You are on page 1of 7

Thuyết Tứ khí.

Học thuyết khí trong Y học cổ truyền , là hệ thống lý luận nghiên cứu
khái niệm khí  hình thành, phân bố, công năng trong cơ thể và mối quan
hệ giữa nó với tạng phủ, tinh huyết, tân dịch so với học thuyết khí cổ đại
có sự khác biệt rất rõ. Khí là vật chất cực nhỏ hoạt động rất mạnh liên
tục trong cơ thể, duy trì và điều tiết chuyển hóa trao đổi chất của cơ thể,
duy trì các hoạt động sống của cơ thể, vận động của khí dừng có nghĩa
là sự sống chấm dứt.
Hình thành khái niệm về khí Y học cổ truyền là do ảnh hưởng thẩm thấu
tự nhiên của triết học cổ đại, khí theo quan niệm của Triết học cổ đại là
vật chất tinh vi vận động liên tục, khí thức đẩy vận động thăng giáng tụ
tán và điều tiết khống chế sự biến hóa và phát sinh phát triển của vạn vật
trong vũ trụ, đối với Y học cổ truyền cũng coi khí là vật chất tinh vi vận
động không ngơi nghỉ, nó cũng xây dựng hệ thống lý luận tham gia thúc
đẩy, điều tiết, không chế các hoạt động ra vào thăng giáng tán tụ không
ngừng khí của cơ thể, nhưng khí trong y học cổ truyền học là 1 loại khí
cụ thể nó tồn tại 1 cách khách quan, một vật chất tinh vi vận động không
ngừng thăng giáng ra vào trong cơ thể, tức là nó là một vật chất cơ bản
cấu thành cơ thể, nó có tác dụng thúc đẩy và điều tiết khống chế đối với
các hoạt động sống, lý luận khí của y học cổ truyền có đối tượng và
phạm vị nghiên cứu tương đối cố định mà học thuyết khí cổ đại là 1
phương pháp luận và vũ trụ quan. do đó khái niệm khí của y học cổ
truyền học và khái niệm khí của triết học cổ đại có sự khác nhau rất
nhiều.
Khái niệm Tinh và Khí trong y học cổ truyền học là có sự khác
biệt. Tinh là vật chất cơ bản nhất cấu thành lên cơ thể, cũng là vật chất
cơ bản duy trì các hoạt động sống của cơ thể. < Linh Khu - Mạch Kinh>
nói : " Con người bắt đầu sinh ra, Tinh sinh ra trước, Khí là do vật chất
cực tinh vi do Tinh hóa sinh thành, < Tố vấn - Âm dương ứng tượng đại
luận> nói : " Tinh hóa là khí, Tinh là vật chất cơ bản hoạt động chức
năng của Tạng Phủ, Khí là là động lực của thúc đẩy và điều tiết khống
chế các hoạt động sinh lý các tạng phủ. Do đó, Trong Nội Kinh đề cấp
rất nhiều đến mối quan hệ giữa Khí và Tinh, Giai đoạn tiên Tần đối sự
khác nhau giữa Tinh và Khí càng rõ ràng hơn.
A.Sự hình thành trong cơ thể
Khí của cơ thể, do Tinh hóa sinh thành, đồng thời do Phế hít vào
thanh khí tự nhiên phối hợp mà thành, hình thành của khí toàn thân là
kết quả của sự phối hợp, điều hòa, hiệp đồng của 3 tạng Phế, Tỳ, Thận
1. Khí của cơ thể đến từ nguồn khí tiên thiên do tinh tiên thiên hóa
sinh thành ( tức là Nguyên khí), khí của thủy cốc do tinh của thủy cốc
hóa sinh thành và kết hợp với thanh khí của khí tự nhiên, hai loại này kết
hợp với nhau gọi là khí Hậu thiên ( tức là Tông khí ), 3 loại này kết hợp
thành khí toàn thân, Nội Kinh gọi là " Nhân khí".

 
Từ nguồn Tinh sinh dục của cha mẹ kết hợp hình thành phôi thai,
trước khí con người chưa sinh ra, thụ được khí tiên thiên do Tinh tiên
thiên của bố mẹ hóa sinh thành khí căn bản của cơ thể, khí của tiên thiên
là nguồn động lực các hoạt động sống của cơ thể, < Linh Khu – Thích
tiết chân tà> nói là “ Chân Khí”, nói “ Chân khí, sở ở Tiên thiên, cùng
thủy cốc mà sung dưỡng toàn thân”; < Nạn Kinh> cũng nói là “Nguyên
Khí (原气)” hoặc Nguyên Khí (元气). Nguồn từ thủy cố tinh vi do cơ
thể hấp thu sau đó hóa sinh thành khí của Thủy cốc. Được gọi đơn giản
là Cốc khí, sau khi bố tán toàn thân trở thành bộ phận chủ yếu của khí
cơ thể.
Từ nguồn gốc Khí được biết, Khí của cơ thể sung mãn có dựa vào
tác dụng điều tiết tổng hợp của các phủ tạng  trong đó có chức năng sinh
lý Thận, Tỳ vị, Phế là liên quan mật thiết nhất.
Thận là gốc của sinh Khí
Thận tàng tinh của tiên thiên, đồng thời nhận được sự sung dưỡng của
Tinh hậu thiên. Tinh của tiên thiên là thành phần chủ yếu của Thận tinh,
Tinh của Tiên thiên nguốn gốc hóa sinh Khí tiên thiên ( tức Nguyên
Khí), là căn bản của Khí con người, Vì vậy mà chức năng sinh lý tàng
tinh của Thận đối với việc hình thành khí rất quan trọng. Thận bế tàng
Thận tinh, không để nó mất, tinh bảo tồn bên trong thì có thể hóa sinh
Khí, tinh sung mãn thì Khí đủ, nếu Thận mất bế tàng thì Tinh hao khí
suy.

 
2. Tỳ vì là nguồn sinh Khí :
Tỳ chủ về vận hóa, Vị chủ về thu nạp cùng hoàn thành việc hấp thu
tiêu hóa Thủy cốc, Tỳ khí thăng chuyển, đem tinh của Thủy cốc thương
thâu lên Phế, Tâm, hóa thành huyết và tân dịch. Tinh của thủy cốc và
huyết, tân dịch hóa sinh của nó đều có thể hóa Khí, gọi chung là khí của
thủy cốc, bố tán toàn thân các kinh mạch, là nguồn khí chủ yếu của khí
cơ thể, vì vậy gọi Tỳ vị là nguồn sinh khí, nếu chức năng thụ nạp và vận
hóa của Tỳ vị thất thường, thì không có khả năng hấp thu thủy cố tinh vi
của thức ăn, nguồn khí của thủy cốc sẽ thiếu, ảnh hưởng đến sinh khí
toàn thân , cho nên < Linh Khu – Ngũ Vị > nói : “ Vì cốc không nhập,
nửa ngày thì khí suy, 1 ngày thì khí thiểu” .
Phế chủ khí, chủ sinh thành Tông khí, trong quá trình sinh thành
Tông khí chiếm vị trí quan trọng, một mặt, Phế chủ khí hô hấp, thông
qua chức năng hô hấp hít vào thanh khí thải ra trọc khí, đem nguồn
thanh khí tự nhiên không ngừng hít vào cơ thể, đồng thời không ngừng
thở ra trọc khí, bảo đảm quá trình trao đổi khí trong cơ thể . Một mặt
khác, Phế đem thanh khí hít vào cùng khí của thủy cốc được hóa sinh từ
tinh vi thủy cốc được Tỳ khí thượng thâu kết hợp lại, hình thành Tông
khí, Tông khí hình thành tích ở trong ngực, chạy trong đường hô hấp,
tập trung cho tâm mạch hành cùng huyết, xuống trữ ở Đan Điền tư
dưỡng cho Nguyên Khí. Nếu Phế khí chức năng thất thường , thì thanh
khí hít vào giảm, Tông khí hình thành bất túc, dẫn đến khí toàn thân suy
giảm.
 

 
Có sách phân Khí hậu thiên thành Dinh khí và Vệ khí.
Tóm lại, Chức năng sinh khí của Thận và hình thành Khí tiên thiên
có liên quan mật thiết, Tỳ vị và chức năng sinh lý của Phế cùng sự sinh
Khí hậu thiên có mối liên quan mật thiết, chức nặng hiệp điều của các
tạng phủ, phối hợp mật thiết, thì nguồn hóa sinh Khí không ngừng được
sinh ra, khí cơ thể sẽ được đầu đủ  sung thịnh . Nếu như bất kỳ 1 khâu
nào chức năng sinh lý của các tạng Thận, Tỳ vị và Phế  có dị thường
hoặc mất đi sự phối hợp, thì sẽ ảnh hưởng đến sinh thành Khí và phát
huy công năng của nó.
B.Quan niệm của Khí cơ và Hình thức vận động chủ yếu của Khí
Vận động của Khí gọi là Khí cơ. Khí của cơ thể là vật chất vô cùng
tinh vi hoạt động rất mạnh không ngừng, nó lưu hành toàn thân, ngũ
tạng lục phủ cân cốt bì mao, phát huy tác dụng sinh lý của nó, thúc đẩy
và kích phát các chức năng sinh lý trong cơ thể.
 
 
Hình thức vận động cơ bản của Khí, Vì các loại khí và công năng
tác dụng khác nhau, nhưng tóm lại mà nói, có thể đơn giản quy nạp làm
4 hình thức cơ bản dưới đây : Thăng, Giáng, Xuất, Nhập. Sở dĩ nói
Thăng, tức là chỉ Khí vận hành từ hạ mà thăng lên; Giáng là chỉ Khí vận
hành từ trên cao mà giáng xuống; Xuất là chỉ khí vận hành từ trong ra
ngoài, Nhập là chỉ Khí vận hành từ ngoài vào. Ví dụ Hô hấp thở ra trọc
khí là xuất, hít vào thanh khí là nhập, xuất nhập mà vận động mâu thuẫn
đối lập thống nhất, nó tồn tại trong rất nhiều hoạt động của cơ thể. Tuy
nhiên có cục bộ 1 chức năng sinh lý của số tạng phủ cho thấy, có thiên
lệch, ví dụ Can, Tỳ chủ về thăng, Phế Vị chủ về giáng.. nhưng về hoạt
động sinh lý cơ thể mà nói, giữa thăng và giáng, xuất và nhập cần hiệp
động cân bằng, chỉ có như vậy Khí của con người mới vận hành bình
thường, các Tạng Phủ mới phát huy các hoạt dộng sinh lý bình thường.
Do đó, hiệp đồng cân bằng của Khí cơ thăng giáng xuất nhập là bảo đảm
1 chuỗi quan trọng tính hành các hoạt động sống sinh lý bình thường.
  
C.Các tác dụng của Khí
Khí đối với cơ thể tác dụng rất quan trọng , Nó đã là 1 trong những
vật chất cơ bản cấu thành cơ thể, lại là động lực thúc đẩy và khống chế,
điều tiết hoạt động sinh lý của các tạng phủ, từ đó mà đạt được tác dụng
duy trì quá trình sống. Do vậy trong < Nạn Kinh – Điều 8 > nói : “ Khí
là gốc của cơ thể”. < Loại Kinh – Nhiếp sinh loại> lại nói : “ Con người
có sinh, toàn dựa vào khí này”. Chức năng sinh lý của khí cơ thể có thể
qui nạp mấy chứng năng sau :
1. Tác dụng kích phát và thúc  đẩy : là chỉ tác dụng kich phát thúc đẩy
tất cả các chức năng sinh lý của các tạng phủ, như thức đẩy sản sinh
Vị khí, thúc đẩy hấp thu tiêu hóa, sản sinh khí của thủy cố tinh vi,
thúc đẩy sản sinh khí của Thận khí, thúc đẩy chức năng phát dục, sinh
trưởng, sinh dục của cơ thể.
2. Tác dụng ôn ấm : Khí thuộc dương, vận hành toàn thân, không chỗ
nào không đến, cho nên có tác dụng ôn ấm. như Khí âm của nguyên
khí, Thận khí dưỡng tạng phủ, tứ chi và duy trì tác dụng nhiệt độ bình
thường.
3. Tác dụng phòng ngự : Như Vệ khí, phiêu hãn hoạt tiết, ngăn chặn
bệnh tật, bổ tán trong ngoài hộ vệ cơ thể, tác dụng phòng ngoại tà
xâm nhập.
4. Tác dụng cổ nhiếp : Chỉ khí giúp hành trong mạch, tân dịch vận hành
trong mạch bình thường không vong hành, còn bao bao gồm khống
chế nhị âm, khai mở lỗ chân lông để duy trì tác dụng vận hành bình
thường của khí huyết tinh tân dịch không hao và bài trọc ra ngoài để
không để uất tích là có hại.
5. Tác dụng khí hóa : Khí hóa là chỉ thông qua vận hành của Khí mà
phát sinh các loại biến hóa, phàm các khí, huyết, tinh, tân dịch sản
sinh, chuyển hóa, chuyển hóa lẫn nhau đều dựa vào tác dụng khí hóa.

You might also like