Professional Documents
Culture Documents
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là loại ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới.
Tỷ lệ mắc ung thư vú trên thế giới từ 25-35/100.000 dân. Ở Mỹ ước tính năm
2005 có khoảng 212.930 trường hợp mới mắc và 40.870 phụ nữ chết vì căn bệnh
này. Ung thư vú ngày càng gia tăng do các yếu tố về môi trường, di truyền, chế
độ ăn và nội tiết [6],[9],[27].
Tại Việt nam, ung thư vú cũng là một trong những ung thư đứng hàng đầu
ở phụ nữ. Theo thống kê giai đoạn 2001-2004, ung thư vú có tỷ lệ mắc chuẩn
theo tuổi (ASR) ở các tỉnh phía Bắc là 19,6/100.000 dân và ở phía Nam tỷ lệ này
là 16,3/100.000 dân[9]. Tại Hà Nội tỷ lệ này trong giai đoạn 2001-2004 là
29,7/100.000 dân và tăng lên 40,3/100.000 dân trong giai đoạn 2005-2008 [2].
Tại Hải Phòng, trong giai đoạn 2001-2009 ung thư vú cũng đứng hàng đầu với tỷ
lệ 21,5/100.000 dân [14].
Cho tới nay, việc nghiên cứu phòng chống ung thư vú đang được tiếp tục
và ngày càng hoàn thiện. Trên cơ sở sinh bệnh học, ung thư vú đã được xác định
là bệnh toàn thân chứ không chỉ là căn bệnh tại chỗ, tại vùng như quan niệm
trước đây. Điều trị ung thư vú là sự phối hợp giữa các phương pháp tại chỗ, tại
vùng bằng phẫu thuật, xạ trị với các phương pháp toàn thân bằng hóa chất, nội
tiết, sinh học, trong đó phẫu thuật đóng vai trò quan trọng nhất, đặc biệt đối với
các trường hợp chưa có di căn.
Phẫu thuật điều trị ung thư vú đã được thực hiện từ những năm trước công
nguyên. Năm 1882, William Stewart Halsted (1852-1922) đưa ra phương pháp
phẫu thuật rộng rãi để điều trị ung thư vú. Đến năm 1948, D.H. Patey (1889 –
1977) và W.H. Dyson đưa ra phương pháp cắt tuyến vú triệt căn cải tiến, so sánh
2
với phương pháp của Halsted thấy có ưu điểm hơn nhiều về thẩm mỹ và nhất là
về chức năng. Từ những năm 1970, phẫu thuật Patey trở thành phẫu thuật chuẩn,
áp dụng cho các ung thư vú giai đoạn I, II, III [3],[29].
Từ năm 1993, Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng bắt
đầu phẫu thuật ung thư vú theo phương pháp Patey và từ đó đến nay đã trở thành
phương pháp điều trị phẫu thuật thường quy. Từ năm 2005 đến nay, Trung tâm
đã có những cải tiến trong kỹ thuật mổ nạo vét hạch nách, cùng với việc áp dụng
sinh thiết tức thì trong mổ đã làm giảm các biến chứng sau mổ, rút ngắn thời
gian hậu phẫu cho bệnh nhân. Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu về chẩn
đoán và điều trị ung thư vú, song chưa có nghiên cứu đánh giá các kết quả mới
này một cách chi tiết .
Xuất phát từ tình hình thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư vú ở nữ giai đoạn I, II, IIIA tại
Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân Ung thư vú ở nữ
giai đoạn I, II, IIIA được điều trị phẫu thuật tại Trung tâm Ung Bướu
Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng.
2. Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật Ung thư vú giai đoạn I, II, IIIA từ
1/2007 - 12/2011 tại Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Việt Tiệp Hải
Phòng.
3
Chương I
TỔNG QUAN
Cơ ngực lớn
Tổ chức mỡ dưới da
Tuyến vú được nuôi dưỡng bởi động mạch vú trong (nhánh của động
mạch dưới đòn) và động mạch ngực bên (nhánh của động mạch nách).
ĐM nách
ĐM vú trong
ĐM ngực bên
Tuyến vú được chi phối bởi các nhánh bì trước và các nhánh bì ngoài của
các thần kinh gian sườn 4,5,6 cùng các nhánh trên đòn của đám rối cổ. Các
nhánh của thần kinh gian sườn nói trên còn dẫn các sợi giao cảm tới vú.
1.2. DỊCH TỄ HỌC VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
1.2.1. Đặc điểm dịch tễ học
UTV không những là một bệnh ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ mà còn là
nguyên nhân chính gây tử vong đối với phụ nữ tại nhiều nước. Tỷ lệ tử vong
thay đổi nhiều, từ 25-35/100.000 dân tại Anh, Đan Mạch, Hà Lan và Canada đến
1-5/100.000 dân tại Nhật Bản, Mexico và Venezuela [6].
Ở Mỹ, mỗi năm có khoảng 180.000 trường hợp mới mắc và 44.000 trường
hợp chết do UTV [6].
Tỷ lệ mắc UTV có khoảng dao động lớn giữa các nước. Bệnh có tỷ lệ mắc
cao nhất ở Hoa Kỳ và Bắc Âu, tỷ lệ mắc trung bình ở Nam Âu, Tây Âu và thấp
nhất ở Châu Á. UTV có xu hướng tăng lên ở tất cả các nước đặc biệt là các nước
đang có lối sống phương Tây hoá một cách nhanh chóng như Nhật Bản và
Singapore.
Tại Việt Nam, theo ghi nhận ung thư ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một
số tỉnh trong nhiều năm, người ta ước tính tỷ lệ mắc UTV chuẩn theo tuổi năm
2000 là 17,4/100.000 dân, đứng đầu trong các loại UT ở nữ. Tại Hà Nội tỷ lệ này
trong giai đoạn 2001-2004 là 29,7/100.000 dân và tăng lên 40,3/100.000 dân
trong giai đoạn 2005-2008 [2]. Tại Hải Phòng, trong giai đoạn 2001-2009 UTV
cũng đứng hàng đầu với tỷ lệ 21,5/100.000 dân [14].
Những con số trên chỉ ra tần suất UTV có chiều hướng tăng cũng là báo
động cho gánh nặng xã hội rất lớn. Nhưng nhờ vào hiệu quả của việc chẩn đoán
và khả năng xử lý cơ bản được cải thiện, ở các nước có nền y học hiện đại, UTV
6
được phát hiện ở giai đoạn sớm khi chưa có xâm lấn đưa đến nguy cơ, tỷ lệ tử
vong giảm khoảng 30%.
1.2.2. Yếu tố nguy cơ
Cho đến thời điểm hiện nay, căn nguyên bệnh sinh UTV chưa được rõ,
nhưng có những yếu tố nguy cơ cao sau:
1.2.2.1. Các yếu tố nội tiết
Những phụ nữ có nồng độ Estrogen nội sinh cao quá sẽ gây có kinh sớm,
mãn kinh muộn, hình thành những tế bào dễ bị mắc bệnh, dễ chuyển dạng ác tính
làm tăng nguy cơ UTV [6].
1.2.2.2. Tiền sử kinh nguyệt và sinh sản
Phụ nữ có kinh lần đầu trước tuổi 13 nguy cơ UTV cao gấp 2 lần so với
những người phụ nữ bắt đầu có kinh ở tuổi 13 hoặc lớn hơn. Phụ nữ mãn kinh
sau tuổi 55 có nguy cơ cao gấp 2 lần so với những phụ nữ mãn kinh trước tuổi
45. Phụ nữ không có con hoặc không cho con bú có nguy cơ UTV tăng gấp đôi
những phụ nữ có từ 1 đến 2 con [6].
1.2.2.3. Hormone tránh thai
Những phụ nữ sử dụng steroid tránh thai kéo dài sẽ làm tăng nguy cơ phát
triển UTV nhưng lại làm giảm nguy cơ những bệnh lành của tuyến vú.
1.2.2.4. Tiền sử gia đình
Phụ nữ có tiền sử gia đình có người bị UTV đều tăng nguy cơ mắc bệnh.
Khoảng 15-20 % phụ nữ UTV có tiền sử gia đình bị ung thư, nhưng chỉ 1/4 trong
đó ( 5% trong số tất cả các UTV) được thừa kế bởi quan hệ huyết thống [6].
Phần lớn các ung thư vú đều có đột biến gen. Có 6 gen liên quan nhiều
đến UTV là: BRCA1, BRCA2, P 53, Cowden, AR (Androgen receptor gene) và
TA (Ataxia telangiectasia gene) [6].
7
1.2.2.5. Tuổi
Nguy cơ UTV tăng lên theo tuổi. Thường gặp cao nhất ở độ tuổi 40-50.
1.2.2.6. Ảnh hưởng của phóng xạ
Bức xạ là một tác nhân ảnh hưởng đến sinh bệnh học ung thư do làm tổn
thương ADN. Những UTV liên quan đến tia thường xuất hiện muộn, thường 10
đến 15 năm.
1.2.2.7. Chế độ dinh dưỡng
Vai trò của chế độ dinh dưỡng liên quan đến nguy cơ trong UTV đã được
nghiên cứu rộng rãi trên thế giới. Chế độ ăn nhiêu mỡ, đặc biệt là mỡ động vật là
một yếu tố nguy cơ UTV. Rượu cũng được coi làm tăng nguy cơ UTV. Uống
rượu quá nhiều và kéo dài sẽ làm trở ngại việc chuyển hóa Estrogen tại gan gây
hậu quả làm tăng Estrogen trong máu.
1.2.2.8. Sử dụng một số thuốc và thuốc lá
Theo một số nghiên cứu, sử dụng thuốc chống trầm cảm (Tricyclic) kéo
dài làm tăng tỷ lệ UTV.
Những người hút thuốc nguy cơ phát triển UTV cao hơn so với những
người không hút thuốc.
1.3. CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VÚ:
Chẩn đoán xác định UTV cần phải có chẩn đoán mô bệnh học. Hiện tại ở
Việt Nam, chủ yếu dựa vào bộ 3 chẩn đoán: khám lâm sàng tuyến vú, hạch nách;
chụp tuyến vú và xét nghiệm mô bệnh học.
1.3.1. Chẩn đoán lâm sàng:
Triệu chứng lâm sàng của ung thư tuyến vú rất đa dạng, các triệu chứng
lâm sàng ở giai đoạn sớm rất nghèo nàn, dễ lẫn với các khối u lành tính và các
8
bệnh lý khác của tổ chức tuyến vú, khi có các triệu chứng điển hình thì thường
đã ở giai đoạn muộn của bệnh.
1.3.1.1. Triệu chứng tại tuyến vú:
* Khối to lên ở vú:
Là triệu chứng có ở 90% số bệnh nhân UTV. Khối có tính chất sau:
- Vị trí: thường bị ở 1 vú nhưng có khi cả 2 vú, hay gặp nhất ở 1/4 trên
ngoài.
- Thường đơn độc những cũng có khi phát hiện thấy 2 hoặc 3 u.
- Các biến đổi ở da vùng có khối u:
+ Dấu hiệu da trên khối u bị lõm xuống vì dính vào khối u.
+ Dấu hiệu da kiểu “ vỏ cam” : một mảng da bị phù nề, đổi màu đỏ xẫm
và có những điểm bị lõm sâu xuống ở chỗ chân lông.
+ Các tĩnh mạch ở bề mặt da vú nổi rõ hơn hẳn so với bên kia.
+ Những trường hợp đến muộn có thể thấy da trên khối u đã bị loét ra,
chảy máu, bội nhiễm…
- Mật độ: thường chắc hoặc cứng.
- Bề mặt: thường lồi lõm không đều.
- Ranh giới: thường không rõ ràng vì tình trạng xâm nhiễm của u vào các
tổ chức xung quanh.
- Kích thước: to nhỏ tùy từng trường hợp.
- Di động kém: do dính nhiều vào tổ chức xung quanh, nhất là da và cơ
ngực lớn.
- Thường không đau.
- Có loại carcinome tuyến vú biểu hiện giống như một viêm tuyến vú: da
trên tuyến vú phù nề, đỏ, nhiễm cứng, đau…
9
Đình Roanh, Đặng Tiến Hoạt, Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Vinh Quang, hầu hết
cho kết quả chẩn đoán có độ nhạy từ 88-95%, âm tính giả từ 10-12%, dương tính
giả từ 1-2%. Miền Nam được thực hiện tại BV Ung Bướu TP Hồ Chí Minh vào
năm 1993, Cần Thơ năm 1999 [20].
* Kỹ thuật tế bào học:
- Dụng cụ: Kim nhỏ cỡ 21-23 ( tốt nhất là cỡ 21), bơm tiêm10ml hoặc 20
ml, lam kính.
- Kỹ thuật: Người chọc cố định khối u bằng 2 ngón tay. Đưa kim qua da
và tổ chức dưới da vào khối u theo đường gần nhất. Dùng pit tông và áp lực ở
tay tạo áp lực âm để lấy bệnh phẩm vào lòng kim, sau đó bơm bệnh phẩm lên
lam kính. Nhuộm phiến đồ bằng Giemsa.
- Tiêu chuẩn của một phiến đồ đạt yêu cầu phải có ít nhất 10 tế bào. Nếu
không đạt yêu cầu thì tốt nhất là tiến hành làm lại ngay để tránh sai sót đáng tiếc.
- Mổ cắt khối u sinh thiết tức thì (STTT): mổ lấy khối u để đưa đi xét
nghiệm sinh thiết tức thì trong mổ và đợi kết quả mô bệnh học sau khoảng 30
phút. STTT là phương pháp chẩn đoán trong mổ được sử dụng từ rất lâu (từ năm
1891) cho các trường hợp khó của các phương pháp chẩn đoán trước mổ. Từ đó
đến nay, STTT u vú vẫn là phương pháp chẩn đoán trong mổ phổ biến và có giá
trị. Trong nghiên cứu của Lê Quang Hải- Khoa Giải phẫu bệnh BV K - Hà Nội,
độ chính xác của STTT là 97,4%, trong khi các nghiên cứu khác trên thế giới tỷ
lệ này từ 95,84% đến 99,8% [11],[12].
* Với các u không sờ thấy rõ ràng:
- Sinh thiết có định vị bằng kim (Needle localized biopsy): dưới hướng
dẫn của chụp vú, chọc kim kèm dụng cụ có dây móc đặc biệt vào tuyến vú nơi
tiếp giáp với chỗ bệnh lý để định vị chỗ cần sinh thiết. Sau đó tiến hành mổ sinh
thiết khối bệnh lý đúng chỗ đã được định vị.
- Sinh thiết lõi bằng kim có định vị ba chiều (Stereotactic core needle
biopsy): sử dụng bộ định vị ba chiều bằng máy tính điện tử để định vị tổn
thương, tiếp đó dùng dụng cụ bắn tự động xuyên một lúc nhiều kim sinh thiết lõi
vào vùng tổn thương để lấy bệnh phẩm.
1.3.2.3. Chụp vú (Mammography)
Có thể phát hiện được 85% UTV, kể cả các u chưa sờ thấy trên lâm sàng
[24], [28].
* Kỹ thuật:
Chụp XQ tuyến vú có thể được tiến hành theo phương pháp kinh điển hay
số hóa. Mỗi BN được chụp cả hai bên vú để so sánh và mỗi bên được thực hiện 2
phim ở hai tư thế khác nhau:
+ Tư thế thẳng: khảo sát toàn bộ tuyến vú theo mặt phẳng từ trên xuống.
13
* Kỹ thuật siêu âm tuyến vú: BN ở tư thế nằm ngửa, hai tay giơ cao lên
trên, bàn tay để ngửa dưới gáy, bộc lộ 2 tuyến vú. Tiến hành siêu âm từng bên vú
có so sánh với bên đối diện để chẩn đoán. Đầu dò được quét ở tất cả các phần
của tuyến vú. Khi thấy hình ảnh bất thường, cần thay đổi cường độ sóng âm để
phân biệt rõ là khối u nang hay u đặc, đo kích thước không gian 3 chiều.
* Đánh giá kết quả: các dấu hiệu tổn thương hay gặp là
- Tổn thương hình khối choán chỗ bất thường trong tổ chức mô tuyến vú.
- Hình dạng của khối tổn thương: hình đa diện không có hình thù rõ ràng,
khó định dạng trên siêu âm.
- Đường bờ của khối: thường nham nhở, không đều hay có dạng hình sao.
- Ranh giới của tổn thương không rõ ràng: khó phân định ranh giới với tổ
chức lành lân cận.
- Đậm độ của tổn thương: thường là giảm đậm độ.
- Mật độ của tổn thương: mật độ âm vang của vùng tổn thương rất không
đồng đều, thường là tổn thương hỗn hợp âm với hình ảnh giảm âm của tổ chức u,
hình trống âm do hoại tử, hoặc hình tăng âm của tổn thương vôi hóa đi kèm.
- Tổn thương vôi hóa: thường đi kèm theo khối tổn thương giảm đậm tạo
nên hình ảnh tương phản trong khối.
- Hình ảnh xâm nhiễm da và tổ chức dưới da.
- Hình ảnh có hạch nách bất thường với kích thước trên 1 cm, phá vỡ vỏ
hạch hoặc vỏ hạch dày, mất cấu trúc, không thấy rõ rốn hạch, nhiều khối hạch to
và dính vào nhau.
- Đánh giá chỉ số D/W: là thương số giữa kích thước chiều sâu của tổn
thương ( D) và kích thước chiều rộng của tổn thương (W). Các tổn thương có chỉ
số D/W >1 thường thấy trong UTV thể xâm lấn.
15
+ T4b: U xâm lấn da bao gồm sần da cam hoặc loét da vú, hoặc nhiều khối
u dạng vệ tinh ở da.
+ T4c: Bao gồm T4a và T4b nhưng giới hạn ở một bên vú.
+ T4d: UTV thể viêm.
* Hạch vùng ( N):
- Nx: Không xác định được hạch vùng.
- N0: Không có di căn hạch vùng.
- N1: Di căn hạch nách cùng bên di động.
- N2: Di căn hạch nách cùng bên dính nhau hoặc dính vào tổ cức xung
quanh, hoặc chỉ di căn hạch vú trong cùng bên rõ trên lâm sàng nhưng không có
di căn hạch nách.
- N3: Di căn hạch hạ đòn cùng bên hoặc di căn hạch vú trong cùng bên rõ
trên lâm sàng có kèm di căn hạch nách hoặc đã có di căn hạch thượng đòn cùng
bên.
* Di căn xa ( M):
- Mx: Không xác định được di căn xa.
- Mo: Không có di căn xa.
- M1: Di căn xa
1.3.3.2. Phân loại giai đoạn:
Dựa vào việc xác định TNM, Hiệp hội chống ung thư quốc tế (UICC) chia
giai đoạn UTV như sau:
Giai đoạn 0: Tis N0 M0
Giai đoạn I: T1 N0 M0
Giai đoạn IIA: T0 N1 M0, T1 N1 M0, T2 N0 M0
Giai đoạn IIB: T2 N1 M0, T3 N0 M0.
17
1.4.2. Độ mô học:
Theo cách phân loại của Bloom và Richardson, tính điểm để phân độ mô
học dựa vào mức độ hình thành tuyến, kích cỡ, hình dạng tế bào, đặc tính bắt
mầu của nhân, tăng chất nhiễm sắc của nhân và hoạt động nhân chia, từ đó chia
ra 3 mức độ ác tính [25]:
- Độ 1: biệt hóa rõ: 3-5 điểm
- Độ 2: biệt hóa vừa: 6-7 điểm
- Độ 3: biệt hóa kém : 8-9 điểm.
1.4.3. Hóa mô miễn dịch
Hóa mô miễn dịch có vai trò quan trọng trong tiên lượng UTV, góp phần
xây dựng chiến lược điều trị UTV [5],[26].
19
Thụ thể hormone ER và PR: là những dấu ấn quan trọng trong UTV, có
vai trò quyết định trong điều trị nội tiết cho bệnh nhân UTV. 70% bệnh nhân có
ER dương tính đáp ứng với điều trị nội tiết. 85% bệnh nhân có ER âm tính
không đáp ứng với điều trị nội tiết.
Protein Her-2/neu: yếu tố phát triển biểu mô, thường gặp ở các khối u có
độ ác tính cao, tuy nhiên nó không phải là yếu tố tiên lượng độc lập.
1.5. CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG
1.5.1. Tuổi
Tuổi càng trẻ tiên lượng càng xấu ( thường là dưới 35 tuổi). Nguyên nhân
là do UTV ở những người trẻ tuổi thường có độ mô học cao, tỷ lệ thụ thể
hormone âm tính cao và mạch bạch huyết cũng thường bị xâm lấn nhiều hơn so
với những người lớn tuổi [6],[37].
1.5.2. Vị trí U
UTV gặp ở 1/4 dưới trong và ngoài có tiên lượng xấu hơn các vị trí khác.
1.5.3. Kích thước U
Kích thước u càng lớn nguy cơ di căn càng cao và tỷ lệ sống thêm 5 năm
càng giảm. Kích thước 1cm tỷ lệ di căn hạch là 29%, khi khối u trên 5cm, tỷ lệ di
căn hạch là 54% [5],[26],[37].
1.5.4. Tình trạng di căn hạch nách
Tình trạng di căn hạch nách là yếu tố quan trọng, liên quan đến khả năng
sống thêm của bệnh nhân UTV đặc biệt là số lượng hạch nách di căn. Tỷ lệ sống
thêm 5 năm ở nhóm không di căn hạch, có 1 hạch di căn, 2 hạch di căn, 3 hạch di
căn, 4 đến 6 hạch di căn, 7 đến 12 hạch di căn và trên 12 hạch di căn lần lượt là
82,8%, 80,1%, 70%, 64,6%, 54,1%, 50% và 28,4% [7],[37].
1.5.5. Di căn xa: Khi đã có di căn xa, tỷ lệ sống thêm sau 5 năm dưới 5%.
20
hạch nách thành một khối. Kỹ thuật này được áp dụng khá rộng rãi ở Mỹ vào
cuối thế kỷ 19 và nó tỏ ra khá hiệu quả trong kiểm soát bệnh tại chỗ [40],[42].
Năm 1948, Patey (1889- 1977) và Dyson đưa ra phương pháp phẫu thuật
mới “ phương pháp Halsted cải tiến”, bảo tồn cơ ngực lớn. So sánh phương pháp
Halsted và Patey thì thấy rằng hai phương pháp cho kết quả ngang nhau về tỷ lệ
tái phát, trong khi đó phương pháp Patey có nhiều ưu điểm hơn về mặt thẩm mỹ,
chức năng cũng như các biến chứng của phẫu thuật. Phương pháp này đến nay
vẫn được sử dụng rộng rãi trong điều trị UTV [29],[42],[50].
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mc Wirter đã đưa ra phối hợp điều trị tia xạ
và phẫu thuật cho người bệnh UTV, và ông cũng chính là người đặt cơ sở nền
móng cho điều trị bảo tồn UTV về sau này [36],[42],[45],[54].
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của điều trị toàn thân trong UTV, xu
hướng điều trị phẫu thuật bảo tồn ngày càng được áp dụng rộng rãi. Đặc biệt
UTV là loại có đáp ứng với sử dụng hóa chất bổ trợ làm thu nhỏ kích thước khối
u để tiến hành phẫu thuật bảo tồn vú. Hóa chất bổ trợ còn tạo điều kiện thuận lợi
cho phẫu thuật được 97,8% [3].
1.7.2.1. Phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn cải tiến ( Modified radical
mastectomy) – Phẫu thuật Patey
Là phẫu thuật bao gồm: cắt bỏ phần da gồm cả núm vú, quầng vú, toàn bộ
mô tuyến vú, cân cơ ngực lớn thành một khối cộng với vét hạch nách cùng bên
mức I, II, III ( không cắt cơ ngực lớn, cơ ngực bé).
Việc đánh giá vị trí của khối u rất quan trọng. Vị trí của khối u quyết định
đường rạch da, thông thường đường rạch hình elip cắt bỏ quầng núm vú và da
trên diện khối u được sử dụng phổ biến.
24
Tuy vậy, đối với đa số các trường hợp UTV sớm, nạo vét hạch nách có
nguy cơ phù bạch mạch, đặc biệt đối với những người trẻ. Nguy cơ phù bạch
mạch làm tăng thuận với mức độ vét hạch và có tia xạ kèm theo. Những tai biến
khác thường gặp khi nạo vét hạch nách bao gồm: tê bì, giảm hoặc mất vận động
cũng như biến dạng vùng nách.
Để tránh những biến chứng của nạo vét hạch nách, một số thăm dò không
xâm lấn để đánh giá tình trạng di căn hạch nách đã được nghiên cứu: siêu âm,
chụp cắt lớp, chụp xạ hình, chụp PET nhưng vẫn chưa đủ độ nhạy để chẩn đoán
tình trạng di căn hạch nách trước mổ.
1.7.4. Sinh thiết hạch cửa
Hạch cửa trong UTV là một hay một số hạch đầu tiên tiếp nhận bạch
huyết hoặc di căn từ UTV tới, đó là hạch có nguy cơ di căn cao nhất khi có di
căn vùng. Nói cách khác khi hạch cửa âm tính thì hầu như các hạch khác chưa có
di căn, tỷ lệ di căn nhảy cóc trong UTV chỉ là 1%.
Hạch cửa
Khối u
nguyên phát
Sinh thiết hạch cửa nhằm làm cải thiện chất lượng cuộc sống của những
bệnh nhân UTV. Mục đích của sinh thiết hạch cửa là xác định giai đoạn bệnh mà
tránh được những biến chứng của phương pháp mổ vét hạch nách truyền thống.
Sinh thiết hạch cửa được chỉ định cho các trường hợp UTV chưa có di căn hạch
nách trên lâm sàng [17].
Hiện nay có nhiều thử nghiệm so sánh hiệu quả của lấy hạch cửa và vét
hạch nách chuẩn. Theo các tác giả, tỷ lệ phát hiện hạch thay đổi từ 93-98%, phần
lớn các trường hợp ung thư giai đoạn sớm có tỷ lệ hạch cửa di căn khá thấp: T1a
tỷ lệ di căn khoảng 8%, T1b tỷ lệ khoảng 14% [17],[46],[51].
Tại Việt Nam, sinh thiết hạch cửa cũng được nghiên cứu tại một số trung
tâm, kết quả ban đầu tại bệnh viện K cho thấy, qua 40 trường hợp được nghiên
cứu, tỷ lệ phát hiện hạch cửa là 100%, tỷ lệ âm tính giả là 2,5% [17].
1.8. PHẪU THUẬT TÁI TẠO VÚ
1.8.1. Thời điểm tái tạo vú
* Tái tạo vú trì hoãn: thực hiện sau khi cắt tuyến vú, hoàn thành điều trị bổ trợ
sau mổ: hóa chất và tia xạ. Thường chỉ định cho các trường hợp UTV còn có thể
phẫu thuật được, ngay cả UTV giai đoạn muộn được điều trị ổn định, UTV tái
phát.
* Tái tạo vú tức thì: thực hiện cùng với cắt tuyến vú trong cùng một lần mổ. Chỉ
định cho UTV giai đoạn sớm.
1.8.2. Các phương pháp tái tạo vú
* Tái tạo vú bằng các chất liệu tổng hợp: túi độn silicone
* Sử dụng túi độn không giãn mô
* Sử dụng túi độn có điều chỉnh thể tích
* Tái tạo vú bằng các vạt tự thân:
27
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cỡ mẫu : tất cả bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn tại Trung tâm Ung bướu Bệnh
viện Việt Tiệp từ 1/2007- 12/2011 vào cỡ mẫu nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu: Tra cứu tên, tuổi, số lưu trữ bệnh nhân tại
Khoa Gây mê- Hồi tỉnh, Trung tâm Ung bướu, Khoa Hồi sức tích cực ngoại,
Khoa Cấp cứu. Từ đó tìm kiếm và lựa chọn hồ sơ bệnh án lưu trữ tại phòng Kế
hoạch tổng hợp.
Ghi nhận dữ liệu bệnh nhân về : lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán, phẫu
thuật.
2.2.1.Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
- Triệu chứng toàn thân : gầy sút cân, sốt kéo dài, thiếu máu.
- Triệu chứng cơ năng : tự sờ thấy u, đau vùng vú, chảy dịch núm vú.
- Triệu chứng thực thể.
+ Vị trí khối u.
+ Kích thước khối u.
+ Đặc điểm khối u : mật độ, bề mặt, tính chất di động, ranh giới.
+ Biến đổi ở núm vú.
+ Đánh giá tình trạng hách nách, hạch thượng đòn, hạch vú trong. Trong
đó quan trọng nhất là đánh giá tình trạng hạch nách.
Kỹ thuật khám hạch nách :
+ Bệnh nhân có thể nằm hoặc ngồi. Tốt nhất là bệnh nhân được khám ở tư
thế nằm, tay bệnh nhân được gấp và kê lên, điều này giúp cho cơ ngực được thả
lỏng và người khám có thể dễ dàng đi vào nách.
+ Hạch bên phải được khám bằng tay trái của người khám.
+ Khi sờ thấy hạch nách ghi nhận các đặc điểm : kích thước, số lượng,
hạch cứng hay mềm, đau hay không đau, hạch đơn độc hay có nhiều cái, dính
30
nhau hay không, hạch có dính vào tổ chức ở hố nách. Từ đó có thể đánh giá các
hạch đó có nghi ngờ bị tổn thương về mặt lâm sàng hay không.
2.2.2. Nghiên cứu đặc điểm cận lâm sàng
- Kết quả chẩn đoán tế bào học bằng chọc hút kim nhỏ.
- Kết quả sinh thiết tức thì : đối với các trường hợp tế bào học kết quả là
lành tính, trong mổ đại thể nghi nghờ là ác tính. So sánh kết quả STTT với kết
quả mô bệnh học.
- Chụp vú, siêu âm vú : các hình ảnh nghi ngờ lành hoặc ác tính, so sánh
với kết quả tế bào, mô bệnh học.
- Các thông số về huyết học:
+ Số lượng hồng cầu ( bình thường là 3,87-4,91 T/l).
+ Số lượng bạch cầu ( bình thường là 4-10 G/l).
- Các đặc điểm mô bệnh học sau phẫu thuật :
+ Loại mô học.
+ Số lượng hạch nách di căn.
+ Hóa mô miễn dịch: xác định độ mô học và tình trạng thụ thể ER, PR và
Her-2/ neu nếu có.
2.2.3. Nghiên cứu chẩn đoán :
- Chẩn đoán trước mổ : UTV nguyên phát.
- Chẩn đoán sau mổ : chẩn đoán mô bệnh học, xếp giai đoạn TMN.
2.2.4. Nghiên cứu phương pháp phẫu thuật:
Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ thống nhất.
Phương pháp phẫu thuật: Cắt toàn bộ tuyến vú triệt căn cải tiến ( phẫu
thuật Patey).
31
2.2.4.1. Kỹ thuật mổ
a, Chuẩn bị bệnh nhân:
- Phương pháp vô cảm: gây mê nội khí quản.
- Bệnh nhân nằm ngửa, cánh tay dang rộng 90˚, đặt một đệm nhỏ dọc theo
dưới lưng bệnh nhân để nâng vùng nách khỏi bàn mổ.
- Sát trùng, trải toan vô khuẩn bộc lộ vùng vú bị tổn thương và diện nách
cùng bên.
b, Các bước tiến hành:
- Thì 1: Rạch da
Rạch da hình múi cam (elip), đường rạch da luôn phải đảm bảo nguyên tắc
lấy được hết quầng núm vú và da trên diện khối u. Đảm bảo cùng 1 đường rạch
vừa cắt được tuyến vú, vừa lấy được hạch nách. Tùy theo vị trí u mà đường rạch
có thể hình chỉ T (u ở 1/4 dưới trong), chữ U (u ở 1/4 dưới ngoài).
Bóc tách tuyến vú cùng bệnh phẩm u ra khỏi thành ngực tới phần đuôi
nách của tuyến vú, bộc lộ cơ ngực nhỏ, phẫu tích và cắt bỏ cân nách để vào thì
vét hạch nách.
- Thì 3: Vét hạch nách
Phẫu tích bộc lộ phần đầu cơ ngực lớn và sử dụng như là mốc đầu tiên xác
định vị trí của Tĩnh mạch nách, vạt da phía dưới được lật xuống ít nhất đến
khoang liên sườn 5 để chắc chắn rằng lấy được tất cả các hạch nách.
Tiến hành vét hạch nhóm I ( hạch ở bờ ngoài cơ ngực nhỏ) và nhóm II (
hạch ở sau cơ ngực nhỏ). Có thể vén cơ ngực nhỏ để kiểm tra và vét hạch nhóm
III ở bờ trong của cơ ngực nhỏ. Trong quá trình vét hạch lưu ý bảo tồn tối đa
thần kinh đi qua vùng hố nách, đặc biệt là thần kinh ngực dài cần được bảo vệ kĩ,
kể cả các nhánh thần kinh liên sườn cánh tay, nó giúp ích tốt cho phục hồi chức
năng của bệnh nhân sau điều trị.
Số lượng hạch nách nạo vét trung bình là 11 hạch đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
chính xác tình trạng di căn hạch nách.
Trong quá trình vét hạch nách, kiểm tra bắt buộc 2 nhóm hạch là nhóm
hạch Rotter ( hạch nằm giữa cơ ngực lớn và cơ ngực nhỏ) và nhóm hạch đầu ống
cánh tay.
Cơ ngực nhỏ
Cơ ngực lớn
Hạch Rotter
1/4 trên ngoài: là vùng lớn nhất, bao gồm cả thùy đuôi nách, kéo dài đến
sát cơ ngực lớn ở hố nách.
1/4 trên trong: vùng bờ ngoài xương ức, phía trên núm vú.
1/4 dưới ngoài: phía ngoài dưới núm vú.
1/4 dưới trong: vùng bờ ngoài xương ức, dưới núm vú.
Vùng trung tâm: vùng phía sau quanh quầng vú và núm vú.
+ Kích thước khối u: theo phân loại TMN
T1: u có kích thước < 2 cm.
T2: u có kích thước từ 2-5 cm.
T3: u có kích thước > 5 cm.
+ Mật độ tổn thương: có cứng chắc hay mềm.
+ Bề mặt: nhẵn, đều hay ghồ ghề.
+ Ranh giới tổn thương: rõ hay không.
+ Tính chất di động: còn di động được hay không.
+ Các biến đổi da vùng có khối u: có hay không. Các biến đổi hay gặp: da
trên u bị lõm xuống, dẩu hiệu da kiểu vỏ cam, tĩnh mạch bề mặt da nổi, loét da
chảy máu, bội nhiễm.
+ Biến đổi núm vú: có hay không. Biến đổi hay gặp là đầu núm vú co vẹo
hoặc tụt sâu vào trong.
+ Tình trạng hạch nách:
N0: không sờ thấy hạch
N1: sờ thấy hạch nách cùng bên di động
N2: sờ thấy hạch nách cùng bên dính với nhau hoặc dính vào tổ chức xung
quanh.
37
+ Phân loại mô học theo WHO gồm 15 nhóm ( như đã trình bày ở phần
1.4.1).
+ Độ mô học: theo phân loại của Bloom và Richardson.
+ Số lượng hạch nách di căn.
- Hóa mô miễn dịch: nhuộm hóa mô miễn dịch theo phương pháp miễn
dịch peroxidase [26].
Kết quả ER, PR: đánh giá theo tiêu chuẩn của Allred dựa vào tỷ lệ ( TL)
và cường độ ( CĐ). Phản ứng dương tính khi tổng điểm = TL+CĐ >0.
Kết quả Her 2 Neu: được chia điểm từ 0 đến 3+. Phản ứng dương tính chỉ
khi điểm là 2+ hoặc 3+, ngược lại là âm tính.
Chẩn đoán độ mô học, thụ thể nội tiết đều được gửi hội chẩn tại khoa giải
phẫu bệnh, tế bào bệnh viện K.
2.3.4. Kết quả phẫu thuật
2.3.4.1. Phẫu thuật Patey
- Thời gian phẫu thuật: được tính từ lức bắt đầu rạch da cho đến khi đóng
xong vạt da.
- Tai biến trong mổ: chảy máu, tổn thương bó mạch nách, sót hạch.
2.3.4.2. Theo dõi và điều trị sau mổ
- Thời gian rút dẫn lưu: tính từ ngày mổ cho đến khi rút hết dẫn lưu.
- Thời gian hậu phẫu: tính từ ngày mổ cho đến khi ra viện.
- Thời gian nằm viện: tình từ ngày vào viện cho đến khi ra viện.
- Biến chứng sau mổ: có hay không các biến chứng sau
+ Nhiễm trùng vết mổ: vùng mổ sưng nề tấy đỏ, chảy dịch đục từ vết mổ,
có thể kèm theo tình trạng nhiễm trùng toàn thân.
39
+ Chảy máu: thường xảy ra trong 24-48 giờ đầu, máu có thể chảy ra qua
dẫn lưu hay ứ lại dưới da tạo thành các ổ tụ huyết.
+ Tụ dịch sau mổ vùng ngực và hố nách: thường để dẫn lưu lâu hơn ( trên
2 tuần) khi dịch nhiều, những trường hợp tụ dịch nhiều sau rút dẫn lưu thì có thể
chọc hút dịch.
+ Thiếu dinh dưỡng hoặc hoại tử vạt da phủ tại vùng ngực hoặc vùng
nách: thường do vạt da quá mỏng hay mạch máu cung cáp cho vùng đó bị tổn
thương.
+ Phù tay: do trong quá trình vét hạch nách gây tổn thương các mạch bạch
huyết dẫn tới ứ đọng bạch dịch hoặc rối loạn tuần hoàn bạch dịch, ngoài ra còn là
biến chứng của tụ dịch vết mổ. Cách đánh giá phù tay: khám có các dấu hiệu
căng da, dày mô dưới da hay sưng, có hay không có dấu ấn lõm, hoặc có khác
biệt ít nhất 2 cm số đo chu vi giữa tay bên bệnh và bên đối diện[16].
2.4. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật Patey, chúng tôi dựa vào các tiêu
chí:
- Tốt: cắt được hết tuyến vú, vét được hạch, không có tai biến trong mổ,
không có biến chứng sau mổ.
- Trung bình: cắt được hết tuyến vú, vét được hạch, có tai biến trong mổ
và biến chứng sớm sau mổ nhưng nhẹ ( nhiễm trùng vết mổ, tụ dịch kéo dài),
điều trị khỏi và ra viện.
- Xấu: cắt không hết tuyến, nạo vét không hết hạch, có các biến chứng
nặng ( nhiễm trùng vết mổ kéo dài, tụ dịch kéo dài không rút được dẫn lưu, chảy
máu nhiều trong và sau mổ), tử vong sau mổ.
40
2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Các số liệu được xử lý trên phần mềm thống kê SPSS 19.0
Sử dụng thuật toán Chi square test để so sánh tỷ lệ với độ tin cậy 95%.
Kết quả được phân tích sẽ được so sánh và bàn luận với kết quả của các
tác giả khác.
2.6. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám đốc, Trưởng phòng Kế
hoạch tổng hợp, Giám đốc trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng.
Đề tài nghiên cứu theo phương pháp mô tả hồi cứu cắt ngang nên không
ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh nhân.
Thông tin cá nhân được bảo mật.
41
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
35% 33.3
30% 27.8
24.1
25%
20%
15% 11.1
10%
3.7
5%
0
0%
<31 31-40 41-50 51-60 61-70 >70
Đa số bệnh nhân đã mãn kinh chiếm tỷ lệ 66,7%. Chỉ có 33,3% bệnh nhân
vẫn còn kinh.
- Tiền sử sản khoa:
Bảng 3.2. Tiền sử sản khoa
Số BN ( n ) Tỷ lệ ( %)
Có con 50 92,6
Chưa có con 4 7,4
Tổng 54 100
Có 11 trường hợp có bệnh phối hợp: 7 trường hợp bị tăng huyết áp (13%),
2 trường hợp bị đái tháo đường (3,7%), 2 trường hợp bị bệnh khác ( 3,7%).
* Tiền sử gia đình:
Không có trường hợp nào có tiền sử gia đình bị UTV.
3.1.2. Đặc điểm lâm sàng
Nhận xét:
- Chủ yếu bệnh nhân đến viện là do tự sờ thấy khối u bất thường ở vú có
53 trường hợp (98,1%).
- Chỉ có 1 bệnh nhân thấy xuất hiện đau tại vùng vú có u ( 1,9%).
Chỉ có 3 bệnh nhân có thay đổi về toàn thân ( 5,6%), trong đó có 2 trường
hợp gầy sút cân và 1 trường hợp có dấu hiệu thiếu máu.
1.9%
Vú phải
50%
48.1% Vú trái
Cả 2 vú
Tần suất gặp khối u ở vú phải (50%) gần tương đương với vú trái (48,1%),
có một trường hợp ung thư cả 2 vú (1,9%).
Vị trí Số BN Tỷ lệ ( %)
1 /4 trên trong 9 16,7
1 /4 trên ngoài 38 70,4
1/4 dưới ngoài 3 5,5
1 /4 dưới trong 3 5,5
Trung tâm 1 1,9
Tổng 54 100
45
Nhận xét: vị trí khối u hay gặp nhất là 1/4 trên ngoài có 38 trường hợp
(70,4%), sau đó là khối u ở vị trí 1/4 trên trong có 9 trường hợp (16,7%), 1/4
dưới ngoài có 3 trường hợp ( 5,6%), 1/4 dưới trong có 3 trường hợp (5,6%), có 1
trường hợp khối u ở trung tâm (1,9%).
* Kích thước u
90% 85.2
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20% 12.9
10% 1.9
0%
T1(n=1) T2(n=46) T3(n=7)
Nhận xét:
- Khối u nguyên phát: T1: 1,9%; T2 : 85,2%; T3: 12,9%
- Kích thước trung bình khối u là: 3,4±1,2 (cm). U nhỏ nhất kích thước 1,5
cm; u lớn nhất kích thước 6 cm.
46
100% bệnh nhân có đặc điểm của khối u có mật độ cứng chắc, bề mặt ghồ
ghề và còn di động . Ranh giới tổn thương đa phần còn rõ chiếm 98,1%.
* Biến đổi da và núm vú
Bảng 3.8. Biến đổi da và núm vú
Biến đổi Số BN Tỷ lệ (%)
Không thay đổi 54 100
Biến đổi da trên u
Có thay đổi 0 0
Không thay đổi 53 98,1
Biến đổi núm vú
Có thay đổi 1 1,9
Tổng 54 100
Không có trường hợp nào có thay đổi da trên u, chỉ có 1 trường hợp có
thay đổi ở núm vú ( 1,9%).
47
* Hạch nách
Bảng 3.9. Tình trạng hạch nách trước mổ với vi thể sau mổ
Có 22/54 trường hợp (40,7%) không sờ thấy hạch nách trên lâm sàng.
Trong đó 4/22 trường hợp (18,2%) có di căn hạch và 18/22 trường hợp (81,8%)
không di căn hạch.
32/54 trường hợp ( 59,3%) sờ thấy hạch nách trên lâm sàng. Trong đó có
25/32 trường hợp ( 78,1%) có di căn hạch và 7/32 trường hợp ( 21,9%) không có
di căn hạch.
Trong 54 trường hợp có 49 trường hợp có kết quả chọc tế bào là dương
tính trước mổ chiếm 90,7%, có 5/54 trường hợp ( 9,3%) kết quả chọc tế bào là
âm tính trước mổ.
48
Nhận xét:
- Có 4 trường hợp (7,4%) được chẩn đoán là ung thư biểu mô tuyến vú
trong mổ qua sinh thiết tức thì.
- 1 trường hợp (1,9%) mổ làm sinh thiết trọn u có kết quả mô bệnh học sau
mổ 5 ngày là ung thư biểu mô tuyến.
3.1.3.3. Chẩn đoán siêu âm, chụp vú
* Kết quả siêu âm:
Có 10/54 trường hợp được siêu âm vú trước mổ chiếm 18,5%.
Tổng 27 100
Tổng 54 100
Chỉ có 1 bệnh nhân có số lượng hồng cầu giảm ( 1,9%), đa số bệnh nhân
không có sự thay đổi trong công thức máu.
50
Ung thư thể ống xâm lấn chiếm tỷ lệ cao nhất: 90,7%. Có 1 trường hợp
(1,9%) là ung thư biểu mô thể ống nhỏ và 1 trường hợp ung thư biểu mô thể nội
ống ( 1,9%). Có 3 trường hợp ( 5,5%) là các loại ung thư khác.
* Di căn hạch nách sau mổ
- Số lượng hạch nách di căn
Số lượng Số BN Tỷ lệ (%)
0 hạch 25 46,3
1-3 hạch 23 42,6
4-9 hạch 5 9,2
≥10 hạch 1 1,9
Tổng 54 100
51
Nhận xét: có 29 trường hợp di căn hạch nách chiếm 53,7 %: Hạch N1 là
21 trường hợp (31,8%), hạch N2 là 8 trường hợp (14,9%). 3 trường hợp có di căn
hạch Rotter và đầu ống cánh tay (5,5%).
- Di căn hạch nách theo kích thước u
≤ 2 cm 8 3 37,5
2 < u ≤ 4cm 35 18 51,4
P=0,003
> 4 cm 11 8 72,7
Tổng 54 29 53,7
Bảng 3.17 cho thấy có sự liên quan giữa tỷ lệ di căn hạch nách với kích
thước u. Tỷ lệ di căn hạch nách tăng dần theo kích thước u < 2 cm, 2-4 cm và >
4cm lần lượt là 37,5%, 51,4% và 72,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p = 0,003 < 0,05.
- Di căn hạch nách theo loại mô bệnh học
Bảng 3.18. Tỷ lệ di căn hạch nách theo mô bệnh học
Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy ung thư biểu mô ống xâm nhập có tỷ lệ di
căn hạch cao nhất ( 57,1%).
52
8,8% 14,7%
Độ I
Độ II
Độ III
76,5%
44.4
50%
40% 33.3
30% 22.2
20%
10% 0
0%
GĐ I GĐ IIA GĐ IIB GĐ III
Nhận xét:
- Giai đoạn IIA thường gặp nhất: 24 trường hợp chiếm 44,4%.
- Giai đoạn IIB: 18 trường hợp chiếm 33,3%.
- Giai đoạn IIIA: 12 trường hợp chiếm 22,2%.
- Không có trường hợp nào ở giai đoạn I.
* Tất cả 54 trường hợp trong nghiên cứu cuả chúng tôi đều được phẫu thuật theo
phương pháp Patey.
* Nạo vét hạch nách:
- Số lượng hạch nách nạo vét:
Nhận xét:
- Tất cả các trường hợp được nạo vét hạch mức 2. Không có trường hợp nào
chỉ nạo vét hạch mức 1, hay nạo vét hạch đến mức 3.
- Số lượng hạch nạo vét trung bình là 10 hạch, đủ tiêu chuẩn đánh giá tình
trạng hạch nách.
54
60% 55.6
50% 44.4
40%
30%
20%
10%
0
0%
<60ph 60-90ph >90ph
Nhận xét:
- Thời gian rút dẫn lưu trung bình: 11±3 ngày.
- 1 trường hợp rút dẫn lưu sớm nhất là 6 ngày, và 1 trường hợp để dẫn lưu
lâu nhất là 18 ngày.
≤10 ngày 20 37
>10 ngày 34 63
Tổng 54 100
Nhận xét:
- Thời gian hậu phẫu trung bình: 12± 3 ngày.
- Trường hợp ra viện sớm nhất là sau mổ 8 ngày, và lâu nhất là 20 ngày.
56
Nhận xét:
- Thời gian nằm viện trung bình là 17±5,7 ngày.
- Thời gian nằm viện ngắn nhất là 9 ngày và lâu nhất là 30 ngày.
Nhận xét: Tỷ lệ biến chứng chung là: 13%. Nhìn chung không có biến
chứng nặng sau phẫu thuật. Biến chứng chủ yếu là tụ dịch kéo dài vùng hố nách.
Không có trường hợp có biến chứng chảy máu, nhiễm trùng, hoại tử vạt da, phù
tay.
3.2.2.7. Đánh giá kết quả
Nhận xét:
- 47/54 trường hợp có kết quả tốt chiếm 87%.
- 7/54 trường hợp có kết quả trung bình chiếm 13%.
- Không có trường hợp nào có kết quả xấu.
58
Chương 4
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này tuổi mắc bệnh thường gặp và tuổi trung bình có cao
hơn so với các tác giả nhưng vẫn nằm trong biên độ trung bình về độ tuổi hay
mắc bệnh. Sự khác biệt này có thể là do chúng tôi chỉ lựa chọn những bệnh nhân
phẫu thuật Patey đơn thuần mà không có tạo hình lại vú, những bệnh nhân này
thường lớn tuổi hơn và không có nhu cầu tạo hình, trong khi những bệnh nhân
trong độ tuổi thường gặp lại có nhu cầu tạo hình nhưng không được chọn vào
trong nghiên cứu này.
4.1.1.2.Tiền sử
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa phần bệnh nhân ở độ tuổi mãn kinh là
36 trường hợp (66,7%), chỉ có 32,3% bênh nhân còn kinh nguyệt. Theo tác giả
Tạ Xuân Sơn chỉ ghi nhận được 31,2% bệnh nhân đã mãn kinh và có đến 68,8%
bệnh nhân còn kinh nguyệt, nghiên cứu của Lê Minh Quang cũng cho kết quả
tương tự với 66% bệnh nhân còn kinh nguyệt [19],[21]. Kết quả này có thể giải
thích là do bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi trung bình cao
hơn các nghiên cứu của các tác giả trên.
Có 4 trường hợp ( chiếm 7,4%) là không có con. Không có con là một yếu
tố nguy cơ trong ung thư vú. Những phụ nữ không có con có nguy cơ mắc UTV
tăng gấp đôi những phụ nữ có từ 1 đến 2 con [6],[37].
Trong số 54 bệnh nhân được phẫu thuật Patey có 11 trường hợp mắc bệnh
phối hợp kèm theo. Mắc bệnh phối hợp như đái tháo đường hoặc tăng huyết áp
có thể là yếu tố nguy cơ cho phẫu thuật hoặc sau phẫu thuật. Trong nghiên cứu
này, 11 trường hợp mắc bệnh phối hợp không có biến chứng trong quá trình
phẫu thuật cũng như hậu phẫu sau này.
60
Không có trường hợp nào có tiền sử gia đình mắc bệnh UTV. Tiền sử gia
đình có người bị UTV là yếu tố nguy cơ mắc bệnh, nhưng yếu tố này không làm
ảnh hưởng đến kết quả điều trị phẫu thuật [6].
là 51%, bên phải là 49%; trong nghiên cứu của tác giả Tạ Xuân Sơn lại ghi nhận
thấy tỷ lệ mắc bệnh ở vú bên phải ( 51,9%) cao hơn vú trái ( 48,1%). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, khối u vú phải chiếm tỷ lệ 50%, khối u vú bên trái
chiếm 48,1%, có một trường hợp ung thư 2 bên vú chiếm tỷ lệ 1,9%, các kết quả
này cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu trong nước với tỷ lệ mắc bệnh ở
hai bên vú không khác nhau nhiều [19],[20],[21].
Vị trí u trên vú
Vị trí khối u có vai trò định hướng nhóm hạch di căn. Hầu hết các vị trí
1/2 ngoài vú thường cho di căn nhóm hạch nách và hiếm khi cho di căn vào
nhóm hạch vú trong; đối với các trường hợp này, việc nạo vét hạch nách để chẩn
đoán di căn thường có độ tin cậy cao cũng như góp phần đánh giá tiên lượng sau
phẫu thuật. Ngược lại, các tổn thương ở vị trí 1/2 trong đặc biệt là 1/4 trên trong
thường cho di căn ở nhóm hạch vú trong hơn nên tiên lượng của những khối u
phát triển ở vùng này thường xấu hơn và đặc biệt không có chủ trương nạo vét
nhóm hạch vú trong [7].
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy vị trí u trên vú thường gặp là 1/4 trên
ngoài, kế đến là 1/4 trên trong, ít gặp nhất là 1/4 dưới trong và 1/4 dưới ngoài
xếp thứ 3. Theo thống kê của Tạ Văn Tờ, tỷ lệ u ở 1/4 trên ngoài là 45,5%, 1/4
trên trong là 20,7%, 1/4 dưới ngoài là 12,7% và thấp nhất là 5,1% của 1/4 dưới
trong. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Qui (năm 2007) cho thấy tỷ lệ u ở 1/4 trên
ngoài là 53,8%, 1/4 trên trong 17,1%, 1/4 dưới ngoài 11,1% và 1/4 dưới trong là
6%. Các nghiên cứu của Lê Minh Quang, Tạ Xuân Sơn, Đỗ Doãn Thuận cũng
cho kết quả trương tự với u ở 1/4 trên ngoài có tỷ lệ cao nhất lần lượt là 34%,
54,5% và 53,94% [19], [20], [21], [24], [26].
62
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ vị trí u 1/4 trên
ngoài là 70,4%, 1/4 trên trong là 16,7%, 1/4 dưới ngoài và 1/4 dưới trong là
5,6%. Các kết quả này cho thấy tỷ lệ phân bố khối u trên vú là phù hợp với nhau
và vị trí phổ biến nhất là 1/4 trên ngoài, có thể do ở vị trí này có mật độ tuyến vú
cao hơn các vị trí khác làm nên tần xuất xuất hiện khối u ở vùng này lớn hơn [7].
* Kích thước u
Kích thước u có ý nghĩa quan trọng để đánh giá xếp giai đoạn bệnh, liên
quan đến di căn hạch nách và di căn xa, đồng thời là một yếu tố tiên lượng độc
lập quan trọng. Đối với những bệnh nhân chưa có di căn hạch, kích thước u là
yếu tố quan trọng để tiên lượng cho bệnh nhân. Khi kích thước u càng lớn thì
tiên lượng cho bệnh nhân càng đáng lo ngại hơn, khả năng tái phát và di căn
càng nhiều. Tuy nhiên có một số trường hợp u tuy còn nhỏ nhưng đã có di căn
hạch hoặc di căn xa. Chính từ những nhận xét này mà hiện nay nhiều quan điểm
cho rằng UTV là bệnh toàn thân, chứ không chỉ là bệnh tại chỗ, tại vùng như
quan điểm trước đây. Ngược lại có những trường hợp u phát triển rất to nhưng
không có di căn hạch nách và điều này được giải thích có lẽ do loại u có tiềm
năng di căn thấp liên quan với tính chất mô bệnh học của khối u. Theo nghiên
cứu của Tạ Văn Tờ cho thấy 24,7% các trường hợp u có kích thước < 2cm;
60,8% có kích thước 2-4 cm và 14,5% có kích thước > 4cm. Nhận xét về kích
thước u của Nguyễn Văn Qui cho thấy 11,1% u có kích thước ≤2 cm và 88,9% u
có kích thước > 2cm [7], [20], [26].
Trong nghiên cứu, khối u có kích thước trung bình 3,4±1,2cm, u nhỏ nhất
1,5 cm, u lớn nhất 6 cm. Trong đó khối u T1 chiếm 1,9%, T2 chiếm 85,2%, T3
chiếm 13%; tỷ lệ u kích thước > 2 cm chiếm 98,1%. Kết quả này cũng phù hợp
với các tác giả trong nước khi nghiên cứu kích thước u chủ yếu là > 2cm. Điều
63
này chứng tỏ bệnh nhân đến khám muộn do hiểu biết về bệnh tật còn hạn chế và
tâm lý ngại đi khám bệnh.
* Đặc điểm khối u
Theo nghiên cứu của Tạ Xuân Sơn cho thấy có 94,2% khối ung thư vú có
mật độ cứng, bề mặt gồ ghề chiếm 98,4%, ranh giới rõ chiếm 81,8%.Trong
nghiên cứu của chúng tôi đặc điểm của tất cả khối u vú bị ung thư của bệnh nhân
đều có mặt độ cứng chắc, bề mặt ghồ ghề và còn di động, 98,1% khối u có ranh
giới rõ. Điều này làm cho cuộc phẫu thuật tiến hành thuận lợi hơn. Đây cũng là
những đặc điểm điển hình của tổ chức UTV giai đoạn còn chưa có xâm lấn [8],
[21].
* Biến đổi da và núm vú
Tác giả Nguyễn Sào Trung nghiên cứu về các biểu hiện lâm sàng tại chỗ
nhận xét dấu hiệu sẩn da cam chiếm 11,9%, da trên u đỏ 6,3%, da trên u loét
5,4%, tụt núm vú 7,9%, loét núm vú 6%.Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Văn Qui thì tỷ lệ sẩn da cam là 1,3%, đỏ da 4,3%, tụt núm vú 0,8%, loét da
11,1%, loét núm vú 4,3% [20]. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường
hợp nào khối u vú gây biến đổi da của tuyến vú, chỉ có 1 trường hợp tụt núm vú
( 1,9%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có khác so với các tác giả có thể giải
thích là do số lượng bệnh nhân của chúng tôi nhỏ hơn, bệnh nhân ở giai đoạn còn
sớm I, II, IIIA.
* Tình trạng hạch nách trước mổ:
Hạch nách phát hiện qua khám lâm sàng góp phần vào đánh giá xếp giai
đoạn lâm sàng và giúp thiết lập chiến lược điều trị cho bệnh nhân. Hạch nách
phát hiện qua khám lâm sàng có thể là hạch nách di căn về mô bệnh học nhưng
cũng có thể là hạch viêm phản ứng không ung thư. Dựa vào việc xác định hạch
64
ung thư về mô bệnh học giúp đánh giá xếp giai đoạn bệnh học sau phẫu thuật
[7].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 22/54 trường hợp (40,7%) không sờ
thấy hạch nách trên lâm sàng, 4/22 trường hợp có di căn hạch về mô bệnh học
chiếm tỷ lệ 18,2%. Trong khi đó có 32/54 trường hợp (59,3%) sờ thấy hạch nách
trên lâm sàng nhưng chỉ có 25/32 trường hợp có di căn hạch chiếm 78,1%. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Văn Qui thống kê có 126/234 trường hợp trên lâm sàng
không sờ thấy hạch nhưng kết quả mô bệnh học có tỷ lệ di căn hạch là 26,2%,
trong khi 108/234 trường hợp sờ thấy hạch qua khám lâm sàng nhưng kết quả
mô bệnh học có hạch di căn chiếm tỷ lệ 79,9%. Tác giả Nguyễn Đình Tùng và
CS ghi nhận 16 trường hợp hạch nách di căn trong số 40 bệnh nhân UTV không
có hạch qua thăm khám lâm sàng và 86 trường hợp hạch nách di căn trong số 88
bệnh nhân UTV có hạch nách trên lâm sàng. Nhiều thống kê nước ngoài như
Giuliano AE và CS, Deliam Garcia, Fisher cũng cho kết quả tương tự [20].
4.1.3. Đặc điểm cận lâm sàng
4.1.3.1. Chẩn đoán tế bào học
Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNAC) là phương pháp chẩn đoán trước
mổ có hiệu quả cao, thời gian chẩn đoán nhanh, giá thành rẻ và hầu như không
có biến chứng. FNAC dùng để chẩn đoán tính chất lành tính, ác tính của khối u ở
vú có độ chính xác cao trên 85-99%, dương tính giả khoảng 1-2%. Vấn đề là âm
tính giả cao 10-15% có thể do kính thước u nhỏ hoặc tế bào sợi nhiều, khả năng
của người đọc và chất lượng lam kính; ngoài ra FNAC không phân biệt được ung
thư xâm lấn hay tại chỗ[12],[43],[48].
Trong nghiên cứu của chúng tôi FNAC có độ nhạy là 90,7% (49/54 trường
hợp) và âm tính giả là 9,3%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Qui qua 234 trường
65
hợp làm xét nghiệm tế bào học trước mổ cho thấy độ nhạy của xét nghiệm là
83,8% và âm tính giả là 16,2%. Trong khi đó tác giả Lê Quang Hải khi nghiên
cứu chẩn đoán tế bào học trong UTV tại bệnh viện K năm 2004 cho kết quả với
độ nhạy là 87%. Theo Kim và CS, kỹ thuật này có độ nhạy là 98,71%, và tỷ lệ
âm tính giả là 1,29%. Những kết quả khác nhau trên có thể được giải thích do kỹ
thuật chọc lấy bệnh phẩm và trình độ của người đọc khác nhau [12], [20], [43].
Trong tình hình của nước ta hiện nay FNAC vẫn có vai trò quan trọng
trong việc xác định các tổn thương của vú đặc biệt là ở các cơ sở chưa có
phương tiện chẩn đoán hiện đại (hệ thống kim và súng sinh thiết, máy cắt lạnh
làm STTT), vì vậy FNAC vẫn được áp dụng rộng rãi trong chẩn đoán các tổn
thương của tuyến vú, là một trong bộ ba chẩn đoán ung thư vú (cùng với lâm
sàng, chụp vú ).
4.1.3.2. Sinh thiết tức thì
Chẩn đoán sinh thiết tức thì ( STTT) trong mổ là phương pháp chẩn đoán
nhanh, có độ chính xác cao và có vai trò quan trọng, đặc biệt trong những trường
hợp chẩn tế bào học gặp khó khăn.
Nghiên cứu của Lê Quang Hải ở 435 bệnh nhân có u vú được cắt lạnh làm
STTT trong năm 2004 tại bệnh viện K Hà Nội, thì độ nhạy và độ đặc hiệu của
STTT lần lượt là là 94,6% và 99,6, tỷ lệ âm tính giả là 2,29%. Theo Eskelinen và
CS, kỹ thuật này có độ nhạy là 97,3% và độ đặc hiệu là 99,5% [11],[12],[35].
Theo Lê Quang Hải, nhận xét đại thể tổn thương là bước đầu tiên của
STTT, nó rất quan trọng cho việc lựa chọn lát cắt mô phù hợp để soi kính hiển vi
đồng thời có thể đánh giá tới 70% tổn thương hoặc hơn. Nhận xét đại thể các
khối u cần phải rất chi tiết: kích cỡ, hình dáng, bờ xung quanh, mật độ, màu sắc,
hoại tử, chảy máu, vùng tổn thương nang, chất nhày…[11],[12].
66
Có 4 trường hợp được STTT trong mổ trong nghiên cứu của chúng tôi, các
trường hợp này đều có kết quả tế bào học trước mổ không thấy tế bào ung thư.
Trong quá trình mổ cắt u vú chúng tôi nhận xét qua đại thể thấy nghi ngờ là ác
tính đã tiến hành gửi bệnh phẩm làm STTT đều cho kết quả ác tính, với độ nhạy
là 100% (4/4 trường hợp).
Có hai tiêu chuẩn chẩn đoán ung thư vú có giá trị tương đương đang được
áp dụng song song tại Bệnh viện K Hà Nội (2009) [13]:
- Tiêu chuẩn 1: Bộ 3 chẩn đoán bao gồm khám lâm sàng, xét nghiệm tế
bào học khối u và chụp vú. Chẩn đoán xác định khi cả 3 yếu tố này đều có kết
luận dương tính.
- Tiêu chuẩn 2: Có kết quả sinh thiết (sinh thiết kim, sinh thiết mở, sinh
thiết tức thì) khẳng định ung thư vú bằng giải phẫu bệnh.
Tại những cơ sở có điều kiện thì việc chẩn đoán bằng sinh thiết kim trước
mổ còn cho phép đánh giá ER, PR và Her 2 neu trước mổ.
Trước đây chúng tôi cũng chẩn đoán chủ yếu dựa vào 3 phương tiện: lâm
sàng, chụp vú, tế bào học như tại nhiều trung tâm trong cả nước; các trường hợp
nghi ngờ được tiến hành mổ sinh thiết u và đợi có kết quả giải phẫu bệnh trước
khi phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú, vét hạch nách. Gần đây, nhờ có Máy cắt
lạnh, với các trường hợp trước mổ còn nghi ngờ chúng tôi tiến hành làm STTT
thì trong mổ, khi có kết quả là có tế bào ác tính sẽ tiến hành phẫu thuật cắt toàn
bộ tuyến vú và vét hạch cho bệnh nhân ngay, điều này giúp cho bệnh nhân
không phải trải qua 2 lần phẫu thuật như trước, đồng thời rút ngắn được thời gian
điều trị hậu phẫu.
67
số lượng hồng cầu giảm mức độ nhẹ và không có trường hợp nào bất thường
trong công thức bạch cầu.
4.1.3.5.Kết quả mô bệnh học sau mổ
* Phân loại mô bệnh học
Hình ảnh mô bệnh học phản ánh tình trạng tiến triển của tổn thương ung
thư về vi thể, giúp đánh giá tiên lượng của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu này, ung thư biểu mô thể ống xâm nhập gặp nhiều nhất
chiếm 90,7%, các loại khác chiếm 9,3%. Kết quả này cũng giống với y văn và
tương đương với kết quả của Nguyễn Sào Trung- ĐH Y Dược TP HCM:
carcinome ống xâm nhập là 85% và tại BV Ung Bướu: carcinome ống xâm nhập
là chủ yếu chiếm 88,48%. Tại BV K Trung ương, theo Tạ Văn Tờ (2004), ung
thư biểu mô ống xâm nhập cũng chiếm tỷ lệ cao nhất là 79%. Các nghiên cứu
của Nguyễn Văn Qui, Lê Minh Quang, Trần Hiệp cũng cho kết quả tỷ lệ ung thư
biểu mô ống thể xâm nhập gặp nhiều nhất với các tỷ lệ tương ứng là 86,3%, 68%
và 93,76% [13], [18], [20], [26].
Trong nhóm nghiên cứu có 1 trường hợp ung thư thể ống nhỏ, bệnh nhân
này được chẩn đoán giai đoạn IIIA với kích thước u là 2 cm nhưng đã có di căn
hạch mức N2. Đây là loại ung thư có độ ác tính cao do tính chất di căn hạch và
di căn xa nhanh chóng của loại ung thư thể ống nhỏ [25],[26].
* Di căn hạch nách sau mổ
Hạch nách di căn và số hạch di căn đóng vai trò quan trọng trong tiên
lượng bệnh. Tỷ lệ di căn hạch nách trong nghiên cứu của chúng tôi là 53,7%,
phù hợp với nghiên cứu của Tạ Văn Tờ là 52,8%[26], Nguyễn Văn Qui là
50,9%[20]. Tỷ lệ di căn hạch Rotter và đầu ống cánh tay là 5,5%. Qua thống kê
69
ghi nhận của các tác giả trong toàn quốc cho thẩy tỷ lệ di căn hạch nách trong
ung thư vú khoảng 40-60%.
Tình trạng di căn hạch nách được coi là yếu tố tiên lượng quan trong nhất
liên quan đến vấn đề tái phát và tiên lượng sống thêm 5 năm. Nạo vét hạch
lympho vùng nách tối cần thiết cho việc đánh giá tiên lượng tuy có vai trò điều
trị rất nhỏ, nhất là đối với các tình huống hạch âm tính lâm sàng. Hạch nách
dương tính mô học là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất, số lượng các hạch nách
dương tính định hướng cho việc lựa chọn các liệu pháp bổ trợ toàn thân [7].
Tình trạng di căn hạch nách có liên quan với kích thước u. Nghiên cứu của
chúng tôi thấy tỷ lệ di căn hạch nách tăng dần theo kích thước u < 2 cm, 2-4 cm
và > 4cm lần lượt là 37,5%, 51,4% và 72,7%. Theo nghiên cứu của một số tác
giả trong nước cũng cho các kết quả tương tự: Tạ Văn Tờ ( 2004) thống kê tỷ lệ
di căn hạch nách trong UTV là 33,8%, 56,9% và 75% tương ứng với các kích
thước u < 2 cm, 2-4 cm và > 4 cm; theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Qui:
u ≤ 2 cm di căn hạch nách là 11,5%, u 2-4 cm di căn hạch nách là 40,5%, u > 4
cm tỷ lệ di căn hạch nách là 79,3% [20],[26]. Theo nghiên cứu của Haagenson
(1993) cho thấy 29% di căn hạch nách ở những u đường kính < 1 cm so với 54%
ở u có đường kính > 5 cm. Silverstain và CS ( 1994) chỉ thấy có 3% di căn hạch
có đường kính < 0,5cm, trong khi đó u > 5cm tỷ lệ di căn hạch nách lên tới 60%.
Kích thước khối u càng tăng thì tỷ lệ di căn hạch nách càng cao là do tăng quá
trình hoại tử, tăng hệ thống huyết quản, bạch mạch làm tăng khả năng di căn [7].
Về di căn hạch nách theo loại mô học: nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
ung thư biểu mô ống xâm nhập có tỷ lệ di căn hạch cao nhất chiếm 57,1%. Kết
quả này cũng tương đương với nghiên cứu của Tạ Văn Tờ với tỷ lệ di căn hạch
nách của ung thư biểu mô ống xâm nhập có tỷ lệ di căn cao nhất là 58,8% [26].
70
Các kết quả trên đều cho thấy ung thư biểu mô thể ống xâm nhập có tỷ lệ di căn
hạch nách cao nhất, thể hiện tính chất ác tính cao.
* Độ mô học, hóa mô miễn dịch
Thụ thể ER, PR dương tính chiếm 61,8 %, Heu-2/neu dương tính trong
32,3 % các trường hợp. Kết quả này tương đương kết quả của Tạ Văn Tờ với tỷ
lệ ER, PR dương tính là 63,3% và tỷ lệ Her-2/neu dương tính là 35,1%. ER, PR,
Heu-2/neu là những yếu tố có giá trị hướng dẫn điều trị bổ trợ sau phẫu thuật.
[26].
Độ mô học là yếu tố tiên lượng quan trọng ảnh hưởng sống còn. Trong
nghiên cứu cho thấy: độ II chiếm tỷ lệ cao nhất 76,5%. Kết quả phù hợp với các
nghiên cứu của Tạ Văn Tờ, Nguyễn Văn Qui độ II chiếm tỷ lệ cao nhất là 71%
và 88,1% [20], [26].
Tuy vậy, việc đánh giá độ mô học phụ thuộc vào chủ quan của mỗi người.
Theo Nguyễn Sào Trung: ngay cả một người khi quan sát tiêu bản 2 lần khác
nhau cũng có thể cho những đánh giá khác nhau ( trích dẫn từ [13]).
4.1.4.Chẩn đoán giai đoạn
Giai đoạn bệnh là yếu tố quan trọng định hướng chiến lược điều trị và
đánh giá tiên lượng của bệnh nhân. Việc đánh giá giai đoạn lâm sàng dựa vào
các yếu tố TMN và phân giai đoạn theo tiêu chuẩn của UICC 2002.
Các thống kê phản ánh tình hình chung của ung thư vú tại Việt Nam có tỷ
lệ giai đoạn I thấp dưới 15%, trên 80% là giai đoạn II và III [20].
Trong nhóm nghiên cứu này, kết quả cũng tương tự : giai đoạn II chiếm
77,8 %, giai đoạn IIIA chiếm 22,2%, không có trường hợp nào ở giai đoạn I.
71
và di căn, thời điểm bắt đầu truyền hóa chất tốt nhất là trong vòng 4 tuần đầu sau
mổ [10],[22].
Trong nghiên cứu này, biến chứng chung của phẫu thuật có 7 trường hợp,
chiếm tỷ lệ 13%. Không có tai biến, biến chứng nặng nề trong và sau mổ. Tỷ lệ
biến chứng của chúng tôi cũng tương đương với tỷ lệ biến chứng của Trần Hiệp
là 12,5% [13], thấp hơn so với 22,8% của Tạ Xuân Sơn [21] và 24,8% của
Nguyễn Văn Qui [20].
Các trường hợp có biến chứng đều là tụ dịch vùng vú và nách kéo dài
(13%). Biến chứng tụ dịch vùng mổ thay đổi khác nhau tùy từng tác giả. Nghiên
cứu của Tạ Xuân Sơn tỷ lệ tụ dịch vùng mổ vú và nách trong phẫu thuật cắt
tuyến vú triệt căn cải tiến là 4,95% thấp hơn so với kết quả của chúng tôi, ngược
lại trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Qui biến chứng này lại hay gặp nhất với tỷ
lệ là 19,2% cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi [20], [21]. Nguyên nhân của
biến chứng này là do nạo vét hạch nhóm I và II vùng nách, các đường bạch mạch
bị gián đoạn và đổ bạch dịch vào vùng đã vét hạch. Khả năng tái hấp thu của các
bạch mạch còn lại không đủ nên bạch dịch tụ lại có khi thành một bọc rất to gây
cho bệnh nhân khó chịu, thậm chí tạo cho bệnh nhân một sự lo âu quá mức. Đối
với các trường hợp này chúng tôi thường để dẫn lưu hút áp lực âm kéo dài hơn.
Các trường hợp tụ dịch sau khi rút dẫn lưu (thường sau rút dẫn lưu 48 giờ) việc
xử lý tùy thuộc vào độ căng của vùng da trước bọc tụ dịch: nếu bọc tụ dịch
không căng, bệnh nhân có thể chịu đựng được thì chỉ cần theo dõi và có nhiều
khả năng tái hấp thu về sau; khi bọng tụ dịch căng và gây đau thì cần được chọc
dò để làm cho bệnh nhân dễ chịu, tuy nhiên không nên quá lạm dụng thủ thuật
75
này mà phải chỉ định ở thời điểm bắt buộc và tối cần thiết. Bệnh nhân cần được
tập lý liệu pháp thúc đẩy và phục hồi nhanh chóng việc tái lưu thông bạch dịch.
Hoại tử mép da và vạt da là biến chứng thường gặp trước đây khi phẫu
thuật viên lấy nhiều da và đường mổ dài. Ngày nay nhờ cải thiện về đường mổ,
biến chứng này hiếm gặp hơn. Nếu có biến chứng này thường do 2 nguyên nhân
chính: Một là trong quá trình phẫu thuật, phẫu thuật viên tách bằng dao điện
phần mô mỡ do cắt đốt quá gần mặt da làm tổn thương nhiều mạch máu dưới da
dẫn đến hoại tử sau đó; hai là do lấy da nhiều khi khâu lại, vạt da quá căng đưa
đến hoại tử mép da. Trong nghiên cứu này không có trường hợp nào bị hoại tử
vạt da, trong khi tác giả Trần Hiệp tỷ lệ biến chứng này là 4,6% và của Nguyễn
Văn Qui là 3% [13], [20]. Kết quả này có thể là do chúng tôi chú ý không mắc
phải 2 nguyên nhân gây hoại tử vạt da thường gặp như trên.
Chảy máu sau mổ, nhiễm trùng vết mổ cũng là những biến chứng ít gặp do
sự tiến bộ trong kỹ thuật mổ cũng như sự phát triển của kháng sinh liệu pháp.
Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào bị các biến chứng
này. Nghiên cứu của Tạ Xuân Sơn tỷ lệ chảy máu vết mổ là 3%, nhiễm trùng vết
mổ là 6,93% [21]; nghiên cứu Trần Hiệp cũng không ghi nhận trường hợp nào
chảy máu sau mổ và chỉ có 2,08% có nhiễm trùng vết mổ [13].
Phù tay sau mổ là biến chứng do nạo vét hạch nách gây ứ đọng bạch dịch
hoặc rối loạn tuần hoàn bạch dịch, thường xảy ra tuần lễ thứ 2 sau mổ và kéo dài
thời gian có thể vài tháng. Đây là một biến chứng ít gặp trong thời gian đầu sau
mổ nhưng lại tăng dần theo thời gian khi có tia xạ kèm theo [33],[34],[41].
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Qui tỷ lệ này chỉ là 0,9%, trong khi đó Tạ Xuân
Sơn ghi nhận có 7,92% bệnh nhân phù tay sau phẫu thuật [20], [21]. Ở BV K tỷ
lệ này là 1,5%. Theo Nguyễn Thị Minh Linh khi nghiên cứu 492 trường hợp ung
76
thư vú đã điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu TP Hồ Chí Minh từ 01/01/2004 –
31/12/2008 thì tỷ lệ phù tay tăng dần theo thời gian từ 0,4% (1 năm), 4,6% (2
năm), 10,8% (3 năm), 14,5% (4 năm), 29,6 % (5 năm)[16]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi không gặp trường hợp nào có biến chứng phù tay sau mổ. Theo
chúng tôi có thể do trong quá trình vét hạch nách đặc biệt quan tâm kiểm tra nạo
vét nhóm hạch Rotter và hạch đầu ống cánh tay, đây là những nhóm hạch các
phẫu thuật viên ít quan tâm và hay bỏ sót dẫn đến khi hạch bị di căn phát triển to
lên gây cản trở tuần hoàn bạch huyết hoặc chèn ép tĩnh mạch, gây nên hiện
tượng phù tay và dẫn tới hậu quả nặng nề. Kết quả này được chúng tôi ghi nhận
và coi việc kiểm tra vét nhóm hạch này như là yêu cầu bắt buộc trong những
cuộc phẫu thuật về sau này. Điều này cũng đã được tác giả Nguyễn Đình Tùng
( Bệnh viện Trung ương Huế ) nghiên cứu và đưa ra kết luận tương tự.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các bệnh nhân đều có kết quả sớm
của phẫu thuật đạt tốt và trung bình, trong đó có 47/54 trường hợp ( 87%) cho
kết quả tốt và 7/54 trường hợp (13%) cho kết quả trung bình, không có trường
hợp nào cho kết quả xấu. Các nghiên cứu của tác giả Trần Hiệp, Tạ Xuân Sơn,
cũng ghi nhận không có kết quả xấu, phẫu thuật Patey cải tiến là phẫu thuật có
biến chứng thấp chấp nhận được [13],[21].
Từ năm 1993 Trung tâm Ung bướu đã áp dụng phẫu thuật Patey cải tiến
như là phẫu thuật chuẩn cho các trường hợp UTV giai đoạn I, II, IIIA và đến nay
vẫn trở thành phẫu thuật được lựa chọn đầu tiên, có hiệu quả cao trong điều trị
bệnh nhân UTV. Bên cạnh đó Trung tâm vẫn triển khai phẫu thuật bảo tồn, phẫu
thuật tái tạo vú tức thì ngay sau phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú với các kết quả
ngày càng tốt hơn. Các kết quả này giúp cho tiến độ điều trị bổ trợ sau mổ không
77
bị ảnh hưởng, từ đó làm giảm nguy cơ tái phát, di căn và tử vong sau điều trị;
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
78
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 54 trường hợp được phẫu thuật Patey do ung thư vú giai đoạn
I, II, IIIA chúng tôi có những kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
* Đặc điểm lâm sàng
Tuổi trung bình là 53 tuổi, tỷ lệ mắc cao ở khoảng tuổi 51-60 (33,3%),
thấp nhất 31 tuổi, cao nhất là 80 tuổi.
Khối u nguyên phát T1 1,9%, T2 85,2 %, T3 13%. Tỷ lệ gặp ở vú phải và
vú trái tương đương nhau (50% và 48,1%), nhiều nhất ở 1/4 trên ngoài (70,4%),
kích thước u trung bình 3,4±1,2 cm.
44,4% ở giai đoạn IIA; 33,3 % ở giai đoạn IIB; 22,2 % ở giai đoạn IIIA.
* Đặc điểm cận lâm sàng
Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ chính xác 91,6%. Sinh thiết tức thì trong
mổ cho kết quả chính xác 100% so với kết quả mô bệnh học sau mổ.
Chụp vú 27/54 trường hợp, siêu âm 10/54 trường hợp, các kết quả phù hợp
với mô bệnh học.
Ung thư biểu mô thể ống xâm nhập chiếm 90,7%.
Tỷ lệ di căn hạch nách là 53,7%. Có sự liên quan giữa tỷ lệ di căn hạch
nách với kích thước u, loại mô học.
Độ mô học chủ yếu là độ II chiếm 76,5 %.
Có 61,8 % có thụ thể ER,PR dương tính. 32,3 % có Her 2 neu dương tính.
3. Kết quả sớm của phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật trung bình 93±19 phút. Thời gian hậu phẫu trung
bình 12±3 ngày. Thời gian rút dẫn lưu trung bình 11±3 ngày.
79
Không có tai biến trong mổ. Biến chứng chung của phẫu thuật thấp là
13%, chủ yếu là tụ dịch tại vùng nách. Không ghi nhận trường hợp nào biến
chứng phù tay do phẫu thuật như một số nghiên cứu khác.
Kết quả của phẫu thuật: Tốt: 87% , Trung bình: 13% và không có trường
hợp nào có kết quả xấu.
80
KIẾN NGHỊ
1. Sinh thiết tức thì trong mổ nên áp dụng cho tất cả các trường hợp nghi ngờ ác
tính qua khám lâm sàng mà kết quả tế bào học trước mổ là âm tính, nhằm rút
ngắn thời gian điều trị sau mổ.
2. Kiểm tra nạo vét hạch Rotter và đầu ống cánh tay trong tất cả các trường hợp
phẫu thuật Patey nhằm làm giảm biến chứng phù tay sau mổ.