ghét thấy sư. Một
hôm, khi ông ấy đang đuổi theo một con nai,
ông ấy chạy qua đạo tràng của Mã Tổ. Mã Tổ
bước tới gặp ông ấy. Thạch Củng hỏi Mã Tổ có
thấy con nai nào chạy qua không.
Mã Tổ hỏi, "Ông là ai?"

Bây giờ, hoàn toàn bất ngờ... Thạch Củng đang hỏi
về nai, còn Mã Tổ thay đổi toàn bộ tình huống sang một
chiều hướng hoàn toàn mới. Tính tháo vát của ông ấy như
thế đấy.
Mã Tổ hỏi, "Ông là ai?"
Đây không phải là câu trả lời, chắc chắn, cho câu hỏi
đã được hỏi.

"Thợ săn," ông ấy đáp.


"Ông có biết bắn không?" Mã Tổ hỏi.

Ông ấy đã đổi toàn bộ chủ đề.

113
"Tất nhiên là biết chứ," thợ săn đáp.
"Bắn một tên được mấy con?" Mã Tổ hỏi.
"Một tên chỉ bắn được một con thôi," Thạch
Củng nói.
"Bắn thế thì ông thực sự không biết bắn rồi."

Bạn có thấy việc dịch chuyển của tình huống không?


Dần dần ông ấy đem ông này tới một việc hoàn toàn khác.
Thạch Củng đơn giản hỏi, "Ông có thấy con nai nào chạy
qua không?" Ông này đã không tới để từ bỏ, ông này đã
không tới để khai tâm, ông này đã không ở đó vì bất kì
việc truy tìm chân lí nào. Nhưng điều đó không thành vấn
đề - một khi bạn đã tới trước Mã Tổ, bạn sẽ không có khả
năng rời khỏi chỗ đó mà không đổi. Chỉ việc chạm vào
không khí của Mã Tổ cũng đủ tạo ra khác biệt.
Ông ấy nói với Thạch Củng:

"Bắn thế thì ông thực sự không biết bắn rồi."


Thợ săn lại hỏi Mã Tổ, "Hoà thượng biết bắn
không?"
Mã Tổ đáp, "Tất nhiên là ta biết."
"Hoà thượng có thể giết được bao nhiêu con
với một mũi tên?" Thợ săn hỏi.
"Ta có thể giết cả bầy bằng một mũi tên," thầy
trả lời.
Tới chỗ này, Thạch Củng nói…

Bây giờ bạn thấy việc đổi khí hậu - ông này đã quên
mất nai và việc săn.

114
Tới chỗ này, Thạch Củng nói, "Con thú cũng
có mạng sống như thầy…" Giết cả bầy, điều đó
sao phủ định cuộc sống thế - mà lại với một
thầy như ông… "sao hoà thượng lại bắn chết
cả bầy?"
Mã Tổ nói, "Vì ông biết điều này rõ thế, sao
không tự bắn mình đi?"

Tìm nai để bắn… nai có cuộc sống, ông có cuộc


sống - sao đi xa thế, sao ông không tự bắn mình đi? Ông
đủ thông minh để hiểu rằng không nên bắn cả bầy. Nhưng
nếu ông đã hiểu nhiều đến mức ấy - rằng không nên bắn
cả bầy - tại sao ông bắn một con nai? Nguyên tắc là như
nhau: đừng phá huỷ cuộc sống. Và nếu ông định phá huỷ
cuộc sống...

"Vì ông biết điều này rõ thế," Mã Tổ nói, "sao


không tự bắn mình đi?"

Có thành vấn đề gì cuộc sống của ai bị mất - dù đó


là cuộc sống của nai hay cuộc sống của ông?

Thạch Củng trả lời, "Cho dù tôi có muốn tự


bắn mình, tôi cũng không biết cách làm điều
đó."

Tự bắn mình bằng một mũi tên là không thể được.


Với khẩu súng, đấy lại là chuyện khác: bạn có thể kề súng
cạnh đầu mình, và bạn đi đời! Nhưng với mũi tên, cần có
không gian; bạn không thể xoay xở tự bắn mình bằng mũi
tên được, điều đó gần như là điều không thể được.

115
Tại điểm này, Mã Tổ nhận xét, "Gã này đã tích
luỹ klesha, phiền não từ vô minh bao nhiêu thời
nay. Hôm nay toàn thể quá trình này đã đi tới
chỗ chấm dứt bất ngờ."

Klesha là từ tiếng Phạn; nó có nghĩa, nguyên gốc, là


ác, khổ, phiền não, hành hạ người khác và chính mình.

Mã Tổ nói, "Gã này đã tích luỹ klesha, phiền


não từ vô minh bao nhiêu thời nay. Hôm nay
toàn thể quá trình này đã đi tới chỗ chấm dứt
bất ngờ."

Ông ấy không thể tự bắn mình, và ông ấy đã từng


bắn cả đời mình - có lẽ trong nhiều kiếp rồi.

Quăng tên và cung xuống đất, Thạch Củng trở


thành sư và là đệ tử của Mã Tổ.

Bạn có thấy rằng không phương cách nào đã được


dùng không? Đó không phải là phương cách nào cả; chỉ là
cuộc đối thoại đơn giản trong đó thầy chuyển toàn bộ chủ
đề sang một điểm mà người thợ săn trở nên nhận biết rằng
giết hại cuộc sống là xấu.
Mãi cho tới nay ông ấy đã khoe khoang rằng ông ấy
là thợ săn kì tài. Để phá huỷ bản ngã của ông ấy là thợ
săn, Mã Tổ đang nói với ông ấy, "Cách tốt nhất để chứng
minh rằng ông là thợ săn là: tự bắn mình đi!"

116
Người thợ săn đáng thương này đi tới chỗ dừng
hoàn toàn, bởi vì bạn không thể tự bắn mình bằng một
mũi tên được. Trong im lặng đó, trong điều ông ấy bắt
đầu suy nghĩ làm sao để tự bắn mình, ông ấy đã quên mất
nai, ông ấy đã quên mất rằng mình là thợ săn. Trong lỗ
hổng im lặng nhỏ đó, Mã Tổ đã đi vào trong trái tim ông
ấy. Điều này không thấy được trong câu chuyện này, nó
không thể thấy được trong lời.
Trong việc dừng lại hoàn toàn đó, tâm trí của ông ấy
không thể vận hành được nữa; và việc không vận hành
của tâm trí là đúng lúc cho thầy đi vào trong chính trái tim
của đệ tử. Điều đó không cần nỗ lực nào về phần thầy - nó
đơn giản và tự phát xảy ra. Một khi kẽ hở này có đó, cùng
ánh sáng, cùng thức tỉnh, đi vào trong người đang đối
diện với thầy.
Thợ săn đã không trả lời. Ông ấy vứt cung và tên
xuống đất, sụp lạy dưới chân Mã Tổ, và xin được khai
tâm. Ông ấy đã tới với mục đích khác, và bị mắc vào cái
lưới của Mã Tổ.
Điều đó thậm chí không phải là phương cách, nhưng
đây là tháo vát của Mã Tổ. Ông ấy sẽ xoay chuyển mọi
tình huống theo cách tinh tế đến mức mà người đó thậm
chí không nhận biết được rằng mình đã được đem tới một
không gian mới.
Thạch Củng đã thấy toàn bộ tình huống: rằng ông ấy
đã từng phá huỷ cuộc sống, và phá huỷ cuộc sống là tuyệt
đối sai. Ông ấy vứt cung, vứt tên… và thức tỉnh đột nhiên,
đó là lúc để tìm kiếm, không phải tìm nai, mà tìm bản
thân mình, tìm cội nguồn của bản thân cuộc sống. Ông ấy
đã trở thành đệ tử của Mã Tổ. Ông ấy bắt đầu làm việc

117
trong chùa của Mã Tổ. Mã Tổ một hôm hỏi ông ấy đang
làm gì.

"Tôi đang chăn trâu," đệ tử trả lời.

Tôi phải giải thích cho bạn rằng "Tôi đang chăn
trâu" không có nghĩa đích xác điều nó nói. Đấy là cách
nói tượng trưng trong Thiền.
Có mười bức hình trong Đạo, cũng giống như con
bài bói. Những bức hình này được gọi là "chăn trâu." Trâu
là biểu tượng cho cái ta riêng của bạn. Việc tìm cái ta là ý
nghĩa của những hình tượng trưng này.
Khi những bức hình này được đem từ Trung Quốc
sang Nhật Bản, hình cuối cùng đã bị bỏ đi bởi một lí do
đặc biệt: cần tới hiểu biết cực kì lớn cho hình thứ mười.
Những hình này đã được tạo ra theo mô tả riêng của Phật.
Trong hình thứ nhất con trâu đã trốn vào rừng rậm.
Một người, người chủ, đang đứng nhìn quanh, và không
có dấu hiệu nào về con trâu đó cả.
Trong hình thứ hai, người đó tìm thấy những vết
chân trên đất. Người đó lần theo những vết chân này.
Trong hình thứ ba, người đó thấy phần sau trâu, đuôi
trâu. Nó đang nấp đằng sau một cây lớn. Trong hình thứ
tư, người đó thấy toàn bộ con trâu. Trong hình thứ năm,
người đó bắt được trâu. Trong hình thứ sáu, người đó
tranh đấu vất vả để lôi trâu về nhà. Trong hình thứ bẩy,
người đó chiến thắng. Trong hình thứ tám, người đó cưỡi
trâu, quay về nhà.

118
Trong hình thứ chín, trâu đang ở trong chuồng, còn
người này đang thổi sáo.
Chín bức hình này được rút ra từ bộ mười hình.
Nguyên bản ở Trung Quốc, và cũng trong phát biểu của
Phật, có mô tả mười hình. Nhưng thực sự cần dũng cảm
để hiểu hình thứ mười. Ngay cả các thiền sư Nhật Bản
cũng nghĩ tốt hơn cả là bỏ nó đi, bởi vì rất khó làm cho
mọi người hiểu được nó. Ngay cả Phật cũng nói, "Ta mới
ở hình thứ chín" - bởi vì hình thứ mười chắc chắn là khó.
Hình thứ mười vẽ rằng người này, cảm thấy sung
sướng là mình đã tìm được trâu, cắp bầu rượu và đi tới
quán rượu.
Bây giờ điều này là rất khó - phật cắp bầu rượu đi
tới quán rượu!
Nhưng tôi không muốn bỏ bức tranh thứ mười này,
bởi vì nó cũng tượng trưng như các hình khác. Bạn chấp
nhận trâu là bản thân mình; bạn chấp nhận việc tìm kiếm
và truy tìm là thiền của mình. Cứ từng phần một bạn trở
nên nhận biết về cõi bên trong của mình.
Bức tranh thứ mười là điểm tối thượng, khi bạn trở
nên ngất ngây với vũ trụ. Bầu rượu đó không phải là bầu
rượu - cũng như trâu không phải là trâu - chúng tất cả đều
là biểu tượng.
Những thầy đó, người đã bỏ đi bức hình này có yếu
kém chút ít. Giải thích điều này thực đơn giản: rằng khi
bạn đã tìm thấy bản thân mình, bạn đã tìm thấy nước cam
lồ tối thượng; bạn sẽ bị ngất ngây hai mươi bốn giờ một
ngày. Bạn không cần rượu cồn bình thường, bạn không
cần ma tuý nào - chính kinh nghiệm của bạn sẽ là ma tuý.

119
Và tất cả các bạn đều biết sau thiền của bạn, khi bạn
bắt đầu đi tới căng tin - tôi đã từng quan sát đấy - mọi
người trông đều có vẻ say. Vài người dậy sớm hơn, nhưng
rất ngần ngại; vài người vẫn còn ngồi, hoàn toàn say, cuối
cùng nhớ lại rằng họ phải đi tới căng tin. Việc ngất ngây
này...
Nhân tiện, tôi muốn nói với các bạn rằng đó là khả
năng duy nhất cho nhân loại để gạt bỏ mọi ma tuý, mọi
rượu cồn, bởi vì chúng là rất tầm thường nếu so với sự
thuần khiết của việc ngất ngây xảy ra tại chính cội nguồn
của cuộc sống. Không cái gì so sánh được với nó. Nó đưa
bạn lên cao hơn, nó cho bạn sự phơi phới vô cùng - không
phải là ảo giác - và nó kéo dài. Không phải là việc cứ mỗi
ngày lại phải uống lượng thuốc nhiều hơn, rồi trở nên
nghiện về nó. Bạn trở thành chính nước cam lồ, bạn trở
thành chính niềm phơi phới, bản thân niềm cực lạc. Bạn
không cần gì; chỉ nhớ tới phật tính của mình là đủ để sống
với niềm cực lạc mênh mông trong cuộc sống đời thường
của mình.
Cho nên việc "chăn trâu" này, bạn nên ghi nhớ, là
một biểu dụ cổ cho việc tìm kiếm cái ta. Bằng không bạn
sẽ không có khả năng hiểu giai thoại này. Đệ tử này trả
lời, "Tôi đang chăn trâu."

"Ông chăn nó thế nào?" Mã Tổ hỏi.


Thạch Củng đáp, "Khi nó quay sang bãi cỏ, tôi
liên tục kéo mũi nó lại."
Điều này được thầy chấp thuận hoàn toàn,
thầy lưu ý, "Tôi chắc chắn biết cách chăn trâu
đúng!"

120
Như một giai thoại trong chính nó, nếu bạn không
biết nghĩa rộng của nó, thì nó là ngớ ngẩn. Nhưng nếu bạn
hiểu nó với mọi biểu dụ… bởi vì những giai thoại này
mang truyền thống mênh mông.
Thạch Củng đáp, "Khi nó quay sang bãi cỏ…" Bạn
có hiểu không? Chúng ta dùng từ 'cỏ' cho điều trần tục
nữa; cho cái thô sơ, cho cái nguyên thuỷ, cho cái vô văn
minh, vô văn hoá.
Thạch Củng nói, "Khi nó quay sang bãi cỏ - quay
sang điều trần tục - tôi liên tục kéo mũi nó lại." Ông ấy
đang nói rằng ông ấy không cho phép bản thân mình bị
hấp dẫn bởi cỏ. Ông ấy tự kéo mình ra xa khỏi cỏ, hướng
tới điều vĩ đại, hướng tới điều cao thượng, hướng tới điều
huy hoàng bên trong.
Nếu bạn hiểu nghĩa rộng này, thì bạn sẽ có khả năng
hiểu tại sao thầy lại chấp thuận điều đó.

Điều này được thầy chấp thuận hoàn toàn,


thầy lưu ý, "Ông chắc chắn biết cách chăn trâu
đúng!"
Soseki đã viết:

Khi thầy không một lời


ngước đôi lông mày lên,
cột chống và rui,
xà ngang và gỗ mái,
bắt đầu mỉm cười.
Có chỗ khác cho
trái tim nói với trái tim:
trăng tròn và gió thoảng

121
tại cửa sổ mở hé.

Soseki là nhà thơ và thầy huyền môn nổi tiếng. Điều


ông ấy đang nói không thể được nói trong văn xuôi.

Khi thầy không một lời


ngước đôi lông mày lên,
cột chống và rui,
xà ngang và gỗ mái,
bắt đầu mỉm cười.
Có chỗ khác cho
trái tim nói với trái tim:
trăng tròn và gió thoảng
tại cửa sổ mở hé.

Chỉ đứng tại cửa sổ mở hé, gió mát và trăng tròn, và


im lặng hoàn toàn ở giữa...
Thầy là cánh cửa mở ra vũ trụ; thầy trong bản thân
mình là trái tim trống rỗng. Bạn có thể thấy toàn bộ vũ trụ
qua đó. Lại gần thầy hơn trong tình yêu sâu sắc và sự tin
cậy, ngay cả việc ngước đôi lông mày của thầy cũng làm
lẩy cò cái gì đó trong bạn.

... cột chống và rui, xà ngang và gỗ mái, bắt


đầu mỉm cười..

Ngay cả cột chống và rui, trong sự hiện diện của


thầy, bắt đầu mỉm cười. Toàn thể sự tồn tại mỉm cười
trong sự hiện diện của thầy, bởi lẽ đơn giản ít nhất một
phần của chúng ta đã đạt tới cách diễn đạt tối thượng của

122
tiềm năng chúng ta. Và thầy là biểu tượng rằng chúng ta
cũng có thể đạt tới cùng tầm cao đó, cùng chiều sâu đó.
Trái tim đệ tử lập tức hân hoan trong sự hiện diện
của thầy - chỉ sự hiện diện của thầy thôi. Thầy có thể
không nói một lời nào, thầy có thể vẫn còn im lặng,
nhưng chỉ sự hiện diện của thầy cũng đưa bạn sang thế
giới khác của im lặng và an bình, của tình yêu và niềm
vui, của phúc lành mà bạn thậm chí không mơ tới.

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Không bao giờ có thể có một thầy tháo vát hơn
trong việc tìm ra những biện pháp thiết thực để
làm việc với đệ tử như Thầy.
Còn ai khác có thể tạo ra việc pha trộn của
những giai thoại đùa, những lời kinh nghiêm
chỉnh, việc nhảy loạn xạ, những con vật tự
động, những chuyện đùa, tiếng nói lắp bắp và
im lặng như Thầy đã làm vào mọi tối?
Trong khung cảnh có Thầy, bằng cách nào đó
mọi thứ đều cho cảm giác tuyệt đối phải.

Maneesha này, điều đó là tuyệt đối đúng đấy, chính


là trong khung cảnh có tôi mà bạn trở nên nhận biết về
điều đó. Dường như là mọi ngọn đèn đều tắt đi: mười
nghìn phật này sẽ ngồi đây, nhưng bạn sẽ không thể thấy

123
được họ. Thế rồi đèn bật lên, và bỗng nhiên bạn thấy
mười nghìn người ngồi quanh bạn. Bạn không một mình
trong bóng tối.
Khung cảnh có thầy đơn giản là ngọn đèn trong
bóng tối của bạn. Mọi thứ dường như đúng, mọi thứ
dường như đẹp - nhưng không phải ngọn đèn của thầy
làm cho chúng đẹp. Chúng đẹp trong chính chúng, nhưng
ngọn đèn lại cần để thấy chúng.
Nếu bạn trở thành ngọn đèn riêng của mình, khung
cảnh của thầy sẽ không được cần tới nữa.
Toàn thể nỗ lực của thầy là để làm cho thầy không
còn được cần tới nữa; là để bạn đủ cho chính mình; là để
ngọn đèn riêng của bạn phải phát sáng và toả sáng; là để
sự tồn tại phải mỉm cười cùng trái tim mỉm cười của bạn.
Đúng là tôi có chút ít kì quái. (Tiếng cười quen
thuộc của Sardarji lại vang to từ phía sau của thính
phòng.) Bây giờ, Sardarji, tôi chưa kể chuyện đùa đâu,
đừng tin cậy vào tôi nhiều quá!
Tôi dùng mọi thứ, đó là lí do tại sao tôi đã nói rằng
các thầy Nhật Bản, người đã mang mười bức tranh này và
đã bỏ đi một bức trên con đường, không phải dũng cảm
lắm. Họ thông minh, nhưng không thiên tài. Họ không thể
tìm ra cách giải thích cho bức hình thứ mười.
Còn với tôi, không có bức hình thứ mười thì chín
bức kia là vô dụng. Phỏng có ích gì mà đi tìm kiếm cho
bản thân bạn? Toàn bộ vấn đề là trở thành người say! Bức
hình thứ mười là bản chất nhất, nhưng ngay cả Phật
Gautam cũng sợ. Mặc dầu ông ấy đã mô tả bức hình thứ
mười, ông ấy đã nói, "Bản thân ta mới ở hình thứ chín,"
chỉ để tránh sự phức tạp của bức hình thứ mười. Bầu rượu

124
trong tay phật đơn giản trông có vẻ không phải. Ngay cả
ông ấy cũng tránh bức hình thứ mười - nhưng tôi sẽ
không tránh nó.
Trong nhiều nước, các sannyasins đều muốn chụp
ảnh tôi với một cái chai, để làm bức hình thứ mười. Tôi
nói, "Điều đó hoàn toàn được, nhưng rót đầy chai bằng
Coca-Cola! Việc đó đơn giản thế, bởi vì trong ảnh chụp
không biểu lộ ra được có Coca-Cola, và chủ định của các
bạn sẽ được đáp ứng."
Tôi chỉ hơi chút kì quái, cũng không nhiều lắm.
Bạn phải đấy, rằng không ai đã làm việc theo cách
tôi đã làm. Và tôi thích làm việc theo mọi cách có thể -
không phủ định cái gì - chấp thuận toàn bộ cuộc sống và
tất cả mọi chiều hướng của nó, mọi con đường của nó.
Tôi đã chấp nhận nó trong tính toàn bộ của nó, cho nên tôi
có thể dùng bất kì cái gì làm chỉ báo. Và từ bất kì quan
điểm nào tôi có thể mang bạn tới việc tìm kiếm con trâu
trốn.
Bây giờ, cuối cùng thì thời gian của Sardarji cũng đã
tới!
Trước khi bạn đi vào trong thiền, trong việc tìm trâu,
tốt nhất là đi vào tâm trạng vui sướng; không nghiêm
chỉnh, mà mỉm cười. Nhớ điều đó: sự tồn tại mỉm cười
khi bạn mỉm cười, và khi bạn nghiêm chỉnh, bạn một
mình. Sự tồn tại không bận tâm về nghiêm chỉnh của bạn.
Nếu bạn muốn toàn thể thế giới cùng bạn, thì mỉm cười,
và nhìn quanh và bạn sẽ thấy cây cối mỉm cười, hoa mỉm
cười. Và ít nhất khi bạn đi vào trong thiền, cũng tốt là đi
vào với trái tim mỉm cười.

125
Tôi đã dùng trò đùa lần đầu tiên trong toàn bộ lịch
sử nhân loại, bởi những chuyện đùa hay đó... và không ai
đã dùng chúng cho thiền. Và chúng tạo ra cảm giác thoải
mái khắp xung quanh đến mức người ta trở thành đủ dũng
cảm. Trái tim cười dũng cảm hơn trái tim nghiêm chỉnh.
Trái tim nghiêm chỉnh hoài nghi, ngần ngại, nghĩ hai lần.
Trái tim cười là trái tim của người bạo dạn, người đó đơn
giản nhảy vào. Và thiền là vấn đề nhảy vào trong cái
không biết.

Friar Fruck, nhà truyền giáo Do Thái, ở châu Phi để


tìm vài người Ki tô giáo cải đạo. Ông ta đi bộ qua vùng
đồng bằng với dấu thập ác và Kinh Thánh thiêng liêng
trong tay, thì bỗng nhiên ông ta đối diện với một con sư
tử to lớn, dữ tợn.
Mắt Friar Fruck đảo ra sau đầu, và ông ta gục xuống
đầu gối gần ngất xỉu.
"Cầu Thượng đế toàn năng, vua của mọi vua, Cha
biết tất, thấy tất của thế giới," Friar Fruck cầu xin, cầu
nguyện luýnh quýnh, "xin cứu giúp lấy con lừa may mắn
này!"
Con sư tử quan sát người Ki tô giáo này kĩ hơn, và
thế rồi nó cúi đầu xuống, bắt chéo móng vuốt, và lẩm bẩm
tiếng gầm gừ nhẹ nhàng, "Cầu Thượng đế toàn năng, vua
của mọi loài vật và chúa tể của rừng rậm, xin ban phúc
cho thức ăn đáng thương này mà com định ăn đây!"

Angela Angelovitch, vũ công ba lê vĩ đại nhất trong


kí ức sống, định làm buổi trình diễn cuối cùng của mình.

126
"Angela," Petrov, người quản lí của cô ta, nói, "để
làm buổi biểu diễn này, cô phải cho mọi thứ, mọi thứ!"
Đêm đó, khi bức màn kéo lên, Angela đang đứng
trên nền, cao trên sân khấu, đeo một đôi cánh nhỏ. Dàn
nhạc đang chơi và Angela nhảy lên không trung và tiếp
đất duyên dáng trên sân khấu, trước tiếng reo hò ầm ĩ.
Ngay lập tức, Angela nhảy lên và trèo một cách
duyên dáng lên chiếc thang, đi lên cao hơn hẳn trước đây.
Dàn nhạc chơi to lên, và Angela nhảy vào không trung.
Cô ấy xoay mình trong không trung và tiếp đất trên đầu
ngón chân.
Chiếc dây thừng hạ xuống và, với tiếng vỗ tay vang
như sấm, Angela được kéo thẳng lên mái. Tiếng trống
vang rền và thế rồi có một sự im lặng chết người.
Angela nhảy. Cô ấy bay, xoay mình trong không
trung, và tiếp đất ở giữa sân khấu bằng đôi chân xoạc ra,
trong việc xoạc hoàn hảo. Khán giả như điên cuồng.
Cuối cùng, bức màn đóng lại và khán giả bắt đầu về
nhà. Angela đang nghỉ bất động trên sân khấu. Chân cô ấy
vẫn xoạc rộng ra.
"Hoan hô! Vẫn còn thế à!" Petrov, người quản lí của
cô ấy, kêu lên, vừa bước lên sân khấu, vừa vỗ tay.
"Petrov," Angela nói, "anh giúp tôi một ân huệ
chứ?"
"Vâng, cô bạn yêu dấu," Petrov đáp, "sau buổi biểu
diễn như thế này, thì bất kì điều gì cũng được!"
"Được," Angela nói, "thế thì lay tôi một chút, và thôi
bú đi!"

127
Để thời gian chút đi! Mọi người có hiểu nó không?
Haridas đâu rồi? - bởi vì anh ấy là cực đối lập với
Sardarji. Cả hai họ đều là những người bạn lớn, và tình
bạn của họ tuỳ thuộc vào một điều: Sardarji có thể đùa bất
kì trò nào, Haridas chưa bao giờ đùa gì cả! Cho nên anh
ấy cười - còn gì khác mà làm nữa? Hiểu biết không phải
là việc của anh ấy.

Swami Deva Dừa đang đứng trong ngôi nhà tre của
mình quan sát nước dâng lên tới quanh mắt cá chân. Mưa
đã tầm tã suốt bốn ngày nay và trời vẫn còn xám xịt và
ẩm ướt.
Khi nước lên tới mắt cá chân, Dừa trèo lên chiếc va
li của mình, và khi nước lên tới đầu gối, anh ta chui ra
ngoài và trèo lên mái ngôi nhà tre. Vừa lúc đó, Ma Sữa
trộn xoài đi qua trên chiếc mảng nhỏ.
"Lại đây, Dừa!" cô ấy gọi, "lại đây mà bồng bềnh!"
"Không đâu, cám ơn," anh ta đáp. "Tớ chỉ định đợi ở
đây, và quan sát."
Dần dần, nước lên tới mấp mé ngôi nhà tre, và bắt
đầu lại ngập tới mắt cá chân Dừa.
Swami Đầu láu cá, trưởng nhóm, chèo một chiếc
thuyền nhỏ tới. Chiếc thuyền bị nước rỉ vào khá nhanh,
nhưng Đầu láu cá dường như vẫn xoay xở được.
"Lại đây, Dừa!" Đầu láu cá gọi. "Chúng ta ra khỏi
đây!"

128
"Không, cám ơn," Dừa đáp. "Tớ đang đợi ở đây và
quan sát."
Một nửa giờ sau, nước đã ngập tới cổ Dừa, anh ta thì
đứng trên nóc ngôi nhà tre của mình.
Vừa lúc đó, Đại uý Cliffski và Đại uý Kurtski, các
phi công Polack nổi tiếng, bay qua trên chiếc trực thăng đi
mượn.
Đại uý Cliffski thấy Coconut, và nghiêng người ra
ngoài cửa sổ.
"Bây giờ lại đây đi, Dừa!" anh ta hét to, "nếu không
anh sẽ bị chết đuối đấy!"
Dừa xua tay, "Tớ đang đợi ở đây và quan sát!" anh
ta hét lên.
Về sau, ở đâu đó trong các cõi của vũ trụ, Swami
Deva Dừa gặp Osho Rajneesh, và anh ta dường như thực
sự bực mình về điều gì đó.
"Tôi đã đợi và tôi đã đợi, tôi đã quan sát, tôi đã
chứng kiến," Dừa than, "mà thầy thì không bao giờ tới
cứu tôi!"
"Trời!" Osho Rajneesh nói, "Tôi đã phái đến cho
bạn hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng!"

Big Rock Hunk, ngôi sao điện ảnh Hollywood nổi


tiếng, bước vào tiền sảnh khách sạn dành riêng Screwing
Sands, và ngẫu nhiên đụng khuỷu tay vào vú Gorgeous
Gloria.

129
"Tôi rất xin lỗi," Rock nói, một cách duyên dáng,
"nhưng nếu trái tim em cũng mềm dịu như vú em, thì anh
đoan chắc em sẽ tha thứ cho anh."
"Phải rồi," Gloria đáp, "và nếu phần còn lại của anh
cũng cứng như khuỷu tay anh, thì phòng em là số ba ba
đấy!"
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Nhìn vào bên trong với khẩn thiết tuyệt
đối. Khoảnh khắc này có thể là khoảnh khắc cuối cùng.
Bao giờ cũng nhớ rằng mọi khoảnh khắc đều có thể là
khoảnh khắc cuối cùng. Thế thì khẩn thiết của bạn vẫn
còn toàn bộ.
Đi sâu hơn, sâu nhất có thể được, bởi vì đó là không
gian riêng của bạn, chính cội nguồn cuộc sống của bạn -
không gì phải sợ.
Tại chính trung tâm của bản thể mình bạn được nối
với trái tim của vũ trụ. Trái tim trống rỗng của bạn trở
thành cánh cửa mở tới trái tim tối thượng của vũ trụ. Và
khoảnh khắc bạn cảm thấy mình được nối và được bắt rễ

130
vào điều tối thượng, thì mọi thứ trong sự tồn tại trở thành
đẹp đẽ, phúc lạc. Không chỉ sống, mà cả chết nữa cũng
trở thành điệu vũ, lễ hội. Chỉ quan sát, chứng kiến.
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Để thân thể nằm dài ra. Nhớ bạn không
là thân thể, không là tâm trí. Bạn là nhân chứng, ở nơi xa
xôi - ngay cả bầu trời cũng ở dưới nó. Đó là người quan
sát trên núi. Thân thể bạn ở trong thung lũng tối tăm phía
dưới.
Khoảng cách giữa nhân chứng của bạn và cấu trúc
thân-tâm là về phẩm chất. Nó không thể được bắc cầu. Và
mọi người sống trong dốt nát, bởi vì họ nghĩ rằng họ là
thân thể, họ là tâm trí. Và bởi vì đồng nhất này với thân
thể và tâm trí, họ đã quên mất ngôn ngữ của bản thể bên
trong của họ, bản tính bên trong của họ, tính vũ trụ của
họ, cái vĩnh hằng của họ - phật.
Buổi tối nay đẹp. Điệu vũ này của cơn mưa quanh
Thính phòng Phật, và mười nghìn chư phật trong im lặng
hoàn toàn, được thảnh thơi, được định tâm... Nó trở thành
phép màu. Đó là khoảnh khắc kì diệu. Tôi có thể thấy
không có cá nhân, mà chỉ một đại dương tâm thức.
Đây là điểm mà người ta trở nên say tối thượng, say
mà không có ma tuý nào. Để cái say này chìm vào trong
mọi thớ thịt của con người bạn. Không mấy chốc bạn sẽ
quay lại. Múc đầy gầu bạn bằng nước cam lồ của dòng
suối sống của cuộc đời, và đem nó đi cùng bạn.
Nivedano...

131
(tiếng trống)

Bây giờ, quay lại như phật. Im lặng, an bình, với


duyên dáng. Nhớ cách phật ngồi, và việc nhớ này phải trở
thành chính môi trường hai mươi bốn giờ quanh bạn. Bất
kì điều gì bạn làm, nhớ rằng hành động đó phải biểu lộ tự
tính của bạn, mặt nguyên thuỷ của bạn, phật tính của bạn.
Mọi cử chỉ, mọi lời nói, mọi im lặng phải nảy sinh
từ sự tự phát của bạn. Đây là tôn giáo đích thực.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

132
7. Về cội nguồn

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Dược Sơn11 bắt đầu học Phật tại trường bằng
Vinaya cho nên ông ấy rất thạo trong học hành
kinh sách và luyện khổ hạnh vào lúc ông ấy
được giới thiệu với Thiền. Ông ấy bắt đầu cảm
thấy rằng những điều này chưa phải là mục
đích tối thượng của cuộc sống tâm linh. Ông ấy
khao khát tự do thực sự và sự thuần khiết vượt
ra ngoài hình tướng của pháp. Cho nên, đi tìm
chỉ bảo, ông ấy tới Thạch Đầu12.
Dược Sơn nói với thầy, "Tôi mới biết ít nhiều
về tam thừa, và mười hai phần giáo điển kinh
sách. Nhưng tôi biết ở miền Nam có giáo huấn
về 'trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật.'
Bây giờ, điều đó ngoài tầm hiểu biết của tôi.
Cúi xin thầy từ bi làm sáng tỏ về điều này."
Thạch Đầu đáp, "Điều đó được tìm thấy không
trong khẳng định không trong phủ định, không

11
Yakusan - Dược Sơn Duy Nghiễm
12
Sekito - Thạch Đầu Hi Thiên

133
trong khẳng định và phủ định cùng lúc. Vậy
ông có thể làm gì?"
Dược Sơn ngơ ngác bởi những lời này.
Do đó, Thạch Đầu nói thẳng với ông ta, "Ông
không có nhân duyên chứng ngộ ở đây tại chỗ
này. Vậy ông nên tới thầy vĩ đại, Mã Tổ."
Theo lời gợi ý này, Dược Sơn tới lễ Mã Tổ, lại
trình cho ông ấy cũng câu hỏi mà ông ta đã nói
với Thạch Đầu.
Mã Tổ đáp, "Đôi khi ta làm cho ông ta nhướn
mày và liếc mắt; lúc khác ta lại không làm cho
ông ta nhướn mày và liếc mắt. Đôi khi thực sự
ông ta nhướn mày và liếc mắt; lúc khác ông ta
lại thực sự không nhướn mày và liếc mắt. Ông
hiểu điều này thế nào?"
Lúc này, Dược Sơn nhìn thẳng vào mắt Mã Tổ
và ngộ ra. Ông ta kính cẩn sụp lạy thầy, thầy
hỏi, "Ông cảm nhận chân lí nào mà làm những
nghi lễ này?"
Dược Sơn nói, "Khi tôi ở cùng Thạch Đầu, tôi
như muỗi bò trên trâu đồng."
Mã Tổ, nhận rõ rằng người chứng ngộ này là
một thiên tài, đã bảo ông ấy chăm nom tới sự
hiểu thấu. Ông ấy phục vụ Mã Tổ ba năm. Một
hôm, Mã Tổ lại hỏi, "Gần đây ông thấy ra cái
gì?"
Dược Sơn đáp, "Da đã lột hết; chỉ còn lại cái
một, thực tại đúng đắn."
Mã Tổ nói, "Điều ông đã đạt tới là hoàn toàn
hài hoà với cốt lõi bên trong nhất của tâm, và
từ đó nó đã lan toả vào bốn chi. Điều này đang
xảy ra chính là lúc ông nên bó bụng bằng ba

134
thanh tre, và tới bất kì ngọn núi nào tuỳ thích
để trụ trì."
Dược Sơn đáp, "Tôi là ai mà dám đi lấy núi
làm chỗ trụ trì?"
Mã Tổ nói, "Không phải vậy! Người ta không
bao giờ đi mà không trụ, cũng không bao giờ
trụ mà không đi. Để tới nơi ông không thể tiến,
và để làm điều không thể làm, ông phải làm
mình thành bè mảng cho người khác. Việc trụ
lại đây mãi mãi không phải là dành cho ông."

Maneesha, rất cần phải nói đôi lời trước khi tôi thảo
luận về lời kinh bạn đã đem tới cho tôi.
Thầy đích thực không bận tâm tới việc thu thập
người đi theo, nhiều người đi theo hơn, và trở thành thầy
lớn bởi vì người đi theo của mình. Thầy đích thực quan
tâm tới đệ tử và tiềm năng của người đó. Và nếu thầy thấy
rằng mình không phải là chỗ đúng cho đệ tử, không phải
là bầu khí hậu đúng, thầy sẽ gửi đệ tử sang thầy khác.
Điều đó trong quá khứ là hiện tượng rất thông thường.
Không có kình địch giữa các thầy bởi vì họ tất cả đều làm
việc vì cùng một chân lí, vì cùng một kinh nghiệm tối
thượng.
Nhưng thầy giả là khác và họ đã chiếm cả thế giới.
Thầy giả buộc đệ tử phải buông xuôi theo ông ta. Ông ta
làm điều đó gần như thành cam kết và nếu đệ tử bỏ ông
ta, đệ tử sẽ cảm thấy mặc cảm vì điều đó, điều đó sẽ được
gọi là phản bội. Và thầy giả chưa bao giờ phái đệ tử của
mình sang thầy khác bởi vì ông ấy thấy rằng bầu khí hậu

135
này, bầu không khí này là không thích hợp cho sự trưởng
thành của đệ tử.
Tôi muốn bạn thấy khác biệt này rõ ràng. Thầy giả
quan tâm tới việc thoả mãn bản ngã riêng của mình, mình
có bao nhiêu đệ tử. Ông ta không thực quan tâm tới chăm
nom đệ tử hay trưởng thành của đệ tử. Mối quan tâm của
ông ta là chính trị.
Người Hindu lo nghĩ rằng hiến pháp của Ấn Độ cho
phép người Hồi giáo lấy bốn vợ. Bây giờ người Hindu lại
lo rằng không chóng thì chầy người Hồi giáo sẽ tăng dân
số. Người Hindu chỉ có một vợ. Cho dù người đó có đẻ
con hàng năm, người đó cũng không thể cạnh tranh được
với người Hồi giáo. Vấn đề là dân số, bởi vì chính trị - ai
sẽ nắm quyền - sẽ phụ thuộc vào dân số.
Giáo hoàng Vatican có quyền gì về chân lí? Có kinh
nghiệm nào, chứng ngộ nào? Nhưng ông ấy vẫn có sáu
trăm triệu người Ki tô giáo trên khắp thế giới. Một cách tự
nhiên ông ấy là người lãnh đạo tôn giáo lớn nhất. Cái lớn
của ông ấy không ở trong kinh nghiệm của ông ấy, cái lớn
của ông ấy là ở số người đi theo. Và trong nhiều thế kỉ
mọi tôn giáo đã giết hại lẫn nhau và cải đạo tôn giáo khác
sang tôn giáo mình. "Hoặc là vào tôn giáo của ta, hoặc mi
không thể sống được." Điều đó đã là thái độ của người
Hồi giáo, điều đó đã là thái độ của người Ki tô giáo.
Không ai dường như quan tâm tới cá nhân. Họ tất cả đều
trên cuộc hành trình quyền lực.
Thiền cho bạn bầu khí hậu hoàn toàn khác. Đôi khi
thầy thậm chí đã phái đệ tử của mình sang thầy khác,
người ngược với mình. Đó là điều rất kì lạ đối với con
mắt hiện đại, phái ai đó sang người đối lập với bạn.

136
Nhưng chúng ta phải nhìn sâu xuống dưới: nếu người này
có thể trưởng thành dễ dàng hơn trong bầu khí hậu mà
thầy đối lập đã tạo ra, thế thì không có ngần ngại trong
việc gửi người đó tới thầy khác.
Đó là việc chuyển thường xuyên đệ tử từ thầy này
sang thầy khác. Và đôi khi vấn đề thường là thầy này
dường như quá cứng rắn còn thầy đối lập lại có vẻ hiền
dịu hơn. Bản thân đệ tử sẽ trốn sang đạo tràng của thầy
khác.
Tôi nhớ tới một trường hợp... Một đệ tử trốn khỏi
đạo tràng của thầy mình vì thầy cứ liên tục đánh, tát. Và
anh ta đã nghe nói về một thầy khác chỉ ở cách đó vài
dặm đường trong núi, người rất hiền dịu và đáng yêu, rất
tốt bụng. Thế là anh ta trốn đi. Khi anh ta tới thầy kia,
thầy kia hỏi, "Sao ông đã bỏ thầy của ông?"
Anh ta nói lí do, "Thầy tôi quá nghiêm khắc. Thầy
đánh, thầy tát. Và tôi đã nghe nói thầy ở đây tốt bụng và
đáng yêu thế. Đó là lí do tại sao tôi đã tới đây."
Thầy này lập tức tát cho anh ta một cái và bảo anh
ta, "Ông ngốc lắm, ông không hiểu từ bi của thầy ông.
Quay lại đi! Ông đi tìm bạn đồng hành tốt sao? Ông có
quan tâm, có khẩn thiết đi tìm chân lí không? Thầy ông là
một người vĩ đại. Chúng ta không đồng ý về nguyên tắc,
đấy là điều gì đó phụ. Còn khi có liên quan tới từ bi và
tình yêu, ông ấy vĩ đại hơn ta nhiều. Ta chỉ có thể tốt với
ông.
"Ông mù rồi. Ông không thể thấy khi ông ấy đánh
ông, là với tình yêu nào, với chăm sóc nào... ông ấy chăm
nom cho ông biết bao! Cho dù ông ấy đang già dần, và
trong khi đánh ông, ông ấy còn làm ông ấy đau hơn là ông

137
ấy làm ông đau, nhưng toàn bộ nỗ lực của ông ấy là để
mang tới sự khẩn thiết. Ông ấy không sống được lâu nữa
đâu. Một người như ông ấy vĩ đại hơn ta nhiều. Là người
thầy từ bi thì không có gì sánh được với ông ấy đâu. Ông
quay về đi. Ông ấy là người đúng khi có liên quan tới
ông."
Đệ tử này không thể hiểu được. Anh ta đã nghe nói
rằng người này chống lại thầy mình, và ông ấy nói, "Ta
bất đồng với thầy ông ở nhiều điểm - nhưng điều đó
không có nghĩa là từ bi của thầy ông kém, không có nghĩa
là chứng ngộ của thầy ông là không đích thực. Ta không
được từ bi như vậy đâu. Ta không đánh ông bởi vì ta
không thấy sự khẩn thiết. Có lẽ trong kiếp khác ông có
thể trở nên chứng ngộ. Chăm sóc của ta kém hơn chăm
sóc của ông ấy. Ông ấy muốn ông trở nên chứng ngộ
trong kiếp này, khoảnh khắc này. Ta thì ít để ý tới điều
đó, ta không bận tâm, và ông nghĩ điều đó là tốt. Điều đó
không phải là tốt, điều đó đơn giản là sự không chú ý của
ta - ông có trở nên chứng ngộ hay không, đấy không phải
là vấn đề của ta. Ông có thể tận hưởng cuộc sống của ông
và luôn có vĩnh hằng đấy. Lúc nào đó, ở đâu đó ông có
thể trở nên chứng ngộ. Sao ta phải bận tâm?"
Anh ta quay trở lại với thầy mình, chạm chân thầy,
và nói điều đã xảy ra. Thầy nói, "Mặc dầu chúng ta là đối
lập về tín ngưỡng - trường phái của chúng ta khác nhau,
nguyên tắc của chúng ta, những điều không bản chất, là
khác nhau - ta bao giờ cũng hiểu điều đó, rằng con người
đó là vĩ đại, vĩ đại hơn mọi người nghĩ. Việc ông ấy bảo
ông quay lại đây là dấu hiệu về vĩ đại của ông ấy. Ông ấy
đã biểu lộ tình yêu với ông bằng việc tát ông. Ông ấy
không tát một cách bình thường đâu, mà ông ấy biết rõ

138
rằng một đệ tử đã ở với ta trong nhiều năm sẽ không hiểu
cái gì khác hơn cái tát ra trò. Bây giờ đi vào am và bắt đầu
thiền về tiếng vỗ tay của một bàn tay."
Đệ tử này đã thiền về công án này trong ba năm.
Ngày nào anh ta cũng bị ăn tát, bị đánh, bởi vì anh ta cứ
nghĩ về nó suốt mọi thời gian, hết ngày rồi đêm, ngồi đó.
Anh ta nghe thấy điều gì đó trong đêm - tiếng dế kêu... tất
cả đều im lặng chỉ mỗi tiếng dế - và anh ta có được ý
tưởng rằng có lẽ đây là âm thanh ấy. Anh ta chạy tới thầy,
gõ cửa, và thậm chí trước khi anh ta nói ra điều gì thầy đã
tát cho một cái và đệ tử thì nói, "Ít nhất để tôi nói với thầy
đã chứ...!"
Thầy nói, "Khoảnh khắc ông mở mồm ra, ông định
nói điều gì đó là sai rồi. Cho nên không cần phải làm phí
thời gian của ta thế. Khi ông biết được nó, ta sẽ biết mà
không cần ông nói ra nó."
Vài ngày trôi qua và đệ tử này không tới báo cáo.
Anh ta vẫn thường tới hàng ngày - đôi khi gió thổi qua
rặng thông, đôi khi tiếng nước róc rách, bất kì cái gì... và
anh ta lập tức nghĩ ngay, "Có lẽ đây là âm thanh mà thầy
sẽ bằng lòng là câu trả lời cho câu hỏi ấy."
Nhưng thấy tình huống đó, rằng thầy đánh bạn mà
thậm chí không thèm nghe câu trả lời của bạn... Một hôm
thầy khoá cửa lại khi thầy thấy anh ta tới. Cái loại thầy gì
thế này...? Thầy vừa nhìn thấy anh ta và đóng ngay cửa lại
và nói với anh ta qua chiếc cửa đóng, "Về am mà thiền đi.
Ta già rồi và ta không thể đánh ông mọi ngày một cách
không cần thiết. Ta đã nhìn vào mặt ông, đó không phải là
âm thanh mà ông nghĩ đâu. Đi đi."

139
Nhưng trong vài ngày anh ta đã không tới. Thầy hỏi,
"Có chuyện gì vậy?" Mọi người nói, "Anh ấy vẫn đang
thiền và anh ấy im lặng thế và an bình thế, anh ấy trông
cứ như phật."
Thầy tới đó, chạm chân anh ta, lay anh ta dậy và bảo
anh ta, "Ông đã nghe thấy nó rồi. Bây giờ thế là đủ. Quay
về đạo tràng, đến giờ ăn trưa rồi."
Đệ tử này không thể tin được rằng thầy đã chạm
chân mình. Còn thầy thì nói, "Ông đã có được nó rồi. Và
ông đã ngồi đói mấy ngày rồi và ta lo lắng bởi vì ta đã đợi
ông tới mọi ngày. Ta thích tát ông nhiều tới mức khi
không có ông... Ta tự hỏi liên tục điều gì đã xảy ra cho
đại đệ tử này? Nhưng ta đã được thoả mãn. Ông đã có nó
rồi. Bây giờ là lúc ăn trưa. Lại đây, theo ta."
Đó là bầu khí hậu khác khi không có kình địch giữa
các thầy bởi vì mục đích là một. Phương pháp của họ có
thể khác, phương cách của họ có thể khác, nhưng một
điều tuyệt đối chắc chắn, tất cả họ đều đồng ý ở một
điểm: rằng việc tìm kiếm chân lí là ưu tiên thứ nhất, và
mọi đệ tử đều phải được phái tới đúng chỗ, tới đúng thầy.
Điều đó không có nghĩa là thầy gửi đệ tử đi là không
đúng; điều đó đơn giản nghĩa là phương cách của ông ấy
sẽ không phù hợp với loại người này. Thậm chí cũng
không thành vấn đề nếu như đệ tử được gửi tới thầy đối
lập.
Nhưng lời tôi đang nói đây là với mối quan tâm sâu
sắc bởi vì toàn bộ khí hậu của sự khẩn thiết vì chân lí đã
biến mất khỏi thế giới này. Bây giờ có hàng nghìn thầy
giáo giả hiệu mà toàn bộ nỗ lực của họ là làm sao thu
được người đi theo. Mọi tôn giáo đều đang làm cùng việc

140
đó. Bạn đã bao giờ nghe nói về một shankaracharya
Hindu nói với đệ tử của mình, "Ông tới nhà huyền môn
Sufi Hồi giáo," hay ngược lại không? Bạn đã bao giờ
nghe nói tới giáo hoàng Ki tô giáo nào phái ai đó tới
Thiền sư để học thiền không?
Những tôn giáo có tổ chức này đều mang tính chính
trị. Thiền là tính tôn giáo phi chính trị. Bạn thậm chí
không thể gọi nó là tôn giáo được. Nó mang tính cá nhân
thế và mối quan tâm chỉ nhấn mạnh vào tiềm năng của cá
nhân. Nó không muốn điều gì từ cá nhân cả, nó đơn giản
muốn người đó là bản thân mình.
Vào thời của Mã Tổ, đã có một thầy vĩ đại khác ở
Trung Quốc. Tên ông ấy là Thạch Đầu Hi Thiên. Các bạn
đã hoàn toàn quen thuộc với Thạch Đầu rồi; ông ấy được
tái sinh ở đây. Thạch Đầu nghĩa là đầu đá, và lần này ông
ấy được sinh ra là Swami Niskriya; tôi gọi anh ấy là
Thạch Đầu Hi Thiên, đầu đá. Và tôi phải gửi anh ấy trở về
Đức, chỉ trong vài tuần, bởi vì chỉ đầu đá mới có thể chọi
lại với những đầu đá khác ở Đức, bạn không thể cử ai
khác được. Cho nên anh ấy đi, và đập đầu anh ấy vào các
cái đầu khác trong vài ngày. Khi anh ấy mệt về việc làm
cho người khác chứng ngộ, anh ấy quay lại để nghỉ ngơi.
Ngay bây giờ anh ấy đang ở Đức.
Thạch Đầu được thầy mình đặt cho cái tên đó bởi vì
ông ấy thực sự là loại đầu đá. Không cái gì thấm được vào
đầu ông ấy cả. Bạn có thể làm mọi thứ, cũng không tạo ra
khác biệt gì, bởi vì ai nghe? Thầy của ông ấy hay đánh
ông ấy còn ông ấy cứ cười và ông ấy sẽ nói, "Thầy cứ
đánh nhiều tuỳ thích. Cũng như thầy nhất quyết làm cho
tôi chứng ngộ, tôi nhất quyết không trở nên chứng ngộ.
Đấy là vấn đề lòng tự trọng."

141
Bởi vì sự cứng đầu này - nhưng với biết bao nhiêu
tình yêu, đã không có căm hận, không có giận dữ, điều đó
chỉ để chỉ ra cho thầy - ông ấy sẽ nói, "Nếu thầy bướng
bỉnh, thì chớ có nghĩ rằng mỗi mình thầy trên thế giới này
bướng bỉnh đâu nhé; tôi cũng vào loại bướng đây. Thầy
cứ đánh tôi tuỳ thích. Tôi cứ không định trở nên chứng
ngộ đấy." Đó là lí do tại sao ông ấy lại mang tên Thạch
Đầu. Nhưng anh chàng Thạch Đầu đáng thương rút cục
vẫn phải trở nên chứng ngộ. Bạn không thể thoát được
thầy một khi bạn đã bị mắc vào trong lưới của thầy.
Mã Tổ và Thạch Đầu đã là những thầy vĩ đại đến
mức người đời nói rằng họ đã chia cả thế giới ra. Phương
pháp của họ và cách thức của họ và cách làm việc của họ
tuyệt đối khác nhau. Họ hoàn toàn ở ngoài mọi cảm giác
về kình định. Thậm chí trong những tình huống chỉ có hai
người chứng ngộ ở đó và cả thế giới đều sẵn đó, thì cũng
không có kình địch. Trong thực tế tương truyền là họ đã
hợp tác lẫn nhau để đưa người khác tới chứng ngộ. Một
trường hợp đó là Dược Sơn. Toàn bộ bầu không khí đó,
thời đại vàng đó của việc tìm kiếm chân lí bây giờ chỉ còn
là kí ức, tiếng vọng trong núi. Nhưng nó đã có cái đẹp cần
phải được đem lại.
Toàn bộ sự tồn tại của con người nên chủ yếu quan
tâm vào việc tìm kiếm cội nguồn cuộc sống riêng của
mình. Nhưng tình huống hiện đại đối ngược lại. Người
Hindus đã chia thế giới này theo cách rất hay. Họ đã chia
thế giới làm bốn thời đại. Thời đại thứ nhất họ gọi là thời
đại chân lí; mối quan tâm duy nhất của mọi người là chân
lí, do đó cái tên của thời đại này là satyuga, thời đại của
chân lí.

142
Thời đại thứ hai họ gọi là treta, ba chân. Thời đại
thứ nhất có bốn chân, nó là cái bàn. Một chân bị mất, bây
giờ nó thành ba chân. Vẫn có việc tìm kiếm chân lí,
nhưng khẩn thiết kém đi, mãnh liệt kém đi, cân bằng kém
đi. Trên bốn chân cân bằng là hoàn hảo; trên ba chân cân
bằng không thể là đầy đủ, nhưng vẫn có cùng việc tìm
kiếm.
Thời đại thứ ba họ gọi là dwapar, hai chân. Bây giờ
thậm chí cân bằng của treta, thời đại thứ hai, cũng bị mất.
Trên hai chân bạn không thể làm ra được cái bàn, nó sẽ
không cân bằng, nhưng dầu sao thì một nửa sự thôi thúc
vẫn còn đó.
Thời đại cuối cùng, mà chúng ta đang sống đây theo
tính toán Hin du, được gọi là kaliyuga; thời đại của bóng
tối, thời đại của mù quáng, thời đại của không đi tìm chân
lí. Mọi người quan tâm tới những điều trần tục. Họ dành
cả đời mình cho những điều mà cuối cùng chỉ chứng tỏ là
thứ đồng nát.
Toàn bộ cuộc đời họ có thể đã là cuộc thực nghiệm
lớn lao trong chứng ngộ, trong việc tìm kiếm gốc rễ của
cuộc sống, trong việc được thoả mãn và mãn nguyện hoàn
toàn. Họ có thể đã thu được mọi niềm vui mà vũ trụ làm
thành sẵn có cho bạn. Họ có thể đã nhảy múa, họ có thể
đã ca hát, họ có thể đã hân hoan trong mọi cái đẹp mà vũ
trụ được tràn ngập bởi chúng. Nhưng bởi vì sự mù của
mình mà họ vẫn còn chơi với những trò chơi; họ chưa bao
giờ bận tâm rằng có gì nhiều hơn những trò chơi này.
Theo một cách nào đó thì phân chia biểu dụ này về
thời gian có chân lí nào đó trong nó. Ngày nay rất khó tìm
ra người - tôi đã tìm thấy các bạn, khi làm việc suốt ba

143
mươi nhăm năm liên tục - rất khó tìm ra người thực sự
sẵn sàng cất bước nhẩy vào vũ trụ với mọi giá. Và chỉ
những người đó mới là vài người may mắn.

Maneesha đã đem tới lời kinh:

Dược Sơn bắt đầu học Phật tại trường bằng


Vinaya.

Vinaya là kinh Phật. Tên đầy đủ của nó là Vinaya


Pitak - Luật Tạng. Phật đã nói bốn mươi hai năm liên tục,
sáng tới tối, cho nên một cách tự nhiên, một khối lượng
sách vở cực lớn đã được các đệ tử thu thập lại. Ông ấy
chưa bao giờ viết ra điều gì, đây toàn là những ghi chép từ
các đệ tử. 'Vinaya' nghĩa là khiêm tốn, tuyệt đối vô ngã.
Cho nên các đệ tử đã thu thập Vinaya Pitak- Luật
Tạng, kinh này, họ đã thấy giáo huấn của Phật Gautam là
hoàn toàn khiêm tốn, vô ngã, hài hoà với vũ trụ, không có
căng thẳng nào. Đó là một trong những cuốn sách hay
nhất trong sự tồn tại. Tất cả mọi kinh đều đưa tới im lặng
và an bình và từ bi.

Dược Sơn Duy Nghiễm bắt đầu học Phật theo


trường phái Vinaya cho nên ông ấy rất thạo
trong học hành kinh sách và luyện khổ hạnh
vào lúc ông ấy được giới thiệu với Thiền. Ông
ấy bắt đầu cảm thấy rằng những điều này chưa
phải là mục đích tối thượng của cuộc sống tâm
linh.

144
Ông ấy thuộc vào một trong các trường phái Phật
giáo dựa trên Vinaya Pitak. Thế rồi bản thân vị thầy,
người phải đã dạy cho ông ấy về Vinaya Pitak, về từ bi và
tình yêu và vô ngã, giản dị, khiêm tốn, thầy phải đã giới
thiệu cho ông ấy về Thiền.

Ông ấy bắt đầu cảm thấy rằng những điều này


chưa phải là mục đích tối thượng của cuộc
sống tâm linh.

Và khi ông ấy đã được giới thiệu về Thiền, ông ấy


trở nên nhận biết rằng tất cả đều là tốt, nhưng đó chưa
phải là là mục đích tối thượng của cuộc sống tâm linh.
Ngược lại đó là một loại lập trình, tu tập những thói quen
nào đó, cá tính nào đó, một phong cách sống - làm cái này
và không làm cái kia. Điều đó là hời hợt.
Vừa hôm nay Amrito mới nói với tôi rằng một nhà
khoa học lớn đã được hỏi, "Ông có tin vào Thượng đế
không?" Dường như là nhà báo đã hỏi điều này là kẻ vô
thần cánh tả. Ông ta đã không tin vào Thượng đế, và ông
ta không thể nào quan niệm nổi rằng một con người với
phẩm chất như vậy, một nhà khoa học lớn, lại sẽ nói rằng
ông ta tin vào Thượng đế. Nhà khoa học này nói rằng ông
ấy tin vào Thượng đế; nhà báo bị sốc. Ông ta nói, "Ông là
nhà khoa học lớn mà ông vẫn tin vào Thượng đế sao?"
Nhà khoa học này nói, "Tôi đã bị lập trình, vấn đề
không phải là việc tôi tin hay không tin. Tôi đã bị lập
trình từ ngay thời thơ ấu của mình rằng có Thượng đế - cứ
liên tục được bố mẹ, các tu sĩ, các thầy giáo nói vậy, ở

145
mọi nơi, đến mức gần như là tôi biết rằng Thượng đế tồn
tại. Nhưng đấy chỉ là việc huấn luyện mà thôi."
Tất cả mọi tôn giáo đều đã phụ thuộc vào việc lập
trình, mà không biết đích xác việc lập trình là gì. Từ này
là mới trong giới các nhà tâm lí, nhưng hoạt động đã được
mọi tôn giáo làm từ hàng thế kỉ nay trên thế giới có thể
được che đậy bởi từ này 'lập trình'. Từ này đi vào tồn tại
cùng với máy tính. Bạn phải lập trình cho máy tính. Bất kì
điều gì bạn muốn, bạn đều có thể đưa vào bộ nhớ máy
tính. Và nó có bộ nhớ cực kì!
Tất cả mọi cuốn sách có trên thế giới này, trong mọi
thư viện trên thế giới, đều có thể được đưa vào trong một
máy tính. Không cần phải phí nhiều không gian thế. Chỉ
một máy tính nhỏ có thể mang tất cả tri thức và bạn cũng
có thể hỏi nó câu hỏi vào bất kì lúc nào, bất kì câu hỏi
ngớ ngẩn nào - nếu điều đó đã được lập trình. Việc lập
trình phải được ghi nhớ. Nếu nó được hỏi, "Socrates lấy
vợ vào ngày nào?" - thì chắc chắn đó là ngày không may
mắn, nhưng đó là ngày nào? - nếu máy tính đã được cho
ngày tháng này và ngày này, thì lập tức lời đáp sẽ tới. Bởi
vì máy tính mới đi vào sự tồn tại, nên từ 'lập trình' đã lấy
nghĩa và tác dụng cực kì lớn.
Điều chúng ta đang làm với máy tính, đó là điều các
tôn giáo đã làm với nhân loại. Ai đó là người Hindu, và ai
đó là người Ki tô giáo; cái gì là khác biệt giữa hai người
này? Chỉ lập trình khác biệt. Nếu bạn nuôi dưỡng một đứa
trẻ Ki tô giáo ngay từ lúc bắt đầu trong một gia đình
Hindu, bạn có cho rằng nó sẽ nghĩ về Jesus hay về Kinh
Thánh linh thiêng không? Nó có hỏi những câu hỏi mà trẻ
con Ki tô giáo nhất định sẽ hỏi không? Nó sẽ là người
Hindu bởi vì việc lập trình cho nó sẽ là người Hindu. Nó

146
thậm chí sẽ không bận tâm phí thời gian về Jesus. Cùng
điều đó cũng đúng cho mọi tôn giáo; mọi tôn giáo đều lập
trình cho trẻ con, cư xử với trẻ con cứ như đứa trẻ là máy
tính. Đó là điều sỉ nhục lớn nhất cho nhân loại và là tội lỗi
lớn nhất chống lại mọi con người.
Mọi đứa trẻ đều tới với tấm bảng sạch. Và thế rồi
bạn bắt đầu viết mọi thứ lên đó, nào Kinh Thánh thiêng
liêng, hay kinh Koran, hay Gita thiêng liêng, hay Das
Kapital thiêng liêng - bất kì cái gì bạn muốn. Đứa trẻ
đáng thương ở trong tay bạn, và nó còn chưa biết gì và nó
thậm chí không thể nghĩ được rằng bố mẹ nó, người yêu
nó nhiều thế, lại sẽ cho nó việc lập trình sai. Nhưng vào
lúc nó trở nên nhận biết về từ 'lập trình', thì việc lập trình
đã đi vào tận xương và tuỷ của đứa trẻ rồi. Nó không thể
nghĩ khác được.
Bây giờ ở Châu Âu và Châu Mĩ, bởi vì nhiều người
trẻ đã lánh xa các nhà thờ chính thống, nên một loại nghề
mới đã hình thành, người gỡ bỏ chương trình.
Đứa trẻ không còn quan tâm tới Kinh Thánh cổ, nó
không tới nhà thờ, nó trở thành kẻ hippie. Nó đi ngược lại
mọi chuẩn mực mà Ki tô giáo đã từng theo đuổi. "Sạch sẽ
là cạnh Thượng đế" - và kẻ hippie nói không có Thượng
đế và không có sạch sẽ. Có thể cạnh đó, nhưng cả hai
trong chúng đều không tồn tại. Chỉ bởi vì xã hội cũ cứ
nhấn mạnh vào sự sạch sẽ, nên kẻ hippie đã phản ứng lại,
thanh niên đã phản ứng chống lại điều đó.
Bây giờ với đủ mọi loại phản ứng trên khắp thế giới,
các cha và các linh mục rất lo lắng, cho nên họ đã yêu cầu
các nhà phân tâm tạo ra một hệ thống mà trong đó những
người này có thể được gỡ bỏ chương trình trước nhất, một

147
phương pháp liên tục của việc thôi miên, cứ bảo với họ,
"Bạn đã đi lạc lối rồi. Thượng đế hiện hữu và Jesus là con
trai ông ấy. Ông ấy là đứa con duy nhất. Và tôn giáo của
bạn là tôn giáo cao cả nhất và vĩ đại nhất trên thế giới."
Họ đưa người này vào giấc ngủ thôi miên và họ cứ lắp lại
mãi điều này. Và đó là điều rất đơn giản để một người vào
giấc ngủ thôi miên; cứ bảo cho người đó nhìn chăm chăm
vào bất kì cái gì đang toả sáng. Cây nến cũng được; chỉ
tập trung vào cây nến và đừng rơi vào giấc ngủ và đừng
chớp mắt.
Một cách tự nhiên mắt muốn chớp. Chống lại
khuynh hướng tự nhiên chớp mắt, tự buộc bản thân mình
tập trung hết mức vào ngọn lửa hay cây nến hay bất kì cái
gì đang toả sáng và hấp dẫn mắt bạn. Trong ba đến năm
phút người ta phải rơi vào giấc ngủ, bởi vì bạn không thể
giữ không chớp mắt quá ba phút; ba phút là tối đa.
Nhưng mắt bạn tự động nhắm lại bạn không thể làm
được gì bởi vì chúng đã đủ mỏi và cả chán nữa. Chỉ quan
sát ngọn lửa không thể là việc giải trí được, đấy không
phải là kinh nghiệm thích thú gì. Không có phấn khởi gì
trong nó, cho nên bạn chán, mắt mỏi, và bạn cứ buộc
chúng phải mở. Còn nhà thôi miên bên cạnh bạn thì cứ
nói mãi, "Bạn đang rơi vào trong giấc ngủ, bạn đang rơi
vào trong giấc ngủ," theo một giọng rất buồn ngủ. Chẳng
mấy chốc bạn sẽ thấy mắt mình đang nhắm lại và nhà thôi
miên sẽ cứ tiếp tục, "Mắt bạn đang trở nên nặng, mi mắt
đang nhắm lại. Bạn đang đi vào giấc ngủ sâu."
Đó là một phương pháp rất đơn giản, nhưng có ý
nghĩa sâu sắc. Một khi một người đang ở bên bờ việc rơi
vào giấc ngủ, người thôi miên nói với người đó, "Bạn sẽ
không nghe giọng nói của bất kì ai ngoại trừ tôi." Và thế

148
rồi chủ thể này, người này, rơi vào giấc ngủ, và người đó
sẽ không nghe thấy gì ngoại trừ tiếng nói của người thôi
miên. Bây giờ người thôi miên bắt đầu gỡ bỏ chương
trình cho người đó. Nếu người đó đã trở thành một "Hare
Krishna, Hare Rama," thì người thôi miên phải nói với
người đó, "Nó tất cả đều là chuyện nhảm nhí. Bạn đã đi
xa khỏi tôn giáo vĩ đại nguyên thuỷ của mình. Bạn đã đi
xa khỏi Jesus." Ông ta sẽ đem người đó trở về với Jesus.
Cho nên một quá trình kép đang diễn ra. Một mặt
ông ta gỡ bỏ chương trình cho người đó khỏi Hare
Krishna, Hare Rama, và mặt khác ông ta đang lập trình lại
cho người đó theo lập trình thời trẻ cũ của mình. Ki tô
giáo của ông ta vẫn có đó trong vô thức của ông ta, cho
nên rất dễ dàng đem vô thức đó lên bề mặt. Sau vài phiên
Hare Krishna, Hare Rama đã hoàn toàn bị quên mất. Bây
giờ người đó biết tất cả những cái đó là vô nghĩa. Người
đó bắt đầu đi tới nhà thờ, người đó đã quay lại tôn giáo
đúng. Nhưng tất cả những điều đã xảy ra là ở chỗ việc lập
trình của người đó đã bị thay đổi. Cũng như bất kì ai cũng
đều có thể đưa Hare Krishna, Hare Rama trở lại.
Toàn bộ nỗ lực của tôi ở đây là chỉ để gỡ bỏ chương
trình cho bạn và không lập trình lại; chỉ để cho bạn là tấm
bảng sạch như khi bạn được sinh ra, trong bản tính
nguyên thuỷ của bạn, trong mặt nguyên thuỷ của bạn.
Không đâu khác đã làm điều đó. Những người này, người
đang lập trình, gỡ bỏ chương trình, lập trình lại - họ tất cả
đều là các nhà chuyên môn, và các bậc cha mẹ đang trả
tiền cho họ để cho con họ được đem lại cho tôn giáo có tổ
chức mà họ đã được sinh ra.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ việc sinh không liên quan
gì tới tôn giáo cả. Bố mẹ bạn có thể là người Hindu giáo

149
hay Ki tô giáo, điều đó không có nghĩa là đứa trẻ phải là
người Hindu giáo hay Ki tô giáo. Đứa trẻ không phải là
sở hữu của bạn. Đứa trẻ tới thế giới này qua bạn. Nếu bạn
có cảm giác nhân tính nào, bất kì cảm giác kính trọng nào,
bạn sẽ kính trọng đứa trẻ này, và bạn sẽ để cho nó một
mình và cho phép nó trưởng thành trong sáng tỏ, thông
minh của nó, trong việc truy tìm chân lí của nó, cho dù nó
đi ra khỏi nhóm người mà trong đó bạn đã được lập trình.
Nếu bạn yêu con bạn, để cho nó đi theo bản tính của nó,
dù điều đó đưa tới đâu.
Nhưng không bố mẹ nào, không tu sĩ nào sẵn lòng
cho mọi người sự giải phóng đó, và mọi người đều cần
việc giải phóng khỏi các tu sĩ. Họ tất cả đều chống lại tôi
bởi một lẽ đơn giản là tôi không phải là tu sĩ và tôi không
ủng hộ việc lập trình cho bất kì ai.
Toàn bộ nỗ lực của tôi là để gỡ bỏ chương trình cho
bạn sâu sắc đến mức mọi thứ đã từng được đặt vào trong
bạn từ thời thơ ấu đều được lấy ra và bạn được bỏ lại
trong sự hồn nhiên thơ ấu của mình. Từ sự hồn nhiên đó
cuộc hành trình trưởng thành thực của bạn mới bắt đầu.
Khi Dược Sơn đã đi tới hiểu Thiền, ông ấy lập tức
thấy ra khác biệt. Ông ấy đã cho rằng khi mình học
Vinaya thì đây là tôn giáo; nhưng khi tới thế giới của
Thiền, ông ấy đã thấy rằng tất cả những điều đó là không
bản chất. Đó không phải là mục đích tối thượng của cuộc
sống. Điều đó thực sự chỉ là việc lập trình, để bảo bạn,
"vô ngã, từ bi, yêu con người, yêu sinh vật." Trong Thiền
tất cả những điều này sẽ xảy ra, không phải bởi vì việc lập
trình, mà bởi vì chứng ngộ riêng của bạn, nhận biết riêng
của bạn, sự mãnh liệt và sáng tỏ riêng của bạn. Từ bi sẽ

150
tới, nhưng nó sẽ không phải là việc tu tập. Tình yêu sẽ tới,
nhưng nó sẽ không phải là việc bắt chước như vẹt.
Tới với thế giới của Thiền ông ấy lập tức nhận ra
rằng điều ông ấy đã từng học mãi cho tới giờ đều là lãng
phí cực kì. Đấy không phải là mục đích tối thượng. Ông
ấy khao khát tự do thực sự và sự thuần khiết vượt ra
ngoài hình tướng của pháp. Đây đích xác điều gỡ bỏ
chương trình nghĩa là gì.

Ông ấy khao khát tự do thực sự và sự thuần


khiết vượt ra ngoài hình tướng của pháp. Cho
nên, đi tìm chỉ bảo, ông ấy tới Thạch Đầu.
Dược Sơn nói với thầy, "Tôi mới biết ít nhiều
về tam thừa" - có ba kinh sách và ba phái
trong Phật giáo - "và mười hai phần giáo điển
kinh sách. Nhưng tôi biết ở miền Nam có giáo
huấn về 'trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
phật.' Bây giờ, điều đó ngoài tầm hiểu biết của
tôi. Cúi xin thầy từ bi làm sáng tỏ về điều này."
Thạch Đầu Hi Thiên đáp, "Điều đó được tìm
thấy không trong khẳng định không trong phủ
định, không trong khẳng định và phủ định cùng
lúc. Vậy ông có thể làm gì?"
Dược Sơn Duy Nghiễm ngơ ngác bởi những lời
này.

Tôi sẽ phải nói với bạn đôi điều để cho bạn khỏi bị
khó hiểu bởi những lời này. Ở phương Tây, Aristotle đã
đưa ra logic chỉ có một quá trình biện chứng. Hoặc cái gì
đó là phủ định hoặc cái gì đó là khẳng định. Nói cách
khác, hoặc bạn tin vào Thượng đế hoặc bạn không tin vào

151
Thượng đế. Có và không - hai từ này là nền tảng của logic
của Aristotle.
Nhưng Phật tin - và ông ấy còn có ý nghĩa hơn
Aristotle nhiều - ông ấy gọi điều này là logic hai chiều,
"có và không." Nếu bạn hỏi Phật liệu có Thượng đế
không, thì ông ấy sẽ nói, "Câu trả lời thứ nhất của ta là có,
câu trả lời thứ hai của ta là không, câu trả lời thứ ba của ta
là vừa có vừa không." Điều này ông ấy gọi là logic ba
chiều.
Điều đó đơn giản làm bối rối mọi người - bởi vì bạn
ngụ ý gì đây? Hoặc bạn tin vào Thượng đế hoặc bạn
không tin vào Thượng đế; logic hai chiều dường như hoàn
toàn phải. Phỏng có ích gì mà dùng logic ba chiều?
Nhưng ông ấy không một mình theo chiều hướng
này. Mahavira đương đại với ông ấy có logic bẩy chiều,
và đó là lời cuối cùng, bạn không thể vượt ra ngoài nó -
mọi khả năng, mọi góc độ. Có và không chỉ là hai cực,
nhưng bạn có thể ở chính giữa. Có và không cả hai, hay
không có và không cả hai - bạn có thể ở giữa, không đi
vào cực đoan nào. Và đó là cách thức của Phật, được biết
tới là trung đạo.
Phật nói đi tới cực đoan là sai bởi vì bạn đang chọn
chỉ một phần; đi tới cực kia đích xác cũng theo cùng cách
sai. ở chính giữa. Cái thực là ở chính giữa. Nhưng ở giữa
bạn không thể nói có, bạn không thể nói không. Hoặc là
bạn phải nói cả hai, hoặc là bạn phải phủ nhận cả hai. Đó
là điều Thạch Đầu đang nói. Bây giờ nghe lại nó, và bạn
sẽ không bị bối rối bởi nó.
"Điều đó được tìm thấy," chân lí phải được tìm thấy,
"không trong khẳng định," không trong việc nói có,

152
"không trong phủ định," không trong việc nói không,
"không trong khẳng định và phủ định cùng lúc." không
trong việc nói có và không đồng thời. Chân lí không thể
được tìm thấy trong cả ba phân loại này. Chân lí ở ngoài
cả ba phân loại này, nó là cái thứ tư. Nó là ở ngoài logic,
do đó nó không thể được diễn đạt qua bất kì cách diễn đạt
logic nào.
Anh chàng Dược Sơn đáng thương đâm ra lúng
túng. Ngay cả Thạch Đầu cũng hỏi ông ta, "Vậy ông có
thể làm gì? Đây là ba khả năng, mà không khả năng nào
diễn đạt được chân lí. Ông định làm sao đây?"
Dược Sơn ngơ ngác bởi những lời này. Dường như
ông ta đã tới chỗ tận cùng của con đường rồi. Do đó,
Thạch Đầu nói thẳng với ông ta - và đây là cái đẹp của
chỗ giữa bằng vàng đó, điều đã biến mất khỏi thế giới này
- "Ông không có nhân duyên chứng ngộ ở đây tại chỗ
này. Vậy ông nên tới thầy vĩ đại, Mã Tổ."
Mã Tổ và Thạch Đầu là hai thầy chứng ngộ đối lập
vào thời đó. Ông ấy đang bảo Dược Sơn tới Mã Tổ mặc
dầu ông này là người đối lập. "Nhân cách của ông, cách
nghĩ của ông… chỗ này và những phương cách được
dùng ở đây sẽ không ích gì cho ông trong trưởng thành tới
chỗ chín muồi. Thay vì vậy ông nên tới Mã Tổ. Ông ấy sẽ
là bầu không khí thích hợp cho ông."
Bạn có thể thấy ra vấn đề. Phái một đệ tử sang người
đối lập có nghĩa là mối quan tâm của ông ấy là ở đệ tử và
sự trưởng thành của người đó, không phải vào việc tăng
thêm người đi theo của riêng mình. Ông ấy nhìn vào con
người này, cảm thấy mạch đập của người này, cảm thấy
nhịp tim của người này, và một nhận biết rõ ràng là "Tại

153
đây anh ta sẽ thấy rất khó khăn. Mã Tổ sẽ là bầu không
khí thích hợp cho người này."

Theo lời gợi ý này, Dược Sơn Duy Nghiễm tới


lễ Mã Tổ, lại trình cho ông ấy cũng câu hỏi mà
ông ta đã nói với Thạch Đầu Hi Thiên.
Mã Tổ đáp, "Đôi khi ta làm cho ông ta nhướn
mày và liếc mắt; lúc khác ta lại không làm cho
ông ta nhướn mày và liếc mắt. Đôi khi thực sự
ông ta nhướn mày và liếc mắt; lúc khác ông ta
lại thực sự không nhướn mày và liếc mắt. Ông
hiểu điều này thế nào?"

Dược Sơn phải đã cảm thấy mình gần phát cuồng.


Thạch Đầu đã nói về logic và làm bối rối ông ấy, và bây
giờ cái ông này lại nói những điều kì lạ nữa. Ông ấy đang
nói về ai vậy?
Lúc này, Dược Sơn nhìn thẳng vào mắt Mã Tổ - việc
thấy và nghe lời của thầy trở thành rõ ràng cho ông ấy
rằng có cái gì đó bên ngoài lời. Thạch Đầu đã chỉ dẫn
hướng về điều đó và bây giờ, nghe việc nói gần như điên
khùng của người này, một điều là chắc chắn, rằng chân lí
không thể được diễn đạt bằng lời. Cả hai thầy đã giúp cho
ông ta gạt bỏ đi ngôn ngữ. Cho nên thay vì ngôn ngữ, ông
ấy nhìn thẳng vào mắt Mã Tổ và ngộ ra. Ông ta kính cẩn
sụp lạy thầy.
Bây giờ chỉ đọc những lời này sẽ không ích gì, bởi
vì cái gì đó đã xảy ra mà không được viết ra và không thể
được viết ra. Cái gì đó diễn ra khi đệ tử và thầy nhìn vào
mắt nhau. Trong khoảnh khắc im lặng đó sự truyền trao
nào đó, năng lượng nào đó... Ông ấy đã thấy trong mắt

154
của thầy, "Đây là đôi mắt mình có thể cảm thấy thoải mái.
Đây là đôi mắt mà qua đó mình có thể thấy được cái toàn
thể." Điều đó tới như việc nhận ra ngay lập tức, tự phát,
cho nên không có gì được nói ra. Đó là điều làm cho mọi
người lo lắng về việc đọc Thiền.
Dược Sơn nhìn thẳng vào mắt Mã Tổ và ngộ ra. Bây
giờ chỉ đọc câu này sẽ không giải thích được điều gì
chừng nào bạn chưa nhìn vào trong mắt thầy, chừng nào
bạn còn chưa ở trong sự thân thiết sâu sắc với thầy, chừng
nào bạn còn chưa cảm thấy sự hiện diện và trường năng
lượng của thầy. Đó là một vũ trụ hoàn toàn khác, một
chiều hướng hoàn toàn khác của trao đổi, của giao cảm.
Ông ấy rơi vào trong tình yêu ngay lập tức. Hai con
mắt kia đã thoả mãn ông ấy hoàn toàn: "Đây là người
mình đã từng tìm kiếm trong nhiều kiếp rồi. Mình đã về
nhà." Việc nhận ra lớn lao và mạnh mẽ tới mức ông ấy đã
trở nên chứng ngộ.
Điều này trong Thiền gọi là "việc truyền trao ngọn
đèn." Cứ dường như là bạn mang hai cây nến tới gần -
một cây đã thắp sáng, còn cây kia chưa sáng. Nhưng đem
chúng lại gần hơn, và có một điểm khi bỗng nhiên ngọn
lửa từ cây nến này sẽ nhảy sang cây nến kia. Đích xác cái
gì đó giống thế đã xảy ra giữa thầy và đệ tử, khi họ gặp
nhau mắt đối mắt. Dược Sơn trở nên chứng ngộ. Không
cái gì đã được làm.
Điều chúng ta đang cố gắng làm ở đây là đem trái
tim bạn lại gần trái tim tôi, bởi vì đó là cách duy nhất tôi
có thể đem trái tim bạn tới trái tim vũ trụ. Tôi chỉ là cánh
cửa để đi qua, cây cầu để được vượt qua.

155
Thầy đích thực không phải là sự tù túng cho đệ tử
theo bất kì cách nào. Thầy đơn giản là con đường, hoàn
toàn mở và vô điều kiện; bạn đi vào trong thầy và qua
thầy bạn đạt tới vũ trụ.

Ông ta kính cẩn sụp lạy thầy, thầy hỏi, "Ông


cảm nhận chân lí nào mà làm những nghi lễ
này?"
Dược Sơn nói, "Khi tôi ở cùng Thạch Đầu, tôi
như muỗi bò trên trâu đồng."

Thạch Đầu là một người - đầu đá, cái vỏ rất cứng


rắn. Dược Sơn nói, "Tôi cảm thấy mình giống như con
muỗi nhỏ bò trên con trâu bằng đồng. Không có cách nào
cho tôi; tôi không thể vào trong Thạch Đầu được, Thạch
Đầu quá cứng rắn."

Mã Tổ, nhận rõ rằng người chứng ngộ này là


một thiên tài, đã bảo ông ấy chăm nom tới sự
hiểu thấu. Ông ấy phục vụ Mã Tổ ba năm. Một
hôm, Mã Tổ lại hỏi, "Gần đây ông thấy ra cái
gì?"
Dược Sơn đáp, "Da đã lột hết; chỉ còn lại cái
một, thực tại đúng đắn."
Mã Tổ nói, "Điều ông đã đạt tới là hoàn toàn
hài hoà với cốt lõi bên trong nhất của tâm, và
từ đó nó đã lan toả vào bốn chi. Điều này đang
xảy ra chính là lúc ông nên bó bụng bằng ba
thanh tre, và tới bất kì ngọn núi nào tuỳ thích
để trụ trì."
Dược Sơn đáp, "Tôi là ai mà dám đi lấy núi
làm chỗ trụ trì?"

156
Mã Tổ nói, "Không phải vậy! Người ta không
bao giờ đi mà không trụ, cũng không bao giờ
trụ mà không đi. Để tới nơi ông không thể tiến,
và để làm điều không thể làm, ông phải làm
mình thành bè mảng cho người khác. Việc trụ
lại đây mãi mãi không phải là dành cho ông."

Mã Tổ đã được thuyết phục rằng Dược Sơn đích


thực đã trở nên chứng ngộ. Ba năm liền Mã Tổ đã quan
sát ông ấy, đã cho phép ông ấy được ở cùng mình. Khi
điều đó là chắc chắn, bằng tất cả mọi điệu bộ, hoạt động,
sự đáp ứng của ông ấy, rằng ông ấy đã trở thành phật, Mã
Tổ bảo ông ấy, "chọn lấy một ngọn núi quanh đây làm
chỗ trú của ông."
Mã tổ đang bảo ông ấy, "Bây giờ ông tự mình đã là
thầy rồi, ông không cần ở đây nữa. Ông phải trở thành
chiếc bè, chiếc mảng cho người khác, những người muốn
sang bờ bên kia. Cho nên làm một ngôi chùa, một đạo
tràng trên núi nào đó, và những người đang khát sẽ tới
ông. Ông không được thoả mãn với chứng ngộ của riêng
mình. Đó chính là khổ. Ông phải lan toả ngọn lửa tới
những người đang dò dẫm trong bóng tối. Ông phải trở
thành thầy của nhiều người đang mù loà. Ông phải cho họ
đôi mắt để nhìn."
Mã Tổ đang cư xử đích xác theo cách phật phải cư
xử khi thấy rằng người khác đã trở thành phật. Giữ người
đó cho mình là sự phí hoài. Người đó bây giờ phải đi theo
cách riêng của mình, tuyệt đối tự do là chính mình, không
dưới cái bóng của thầy lớn. Điều đó gần giống như người
làm vườn. Người đó sẽ loại bỏ cây nhỏ khỏi cây lớn.
Dưới bóng cây lớn cây nhỏ không thể phát triển được. Nó

157
cần không gian riêng của nó. Nó cần mặt trời riêng của
nó, bầu trời riêng của nó, và một khi người làm vườn thấy
ra tiềm năng của cái cây này - rằng nó không phải là cỏ
dại mà là cây hoa hồng - thì người đó đem nó tới nơi
quang đãng có mặt trời, không khí trong lành, nước sẵn
có.
Mọi thầy đều cố gắng hết sức để cho đệ tử mình sự
độc lập, tính toàn vẹn, tính cá nhân và một thông điệp -
điều gì bạn thu được, đừng giữ nó cho mình. Chia sẻ nó
đi. Bạn càng chia sẻ nhiều, bạn càng có nó nhiều. Bạn
càng chia sẻ ít, bạn càng có nó ít. Đó là kinh tế khác của
thế giới bên trong. Trong thế giới bên ngoài bạn càng chia
sẻ nhiều, bạn càng có ít.
Tôi đã nghe nói về một người vừa mới được xổ số,
một triệu đô la. Như thường lệ người đó thấy một người
ăn xin đứng bên cạnh đường. Hôm nay người đó sung
sướng thế, được một triệu đô la, người đó cho người ăn
xin kia tờ một trăm đô la. Người ăn xin hết nhìn vào tờ
bạc lại nhìn vào người đó, và anh ta nói với người đó,
"Không mấy chốc mà ông sẽ đứng cạnh tôi thôi."
Người đó nói, "Ông ngụ ý gì vậy?"
Người ăn xin nói, "Đây là cách tôi đã đi tới tình
trạng này đây. Tôi cứ hay đi cho mọi người. Bây giờ tôi ở
tình trạng - tôi không có gì nữa, tôi phải đi ăn xin. Với
cách ông đang cho, không mất mấy thời gian. Ông bao
giờ cũng có thể tới tôi. Tôi là người ăn xin có kinh
nghiệm bây giờ."
Ở bên ngoài, trong thế giới khách quan, có một kinh
tế thôi. Bạn phải giữ bất kì cái gì bạn có, bạn phải bám lấy

158
nó. Mà không chỉ bám lấy cái của riêng bạn, nếu bạn có
thể xoay xở thì bám cả vào người khác nữa...
George Bernard Shaw có lần đã được hỏi, "Có ai
sống được chỉ bằng việc cho tay vào túi không?"
George Bernard Shaw nói, "Tất nhiên người ta có
thể chứ. Nhưng túi phải là của ai đó khác."
Trong túi riêng của mình bạn không thể sống mãi
mãi được. Trong thế giới đối thể, nếu bạn chia sẻ, thì bạn
mất. Nhưng tại thế giới bên trong, chính qui tắc về ý nghĩ
đối lập lại áp dụng được. Bạn càng chia sẻ nhiều, bạn
càng có nhiều; bạn càng chia sẻ ít, bạn càng có ít. Nếu
bạn không chia sẻ gì, ngọn lửa nhỏ đó có thể biến mất.
Bằng việc chia sẻ nó trở thành đám cháy lớn. Nó thiêu đốt
bạn.
Một bài thơ của Soko:

Thở vào, thở ra


tới, lui
sống, chết:
các mũi tên, để chúng bay đi từng chiếc một,
gặp giữa đường và từng lát
cái trống rỗng trong chuyến bay vô nỗ lực -
Vậy ta trở lại cội nguồn.

Cứ ném đi và ném đi kinh nghiệm của bạn, trong


cuộc sống, trong cái chết. Soko nói, Vậy ta trở lại cội
nguồn. Tôi càng cho nhiều, tôi càng đạt tới cội nguồn sâu
sắc hơn. Điều đó cũng giống như việc đào giếng. Nếu bạn
không múc nước lên từ giếng, nước sẽ trở thành chết. Bạn

159
càng lấy nhiều nước ra, dòng suối tươi mát lại mở ra và
đem nước mới tới, nước tươi mát từ mọi phía.

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Nếu người ta có sáng suốt đích thực - không
chỉ hiểu biết trí tuệ - dường như là chỉ nắm lấy
gốc rễ và ảnh hưởng tới cách người ta đang
hiện hữu, theo cách riêng của nó: không cần
làm cái gì để gìn giữ nó.
Điều này có phải vậy không? và tình huống có
khác đi sau chứng ngộ không?

Maneesha, nó đích xác như bạn mô tả đấy. Nếu mọi


sự bắt đầu xảy ra theo cách riêng của nó, nếu bạn đã tìm
ra cội nguồn của bản thể mình, đó là cội nguồn của việc
xảy ra tự phát. Thế thì bạn không cần phải giữ nó, bạn
không cần phải canh nó, bạn không cần phải làm gì về nó
cả. Nó liên tục xảy ra.
Chia sẻ tới như việc xảy ra: bởi vì bạn bị tràn ngập
thế, bạn biết ơn vì được chia sẻ. Bạn cũng giống như đám
mây mưa; nó cần phải mưa xuống. Mưa quá trĩu nặng, nó
muốn tự làm nhẹ gánh mình. Cho nên việc giữ lại chưa
bao giờ là vấn đề cả. Nếu bạn tìm thấy cội nguồn cuộc
sống của mình về mặt tồn tại, không phải về mặt trí tuệ,
bạn không phải gìn giữ nó.

160
Bạn đang hỏi, "Tình huống có khác đi sau chứng
ngộ không?"
Sau chứng ngộ người ta không còn nữa. Người ta trở
thành chỉ là chiếc sáo trên môi của sự tồn tại. Thế thì sự
tồn tại chịu trách nhiệm cho mọi thứ, bài ca hay im lặng.
Sau chứng ngộ bạn không còn nữa, chỉ sự tồn tại là còn.
Bởi vì bạn không còn nữa, nên người khác cũng không
còn nữa. Để người khác là người khác, bạn phải hiện
diện. Nếu bạn vắng bóng, thì mọi người cũng vắng bóng.
Đó là lí do tại sao tôi nói, khi một người trở nên chứng
ngộ, với người đó toàn thể sự tồn tại trở nên chứng ngộ.
Bây giờ không có vấn đề làm cái gì cả, thậm chí không có
việc chia sẻ, bởi vì đó cũng là việc làm. Tự nó chia sẻ. Tự
nó mưa xuống. Mọi thứ bây giờ đều tự nó.
Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh.

Chó Blackie bước vào trong nhà hàng Sizzling


Salami, và gọi món bánh kẹp đậu phụ.
"Đằng ấy thích nấu thế nào?" Sardar Gurudayal
Singh, người phục vụ hỏi.
"Tôi muốn nó được nấu chín, với đào nghiền phủ lên
trên. Thế rồi chiên ít hành và rải bên cạnh. Rồi cho ít bơ
lạc bôi phết khắp xung quanh, rồi ngâm cả món đó vào
trong Coca-Cola."
Sardar Gurudayal Singh đem món này lên.
"Đằng ấy thích bữa tối này chứ?" Sardar Gurudayal
Singh hỏi, khi con chó săn đói đã ăn xong.

161
"Thích lắm," con chó đáp, vừa liếm mõm. "Nhưng
nhân tiện, anh không cho rằng món này là rất lạ sao?"
"Không," Sardar Gurudayal Singh nói, cười toe toét,
"tớ thích món đậu phụ của mình theo cùng cách đó!"

Bob và Betty đang qua thời kì lãng mạn nóng bỏng,


và thường đi xem phim để âu yếm nhau ở hàng ghế sau.
Một đêm khi họ đang xem bộ phim "Dracula và kẻ
Bắt thân thể," và Dracula đang cắn ngập răng vào kẻ bắt
thân thể khác, thì Betty bắt đầu kêu ré lên và cười khúc
khích.
Người quản lí tới , "Có chuyện gì vậy, thưa bà trẻ?"
ông ta hỏi, chiếu đèn vào. "Bà cảm thấy kích động sao?"
"Không," Betty khúc khích. "Anh ấy đang cảm thấy
của tôi đấy!"

Một người tới xin việc trông nom nhà cửa trong một
văn phòng nhỏ, và ông chủ hỏi họ tên đầy đủ của anh ta.
"Cái gì?" người này hỏi. "Ông cần họ tên đầy đủ của
tôi chỉ cho việc của người trông nom nhà cửa sao?"
"Đúng đấy," ông chủ đáp. "Đấy là chính sách của
công ti."
Người này rất xấu hổ về việc nêu họ tên đầy đủ của
mình, nhưng cuối cùng đồng ý. "Thôi được thế thì," anh
ta nói, "họ tên đầy của tôi là John Mẹ kiếp và Đéo Smith."
Ông chủ cố gắng giữ khuôn mặt thản nhiên, và thế
rồi hỏi làm sao anh ta lại có cái tên như vậy.

162
"Thế này," người này giải thích, "ngay khi ông giám
mục định làm lễ rửa rội cho tôi trong nhà thờ, thì thằng
ngốc nào đó làm rơi cuốn Kinh Thánh thiêng liêng vào
chân ông ấy!"

Fudski đang làm việc trên tầng thứ bốn mươi chín
của công trình xây dựng căn hộ mới, thì anh ta cảm thấy
cần đi tè.
"Có nhà vệ sinh đâu đây không?" anh ta hỏi Luigi,
ông quản đốc.
"Nghe đây," Luigi nói, "với lương mà chúng tôi trả
cho anh, thì không có thời gian đi xuống bốn mươi chín
tầng mà tới đó đâu. Cho nên làm điều mọi người đều làm:
để một tấm ván dài thò ra ngoài cạnh kia. Tôi sẽ đứng ở
đầu này tấm ván, còn anh bước ra đầu kia và tự tháo cống
ra. Vào lúc nó tới đất thì nó đã bay hơi hết rồi."
"Ý tưởng tuyệt vời!" Fudski nói.
Anh ta đặt một tấm ván dài ra, Luigi đứng ở đầu
này, còn Fudski bước ra đầu kia để tè.
Vừa lúc đó chuông điện thoại vang lên, và Luigi đi
trả lời. Anh chàng Fudski đáng thương bay theo gió trong
không trung xuống mặt đất phía dưới.
Luigi xuống cầu thang để xem điều gì đã xảy ra,
nhưng bị Zabriski chặn lại giữa đường, anh chàng đang
làm việc ở tầng thứ mười.
"Này!" Zabriski kêu lên, "anh kiếm cái loại đồi bại
nào cho việc này thế?"
"Anh muốn nói gì?" Luigi ngạc nhiên hỏi.

163
"Này," Zabriski đáp. "Anh chàng nào đó vừa mới
bay qua đây cứ cầm lấy chim mà hét to, 'Chỗ đái đi đâu
đấy?'"

Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng.
Nhìn vào bên trong với sự khẩn thiết mênh mông,
nhìn thẳng vào chính trung tâm của bản thể. Chỉ một bước
nữa thôi, và trung tâm của bạn không chỉ là trung tâm của
bạn, nó là trung tâm của toàn thể sự tồn tại. Chúng ta là
một tại trung tâm này, chúng ta tách rời tại chu vi. Đi
ngày một sâu hơn, đi như mũi tên, tìm thấy chính ngọn
nguồn cuộc sống của bản thể bạn, đó cũng là ngọn nguồn
cuộc sống của tất cả. Vẫn còn lại ở trung tâm, chỉ là nhân
chứng cho thân thể bạn, tâm trí bạn, bởi vì nhân chứng
này là hiện tượng duy nhất trong sự tồn tại vốn là vĩnh
hằng. Mọi thứ đều chết. Chỉ nhân chứng này ở ngoài sống
và chết.
Nivedano...

164
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và là nhân chứng về thân thể và tâm trí.


Bạn phải không làm gì, chỉ quan sát, chỉ là gương. Chỉ là
gương rỗng không cái gì được phản xạ là kinh nghiệm lớn
nhất trong cuộc sống. Tại khoảnh khắc này bạn đang ở
trong cùng không gian như phật.
Từng li một bạn đang đi ngày một sâu hơn. Không
mấy chốc phật sẽ trở thành kinh nghiệm hai mươi bốn giờ
của bạn. Nó sẽ tự diễn đạt mình trong hoạt động của bạn,
trong lời của bạn, trong cử chỉ của bạn, trong im lặng của
bạn, trong bài ca của bạn và trong điệu vũ của bạn. Nó sẽ
ở chính trung tâm của tất cả những điều bạn làm, chỉ quan
sát. Nhưng việc quan sát của nó sẽ cho sự duyên dáng, cái
đẹp vô cùng với mọi hành động bạn làm. Sự tự phát lớn
lao sẽ này sinh. Cùng vũ trụ mà bạn đã quen thuộc sẽ trở
thành đẹp vô cùng. Việc chứng kiến của bạn sẽ mở ra tất
cả mọi cánh cửa của bí ẩn và sự huy hoàng.
Đây là buổi tối đẹp và việc tụ hội của mười nghìn
chư phật thậm chí còn làm cho nó đẹp hơn, thậm chí còn
phúc lạc hơn, thậm chí còn im lặng hơn. Hoa vô hình
đang mưa rào lên các bạn. Thu lấy thật nhiều hoa tuỳ bạn.
Không mấy chốc bạn sẽ quay lại, nhưng đừng quay lại hệt
như khi bạn mới đi vào.
Đi ra đã được biến đổi, bằng ánh sáng mới trong mắt
bạn, bằng niềm vui mới trong tim bạn, bằng cảm giác mới
về chiều hướng của cuộc sống bạn.
Nivedano...
(tiếng trống)

165
Quay lại, nhưng rất im lặng và rất duyên dáng. Biểu
lộ phật tính của mình, ngồi lại vài khoảnh khắc chỉ để nhớ
lại và hồi tưởng lại, bạn là phật. Phật không ở đâu đó khác
mà ở trong chính trung tâm của bản thể bạn.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội việc tụ tập của mười nghìn
chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

166
167
8. Khoảnh khắc này

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một lần một sư vẽ bốn vạch trước mặt Mã Tổ.
Vạch trên cùng dài, ba vạch còn lại ngắn. Rồi
ông ấy hỏi thầy, "Không nói một vạch dài và
ba vạch ngắn, thầy có thể nói được gì khác?"
Mã Tổ liền vẽ một vạch trên đất và nói, "Điều
này có thể được gọi là dài hay ngắn. Đó là câu
trả lời của ta."
Một dịp khác, một sư nói với Mã Tổ, "Ý của
việc Bồ đề đạt ma tới từ phương Tây là gì?"
Mã Tổ đáp, "Tại lúc này, ông định nói 'ý' là
gì?"
Sư lại hỏi câu hỏi này, và Mã Tổ đánh ông ta,
vừa nói, "Nếu ta không đánh ông, mọi người sẽ
cười ta."
E ở Rokutan đã hỏi Mã Tổ cùng câu hỏi đó về
việc Bồ đề đạt ma tới từ phương Tây.
Mã Tổ nói, "Nói khẽ thôi và lại gần hơn một
chút!"

168
E tới gần hơn. Mã Tổ đánh cho ông ta một cái,
và nói, "Sáu tai không cùng kế hoạch. Ngày
khác tới."
Về sau, E tới phòng và nói, "Xin cầu thầy nói
cho!"
Mã Tổ nói với ông ấy, "Đi hẳn một thời gian đi
rồi tới phòng này lần nữa khi ông có dịp, và ta
sẽ xác nhận công khai điều đó."
E từ đó chứng ngộ. Ông ấy nói, "Tôi xin cám
ơn mọi người về sự xác nhận của họ," và đi
quanh phòng một lần rồi ra đi.
Một dịp sau đó, một sư khác lại nói với Mã Tổ,
"Xin thầy đừng dùng tứ cú bách phi13, mà nói
cho tôi ý của việc Bồ đề đạt mà tới từ phương
Tây."
Mã Tổ nói, "Hôm nay ta mệt và không thể nói
được cho ông. Đi hỏi Trí Tạng14 đi."
Sư đi hỏi Trí Tạng, ông này nói, "Sao ông
không hỏi thầy?"
"Thầy bảo tôi tới hỏi ông," sư nói.
"Hôm nay ta đau đầu lắm," Trí Tạng nói, "nên
ta không thể nói cho ông được; ông sang hỏi
Bách Trượng Huệ Hải."
Sư lại tới Bách Trượng Huệ Hải, ông này nói,
"Ồ về chuyện ấy thì ta thực sự không biết."
Sư nói lại mọi điều này cho Mã Tổ, thầy nói,
"Trốc đầu Bách Trượng Huệ Hải đen; trốc đầu
Trí Tạng trắng."

13
Tứ cú bách phi: Tứ cú là bốn câu : có, không, vừa có vừa không, vừa
không có vừa không không. Bách phi là trăm cách phủ định, tức là mọi cách
phủ định. Tứ cú bách phi là mọi cách lí luận bằng ngôn ngữ và logic.
14
Chizo: Trí Tạng

169
Maneesha, trước khi tôi thảo luận về Mã Tổ và
những phát biểu của ông ấy, tôi phải khánh thành một
thần khác cho Bảo tàng các Thần của Avirbhava. Đây là
một thần rất quan trọng. Tôi sẽ nói cho các bạn về thần
này trước khi Avirbhava đem nó tới trước các bạn.
Tên của thần này mà ngựa. Nó đã được tôn thờ trên
khắp thế giới từ hàng thế kỉ nay. Ngay cả ngày nay vẫn
còn những nơi mà ngựa được tôn thờ như thần.
"Ngựa đực hay cái là một trong các dạng của linh
hồn ngô ở Châu Âu.
"Tại Hi Lạp cổ đại, Artemis và Aphrodite đã được
liên kết với ngựa, còn Cronus được coi là lấy hình dạng
ngựa.
"Tại Gaul, có thần ngựa cái tên là Epona và thần
ngựa đực tên là Rudiobus.
"Thần ngựa cái, Medb ở Tara và Macha ở Ulster, đã
được coi là có quyền năng của thần chết.
"Việc tôn thờ ngựa cũng tồn tại ở vịnh Péc xích, nơi
ngựa trắng được xem như thiêng liêng. Tại vùng Teutonic
chúng được giữ trong hàng rào linh thiêng.
"Tại đây, ở Ấn Độ, vào thời xưa, ngựa đã được thần
thánh hoá, và sự thờ cúng vẫn còn tới ngày nay. Koda Pen
là thần ngựa của Gonds."
Tại Ấn Độ cổ đại ngựa không chỉ được tôn thờ,
chúng cũng còn được hiến tế để làm hài lòng Thượng đế.
Không chỉ ngựa bị đem đi hiến tế; bò cũng bị giết, thậm
chí người cũng bị giết làm vật cúng tế. Với bò, nghi lễ

170
này được gọi là gomedh - go nghĩa là bò. Với ngựa, nghi
lễ này được gọi là ashvamedha. Ashva nghĩa là ngựa,
medha nghĩa là giết. Với người nghi lễ này được gọi là
narmedha. Nar nghĩa là người còn medha nghĩa là giết.
Và đây là những người làm nên sự ồn ào lớn về việc
chấm dứt giết bò. Họ đã giết cả người nhân danh Thượng
đế. Bản thân họ đã giết bò, ngựa, nhân danh Thượng đế.
Hiến tế người sống nhân danh Thượng đế là rất biểu
tượng. Với tôi điều đó còn ý nghĩa hơn chỉ việc cúng tế
thường. Toàn thể nhân loại đã bị mọi tôn giáo đem ra hiến
tế nhân danh Thượng đế.
Bạn đang sống cuộc sống què quặt bởi vì các tôn
giáo. Họ đã không giết bạn, nhưng họ cũng không để cho
bạn sống. Họ đã làm què quặt bạn. Họ đã chặt bạn ra làm
nhiều phần. Phần nào đó trong bạn phải bị vứt đi. Phần
nào đó trong bạn được tôn thờ, phần nào đó bị kết án.
Tính toàn thể của bạn không được chấp nhận bởi bất kì
tôn giáo nào trên thế giới. Những tôn giáo này được coi là
rất thông minh, và họ đang tôn thờ đủ mọi loại con vật!
Hoá thân Hindu đầu tiên của Thượng đế là cá. Tất
nhiên ở Bengal, cá được mọi người ăn như cái gì đó
thiêng liêng; gạo và cá là thức ăn cơ bản của họ. Toàn thể
vùng Bengal khắm mùi cá. Mọi nhà đều có cây đẹp, ngay
cả nhà nghèo nhất, và một cái ao đẹp trong đó họ nuôi cá.
Phong cảnh thì đẹp, rất xanh tươi. Không ở đâu xanh rờn
được như Bengal, và mọi nhà đều có ao, ao lớn được vây
quanh là những cây lớn. Bạn có thể biết được nhà nào
giầu bởi kích cỡ ao của họ. Nhà giầu có ao mênh mông,
họ ăn cá đắt nhân danh Thượng đế.

171
Giết bất kì cái gì nhân danh Thượng đế dễ dàng làm
sao. Nhân danh Thượng đế chính là chỗ trú ẩn rất bảo vệ.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng khi người Anh tới
Ấn Độ, trước hết họ chiếm Bengal, và Calcutta là thủ phủ
của họ. Người hầu Ấn Độ đầu tiên của họ, từ đẳng cấp
thấp nhất đến cao nhất, tất cả đều là người Bengal. Và bởi
vì họ tất cả đều khắm mùi cá, nên họ bắt đầu gọi họ là
"Babu." Babu là từ Pec xích nghĩa là người bốc mùi
khắm. Nhưng bởi vì họ là người phục vụ chính phủ, ở vị
trí cao, nên "Babu" trở thành rất đáng kính trọng. Bây giờ
gọi ai đó là Babu là kính trọng lắm đấy, vinh dự lắm đấy.
Tổng thống đầu tiên của Ấn Độ, Tiến sĩ Rajendra
Prasad, bao giờ cũng được gọi là Babu Rajendra Prasad.
Và ngay cả vị tổng thống đó cũng không có ý tưởng gì
rằng Babu là từ bẩn thỉu. Nhưng mọi người đã quên mất
nghĩa rộng. Bu nghĩa là bốc mùi, còn ba thực sự nghĩa là
mùi khắm.
Trong đạo Hindu không chỉ cá là hoá thân của
Thượng đế. Còn có cả rùa, có cả lợn, có cả sư tử, và sư tử
kì lạ - nửa sư tử nửa người - narsimha; phần trên thân thể
là của người. Và mọi người đã tôn thờ chúng. Người ta
phải tự hỏi liệu nhân loại có điên không. Điều gì đó chắc
chắn điên rồ.
Và hoá thân cuối cùng của Thượng đế mà sắp sửa
tới sẽ là ngựa trắng. Tên nó là Kalki. Và con ngựa trắng
đó sẽ cứu người đức hạnh và tiêu diệt kẻ tội lỗi và sẽ thay
đổi toàn thể quá trình lịch sử loài người - một con ngựa!
Và tất cả những kẻ ngốc này, người tin vào những
điều này sẽ ngồi sang bên quan sát. Hoá thân thứ mười
của Thượng đế tên là Kalki. Ông ấy sắp tới để phán xử

172
thế giới vào cuối của yuga này, chu kì thứ tư và cuối cùng
của một triệu tám trăm nghìn năm theo quan niệm Hindu
về thế giới. Ông ấy sẽ tiêu diệt kẻ ác, thưởng cho người
thiện, và làm Vishnu, Thượng đế của người Hindu, tạo ra
thế giới mới.
Trong Phật giáo, ngựa biểu thị cho việc không thể
huỷ diệt được, bản chất ẩn kín của mọi vật. Ngựa có cánh
hay ngựa vũ trụ, mang tên "Mây," là một dạng của Quán
Âm Avalokiteshvara. Đó là hoá thân của Phật Gautam.
Tôi cho phép những thượng đế con vật này trong trại
này để làm cho các bạn nhận biết về quá khứ của mình.
Và điều đó không được diễn ra toàn bộ, nó vẫn còn ẩn kín
trong tâm trí bạn.
Tại Varanasi... đó là một chỗ kì lạ, đó là thành phố
cổ nhất trên thế giới. Bởi vì nó là thành phố cổ thế nên
phố xá của nó rất nhỏ, bởi vì vào những ngày đó không
cần có xe bus và xe tải hay ô tô chạy. Ngay cả xe kéo tay
cũng khó mà đi được qua phố xá này.
Người ta sẽ coi là một đức hạnh lớn nếu bạn đem tới
một con bò đực và để nó ở trong thành Varanasi. Thành
Varanasi được coi là thành phố của Thần Vishnu, và ông
ấy yêu bò lắm. Cho nên trong thành phố Varanasi bạn sẽ
thấy nhiều bò hơn người, và bạn không thể loại bỏ con bò
đang đứng trên phố. Bạn cứ bóp còi đi và những con bò
kia không định nghe theo con người tầm thường vậy đâu.
Cứ bóp còi... chúng sẽ chỉ đứng đấy mà không bận tâm gì.
Bạn phải xuống xe và đẩy chúng sang bên. Bạn
không được đánh chúng bằng không bạn sẽ bị giết. Điều
đó sẽ làm tổn thương tới tình cảm tôn giáo của người
Hindu. Chúng vào cửa hàng, vào cửa hàng rau, và chúng

173
bắt đầu ăn. Bạn không thể dừng chúng lại được. Chúng
không phải là người thường, chúng là VVIP! Varanasi,
trên toàn thế giới...

(Vào lúc này những đợt sóng cười lan rộng qua hội
chúng khi một con ngựa trắng đi vào thính phòng qua cửa
bên trái bục, phi quanh bục rồi biến mất qua cửa bên
phải.)

Rồi, Avirbhava, bạn có thể quay lại, ngựa của bạn đã


được giới thiệu. Về lại chỗ của bạn.

(Vỗ tay lớn từ thính giả.)

Bây giờ, những phát biểu của Maneesha về Mã Tổ


và công việc của ông ấy:

Mã Tổ là một trong những thầy đầu tiên dùng


kĩ thuật Thiền một cách đặc biệt trong dạy bảo;
tức là, qua việc sống, không qua các ý tưởng
triết lí. Bằng việc chỉ ra cái tuyệt đối trong cái
tương đối - cái tương đối không có giáo điều
tôn giáo, lãng mạn, biểu tượng hay duy lí trí,
mà bằng một cảm giác sâu sắc về giá trị tồn tại
của một vật - Mã Tổ đã đem Thiền vào cuộc
sống bình thường, hàng ngày.

174
Đóng góp của ông ấy cho Thiền là mênh mông. Ông
ấy đã mang nó từ tầm cao xuống nơi bạn hiện hữu. Về Mã
Tổ người ta có thể nói, cũng như người ta đã nói về
Mohammed... Mohammed tương truyền đã nói rằng nếu
người khát không tới giếng thì giếng sẽ đi tới người khát.
Đi tới đỉnh cao của chư phật thực sự là điều gian
nan. Họ toả sáng như trăng tròn trên bầu trời, và một niềm
khao khát mênh mông dậy lên trong bạn để đạt tới cùng
chiều cao đó. Nhưng có nỗi sợ lớn về bất an, về nguy
hiểm, về những vùng núi non đó nơi bạn sẽ phải một
mình. Nhiều người muốn đạt tới những chiều cao đó phải
nghĩ hai lần trước khi họ cất bước đi đầu tiên của mình.
Mã Tổ đã thấy điều này và ông ấy đã đưa vào cái gì
đó mà chưa bao giờ được biết tới trước đây. Ông ấy đã từ
vùng núi non đi xuống bãi chợ. Ông ấy nói, "Bãi chợ
không thể thay đổi được ta, cho nên sao lại tránh nó? Ta
sẽ thay đổi bãi chợ. Ngồi ở chỗ cao của ta, ta sẽ không có
khả năng thay đổi hàng nghìn người. Và nếu khi điều đó
là có thể ta sẽ đi tới những người đó, cũng bình thường
như họ vậy, việc trao đổi sẽ dễ dàng hơn."
Do đó ông ấy đã vứt bỏ mọi giáo huấn triết lí. Ông
ấy đã đem những phương cách mới tới, hài hoà nhiều hơn
với đất, không hài hoà với trời, nhiều hài hoà với những
hoạt động con người bình thường. Một khi ông ấy đã bắt
giữ lấy bạn, ông ấy sẽ đưa bạn lên các đỉnh cao. Nhưng
vấn đề thứ nhất là phải bắt lấy bạn.
Ông ấy là thầy đầu tiên trong lịch sử của Thiền đã
biểu lộ từ bi thế. Ông ấy cũng đã đưa việc đánh vào lần
đầu tiên. Đấy nữa cũng là một phần của từ bi của ông ấy.
Việc đánh của ông ấy phải được hiểu bởi vì nó cứ lặp đi

175
lặp lại. Ông ấy đánh bạn để thức bạn dậy. Không có nhu
cầu phải đi đâu để tìm phật cả. Phật đang ngủ say bên
trong bạn. Ông ấy chỉ cần một chút ít thức tỉnh. Việc đánh
là từ tình yêu và từ bi thuần khiết.
Rất khó cho các tôn giáo khác trên thế giới hiểu
được: "Loại giáo huấn gì thế này? Dạy về Thượng đế, dạy
về thiên đường và địa ngục và đức hạnh và mười điều răn
chứ." Với họ điều đó có vẻ... điều đó quả có vẻ điên rồ.
Nhưng Mã Tổ đã giúp nhiều người trở nên chứng
ngộ hơn bất kì thầy nào khác. Kết quả cuối cùng chứng tỏ
rằng phương cách của ông ấy có tác dụng.

Một lần một sư vẽ bốn vạch trước mặt Mã Tổ.


Vạch trên cùng dài, ba vạch còn lại ngắn. Rồi
ông ấy hỏi thầy, "Không nói một vạch dài và
ba vạch ngắn, thầy có thể nói được gì khác?"
Mã Tổ liền vẽ một vạch trên đất và nói, "Điều
này có thể được gọi là dài hay ngắn. Đó là câu
trả lời của ta."

Điều đó làm tôi nhớ lại một sự vụ trong triều đình


của một vị hoàng đế Ấn Độ lớn, Akbar. Một hôm ông ấy
đi vào triều và kẻ một đường trên tường và bảo mọi người
trong triều... và ông ta đã tập hợp những người khôn
ngoan nhất từ khắp nơi trong nước về triều đình; đấy phải
là một triều đình giầu có nhất trên thế giới khi có liên
quan tới khôn ngoan. Ông ấy có tất cả mọi nghệ sĩ lớn,
nhạc sĩ, vũ công - bất kì ai hàng đầu đều được mời tham
dự vào triều đình của ông ấy.

176
Ông ấy hỏi các thành viên triều đình, "Các khanh có
thể làm cho đường này nhỏ đi mà không chạm vào nó
không?" Điều đó có vẻ giống như một công án Thiền.
Làm sao bạn có thể làm cho nó nhỏ đi mà không chạm
vào nó? Bạn sẽ phải chạm vào nó, chỉ thế thì bạn mới có
thể làm cho nó nhỏ đi. Điều đó dường như hiển nhiên.
Nhưng một người cười to. Người đó là anh hề của
triều đình, Birbal. Mọi triều đình trong thời cổ đại đều có
một anh hề triều đình, chỉ để làm cho triều đình được vui,
không nghiêm chỉnh. Có những vấn đề nghiêm chỉnh,
nhưng anh hề bao giờ cũng giữ cho nó được mát mẻ; anh
ta sẽ làm trò hề, và tất cả mọi sự nóng nảy sẽ biến mất, và
mọi người sẽ trở về với ý thức của mình. Birbal có lẽ là
một trong những người nổi tiếng nhất, người có cảm giác
khôi hài mênh mông; nhưng anh ta cũng là một người
khôn ngoan nữa. Anh ta đứng dậy và anh ta đi tới bức
tường và vẽ một đường to hơn ở phía trên đường nhỏ mà
Akbar đã vẽ. Và anh ta nói, "Tôi đã làm cho nó nhỏ hơn
mà không chạm vào nó" - bởi vì nhỏ, hay dài, hay ngắn,
tất cả đều là những từ tương đối.
Trong bản thân nó bạn có thể vẽ ra một đường... đó
là điều Mã Tổ đang làm, vẽ ra một đường. Và ông ấy nói,
"Ông có thể gọi nó là dài hay ngắn." Đấy là vấn đề tương
đối. Nếu bạn so sánh nó với đường dài hơn, thì nó ngắn;
nếu bạn so sánh nó với đường ngắn hơn, thì nó dài. Trong
chính nó, nó chỉ là cái nó đang vậy. Tính tương đối là ở
việc so sánh với cái gì đó khác.
Tại sao Mã Tổ đã làm điều đó thì phải được hiểu. Và
đặc biệt bởi vì Albert Einstein đã đưa vào lí thuyết tương
đối trong phạm vi khoa học, nên sự việc trở nên quan
trọng hơn để hiểu ý của Mã Tổ. Ông ấy đang nói, "Mọi

177
người đều chỉ là bản thân mình, không lớn, không nhỏ -
bởi vì tính lớn hay nhỏ tới từ sự tương đối - không đẹp
không xấu. Mọi người đơn giản là chính mình."
Bạn có thể đem một người cao hơn đến bên cạnh
người đó và người đó trở thành nhỏ hơn, nhưng người đó
vẫn còn nguyên như thế. Chí tính tương đối, về mặt khái
niệm, về mặt trí tuệ, bạn mới có thể thấy rằng người đó là
nhỏ hơn, nhưng người đó thậm chí không thay đổi lấy
một li. Bạn có thể đem một người lùn pygmy đến bên
cạnh người đó và bỗng nhiên người đó trở thành cao hơn,
mà người đó không thay đổi chút nào. Điều ông ấy đang
nói là ở chỗ tính tương đối là khái niệm nguy hiểm để
đem áp dụng cho con người.
Chính tính tương đối làm cho người nào đó thành to
lớn, vĩ đại, nổi tiếng, nổi danh. Người nào đó sống không
tên tuổi, người nào đó chỉ là không ai cả. Đây là tính
tương đối; bằng không thì mọi người chỉ là bản thân
mình, điều đó không tạo ra khác biệt gì. Không có vấn đề
bất bình đẳng, mọi người đều duy nhất. Người là không ai
cả thì hạnh phúc trong tính không ai cả của mình. Nhưng
khái niệm này về tính tương đối lại làm cho mọi người
phát điên. Mọi người đều cố gắng trèo lên cao hơn trên
chiếc thang, để trở thành ai đó đặc biệt. Và ngay cả người
đặc biệt nhất cũng khao khát biết bao nhiêu thứ họ đang
thiếu.
Chẳng hạn, Napoleon đã là người chinh phục thế
giới. Nhưng ông ta lại chịu phức cảm tự ti bởi vì chiều
cao của mình - ông ta chỉ cao quãng một mét sáu tư. Ngay
cả vệ sĩ của ông ta cũng cao hơn một mét tám ba và ông ta
cảm thấy rất ngượng nghịu - cả hai phía đều có các vệ sĩ,
và vệ sĩ được chọn là những người đặc biệt cao to khoẻ

178
mạnh. Ông ấy trông như đứa trẻ nhỏ trong so sánh với vệ
sĩ của mình, và điều này gây rất ngượng.
Một hôm ông ấy đang cố chỉnh lại bức tranh trên
tường, nhưng tầm với của ông ấy có hơi hụt, ông ấy
không thể với tới được bức tranh. Vệ sĩ của ông ấy nói,
"Thưa ngài, ngài đừng bận tâm về nó. Tôi lớn hơn ngài,
tôi có thể làm việc đó mà không khó khăn gì."
Napoleon said, "Ta sẽ bắn ngươi. Nói lại từ 'lớn' đi.
Ngươi đơn giản cao hơn ta, không 'lớn hơn'."
Anh chàng vệ sĩ đáng thương này không thể thấy
được tại sao ông ta lại trở nên giận dữ thế. Anh ta đã
chạm vào chính chỗ yếu trong vô thức của ông ta. Lớn
hơn sao? - không ai lớn hơn cả. Nhiều nhất bạn có thể nói,
về mặt thể chất, rằng bạn cao hơn. Nhưng Napoleon đã
khổ sở nhiều về điều đó. Cứ lúc nào ông ta thấy một
người cao hơn, ông ấy lại khổ sở vô cùng.
Bạn không thể có mọi thứ trên thế giới được. Sẽ có
những nhà thơ, sẽ có những nhạc sĩ, mà cái chạm của họ
là vàng. Sẽ có những lực sĩ với thân thể gần như công
trình của nghệ thuật. Bạn không thể có tất cả những điều
này được. Một cách tương đối, mọi người đều kém cỏi
khi so sánh với ai đó khác. Bạn có thể tìm ra người mà
bạn là kém và bạn sẽ tìm ra biết bao nhiêu người bạn kém
hơn. Ai đó là nghệ sĩ thổi sáo vĩ đại và bạn không biết đặt
sáo lên môi phía bên nào. Ai đó là nhà toán học lớn... nhà
toán học kì diệu đã xảy ra.
Ở Ấn Độ, ngay trong thế kỉ này, đã có hai người;
một là Shankaran, một người đi xe lăn ở Madras. Chỉ bởi
tình cờ mà một giáo sư tại đại học Madras nắm lấy xe lăn
của anh ta và trên đường người đi xe lăn hỏi ông ta, "Ông

179
dạy gì tại đại học vậy?" Ông ta là người Anh. Ông ta nói,
"Tôi là giáo sư toán học."
Người đi xe lăn nói, "Toán học à? Đó là chủ đề đặc
biệt của tôi đấy. Ông cứ bảo tôi bất kì con số nào, nhân
với bất kì con số nào khác, và trước khi ông kết thúc câu
hỏi của ông tôi sẽ trả lời nó." Và anh ta làm điều đó.
Ông giáo sư không thể tin được vào mắt và tai mình.
Con số mà ông ta cho để nhân với một số khác làm ông
giáo sư mất ít nhất ba phút tính. Không trải qua toàn bộ
quá trình này, anh ta đơn giản trả lời ngay. Và ông giáo sư
phải làm việc về nó, xem liệu câu trả lời của anh ta là
đúng hay sai - và nó đúng.
Ông ta đưa anh ta về đại học. Shankaran đã thuyết
phục tất cả các giáo sư rằng anh ta có sự hiểu thấu trực
giác. Được hỏi anh ta xoay xở làm điều đó thế nào, anh ta
nói anh ta không biết. "Ngay khi ông hỏi, một số xuất
hiện trên màn ảnh của tâm trí tôi, và tôi đơn giản nhắc lại
số đó. Tôi không biết quá trình nào cả, tôi không được
giáo dục."
Ông giáo sư đưa anh ta đi vòng quanh thế giới như
việc trưng bầy về toán học trực giác - tới Oxford, tới
Cambridge - và ở mọi nơi anh ta đều là người nổi danh.
Một người đi xe lăn vô giáo dục - và một nhà toán học vĩ
đại như Whitehead, Bertrand Russell, họ đơn giản không
thể tin được vào điều đó.
Bertrand Russell đã viết cuốn sách vĩ đại nhất về
toán học. Chỉ để giải thích hai cộng với hai là bốn, ông ấy
đã để ra hai trăm bốn mươi trang. Còn người này - bạn
đưa cho anh ta bất kì số nào để nhân hay bất kì câu hỏi

180
nào, và anh ta lập tức viết ra câu trả lời trên bảng. Anh ta
không trải qua quá trình nào.
Và thế rồi có một người đàn bà khác, tên cô ấy là
Shakuntala, và tôi nghĩ cô ấy vẫn còn sống - và điều kì lạ
là cũng ở cùng một chỗ, Madras. Cô ấy đã đi khắp thế
giới để biểu diễn khả năng trực giác của cô ấy về toán
học.
Ngay cả những nhà toán học vĩ đại cũng cảm thấy
như trẻ con khi ở cạnh những người này; họ không có
giáo dục, họ không biết gì về toán học cả, nhưng họ có
thể làm cho các nhà toán học vĩ đại cảm thấy kém cỏi.
Nếu bạn định so sánh, nếu bạn định nghĩ quanh, thì
bạn sẽ thấy hàng nghìn người sẽ làm cho bạn thành kém
cỏi. Và bạn không thể làm được gì về điều đó cả. Bạn
không thể là vũ công vĩ đại nhất, bạn không thể là nhà
toán học vĩ đại nhất, bạn không thể là nhà thơ vĩ đại nhất,
bạn không thể là hoạ sĩ vĩ đại nhất trên thế giới cùng một
lúc được.
Chính ý tưởng nghĩ trong tương đối về con người là
ngớ ngẩn. Bạn chỉ là bản thân bạn thôi. Đích thực là bản
thân mình, đừng có so sánh gì. Không kém cỏi nào nảy
sinh; không lớn lao nào nảy sinh. Bạn đơn giản thảnh thơi
như bạn hiện thế. Và bất kì cái gì bạn làm, bạn làm cho
tốt nhất vào, với niềm vui và sự sáng tạo.
Câu trả lời của Mã Tổ... ông ấy vẽ một vạch trên đất
và nói, "Điều này có thể được gọi là dài hay ngắn. Đó là
câu trả lời của ta."
Điều đó tuỳ thuộc vào cái gì bạn lấy ra so sánh với
nó. Nhưng tại sao so sánh ngay chỗ đầu tiên?

181
Tương đối là hoàn toàn tốt trong lĩnh vực khoa học.
Nó tuyệt đối sai trong thế giới của nhân loại. Con người
không phải là những con số toán học; con người là duy
nhất. Mọi người - dù người đó thế nào, dù người đó là gì -
chỉ phải đem tiềm năng của mình tới tính toàn bộ của nó,
sự uyên thâm của nó, để lau sạch nó và đem nó tới nở
hoa. Không thành vấn đề dù đó là hoa dại hay hoa hồng.
Vấn đề là việc nở hoa, việc đem tiềm năng của bạn tới
đỉnh cao nhất của nó.
Và điều đó sẽ đem tới cho bạn niềm vui và an bình,
và nghỉ ngơi, thảnh thơi với vũ trụ. Bạn sẽ trong hài hoà,
và sẽ không có rối loạn trong tâm trí bạn - làm sao trở
thành cái này, làm sao trở thành cái kia. Làm sao là người
giầu nhất, làm sao là người nổi tiếng nhất - tất cả những
cái đó chỉ là rác rưởi; và nó đang làm hàng nghìn người
phát điên, điên không cần thiết.
Họ có thể là người đẹp nhất nếu họ không nghĩ dưới
dạng tương đối. Nếu họ tự thoả mãn với mình và tiềm
năng của mình, và họ làm việc để đem tiềm năng của
mình tới đỉnh cao nhất của nó, không so sánh với bất kì ai
- đây là cách duy nhất con người có thể lành mạnh về tâm
lí.

Một dịp khác, một sư nói với Mã Tổ, "Ý của


việc Bồ đề đạt ma tới từ phương Tây là gì?"

Đây là câu hỏi truyền thống trong Thiền, đã được


hỏi hàng nghìn lần, đã được hỏi cho hàng trăm thầy khác
nhau bởi hàng nghìn đệ tử; và mọi lần lại một câu trả lời
khác nhau. Mã Tổ không định cho câu trả lời triết lí.

182
Các thầy theo hướng triết lí có thể cho nhiều ý về
việc Bồ đề đạt ma từ Ấn Độ tới Trung Quốc - nhớ rằng ở
Trung Quốc thì Ấn Độ là ở phương Tây.
Bồ đề đạt ma đã mang thông điệp của Phật Gautam,
và ông ấy đã biến đổi toàn thể Trung Quốc thành chuyện
tình lớn với Phật. Ông ấy đã không tạo ra tôn giáo có tổ
chức, ông ấy đơn giản lan toả hương thơm của Phật giáo.
Không nhà thờ có tổ chức, nhưng mọi người đều được
phép uống từ giếng của Phật, và làm dịu cơn khát của
mình. Không tu sĩ nào tồn tại trong Phật giáo - không có
nhu cầu về tu sĩ. Ông ta là cản trở, không phải là cây cầu.
Bản thân bạn có thể là phật, chỉ bằng việc đi vào bên
trong mình. Không cần tu sĩ nào cho việc đó cả.
Trung Quốc đã hạnh phúc khi nghe được thông điệp
này, "Bạn là phật; bạn chỉ không hiểu lãnh thổ bên trong
của mình, tính chủ thể của mình."
Biết bao nhiêu điều có thể được nói về "Ý của việc
Bồ đề đạt ma tới từ phương Tây là gì?"
Nhưng Mã Tổ đáp, "Tại lúc này, ông định nói 'ý' là
gì?"
Mã Tổ là một thầy kì lạ với phương pháp kì lạ. Thay
vì trả lời câu hỏi, ông ấy biến câu hỏi này thành câu hỏi
khác. Ông ấy thay đổi toàn bộ sự việc.

Ông ấy hỏi, "Tại lúc này, ông định nói 'ý' là


gì?"
Sư lại hỏi câu hỏi này, và Mã Tổ đánh ông ta,
vừa nói, "Nếu ta không đánh ông, mọi người sẽ
cười ta."

183
Một giai thoại kì lạ, nhưng Mã Tổ là phải. Ông ấy
đang nói, "Toàn thể ý của Phật Gautam và thông điệp của
ông ấy là ông. Bồ đề đạt ma tới đây để đánh thức ông dậy.
Thay vì triết lí hoá điều đó, ta sẽ làm đích xác cùng điều
như Bồ đề đạt ma đã làm.

"Tại lúc này, ông định nói 'ý' là gì?"

Điều đó tới như một cơn sốc, bởi vì sư này đã không


nghĩ rằng ai đó sẽ hỏi câu hỏi này.
Sư lại hỏi câu hỏi này, và Mã Tổ đánh ông ta, vừa
nói, "Nếu ta không đánh ông, mọi người sẽ cười ta." -bởi
vì ông là ý đó, và ông lại hỏi nó. Ông là phật, và ông lại
đang hỏi phật ở đâu. Nếu ta không đánh ông, thì hàng thế
kỉ mọi người sẽ cười ta."

E ở Rokutan đã hỏi Mã Tổ cùng câu hỏi đó về


việc Bồ đề đạt ma tới từ phương Tây.
Mã Tổ nói, "Nói khẽ thôi và lại gần hơn một
chút!"
E tới gần hơn. Mã Tổ đánh cho ông ta một cái,
và nói, "Sáu tai không cùng kế hoạch. Ngày
khác tới."

Người này có thể đã không hiểu. Ông ta đang hỏi


một câu hỏi đơn giản theo truyền thống, "Ý của việc bồ
đề đạt ma tới Trung Quốc là gì?" Và Mã Tổ đang trả lời
điều đó theo hai cách: trước hết, "Nói khẽ thôi!"

184
Người này phải đã hỏi cứ dường như câu trả lời là
không thể có. Người này phải đã hỏi với một bản ngã to,
trông đợi rằng Mã Tổ sẽ chấp nhận thất bại.
Bằng việc nói với ông ta, "Nói khẽ thôi!" đơn giản
nghĩa là, "Im đi, im lặng đi, khiêm tốn vào, bởi vì trong
cái khiêm tốn của mình ông sẽ thấy câu trả lời; trong im
lặng của mình ông sẽ thấy ý đó."
Và, "lại gần hơn một chút!" Người này đã không
hiểu ý của việc tới gần hơn một chút. Thầy đang nói,
"thân thiết hơn chút nữa với ta, lại lại gần hơn chút nữa
với trái tim ta, cởi mở hơn chút nữa. Đừng đứng đó mà
vẫn còn đóng kín, và cùng một bản ngã to. Khiêm tốn và
lại gần hơn."
Nhưng ông này đã không hiểu ý của cả việc nói khẽ
thôi, lẫn việc lại gần hơn một chút. Ông ta tới gần hơn -
về mặt vật lí.

Mã Tổ đánh cho ông ta một cái, và nói, "Sáu


tai không cùng kế hoạch. Ngày khác tới."
Mã Tổ đánh cho ông ta một cái, và nói, "Sáu tai
không cùng kế hoạch. Ngày khác tới - ông đã không hiểu
hôm nay rồi, nhưng ai mà biết được? - Ngày khác tới.
Hôm nay thế là đủ rằng ta đã cho ông một cú đánh ra trò.
nghĩ về điều đó." Và "Sáu tai không cùng kế hoạch."
Tại đây các ông có cả nghìn tai, nhưng đằng sau tai
của các ông mọi người đều có các kế hoạch khác nhau.
Cho nên một ngày khác tới và vứt bỏ đi kế hoạch của ông.
Nếu ông tới với định kiến, với câu trả lời đã có trong
mình, ông không thể hiểu được ta.

185
Tại đây chúng ta không làm việc về mặt triết lí. Đây
không phải là chỗ cho các nhà trí thức. Với điều đó ông
có thể đi bất kì đâu, tới bất kì tu viện nào nơi kinh sách
được coi là đưa ông vào bản tính bên trong của ông.
Nhưng nếu ông muốn nghe câu trả lời từ ta, ngày khác
tới. Hôm nay thế là đủ.

Về sau, E tới phòng và nói, "Xin cầu thầy nói


cho!"
Mã Tổ nói với ông ấy, "Đi hẳn một thời gian đi
rồi tới phòng này lần nữa khi ông có dịp, và ta
sẽ xác nhận công khai điều đó."
E từ đó chứng ngộ. Ông ấy nói, "Tôi xin cám
ơn mọi người về sự xác nhận của họ," và đi
quanh phòng một lần rồi ra đi.

Mọi thứ quanh Mã Tổ đều rất bí ẩn. Người này đã


không đi, ông ta theo Mã Tổ tới phòng hội chúng. Và lần
nữa trong phòng hội chúng ông ấy lặp lại điều đó, nhưng
bây giờ, chỉ trong vài khoảnh khắc, ông ấy đã là con
người khác. Ông ấy nói, "Xin cầu thầy nói cho!"
Kẻ bản ngã cũ của vài khoảnh khắc trước đó không
còn nữa. Tiếng nói này đã trở thành tiếng nói của cầu xin,
của khiêm tốn.

Mã Tổ nói với ông ấy, "Đi hẳn một thời gian đi


rồi tới phòng này lần nữa khi ông có dịp, và ta
sẽ xác nhận công khai điều đó."

Thầy đã không cho câu trả lời, nhưng thầy đã cho


cái gì đó khác. Thầy đang bảo ông ấy đi xa, "và về đây

186
chỉ khi ông có dịp nhận câu trả lời. Điều đó nghĩa là khi
ông đã thiền về nó, đã vứt bỏ mọi thành kiến của mình,
khi ông không có ý tưởng nào về câu trả lời là gì. Đó sẽ là
cơ hội của ông. Thế thì ông có thể tới, và ta sẽ xác nhận
công khai điều đó."
Bởi vì ông ấy đã hỏi với sự khiêm tốn, người này
phải đã có sự thông minh lớn lao. Thời gian không tạo
nên ý nghĩa gì; sao không làm điều đó bây giờ đi? Cho
nên ông ấy đã vứt bỏ - điều đó không được viết trong giai
thoại này, điều đó không thể được viết ra, nó là cái gì đó
xảy ra bên trong người này - người đó vứt bỏ mọi quan
điểm của mình. Và khi người đó vứt bỏ mọi quan điểm
của mình, thì không cần câu trả lời nào cho người đó nữa.
Đó là một tình huống kì lạ. Khi câu hỏi biến mất, thì
cũng không cần câu trả lời làm gì. Đó tất cả chỉ là trò thể
dục tâm trí. Thấy ra chân lí, rằng thầy không định dính líu
vào đối thoại trí tuệ... Có lẽ không có cách nào để giải
thích về mặt trí tuệ ý của việc Bồ đề đạt ma tới từ phương
Tây. Nó là cái gì đó có thể được truyền trao chỉ khi bạn
hoàn toàn im lặng và không có câu hỏi nào. Thế thì ngọn
lửa, đám cháy có thể loé ra từ tim của thầy. Và điều đó
thực tế đã xảy ra.

E từ đó chứng ngộ. Ông ấy nói, "Tôi xin cám


ơn mọi người về sự xác nhận của họ," và đi
quanh phòng một lần rồi ra đi.

Một dịp sau đó, một sư khác lại nói với Mã Tổ, "Xin thầy đừng
dùng tứ cú bách phi, mà nói cho con ý của việc Bồ đề đạt mà
tới từ phương Tây."

187
Mã Tổ nói, "Hôm nay ta mệt và không thể nói
được cho ông. Đi hỏi Trí Tạng."
Trí Tạng là một trong các đệ tử gần gũi nhất của ông
ấy.

Sư đi hỏi Trí Tạng, ông này nói, "Sao ông


không hỏi thầy?"
"Thầy bảo tôi tới hỏi ông," sư nói.
"Hôm nay ta đau đầu lắm," Trí Tạng nói, "nên
ta không thể nói cho ông được; ông sang hỏi
Bách Trượng Huệ Hải." Bách Trượng Huệ Hải
là đệ tử thân thiết thứ hai của Mã Tổ.
Sư lại tới Bách Trượng Huệ Hải, ông này nói,
"Ồ về chuyện ấy thì ta thực sự không biết."
Sư nói lại mọi điều này cho Mã Tổ, thầy nói,
"Trốc đầu Bách Trượng Huệ Hải đen; trốc đầu
Trí Tạng trắng."
Bây giờ câu hỏi này hoàn toàn bị quên khuấy mất.
Không ai đã hỏi nó. Ngược lại, Bách Trượng Huệ Hải đã
chấp nhận rằng bản thân mình không biết câu trả lời là gì.
Trốc đầu trắng và trốc đầu đen nói tới một câu
chuyện cổ về hai kẻ cướp. Một kẻ cướp đội mũ trắng,
trong khi kẻ cướp kia đội mũ đen. Khi câu chuyện diễn ra,
người với mũ đen tàn nhẫn và cực đoan hơn người mũ
trắng. Cho nên chính điều Bách Trượng Huệ Hải nói còn
cực đoan hơn Trí Tạng trong phương pháp giải quyết cho
sư trẻ này.
Mã Tổ đã nói rằng ông ấy rất mệt. "Hôm nay ta mệt
và không thể nói được cho ông." Sự kiện là, dù bạn mệt
hay không, bạn cũng không thể nói được điều đó. Ý của

188
Bồ đề đạt ma là kinh nghiệm, nó không phải là việc giải
thích. Nhưng để khiêm tốn, Mã Tổ đã không nói, "Không
thể nói được gì về điều đó cả." Ngược lại, ông ấy nhận
toàn bộ trách nhiệm về phần mình. "Hôm nay ta mệt và
không thể nói được cho ông. Đi hỏi Trí Tạng."
Ông ấy nhân cơ hội này để kiểm tra Trí Tạng và
Bách Trượng Huệ Hải. Ông ấy biết rằng Trí Tạng sẽ
không thể trả lời được, mà cả Bách Trượng Huệ Hải cũng
không trả lời được. Câu hỏi này trong Thiền là một trong
những điều không thể nào trả lời nổi, chỉ có thể được kinh
nghiệm. Không có cách nào đem chúng thành lời. Người
này tới Trí Tạng, ông này nói, "Sao ông không hỏi thầy
đi? Sao làm phiền tôi thế? Tôi chỉ là một đệ tử."
Nhưng sư này nói, "Thầy bảo tôi tới hỏi ông..."
"Hôm nay ta đau đầu lắm," Trí Tạng nói, "nên
ta không thể nói cho ông được; ông sang hỏi
Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải."
Sư lại tới Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải,
ông này nói, "Ồ về chuyện ấy thì ta thực sự
không biết."
Sư nói lại mọi điều này cho Mã Tổ, thầy nói,
"Trốc đầu Bách Trượng Huệ Hải đen; trốc đầu
Trí Tạng trắng."

Điều đó lại dẫn tới câu chuyện về hai kẻ cướp trên.


Tên cướp hay dùng mũ trắng là nhà cách mạng triệt để.
Và Mã Tổ nói rằng trốc đầu của Bách Trượng Huệ Hải
đen. Đó là một phát biểu khác thường để nói rằng ông
không biết, cần dũng cảm chấp nhận cái dốt của ông. Trốc
đầu Trí Tạng trắng. Ông ấy đang cố gắng che dấu - cứ

189
dường như ông ấy biết, nhưng bởi vì ông ấy bị đau đầu
quá, hôm nay ông ấy không thể nói được điều đó.
Mã Tổ làm việc theo cách kì lạ. Bây giờ ông ấy đã
làm việc với một câu hỏi trên ba người: trên sư đã mang
tới câu hỏi, trên Trí Tạng, người đang cố gắng che dấu cái
dốt của mình, trên Bách TrượngBách Trượng Huệ Hải,
người vượt ra hẳn bằng câu trả lời triệt để của mình, "Tôi
không biết."
"Tôi không biết" là câu trả lời vĩ đại nhất trong toàn
thể kinh nghiệm của nhân loại.
Socrates đã nói, "Tôi không biết," vào chính khoảnh
khắc cuối cùng của cuộc đời mình. Toàn thể cuộc đời
mình, ông ấy đã giảng về chân lí, và vào khoảnh khắc
cuối cùng ông ấy nói, "Tôi không biết." Vào khoảnh khắc
cuối cùng ông ấy trở thành thực sự khiêm tốn, và ông ấy
thấy sự vĩ đại của chân lí và sự huyền bí của nó, tính
không diễn đạt được của nó - và điều mà ông ấy đã từng
làm chỉ là chơi đùa với lời cả đời mình. Bây giờ, không
thế nữa; ông ấy sắp chết trong vòng vài phút. Thuốc độc
đang được chuẩn bị. Ít nhất thế giới cũng nên biết rằng
Socrates, trước khi chết, đã thốt ra câu trả lời chân thành
của mình, "Tôi không biết. Tôi không biết gì về cái gì cả.
Tôi chỉ hồn nhiên và dốt nát như đứa trẻ."
Nhưng đây là đỉnh cao nhất của trí huệ. Khi bạn
không biết, tâm trí là trống rỗng, bạn đã đạt tới trái tim
trống rỗng. Khi bạn biết, tâm trí tràn đầy. Tri thức là rào
chắn lớn nhất cho việc đạt tới vũ trụ, đạt tới cái bất tử, tới
chân lí vĩnh hằng. Tri thức là rào chắn lớn nhất, cái ngăn
cản bạn không cho nhận ra phật tính của bạn.

190
Trí Tạng gần với Mã Tổ hơn nhưng ông ấy đã không
được làm người kế tục. Bách Trượng Huệ Hải đã được
chọn là người kế tục. Khi Mã Tổ chết... trước khi chết ông
ấy tuyên bố Bách Trượng Huệ Hải. Không ai trông đợi
điều đó; mọi người đều biết rằng Trí Tạng sẽ là người kế
tục. Nhưng Bách Trượng Huệ Hải đã được chọn bởi lẽ
đơn giản rằng ông ấy có dũng cảm để bầy tỏ dốt nát của
mình, sự hồn nhiên của mình.
Phát biểu "Tôi không biết," là phát biểu vĩ đại nhất
ai cũng có thể làm được. Nó làm cho trái tim bạn trống
rỗng hoàn toàn. Tại đây, trong việc thiền của mình, chúng
ta đang làm đích xác điều này. Toàn bộ nỗ lực của tôi là
để dỡ đi mọi tri thức của bạn, bởi vì nó tất cả đều là vay
mượn, và không cần thiết cho bạn mang nó. Nó không
cho phép trái tim bạn được trống rỗng, và chỉ trái tim
trống rỗng mới có khả năng rơi vào sự hài hoà với trái tim
vũ trụ. Từ điểm đó cuộc sống trở thành lễ hội.
Soseki đã viết,

Mảnh đất hoang này


không có biên giới -
bắc, nam, đông hay tây.
Khó thấy ngay cả cây
ở giữa nó.
Quay đầu
bạn có thể nhìn ra ngoài từng hướng.
Lần đầu tiên bạn biết rằng mắt mình
đã từng lừa dối mình.

Khi bạn đi vào bên trong, không có đông, không có


tây, không có nam, không có bắc; chỉ không gian thuần

191
khiết, theo mọi hướng đều như nhau. Bạn đã đi tới chính
gốc rễ của mình, và bây giờ lần đầu tiên bạn biết rằng tất
cả bao nhiêu kiếp sống này con mắt của bạn đã lừa dối
bạn bởi vì chúng giữ bạn bị gắn bó với các đối thể bên
ngoài. Chúng không cho phép bạn đi vào trong bản thân
mình. Bạn bị giữ bận rộn với cái gì đó bên ngoài - tiền
bạc, tri thức, sự kính trọng.
Có cả nghìn cách để giữ bạn bận rộn để cho bạn
không quay vào bên trong. Cuộc sống được xã hội điều
khiển theo cách ngay từ ban đầu bạn đã bị buộc phải bị
bận rộn. Nó trở thành thói quen. Nếu bạn không có gì
làm, bạn tìm cái gì đó để làm. Tôi biết mọi người... cứ vào
chủ nhật là họ lại trong tình trạng không thoải mái nhất -
không có gì để làm cả! Họ có thể mở đồng hồ cũ của ông
mình ra sửa chữa - đấy đã là làm việc rồi. Hay họ có thể
đi tới ô tô và mở nắp đậy ra, mà ô tô vẫn chạy tốt có làm
sao đâu - nhưng đấy là cái gì đó để làm. Họ có thể đọc
cùng tờ báo nhiều lần.
Tôi hay sống với một người họ hàng trong vài ngày.
Anh ta đã về hưu và hay đọc cùng tờ báo từ sáng tới đêm.
Và tôi nói, "Anh đọc tờ báo này bao nhiêu lần vậy?"
Anh ta nói, "Vấn đề không phải là đọc. Vấn đề là ở
chỗ tôi không có gì để làm cả. Vợ tôi chết rồi. Bà ấy
thường giữ cho tôi được bận rộn - 'Đem cho tôi cái này,
đem cho tôi cái kia' - và bà ấy hay làm tình làm tội tôi.
Bây giờ tôi thấy thiếu bà ấy quá. Vào lúc đó tôi hay nghĩ
rằng nếu bà ấy chết đi thì sẽ tốt bởi bà ấy bị đau ở cổ.
Nhưng ít nhất thì cũng có cái gì đó để mà bận rộn. Bây
giờ tôi hoàn toàn vô dụng."

192
Ở đây tất cả các bạn đều biết Maitreya đang nằm
trong hầm mộ mình. Anh ấy quen giữ mọi báo chí - báo
cũ. Có lần tôi nhìn vào phòng anh ấy. Tôi không thể đi
vào phòng anh ấy được vì anh ấy hay ăn tỏi nhiều tới mức
cả căn phòng sặc sụa mùi tỏi. Anh ấy đã được gắn với tôi
trong gần bốn mươi năm. Anh ấy đã là nghị sĩ của nghị
viện. Anh ấy bao giờ cũng yêu cầu tôi ở cùng anh ấy
trong nhà anh ấy ở Delhi, còn tôi bao giờ cũng nói,
"Không đâu. Chừng nào anh còn chưa bỏ tỏi đi thì không
có cách nào. Tôi không thể vào nhà anh được."
Anh ấy nói, "Rất khó cho tôi bỏ tỏi. Tôi có thể bỏ
mọi thứ" - và anh ấy đã bỏ mọi thứ: anh ấy bỏ vợ, anh ấy
bỏ nhà, anh ấy bỏ là nghị sĩ nghị viện, anh ấy đã trở thành
một sannyasin - nhưng tỏi, cái đó anh ấy không thể xoay
xở bỏ được. Cho nên tôi không bao giờ vào phòng anh ấy
cả - anh ấy đã sống cùng tôi trong nhà riêng của tôi - chỉ
từ bên ngoài cửa tôi đã nhìn biết bao nhiêu là báo... chúng
gần như chất tới trần. Và tôi hỏi anh ấy, "Anh định làm gì
với đống báo cũ này? Anh có điên hay cái gì không đấy?"
Và anh ấy sẽ cười to và anh ấy sẽ nói, "Đôi khi, khi
người ta không có gì để làm, thì hoàn toàn tốt là đọc lại
báo cũ. Đó chỉ là thói quen của chính khách già."
Khu vực bầu cử của anh ta là Patna. Tại Patna anh
ấy cứ nhấn mạnh mãi là tôi nên ở tại nhà anh ấy. Tôi nói,
"Tôi có thể ở trong khách sạn. Nhưng cho dù đời tôi có
gặp nguy hiểm thì tôi cũng vẫn sẽ không vào nhà anh đâu.
Tôi không thể chịu được tỏi. Nó nguy hiểm thế, chính cái
mùi tỏi ấy." Khi anh ấy chết, tôi nói, "Trời, điều đó là tốt.
Ít nhất bây giờ không ai đem tỏi vào nhà này!"

193
Và tôi đã nói rằng bây giờ những người hâm mộ tỏi
không nên được phép ở trong nhà tôi - vậy mà vẫn có
người hâm mộ! Sarjano này, làm đủ mọi loại mì ống, là
anh chàng hâm mộ tỏi. Cũng tốt là chính phủ Italy không
cho phép tôi vào Italy. Tôi sung sướng về điều đó. Và các
sannyasin của tôi, Sarjano, Majid, và những người khác,
họ cứ ép buộc nghị viện còn tôi lại lo lắng nhiều rằng
ngày nào đó...
Trong hai năm liên tục nghị viện đã thảo luận về
điều đó. Cuối cùng họ đồng ý cho tôi visa ba tuần, với
điều kiện. Điều đó rất tốt. Tôi đã từ chối; tôi đã từ chối
hoàn toàn. "Có điều kiện thì tôi không thể vào nước các
ông được. Bỏ mọi điều kiện đi, thế thì tôi sẽ xem xét điều
đó." Thế là chính phủ vẫn đang xem xét, và tôi hi vọng
rằng họ sẽ không cho phép tôi bởi vì tôi chắc chắn phải lo
rằng cả nước Italy sặc sụa mùi tỏi. Tôi biết nhiều
sannyasins Italia - tôi phải để họ ở xa xa một chút.

Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Tôi không biết ý của việc Bồ đề đạt ma tới từ
phương Tây, nhưng dường như có ý nghĩa
trong việc ông ấy đem tôn giáo tồn tại của
Thiền sang phương Đông, còn thầy - bao nhiêu
thế kỉ sau - lại đem nó trở lại cho con người
đương đại. Qua cả hai thầy, Thiền đã làm

194
thành vòng tròn đầy đủ. Thầy có trong quan hệ
đối tác với Bồ đề đạt ma không?

Maneesha, đó là bí mật để mở đấy.


Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh.

Sardar Gurudayal Singh có việc mới làm người phục


vụ bàn trong Toà nhà Pancakes của Ken khoe khoang.
Hai quí ông vừa kết thúc bữa tối của họ, và Sardar
Gurudayal Singh lại gần họ. "Trà hay cà phê thưa các
ông?" Sardar Gurudayal Singh hỏi.
"Tôi uống trà," ngườ thứ nhất nói.
"Vâng, tôi cũng uống trà," người thứ hai nói, "nhưng
phải chắc là cốc sạch đấy."
Vài phút sau, Sardar Gurudayal Singh trở lại và nói,
"Đây rồi, hai cốc trà. Bây giờ, ông nào hỏi về cốc sạch
ạ?"

Bác sĩ Feelgood đang dự hội nghị các nhà tâm thần


tại New York. Trong một lần nghỉ, ông ấy vào tiệm cà
phê. Ông ấy để ý thấy một phụ nữ đẹp ngồi một mình
trong góc, uống cà phê. Cô ta đẹp và hấp dẫn tới mức
Feelgood không thể cưỡng được cám dỗ nói chuyện với
cô ấy. Ông ta lại gần cô ấy và hỏi một cách yên tĩnh, "Tôi
có thể kết nối cô được chứ?"
Quí bà trẻ lùi lại nhìn ông ấy vài giây và rồi đáp,
"Sao vậy, tôi trông có vẻ như bị rời ra sao?"

195
Bây giờ bạn hiểu điều đó chưa?

Walter và Larry, hai kị sĩ vùng biên giới Australia,


đang uống bia và thảo luận xem chó của họ khôn thế nào.
"Con chó Rex của tôi khôn tới mức," Walter nói,
"tôi có thể cho nó năm chỉ dẫn một lúc và nó sẽ mang
từng thứ về một."
"Thế chưa là gì nhé!" Larry đáp. "Con chó Butch
của tôi chỉ cần một chỉ dẫn từ tôi, và thế rồi nó đoán ra hết
phần còn lại."
Sau vài chầu bia nữa, Walter huýt sáo gọi Rex. Anh
ta bảo con chó ra phố, rẽ trái ở chỗ đèn giao thông, đi nửa
dặm và đem về con cừu đen từ cánh đồng ở đó. Mười
phút sau, Rex trở lại với con cừu. "Cũng không tồi," Larry
nói, "nhưng xem đây!" Thế rồi anh ta gọi Butch. "Butch,"
Larry nói, "Tao đói rồi!"
Butch chạy ra đường cho tới khi nó thấy một chuồng
gà. Nó đào một cái hố dưới hàng rào, nâng con gà mái ra
khỏi ổ, và lấy một quả trứng dưới con gà.
Thế rồi nó chạy về Larry, nhả quả trứng ra, lấy một
cái nồi nhỏ, chạy đi kiếm ít nước, đặt nồi lên bếp lửa và
thả quả trứng vào.
Đích xác ba phút sau thì nước sôi, Butch lật nghiêng
nước, lấy ra quả trứng, đem trứng trao cho Larry và thế
rồi đứng trồng cây chuối với đuôi ngỏng lên trời.
"Không thể nào tin được!" Walter nói, "nhưng bảo
tớ - sao nó đứng trên đầu như thế, chổng đít lên trời?"

196
"Thế này, nó là con chó khôn," Larry đáp. "Nó biết
rằng tớ không ăn cốc trứng."
Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Nhìn vào bên trong với sự khẩn thiết lớn
lao.
Bạn phải đạt tới, vào chính khoảnh khắc này tới
trung tâm của bạn. Trung tâm của bạn là điều vĩnh hằng
của bạn. Khoảnh khắc bạn ở tại trung tâm, bạn chỉ là một
nhân chứng - một gương phản chiếu thân thể, tâm trí,
nhưng biết hoàn toàn rõ nó tuyệt đối trống rỗng.
Gương rỗng... và cánh cửa của mọi bí ẩn của sự tồn
tại sẽ mở ra cho bạn. Đi ngày một sâu hơn... làm tối nay
thành cột mốc trong đời bạn.
Nhận ra phật của bạn và rồi làm điều đó hai mươi
bốn giờ, cả ngày - trong mọi cử chỉ, trong mọi hành động,
một cách an bình, duyên dáng, với trái tim quan sát, im
lặng. Đây là chính tinh tuý của tôn giáo; mọi thứ khác chỉ
là lời bình luận không bản chất. Từ nhân chứng chứa mọi
kinh sách.

197
Nivedano...
(tiếng trống)

Làm rõ ràng rằng bạn không là thân thể, không là


tâm trí mà chỉ là tâm thức quan sát, nhân chứng.
Buổi tối nay là vĩ đại, và im lặng của bạn đã làm cho
nó vĩ đại hơn. Nó đẹp thế, và việc chứng kiến của bạn đã
thêm cái đẹp mênh mang vào nó. Trên toàn trái đất vào
khoảnh khắc này, chỗ này, nơi mười nghìn chư phật đơn
giản đang chứng kiến, có một đặc tính duy nhất.
Trong quá khứ, đã có nhiều chỗ giống chỗ này.
Không may, những ngày vàng đó là quá khứ, nhưng nỗ
lực của tôi là để mang những khoảnh khắc vàng đó lại
trong tương lai của nhân loại. Các bạn sẽ là phương tiện.

Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại... nhưng quay lại như phật, không ngần


ngại gì, không hoài nghi gì. Đây là niềm tin cậy duy nhất
tôi dạy.
Bạn là phật. Ngồi trong vài khoảnh khắc, chỉ để hồi
tưởng lại toàn thể kinh nghiệm này. Mưa đã tới để đón
chào bạn. Huy hoàng sao, khoảnh khắc này. Im lặng sao,
khoảnh khắc này.

198
Được chứ, Maneesha?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

199
9. Không gợn sóng

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Có một lần, một sư gọi Mã Tổ và hỏi ông ấy,
"Ai là người không lấy mọi pháp làm bạn đồng
hành?"
Mã Tổ đáp, "Ta sẽ bảo ông điều này sau khi
ông đã nuốt hết nước Tây Giang."
Nghe thấy điều này, sư lập tức thức tỉnh, và
ông ấy ở lại đạo tràng của Mã Tổ hai năm.
Một lần khác, Mã Tổ nói, "Mọi pháp đều là
pháp của tâm, và mọi tên đều là tên của tâm.
Mọi sinh linh đều được sinh ra từ tâm, và do
vậy tâm là nền tảng của mọi sinh linh.
"Lấy ví dụ: bóng của trăng phản xạ trên nước
có nhiều hình dạng, nhưng trăng thực không
giống cái đó. Giống vậy có nhiều dòng sông,
nhưng bản tính của nước là một. Mặc dầu có
vô số hoạt động, không có phân biệt trong cái
trống rỗng. Mọi vật khác nhau trải qua những
con đường khác nhau, nhưng trí huệ giải thoát
là một. Tất cả đều dựa trên một tâm.

200
"Mọi pháp đều dựa trên pháp của Phật. Từng
pháp đều lập tức là pháp của nhận biết, và
pháp của nhận biết là hiện hữu, mọi vật đều
như chúng thực thế.
"Mọi cái đến và đi và có nghỉ, hay ngồi và
nằm, đều là công trình bí ẩn, và chúng không
cần quá trình thời gian. Kinh sách nói: 'Tất cả
mọi nơi, lập tức có chư phật.'"
Mã Tổ tiếp tục, "Tu tập không ích gì cho việc
đạt tới Đạo. Điều duy nhất mà người ta có thể
làm là thoát khỏi ô uế. Khi tâm người ta bị vấy
bẩn bởi ý nghĩ về sống và chết, hay hành động
có tính toán, đó là ô uế. Việc hiểu thấu chân lí
là chức năng của sự chú tâm hàng ngày.
"Việc chú tâm hàng ngày là thoát khỏi hành
động có chủ tâm, thoát khỏi quan niệm về đúng
và sai, lấy và cho, hữu hạn hay vô vạn.... Mọi
hoạt động hàng ngày của chúng ta - bước,
đứng, ngồi, nằm - tất cả đều đáp ứng cho tình
huống, cách chúng ta giải quyết theo hoàn
cảnh khi chúng phát sinh: tất cả những cái này
là Đạo."

Maneesha, chăm nom tới Anando.... Cô ấy đang ở


đây - cô ấy có thể ở đâu khác được? Nhưng cô ấy đang
trốn sau chứng đau nửa đầu. Bạn phải nhớ giai thoại ngày
hôm qua. Thầy Mã Tổ đang trốn sau sự mệt mỏi: "Ta quá
mệt không thể trả lời câu hỏi này hôm nay được. Ông tới
Nam Tuyền đi." Thực tế là ở chỗ câu hỏi này không thể
nào được trả lời. Nam Tuyền nói, "Tôi đau đầu lắm. Tốt

201
hơn cả là ông tới Bách Trượng Huệ Hải đi." Bách Trượng
Huệ Hải đơn giản vứt bỏ bí mật này; ông ấy đơn giản nói,
"Tôi không biết."
Lí do cho chứng đau nửa đầu của Maneesha là câu
hỏi mà cô ấy đã hỏi. Khi chúng ta đi tới câu hỏi này, các
bạn sẽ hiểu tại sao cô ấy có chứng đau nửa đầu. Câu
chuyện cô ấy đã đem tới:

Có một lần, một sư gọi Mã Tổ và hỏi ông ấy,


"Ai là người không lấy mọi pháp làm bạn đồng
hành?"

Bản thân Mã Tổ là người đã nói, "Ta chỉ là nhân


chứng. Mọi pháp đều chỉ là các đối thể, ta chứng kiến
chúng. Chẳng hạn: từ bi nảy sinh trong ta - ta không phải
là từ bi. Ta có thể thấy nó nảy sinh giống như khói phát
sinh từ lửa, hay ngọn lửa này sinh từ đám cháy. Nhưng ta
không phải là nó."
Bất kì pháp nào, bất kì đức hạnh nào, đều là đối thể
như bất kì vật gì khác trên thế giới. Chỉ một điều không là
đối thể trên thế giới, và đó là chính bản thể bạn - cái ta
chứng kiến của bạn. Nó không bao giờ có thể được làm
thành đối thể; không thể nào thu nó về đối thể được. Nó
bao giờ cũng sẽ còn lại là nhân chứng và không bao giờ
có thể trở thành cái được chứng kiến.
Ngoại trừ điều này, bạn không thể nói được gì nhiều
hơn về nó. Và bởi vì nó không bị gắn với bất kì pháp nào,
bất kì thuộc tính nào, nên nó có sống vĩnh hằng, nó có bất
tử, và nó có tầm với tới mọi chiều sâu của vũ trụ.

202
Mã Tổ bản thân ông ấy là người này. Sư này đang
hỏi Mã Tổ, "Ai là người không lấy mọi pháp làm bạn
đồng hành?"
Ông sư ấy phải giận lắm, bởi vì có trường phái Phật
giáo khác nói rằng mọi pháp đều thuộc vào cái ta. Từ bi,
tình yêu, chân lí - tất cả các pháp đều là thuộc tính của
bản thể bạn, chi nhánh của bản thể riêng của bạn, hoa của
bản thể riêng của bạn. Và điều này là ý kiến đa số còn lớn
hơn nhiều.
Mã Tổ là duy nhất trong hiểu biết của ông ấy rằng
mỗi một điều - chứng kiến - là bản chất của bản thể bạn.
Mọi thứ khác mà có thể được chứng kiến đều tách rời
khỏi bạn. Nó trở thành cái khác. Khoảnh khắc nó được đố
thể hoá, nó trở thành cái khác. Người này phải đã trong
giận dữ khi ông ta hỏi điều này.

Mã Tổ đáp, "Ta sẽ bảo ông điều này sau khi


ông đã nuốt hết nước Tây Giang."

Thấy cơn giận của ông ấy, thay vì trả lời ông ấy, Mã
Tổ nói, "Đi ra sông đi, và nuốt hết nước sông. Ngay cả
ngần ấy nước chưa chắc đã có thể làm dịu cơn giận của
ông. Thế rồi quay lại, và ta sẽ trả lời ông."
Nghe thấy điều này, người đó bỗng nhiên phải đã trở
nên nhận biết về cơn giận của mình. Đó là toàn bộ giáo
huấn của Thiền. Dù bạn thuộc vào bất kì trường phái nào,
quan sát cũng là phần không thể tránh được của kỉ luật.
Bỗng nhiên ông ấy phải đã trở nên nhận biết rằng
ông ấy đã hỏi câu hỏi này không phải từ việc truy tìm, mà
từ giận dữ. Ông ấy đã bình tĩnh lại. Bỗng nhiên bình thản

203
mênh mông tới với ông ấy, cứ dường như ông ấy đã nuốt
cả dòng sông.

Nghe thấy điều này, sư lập tức thức tỉnh, và


ông ấy ở lại đạo tràng của Mã Tổ hai năm.

Chứng ngộ là vấn đề của việc nhận ra bất thần - rằng


bạn không là giận, không là tham, không là yêu, không là
từ bi. Bất kì cái gì mà bạn có thể đặt tên, bạn không là nó.
Bạn là nhân chứng không thể đặt tên được, ẩn sâu bên
trong bạn, chỉ phản xạ mọi thứ đi qua, như gương.
Tôi đã gọi loạt bài này là Mã Tổ: Gương rỗng bởi lí
do đơn giản là toàn thể giáo huấn của ông ấy là : không
phản ứng - chỉ hiện hữu, và phản xạ. Mây sẽ tới và đi, và
bầu trời vẫn còn trống rỗng như vậy mãi. Mây không để
lại dấu vết nào trên bầu trời trống rỗng. Và cũng như bên
ngoài có bầu trời trống rỗng bao la này - nó là không đo
được - ở phía bên kia, bên trong, cùng cái vô hạn đó tồn
tại. Bạn đang đứng ngay ở giữa cái vô hạn bên ngoài và
cái vô hạn bên trong. Bạn có thể đi theo cả hai hướng - ra
ngoài, và bạn sẽ không tìm thấy giới hạn nào, hay vào
trong, và bạn sẽ không tìm thấy giới hạn nào.
Khoa học đã tranh đấu trong ba trăm năm, bởi vì nó
cả quyết rằng phải có một đường biên cho vũ trụ. Với tâm
trí điều đó không hấp dẫn, dường như là không hợp lí khi
có cái gì đó mà lại không có biên giới. Làm sao nó có thể
tồn tại mà lại không có biên giới? Biên giới có thể ở hàng
triệu dặm xa xăm, hàng triệu năm ánh sáng xa xôi; nhưng
điều đó không thành vấn đề, nó vẫn phải có giới hạn.

204
Nhưng cuối cùng, với Albert Einstein, khoa học đã
chấp nhận thất bại của nó. Bây giờ chúng ta có những
công cụ cực mạnh để tìm ra vì sao xa nhất, nhưng ngay cả
vì sao xa nhất đó cũng không phải là giới hạn. Albert
Einstein đã chấp nhận điều đó một cách khiêm tốn rằng,
hợp lí hay không hợp lí - chúng ta có thể làm được gì? -
sự tồn tại là vô giới hạn. Nếu có việc gì, chúng ta có thể
thay đổi logic và tính hợp lí của mình, nhưng chúng ta
không thể thay đổi được vũ trụ.
Cái vô hạn bên trong còn bí ẩn hơn nhiều, chỉ bởi vì
nó sống động hơn. Bạn càng đi sâu hơn, thì bạn càng đi
vào trong cuộc sống sâu hơn, vào trong cuộc sống dư
thừa. Và bạn càng đi sâu hơn, thì bạn càng thấy chỉ một
phẩm chất, đó là phẩm chất của gương. Bạn phản xạ mọi
thứ, mà không cái gì phản xạ bạn.
Chỉ tại điểm này một người như Mã Tổ mới có thể
tới sống trong bãi chợ được, bởi vì ông ấy biết rằng
gương của mình không phải là bất kì việc quan niệm hoá
nào, nó bây giờ là kinh nghiệm của ông ấy. Ông ấy biết
rằng mọi thứ được phản xạ. Mọi người tới rồi đi, giầu tới
rồi đi, nghèo trở nên giầu, giầu trở thành nghèo; mọi sự
cứ xảy ra, nhưng gương của bạn đơn giản soi gương.
Mã Tổ đã đi tới chính gốc rễ của vấn đề. Nếu bạn có
thể hiểu ông ấy, thế thì, trong một khoảnh khắc, ngay lập
tức, việc thức tỉnh có thể xảy ra cho bạn nữa.

Một lần khác, Mã Tổ nói, "Mọi pháp đều là


pháp của tâm, và mọi tên đều là tên của tâm.
Mọi sinh linh đều được sinh ra từ tâm, và do
vậy tâm là nền tảng của mọi sinh linh.

205
"Lấy ví dụ: bóng của trăng phản xạ trên nước
có nhiều hình dạng, nhưng trăng thực không
giống cái đó. Giống vậy có nhiều dòng sông,
nhưng bản tính của nước là một. Mặc dầu có
vô số hoạt động, không có sự phân biệt trong
cái trống rỗng.

Mã Tổ dùng từ 'tâm', nhưng bạn phải hiểu 'tâm' của


ông ấy là 'tâm trí trống rỗng', tâm trí mang tính trống
rỗng. Nếu gương đầy những phản xạ, thì nó không thể
phản xạ được bạn. Gương không còn là gương nữa, nó đã
trở thành cuốn phim hay máy ảnh. Bạn có thể chụp một
ảnh lên phim, và phim kết thúc, bởi vì ảnh đó còn lại trên
phim. Phim bị đồng nhất rất nhiều với ảnh; phim không
vận hành như gương.
Tâm trí trống rỗng là nguồn gốc của tất cả - tất cả
mọi pháp, mọi tên, mọi người. Tâm trí trống rỗng là nền
tảng của mọi thứ. Hiểu ra rằng tâm trí trống rỗng là nền
tảng của mọi thứ; điều bạn cần làm là vứt đi mọi đồ đạc
bạn đã thu thập vào tâm trí mình. Nó tất cả đều là đồ đồng
nát. Nó đang phá huỷ tính không gian quí báu của bạn.
Bạn đã bao giờ nghĩ về từ 'room' (chỗ) không? Bạn
có biết rằng từ 'room' nghĩa là tính không gian, chỗ để
không? Khi căn phòng đầy đồ đạc và đủ mọi loại các thứ,
ảnh chụp, và hoa, thì tính chất chỗ của nó bị che phủ. Nó
kém đi tính chất chỗ để, kém đi tính không gian so với
thực tại của nó. Nếu bạn bỏ mọi thứ ra khỏi phòng, nó có
thể được mô tả như căn phòng trống; nhưng điều đó mới
thực sự lặp lại từ này. 'Room' đơn giản nghĩa là cái trống

206
rỗng, tính không gian. Đó là lí do tại sao Mã Tổ không
dùng hai từ cùng nhau: 'trống rỗng' và 'tâm'.
Với ông ấy 'tâm' bản thân nó nghĩa là 'trống rỗng',
nó là cái tên khác cho 'trống rỗng'. Và từ cái trống rỗng
này mọi thứ nảy sinh.
Điều đó đã từng bị coi là ý tưởng rất bí ẩn, không
thể tin được, nhưng bây giờ khoa học phải nhân nhượng
là các triết gia và các nhà khoa học khách quan đã sai, còn
các nhà huyền môn đã đúng. Bây giờ họ có thể thấy... và
bạn có thể thấy điều đó trong cuộc sống hàng ngày. Bạn
đã bao giờ lấy một hạt mầm và chặt nó ra làm đôi không?
Bạn có tìm thấy hoa hồng nào trong nó không? Hay bạn
có tìm thấy loại tán lá nào trong nó không? Bạn đơn giản
không tìm thấy gì.
Nhưng cùng hạt mầm đó, được cho đúng cơ hội và
khí hậu, đúng đất và người làm vườn yêu mến, sẽ bắt đầu
nhú mầm khi mùa xuân tới. Những chiếc lá xanh tới lúc
ban đầu… bởi vì bạn quá quen thấy tất cả mọi điều này,
nên bạn không thấy cái bí ẩn của nó. Từ đâu mà hai lá này
tới? Bạn đã nhìn vào trong hạt mầm, không có lá trong
nó, không có hoa hồng trong nó. Và bây giờ có một tán lá
lớn với hàng nghìn lá và hàng trăm hoa. Từ đâu vậy? Từ
không đâu cả; từ cái trống rỗng của sự tồn tại chúng nảy
sinh ra.
Và thế rồi một ngày nào đó hoa biến mất, lá rụng đi,
cây biến mất. Đâu rồi? Tất cả những cái đó đã đi đâu rồi?
Lại nghỉ ngơi, vào trong cái trống rỗng.
Bây giờ khoa học đang đồng ý rằng ngay cả những
vì sao lớn... và cái lớn của chúng thực sự làm choáng
váng cho dù chỉ nghĩ tới. Chúng ta nghĩ về chúng như

207
những vì sao nhỏ, nhưng chúng không nhỏ đâu. Chúng ở
rất xa xăm, đó là lí do tại sao chúng trông nhỏ. Mặt trời
riêng của chúng ta là một ngôi sao. Nó lớn hơn trái đất
sáu trăm lần, và nó được xem là, trong vũ trụ các ngôi
sao, một ngôi sao loại xoàng, anh chàng làng nhàng - bởi
vì có những ngôi sao hàng nghìn lần lớn hơn thế này.
Và mọi ngày hàng trăm sao đang chết - nhưng chúng
biến mất vào đâu? Và hàng trăm sao được sinh ra, cho
nên cân bằng được gìn giữ. Từ đâu vậy?
Chỉ trong hai mươi năm vừa qua người ta đã tìm ra
những điều làm cho toàn thể khoa học thành bí ẩn thế.
Người ta đã tìm ra lỗ đen trước hết; họ đã tìm ra rằng có
những lỗ đen trong bầu trời, và chúng là gì thì đích xác
không ai biết. Nhưng nếu bất kì ngôi sao nào tới gần một
lỗ đen - lỗ đen có sức hấp dẫn gấp hàng nghìn lần trái đất
- thì ngôi sao đó đơn giản đi vào trong lỗ đen đó và biến
mất. Mới khoảnh khắc trước nó còn đó trong niềm vinh
quang mênh mông, và ngay khoảnh khắc sau không còn
gì ngoài bóng tối. Ngôi sao đã quay về nghỉ ngơi, vào cái
trống rống.
Sau lỗ đen, điều tự nhiên và không tránh khỏi là tìm
ra lỗ trắng - bởi vì nếu lỗ đen đưa các ngôi sao vào trống
rỗng, thì phải có lỗ trắng để từ đó những ngôi sao mới
được sinh ra. Và bây giờ họ đã đồng ý về sự kiện là có
những lỗ trắng, cứ ném ra những ngôi sao mới.
Cảm giác riêng của tôi là ở chỗ có lẽ nó là cùng một
lỗ - một phía đen, phía bên kia trắng. Cho nên bạn nhảy
qua cánh cửa; từ phía bên này bạn chết, từ phía bên kia
bạn bước ra mỉm cười. Đây là cảm giác riêng của tôi, tôi
không nói rằng điều đó là khoa học. Tôi không bận tâm

208
về khoa học hay bất kì cái gì, nhưng điều này dường như
là có nhiều khả năng hơn, hơn là lỗ đen ở chỗ này, và lỗ
trắng ở xa khỏi chúng... điều đó có vẻ không phải. Chúng
phải đủ gần nhau, để cho khi ngôi sao già trở thành trống
rỗng, từ cánh cửa trắng nó thu được hoá thân mới, và
quay lại lần nữa.
Nhưng khi có liên quan tới cái trống rỗng, thì không
cái gì đánh được dấu nào lên nó. Nó vẫn còn hoàn toàn
trống rỗng.

Mọi vật khác nhau trải qua những con đường


khác nhau, nhưng trí huệ giải thoát là một. Tất
cả đều dựa trên một tâm.
"Mọi pháp đều dựa trên pháp của Phật. Từng
pháp đều lập tức là pháp của nhận biết, và
pháp của nhận biết là hiện hữu, mọi vật đều
như chúng thực thế.

Để thấy mọi thứ như chúng thực sự hiện hữu, bạn


phải tuyệt đối trống rỗng - chỉ là gương. Gương của bạn
phải sạch sẽ, không bụi nào, không ý nghĩ nào, không
định kiến nào, không tôn giáo nào. Chỉ là gương phản xạ
thuần khiết, và bạn có thể thấy mọi vật như chúng đấy. Và
thấy mọi vật như chúng đấy, thì cuộc sống trở thành lễ
hội, buổi lễ, điệu vũ. Toàn thể sự tồn tại cũng nhảy múa,
hớn hở; đó là sự ngất ngây hoàn toàn với niềm phúc lạc,
ngoại trừ con người - người đang giữ một cách không cần
thiết trong bản thân mình đầy những đồ đồng nát trong
tâm trí, và ngăn cản gương của mình không cho phản xạ
thực tại của sự tồn tại.

209
"Mọi cái đến và đi và có nghỉ, hay ngồi và
nằm, đều là công trình bí ẩn, và chúng không
cần quá trình thời gian. Kinh sách cũng nói:
'Tất cả mọi nơi, lập tức có chư phật.'"

Tôi không bận tâm tới kinh sách, nhưng tôi có thể
thấy ở mọi nơi, khắp xung quanh, đều có chư phật. Đấy
không phải là việc trích dẫn từ kinh sách nào, tôi có thể
thấy điều đó bằng con mắt riêng của tôi. Bạn có thể không
nhận biết, điều đó không thành vấn đề. Con người của
sáng tỏ sẽ có khả năng thấy thực tại của bạn. Và chức
năng của thầy là chỉ đi chỉ lại tới thực tại của bạn. Đó là
một loại quấy rối liên tục đánh vào đầu bạn, cách cái đinh
được đóng vào tường, để cho cuối cùng bạn la lên, và bạn
nói, "Vâng, tôi là phật!"
Chừng nào bạn còn chưa la lên, và nói "Tôi là phật!"
thầy vẫn còn gõ búa đóng đinh vào đầu bạn. Nhưng phần
lớn mọi người, chỉ mới thấy búa, lập tức nhận ra, "Phỏng
có ích gì mà chịu khổ không cần thiết vậy? Sao không là
phật đi cho rồi?"
Đó là cách tôi đã trở thành phật. Thấy rằng những
anh chàng khác đang trở thành phật một cách tự phát, thì
sao tôi lại phải phí thời gian làm gì? Và cái ngày tôi nhận
ra rằng không cần nỗ lực nào cả, rằng tôi là phật từ khi
sinh ra - từ lúc đó, không một khoảnh khắc nào có hoài
nghi nảy sinh nữa. Tôi đã tự mình cố gắng hoài nghi sự
kiện này - "Nghĩ lại hai lần đi, mình có thể không phải là
phật" - nhưng tôi đã thất bại. Kinh nghiệm ngay lập tức
đó về phật tính đã đi sâu tới mức bây giờ không hoài nghi
nào nảy sinh. Ngược lại, mọi ngày tôi liên tục trở nên
vượt ra ngoài hoài nghi hơn, vượt ra ngoài mọi câu hỏi.

210
Và cũng khá lạ, từ ngày tôi trở nên nhận biết về phật tính
của tôi, mọi khổ đã biến mất, mọi đau khổ đã biến mất.
Tôi không có căng thẳng nào. Tôi không nghĩ tới ngày
mai.
Chỉ sau khi quấy rối bạn một chút, tôi sẽ đi ngủ,
thậm chí không nghĩ rằng sẽ có việc mặt trời lên nữa. Vào
buổi sáng, khi Nirvano đánh thức tôi, tôi nói, "Trời, lại
lần nữa à? Cả ngày... và đến tối lại việc quấy rối chư phật
đáng thương."
Một nỗ lực không cần thiết, nếu bạn hiểu; chỉ tự
mình nhận ra nó - đừng để tôi quấy rầy các bạn nữa!

Mã Tổ tiếp tục, "Tu tập không ích gì cho việc


đạt tới Đạo."

Gọi nó là Đạo, hay phật, hay pháp - nó đều như nhau


cả. Tu tập không ích gì... Đừng cố gắng tu tập, chỉ hiện
hữu! Ít nhất một ngày nào đó bạn thử điều đó, không tu
tập; chỉ trong hai mươi bốn giờ cho tôi một cơ hội! Là
phật dù bất kì điều gì xảy ra... Vợ bạn trốn đi, đừng lo
nghĩ! Phật không lo nghĩ. Nhiều nhất bạn có thể làm một
việc, việc đúng; đi tới bưu điện và báo rằng vợ bạn đã
trốn rồi. Đừng tới đồn cảnh sát, bởi vì đồn cảnh sát là nơi
nguy hiểm - họ có thể đem vợ bạn trở lại! Và người mà cô
ấy đi cùng lại là người bạn tốt nhất của bạn.
Chỉ thảnh thơi và tận hưởng điều đó, "Tôi biết ơn vũ
trụ làm sao. Điều đó xảy ra cho rất ít người, hiếm cá nhân
lắm!" Người vợ, và việc trốn thì sao? Phần lớn các bà vợ
đều níu bám chắc đến mức họ hút hết tinh tuý ra từ bạn.
Bạn chỉ đi mà không còn tinh tuý nào. Là phật là điều

211
hoàn toàn tốt, điều đó là tuyệt đối cần thiết, rằng ai đó nên
trốn đi cùng vợ bạn.
Một trong những người bạn của tôi, người tặng tôi
chiếc xe đầu tiên, đã hỏi tôi sau một năm, "Đôi khi ông có
bực tức không? Bởi vì tôi chưa bao giờ thấy người lái xe
nào mà lại không bực tức trên những con đường Ấn Độ."
Tôi nói, "Thì cứ để điều đó được biết công khai, bởi
vì chưa phật nào trước đây đã từng lái xe cả. Tôi đơn giản
thấy mọi sự như chúng đang đấy: đường xá cũ nát, và
ngày mai lại còn cũ nát hơn."
Trong bốn mươi năm độc lập nó cứ đi xuống và đi
xuống mãi. Mọi người dường như không quan tâm rằng
những con đường đó phải được sửa. Không ai tuân theo
luật giao thông vì đây là đất nước tự do mà! Bạn được
phúc lành nếu bạn về nhà vẫn còn sống. Bạn có thể đi vào
Pune mà xem giao thông ấy - đó là lí do tại sao tôi nằm
trong phòng thôi. Sao lại cứ nhận lấy rắc rối không cần
thiết làm gì?
Nhưng tôi bảo anh bạn tôi rằng tôi không bực -
phỏng có ích gì? Bực với đường sá sao? Tôi không bực
với giao thông kì lạ liên tục diễn ra xung quanh. Đó là đất
nước tự do, mọi người đều tự do theo ý tưởng riêng của
mình. Cho nên ai đó đi bên trái, ai đó đi bên phải, và có
những người đi ở giữa.
Nhưng điều đó không mấy là vấn đề. Ở các nước mà
luật giao thông rất nghiêm, tỉ lệ tai nạn vẫn còn cao hơn ở
Ấn Độ - đó mới là phép màu. Người ta đã thấy rằng ở Mĩ,
nơi luật giao thông là rất nghiêm và bạn không thể lái xe
hơn năm mươi nhăm dặm một giờ, nhiều người chết trong
tai nạn hơn là ở Ấn Độ, nơi bạn có thể lái xe đi bất kì đâu

212
bạn muốn, và nơi trên đường không chỉ có thế kỉ hai
mươi, mà đủ mọi thế kỉ cùng nhau đi: xe bò kéo đang đi,
ai đó điều khiển xe lừa, và voi đang đi; và chó cũng có tự
do ở Ấn Độ khi chúng không có tự do ở mọi nơi khác trên
thế giới, và trẻ con chơi bóng ngoài đường.
Vậy mà người ta vẫn tới văn phòng, người ta vẫn trở
về nhà còn sống. Tôi không đi đâu cả, nhưng mọi sáng tôi
lại ngạc nhiên, "Lạy trời, lại ngày nữa!"
Nhưng không có bực tức, không có phàn nàn, không
có ác cảm. Tôi sẽ tận hưởng một ngày nữa. Sẽ phải có
một buổi sáng tôi sẽ không dậy; tôi sẽ tận hưởng điều đó
nữa. Tôi đơn giản tận hưởng ý tưởng rằng tất cả các bạn
đang cố gắng đánh thức tôi, còn tôi đơn giản không dậy!
Cùng trò chơi mà tôi đã từng cố gắng lâu thế: cố gắng
đánh thức bạn dậy, và không ai thức dậy cả. Một hôm,
bạn sẽ ở trong cùng vị trí.

Mã Tổ nói, "Điều duy nhất mà người ta có thể


làm là thoát khỏi ô uế. Khi tâm người ta bị vấy
bẩn bởi ý nghĩ về sống và chết, hay hành động
có tính toán, đó là ô uế."

Bạn có thể thấy, cách dùng 'tâm' của ông ấy là tương


đương với 'vô trí'. Khi tâm trí trở thành ô uế bởi ý nghĩ về
sống và chết, hay hành động có tính toán, đó là ô uế. Thế
thì tâm trí đầy những tưởng tượng, những ý nghĩ, những
xúc động, những tình cảm, của kí ức quá khứ, của điều
không tưởng tương lai. Và gương hoàn toàn bị mất hút
trong các tầng bụi bặm. Bạn không phải tu tập cái gì cả,
bạn chỉ phải vứt bỏ mọi bụi bặm này đã đọng lên gương
của bạn.

213
Việc hiểu thấu chân lí không phải là cái gì đó
đặc biệt, nó là chức năng của sự chú tâm hàng
ngày.

Chỉ giữ cho tâm trí bạn không bị ô uế, và toàn thể
thế giới trông sạch sẽ thế, thuần khiết thế, đẹp mênh mông
đến mức bạn không thể làm gì ngoài việc biết ơn.

"Việc chú tâm hàng ngày là thoát khỏi hành


động có chủ tâm, thoát khỏi quan niệm về đúng
và sai, lấy và cho, hữu hạn hay vô vạn.... Mọi
hoạt động hàng ngày của chúng ta - bước,
đứng, ngồi, nằm - tất cả đều đáp ứng cho tình
huống, cách chúng ta giải quyết theo hoàn
cảnh khi chúng phát sinh: tất cả những cái này
là Đạo."

Mã Tổ đang chống lại, cũng như tôi đang chống lại


những người trốn khỏi thế giới này, từ bỏ thế giới này.
Những người đó không phải là thánh nhân, họ đơn giản
bỏ trốn! Họ không thể đương đầu được với sự tồn tại bằng
gương đúng, sạch. Họ trốn đi, sợ rằng họ sẽ bị người khác
làm ô uế. Không ai có thể làm ô uế bạn được. Điều đó là
tuỳ bạn; nếu bạn cho phép bụi đọng lại trên gương của
mình, sẽ có ô uế. Nếu bạn không cho phép bụi...
Có một câu chuyện Thiền:
Một thiền sư phái đại đệ tử của mình tới nhà trọ để
xem xét lần cuối. Đệ tử này nói, "Cái loại xem xét gì thế
này? Tôi phải làm gì trong nhà trọ đó?"

214
Thầy nói, "Ông chỉ tới và quan sát bất kì điều gì
đang xảy ra ở đó, và đem tin tức về cho ta. Điều đó sẽ
quyết định liệu ông có là người kế tục của ta hay không."
Anh ta đi tới nhà trọ, anh ta quan sát mọi thứ. Đó là
vấn đề vô cùng quan trọng, và điều anh ta đem về sẽ làm
cho anh ta thành người kế tục.
Anh ta mang về điều này: "Tôi đã thấy rằng người
chủ của quán trọ lau gương vào buổi tối - mỗi tối - và đến
sáng người đó lại lau gương. Thế là tôi hỏi người đó, 'Bác
vừa mới lau nó vài giờ trước đây, sao bác lại lau nó nữa
thế?' Người chủ nói, 'Bụi liên tục đọng lên vào mọi lúc,
cho nên phải lau gương bất kì khi nào người ta có thời
gian. Ông bao giờ cũng tìm ra bụi nào đó đã đọng lên.'
"Và tôi đã đi tới kết luận rằng thầy là phải khi phái
tôi tới nhà trọ đó. Điều này thực tế là trường hợp với tâm
trí - phải lau nó mọi khoảnh khắc, bởi vì mọi khoảnh
khắc, chỉ bởi bản tính của nó, bụi liên tục đọng lại."

Nếu bạn có thể tránh ô uế, không cần tu tập nào cả;
bạn sẽ nhận ra chân lí tối thượng, Đạo.
Một bài kệ thiền:

Vào rừng,
nó không lay động cỏ.
Vào nước,
nó không làm gợn sóng.

Ông ấy đang nói về trăng tròn. Trăng tròn đi vào


rừng không lay động ngay cả cỏ. Im lặng thế... chuyển

215
động của nó duyên dáng tới mức ngay cả cỏ cũng không
bị khuấy động. Đi vào nước như sự phản xạ, nó không tạo
ra gợn sóng nào.
Và đó là trạng thái của người thức tỉnh, phật. Ngay
cả việc đi vào trong bãi chợ người đó cũng không tạo ra
gợn sóng nào. Dù người đó ở bất kì đâu, người đó chỉ là
gương không tì vết. Không có gì quấy rối nó, không cái gì
trở nên bị gắn bó vào nó - như đám mây vậy. Mọi thứ tới
rồi đi, và gương vẫn còn trống rỗng mọi lúc. Nếu bạn có
thể trống rỗng, bạn chứng ngộ. Một hiện tượng đơn giản
và hiển nhiên thế, nó không cần việc tu tập nào.
Bây giờ, câu hỏi này đã tạo ra trong Maneesha
chứng đau nửa đầu, cho nên Anando phải đại diện cho cô
ấy. Cô ấy đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một tình huống đã xuất hiện đêm qua là minh
hoạ sống động cho tôi về cách thầy hiện hữu -
như chúng tôi đã nghe nói về Mã Tổ - một thầy
sống đang dạy về thiền, con người của Đạo.
Khi ngựa phi vào phòng, bất kì ai ở vị trí thầy,
những người còn là cái gì đó kém hơn người
chứng ngộ đều sẽ bị xáo trộn khi thấy rằng sự
chú ý đã chuyển khỏi họ. Họ có thể đã cảm
thấy bị phân tán, bị ném ra khỏi trung tâm; sợ
bị coi là ngốc bởi vì họ không thể thấy được
nguyên nhân của tiếng cười là gì.
Thầy đơn giản dừng nói và cho phép các biến
cố đi theo một quá trình mới. Thầy trông mong
manh thế, hồn nhiên thế và không biết thế,
trong những khoảnh khắc đó. Quyền năng

216
mênh mông của thầy và sự mỏng mảnh phi
thường, sự hiện diện tuyệt đối của thầy và việc
vắng mặt hoàn toàn của thầy rõ ràng thế. Điều
này không thực sự là câu hỏi; tôi chỉ muốn có
cớ để chắc sự vụ này không xảy ra mà không
được ghi lại.

Câu hỏi này - mà không phải là câu hỏi - đã tạo ra


trong Maneesha đáng thương chứng đau nửa đầu. Cô ấy
phải đã cảm thấy, làm sao cô ấy sẽ đọc nó cho tôi được?
Nhưng cô ấy hoàn toàn phải, và cô ấy không cần lo nghĩ
rằng chỉ để ghi lại cô ấy đã hỏi một câu hỏi mà không
phải là câu hỏi.
Trong Maneesha tôi đã tìm thấy một người ghi tốt
hơn Ramakrishna đã có trong Vivekananda, hay thậm chí
Socrates đã có trong Plato. Cô ấy ghi lại mọi thứ hoàn
toàn tốt, đó là lí do tại sao cô ấy đã trở nên xấu hổ - đó
không phải là chứng đau nửa đầu. Ngày mai cô ấy sẽ lại ở
đây.
Không cần phải sợ, bạn có thể hỏi tôi bất kì điều gì.
Bạn có thể đưa tôi bất kì bản ghi nào về các biến cố. Tôi
đã tận hưởng tình tiết của đêm qua. Không phải là tôi khó
chịu, tôi đã tận hưởng nó nhiều lắm bởi vì nó là hiện
tượng bất ngờ thế. Tôi nghĩ có lẽ Kalki, thần ngựa trắng,
đã tới; bởi vì thời của ngài sắp hết rồi - chỉ mười hai năm
nữa. Đến cuối thế kỉ này Kalki sẽ tới. Cho nên tôi nghĩ
nếu ngài đã tới đây thì đó thực sự là khoảnh khắc lớn, và
ở đây sẽ không cần đưa ra bất kì phán xét nào cho ngài
bởi vì tất cả đều là tội nhân!

217
Và ngài tới có hơi sớm, bởi vì bên trong ngài là
Avirbhava vĩ đại, và người cộng tác của Avirbhava,
Anando, và một cách tự nhiên bên trong con ngựa đó bạn
không thể ở lâu được. Người ta phải cảm thấy ngạt thở.
Cho nên họ tới có sớm hơn một chút. Chính Anando đang
kéo Avirbhava lại, "Bây giờ không phải lúc!" - nhưng
Avirbhava đã nhảy vào.
Đáng ra sẽ là một tai nạn lớn nếu như con ngựa bị
vỡ thành hai. Điều đó sẽ tuyệt đối đi ngược lại truyền
thống, và ai đó sẽ kiện tôi ra toà, rằng tình cảm tôn giáo
của họ bị tổn thương - Kalki bị vỡ ra ở giữa. Nhưng họ cả
hai người đã xoay xở rất tốt.
Bây giờ, tôi sắp phái Avirbhava đi tìm... Có các bộ
quần áo sẵn có cho sư tử, cho hổ, cho voi. Bạn chỉ phải
kiên nhẫn chút ít, và đừng chạy ra ngoài đường, đừng đi
vào đám đông. Trong hầu hết các rạp xiếc nơi các bạn
thấy sư tử gầm, các bạn quan sát kĩ thêm một chút; biết
bao nhiêu sư tử không sẵn có đấy...
Tôi đã nghe nói về một trường hợp:
Một người đến xin việc ở rạp xiếc. Người quản lí
nói, "Đó là việc rất nguy hiểm đấy. Một sư tử đã chết, cho
nên anh phải chui vào bộ da nó và hành xử như sư tử; và
anh sẽ bị bao quanh bởi những con sư tử thật. Đó là việc
nguy hiểm, tôi phải làm cho anh nhận biết ngay từ đầu."
Anh ta đã thất vọng tới mức anh ta đã chấp nhận
công việc này; lương thì cao. Nhưng khi anh ta chui vào
trong bộ da sư tử, anh ta được dẫn tới cái chuồng, anh ta
đê mê đi. Có con sư tử khác đang gầm gừ, thế là anh ta
bắt đầu kêu lên, "Cứu tôi với!"

218
Cả đám đông đang tụ tập để xem chưa bao giờ thấy
cảnh đó, rằng con sư tử lại xin cứu giúp, nói tiếng Anh
tuyệt hảo! Và con sư tử kia nói với anh ta, "Anh ngốc
lắm! Đừng có đê mê đi, bằng không cả hai chúng ta sẽ
mất việc đấy."
Anh này trước đây là hiệu trưởng, còn anh chàng kia
là thầy giáo trong trường; và họ cả hai đã mất việc.

Bạn có thể tìm thấy, Avirbhava này, sư tử đúng, hổ,


voi, cá sấu, và đủ mọi loại người lập dị. Bảo tàng các
Thần của bạn phải trở thành một trong những viện bảo
tàng phong phú nhất trên thế giới. Trong thực tế không có
so sánh ở bất kì đâu; không ai đã bận tâm thu thập thông
tin về các thần cổ, các thần hiện đại.
Hôm nay các bạn nghe tiếng ồn trên phố - đó là dành
cho thần voi. Điều đó là sự sỉ nhục con người, rằng con
người đã bị buộc phải tôn thờ đủ mọi loại con vật. Thay vì
giúp cho con người trở thành phật, họ đã buộc con người
trở thành thấp hơn con vật. Nỗ lực của chúng ta là phơi
bầy ra tất cả những tôn giáo đó, người đã khai thác con
người, đã sỉ nhục con người, làm mất mặt nhân loại.
Maneesha này, việc ghi chép của bạn là hoàn toàn
tốt. Lần sau khi bạn cảm thấy đau nửa đầu, cứ tới nhé.
Khi mọi người làm hai phút nói lắp bắp, tống đi chứng
đau nửa đầu của bạn - ai đó sẽ bắt lấy nó! Ném nó ra xa
vào. Mọi người đều đang cố gắng điều đó theo cách hoài
nghi: người đó ném mọi thứ của mình ra, và đưa tay ra
bảo vệ mình, bởi vì người khác cũng đang ném ra đủ mọi
loại chuyện phiếm. Người ta phải tự bảo vệ mình - chỉ

219
trao đổi những chuyện nhảm nhí của mình sẽ không có
tác dụng.
Đến lúc cho Sardar Gurudayal Singh rồi.

"Ồ, đó là câu chuyện buồn thảm thế," Jablonski nức


nở trước cốc bia của mình tại quán rượu Fried Fisherman.
"Có chuyện gì vậy?" bạn thân của anh ta, Klopski
hỏi.
"Đấy là chuyện đứa con tớ, Albert," Jablonski nói.
"Trong nhiều năm, ngày nọ tiếp ngày kia, bé Albert và
con chó của nó vẫn đi tới trường cùng nhau, mãi cho tới
ngày chúng phải chia tay."
"Có chuyện gì vậy?" Klopski than.
"Thế này," Jablonski nói, "con chó tốt nghiệp mất
rồi!"

Đó là đêm định mệnh, khi Jesus đã bị đóng đinh lên


cây thánh giá. Ông ấy đã bị treo ở đó năm giờ, thế rồi ông
ấy nhìn xuống ngạc nhiên. "Đừng! Đừng !" ông ấy kêu
lên. "Cút đi, cút đi!" Nhưng không tác dụng. Thế rồi ông
ấy thực sư đê mê. Ông ấy lại la lên, "CÚT ĐI!" Nhưng
vẫn không tác dụng.
Cây thánh giá bắt đầu rung chuyển và nghiêng đi, và
nó đổ xuống, Jesus kêu, "Đéo đứa râu xồm!"

220
Bệnh nhân của bác sĩ Skinbag liên tục gọi điện cho
ông ta cả đêm. Thế là vào ngày cuối tuần, ông ấy có cuộc
nói chuyện với vợ mình, Sally.
"Nghe đây," Skinbag nói, "Tôi đã hoàn toàn mòn
mỏi rồi. Tôi cần an bình và im lặng. Nếu bệnh nhân nào
của tôi mà gọi điện, bảo với họ rằng tôi ra ngoài thành
phố đi dự cuộc họp y tế nhé."
Đêm đó, điện thoại reo vào hai giờ sáng. Sally
Skinbag trả lời, và bảo người gọi rằng bác sĩ Skinbag ở
ngoài thành phố.
"Nhưng thưa bà Skinbag, ông tôi bị ho và líu lưỡi,
mà tôi không biết phải làm gì!" bà Klutz, người gọi nói.
"Đợt một phút nhé," Sally nói, lấy tay che điện
thoại, và hỏi bác sĩ Skinbag phải nói gì với bà Klutz. "bảo
bà ấy đưa ông già dùng phổi nhân tạo đi," Skinbag nói.
"Bà Klutz," Sally nói vào điện thoại, "đưa ông nhà
bà vào dùng phổi nhân tạo đi."
"Ô, cám ơn bà, bà Skinbag," bà Klutz đáp, "nhưng
trong bao lâu?"
"Đợi một phút nhé," Sally nói, và cô ta lại quay sang
hỏi Skinbag. "Bảo bà ấy nửa giờ," Skinbag nói. "Cho ông
ấy vào nửa giờ," Sally lặp lại trong điện thoại.
"Ô, xin cám ơn," bà Klutz đáp. "Nhưng tôi có thêm
một câu hỏi nữa về bà. Có phải cái ông đang trong giường
với bà cũng là bác sĩ không?"

Vật sở hữu đáng tự hào nhất của bà già Muffet là


con mèo trắng đẹp vùng Péc xích có tên Conrad. Nhưng

221
bà già Muffet lại để ý rằng nó đã bị mất hai ngày rồi. Khi
bà ấy tới mở tủ lạnh đêm đó để làm bữa tối, bà ấy gần
chết ngất vì sốc. Con Conrad ở đó, ngồi trong đĩa thức ăn,
đông cứng.
Bà gọi ngay bác sĩ thú y, bác sĩ Ratso, và hỏi mình
phải làm gì.
"Vẫn còn có cơ cứu được con vật đáng thương này,"
bác sĩ Ratso nói. "cho nó hai thìa dầu lửa."
Với bàn tay run rảy, bà Muffet cậy đôi môi đã đông
cứng của con Conrad ra, và cẩn thận đổ hai thìa dầu lửa
theo đơn thuốc kì lạ của bác sĩ. Nhiều giây trôi qua, mà
không có gì xảy ra cả.
Bà già vừa định từ bỏ hi vọng, thì bỗng nhiên mắt
con mèo mở ra, nó buông ra một tiếng kêu chói tai, và bay
qua căn phòng với tốc độ ba trăm dặm một giờ.
Nó bay qua khắp mọi đồ đạc, cào xước tường, và va
mạnh vào trần. Con mèo phóng nhanh qua căn hộ như
cơn cuồng phong dữ tợn, rồi bỗng nhiên dừng chết trên
đường chạy - không còn chuyển động cơ nào. Nhanh
chóng bà già lại điện thoại cho bác sĩ Ratso. "Ông cho
rằng điều gì đã xảy ra?" bà ấy kêu lên.
"Đơn giản," Ratso đáp. "Nó chạy hết ga rồi!"

Nivedano...
(tiếng trống)

(nói lắp bắp)

222
Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn bị


đông cứng. Nhìn vào bên trong với sự khẩn thiết, dường
như đây là khoảnh khắc của sống và chết.
Không có sự khẩn thiết toàn bộ, bạn không thể đạt
tới trung tâm bên trong nhất của bản thể mình. Nhớ lấy,
có thể không có thời gian khác đâu; đây có thể là khoảnh
khắc cuối cùng. Đi ngày một sâu hơn, không sợ hãi gì, đi
vào trung tâm như như mũi tên. Nó là cội nguồn cuộc
sống riêng của bạn, và nó cũng là cội nguồn cuộc sống
của toàn thể vũ trụ. Đây là nhà tối thượng - phật, gương
rỗng của Mã Tổ. Chỉ là nhân chứng, gương sạch phản xạ
mọi thứ mà không đánh giá gì. Để làm cho điều đó rõ
ràng hơn,

Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và thấy rằng thân thể bạn không phải là


bạn, tâm trí bạn không phải là bạn, bạn chỉ là nhân chứng.
Nhân chứng này tôi đã gọi là gương. Đây là cái vĩnh hằng
của bạn, đây là bản chất phật tính tối thượng của bạn. Một
khi bạn đã nếm trải nó, một khi bạn đã bước trên con
đường tới mạch sống, bạn sẽ không bao giờ như cũ nữa.

223
Chung cuộc bạn phải thức tỉnh như phật hoàn hảo.
Với con mắt của phật, toàn thể sự tồn tại trở thành chứng
ngộ. Mầu xanh của cây cối trở nên xanh hơn, hương thơm
của hoa hồng lấy sắc thái mới, trăng tròn trong đêm phản
xạ trong gương của bạn không tạo ra gợn sóng nào. Toàn
thể cuộc sống trở thành buổi liên hoan, buổi lễ, niềm vui
sướng.
Tối nay và sự im lặng này làm cho nó thành một
kinh nghiệm đẹp. Tất cả các bạn đều được tan biến trong
một tâm thức đại dương; việc phân tách bị quên đi, cái
một được nhớ lấy. Mang cực lạc này, ngất ngây này, hai
mươi bốn giờ cả ngày. Ngoại trừ điều này không có tôn
giáo nào khác.
Nivedano...
(tiếng trống)

Bây giờ quay lại, nhưng quay lại như phật, không
ngần ngại gì, im lặng và an bình, với sự duyên dáng và cái
đẹp của phật. Chỉ hồi tưởng lại kinh nghiệm này.
Bạn phải sống nó từ khoảnh khắc này sang khoảnh
khắc khác, cả ngày lẫn đêm, dù nói hay im lặng, làm việc
hay nghỉ ngơi; nhưng phật vẫn còn là dòng chảy thường
xuyên trong bạn. Thế thì bạn không cần đạo đức nào, bạn
không cần tôn giáo nào, bạn không cần cái gì cả.
Bạn đã có được chính chiếc chìa khoá - chiếc chìa
khoá chủ - mở những cánh cổng của tất cả mọi bí ẩn của
sự tồn tại.

224
Được chứ, Maneesha, chăm nom Anando nhé?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

225
9. Ngó trăng

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Mã Tổ một hôm dạy cho một sư. Ông ấy vẽ một
vòng tròn trên đất và nói, "Nếu ông bước vào
nó, ta sẽ đánh ông; nếu ông không bước vào
nó, ta cũng sẽ đánh ông!"
Sư vừa bước vào nó, và Mã Tổ đánh ông ấy.
Sư nói, "Thầy không thể đánh tôi được!"
Mã Tổ đi ra chống vào chiếc gậy.
Một lần khác, Ho Pang nói với Mã Tổ, "Nước
không xương, nhưng dễ dàng đỡ thuyền nghìn
tấn; việc này là thế nào?"
Mã Tổ nói, "Không có nước ở đây, và không có
thuyền - ta lấy gì mà giải thích?"
Một hôm, Đặng Ẩn Phong15 đang đẩy xe, còn
Mã Tổ ngồi duỗi chân ngay giữa lối đi. Đặng
Ẩn Phong nói, "Xin thầy rút chân lại!"
"Đã duỗi ra," Mã Tổ nói, "thì không rút lại!"
"Đã tiến thì không lùi!" Đặng Ẩn Phong nói và
cứ đẩy chiếc xe đi.
15
Impo: Đặng Ẩn Phong

226
Chân Mã Tổ bị cán qua và bị thâm tím. Khi họ
quay lại, Mã Tổ vào phòng, và nói, vừa giơ cái
rìu lên, "Lại đây, sư nào vừa làm đau chân ta!"
Đặng Ẩn Phong bước ra đứng trước Mã Tổ và
chìa cổ chịu đánh.
Mã Tổ cất rìu đi.
Mã Tổ chưa bao giờ bỏ lỡ bất kì cơ hội nào để
tạo ra vấn đề, thường theo cách khó hiểu. Ngay
cả trong những ngày ốm yếu cuối cùng của
mình ông ấy đã làm việc đáp ứng nổi tiếng cho
người hỏi về sức khoẻ ông ấy. Ông ấy nói,
"Mặt trời ngó chư phật, mặt trăng ngó chư
phật."
Một hôm, Mã Tổ trèo lên núi Thạch Môn 16,
ngọn núi gần chùa của ông ấy ở Giang Tây.
Trong rừng ông ấy đi kinh hành, hay hành
thiền, một lúc. Rồi, thấy một chỗ bằng phẳng ở
thung lũng phía dưới, Mã Tổ nói với đệ tử đi
cùng mình, "Tháng sau, thân xác ta phải trả về
đất này ở đây." Nói xong, ông ấy quay về chùa.
Vào ngày thứ tư tháng sau, sau khi tắm, ông ấy
im lặng ngồi kiết già và tịch.
Mã Tổ đã sống ở ở Giang Tây trong năm mươi
năm và chết ở độ tuổi tám mươi.

Maneesha, tôi đã yêu cầu bạn vứt chứng đau nửa


đầu đi, và bạn đã làm điều đó. Nhưng bạn đã làm điều đó
quá gần bên cạnh, nén lên Anando đáng thương. Cô ấy là
móc nối duy nhất của tôi với thế giới. Cô ấy là phương
tiện thông tin của tôi, vô tuyến truyền hình của tôi, radio
16
Sekimon- núi Thạch Môn

227
của tôi, báo của tôi. Tôi không đọc cái gì cả, tôi không
nghe cái gì cả, tôi không thấy cái gì cả trên ti vi. Và bởi vì
tôi đã nói về trái tim trống rỗng, nên việc ném đi của bạn
là hoàn toàn tốt - nhưng nó lại tới chỗ sai, rơi vào Anando
đáng thương. Nó phải tới đầu cô ấy, nhưng nó lại đã tới
tận tim cô ấy.
Trái tim trống rỗng của cô ấy đã nhận được chứng
đau nửa đầu của bạn. Bây giờ, không có cái ốm yếu như
thế trên toàn thế giới, và bác sĩ Indivar sẽ khó khăn nhiều
lắm đề kéo chứng đau nửa đầu ra khỏi trái tim. Có gương
trong trái tim trống rỗng là hoàn toàn tốt, nhưng có chứng
đau nửa đầu thì không được. Không có thuốc nào cho nó
cả; bác sĩ Indivar sẽ phải phát minh ra cái gì đó - và tôi
cần cô ấy quay lại rất cấp bách, bởi vì mọi sáng, mọi tối
cô ấy là tiếp xúc duy nhất của tôi với thế giới.
Cho nên khi có liên quan tới Anando, đó là ưu tiên
của Indivar. Và chỉ bởi vì cô ấy đã nhận chứng đau nửa
đầu bằng trái tim cởi mở, nên cô ấy đã thu được đức hạnh
lớn. Loạt bài nói tiếp bắt đầu vào ngày mai sẽ được
chuyên dành cho cô ấy. Cô ấy đã làm hoàn toàn tốt khi
giữ trái tim cởi mở, ngay cả khi bạn ném chứng đau nửa
đầu của bạn đi. Phần lớn mọi người sẽ đóng cửa sổ và cửa
ra vào của mình lại trong những tình huống như vậy.
Nhưng cô ấy là một đại đệ tử, và cô ấy hiểu một cách
thông minh việc có trái tim cởi mở nghĩa là gì, sống trong
bất an ninh nghĩa là gì, sống mà không có an toàn nào
nghĩa là gì, vô gia cư nghĩa là gì.
Nhưng Anando này - bạn phải nghe tôi từ chỗ bạn -
nhớ lấy, không phật nào nói, "để trái tim bạn mở khi ai đó
đang ném ra chứng đau nửa đầu." Bạn đã làm một phép
màu. Có một hệ thống tự động - nếu ai đó đang ném bụi

228
vào bạn, mắt bạn sẽ tự động nhắm lại mà không phải nỗ
lực gì, về phần chúng. Và nếu ai đó đang ném chứng đau
nửa đầu, một cách tự nhiên trái tim sẽ đóng lại. Nó sẽ
không nhận chứng đó. Nhưng bạn lại dám giữ cho trái tim
mình để mở. Bạn đã biểu lộ lòng dũng cảm lớn. Tôi có
thể dựa vào bạn được, rằng bất kì điều gì xảy ra thì bạn sẽ
vẫn giữ trái tim mình mở. Điều đó có thể đau đớn, điều đó
có thể tạo ra lo âu, nhưng điều đó mới chỉ là phần bắt đầu.
Phật Gautam tương truyền đã nói, "Cái gì cay đắng
lúc ban đầu sẽ dịu ngọt lúc cuối, và cái gì dịu ngọt lúc ban
đầu sẽ cay đắng vào lúc cuối." Đó là một phát biểu mênh
mông về tất cả những người là người đang trên đường.

Câu chuyện của Maneesha đã đem tới:

Mã Tổ một hôm dạy cho một sư. Ông ấy vẽ một


vòng tròn trên đất và nói, "Nếu ông bước vào
nó, ta sẽ đánh ông; nếu ông không bước vào
nó, ta cũng sẽ đánh ông!"

Đây là cái gì đó rất đặc biệt trong thiền. Theo những


cách khác nhau các thầy đã dùng phương cách đó. Nếu
bạn nói điều gì đó, tôi sẽ đánh bạn; nếu bạn không nói
điều gì, tôi cũng đánh bạn. Trong mọi trường hợp bạn đều
sẽ nhận được cú đánh. Cùng điều đó là tình huống ở đây.

Mã Tổ nói, "Nếu ông bước vào nó, ta sẽ đánh


ông; nếu ông không bước vào nó, ta cũng sẽ
đánh ông!"

229
Sư mới bước vào nó, và Mã Tổ đánh ông ấy.
Giai thoại kì lạ này có ích gì?
Sư nói, "Thầy không thể đánh tôi được!"
Mã Tổ đi ra chống vào chiếc gậy, thận chí
không thèm trả lời đệ tử này.

Theo bất kì phương cách tương tự nào, trong cả hai


trường hợp bạn đều nhận cú đánh. Điều đó đơn giản nghĩa
là cú đánh có dụng ý thức tỉnh bạn. Điều bạn làm không
liên quan - dù bạn có bước vào vòng tròn hay vẫn ở ngoài
nó, điều đó không thành vấn đề, tôi vẫn cứ đánh bạn!
Điều này đơn giản nghĩa là bất kì điều gì bạn làm cũng
không quan trọng; điều quan trọng là thức tỉnh của bạn.
Cú đánh là để đánh thức bạn dậy. Nếu đệ tử có thể hiểu
điều được hỏi, thì người đó sẽ chứng ngộ. Thầy đang yêu
cầu người đó được chứng ngộ, để cho người đó không cần
bị đánh.
Nhưng đệ tử này đã lỡ. Anh ta nói với thầy, "Thầy
không thể đánh tôi được!" Mã Tổ đi ra chống vào chiếc
gậy, bỏ lại học trò đằng sau mà thiền về điều vừa xảy ra.
Mã Tổ đã dùng đủ mọi loại phương cách một cách tự
phát, nhưng bao giờ cũng có bí mật ẩn kín. Trong những
sự vụ kì lạ nhất người đã thức tỉnh sẽ lập tức thấy ra bí
mật ẩn kín.

Một lần khác, Ho Pang nói với Mã Tổ, "Nước


không xương, nhưng dễ dàng đỡ thuyền nghìn
tấn; việc này là thế nào?"
Mã Tổ nói, "Không có nước ở đây, và không có
thuyền - ta lấy gì mà giải thích?"

230
Ông ấy đang nói, "Chớ có mang những câu hỏi triết
lí, trí tuệ tới ta. Ta ở đây chỉ để mang kinh nghiệm tồn tại
tới cho ông." Tôi nhớ tới một câu chuyện nhỏ.
Tại một toà án có hai người bạn, nổi tiếng trong cả
thành phố là những người bạn lớn, bao giờ cũng cùng
nhau, nhưng cuối cùng họ bị bắt vì đánh nhau và bị cảnh
sát đem ra toà. Và quan toà hỏi, "Vấn đề gì gây ra chuyện
đánh nhau vậy?" Họ cả hai nhìn nhau và nói, "Anh nói
điều đó đi." Người kia nói, "Xin mời anh nói điều đó."
Quan toà nói, "Bất kì ai nói cũng được nhưng cứ nói đi."
Họ nói, "Chúng tôi ngượng lắm. Chúng tôi sẵn sàng
nhận bất kì trừng phạt nào nếu ông cho phép chúng tôi
không nói ra điều đó."
Quan toà nói, "Điều này thực lạ. Tôi không thể trừng
phạt được các anh chừng nào tôi còn chưa biết về tội lỗi.
Lí do của việc các anh đánh nhau và gây ra lộn xộn trong
đám đông là gì?"
Cuối cùng họ phải nói ra điều đó. Một trong họ nói,
"Xin tha thứ cho chúng tôi. Điều đó rất triết lí, hão huyền,
trừu tượng. Chúng tôi đang ngồi trên bờ sông và người
bạn tôi bảo tôi rằng anh ấy vừa mới mua một con trâu.
"Tôi nói, 'Tôi không phản đối. Nhớ rằng tôi định
mua một trang trại lớn. Con trâu của anh đừng bao giờ
nên vào trang trại của tôi. Tôi là người rất nghiêm khắc.'
"Người kia nói, 'Trang trại của anh sao? Không ai có
thể ngăn cản con trâu của tôi được. Và tôi sẽ xem làm sao
anh có thể ngăn cản con trâu của tôi. Anh là bạn tôi, anh
nên đón chào trâu của tôi; ngược lại anh định ngăn cản
nó. Loại tình bạn gì thế này?'"

231
Tôi nói, 'Tình bạn không bước vào đó. Kinh doanh
là kinh doanh.'
"Người vừa mua trâu, anh ta nói, 'Được rồi, tôi sẽ
xem. Mua luôn cả trang trại đó.' Và tôi lấy ngón tay vẽ ra
một hình vuông trên cát rồi nói, 'Đây là trang trại của tôi.
Con trâu của anh ở đâu?'
"Người kia cũng dùng ngón tay vẽ vào cánh đồng
của tôi và nói, 'Đây là con trâu của tôi. Chúng ta xem anh
có thể làm được gì.' Đó là cách mọi sự bắt đầu."
Quan toà nói, "Nhưng trang trại đâu và trâu đâu?"
Họ nói, "Đó là vấn đề làm chúng tôi ngượng ngùng
khi nói cho ông; đó là điều rất triết lí. Không có gì có đó
cả - không trâu, không trang trại, chỉ có khoác lác. Nhưng
chúng tôi đã quên hoàn toàn rằng chúng tôi đã đánh nhau
về những thứ tưởng tượng."
Bạn có thể cười vào điều đó, nhưng bạn có cho
rằng...? Mọi người đã từng đánh nhau về sự tồn tại của
Thượng đế - điều đó có khác theo bất kì cách nào với con
trâu này không? Mọi người đã từng đánh nhau về việc có
bao nhiêu địa ngục. Người Hindus tin vào một địa ngục;
người Jainas tin vào ba địa ngục, bởi vì theo họ một địa
ngục là không công bằng cho mọi loại tội phạm. Ai đó
mới chỉ đánh cắp con gà, và ai đó đã giết người. Bạn
không thể cho cả hai người này vào cùng một địa ngục.
Điều đó sẽ không công bằng. Cho nên họ có ba địa ngục,
tuỳ theo tội của bạn.
Nhưng Phật Gautam có bẩy địa ngục. Ông ấy nói
rằng trong ba địa ngục bạn không thể phân loại được hết
mọi tội; ít nhất cần có bẩy địa ngục. Nhưng bạn sẽ ngạc
nhiên, một triết gia khác, đương đại với Mahavira và Phật

232
Gautam, Ajit Keshkambal, có tới bẩy mươi bẩy địa ngục.
Ông ấy nói, "Chừng nào bạn chưa có số địa ngục đó, thì
sẽ rất khó phân loại."
Bây giờ, không ai biết địa ngục này ở đâu... và họ cứ
tranh đấu ác liệt! Và trong hàng thế kỉ các triết gia của họ
đã từng đánh nhau, cố gắng giải thích lập trường của
mình. Chẳng hạn người Hindus đã giải thích rằng địa
ngục có một thôi, nhưng chúng ta có thể tạo ra sự phân
chia trong địa ngục này. Bạn có thể làm bao nhiêu phân
chia tuỳ ý trong một địa ngục, cần gì phải có tới bẩy mươi
bẩy địa ngục? làm ra bẩy mươi bẩy phân chia trong một
địa ngục. Nhưng bạn lại không nghĩ rằng những người
này đều là kẻ ngốc; đây là những triết gia vĩ đại. Nhưng
vấn đề của họ về Thượng đế... Không ai đã bao giờ gặp
Thượng đế cả, điều đó thuần tuý là một khái niệm.
Và có những tôn giáo không tin vào Thượng đế.
Jaina giáo không có Thượng đế, Phật giáo không có
Thượng đế, Đạo giáo không có Thượng đế. Thượng đế
không phải là hiện tượng bản chất cho bất kì tôn giáo nào
tồn tại. Và thế rồi có những mô tả khác biệt về Thượng
đế. Kinh Cựu Ước nói rằng Thượng đế là Thượng đế rất
cáu giận, rất ghen tị và rất đồng bóng - chớ có chọc giận
ông ấy. Và bản thân Thượng đế tương truyền đã nói trong
Cựu Ước, "Ta là Thượng đế rất ghen tị. Và nhớ điều đó,
ta là cha ngươi, không phải là cậu ngươi. Đừng trông đợi
điều gì tốt đẹp ở ta." Còn Jesus nói, "Thượng đế là yêu."
Người Hindus nói, "Thượng đế là công bằng thuần
khiết" - bởi vì yêu không thể công bằng được; nó có thể
yêu ai đó và tha thứ cho người đó, nó có thể không yêu ai
đó, hay thậm chí ghét ai đó và trừng phạt người đó một
cách không cần thiết về tội lỗi mà người đó còn chưa

233
phạm phải. Yêu là không đáng tin cậy. Thượng đế phải
công bằng, vị quan toà không có cái thích, cái không
thích.
Giai thoại này, khi Mã Tổ nói, "Không có nước ở
đây, và không có thuyền - ta lấy gì mà giải thích?" có đủ
mọi ngụ ý. Thế thì đừng bị dính líu vào những khái niệm
trừu tượng - những luận cứ đó và những thảo luận triết lí
vô tận đó, và không ai đã đi tới kết luận nào.
Thượng đế Ki tô giáo có một gia đình nhỏ: đứa con
duy nhất, Jesus Christ, và Thánh thần thiêng liêng - một
gia đình kì lạ không có phụ nữ trong đó, trừ phi Thánh
Thần thiêng liêng này có khả năng làm chức năng như
người phụ nữ nữa. Nhưng chắc chắn Thánh thần thiêng
liêng không phải là đàn bà bởi vì ông ấy chịu trách nhiệm
làm cho Mary đồng trinh mang thai sinh ra Jesus Christ.
Và mặt khác, người Ki tô giáo nói rằng Thánh thần thiêng
liêng và Thượng đế là một. Vậy sao phải tách biệt họ chỉ
với mục đích cứu cho Thượng đế khỏi bị đồi bại đi hãm
hiếp một cô gái còn trinh? Nếu họ là một, thế thì tại sao
không nói, "Thượng đế thụ thai Mary"; sao không làm
điều đó thẳng ra? Sao Thượng đế lại phải thông qua
Thánh thần thiêng liêng? Đôi khi tôi nghĩ Thánh thần
thiêng liêng phải là cái máy dục của Thượng đế. Cho nên
ông ấy là một người, vậy mà ông ấy vẫn còn ở ngoài và
Thánh thần thiêng liêng làm toàn bộ công việc.
Người Hindus nói rằng Thượng đế của họ có ba
khuôn mặt, ba đầu trên một thân thể. Bây giờ không ai đã
thấy... Có lẽ trong rạp xiếc bạn có thể thấy một đứa bé dặt
dẹo, một kẻ kì dị có ba đầu hay bốn tay. Nhưng sao
Thượng đế lại phải có ba đầu? Lí do mà các nhà thần học
Hindu nêu ra là ở chỗ ông ấy có thể thấy theo ba hướng.

234
Nếu con người có thể xoay xở được với một đầu... có lẽ
cổ của Thượng đế bị cố định, ông ấy không thể di chuyển
cổ theo cách này hay cách khác. Hiển nhiên ông ấy sẽ cần
ba đôi kính nữa. Và trọng lượng của ba đầu trên thân thể
để có vẻ đích xác như đầu của con người - nó sẽ quá
nhiều. Ông ấy sẽ không thể đứng dậy, và việc nằm nữa
cũng thành rất khó. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, làm sao ông
ấy xoay xở được ba cái đầu trên một cái gối? - trừ phi ba
cái đầu đó chỉ được gắn vào và bạn có thể tháo vít chúng
ra, và cất chúng đi vào ban đêm để đi ngủ.
Nhưng tôi không nghĩ rằng việc giải phẫu như vậy
đã phát triển thậm chí cho cả ngày nay. Và Thượng đế đã
có từ vĩnh hằng, và không kinh sách nào mô tả bất kì nhà
giải phẫu nào chăm nom tới đầu của Thượng đế. Ốc vít
phải đã gỉ sét ra. Và từ đâu mà ông ấy có thể kiếm được
tuốc nơ vít? Và bạn có thể chắc chắn rằng ba cái đầu có
thể không đồng ý về bất kì điểm nào, chúng tất cả sẽ có ý
kiến riêng của mình. Tôi cho rằng Thượng đế không thể
đi được một li bởi vì hai cái đầu kia sẽ không sẵn sàng.
Cho nên ông ấy sẽ vẫn còn bị cố định vào một tư thế.
Nhưng các ý tưởng kì lạ... Người Hindus cũng có ý
tưởng rằng Thượng đế có một nghìn tay. Bây giờ, ba đầu
và một nghìn tay, bạn có trẻ con không? Cho dù bạn quán
tưởng ra ông ấy, thì bạn sẽ trở nên sợ. Ông ấy sẽ trông
như con bạch tuộc, hay cái gì đó giống nó.
Phật giáo và Jaina giáo thấy khó quán tưởng được
Thượng đế, đã đơn giản đã vứt vỏ ý tưởng này; họ không
có Thượng đế nào và họ là tôn giáo hoàn toàn sống.
Mã Tổ đang nói rằng ông ấy không quan tâm tới bất
kì cái gì không tồn tại. Đó là đóng góp đặc biệt của Thiền

235
cho tâm thức con người. Đừng bận tâm về việc tưởng
tượng những điều triết lí khái niệm, gắn chặt mọi thứ vào
sự tồn tại.

Một hôm, Đặng Ẩn Phong đang đẩy xe, còn


Mã Tổ ngồi duỗi chân ngay giữa lối đi. Đặng
Ẩn Phong nói, "Xin thầy rút chân lại!"
"Đã duỗi ra," Mã Tổ nói, "thì không rút lại!"
"Đã tiến thì không lùi!" Đặng Ẩn Phong nói và
cứ đẩy chiếc xe đi.
Chân Mã Tổ bị cán qua và bị thâm tím. Khi họ
quay lại, Mã Tổ vào phòng, và nói, vừa giơ cái
rìu lên, "Lại đây, sư nào vừa làm đau chân ta!"
Đặng Ẩn Phong bước ra đứng trước Mã Tổ và
chìa cổ chịu đánh.
Mã Tổ cất rìu đi.

Đọc giai thoại như thế, người ta cảm thấy đó là một


tôn giáo rất lạ. Không phải vậy. Mọi thứ đang xảy ra
trong giai thoại này có cái gì đó bản chất, đến mức bạn có
thể trở nên nhận biết về nó.
Trước hết, Mã Tổ nói "Đã duỗi ra thì không rút lại!"
Người bố đang bảo đứa con mình, "Mọi điều là có
thể trên thế giới này" - ông ấy đang trích dẫn Alexander
Đại đế.
Đứa con nói, "Con không chấp nhận ý tưởng này, và
con sẽ chỉ cho bố tại sao." Nó đi vào trong buồng tắm và
mang ống thuốc đánh răng ra và nói, "Con sẽ bóp thuốc
đánh răng ra khỏi ống, và bố cho nó trở lại. Bố nói mọi

236
điều đều là có thể được. Điều này là không thể được. Con
đã thử rồi."
Mã Tổ đang nói, "Đã duỗi ra thì không rút lại!" Nói
cách khác, ông ấy đang nói rằng cái đã phô bày ra thì
không thể trở lại thành bí mật được nữa; cái đã đi vào
công khai thì không thể quay trở lại che giấu. Ông ấy đơn
giản nêu ra một vấn đề là có những tình huống mà bạn
không thể quay lại được.
Khi Henry Ford làm chiếc xe đầu tiên của mình, nó
không có bánh răng ngược. Nó không thể đi ngược được,
nó chỉ có thể tiến lên. Ông ấy đã không nghĩ về điều đó,
nhưng đó là một nhiệm vụ rất khó. Nếu bạn mới đi vài
mét khỏi ga ra, bây giờ bạn phải đi một vòng thành phố
để quay về ga ra của mình. Về sau ông ấy đã bổ sung
thêm việc đi lùi cho xe.
Một câu chuyện được kể lại là khi Henry Ford chết
đã có cuộc gặp gỡ lớn giữa ông ấy và Thượng đế. Thượng
đế nói, "Ông là nhà phát minh vĩ đại và là con người của
thông minh vĩ đại. Ông có chấp nhận sự tồn tại của ta
không?"
Henry Ford nói, "Không, thưa ngài. Sự tồn tại của
ngài là điều tồi tệ nhất có thể được, bởi vì ngài không thể
đi ngược lại theo thời gian, chỉ tiến lên. Điều này là ngu
xuẩn. Bản thân tôi đã phạm phải cái ngu xuẩn này, nhưng
điều đó không được trông đợi ở ngài. Ai đó muốn về thăm
lại thời thơ ấu của mình lần nữa - phải có khả năng nào đó
để đi ngược lại theo thời gian chứ, hay đi tiến theo thời
gian nếu người ta muốn biết trước loại thời đại cũ là gì,
loại cái chết sắp xảy ra là gì, và khi nào. Ngài đã bỏ con
người bị mắc kẹt ở giữa; con người không thể trở lui,

237
cũng không thể tiến lên. Con người không có tự do di
chuyển theo thời gian. Tôi có nhiều phàn nàn, nhưng đây
là phàn nàn cơ bản nhất của tôi với ông ấy."
Mã Tổ đang nói rằng nếu bạn đã trở thành thanh
niên, thì bạn không thể trở thành trẻ con lần nữa. Nếu bạn
đã trở nên già, bạn không thể trở thành thanh niên lần
nữa. Nếu bạn chết, bạn không thể mở mắt mình ra nữa và
hỏi xin trà. Ông ấy đã dùng mọi tình huống; và ông ấy
dùng tình huống này để xem liệu đệ tử này có đủ dũng
cảm kéo chiếc xe qua chân thầy không. Đặng Ẩn Phong
đã tỏ ra có giá trị.

"Đã tiến thì không lùi!" Đặng Ẩn Phong nói và


cứ đẩy chiếc xe đi.
Chân Mã Tổ bị cán qua và bị thâm tím. Khi họ
quay lại, Mã Tổ vào phòng, và nói, vừa giơ cái
rìu lên, "Lại đây, sư nào vừa làm đau chân ta!"
Đặng Ẩn Phong bước ra đứng trước Mã Tổ và
chìa cổ chịu đánh.

Đây là dũng cảm và đây là tin cậy. Theo bất kì cách


nào đó không phải là xúc phạm Mã Tổ. Bằng việc đầy
chiếc xe đi ông ấy không làm mất mặt Mã Tổ theo bất kì
cách nào, ông ấy đơn giản bám theo ý kiến riêng của
mình. Nếu Mã Tổ bám vào ý kiến của ông ấy - và toàn bộ
công việc của Mã Tổ là đem độc lập tới cho đệ tử... Họ
không nên coi bất kì cái gì từ bất kì ai khác là được cho
không; họ nên tự mình quyết định cuộc sống của mình,
hành động của mình, cử chỉ của mình. Chắc chắn ông ấy
đã theo Mã Tổ khi ông ấy đẩy chiếc xe cán qua chân thầy.

238
Mã Tổ có một nghìn sư trong đạo tràng của mình.
Ông ấy đi tới phòng gặp gỡ mọi người. Ông ấy không có
ý tưởng về sư nào đã đẩy chiếc xe cán qua chân mình.
Ông ấy đơn giản nói, vừa giơ chiếc rìu lên, "Lại đây,
sư nào vừa làm đau chân ta!" Đặng Ẩn Phong bước ra
ngay lập tức và đứng trước Mã Tổ và chìa cổ chịu đánh."
Ông ta không tránh. Ông ta có thể tránh, bởi vì có
một nghìn sư và sẽ rất khó quyết định xem ai là người đó.
Nhưng ông ta đã bước ra, và nếu thầy muốn chặt đầu ông
ấy, thì ông ta sẵn sàng. Ông ta đã tới thầy để có việc phục
sinh, để được chứng ngộ, để vượt ra ngoài cái chết. Nếu
đây là cách mà thầy chọn, thì điều đó hoàn toàn được.
Thấy khiêm tốn này và tin cậy này, Mã Tổ cất rìu đi.

Mã Tổ chưa bao giờ bỏ lỡ bất kì cơ hội nào để


tạo ra vấn đề, thường theo cách khó hiểu. Ngay
cả trong những ngày ốm yếu cuối cùng của
mình ông ấy đã làm việc đáp ứng nổi tiếng cho
người hỏi về sức khoẻ ông ấy. Ông ấy nói,
"Mặt trời ngó chư phật, mặt trăng ngó chư
phật."

Đây là câu nói nổi tiếng trong giới Thiền. Dù là bạn


đang đối diện với mặt trời, có nghĩa là sống, hay dù bạn
đang đối diện với mặt trăng, buổi đêm, biểu thị cho cái
chết - điều đó không tạo ra khác biệt gì cho phật tính của
bạn. Dù phật của bạn ở trong bóng tối hay trong ánh sáng,
điều đó không thành vấn đề. Tự tính của bạn vẫn còn là
một. "Mặt trời ngó chư phật, mặt trăng ngó chư phật."
Trong một câu cách ngôn rất ngắn, ngay cả tại điểm ông
ấy sắp chết, ông ấy vẫn nói, "Sẽ không có gì thay đổi cả.

239
Mặt trời lặn và mặt trăng sẽ mọc. Khi có liên quan tới ta,
ta là vĩnh viễn. Dù mặt trời trên bầu trời hay mặt trăng
trên bầu trời, ta bao giờ cũng ở đây." Thầy biết không có
cái chết. Thầy biết cái vĩnh hằng.

Một hôm, Mã Tổ trèo lên núi Sekimon, ngọn


núi gần chùa của ông ấy ở Giang Tây. Trong
rừng ông ấy đi kinh hành, hay hành thiền, một
lúc.

Nếu bạn tới Bodhgaya, nơi Phật Gautam đã trở nên


chứng ngộ, bạn sẽ thấy một ngôi chùa được dựng lên để
kỉ niệm việc chứng ngộ của ông ấy. Và cũng vậy, bên
cạnh ngôi chùa, có những tảng đá xếp hàng dài, và sau
ngôi chùa là cây bồ đề nơi ông ấy đã ngồi. Việc thiền của
ông ấy có hai tư thế, ngồi và bước đi. Một giờ bạn ngồi,
im lặng quan sát ý nghĩ của mình; thế rồi một giờ bạn
bước đi chậm rãi, lại quan sát ý nghĩ của mình - cứ thay
đổi thiền ngồi và đi.
Đó là kinh nghiệm đẹp bởi vì không mấy chốc bạn
trở nên nhận biết rằng dù bạn ngồi hay đi, dù bạn thức
hay ngủ, cái gì đó trong bạn vẫn còn đấy thường xuyên
nhận biết, cùng một thứ. Nó không trở nên khác biệt khi
bạn bước, nó không trở nên khác biệt ngay cả khi bạn
ngủ; cái gì đó như cây nến nhỏ hay ánh sáng cứ cháy
trong cả giấc ngủ của bạn nữa. Nhận biết của bạn đã trở
thành vòng tròn hai mươi bốn giờ. Đây là chứng ngộ hoàn
hảo. Việc thiền đi này trong tiếng Nhật Bản được gọi là
kinhin (kinh hành).

240
Rồi, thấy một chỗ bằng phẳng ở thung lũng
phía dưới, Mã Tổ nói với đệ tử đi cùng mình,
"Tháng sau, thân xác ta phải trả về đất này ở
đây." Nói xong, ông ấy quay về chùa.
Vào ngày thứ tư tháng sau, sau khi tắm, ông ấy
im lặng ngồi kiết già và tịch.

Thầy sống với nhận biết và chết với nhận biết. Ngay
cả một tháng trước đó, thầy đã nhận biết rằng cái chết
đang tới gần; cảm nhận của thầy, sự sáng tỏ của nhận biết
của thầy, là toàn bộ. Cho nên thầy đã chỉ ra cho đệ tử nơi
xác mình sẽ đem chôn, nơi để huyệt của mình, nấm mồ
của mình sẽ ở đó. Một tháng trước đó, ông ấy đã bảo cho
đệ tử, và tháng sau... Vào ngày thứ tư... sau khi tắm, ông
ấy im lặng ngồi kiết già và tịch.
Cái chết chỉ là một trò chơi, di chuyền từ thân thể
này sang thân thể khác, hay có lẽ di chuyển từ thân thể tới
vô thân thể, tới sự tồn tại đại dương vũ trụ.
Một đêm một tên trộm vào nhà của Mulla
Nasruddin. Hắn ta thấy rằng Mulla Nasruddin đã ngủ say
và hắn ta lấy mọi thứ hắn cảm thấy có giá trị. Nhưng
Mulla không ngủ, anh ta chỉ không muốn can thiệp vào
công việc của ai đó. Anh ta nhìn bằng việc mở một mắt và
rồi nghỉ ngơi. Khi tên trộm đi ra với mọi thứ có giá trị,
anh ta đi theo nó. Tên trộm nhìn lại và trở nên rất sợ. Nó
nói, "Sao ông lại đi cùng tôi?"
Mulla nói, "Anh quên rồi sao? Chúng ta đang đổi
nhà. Anh lấy đi mọi thứ, vậy sao lại bỏ tôi ở đây một
mình? Tôi đến cùng anh."

241
Tên trộm nói, "Xin tha thứ cho tôi. Ông lấy lại mọi
thứ của ông đi, lựa chúng ra, bởi vì tôi đã mang các thứ từ
cả nhà khác nữa."
Mulla nói, "Tôi không muốn lấy nó ra. Hoặc là tôi đi
cùng ông, hoặc mọi thứ phải được đặt trở lại trong nhà
tôi."
Tên trộm nói, "Trời ơi, ông dường như là tên trộm
còn lớn hơn tôi! Và tại sao ông vẫn còn im lặng khi tôi lấy
mọi thứ?"
Mulla nói, "Tôi không bao giờ can thiệp vào công
việc của bất kì ai."
Tên trộm phải bỏ lại mọi thứ - nước mắt dàn dụa
trong mắt, bởi vì nó đã lấy trộm nhiều thứ đẹp từ các noi
khác. Nó nói, "Một người như thế tôi chưa bao giờ gặp
trong đời mình... và đem ông về nhà tôi, có lẽ ông sẽ trở
thành chủ còn tôi sẽ là người hầu. Tôi còn vợ..."
Mulla nói, "Không có vấn đề gì, chúng ta có thể chia
sẻ mọi thứ. Chúng ta là đối tác. Đừng bỏ lỡ cơ hội này để
có người đàn ông khôn ngoan là đối tác của ông." Nhưng
tên trộm đã trốn đi bỏ lại mọi thứ.
Khi có liên quan tới cái chết của thầy, thầy đơn giản
đổi nhà. Thậm chí không có một gợn buồn rầu, nhưng
ngược lại là tò mò mênh mông về cái không biết đang mở
ra cánh cửa của nó. Thân thể này thầy đã sống đủ lâu
trong nó - bẩy mươi năm, tám mươi năm - đã đến lúc phải
thay đổi. Thân thể đã trở nên già; nó càng ngày càng trở
nên không vận hành được. Đó là lúc cần có một thân thể
mới tươi trẻ.

242
Thầy không bị khuấy động chút nào bởi sự kiện
mình sắp chết. Thầy chết với sự duyên dáng và cái đẹp,
thầy chết trong im lặng và an bình - như cách thầy đã
sống. Thầy sống trong im lặng, trong cái đẹp hoàn toàn,
thầy chết trong phúc lành mênh mông.

Mã Tổ đã sống ở ở Giang Tây trong năm mươi


năm và chết ở độ tuổi tám mươi.

Một bài cú:

Cả đồng bằng và núi non


đã bị tuyết chiếm lĩnh -
không cái gì còn lại.

Bài cú (haiku) là một dạng thơ đặc biệt chỉ tồn tại ở
Nhật Bản. Nó có rất ít từ nhưng lại nói nhiều điều. Cái
đẹp của nó là ở chỗ nó là triết lí được cô đọng lại. Và điều
không thể được nói trong văn xuôi, đôi khi lại có thể được
nói trong thơ ca.

Cả đồng bằng và núi non


đã bị tuyết chiếm lĩnh -
không cái gì còn lại.

Ông ấy đang mô tả bản thể riêng của mình. Mọi thứ


đều đã bị lấy đi. Ngay cả ông ấy cũng đã biến mất vào
trong cái bao la của vũ trụ; không cái gì còn lại đằng sau
cả. Cũng như giọt sương biến mất trong biển cả, con

243
người của chứng ngộ biến mất trong tâm thức vũ trụ.
Không cái gì còn lại đằng sau.

Maneesha đã hỏi:

Thầy kính yêu của chúng tôi,


Trong vài tuần cuối qua, bất kì khi nào Thầy
nói từ 'trống rỗng', hay 'trái tim trống rỗng',
hay 'gương rỗng', điều đó gây cảm giác như
cái lẫy, lời nhắc nhở rằng đừng chỉ thoả mãn
tâm trí tôi mà đi thẳng tới không gian của cái
trống rỗng đó trong tôi. Gần đây tôi nghe Thầy
nói rằng người ta không thể "ghét" hay "yêu"
chứng ngộ được. Liệu có đúng khi yêu không
gian của cái trống rỗng không?

Không, Maneesha. Nếu bạn yêu không gian của cái


trống rỗng, bạn sẽ không bao giờ trở thành trống rỗng cả.
Bạn sẽ vẫn còn đứng tách rời. Trống rỗng sẽ trở thành đối
thể của yêu, nhưng bạn sẽ có đó, người yêu. Toàn bộ nỗ
lực của thiền là ở chỗ bạn phải biến mất. Trong việc biến
mất của mình bạn không thể nói, "Tôi yêu cái trống
rỗng." Trong sự biến mất của bạn có tình yêu. Nhưng nó
không là tình yêu của bạn, nó chỉ là một hiện tượng vũ trụ
- tự phát, nở hoa trong cái trống rỗng, tràn đầy toàn thể
cái trống rỗng bằng hương thơm của tình yêu và từ bi và
chân lí.

244
Nhưng không cái gì là của bạn cả. Bạn không còn
nữa. Chừng nào bạn còn đó thì trống rỗng vẫn không phải
là trống rỗng. Bạn phải tan biến vào cái bao la của sự tồn
tại. Bạn phải không có đó; thế thì có cái trống rỗng. Và
trong cái trống rỗng đó nhiều thứ nở hoa, nhiều hoa hồng
và nhiều hoa sen. Nhiều yêu và nhiều từ bi và nhiều cái
đẹp, nhiều chân lí; tất cả những cái vĩ đại, tất cả những cái
rực rỡ đều nảy sinh theo cách riêng của nó. Nhưng nó
không phải là sở hữu của bạn. Trong thực tế bạn là rào
chắn đấy. Chính bởi vì bạn mà cái trống rỗng không thể
vận hành được. Bây giờ bạn không còn nữa; cái trống
rỗng vận hành một cách tự phát, nó nở hoa thành nghìn
bông hoa.
Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh.

Ba đứa bé đẩy chiếc xe hàng qua siêu thị, trong khi


mẹ chúng đi mua sắm.
"Ôi trời!" bé Gilbert ríu rít. "Đằng ấy thấy đấy
không? Mẹ mua thức ăn đóng lon cho trẻ con. Tớ ghét
món ấy lắm!"
"Ồ không!" bé Sally the thé. "Mẹ tớ đang mua rau
bina. Món đó là kinh nhất!"
"Jesus Christ!" bé Boris nói, khi thấy mẹ mình và
một người bạn trai tại quầy rượu. "Các cậu không có gì
mà phàn nàn cả. Mẹ tớ đánh thức tớ lúc bốn giờ sáng,
nhét đầu vú ướt lạnh vào mồm tớ, và nó bao giờ cũng có
mùi thuốc lá và rượu rẻ tiền!"

245
Một hôm bé Ernie và mẹ nó đang đi trong công viên
thì bé Ernie thấy người đàn bà to béo, có chửa đi qua.
"Này, mẹ ơi!" Ernie nói. "Sao mà bà ấy lại có cái
bụng to thế?"
Mẹ Ernie trở nên đôi chút bối rối. "Thế này, cưng,"
bà ấy nói, "bà ấy như thế là vì ăn quá nhiều sô cô la."
"Thật thế à?" Ernie nói ngạc nhiên.
Sau đó, đang dợi ở điểm đỗ xe bus, Ernie thấy cũng
người đàn bà có chửa đó đứng cạnh nó.
"Này, thưa bà," Ernie nói, vừa chỉ vào bụng bà ấy.
"Cháu biết điều bác đã làm rồi - và nó không xa mấy
đâu?"

Voi và chuột đang bước qua rừng rậm, thì chuột rơi
vào chỗ lầy. Nó sắp chìm nghỉm, nhưng voi dạng chân
qua chỗ lầy và hạ thấp chim của nó xuống. Chuột tóm lấy
một phần cỗ máy khổng lồ và voi nâng nó tới chỗ an toàn.
Vài tuần sau đó, chuột và voi đang đi qua rừng rậm,
thì voi rơi vào chỗ lầy. Nhanh như chớp, chuột chạy ra và
quay trở lại lái theo một chiếc xe thể thao Ferrari mầu đỏ
nhãn hiệu mới. Nó lùi xe tới chỗ lầy, buộc dây vào xe,
ném đầu dây kia cho voi, nhảy lùi vào xe Ferrari, và chậm
rãi kéo con voi khổng lồ ra khỏi chỗ lầy.
... Điều này chỉ để nêu rằng nếu bạn có chiếc Ferrari
đỏ, thì bạn không cần chim lớn.
Nivedano...
(tiếng trống)

246
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn bị đông cứng. Bây giờ nhìn vào trong sâu nhất có thể
được. Bạn phải đạt tới chính trung tâm của bản thể mình.
Đi ngày một sâu hơn...
Trung tâm của bản thể bạn cũng là trung tâm của
toàn thể vũ trụ. Bạn đi ngày một sâu hơn, bạn càng giầu
có hơn. Bạn càng đi sâu hơn, bạn càng được thức tỉnh
hơn. Tại chính trung tâm của bản thể mình bạn sẽ sẽ thấy
bản tính phật của mình. Phật ẩn kín trong mọi người,
chúng ta chỉ phải đi đủ sâu. Để làm cho nhân chứng của
bạn,gương của bạn, phật của bạn, rõ ràng hơn cho bạn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Quan sát thân thể, nó không là bạn; tâm


trí, nó không là bạn. Chỉ việc chứng kiến là bạn. Người
quan sát là bạn và người quan sát không có ý kiến, không
ý tưởng, nó chỉ là gương. Tôi đã gọi loạt bài nói này là
Mã Tổ: Gương rỗng. Mọi việc thiền đều không là gì
ngoài việc tìm kiếm gương rỗng, cái phản xạ nhưng vẫn
còn hoàn toàn trống rỗng.

247
Hân hoan trong cái trống rỗng này và hoa hồng sẽ
bắt đầu xuất hiện. Kinh nghiệm về phật tính phải trở
thành sự đáp ứng của bạn khoảnh khắc nọ qua khoảnh
khắc kia cả ngày. Hành động hay không hành động, làm
việc hay không làm việc, nói hay không nói - bạn nên nhớ
mình là linh hồn vĩnh viễn, phật. Khi việc ghi nhớ này đi
sâu hơn trong bạn, đạt tới từng thớ thịt và tế bào của con
người bạn, cuộc sống của bạn sẽ trở thành điệu vũ, bài
thơ, âm nhạc, cái đẹp vĩnh hằng, sự duyên dáng lớn.
Nhớ khoảnh khắc này, không gian bạn đang ở.
Không gian này phải trở thành chính cuộc sống của bạn,
chính cái chết của bạn. Phúc lạc này đã làm cho tối nay
thành cái đẹp lớn lao, chân lí lớn lao. Mười nghìn chư
phật biến mất trong đại dương như giọt sương. Đây là
phép mầu lớn nhất trên thế giới.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng chậm rãi thu lấy kinh nghiệm của
mình - không bỏ lại cái gì đằng sau - một cách im lặng và
duyên dáng. Ngồi như phật trong vài khoảnh khắc, chỉ
quan sát, chỉ là gương. Nếu bạn đã hiểu nghĩa của trái tim
trống rỗng và việc trở thành chỉ là gương, thì Mã Tổ
không là thất bại cho bạn. Những người như Mã Tổ, hay
Phật Gautam, hay Lão Tử, họ không thuộc vào những thế
kỉ khác nhau. Họ tất cả đều đương đại.
Khoảnh khắc bạn đi vào trong cái trống rỗng này,
việc phản xạ tựa gương này, im lặng không biết tới biên
giới, bạn đã trở thành người đương đại với Mã Tổ, với
Trang Tử, với Phật Gautam. Những người này vượt ra

248
ngoài thời gian. Họ không thuộc vào bất kì thế kỉ nào, bất
kì quốc gia nào, bất kì ngôn ngữ nào. Họ tất cả đều là một
theo nghĩa rằng hàng nghìn sông có thể đi vào đại dương
và chúng tất cả đều trở thành một.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, Thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội sự tụ tập của mười nghìn
chư phật được chứ?
Vâng, Thưa Thầy kính yêu.

249
Về Osho

Osho sinh ra tại Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn


Độ, vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Từ thiếu thời ông đã
là một tinh thần độc lập và nổi dậy, nhấn mạnh tới chứng
nghiệm chân lí cho chính mình thay vì thu nhận tri thức
và niềm tin do người khác trao lại.
Sau khi chứng ngộ ở tuổi hai mươi mốt, Osho hoàn
thành học tập hàn lâm và dành nhiều năm giảng dạy triết
học tại Đại học Jabalpur. Đồng thời, ông đã du hành trong
toàn Ấn Độ để nói chuyện, thách thức các nhà lãnh đạo
tôn giáo chính thống trong các cuộc tranh luận công khai,
đặt câu hỏi về những niềm tin truyền thống và gặp gỡ mọi
người từ mọi nẻo đường cuộc sống. Ông đọc rất nhiều,
mọi thứ ông có thể tìm thấy để mở rộng hiểu biết của
mình về hệ thống niềm tin và tâm lí của con người hiện
đại.
Đến cuối những năm 1960 Osho đã bắt đầu phát
triển các kĩ thuật thiền động duy nhất của mình. Con
người hiện đại, ông nói, bị quá nặng gánh với những
truyền thống lạc hậu của quá khứ và những lo âu của cuộc
sống hiện đại đến mức người đó phải trải qua quá trình
tẩy rửa sâu sắc trước khi người đó có thể hi vọng khám
phá ra trạng thái thảnh thơi, vô suy nghĩ của thiền.

250
Trong quá trình làm việc của mình, Osho đã nói về
mọi khía cạnh thực của việc phát triển tâm thức con
người. Ông đã cô đọng tinh hoa của điều có ý nghĩa cho
việc truy tìm tâm linh của con người hiện đại, dựa trên
không chỉ hiểu biết trí tuệ mà được kiểm nghiệm lại theo
kinh nghiệm sống của riêng ông.
Ông không thuộc về tín ngưỡng nào cả - “Tôi là
người bắt đầu cho tâm thức tôn giáo hoàn toàn mới,” ông
nói. “Xin đừng gắn tôi với quá khứ - điều đó thậm chí
chẳng đáng nhớ.”
Bài nói của ông cho các đệ tử và người tìm kiếm tâm
linh đã được xuất bản trong hơn sáu trăm năm mươi tập,
và đã được dịch sang hơn bốn mươi ba thứ tiếng. Và ông
nói, “Thông điệp của tôi không phải là học thuyết, không
phải là triết lí. Thông điệp của tôi là giả kim thuật nào đó,
khoa học về biến đổi, cho nên chỉ những ai sẵn sàng chết
như họ hiện tại và được sinh ra lần nữa trong cái gì đó
mới đến mức họ không thể nào hình dung ra được điều đó
ngay bây giờ... chỉ vài người dũng cảm mới sẵn sàng lắng
nghe, vì lắng nghe là sắp nguy hiểm.
“Lắng nghe, bạn đã bước đi bước đầu tiên hướng tới
tái sinh. Cho nên đấy không phải là triết lí mà bạn có thể
chỉ choàng vào người và đi khoác lác về nó. Đấy không
phải là học thuyết mà bạn có thể tìm ra khuây khoả cho
những câu hỏi phiền nhiễu. Không, thông điệp của tôi
không phải là truyền giao bằng lời nào đó. Nó còn nguy
hiểm hơn thế nhiều. Nó không gì khác hơn là chết và tái
sinh.”
Osho rời khỏi thân thể ngày 19 tháng 01 năm 1990.
Tâm xã khổng lồ của ông ở Ấn Độ tiếp tục là trung tâm

251
trưởng thành tâm linh lớn nhất trên thế giới hấp dẫn hàng
nghìn khách thăm quốc tế, người tới để tham dự vào
thiền, liệu pháp, các chương trình sáng tạo, hay chỉ để
chứng nghiệm bản thể trong phật trường.

252
Tâm xã Osho quốc tế

Pune, Ấn Độ
Tâm xã này là trường phái kì diệu cho việc thám
hiểm bên trong. Đó là phiêu lưu lớn lao nhất có đó, và
cũng là lễ hội lớn nhất.
Con đường bạn phải đi qua, bạn sẽ phải đi một
mình; nhưng biết rằng bao nhiêu người cũng đang du
hành một mình sẽ đem lại cho bạn động viên lớn lao.
Một ốc đảo nhỏ mà trong đó cuộc sống đang diễn ra
với tầm nhìn hoàn toàn khác; nơi cuộc sống diễn ra có
mục đích, ý nghĩa, nơi cuộc sống diễn ra có phương pháp,
nơi cuộc sống diễn ra trong tỉnh táo, nhận biết, tỉnh thức;
nơi cuộc sống không phải chỉ là điều ngẫu nhiên, nơi cuộc
sống bắt đầu trở thành ngày một trưởng thành hơn theo
chiều hướng nào đó.
Và đây không phải là tu viện Ấn Độ; đây là tâm xã
quốc tế, nơi gặp gỡ của Đông và Tây. Tâm xã này đại
diện cho toàn bộ loài người, không phải về quá khứ mà là
về tương lai.
Nỗ lực của chúng tôi là để làm cho thiền trở thành
có sẵn cho từng người và mọi người; bất kì ai muốn thiền,
thiền đều sẵn có tương ứng với kiểu của người đó. Nếu
người đó cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi cũng nên là thiền của
người đó. “Ngồi im lặng không làm gì, xuân tới và cỏ tự
nó mọc lên” - đó sẽ là thiền của người đó. Chúng ta phải
tìm ra thật nhiều chiều hướng cho thiền, nhiều như số

253
người trên thế gian này. Và khuôn mẫu phải đừng quá
cứng nhắc, vì chẳng có hai cá nhân nào giống nhau cả.
Đây là cuộc cách mạng. Cá nhân phải không bị gò khít
vào khuôn mẫu; nhưng khuôn mẫu thì phải vừa vặn với cá
nhân. Đó là lí do tại sao bạn thấy có nhiều cách thiền thế
đang diễn ra ở đây. Cách thức thì có thể là hoạt động hay
thụ động, cũng chẳng thành vấn đề gì, mục tiêu là một:
làm sao làm cho bạn thành im lặng đến mức tất cả mọi
suy nghĩ đều biến mất và bạn chỉ còn là gương, phản
chiếu cái đang đấy.

Đa đại học Osho


Trong tâm xã này có ít nhất năm mươi nhóm liệu
pháp đang tiến hành, bởi những lí do nào đó. Đấy chỉ là
cách làm cân bằng lại hàng nghìn năm kìm nén. Đấy chỉ
là để đem lại nhẹ nhàng cho tất cả những cái bạn đã kìm
nén - như người Ki tô giáo, người Hindu giáo, Phật tử. Nó
chỉ hoàn tác lại cái hại của hàng thế kỉ cũ kĩ đã gây cho
bạn. Các nhóm liệu pháp này không phải là cứu cánh;
chúng chỉ chuẩn bị cho bạn để thiền, chứng kiến thụ động
về các ý nghĩ, tình cảm và hành động mà không đánh giá
hay đồng nhất.
Sự bừng sáng của mỗi ngày là việc gặp gỡ vào buổi
tối: một buổi lễ hai giờ với âm nhạc, nhảy múa và thiền
im lặng theo dõi một trong những bài nói của Osho.
“Đấy không phải là bài học; đấy chỉ đơn thuần là
phương tiện để làm cho bạn thành im lặng, vì nếu yêu cầu
bạn phải im lặng không nỗ lực gì, bạn sẽ thấy rất khó
khăn. Tôi đang làm cho bạn im lặng mà không phải nỗ

254
lực gì về phần bạn cả. Việc nói của tôi trước hết là để
dùng như một chiến lược tạo ra im lặng trong bạn.”

255
Để biết thêm thông tin

http://www.osho.com
Osho Community International
17 Koregaon Park
Pune 411 011 (MS) Ấn Độ
Tel: + 91 (212) 628 562
Fax: + 91 (212) 624 181
Email: osho-community@osho.com
Osho International

410 Park Avenue, 15th Floor,


New York, NY 10022
Tel. +1 212 231 8437
Fax. +1 212 658 9508
http://www.osho.com/oshointernational
Klau Steeg:
klau.steeg@oshointernational.com
Montse Cortazar:
montse.cortazar@oshointernational.com
Office email:
oshointernational@oshointernational.com
Royalties: OshoOffice@oshointernational.com

Đại lí cho Việt Nam là Tuttle Mori Agency, Managing


Dirrector Pimolporn Yutisri
pimolporn@tuttlemori.co.th

256
Để xem tin tức, trao đổi nói chuyện, xem các trích đoạn và toàn
văn bài nói của Osho, các bạn có thể ghé thăm trang web

http://oshovietnam.org

Để xem những trích đoạn mới nhất của sách Osho các bạn có
thể theo dõi trên Facebook:

https://www.facebook.com/OshoFansVietnam?ref=hl

Để xem một số bản dịch tiếng Việt của sách Osho, các bạn có
thể vào trang web:

http://oshovietnam.wordpress.com/

257
Về tác giả

Osho thách thức các phân loại. Hàng nghìn bài nói
của ông bao quát mọi điều từ cuộc truy tìm cá nhân về ý
nghĩa cho tới những vấn đề xã hội và chính trị khẩn thiết
nhất mà xã hội ngày nay đang đối diện. Sách của Osho
không được viết ra mà được dỡ ra từ các bản ghi âm
thanh và video về các bài nói ngẫu hứng của ông cho
khán giả quốc tế. Như ông đã nói điều đó, “Vậy nhớ lấy:
bất kì điều gì tôi đang nói cũng không chỉ là cho bạn... tôi
cũng đang nói cho các thế hệ tương lai.”
Osho đã được tờ Sunday Times ở London mô tả là
một trong “1000 người làm nên thế kỉ 20” và được tác giả
người Mĩ Tom Robbins mô tả là “con người nguy hiểm
nhất từ Jesus Christ.” Tờ Sunday Mid-Day (Ấn Độ) đã
chọn Osho là một trong mười người - cùng với Gandhi,
Nehru và Phật - những người đã làm thay đổi định mệnh
của Ấn Độ.
Về công trình riêng của mình Osho đã nói rằng ông
đang giúp để tạo ra hoàn cảnh cho sự ra đời của một loại
con người mới. Ông thường đặc trưng con người mới là
“Zorba Phật” - có khả năng vừa tận hưởng vui thú trần
gian của Zorba người Greek và trung thực im lặng của
Phật Gautama.
Chạy như sợi chỉ xuyên suốt mọi khía cạnh của các
bài nói và thiền của Osho là viễn kiến bao quát cả trí huệ

258
vô thời gian của mọi thời đại quá khứ và tiềm năng cao
nhất của khoa học và công nghệ ngày nay (và ngày mai).
Osho được biết tới từ đóng góp cách mạng của ông
cho khoa học về biến đổi bên trong, với cách tiếp cận tới
thiền thừa nhận nhịp độ tăng tốc của cuộc sống đương đại.
Thiền Động duy nhất của OSHO được thiết kế để đầu tiên
xả ra những căng thẳng tích luỹ của thân thể và tâm trí, để
cho dễ dàng hơn lấy kinh nghiệm về tĩnh lặng và thảnh
thơi vô suy nghĩ trong cuộc sống thường ngày.
Hai công trình tiểu sử bởi chính tác giả nay sẵn có
là:
Autobiography of a Spiritually Incorrect Mystic,
Glimpses of a Golden Childhood

www.biography.osho.com

259
Sách Osho đã dịch sang tiếng Việt

Số Tên sách Năm


1. Con đường tôi con đường của mây trắng 1997
2. Biến chuyển Mật tông 1997
3. Ngón tay chỉ trăng 1997
4. Thiền là gì? 1997
5. Đi tìm điều huyền bí, t.2 1998
6. Thiền: Tự do đầu tiên và cuối cùng 1998
7. Kinh Kim Cương 1998
8. Tôi là lối cổng 1998
9. Nhịp đập của tuyệt đối 1998
10. Tâm Kinh 1998
11. Mưa rào không mây 1999
12. Nhạc cổ trong rặng thông 1999
13. Dhammapada: Con đường của Phật - t.1 1999
14. Thuyền rỗng 1999
15. Tín Tâm Minh: Sách về cái không 1999
16. Từ dục tới Siêu tâm thức 1999
17. Từ Thuốc tới Thiền 1999
18. Cương lĩnh Thiền: Tự do với chính mình 2000
19. Vô trí: Hoa của vĩnh hằng 2000
20. Bồ đề đạt ma: Thiền sư vĩ đại nhất 2000
21. Và hoa đã mưa xuống 2000
22. Đạo: Ba kho báu - t.1 2001
23. Kinh nghiệm Mật tông 2001
24. Bản kinh cuối cùng - t.6 2001
25. Chiều bên kia cái biết 2001
26. Kỉ luật của siêu việt - t.3 2002
27. Con đường bên ngoài mọi con đường 2002

260
Số Tên sách Năm
28. Không nước không trăng 2002
29. Om Mani Padme Hum 2002
30. Nam Tuyền: Điểm khởi hành 2003
31. Triệu Châu: Tiếng gầm của sư tử 2003
32. Mã Tổ: Gương rỗng 2003
33. Lâm Tế: Bậc thầy của điều phi lí 2003
34. Bách Trượng Huệ Hải: Đỉnh Everst của 2003
Thiền
35. Qui Sơn: Không dấu chân trên trời xanh 2003
36. Ngưỡng Sơn: Con người thực của Thiền 2004
37. Đạo Nguyên Thiền sư: Tìm kiếm và hoàn 2004
thành
38. Dược Sơn: Thẳng tới điểm chứng ngộ 2004
39. Đi tìm điều huyền bí - t.1 2004
40. Dhammapada: Con đường của Phật - t.2 2004
41. Từ Thuốc tới Thiền (chỉnh lí) 2004
42. Trưởng thành: Trách nhiệm là chính mình 2005
43. Sáng tạo: Khơi nguồn sức mạnh bên trong 2005
44. Dũng cảm: Vui sống hiểm nguy 2005
45. Dược khoa cho linh hồn 2005
46. Cân bằng thân tâm 2005
47. Ta là cái đó 2006
48. Tình yêu, tự do, một mình 2006
49. Dhammapada: Con đường của Phật - t.3 2006
50. Kỉ luật của siêu việt - t.1 2006
51. Kỉ luật của siêu việt - t.2 2006
52. Kỉ luật của siêu việt - t.4 2007
53. Vui vẻ: Hạnh phúc từ bên trong 2007
54. Chuyến bay của một mình tới một mình 2007
55. Nhận biết: Chìa khoá sống trong cân bằng 2007
56. Tự do: Dũng cảm là bản thân mình 2007

261
Số Tên sách Năm
57. Dhammapada: Con đường của Phật - t.4 2007
58. Trực giác: Việc biết bên ngoài logic 2007
59. Dhammapada: Con đường của Phật - t.5 2008
60. Dhammapada: Con đường của Phật - t.6 2008
61. Thân thiết: Tin cậy bản thân mình và người 2008
khác
62. Dhammapada: Con đường của Phật - t.7 2008
63. Từ bi: Việc nở hoa tối thượng của tình yêu 2008
64. Đạo: lịch sử và giáo huấn 2008
65. Dhammapada: Con đường của Phật - t.8 2009
66. Dhammapada: Con đường của Phật - t.9 2009
67. Cuộc sống, tình yêu, tiếng cười 2009
68. Dhammapada: Con đường của Phật - t.10 2009
69. Dhammapada: Con đường của Phật - t.11 2009
70. Dhammapada: Con đường của Phật - t.12 2009
71. Đạo: Ba kho báu - t.2 2010
72. Đạo: Ba kho báu - t.3 2010
73. Đạo: Ba kho báu - t.4 2010
74. Đạo: Đường vô lộ - t.1 2011
75. Đạo: Đường vô lộ - t.2 2011
76. Đạo: Cổng Vàng - t.1 2012
77. Đạo: Cổng Vàng - t.2 2012
78. Cỏ tự nó mọc lên 2012
79. Yoga: Alpha và Omega - t.1 2012
80. Yoga: Alpha và Omega - t.2 2012
81. Yoga: Alpha và Omega - t.3 2012
82. Yoga: Alpha và Omega - t.4 2012
83. Yoga: Alpha và Omega - t.5 2012
84. Yoga: Alpha và Omega - t.6 2012
85. Yoga: Alpha và Omega - t.7 2013
86. Yoga: Alpha và Omega - t.8 2013

262
Số Tên sách Năm
87. Yoga: Alpha và Omega - t.9 2013
88. Yoga: Alpha và Omega - t.10 2013
89. Bí mật của các bí mật - t.1 2013
90. Bí mật của các bí mật - t.2 2013
91. Sen trắng 2014
92. Tương lai vàng - t.1 2014
93. Tương lai vàng - t.2 2014
94. Tìm trâu 2014
95. Khi giầy vừa 2014
96. Sống Thiền 2014
97. Nguyên lí thứ nhất 2014
98. Thầy hoàn hảo - t.1 2015
99. Thầy hoàn hảo - t.2 2015
100. Ngỗng ở ngoài 2015
101. A cái này 2015
102. Sét đánh bất thần 2015
103. Chim tung cánh 2015
104. Ngôn ngữ của sự tồn tại 2016
105. Niết bàn ác mộng cuối 2016
106.
107.
108.
109.
110.

263
264

You might also like