Professional Documents
Culture Documents
hiện trạng:
Tài nguyên rừng đang bị thu hẹp theo từng ngày, diện tích rừng tự nhiên che phủ giảm
dần do khai thác trái phép, đất rừng bị chuyển qua đất nông công nghiệp, các loài sinh vật
quý hiếm thì đứng trước nguy cơ tuyệt chủng rất cao (Theo thống kê thì ở Việt Nam có
khoảng 100 loài thực vật và gần 100 loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng).
Tình trạng ô nhiễm nguồn nước là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với tài nguyên nước của
chúng ta và theo dự báo đến năm 2025, 2/3 người trên thế giới có thể sẽ phải sống trong
những vùng thiếu nước trầm trọng.
Tài nguyên khoáng sản đang dần cạn kiệt sau việc khai thác quá mức và sử dụng lãng
phí. Tài nguyên đất thì cũng đang gặp rất nhiều khó khăn như đất nông nghiệp đang bị
chuyển dần qua đất phục vụ cho công nghiệp và dịch vụ, đất bị nhiễm mặn, bị sa mạc hóa
ngày một tăng.
2.1. Thực trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên trên Thế giới
Con người hiện nay đang sử dụng nguồn lực thiên nhiên với một tốc
độ nhanh hơn tốc độ tái tạo và cung cấp của Trái đất đến 20%. Trong
vòng
40 năm, từ năm 1961 đến 2001, mức tiêu thụ nguồn nhiên liệu khai thác
từ
lòng đất, như than, khí đốt và dầu hỏa, đã tăng với tỉ lệ kinh khủng là
700%. Trong khi đó, Trái đất không có đủ thời gian để hấp thụ hết một
lượng khí CO2 khổng lồ thải ra từ những hoạt động sản xuất và khai thác
của con người. Hậu quả là lượng khí thải không được hấp thụ đó đã dần
dần hủy hoại tầng ô-zôn bảo vệ Trái đất. Từ năm 1970 đến năm 2000, số
lượng sinh vật sống trên cạn và dưới biển đã giảm đi 30%, trong khi các
chủng loài động vật nước ngọt bị thu hẹp “dân số” đến 50%. Sự suy thoái
này là hậu quả của nạn phá hủy môi trường sống, tình trạng ô nhiễm ngày
càng tăng và sự khai thác, sử dụng tài nguyên quá mức.
2.2 Thực trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam
Tổn thất trong khai thác dầu khí của Việt Nam là 50 - 60%, than hầm
lò là 40 - 60% còn trong chế biến vàng là 60 - 70% (tính đến năm 2004).
Đây chỉ là ba trong những con số đáng báo động về tình trạng lãng phí sử
dụng tài nguyên và nhiên liệu ở nước ta. Việt Nam có trên 5.000 mỏ, với
khoảng 60 loại khoáng sản, nhưng phần lớn lại là loại mỏ vừa và nhỏ, hầu
hết đều không đủ khai thác với quy mô công nghiệp. Thêm vào đó, nguồn
tài nguyên không tái tạo này đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt vì sự khai
thác và sử dụng quá lãng phí. Đối với các mỏ vừa và nhỏ (chiếm đa số), sự
thất thoát không dừng lại ở một vài chục phần trăm mà nguy cơ mất mỏ
là rất nghiêm trọng. Do năng lực có hạn, khai thác phần lớn là thủ công,
nên đa số các mỏ nhỏ hiện nay chỉ lấy được những phần giàu nhất, bỏ đi
toàn bộ các quặng nghèo và khoáng sản đi cùng, dẫn đến không thể tận
thu được. Bên cạnh đó, tổn thất trong chế biến khoáng sản cũng rất cao.
Khai
thác vàng là một ví dụ, do độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu
hồi) hiện chỉ đạt khoảng 30% - 40%, nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài
bãi
thải, không chỉ mất mát mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Nếu
so với chỉ tiêu một số nước, thu hồi vàng trong quặng thường chiếm 92%
97%, rõ ràng đây là một tổn thất quá lớn. Đối với những mỏ vừa và nhỏ,
chủ yếu do dân tự khai thác với công nghệ thô sơ, vì vậy càng không thể
đánh giá được hết những tổn thất.
Với tài nguyên nước, mức sử dụng nước ở nhiều ngành công nghiệp
là rất cao và lãng phí, đặc biệt khu vực tư nhân, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ để thất thoát nước dùng trong sản xuất phần lớn không thể kiểm
soát
được. Rõ rệt nhất là ngành bia, trên thế giới để sản xuất 1 lít bia trung
bình
sử dụng khoảng 4 lít nước, song ở Việt Nam cao hơn gấp ba lần (khoảng
13
lít nước). Các ngành dệt và ngành giấy cũng ở tình trạng tương tự.
Về tiêu hao năng lượng, với ngành thép, công nghệ sử dụng của Việt
Nam hiện có thời gian nấu cao hơn 360% so với thế giới, các chỉ tiêu tiêu
hao thép phế, điện và điện cực đều quá cao, đặc biệt tiêu hao điện bằng
257% so với các nước, song công đoạn cán có tốc độ chỉ bằng 12,7% so
với các nhà máy trên thế giới. Về tài nguyên rừng, hiện tại, rừng tự nhiên
có khả năng khai thác gỗ không còn bao nhiêu (ước tính khoảng 0,5 triệu
ha). Diện tích rừng sản xuất chỉ chiếm hơn 50% trong tổng diện tích rừng
hiện có nhưng phần lớn là rừng nghèo và trung bình.
Như vậy, với tốc độ khai thác tài nguyên như hiện nay, môi trường ngày
càng bi suy thoái nghiêm trọng, gây tổn thương cho con người đang sống
ở
hiện tại và các thế hệ tương lai - buộc chúng ta phải xem xét đến thước
đo
của sự phát triển - phát triển bền vững và có những phương sách chiến
lược
để đảm bảo thực hiện phát triển bền vững một cách có hiệu quả