Professional Documents
Culture Documents
MỤC TIÊU
1. . Nêu được khái niệm tư thế và mặt phẳng giải phẫu;
2. Nêu được định nghĩa, vị trí và nhiệm vụ của sinh lý học;
2. Trình bày được các đặc điểm của cơ thể sống, sinh lý tế bào;
3. Trình bày được các hoạt động duy trì hằng định nội môi
1
trúc nằm dưới da. Ví dụ ở những người do dao đâm, thầy thuốc phải hình dung ra
những cấu trúc bên dưới vết thương có thể bị tổn thương
3. Vị trí của môn giải phẫu trong y học
Trong y học, giải phẫu đóng vai trò của một môn học cơ sở. Kiến thức giải
phẫu học người là kiến thức nền tảng, giúp ta hiểu được hoạt động của cơ thể
người. Giải phẫu học cũng là nền tảng kiến thức căn bản của tất cả các chuyên
ngành lâm sàng
3. Tư thế và các mặt phẳng giải phẫu:
- Tư thế giải phẫu: Một người ở tư thế giải phẫu là người đứng thẳng với tư thế:
đầu, mắt, các ngón chân hướng ra trước; gót chân và các ngón chân áp sát vào nhau; hai
tay buông xuôi hai bên, lòng bàn tay hướng ra phía trước.
- Mặt phẳng giải phẫu: Có 4 loại mặt phẳng giải phẫu cắt ngang qua cơ thể ở tư thế
giải phẫu, tác dụng của các mặt phẳng giải phẫu là để mô tả các mặt cắt và các hình ảnh
của cơ thể người.
+ Mặt phẳng đứng dọc giữa: Là mặt phẳng thẳng đứng đi dọc qua trung tâm của cơ
thể, chia cơ thể thành 2 nửa phải và trái.
+ Các mặt phẳng đứng dọc: Là những mặt phẳng thẳng đứng đi qua cơ thể song
song với mặt phẳng đứng dọc giữa.
+ Các mặt phẳng đứng ngang: Là những mặt, phẳng thẳng đứng đi qua cơ thể,
vuông góc với mặt phẳng đứng dọc giữa, chia cơ thể thành các phần trước và sau.
+ Các mặt phẳng nằm ngang: Là các mặt phẳng đi ngang qua cơ thể, vuông góc với
các mặt phẳng đứng dọc giữa và đứng ngang, chia cơ thể thành các phần trên và dưới
2
4. Các từ chỉ mối quan hệ vị trí so sánh:
4.1: Trên:Là nằm gần hơn về phía đầu; ví dụ nói "tim nằm trên cơ hoành”
4.2. Dưới:Là nằm gần hơn về phía bàn chân, ví dụ nói "dạ dày nằm dưới tim”
4.3. Trước:Ở gần mặt trước cơ thể hơn.
4.4. Sau:Ở gần mặt sau cơ thể hơn.
4.5: Bên và giữa: Bên là nằm xa mặt phẳng dọc giữa hơn, giữa thì ngược lại
4.6. Gần và xa:Gần nghĩa là nằm gần thân hoặc điểm nguyên ủy (điểm gốc), xa có
nghĩa ngược lại.
4.7. Bên trong và bên ngoài: Bên trong là gần hơn về phái trung tâm của một cơ
quan hay khoang rỗng, bên ngoài thì ngược lại.
3
Cấu trúc và chức năng luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong đó chức
năng quyết định cấu trúc. Vì vậy muốn học tốt môn sinh lý học cần phải được trang
bị những kiến thức về giải phẫu, mô học. Đồng thời phải có những kiến thức về các
môn học cơ sở như sinh học, hoá học, vật lý học, đặc biệt là hoá sinh học, lý sinh
học. Vì nhờ có chúng, ta có thể hiểu biết tường tận và giải thích được bản chất các
hoạt động chức năng và điều hoà hoạt động chức năng của cơ thể.
4
Di truyền và biến dị là 2 quá trình đối lập tạo cơ sở cho sự tiến hoá của sinh
vật
5
2. Chức năng các thành phần cấu trúc của tế bào
Muốn hiểu chức năng sinh lý của các cơ quan trong cơ thể, trước hết cần tìm
hiểu cấu trúc và chức năng của tế bào. Mọi hoạt động chức năng của cơ thể đều có
cơ sở tại tế bào và các rối loạn chức năng cũng có cơ sở ở tế bào.
Các tế bào được biệt hóa thành từng hệ: hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ
thần kinh,... nhưng hoạt động của chúng vẫn mang những nét chung.
2.1.Màng tế bào
Màng tế bào có chức năng ngăn chia giữa tế bào và môi trường xung quanh tế
bào và ngăn chia giữa các bào quan trong tế bào
2.1.1. Cấu trúc màng tế bào
Màng tế bào là màng bao quanh bên ngoài tế bào dày khoảng 7 – 10nm được
cấu tạo bởi Lipid, protid và Glucid
- Lipid của màng tế bào chiếm khoảng 42% thành phần màng tế bào. Là phân tử
phospholipid tạo thành lớp lipid kép mỏng. Đặc điểm phân tử lipid gồm có một đầu
ưa nước hướng ra ngoài và đầu kị nước hướng vào trung tâm của màng tế bào
- Protein chiếm khoảng 55% thành phần màng tế bào. Các phân tử protein được
khảm vào trong lớp phospholipid kép thành những khối cầu. Có loại nằm xuyên
qua màng tế bào tạo thành các kênh để trao đổi chất giữa trong và ngoài màng hay
là các chất mang vật chất qua màng, có loại protein nằm ở rìa màng chủ yếu đóng
vai trò enzym xúc tác cho quá trình vận chuyển vật chất qua màng.
- Glucid chủ yếu ở phía ngoài màng tham gia cấu tạo kháng nghuên của tế bào,
các chất tiếp nhận tại màng tế bào
2.1.2. Chức năng màng tế bào
- Ngăn cách tổ chức nội bào với ngoại bào, ngăn cách các tế bào với nhau
- Vận chuyển và lọc các chất qua màng tế bào
6
- Tiếp nhận và dẫn truyền thông tin
- Bài tiết các chất cặn bã hoặc xuất tiết các chất do tế bào tiết ra
2.2. Bào tương ( nguyên sinh chất): gồm dịch bào tương và các bào quan
22.1. Dịch bào tương
Gồm nước và các chất hòa tan trong nước chiếm 80 – 90% trọng lượng tế bào, các
chất hòa tan chiếm 8 – 10%. Dịch bào tương là dịch keo do nồng độ các chất hòa
tan nhất là các chất hữu cơ như Protein tạo nên
2.2.2. Bào quan
- Ty thể: Là tổ chức đặc biệt chứa nhiều enzym giúp phản ứng tạo ra năng lượng.
Năng lượng giúp tế bào thực hiện các chức năng, khi tế bào không còn khả năng
tạo năng lượng thì mọi hoạt động chức năng dẽ ngừng và sự sống chấm dứt.
- Lưới nội bào: là tổ chức vận chuyển vật chất giữa nhân với bào tương và tạo ra
một số các chất của tế bào như phân tử protein và lipid. Cấu trúc lưới nội bào là
hình ống và các túi chứa vật chất do tế bào sản xuất. Lưới nội bào gồm 2 loại
+ Lưới nội bào có hạt là các ribosome tạo ra các phân tử protein
+ Lưới nội bào không hạt có chức năng tạo ra các phân tử lipid
7
- Ribosome: phân bố rải rác trong tương bào hay trên thành ống lưới nội bào
tạo thành hệ thống lưới nội bào có hạt. chức năng tổng hợp protein
- Bộ Golgi: được tạo thành bởi các túi màng dẹt xếp chồng lên nhau, có chức
năng tạo ra các hóa chất của tế bào như các hormon, các enzym.
- Tiêu thể Lyrosome: là tổ chức men tiêu hóa nhất là men tiêu protein, giúp
phân hủy tế bào già hay xử lý vật lạ
- Bào tâm: là một hay hai hạt nằm gần nhân gọi là các tiểu thể trung tâm. Tác
dụng bào tâm: tham gia hoạt động phân bào
- Nhân:
+ Chứa nhiễm sắc thể và hạt nhân
+ Nhiễm sắc thể được cấu tạo từ các acid nucleic. ( số lượng NST người: 46,
giống nhau từng đôi), trên NST có các gen mang mã di truyền
+ Hạt nhân là khối cầu của ARN
+ Sự phân chia tế bào: theo 2 cách là trực phân và gián phân
8
V. DỊCH NGOẠI BÀO, DỊCH NỘI BÀO VÀ HẰNG TÍNH NỘI MÔI
- Ở người trưởng thành 50-60% trọng lượng cơ thể là dịch, hầu hết nằm trong tế
bào gọi là dịch nội bào, 1/3 tổng lượng dịch nằm ngoài tế bào gọi là dịch ngoại bào
1. Dịch nội bào
Cơ thể người trưởng thành có khoảng 40 lít dịch, trong đó có 25 lít dịch nằm
trong tế bào là dịch nội bào, còn 15 lít dịch nằm ngoài tế bào gọi là dịch ngoại bào.
Nhờ màng tế bào mà thành phần dịch nội bào khác dịch ngoại bào. Dịch ngoại bào
chứa nhiều chất dinh dưỡng như oxygen, acid amin, acid béo, chứa 1 lượng lớn các
ion Na, Cl, HCO3; trong khi đó dịch nội bào nhiều ion K, Mg, PO4.
2. Dịch ngoại bào và hằng tính nội môi
Dịch ngoại bào là dịch nằm bên ngoài tế bào, đó là: dịch kẽ, máu, bạch huyết,
dịch ổ mắt, dịch khớp, dịch não tủy. Dịch ngoại bào luôn được vận chuyển khắp cơ
thể nhờ hệ thống tuần hoàn. Dịch ngoại bào cung cấp chất dinh dưỡng cho sự tồn
tại và phát triển của các tế bào. Như vậy các tế bào trong cơ thể đều được sống
trong cùng một môi trường đó là dịch ngoại bào. Vì vậy dịch ngoại bào còn được
gọi là môi trường bên trong cơ thể, hay còn gọi là nội môi. Các tế bào chỉ có thể
tồn tại, phát triển và thực hiện chức năng của mình khi được sống trong môi trường
thích hợp và ổn định về nồng độ các chất như: oxy, glucose, các ion, acid amin....
Khái niệm về sự ổn định nồng độ các chất trong dịch ngoại bào được gọi là hằng
tính nội môi (homeostasie).
Môi trường trong cơ thể thường xuyên được giữ ổn định bằng các hoạt động
chức năng của các cơ quan và hệ thống các cơ quan trong cơ thể. Các hệ thống đó
là:
- Hệ thống tiếp nhận chất dinh dưỡng: tiêu hóa, hô hấp, hệ cơ...
- Hệ thống vận chuyển chất dinh dưỡng: hệ thống dịch ngoại bào, máu, dịch
não tủy...
9
- Hệ thống bài tiết các sản phẩm chuyển hóa: hệ hô hấp, tiết niệu, tiêu hóa, da..
10
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ XƯƠNG KHỚP
11
1. Xương sọ,
2. Đốt sống cổ,
3. Xương đòn,
4. Xương vai,
5. Xương ức,
6. Xương cánh tay,
7. Đốt sống thắt lưng,
8. Xương quay,
9. Xương trụ,
10. Xương chậu,
11. Xương cùng,
12. Các xương cổ tay,
13. Xương đùi,
14. Xương bánh chè,
15. Xương chày,
16. Xương mác,
17. Các xương cổ chân.
12
1. Sụn khớp.
2. Sụn đầu xương
3. Xương xốp
4. Xương đặc.
5. Ngoại cốt mạc.
6. Ổ (ống) tủy
- Xương ngắn: cấu tạo cũng tương tự đầu xương dài như xương cổ tay, cổ chân …
phù hợp với những động tác hạn chế, nhưng mềm dẻo khi phối hợp đồng bộ.
- Xương dẹt: như các xương ở vòm sọ, xương bả vai, xương chậu, thích nghi với
chức năng bảo vệ.
– Xương không đều (hay xương bất định): là những xương hình thể phức tạp,
không xếp được vào một trong số các loại trên, như xương hàm trên, xương thái
dương, các xương ở nền sọ.
–Xương vừng: là những xương nhỏ nằm trong gân cơ, và thường đệm vào các
khớp, để giảm độ ma sát của gân, cơ, giúp cho cơ hoạt động được tốt hơn. Ví dụ
xương bánh chè.
5. Cấu tạo
Ngoài cùng là màng ngoài xương (ngoại cốt mạc) là một màng liên kết dai,
mỏng dưới 2mm, dính chặt vào xương và gồm 2 lá: lá ngoài là mô sợi có nhiều
nhánh tận của các dây thần kinh cảm giác; lá trong chứa các tạo cốt bào có tác
dụng tạo xương và nhiều mạch máu. Với những xương có mặt khớp hoạt dịch,
các mặt khớp này được phủ bằng sụn trong (sụn khớp).
Dưới màng ngoài xương là xương đặc (substantia compacta): là mô rắn chắc,
mịn, màu vàng nhạt.
Dưới lớp xương đặc là xương xốp (substantia spongiosa) do nhiều bè xương
bắt chéo nhau chằng chịt để hở nhiều hốc nhỏ, trông như bọt biển.
13
Hình 3: Cấu tạo xương
14
Xương tươi (ở người lớn) chứa 50% nưốc; 15,75% mỡ; 12,45% chất hữu cơ;
21,8% chất vô cơ.
Xương khô, khi lấy hết mỡ và nước, còn khoảng 2/3 là chất vô cơ và 1/3 là
chất hữu cơ. Chất hữu cơ chủ yếu là chất cốt giao, chất vô cơ chủ yếu là các muối
calci.
Các thành phần hoá học thay đổi theo chức phận của mỗi xương, theo tuổi,
giới, chế độ dinh dưỡng và bệnh tật. Ở người trẻ, xương nhiều chất hữu cơ, ít chất
vô cơ nên xương mềm dẻo. Ở người già, xương nhiều chất vô cơ, ít chất hữu cơ
nên xương giòn, dễ gãy.
8. Sự phát triển của xương
Xương phát sinh từ trung bì và phát triển qua giai đoạn sụn và xương, chỉ trừ
một số xương sọ không qua giai đoạn sụn và sụn sườn đến già vẫn là sụn
Từ lúc mới sinh cho đến khi hết lớn ( khoảng 25 tuổi) xương phát triển làm 2
giai đoạn: từ lúc mới sinh đến lúc dậy thì hệ xương phát triển mạnh hơn hệ cơ và từ
lúc dậy thì về sau hệ cơ phất triển mạnh hơn hệ xương
II. HỆ KHỚP
Các xương kết nối với nhau và tạo nên khớp xương. Tuỳ theo chức năng của
xương, mà liên kết xương khác nhau, với những xương bảo vệ hoặc chống đỡ thì
sự liên kết giữa các xương thường chặt chẽ, chắc chắn không cử động được hoặc
cử động ít (khớp bất động hoặc bán động), với các xương làm nhiệm vụ đòn bẩy,
cần cử động nhiều (xương ở chi) các xương phải liên kết với nhau, theo một cấu
tạo thích ứng với các động tác (khớp bất động). Do đó, về mặt cấu tạo cũng như về
mặt động tác có ba loại khớp: khớp bất động, khớp động và khớp bán động.
1. Phân loại khớp
1.1. Theo cấu tạo: khớp có 3 loại sau
1.1.1. Khớp sợi
Là các khớp không có ổ khớp, các xương được giữ rất chặt vào nhau bằng mô liên
kết sợi. Ví dụ khớp ở sọ.
1.1.2. Khớp sụn
Là các khớp mà xương tiếp khớp được liên kết với nhau qua tổ chức sụn. Khớp
này cũng không có ổ khớp, tuy nhiên có thể cho phép khớp cử động hạn chế hoặc
không. Ví dụ khớp mu, khớp sụn sườn ở lồng ngực.
1.1.3. Khớp hoạt dịch
Là các khớp có một khoang gọi là ổ khớp nằm giữa các xương tiếp khớp. Ổ này
chứa chất hoạt dịch làm trơn khớp khi khớp cử động. Tất các các khớp hoạt dịch là
những khớp động. Ví dụ khớp vai, khớp khuỷu, khớp gối, khớp háng.
15
Khớp sợi Khớp sụn
16
Trong một khớp, vì đầu xương nọ lắp vào đầu xương kia nên diện khớp thường
có hình đối xứng nhau. Mặt khớp của hai đầu xương, cọ sát vào nhau khi khớp cử
động, nên phải có lớp sụn bọc trơn
2.2. Bao khớp ( nối khớp)
Bao khớp: bao xơ bọc quanh khớp, nối liền hai đầu xương. Bao khớp chỗ dầy,
chỗ mỏng tuỳ theo chiều động tác của khớp, các chỗ dày lên gọi là dây chằng:
khớp khuỷu mỏng ở trước, ở sau; dầy ở hai bên để cẳng tay không chuyển sang hai
bên, mà chỉ gấp và duỗi.
Bao hoạt dịch: Khớp xương vẫn cử động dễ dàng nhờ ở khớp động có chất
nhờn gọi là hoạt dịch đựng trong bao hoạt dịch. Bao này là một bao thanh mạc áp
vào mặt trong bao khớp và dính ỗ hai đầu xương chung quanh sụn bọc. Khởi động
nhằm tiết dịch nhờn bôi trơn khớp.
2.3. Các dây chằng
Cơ bắp
Đầu xương
Mặt khớp
Bao khớp
Dây chằng
Gân
17
Dây chằng: ở chỗ bao khớp dày, các thớ sợi se lại thành các dây chằng. Ngoài
ra, lại có dây chằng ở xa đến trợ lực, dây này không phải là thành phần của bao
khớp. Các gân, cơ, cân bám ở đầu xương đến trợ lực cho bao khớp, giữ cho khớp
khỏi chệch, cũng là dây chằng của khớp. Khi bị chấn thương mạnh vào khớp: khi
ngã, khi trượt, khớp xương có thể bị sai: hai đẩu xương không khớp nữa, làm rách
bao khớp và trật hẳn ra ngoài (sai khớp). Nhưng có khi hai đầu xương, sau khi bị
trật, lại lắp vào nhau, bao khớp chỉ bị rách, dây chằng bị tổn thương (bong gân).
1. X. Trán
2. X. Đỉnh
3. X. chẩm
4. X. thái dương
5. X. Mũi
6. X. gò má
7. X. hàm trên
8.X. hàm dưới
18
trán khớp với xương đỉnh ở sau, với xương thái dương ở hai bên, khớp với xương
mũi và xương gò má ở trước.
Hai xương đỉnh tạo nên phần sau đỉnh đầu và hai bên hộp sọ, khớp với nhau ở
giữa, khớp với xương trán ở trước, với xương chẩm ở sau và xương thái dương ở
hai bên. Ở trẻ sơ sinh: đường khớp giữa 2 xương đỉnh và xương trán tạo nên thóp
trước ( thóp bredma), khớp giữa xương đỉnh và xương chẩm là thóp sau(thóp
lamda). Hai thóp này sẽ dần đóng kín khi trẻ < 24 tháng
1.1.3. Xương chẩm
Xương chẩm tạo nên phần sau và dưới hộp sọ. Ở giữa có lỗ lớn xương chẩm,
qua lỗ này, não liên tục với tủy gai. Ở mặt ngoài, hai bên lỗ lớn xương chẩm có lồi
cầu chẩm, nơi xương chẩm “đặt” lên đốt sống cổ thứ nhất.
19
Nền sọ (nhìn trên) Nền sọ (nhìn dưới)
20
Hình 8: Xương thái dương
b. Phần đá
Nằm trong nền sọ, ở mặt ngoài sọ có một đường nối giữa phần trai và phần đá gọi
là khe trai đá. Phần đá hình tháp:
- Mặt trước: ở trong nền sọ là trần hòm nhĩ.
- Mặt sau: Lỗ ống tai trong có dây thần kinh VII và dây thần kinh VIII chui qua.
- Mặt dưới: +Lỗ ống động mạch cảnh trong
+ Hố tĩnh mạch cảnh.
+ Mỏm trâm.
+ Lỗ trâm chũm (giữa mỏm trâm và chũm) có thần kinh VII thoát ra.
b. Phần nhĩ
- Nằm ở sau và khớp với xương chẩm, mặt trong sọ liên quan với màng não,
với não, với xoang tĩnh mạch bên, mặt ngoài sọ có mỏm chũm để cho cơ ức đòn
chũm bám
21
Xương bướm có hình dạng giống như con bướm, tạo nên phần giữa sàn sọ.
Xương bướm gồm có thân, hai cánh lớn, hai cánh nhỏ, hai mỏm chân bướm trong
và hai mỏm chân bướm ngoài. Mặt trên của thân xương bướm lõm gọi là hố yên,
nơi có tuyến yên nằm lên. Bên trong thân xương bướm rỗng, tạo nên hai xoang
bướm nằm song song nhau và cách nhau bằng một vách xương mỏng. Xoang bướm
cũng đổ vào hốc mũi ở ngách mũi trên.
22
a. Phần đứng
-Là một mảnh xương thẳng đứng, ở trên là mào gà, ở dưới là mảnh thẳng để ngăn
đôi hốc mũi.
b. Phần ngang (mảnh sàng)
-Lõm thành rãnh, có các lỗ thủng (lỗ sàng) để cho các sợi thần kinh khứu giác đi
qua.
c. Mê đạo sàng
Treo lơ lửng phía dưới hai bên
Lỗ sàng Mào gà
mảnh sàng. Mê dạo sàng gồm nhiều
phòng khí, không đều nhau gọi là Xoang
sàng
các xoang sàng
Xoang sàng được chia làm ba Khối
bên
nhóm : trước, giữa và sau. Các xương
xoang sàng được lót bởi niêm mạc sàng
liên tục với niêm mạc ổ mũi
Mặt trong mê đạo sàng tạo nên
Mảnh thẳng
thành ngoài ổ mũi và có hai mảnh
xương cong gọi là xương xoăn mũi
trên, xương xoăn mũi giữa. Các
xương xoăn mũi được phủ niêm
mạc. Giữa các xương xoăn mũi, mặt
trong mê đạo sàng tạo thành các
ngách mũi tương ứng là các ngách
mũi trên và giữa
2. Xương mặt
Khối xương mặt gồm: hai xương hàm trên, hai xương mũi, hai xương khẩu cái, hai
xương gò má, hai xương lệ, hai xương xoăn mũi dưới, một xương lá mía, một
xương hàm dưới, một xương móng.
2.1.1. Xương hàm trên (2 xương)
23
Hình 11 : Xương hàm trên
Hai xương hàm trên tạo nên phần trước của trần ổ miệng, thành dưới ổ mắt, sàn
và thành bên hốc mũi. Ở bờ dưới có các lỗ huyệt răng trên. Bên trong xương hàm
trên có xoang hàm trên.
2.2.2. Xương mũi
Hai xương mũi nhỏ, mỏng, có hình chữ nhật nằm hai bên mũi và úp vào nhau ở
đường giữa tạo nên phần trên sống mũi.
2.2.3.Xương khẩu cái
Xương khẩu cái hình chữ L, nằm sau xương hàm trên, gồm mảnh ngang và
mảnh thẳng đứng. Mảnh ngang góp phần tạo nên trần ổ miệng, mảnh thẳng đứng
góp phần tạo nên thành ngoài hốc mũi.
2.2.4. Xương gò má
Hai xương gò má tạo nên phần gò lên ở hai bên mặt, dưới ổ mắt. Xương gò má
cũng góp phần tạo nên thànhh ngoài và thành dưới ổ mắt. Phía ngoài của xương gò
má có mỏm thái dương, kéo về phía sau khớp với mỏm gò má xương thái dương.
2.2.5. Xương lệ: là mảnh xương mỏng, nằm ở thành trong ổ mắt.
2.2.6. Xương xoăn dưới: mỏng manh, nằm ở thành ngoài ổ mũi, dưới xoăn mũi
trên và xoăn mũi giữa của xương sàng
24
Xương lá mía nằm ở giữa hai ổ mũi. Ở phía sau, xương lá mía khớp với mảnh
thẳng xương sàng tạo nên vách mũi.
2.2.8. Xương hàm dưới
Xương này có 2 phần:
+ Thân xương: nằm ngang hình móng ngựa
+ Ngành lên: hai ngành hàm chạy lên trên hai bên
Ngành hàm tạo với thân xương hàm một góc, gọi là góc hàm. Đầu trên của
ngành chẻ đôi thành mỏm vẹt phía trước và lồi cầu ở sau khớp với xương thái
dương, là khớp duy nhất vùng đầu mặt có thể cử động được.
Bờ trên của thân xương có những lỗ huyệt răng dưới. Mặt trong ngành hàm có lỗ
hàm dưới, nơi mạch máu và thần kinh hàm dưới đi vào và chi phối răng dưới.
Mạch máu và thần kinh hàm dưới đi trong ống hàm dưới trong ngành hàm và mở
ra ngoài bằng lỗ cằm, ở mặt ngoài ngành hàm, gần góc hàm.
25
1. Sừng lớn
2. Sừng bé
3. Thân xương
1. Cột sống Cột sống là cột trụ chính của thân người đi từ mặt dưới xương chẩm
đến đỉnh xương cụt. Cột sống gồm 33 - 35 đốt sống chồng lên nhau, được chia làm
4 đoạn, mỗi đoạn có một chiều cong và các đặc điểm riêng thích ứng với chức năng
của đoạn đó; từ trên xuống dưới, gồm
7 đốt sống cổ: được kí hiệu từ C1 cho đến đến C7
12 đốt sống ngực: được kí hiệu từ T1 cho đến T12
5 đốt sống thắt lưng: được kí hiệu từ L1 cho đến L5
5 đốt sống cùng: được kí hiệu từ S1 cho đến S5, các đốt xương hợp nhất với
nhau tạo thành xương cùng
4 (hoặc từ 3 – 5) đốt sống cụt, các đốt xương hợp nhất với nhau tạo thành
xương cụt (còn được gọi là coccyx).
Nhìn theo chiều trước ra sau (hoặc từ sau ra trước), cột sống thẳng, nhưng nhìn
ngang, cột sống có những đoạn cong, thích hợp với hoạt động đi đứng bằng hai
chân.
Đoạn cổ cong lồi ra trước, đoạn ngực cong lồi ra sau, đoạn thắt lưng hơi lồi ra
trước, đoạn cùng lại lồi ra sau
26
A. Nhìn trước B. Nhìn sau C. Nhìn ngang
27
Hình 15: Cấu tạo chung của một đốt sống
- Đốt sống đoạn ngực: vì đốt sống đoạn ngực khớp với xương sườn tạo nên
lồng ngực nên mỗi đốt sống ngực có bốn diện khớp sườn, nằm trên thân mỗi đốt
sống, hai diện sườn trên và hai diện sườn dưới. Ngoài ra, trên mỏm ngang của đốt
sống ngực cũng có diện sườn ngang, khớp với củ sườn
28
Hình : Đốt sống ngực nhìn từ trên (A) và nhìn bên (B)
- Đốt sống thắt lưng không có lỗ ngang và không có diện khớp sườn
Hình 17. Đốt sống thắt lưng (A. Nhìn từ trên B. Nhìn bên)
Các đốt sống cùng dính liền nhau tạo thành xương cùng. Ống sống ở đoạn này
gọi là cùng. Các mỏm gai của đốt sống cùng liên tục nhau tạo thành mào cùng
giữa. Các lỗ gian đốt sống ở phía trước gọi là lỗ cùng trước, ở phía sau gọi là lỗ
cùng sau. Hai bên xương cùng có diện nhĩ, khớp với diện nhĩ của xương chậu
29
Hình 18 : Xương cùng cụt
2. Lồng ngực
Lồng ngực được hợp bởi 12 đốt sống ngực ở phía sau, xương ức phía trước và
12 đôi xương sườn ở hai bên
2.1. Xương ức
Xương ức là xương dẹt, gồm có ba phần: cán ức, thân ức và mỏm mũi kiếm
xương ức. Giữa cán ức và thân xương ức có góc ức hơi lồi ra trước. Ta có thể sờ
thấy mỏm mũi kiếm dưới da. Hai bên xương ức có những khuyết chỗ khớp với các
sụn sườn, gọi là khuyết sườn. Mỗi bên có 7 khuyết sườn
30
2.3. Xương sườn
Xương sườn dài, dẹt và uốn cong. Mỗi xương sườn có đầu sườn, cổ sườn, củ
sườn, thân xương sườn.
- Đầu sườn: khớp với đốt sống ngực. Thường mỗi đầu sườn khớp với hai đốt
sống liên tiếp ở tại nơi nối giữa hai đốt sống. Riêng xương sườn XI và XII thì mỗi
xương sườn chỉ khớp với một đốt sống tương ứng.
- Cổ sườn: hơi thắt nhỏ lại
- Củ sườn: khớp với diện sườn ngang (ở mỏm ngang) đốt sống ngực
- Thân xương sườn: dẹt, cong, bờ dưới có rãnh sườn, nơi mạch và thần kinh liên
sườn đi qua.
31
Xương sườn khớp phía sau với đốt sống, nhưng phía trước thì không khớp trực
tiếp với xương ức mà khớp với sụn sườn, sụn sườn khớp với xương ức tại khuyết
sườn. Có 7 khuyết sườn để khớp với 7 sụn sườn từ I đến VII. Xương sườn thứ
VIII, IX, X khớp với xương ức qua sụn sườn VII. Xương sườn XI và XII không
khớp với xương ức mà đầu trước hoàn toàn tự do. Các xương sườn từ VIII đến XII
được gọi là xương sườn giả (không có sụn sườn), riêng xương sườn XI và XII gọi
là xương sườn cụt (không khớp với xương ức).
3. Khớp của thân
Các xương thân được liên kết với nhau bởi các khớp. Các đốt sống liên kết với
nhau bằng các khớp giữa thân đốt sống và các khớp giữa các mỏm khớp đốt sống.
Đó là một khớp bán động sụn
+ Diện khớp là mặt trên và mặt dưới của thân hai đốt sống kề nhau. Vì hai mặt này
lõm nên giữa hai mặt khớp có đĩa gian đốt sông.
+ Đĩa gian đốt sống cấu tạo bằng sơ sụn có hình thấu kính hai mặt lôi. Có tât cả 23
đĩa năm chen giữa thân các đốt sông từ đốt cổ thứ nhất tới xương cùng. Còn các
đĩa giữa các đốt sống cùng và đốt sống cụt thì đã hóa xương và dính liền lại thành
một xương cùng và một xương cụt... Riêng giữa xương cùng và xương cụt thì vẫn
tồn tại một khớp gọi là khớp cùng cụt, thường là một khớp sụn hoặc một khớp hoạt
dịch (khớp động).
32
chậu liên kết với nhau bằng khớp bán động mu và với xương cùng bằng khớp
cùng chậu.
V. XƯƠNG KHỚP CHI TRÊN
Các xương đều đối xứng với nhau. Các xương chi trên được liên kết với nhau bởi
các khớp động.
33
2. Xương bả vai
Là một xương dẹt mỏng hình tam giác nằm ở phía sau trên của lồng ngực
- Có 2 mặt: + Mặt trước: lõm --> hố dưới vai có cơ dưới vai bám.
+ Mặt sau: lồi, gai vai (sống vai) đi từ trong ra ngoài chia mặt sau
làm: hố trên gai và hố dưới gai để cơ trên gai và cơ dưới gai bám.
- 3 bờ: + Bờ trong (bờ sống): song song với cột sống.
+ Bờ ngoài (bờ nách): dầy, phía trên là hõm khớp
+ Bờ trên (bờ cổ): mỏng và sắc, ở 1/4 ngoài có khuyết vai (khuyết quạ)
34
cho động mạch vai trên đi qua.
- 3 góc: + Góc trên: hơi vuông
+ Góc dưới: (đỉnh) có cơ lưng to bám.
+ Góc ngoài: có hõm khớp hình ổ chảo để tiếp khớp với chỏm xương
cánh tay, xung quanh ổ chảo là vành ổ chảo.
Ở giữa ổ chảo và khuyết vai có mỏm quạ chỗ bám cơ nhị đầu và cơ quạ cánh tay
3. Xương cánh tay
Xương cánh tay là xương dài, có một thân và hai đầu.
* Đầu trên: tròn, gọi là chỏm, khớp với ổ chảo xương vai. Phía trước ngoài của
đầu trên có hai củ, củ lớn và củ bé, giữa hai củ là rãnh gian củ, có đầu dài gân cơ
nhị đầu cánh tay đi qua. Nơi nối giữa chỏm xương cánh tay và thân xương hơi thắt
lại gọi là cổ phẫu thuật. Ở những người lớn tuổi, khi có chấn thương vùng vai rất
hay xảy ra gãy cổ phẫu thuật.
* Đầu dưới: bè rộng và cong ra trước.
+ Diện khớp có 2 phần:
Lồi cầu ở ngoài khớp với chỏm xương quay.
Ròng rọc ở trong khớp với hõm Sigma lớn của xương trụ.
+ Các hố trên khớp:
Phía trước: ở trên lồi cầu có hố trên lồi cầu (hố quay); ở trên ròng rọc có hố
trên ròng rọc (hố vẹt).
Phía sau: có hố mỏm khuỷu để nhận mỏm khuỷu của xương trụ khi duỗi
tay.
+ Có 2 mỏm trên khớp là mỏm trên lồi cầu ở ngoài, mỏm trên ròng rọc ở trong.
* Thân xương: hình lăng trụ tam giác có 3 mặt, 3 bờ.
- Ba mặt:
+Mặt ngoài: gồ ghề, ở giữa có lồi củ delta cho cơ Delta bám.
+Mặt trong: gồ ghề ở giữa có lỗ dưỡng cốt.
+Mặt sau: có một rãnh xoắn chạy chếch từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài (rãnh
thần kinh quay) cho bó mạch thần kinh quay qua.
- Các bờ:
+ Bờ trước: gồ ghề ở trên, nhẵn phẳng ở giữa, dưới chia 2 ngành bao lấy hố vẹt.
+Bờ ngoài và trong: mờ ở trên, rõ ở dưới có vách liên cơ bám.
4. Xương cẳng tay
35
Hình 24: Xương cẳng tay
Cẳng tay có hai xương là xương quay ở ngoài và xương trụ ở trong.
4.1. Xương quay: là xương dài, có một thân và hai đầu.
- Đầu trên: nhỏ, tròn, gọi là chỏm quay. Phía dưới hơi thắt lại gọi là cổ xương
quay. Dưới cổ xương quay có lồi củ quay, nơi bám của trẽ gân cơ nhị đầu cánh tay.
- Đầu dưới: to hơn đầu trên, phía ngoài có mỏm trâm quay.
- Thân xương: ở đoạn giữa hơi cong lồi ra ngoài, phía trong có bờ sắc và
mỏng gọi là bờ gian cốt.
4.2. Xương trụ: ở trong xương quay, cũng có một thân và hai đầu
- Đầu trên: to, có mỏm khuỷu ở sau, mỏm vẹt ở trước. Mặt trong của đầu trên
có khuyết quay, tiếp khớp với chỏm quay.
- Đẩu dưới: nhỏ, có mấu nhỏ gọi là mỏm trâm trụ. Mỏm trâm trụ quay vào
trong, hơi ra sau và cao hơn mỏm trâm quay khoảng 1 cm.
- Thân xương trụ: đặc biệt có bờ sau sắc và sờ rõ được dưới da.
5. Xương cổ tay
Xương cổ tay có 8 xương, xếp thành hai hàng:
- Hàng trên: từ ngoài vào trong là xương thuyền, xương nguyệt, xương tháp, xương
đậu.
- Hàng dưới: cũng từ ngoài vào là xương thang, xương thê, xương cả, xương móc
6. Xương bàn tay: có 5 xương bàn tay, tính từ ngoài vào là xương bàn I, xương
bàn II, xương bàn III, xương bàn IV, xương bàn V. Mỗi xương bàn có đầu gần gọi
là nền, đầu xa hơi tròn gọi là chỏm.
7. Xương ngón tay
36
Hình 25: Xương cổ tay, bàn tay
Xương ngón I có hai đốt xương là đốt gần và đốt xa. Các ngón còn lại, mỗi ngón
có 3 đốt là đốt gần, đốt giữa, đốt xa. Các xương đốt ngón tay có hình dạng giống
xương bàn.
8. Các khớp của chi trên
Khớp vai
Khớp khuỷu
Khớp cổ tay
Gồm khớp vai, khớp khuỷu, khớp cổ tay, bàn tay, ngón tay.
- Khớp vai: là khớp hoạt dịch trong đó chỏm xương cánh tay tiếp khớp với ổ chảo
xương cánh tay. Khớp vai là khớp chỏm cầu có cử động rộng rãi hơn bất kỳ khớp
nào trong cơ thể. Các cử động của cánh tay tại khớp vai là gấp, duỗi, dạng, khép,
37
quay tròn, xoay trong, xoay ngoài.
- Khớp khuỷu: là khớp hoạt dịch, trong đó đầu dưới xương cánh tay tiếp khớp với
đầu trên của xương quay và xương trụ, đồng thời liên kết đầu trên xương quay và
xương trụ với nhau. Các cử động của khớp khuỷu là gấp duỗi và sấp ngữa cẳng
tay.
VI. XƯƠNG KHỚP CHI DƯỚI
1. Xương chậu và chậu hông
1.1. Xương chậu
Xương chậu là xương dẹt. Ở người trưởng thành, xương chậu do ba xương là
xương cánh chậu, xương mu, và xương ngồi hợp thành. Xương mu nằm ở trước,
bao gồm thân và các ngành trên và dưới; xương ngồi ở phía sau, bao gồm thân và
ngành xương ngồi (liên tiếp với ngành dưới xương mu); xương cánh châu ở trên.
Hai xương chậu khớp với nhau ở phía trước và khớp với xương cùng ở phía sau
tạo thành khung chậu. Xương chậu có hai mặt, bốn bờ.
Lỗ bịt
Xương mu
Xương ngồi
- Mặt ngoài:
+ Phía trên là phần cánh chậu, có ba đường mông chạy từ sau ra trước và lên trên là
đường mông sau, đường mông trước và đường mông dưới. Giữa các đường
mông là nơi bám của các cơ mông
+ Dưới phần cánh chậu là ổcối, bên trong ổ cối có diện khớp hình chữ C gọi là diện
nguyệt, nơi khớp với chỏm xương đùi tạo nên khớp hông (khớp háng). Phần
giữa diện nguyệt gọi là hố ổ cối.
+ Phía dưới ổ cối ta thấy một lỗ hổng gọi là lỗ bịt.
38
Mào chậu
- Mặt trong: có một gờ chạy từ sau ra trước và xuống dưới gọi là đường cung .
- Bờ trên: gọi là mào chậu, cong lồi lên trên. Điểm cao nhất của mào chậu ngang
bằng với khoảng giữa đốt sống thắt lưng IV-V
- Bờ dưới: do ngành dưới mu và thân xương ngồi tạo nên
- Bờ trước: Có các chỗ lồi lõm từ trên xuống dưới gồm có: gai chậu trước trên, một
khuyết nhỏ, gai chậu trước dưới, lồi chậu mu và củ mu
- Bờ sau: cũng có nhiều chỗ lồi lõm. Từ trên xuống là gai chậu sau trên, gai chậu sau
dưới, khuyết ngồi lớn, gai ngồi, khuyết ngồi bé, ụ ngồi.
Xương chậu được cấu tạo bằng mô xương xốp, chứa nhiều máu. Vì vậy trong
chấn thương, nếu có vỡ xương chậu sẽ mất nhiều máu, có thể gây ra sốc do mất
máu
1.2. Chậu hông ( khung chậu):
- Khung chậu được cấu tạo bởi 4 xương: phía trước và hai bên là 2 xương chậu phía
sau là xương cùng-cụt
- Khung chậu có vai trò rất quan trọng trong sản khoa.
- Chậu hông được chia thành chậu hông lớn (chậu hông giả) và chậu hông bé (chậu
hông thực) ngăn cách nhau bởi eo chậu trên
+ Chậu hông lớn: là phần chậu hông nằm trên eo chậu trên gồm 2 thành bên tạo bởi
hố chậu của xương chậu và phần bên của nền xương cùng; nó có hình phễu loe
rộng lên trên, là giá tựa cho các tạng trong ổ bụng và chỗ bám của các cơ thuộc đai
bụng
+ Chậu hông bé là khoang chậu thực sự vì được đậy kín ở dưới bởi hoành chậu hông
và đáy chậu. Chậu hông bé nằm giữa eo chậu trên (nơi thông với khoang bụng) và
39
eo chậu dưới (được đậy bởi sàn chậu hông) và có một trục cong ở giữa. Chậu hông
bé có tầm quan trọng về sản khoa
Eo trên
Eo giữa
Eo dưới
- Eo chậu trên, hay đường vào chậu, là một vành xương tròn hoặc bầu dục do ụ nhô
xương cùng ở sau và các đường tận cùng ở hai bên tạo nên. Eo trên nằm trên một
mặt phẳng chếch xuống dưới và ra trước.Ở nữ, các kích thước của eo chậu trên là
một trong những yếu tố quyết định đẻ dễ hay khó.
- Eo chậu dưới: Eo dưới có hình trám mà hai cạnh trước là hai ngành ngồi - mu
(gặp nhau tại góc dưới mu), hai cạnh sau là các dây chằng cùng - củ với xương cụt
ở giữa. Nửa sau của eo dưới không phải là đưòng viền cứng vì các dây chằng có thể
giãn được và xương cụt cũng có thể dịch chuyển. Eo dưới cũng có ba đường kính
+ Đường kính trước - sau thường được đo từ đỉnh xương cụt tới bờ dưới
khớp mu (125 mm);
+ Đường kính ngang được đo ở giữa các củ ngồi, tại bờ dưới của mặt trong
(118 mm);
+ Đường kính chéo đi từ điểm giữa của dây chằng cùng - củ tới giữa ngành ngồi -
mu bên đối diện (118 mm)
- Sự khác nhau giữa chậu hông nam và chậu hông nữ: Chậu hông nữ rộng và ngắn,
40
các đường kính eo chậu trên lớn hơn nam. Xương chậu hông của nam dày hơn và
các mỏm hay gò xương cũng rõ nét hơn
2. Xương đùi
Xương đùi là xương dài và là xương nặng nhất cơ thể, có một thân và hai đầu.
- Đầu trên: có lần lượt từ trong ra:
+ Chỏm xương đùi là một khối tròn gọi là chỏm đùi, khớp với ổ cối xương chậu. Ở
gần đỉnh chỏm có hõm chỏm đùi, là nơi dây chằng chỏm đùi bám
+ Cổ xương đùi hay cổ giải phẫu (dài khoảng 3-4cm), hợp với thân xương một góc
130o. Cổ xương đùi là phần yếu nhất của xương đùi
+ Mấu chuyển lớn và nhỏ. Mấu chuyển lớn là khối xương to nằm ngoài cổ, còn mấu
chuyển bé là núm xương nằm dưới cổ. Hai mấu chuyển được nối với nhau bằng
đường gian mấu ở phía trước và mào gian mấu ở phía sau.
- Thân xương: nhẵn và gần tròn nhưng ở phía sau có một đường gồ ghề gọi là đường
ráp. Đường ráp có hai mép trong và ngoài. Về phía đầu trên, mép ngoài liên tiếp
với lồi củ cơ mông, mép trong với đường lược. Về phía dưới, các mép chạy về phía
các lồi cầu xương đùi tương ứng và trở thành các mào trên lồi cầu ngoài và trong,
giữa hai mào là diện khoeo.
- Đầu dưới: to, tiếp khớp với xương chày bằng lồi cầu trong và lồi cầu ngoài. Lồi cầu
ngoài có mỏm trên lồi cầu ngoài nằm ở mặt ngoài. Lồi cầu trong có mỏm trên lồi
41
cầu trong nằm ở mặt trong và có củ cơ khép nằm trên mỏm này. Hai lồi cầu nối với
nhau ở trước bằng diện bánh chè và được ngăn cách nhau ở phía sau bằng hố gian
lồi cầu.
3. Xương bánh chè
Xương bánh chè nằm phía trước khớp gối, bảo vệ khớp gối có hình tam giác,
đỉnh quay xuống dưới. Mặt trước hơi lồi và xù xì, là nơi bám cùa gân cơ tứ đầu
đùi. Mặt sau phẳng và nhẵn, tiếp giáp với diện bánh chè xương đùi
B.Mặt sau
A. Mặt trước
42
trước và dưới hai lồi cầu có lồi củ chày, nơi bám của dây chàng bánh chè. Trên mặt
sau - dưới lồi cầu ngoài có mặt khớp mác tiếp khớp với chỏm xương mác
- Đầu dưới: là một khối xương nhỏ hơn đầu trên, phía trong có mắt cá trong, mặt
ngoài mắt cá trong có diện khớp mắt cá, khớp với diện khớp trong của mặt trên
xương sên ở cổ chân. Mặt dưới của đẩu dưới có diện khớp dưới, nơi tiếp khớp với
diện khớp trên của mặt trên xương sên.
- Thân xương: nhỏ dần từ trên xuống dưới, bờ ngoài sắc và mỏng, có màng gian cốt
bám. Bờ trước rõ và nằm ngay dưới da nên ta có thể sờ thấy dễ dàng
4.2. Xương mác
Xương mác là xương dài, mảnh, ở ngoài xương chày, gồm thân và hai đầu.
Đầu trên phình to gọi là chỏm mác, khớp vối xương chày.
Đầu dưới hình tam giác được gọi là mắt cá ngoài, xuống thấp hơn mắt cá trong
khoảng 1 cm. Mặt sau có rãnh mắt cá cho gân cơ mác đi qua; ở đỉnh có hố mắt cá
ngoài cho dây chằng mác - sên bám và mặt khớp mắt cá tiếp khớp với xương sên.
Thân xương: nhỏ và nhìn như bị xoắn vặn từ trên xuong dưới và vào trong. Bờ
trong mỏng và sắc, có màng gian cốt bám
5. Các xương ở cổ chân và bàn chân
Ba xương
chêm
Xương hộp
Xương gót
Xương bàn chân
Xương thuyền
Xương sên
43
cá trong và ngoài và khớp với hai mắt cá tạo nên khớp cổ chân. Phía trước xương
sên khớp với xương thuyền.
- Xương gót: là xương to nhất ở cổ chân, chịu phần lớn sức nặng của cơ thể dồn
xuống khi đứng. Phía trên khớp với xương sên, trước khớp với xương hộp, phía sau
lồi xuống dưới tạo nên gót chân
- Xương thuyền tiếp khớp với chỏm sên ở phía sau, với ba xương chêm ở phía
trước và với xương hộp ở phía ngoài; mặt trong của nó có lồi củ xương thuyền
- Các xương chêm trong, giữa và ngoài nằm trên một hàng ngang ở trước xương
thuyền và sau các xương đốt bàn I, II, và III.
- Xương hộp hình khối vuông nằm giữa xương gót và các xương đốt bàn chân IV,
V
5.2. Các xương đốt bàn chân
Gồm năm xương được gọi theo số từ I - V, kể từ trong ra ngoài. Chúng thuộc
loại xương dài, mỗi xương có thân nằm giữa nền và chỏm (đầu xa). Nền có các mặt
khớp tiếp khớp với xương cổ chân và với xương đốt bàn chân bên cạnh. Chỏm lồi,
tiếp khớp với nền xương đốt ngón chân gần
5.3. Các xương đốt ngón chân có số lượng và cách gọi tên giống như xương đốt
ngón tay.
6. Các khớp của chi dưới
Gồm khớp mu, khớp háng, khớp gối, khớp cổ
chân, bàn chân và ngón chân.
- Khớp mu : là 1 khớp sụn sợi, thường là khớp
bất động, tuy nhiên ở phụ nữ khi sinh đẻ khớp
có thể dãn rộng.
- Khớp háng: là khớp hoạt dịch trong đó chỏm
xương đùi tiếp khớp với ổ cối xương chậu.
Khớp háng là khớp chỏm cầu có cử động tương
tự khớp vai, tuy nhiên khớp háng có cấu tạo
vững chắc để chịu lực cho cơ thể và tầm hoạt
động không rộng rãi như khớp vai. Các cử động
của đùi tại khớp háng là gấp, duỗi, dạng, khép,
xoay trong, xoay ngoài.
- Khớp gối: là khớp hoạt dịch, trong đó đầu
dưới xương đùi tiếp khớp với đầu trên của
xương chày đồng thời xương bánh chè tiếp
khớp với xương đùi. Các cử động của khớp gối
44
là gấp duỗi cẳng chân.
45
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ CƠ
Mục tiêu:
Biết được cấu trúc, chức năng và phân loại cơ
Mô tả được tên, vị trí và chức năng của các nhóm cơ chính trên cơ thể
I. ĐẠI CƯƠNG HỆ CƠ
Hệ cơ là hệ thống các cơ và nhóm cơ giúp vận động cơ thể và các tạng khác. Đặc
tính cơ bản của cơ là sự co cơ
Hệ cơ có năm chức năng: tạo ra các cử động, duy trì các tư thế của cơ thể, điều hoà
thể tích của các cơ quan, sinh nhiệt và làm dịch chuyển các chất trong cơ thể
1. Phân loại cơ
Mô cơ là loại mô gồm những tế bào có khả năng co rút. Cơ thể người có ba loại
mô cơ khác nhau về vị trí, cấu tạo mô học và sự chi phối của thần kinh đó là cơ
vân, cơ trơn và cơ tim.
1.1. Cơ vân: còn gọi là cơ bám xương vì các cơ này bám vào xương, chủ yếu là
hoạt động theo ý muốn như các cơ ở đầu, thân, tứ chi và một số cơ của cơ quan nội
tại (lưỡi, thanh quản...). Khi quan sát dưới kính hiên vi, các tế bào cơ vân có những
dải sáng và tối xen kẽ nhau.
1.2. Cơ trơn:
Một bólàsợiloại cơ và
cơ vân cấumôtạo
liênnên
kết đithành
kèm mạch máu, Một
thành
sợi của ống tiêu hóa, đường hô
cơ vân
hấp và một số tạng rỗng như bàng quang, tử cung…. các nang lông ở da. Cơ 4 trơn
6
do hệ thần kinh thực vật điều khiển nên hoạt động không theo ý muốn. Dưới kính
hiển vi, tế bào cơ trơn có hình thoi với một nhân ở trung tâm và không có vân
ngang.
1.3. Cơ tim: cấu tạo nên quả tim là loại cơ đặc biệt, vừa có tính chất giống cơ vân (co
rút có tính chu kỳ), vừa tính chất giống cơ trơn (hoạt động không theo ý muốn). Cơ
tim được điều khiển bởi hệ thần kinh thực vật và hệ thần kinh tự động nên hoạt
động không theo ý muốn giống cơ trơn. Dưới kính hiển vi sợi cơ tim cũng có vân
sáng tối như cơ vân.
2. Cách đặt tên các cơ (Trong nội dung của bài này chỉ đề cập đến cơ vân)
Cơ vân được chia thành nhiều loại và nhiều cách gọi tên tùy theo hình dạng, vị
trí, nơi bám, số đầu nguyên ủy và theo chức năng.
- Theo hình dạng: cơ hình thoi, cơ dẹt, cơ thẳng, cơ tam giác, cơ vuông, cơ vòng.
- Theo vị trí: cơ ngực lớn, cơ thẳng bụng
- Theo nơi bám: cơ ức đòn chủm, cơ quạ-cánh tay.
- Theo số đầu nguyên ủy: cơ nhị đầu, cơ tam đầu
- Theo chức năng: cơ dạng, cơ khép, cơ sấp, cơ ngữa,cơ đối chiếu.
3. Cấu tạo của cơ vân:
. Cơ vân được cấu tạo từ những bó sợi cơ. Cấu tạo chung gồm hai phần: giữa là phần
thịt hay bụng cơ, hai đầu là phần gân bám vào xương hay da. Phần bụng do nhiều
các sợi cơ và các thành phần mô liên kết tạo nên
4
7
1. Cơ một bụng
2. Cơ hai đầu
3. Cơ hai bụng
4. Cơ nhiều đầu (cơ dẹt)
5. Cơ bị gân cắt ngang
6. Cơ một cánh
7. Cơ hai cánh
Ở giữa cơ và da, có một lớp mô liên kết gọi là mạc gồm hai phần: phần đặc nằm
sâu sát màng ngoài cơ là mạc sâu; phần lỏng lẻo (chứa mỡ) ở ngay dưới da gọi là
mạc nông
Mô liên kết bao quanh các sợi cơ, các bó sợi cơ và toàn bộ cơ còn kéo dài
vượt quá chiều dài các sợi cơ để trở thành (hay liên tiếp với) các gân gắn cơ vào
xương hoặc các cấu trúc khác. Thường thì gân là những thừng sợi trắng bóng.
Riêng những gân rộng và dẹt được gọi là cân.
4
8
Biên độ co: khi một cơ co, chiều dài các bó sợi cơ của nó giảm đi tối đa là
57% (từ 1/3 tới 1/2) so với chiều dài lúc nghỉ. Biên độ co của cơ phụ thuộc vào
chiều dài của các bó sợi cơ nằm giữa các gân. Các gân là những phần không co.
Lực co cơ: lực co của một cơ tỉ lệ thuận với đường kính của nó. Một cơ càng
có nhiều sợi và bó sợi thì càng khoẻ.
1.4. Nhóm cơ mũi: gồm các cơ kém phát triển. Nhóm cơ mũi gồm 3 cơ:
- Cơ mảnh khảnh (cơ tháp hay cơ cao) nằm phía trên sống mũi và ở 2 bên đường
giữa. Khi co kéo góc trong của lông mày xuống. Là cơ biểu lộ sự kiêu ngạo.
5
1
- Cơ mũi gồm có phần ngang mũi và phần cánh mũi: phần ngang làm hẹp lỗ mũi;
phần cánh kéo cánh mũi xuống dưới và ra ngoài, làm nở rộng lỗ mũi
- Cơ hạ vách mũi: Làm hẹp lỗ mũi, kéo vách mũi xuống dưới
1.5. Cơ miệng: cơ vùng miệng có số lượng cơ lớn vì miệng hoạt động nhiều nhất.
- Cơ vòng miệng bao quanh lấy 2 môi, khi co làm môi mím lại: Khép và đưa môi ra
trước, ép môi vào răng, thay đổi hình dạng của môi trong lúc nói
-Cơ nâng môi trên cánh mũi: Bó ngoài nâng môi trên, bó trong làm nở mũi
- Cơ nâng môi trên: Nâng môi trên, làm thay đổi rãnh mũi - môi (rãnh sâu khi buồn
- Cơ hạ môi dưới: Kéo góc miệng xuống dưới và ra ngoài khi mở miệng và khi biểu
lộ sự mỉa mai
- Cơ gò má lớn: Kéo góc miệng lên trên và ra ngoài khi cười
- Cơ gò má bé: Nâng môi trên, làm lộ các răng hàm trên
- Cơ cười: Làm kéo góc miệng theo chiều ngang (cười mỉm).
- Cơ cằm: Tác dụng nâng và đưa môi dưới ra trước, nâng và làm nhăn da cằm
- Cơ mút hay cơ thổi kèn: Tác dụng: ép má vào răng và nướu, giúp nhai, mút, thổi
- Cơ nâng góc miệng: Nâng góc miệng làm lộ răng khi mỉm cười
- Cơ hạ góc miệng: Tác dụng: kéo góc miệng xuống dưới, gây buồn bã.
- Cơ ngang cằm
1.6. Cơ nhai: có chung các tính chất sau
Nguyên ủy ở khối xương sọ, bám tận ở xương hàm dưới
Dây thần kinh hàm dưới (V3) chi phối vận động
Tác dụng là vận động xương hàm dưới tạo ta động tác nhai
Hình. Các cơ nhai
1.6.1. Cơ thái dương: nguyên ủy ở hố thái dương, bám tận ở mỏm vẹt xương hàm
dưới, hình nan quạt, che phủ gần hết mặt bên vòm sọ. Có chức năng nâng hàm dưới
lên và kéo ra sau 5
2
1.6.2. Cơ cắn: nguyên ủy ở cung gò má, bám tận ở mặt ngoài ngành hàm và góc
hàm. Có chức năng nâng hàm dưới lên.
1.6.3. Cơ chân bướm trong: nguyên ủy ở mặt trong của mảnh ngoài mỏm chân
bướm, bám tận vào mặt trong của ngành hàm và góc hàm. Có chức năng kéo hàm
dưới lên trên và ra trước.
1.6.4. Cơ chân bướm ngoài: nguyên ủy ở mặt ngoài mỏm chân bướm, bám tận vào
lồi cầu xương hàm dưới và bao khớp của khớp thái dương - hàm dưới. Có chức
năng kéo hàm dưới ra trước.
5
3
Cơ ức - đòn - chũm do thần kinh phụ chi phối. Hai cơ cùng co làm gấp đoạn
cột sống cổ và ruỗi đầu; một cơ co làm nghiêng đầu về cùng bên và xoay mặt về
phía đối diện.
2.2. Các cơ trên móng và các cơ dưới móng
Các cơ trên móng nằm trên xương móng, nối xương móng vào sọ và bao gồm
cơ hàm - móng, cơ cằm - móng, cơ trâm - móng và cơ hai bụng. Tác dụng chung
của các cơ trên móng là nâng xương móng và sàn miệng, hạ xương hàm dưới.
Các cơ dưới móng gồm bốn cơ nằm dưới xương móng: cơ ức - móng, cơ ức -
giáp, cơ giáp - móng và cơ vai - móng. Khi co, các cơ này làm hạ thấp xương
móng và thanh quản trong lúc nuốt và nói. Nhóm cơ trên móng và nhóm cơ dưới
móng có tácdụng đối kháng nhau. Tuy nhiên, khi cả hai nhóm cơ cùng co thì giữ
cố định xương móng, làm cho các cơ lưỡi bám vào xương móng có thể hoạt động
được trên một nền xương cố định. Hai nhóm cơ có thể phối hợp trong cử động
xoay tròn xương móng.
Cơ hai bụng có một gân trung gian bám vào thân và sừng lớn xương móng.
Từ gân này, bụng trước chạy tới hố cơ hai bụng của xương hàm dưới, bụng sau tới
khuyết chũm xương thái dương, về chi phối thần kinh, cơ trâm - móng và bụng sau
cơ hai bụng do thần kinh mặt vận động, bụng trước cơ hai bụng và cơ hàm - móng
do các nhánh đến từ thần kinh huyệt răng dưới (nhánh của thần kinh hàm dưới) vận
động, các cơ khác do các nhánh của đám rối cổ vận động.
5
4
Hình. Các cơ trên móng và dưới móng
2.3.Các cơ trước và các cơ bên cột sống
2.3.1.Các cơ trước cột sống
Các cơ nằm sát mặt trước cột sống cổ bao gồm các cơ: cơ gối đầu, cơ gối cổ,
các cơ thẳng đầu sau lớn và bé. Các cơ này đi từ mặt trước (của thân hoặc mỏm
ngang) đốt sống cổ này đến mặt trước đốt sống cổ kia, hoặc đi từ mặt trước các đốt
cổ tới xương chẩm (phần nền và mỏm tĩnh mạch cảnh). Chúng làm gấp đầu và cổ,
cả bốn cơ được chi phối bởi các nhánh đến từ ngành trước các thần kinh sống cổ.
2.3.2.Các cơ bên cột sống
Có ba cơ bậc thang trước, giữa và sau chạy chếch như các bậc thang từ mỏm
ngang các đốt sống cổ tới hai xương sườn trên. Chúng đều do các nhánh từ ngành
trước các thần kinh sống cổ vận động. Các cơ này làm nghiêng đoạn cổ của cột
sống sang bên và nâng xương sườn I (các cơ bậc thang trước và giữa) hoăc II (cơ
bậc thang sau).
5
5
1. Cơ ức đòn chũm
2. Cơ gối đầu
3. Cơ thang
4. Cơ nâng vai
5. Cơ bậc thang giữa
6. Bụng dưới cơ vai móng
8. Bụng trước cơ hai thân
9. Cơ hàm móng
10. Cơ giáp móng
11. Bụng trên cơ vai móng
12. Cơ ức móng
- Cơ thang bám từ gáy trên của xương chẩm, mỏm gai của các đốt sống cổ và
ngực đến xương đòn, mỏm cùng vai và gai vai.
5
7
- Cơ nâng vai bám từ mỏm ngang của đốt sống cổ trên đến phần trên gai vai
của xương vai.
- Cơ trám bám từ mỏm gai của các đốt sống cổ và ngực đến gai vai.
Tác dụng chính của nhóm cơ này là nâng và xoay xương vai do thần kinh phụ
và đám rối cổ chi phối
1.2. Các cơ sâu (cơ cạnh sống): là những cơ nằm cạnh cột sống đi từ chậu hông tới
xương chậu, xếp thành 4 lớp:
Lớp thứ nhất: gọi là các cơ gai ngang, gồm cơ gối đầu và cơ gối cổ.
Lớp thứ hai: gọi là các cơ dựng gai, gồm 3 cơ xếp từ ngoài vào trong theo trình tự là
cơ chậu sườn, cơ cực dài và cơ gai.
Lớp thứ ba: gọi là các cơ ngang gai, gồm cơ nhiều chân, cơ bán gai và cơ xoay.
Lớp thứ tư: gồm các cơ gian gai và cơ gian ngang bám giữa các mỏm ngang hoặc các
mỏm gai của các đốt sống.
5
8
Tác dụng chung của nhóm cơ này là duỗi, nghiêng và xoay cột sống do các nhánh
thần kinh gai chi phối vận động
6
0
3. Các cơ thành bụng
Cơ thành bụng gồm nhóm cơ thành bụng trước bên, nhóm cơ thành bụng sau và cơ
hoành ngăn cách giữa khoang bụng và khoang ngực.
3.1. Các cơ thành bụng trước bên
Thành bụng trước bên gồm hai cơ ở phía trước và giữa bụng là cơ thẳng bụng và cơ
tháp, ba cơ rộng và dẹp ở hai bên xếp thành ba lớp từ nông đến sâu là cơ chéo bụng
ngoài, cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng. Năm sâu dưới các cơ thành bụng
trước bên là mạc ngang rồi đến phúc mạc. Hai phần phải và trái của thành bụng
trước gặp nhau ở đường giữa gọi là đường trắng giữa đi từ mũi ức đến xương mu.
Cơ ngang bụng
- Cơ thẳng bụng: bám từ mỏm mũi kiếm xương ức, các sụn sườn thứ 5, 6, 7 ở trên đến
thân xương mu ở dưới. Giữa hai cơ thẳng bụng là đường trắng giữa, bờ ngoài hai
cơ thẳng bụng gọi là đường trắng bên.
- Cơ tháp: là 2 cơ nhỏ bám từ xương mu đến đường trắng.
- Cơ chéo bụng ngoài: bám từ nửa dưới lồng ngực chạy chếch xuống dưới và ra trước
đến đường trắng giữa, xương mu và mào chậu.
- Cơ chéo bụng trong: bám từ cân ngực thắt lưng, mào chậu, dây chằng bẹn chạy
chếch lên trên và ra trước đến đường giữa và bờ dưới các xương sườn từ X - XII.
- Cơ ngang bụng: bám từ cân ngực thắt lưng, các xương sườn cuối, mào chậu và dây
chằng bẹn chạy ngang rồi tạo thành cân bám vào đường giữa và xương mu.
Với cách sắp xếp và cấu tạo đặc biệt như trên của các cơ thành bụng trước bên có tác
dụng bảo vệ và giữ các tạng trong ổ bụng, làm tăng áp lực trong ổ bụng khi các cơ
6
1
cùng co tạo ra áp lực cần thiết trong động tác rặn trong đại tiện, tiểu tiện, sinh đẻ và
nôn ói, góp phần trong hô hấp gắng sức. Ngoài ra, các cơ thành bụng trước bên còn
giúp cơ thể thực hiện các động tác như gập bụng, xoay người, nghiêng người, giúp
giữ vững tư thế, cử động thân mình.
Thần kinh chi phối các cơ thành bụng trước bên là từ các nhánh của dây thần kinh N7
đến N12, thần kinh hạ vị và thần kinh chậu bẹn.
3.2. Các cơ thành bụng sau
Cơ thành bụng sau gồm cơ thắt lưng lớn, cơ thắt lưng bé, cơ chậu và cơ vuông thắt
lưng. Cơ vuông thắt lưng bám từ bờ dưới xương sườn XII và các mỏm ngang của
các đốt sống thắt lưng đến mào chậu.
Nhóm cơ thành bụng sau có tác dụng giúp cơ thể thực hiện các động tác gấp, duỗi
và nghiêng cột sống.
3.3. Ống bẹn
Ống bẹn là một khe chéo, nằm trong lớp cân của thành bụng trước bên, theo
hướng từ sau ra trước, vào trong và xuống dưới, ống bẹn có hai lỗ là lỗ bẹn sâu và
lỗ bẹn nông.
Ống bẹn có bốn thành là:
- Thành trước cấu tạo chủ yếu là da, tổ chức dưới da, cân cơ chéo bụng ngoài và một
phân cơ chéo bụng trong.
- Thành sau là mạc ngang và phúc mạc.
- Thành trên là liềm bẹn do cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng.
- Thành dưới là dây chằng bẹn căng từ gai chậu trước trên và gai mu.
Ở nam ống bẹn chứa thừng tinh, còn nữ ống bẹn chứa dây chằng tròn tử cung, ống bẹn
là một điểm yếu tiềm tàng của thành bụng, nhất là ở nam giới, nên thường xảy ra
thoát vị bẹn.
Nguyên uỷ: Cơ hoành có nguyên ủy bám vào mặt sau mỏm mũi kiếm của xương
ức, sụn sườn, 6 xương sườn cuối và các đốt sống thắt lưng lên và các cơ thành
bụng sau bởi 2 trụ: phải và trái vây quanh lỗ động mạch chủ và các dây chằng cung
giữa, dây chằng cung trong và dây chằng cung ngoài.
Từ nguyên ủy các thớ cơ của cơ hoành chạy lên và vòng sang ngang phía đối
diện tập trung về một tấm gân chung gọi là gân trung tâm cơ hoành (bám tận) gồm
3 lá: lá phải, lá trái và lá giữa.
Trên cơ hoành có nhiều lỗ được tạo nên để các cấu trúc đi từ vùng ngực xuống
bụng và ngược lại, như lỗ tĩnh mạch chủ nằm ở trung tâm, lỗ động mạch chủ nằm
trước cột sống, lỗ thực quản nằm trước về phía trái của lỗ động mạch chủ, dây thần
kinh X cùng đi cùng thực quản qua lỗ thực quản
Cơ hoành là cơ giữ vai trò chính trong sự hô hấp đặc biệt trong động tác hít vào,
góp phần làm tăng áp lực trong ổ bụng trong đại tiện và sinh sản, đẩy máu trong
gan, trong ổ bụng về tim và đóng vai trò như cơ co thắt thực quản.
Các cơ của đáy chậu được chi phối bởi nhánh đáy chậu thần kinh thẹn, trừ cơ
thắt hậu môn ngoài do thần kinh sống cùng 4 nhánh trực tràng dưới của thần kinh
thẹn chi phối.
6
5
IV. CÁC CƠ CHI TRÊN
Các cơ vùng chi trên, được sap xếp dựa vào chỗ bám, vị trí và tác dụng gây nên
các cử động tương ứng mà có thể chia ra thành các nhóm cơ như sau: cơ vùng
nách, cơ cánh tay, cơ cẳng tay và cơ bàn tay.
1. Nhóm cơ vùng nách
Cơ vùng nách được chia thành 4 thành: thành trước, thành ngoài, thành trong và
thành sau.
1.1. Nhóm cơ thành trước gồm các cơ bám từ các xương sườn của ngực đến
xương đòn, xương vai và xương cánh tay.
Nhóm cơ thành trước gồm bốn cơ xếp thành hai lớp:
+ Lớp nông gồm cơ ngực lớn được bao bọc trong mạc ngực
+ Lớp sâu có cơ dưới đòn, cơ ngực bé, cơ quạ cánh tay.
Các cơ này được bọc trong mạc đòn ngực
- Cơ ngực lớn có nguyên ủy bám vào xương đòn, xương ức và các sụn sườn sau đó
thu hẹp bám vào mép ngoài rãnh gian củ của xương cánh tay tạo nên động tác khép
và xoay cánh tay và nâng lồng ngực trong các động tác leo trèo.
- Cơ ngực bé bám từ các xương sườn từ III - V đến mỏm quạ xương vai có tác dụng
hạ và xoay xương vai xuống dưới, ra trước, nâng lồng ngực lên bằng cách nâng các
xương sườn lên trong động tác hít vào.
- Cơ dưới đòn bám từ sụn sườn và xương sườn I đến rãnh dưới đòn ở mặt dưới của
xương đòn có tác dụng hạ và đưa xương đòn ra trước.
- Cơ răng trước bám từ mặt ngoài lồng ngực đến bờ trong và góc dưới xương vai,
có tác dụng dạng xương vai và xoay xương vai lên trên, nâng xương sườn lên khi
vai cố định. 6
6
Các cơ ở vùng này do đám rối thần kinh cánh tay chi phối vận động.
1.2. Nhóm cơ thành ngoài gồm cơ nhị đầu, cơ quạ cánh tay và cơ delta.
Cơ delta có hình giống chữ delta, bao bọc mặt ngoài của đầu trên xương cánh
tay, bám từ xương đòn, gai vai đến lồi củ delta, ngăn cách với cơ ngực lớn bởi rãnh
delta ngực. Cơ delta được nuôi dưỡng bơi động mạch mũ cánh tay trước và động
mạch mũ cánh tay sau, do thần kinh nách chi phối.
1.3. Nhóm cơ thành trong gồm các cơ gian sườn đầu tiên và phần trên cơ răng trước.
Cơ răng trước bám vào mặt ngoài xương sườn I —> X đến bờ sống xương vai
Cơ răng trước
1.4. Nhóm cơ thành sau (vùng vai) bao gồm các cơ bám từ xương vai đến đầu trên
xương cánh tay. Thành sau gồm cơ dưới vai, cơ dưới gai, cơ trên gai, cơ tròn6 bé và
7
cơ tròn lớn.
6
8
2.1.
- Lớp nông: cơ nhị đầu cánh tay có 2 đầu, nguyên ủy gồm đầu dài bám vào củ trên ổ
chảo và đầu ngắn bám vào mỏm quạ, bám tận gân chính vào lồi củ xương quay,
chẽ cận phụ vào mạc cẳng tay.
- Lớp sâu: cơ quạ cánh tay bám từ mỏm quạ đến mặt trong xương cánh tay. Cơ cánh
tay bám từ mặt trước xương cánh tay đến mỏm vẹt xương trụ.
Cả 3 cơ do thần kinh cơ bì điều khiển. Các cơ vùng cánh tay có tác dụng gấp cẳng tay
là chính
2.2. Cơ vùng cánh tay sau: có một cơ là cơ tam đầu cánh tay.
Cơ gồm có ba đầu, nguyên ủy ở ổ chảo xương vai và mặt sau xương cánh tay,
bám tận ở mỏm khuỷu. Cơ này do dây thần kinh quay chi phối vận động, có nhiệm
vụ duỗi cẳng tay.
3.Vùng khuỷu
6
9
Khuỷu nối cẳng tay vào cánh tay gồm có các vùng ở phía trên và dưới nếp
khuỷu ba khoát ngón tay. Phía trước là vùng khuỷu trước, phía sau là vùng khuỷu
sau, chính giữa là khớp khuỷu. Ở vùng khuỷu trước, có ba toán cơ tạo nên hố
khuỷu:
7
0
- Lớp sâu: cơ gấp các ngón sâu, cơ gấp ngón cái dài.
+ Hai cơ này có chung nguyên ủy ở mặt trước 2 xương cẳng tay và màng gian cốt
bám tận vào đốt xa các ngón tương ứng.
+ Cơ sấp vuông bám từ mặt trước xương trụ đến 1/4 dưới xương quay.
4.2. Vùng cẳng tay sau: gồm 12 cơ vùng cẳng tay sau xếp thành 2 lớp:
- Lớp nông, gồm hai nhóm: nhóm ngoài và nhóm sau.
+ Nhóm ngoài: cơ cánh tay quay, cơ duỗi cổ tay quay dài, cơ duỗi cổ tay quay ngắn,
bám chung từ nguyên ủy là mỏm trên lồi cầu ngoài đến mỏm trâm quay (cơ cánh
tay quay) và đến mặt sau nền các xương đốt bàn tay 2,3 (cơ duỗi cổ tay quay dài,
cơ duỗi cổ tay quay ngắn).
+ Nhóm sau: cơ duỗi các ngón, cơ duỗi ngón út, cơ duỗi cổ tay trụ, cơ khuỷu. Các cơ
này có chung nguyên ủy là mỏm trên lồi cầu ngoài đến mỏm khuỷu hoặc xương đốt
bàn tay.
7
1
- Lớp sâu: cơ dạng ngón cái dài, cơ duỗi ngón cái ngắn, cơ duỗi ngón cái dài, cơ duỗi
ngón trỏ, cơ ngửa. Trong đó:
+ Cơ ngửa bám từ mỏm trên lồi cầu ngoài xương trụ rồi vòng quanh cổ xương
quay bám vào 1/3 trên mặt ngoài xương quay.
+ Các cơ còn lại có nguyên ủy từ mặt sau 2 xương cẳng tay và màng gian cốt,
bám tận vào các ngón tương ứng.
+ Thần kinh chi phối cho các cơ vùng cánh tay sau là dây thần kinh quay, nhiệm
vụ là ngửa bàn tay, duỗi ngón tay và bàn tay
5. Cơ ở bàn tay
Bàn tay giới hạn từ nếp gấp cổ tay xa nhất đến đầu các ngón tay, được chia làm
hai phần: gan tay và mu tay.
Các cơ bàn tay gồm các cơ mô cái, cơ mô út, các cơ gian cốt mu tay và cơ giun.
- Cơ mô cái gồm 4 cơ bám từ xương cổ tay quay đến xương đốt ngón cái hoặc
xương đốt bàn I, gồm có cơ dạng ngón cái ngắn, cơ gấp ngón cái ngắn, đối ngón
cái và khép ngón cái.
- Cơ mô út gồm cơ gan tay ngắn, cơ dạng ngón út, cơ gấp ngón út ngắn và cơ đối
ngón út, các cơ này bám từ xương cổ tay đến ngón út hoặc cân gan tay.
- Nhóm cơ gian cốt và cơ giun gồm 11 cơ: cơ gian cốt gan tay, cơ gian cốt mu tay
và các cơ giun, bám từ gân cơ gấp các ngón sâu hoặc giữa các xương đốt ngón đến
xương đốt gần, gân duỗi các ngón. Các cơ này do dây thần kinh giữa và trụ chi phối
vận động, có tác dụng gây ra các vận động cho các ngón và ngón út, dạng khép các
ngón.
7
2
V. CÁC CƠ CHI DƯỚI
Các cơ chi dưới to, khỏe hơn, thích nghi với chức năng di chuyển và giữ cơ thể
đứng. Cơ chi dưới gồm 4 vùng: vùng chậu- mông, vùng đùi, vùng cẳng chân và
vùng bàn chân. Trong đó cơ vùng chậu đã được mô tả ở phần trên.
1. Cơ vùng mông
Vùng mông là một vùng có nhiều mạch máu và thần kinh quan trọng từ chậu
hông đi qua để xuống chi dưới. Các cơ vùng mông gồm hai nhóm có chức năng
khác nhau.
1.1. Loại cơ chậu mấu chuyển gồm các cơ: cơ căng mạc đùi, cơ mông lớn, cơ mông
nhỡ, cơ mông bé và cơ hình lê. Nhóm cơ này gồm các cơ bám từ xương chậu và
xương cùng đến mấu chuyển lớn. Đây là những cơ có chức năng duỗi, dạng và
xoay đùi.
1.2. Loại cơ ụ ngồi xương mu mấu chuyển gồm các cơ: cơ bịt trong, cơ sinh đôi, cơ
vuông đùi và cơ bịt ngoài. Nhóm cơ này gồm các cơ bám từ xương mu, ụ ngồi đến
mấu chuyển lớn. Các cơ này có động tác chủ yếu là xoay ngoài đùi.
Ngoài ra các cơ vùng mông còn có thê xếp thành 3 lớp theo thứ tự nông sâu như
sau:
- Lớp nông: cơ mông lớn và căng mạc đùi.
- Lớp giữa: cơ mông nhỡ và cơ hình lê.
- Lớp sâu: cơ mông bé, cơ bịt trong, cơ bịt ngoài, cơ sinh đôi trên, cơ sinh đôi
dưới và cơ vuông đùi.
1.3. Đặc điếm giải phẫu của từng cơ:
7
3
Cơ mông lớn: là cơ lớn nhất trong cơ thể, hình tứ giác, che phủ gần hết mông.
- Nguyên ủy: mào xương chậu, mặt sau xương chậu, xương cùng.
- Bám tận: phía dưới mấu chuyển lớn xương đùi.
- Tác dụng giữ cơ thể thẳng đứng, duỗi và sấp đùi.
Cơ mông nhỡ và cơ mông bé: cả 2 cơ này nằm dưới cơ mông lớn, có hình tam giác. -
Nguyên ủy vào mặt ngoài xương cánh chậu.
- Bám tận vào mấu chuyến lớn xương đùi.
- Tác dụng dạng sấp, ngửa đùi.
Cơ bịt trong
- Nguyên ủy vào mặt trong lỗ bịt.
- Bám tận vào mấu chuyển lớn xương đùi.
- Tác dụng xoay đùi ra ngoài.
CƠ sinh đôi gồm 2 cơ.
- Cơ sinh đôi trên nguyên ủy là đai hông.
- Cơ sinh đôi dưới nguyên ủy là ụ ngồi xương chậu.
- Cả hai cơ bám tận vào mặt trong mấu chuyển lớn xương đùi.
- Tác dụng xoay đùi ra ngoài.
Cơ vuông đùi
- Nguyên ủy là ụ ngồi xương chậu.
- Bám tận vào mào liên cốt.
-Tác dụng xoay đùi ra ngoài.
2. Cơ vùng đùi
Đùi được giới hạn phía trên bởi nếp lằn bẹn ở trước và lớp lằn mông ở sau, phía dưới
bởi một đường ngang phía trên nền xương bánh chè. Các cơ đùi được chia thành
hai vùng và một số cấu trúc liên quan khác.
2.1. Cơ vùng đùi trước: gồm hai khu cơ.
2.1.1. Khu cơ trước là khu gấp đùi và duỗi cẳng chân, gồm cơ may và cơ tứ đầu đùi,
chủ yếu do dây thần kinh đùi chi phối vận động, chức năng duỗi cẳng chân, riêng
cơ thẳng đùi còn giúp gấp đùi.
- Cơ tứ đầu đùi là cơ lớn, khỏe, nặng và phủ gần hết mặt trước đùi. Cơ có 4 đầu, mỗi
đầu là một tên cơ riêng:
+ Cơ thẳng đùi nguyên ủy là gai chậu trước dưới.
+ Cơ rộng giữa bám nguyên ủy là đường liên mấu.
+ Cơ rộng ngoài nguyên ủy là mấu chuyển lớn và mép ngoài đường ráp của xương
đùi.
+ Cơ rộng trong nguyên ủy là mép đường ráp trong xương đùi
7
4
Các cơ này bám tận vào lồi củ cùa xương chày.
Tác dụng: duỗi khớp gối, duỗi cẳng chân, gập cơ chân.
- Cơ may là cơ dài nhất của cơ thể, nằm vắt chéo trước đùi, bám vào từ gai chậu trước
trên đến vào mặt trong đầu trên xương chày.
Tác dụng gấp đùi, xoay đùi ra ngoài, sấp căng vào đùi.
2.1.2. Khu cơ trong là khu khép đùi, có: đặc điểm chung là bám chủ yếu vào xương
mu, bờ dưới xương cánh chậu và bám dọc theo đường ráp của xương đùi, đầu trên
xương chày, gồm cơ lược, cơ thon và 3 cơ khép: cơ khép dài, khép ngắn và khép
lớn
có nhiệm vụ khép đùi, do dây thần kinh bịt chi phối vận động, trừ cơ lược và một phần
cơ khép dài do thần kinh đùi chi phối.
- Cơ lược bám từ mào lược, xuống mu đến đường ráp xương đùi. Tác dụng khép đùi
- Cơ khép lớn bám vào từ ngành lên xương ngồi đến đường ráp xương đùi. Tác dụng
khép đùi vào trong
- Cơ khép dài bám từ gốc xương mu đến giữa đường ráp. Tác dụng khép đùi vào trong
- Cơ khép ngắn nằm giữa cơ khép dài và cơ khép lớn, bám từ ngành háng dưới đến
đường ráp xương đùi.Tác dụng khép đùi.
- Cơ thon là một cơ mỏng, cơ bám từ bờ ngành háng dưới đến phía dưới lồi cầu trong
xương chày. Tác dụng khép đùi vào chậu hông, khép cẳng vào đùi. Ngoài ra cơ
khép lớn tỏa thành bản rộng để phân chia đùi trước và đùi sau, và khi bám vào lồi
cầu của xương đùi tạo nên vòng gân cơ khép
1. Cơ thắt lưng chậu 2. Cơ may 3. Cơ tứ đầu 4. Cơ khép dài
5. Cơ lược 6. Cơ khép ngắn 7. Cơ khép lớn 8. Cơ bán gân
9. Cơ bán màng 10. Cơ nhị đầu đùi 7
5
Hình. Các cơ vùng đùi
2.2. Các cơ vùng đùi sau: gồm 3 cơ là cơ nhị đầu, cơ bán gân và cơ bán màng
Các cơ vùng đùi sau xếp thành 2 lớp:
+ Lớp nông gồm đầu dài cơ nhị đầu đùi và cơ bán gân
+ Lớp sâu là đầu ngắn cơ nhị đầu và cơ bán màng.
- Cơ nhị đầu đùi là một cơ khỏe nằm phía ngoài mặt sau xương đùi, cơ có 2 đầu, đầu
dài bám vào ụ ngồi xương chậu, đầu ngắn bám vào đường ráp xương đùi, bám tận
vào chỏm xương mác.
Tác dụng duỗi đùi, gấp cẳng chân hoặc xoay cẳng chân ra ngoài.
- Cơ bán gân và cơ bán màng có nguyên ủy từ ụ ngồi xương chậu đến mặt trong
xương chày vùng cẳng chân.
Cơ bán gân tác dụng gập cẳng chân vào đùi xoay cẳng chân vào trong.
Cơ bán màng tác dụng duỗi đùi, gấp và xoay cẳng chân vào trong.
3. Các cơ vùng cẳng chân
Cẳng chân được giới hạn phía trên bởi đường vòng qua dưới lồi củ chày, ở phía dưới
bởi đường vòng qua hai mắt cá. Các cơ vùng cẳng chân được chia thành hai vùng:
3.1. Các cơ vùng cẳng chân trước: do dây thần kinh mác chung chi phối vận động, có
chức năng duỗi ngón chân, xoay ngoài bàn chân và gấp mu bàn chân. Các cơ này
được chia thành hai khu:
3.1.1. Khu trước: Gồm các cơ là cơ chày trước, cơ duỗi ngón cái dài, cơ duỗi các ngón
chân dài và cơ mác ba. Do dây thần kinh mác sâu chi phối vận động
7
6
- Cơ chày trước nằm ngay phía trước cẳng chân, bám từ lồi cầu ngoài và mặt ngoài
xương chày vào xương chêm 1 và đốt bàn 1.
Tác dụng: gấp bàn chân.
- Cơ duỗi ngón cái dài bám từ mặt trong xương mác vào đốt cuối ngón cái.
Tác dụng: duỗi bàn chân, duỗi ngón cái.
- Cơ duỗi các ngón chân dài bám vào mặt trước xương mác và màng liên cốt, đầu
dưới chia làm 4 gân chui qua dây chằng vòng cổ chân đến các ngón 2 - 5.
Tác dụng: duỗi bàn chân, duỗi các ngón chân 2 - 5. Cơ mác ba được tách ra từ cơ duỗi
chung các ngón.
3.1.2. Khu ngoài: gồm hai cơ: cơ mác dài, cơ mác ngắn do dây thần kinh mác nông chi
phối vận động.
- Cơ mác dài bám từ mặt ngoài xương mác vào xương chêm I, đầu nền đốt bàn số I.
Tác dụng duỗi và xoay bàn chân ra ngoài.
- Cơ mác ngắn bám từ mặt ngoài xương mác đến đầu chỏm đốt bàn số V.
Tác dụng nâng bờ ngoài bàn chân
3.2. Các cơ vùng cẳng chân sau: do dây thần kinh chày chi phối vận động, có tác
dụng gấp ngón chân, gấp gan bàn chân và xoay trong bàn chân. Các cơ được chia
làm 2 lớp bởi mạc cẳng chân sâu.
3.2.1. Lớp nông: cơ tam đầu cẳng chân và cơ gan chân.
- Cơ tam đầu cẳng chân là cơ lớn tạo nên bắp chân. Nó được hình thành từ 2 cơ: cơ
bụng chân và cơ dép.
+ Cơ bụng chân bám vào 2 lồi cầu xương đùi.
+ Cơ dép bám vào mặt sau xương mác. 7
7
Đầu dưứi 3 cơ này chập chung lại thành một gân lớn gọi là gân Asin và bám
tận vào củ gót.
Tác dụng gấp bàn chân và nâng bàn chân lên trong động tác đi, chạy nhảy.
- Cơ gan chân là một cơ mảnh, kém phát triển ở người.
3.2.2. Lớp sâu: cơ khoeo, cơ gấp ngón cái dài, cơ chày sau và cơ gấp các ngón chân
dài.
- Cơ khoeo bám từ mặt ngoài lồi cầu ngoài xương đùi đến đầu trên xương chày.
Tác dụng gấp cẳng chân, xoay cẳng chân vào trong.
- Ba cơ còn lại bám vào mặt sau 2 xương cẳng chân và bám tận vào các xương cổ
chân, bàn chân và ngón chân
Tác dụng gây nên các động tác gấp bàn chân và gấp các ngón chân.
4. Các cơ bàn chân
Bàn chân bắt đầu từ dưới hai mắt cá tới đầu mút các ngón chân. Gồm có gan
chân và mu chân. Trong đó, chủ yếu các cơ ở gan chân còn cơ ở mu chân chỉ có
một cơ. Ở gan chân gồm nhiều cơ chia làm 4 lớp.
- Lớp nông có 3 cơ (cơ gấp các ngón chân ngắn, cơ dạng ngón cái, cơ dạng ngón út)
đều bám từ xương gót đến các đốt ngón.
Tác dụng gâp và dạng ngón chân.
- Lớp giữa có 2 cơ (cơ vuông gan chân và cơ giun) đều bám từ xương gót đến gân cơ
gấp chung ngón chân.
Tác dụng: kéo mũi bàn chân ra ngoài. Ngoài ra, còn có thể kể thêm gân cơ gấp các
ngón chân dài và gân cơ gấp ngón chân cái dài.
- Lớp sâu có 3 cơ (cơ gấp ngón cái ngắn, cơ gấp ngón út ngắn, cơ khép ngón chân
cái).
- Lớp gian cốt gồm các cơ gian cốt gan chân, các cơ gian cốt mu chân.
7
8
Ở mu bàn chân có một cơ là cơ duỗi các ngón chân ngắn bám từ xương gót đến 4 ngón
chân.
Tác dụng duỗi và đưa ngón chân ra ngoài. Ngoài ra, còn có các
gân ngoại lai ở vùng cẳng chân trước đến bám vào mu chân
như cơ chày trước, gân duỗi ngón cái dài, gân duỗi các ngón
chân dài và gân cơ mác ba.
7
9
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ THẦN KINH
Mục tiêu:
1. Trình bày được vị trí của từng phần, chức năng thuộc hệ thần kinh trung ương
2. Mô tả hình thể ngoài, hình thể trong của hệ thần kinh trung ương
3. Mô tả được 12 đôi TK sọ, 32 đôi TK tủy sống và hệ TK thực vật.
4. Gọi đúng được tên của những chi tiết giải phẫu chính trên các phương tiện
thực hành giải phẫu hệ thần kinh
I. ĐẠI CƯƠNG
Hệ thần kinh trung ương đóng một vai trò rất quan trọng, có mặt hầu hết các nơi
trong cơ thể sống, chức năng dẫn truyền xung động thần kinh, nhận các thông tin,
kích thích, xử lý các thông tin và đáp ứng lại các thông tin đó. Đảm bảo về hình thái,
dinh dưỡng và thông tin di truyền, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa cơ thể với
môi trường xung quanh và sự thống nhất giữa các cơ quan trong cơ thể với nhau.
1. Tế bào thần kinh:
Hình 1: Nơron
1.1. Tế bào thần kinh chính thức (Nơron): có nhiều hình thái khác nhau (hình tháp,
quả lê, hình sao, hình cầu...), còn dựa vào nhánh tế bào để chia ra các loại (tế bào một cực,
hai cực và nhiều cực). Cấu tạo gồm thân tế bào và các sợi thần kinh:
- Thân tế bào thần kinh: trong bào tương có chứa nhân, bào quan, các xơ thần kinh và
thể Nissl.
- Sợi thần kinh mọc từ thân tế bào gồm 2 loại sợi: 8
0
+ Sợi nhánh nhỏ dần như cành cây làm nhiệm vụ dẫn truyền xung động thần kinh
vào thân tế bào (Hướng tâm ).
+ Sợi trục mọc từ thân tế bào thân kinh và ở đoạn cuối sợi trục cũng phân nhánh nhỏ
dần như sợi nhánh làm nhiệm vụ dẫn truyền xung động thần kinh từ thân tế bào đi ra
(Ly tâm).
- Cúc tận cùng: Là phần tận cùng của các sợi nhánh và sợi trục phình to ra trông như
chiếc cúc áo dài gọi là cúc tận cùng để tiếp giáp với các bộ phận hình thành lên
Synapes, không làm nhiệm vụ phân tích và chỉ làm nhiệm vụ dẫn truyền xung động
thần kinh. Tốc độ dẫn chuyền thần kinh qua Synapes từ 0,5- 120m/ giây.
1.2. Tế bào thần kinh đệm: cũng có các hình dạng khác nhau nhưng có ít nhánh và
làm nhiệm vụ chống đỡ, dinh dưỡng và bảo vệ hệ thần trung ương.
2. Phân loại:
2.1. Theo hình thái chia làm 2 loại là:
- Hệ thần kinh trung ương gồm:
+ Tuỷ sống và não bộ (hành não, cầu não, tiểu não, trung não, gian não, đoan
não)
+ Màng não tuỷ và hệ thống não thất.
+ Hệ thần kinh thực vật
- Hệ thần kinh ngoại biên gồm:
+ 12 đôi thần kinh sọ não.
+ 32 đôi thần kinh tủy sống.
2.2. Theo chức năng: chia làm 2 loại
- Hệ thần kinh động vật chỉ huy hoạt động cơ vân và ý muốn của con người.
- Hệ thần kinh thực vật gồm 2 hệ: Hệ giao cảm và phó giao cảm, hai hệ hoạt động
ngược chiều nhau, chi phối hoạt động cơ trơn (lớp cơ các thành của tạng rỗng như
mạch máu, ống tiêu hoá, bàng quang, tử cung ...)
2.3. Phân loại theo cấu tạo
- Chất xám: được tạo thành bởi các thân tế bào thần kinh và các sợi nhánh không có
Myêlin, tập trung lại tạo thành các nhân xám và làm nhiệm vụ phân tích, và xử lý
thông tin đảm bảo trí thông minh của con người.
- Chất trắng: là các sợi nhánh, sợi trục có Myêlin đảm bảo chức năng dẫn truyền xung
động thần kinh.
- Chất lưới: do các tế bào biệt hoá cao nhiều sợi dẫn vào, sợi đi ra đan lại với nhau trong
các sợi đó có các nhân (như cá nằm trong lưới), chất lưới nằm giữa chất trắng và xám suốt
từ phần trên tuỷ sống tới gian não có tác dụng làm tăng cường hoặc ức chế các xung động
thần kinh lên vỏ não.
8
1
3. Hoạt động cơ bản của hệ thần kinh: Trên nguyên tắc cung phản xạ, cho mỗi hoạt
động sống của cơ thể, do một cơ quan phân tích điều khiển trung tâm phản xạ nằm ở
tuỷ sống và não bộ.
3.1. Cấu tạo một cung phản xạ: gồm 3 bộ phận.
- Bộ phận thụ cảm nơi tiếp nhận kích thích, ví dụ da, mắt tai...là những dây thần
kinh thụ cảm, gồm các nơ ron hướng tâm dẫn truyền xung động thần kinh từ nơi thụ
cảm đến trung ương thần kinh.
- Bộ phận trung tâm điều khiển phản xạ (trung ương thần kinh gồm não, tủy sống
và dây thần kinh liên hợp), là trung tâm điều khiển phản xạ. Dây thần kinh truyền ra
là các nơ ron ly tâm, dẫn truyền xung động thần kinh từ trung tâm điều khiển phản xạ
đến cơ quan đáp ứng.
- Bộ phận đáp ứng (nơ- ron đáp ứng) nơi trả lời các kích thích như cơ, các tuyến...
8
3
- Tủy sống nằm trong ống sống và chiếm 3/5 đường kính ống sống.
- Tủy sống đi từ ngang đốt sống cổ I (Đốt đội, C I) đến tận hết ở ngang đốt sống thắt
lưng II (LII).
Xung quanh tủy sống có màng não tủy bao bọc, trừ dây thần kinh cùng chỉ có
màng cứng bao bọc không có màng nuôi, màng nhện. Từ TL II trở xuống không có tủy
sống chỉ có các rễ của dây thần kinh tủy gọi là đuôi ngựa.
** Chú ý: Khi chọc hút dịch não tủy làm xét nghiệm thường chọc ở khe đốt sống TL
III- IV ( đường ngang mào chậu), tránh làm tổn thương tủy sống.
1.2. Hình thể ngoài:
Tủy sống hình thân cây hơi dẹt, dài từ 42 - 45 cm gồm có 2 chỗ phình:
- Phình trên (phình cổ) tương ứng với đám rối thần kinh cánh tay.
- Phình dưới (phình thắt lưng) tương ứng với đám rối thần kinh thắt lưng- cùng.
- Đoạn cuối thu lại như một hình chóp nên còn gọi là nón cùng từ đó thoát ra các rễ
thần kinh còn gọi là đuôi ngựa, đỉnh chóp thu nhỏ lại tạo thành dây thần kinh cùng.
2. Não bộ
Là phần thần kinh trung ương nằm trong hộp sọ gồm: hành não, cầu não, tiểu não,
trung não, gian não và đoan não (đại não, 2 bán cầu đại não)
2.1. Hành não:
Hành não có chức năng quan trọng là trung tâm của tuần hoàn, hô hấp, nhai và
nuốt
2.1.1. Vị trí - giới hạn:
- Vị trí hành não một phần nhỏ nằm trong ống sống, còn lại nằm trong tầng sau của
hộp sọ.
- Giới hạn: Hành não ở dưới chạy liên tiếp với tủy sống ở ngang đốt sống cổ I ở trên,
nằm dưới cầu não và ngăn cách với cầu não bởi rãnh hành cầu.
2.1.2. Hình thể ngoài
Hành não chạy liên tiếp với tủy sống chui qua lỗ chẩm nằm trong hộp sọ nên:
8
6
- Các rãnh của hành não chạy liên tiếp với các rãnh của tủy sống.
- Hai cột trước của tủy sống đến hành não biến thành 2 tháp trước (tháp hành)
- Hai cột bên của tuỷ sống đến hành não tạo thành 2 trám hành.
+ Phía trước trám hành thoát ra dây thần kinh sọ số XII ( Đại hạ thiệt)
+ Phía sau trám hành thoát ra dây thần kinh sọ số IX, X, XI.
- Hai cột sau chạy đến hành não toạc rộng ra 2 bên hình thành lên 2 cuống tiểu não
dưới và mặt sau của hành não là phần nền phía dưới não thất IV.
- Ở trên hành não ngăn cách với cầu não bởi rãnh hành cầu và thoát ra các dây thần
kinh sọ: Dây thần kinh VI, VII, VII’, VIII.
2.1.3. Hình thể trong: Trên thiết đồ cắt ngang, hành não cấu tạo gồm 2 chất:
* Chất xám: gồm các nhân: Dây thần kinh IX, X, XI, XII, V, VII
* Chất trắng: các bó dẫn truyền thần kinh đi đến hành não bắt chéo: Bó Goll, Burdach
và bó tháp bắt chéo chỉ có 9/10 các sợi dẫn truyền thần kinh bắt chéo ở hành não.
2.2. Cầu não:
2.2.1. Vị trí: ở dưới nằm trên hành não và ở trên nằm dưới trung não (cuống đại não)
và nối với tiểu não ở sau bởi 2 cuống tiểu não giữa.
2.2.2. Hình thể ngoài
- Mặt trước có rãnh giữa trước để động mạch thân nền đi qua và có các rãnh ngang
chạy vào 2 cuống tiểu não giữa.
- Hai mặt bên có nhiều rãnh ngang và thu nhỏ tạo thành cuống tiểu não giữa.
- Ở giữa ngoài 2 mặt bên thoát ra đôi dây thần kinh sọ số V.
- Mặt sau là phần nền phía trên não thất IV, 2 bên là các cuống tiểu não.
2.2.3. Hình thể trong
8
7
Hình 6. Mặt trước hành não, cầu não, trung não (thân não)
Cầu não cấu tạo bởi 2 chất: Chất xám và chất trắng.
+ Chất xám gồm:
- Nhân vận động dây thần kinh sọ: Dây thần kinh V, VI, VII, VIII
- Ngoài ra còn có nhân riêng biệt của cầu não.
+ Chất trắng gồm các bó dẫn truyền thần kinh: Bó tháp, bó ngoại tháp, các bó cảm
giác đi lên, bó tiểu não thẳng và bó tiểu não chéo đi vào tiểu não.
8
8
Hình 7. Mặt sau hành não, cầu não, trung não (thân não)
8
9
2.3. Tiểu não:
2.3.1. Vị trí:
Nằm trên tầng sau nền sọ, nằm dưới 2 thùy chẩm của 2 bán cầu đại não và sau
hành - cầu, bám vào thân não bởi 3 đôi cuống tiểu não (trên, giữa, dưới)
2.3.2. Hình thể ngoài:
Tiểu não có 2 bán cầu tiểu não và được nối với nhau bởi thùy giun (thùy nhộng)
trên mặt hai bán cầu có nhiều rãnh ngang. Mặt sau hành - cầu có nghách ăn sâu vào
tiểu não tạo thành não thất IV.
Hai bán cầu tiểu não được nối với thân não bởi 3 đôi cuống tiểu não:
- 2 đôi cuống tiểu não trên bám vào trung não.
- 2 đôi cuống tiểu não giữa bám vào cầu
não.
- 2 đôi cuống tiểu não dưới bám vào
hành não.
Hình 10. Thiết đồ dọc tiểu não
1.Chất xám;
2. Chất trắng;
3. Buồng não IV;
4. Hành não;
5. Cầu não;
6. Củ não sinh tư
2.3.3. Hình thể trong:
Chất xám có ở 2 nơi:
- Lớp mỏng ở ngoài gọi là vỏ tiểu não, bao xung quanh toàn bộ bề mặt và ăn sâu
vào tiểu não
- Phần sâu ở giữa chất trắng gồm có: nhân răng, nhân mái và các nhân răng phụ
9
0
+ Nhân mái liên quan đến thính giác.
+ Nhân răng chính và phụ liên quan đến thăng bằng.
2.3.4. Chức năng của tiểu não
- Điều hòa trương lực cơ: tiểu não làm tăng trương lực cơ.
- Điều hòa sự thăng bằng cơ thể: do tiểu não nhận xung động của các bó tiểu não truyền
từ tủy sống lên tiểu não và là trung tâm điều hòa, phối hợp các hoạt động cơ. - Điều
hòa các cử động tùy ý: tiểu não có chức năng phối hợp các cử động theo ý muốn để
cho các cử động đúng tầm, đúng hướng và nhịp nhàng.
Mọi hoạt động chức năng của tiểu não đều có ảnh hưởng đến hệ thần kinh thực vật
như kích thích tiểu não sẽ làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp, giãn đồng tử, … và có
liên quan mật thiết với sự chỉ huy của vỏ đại não.
2.4. Trung não (não giữa)
Não giữa nằm trước và trên cầu não và dưới não trung gian.
2.4.1. Hình thể ngoài
Gồm có 2 cuống đại não ở phía trước và củ não sinh tư (lồi não) ở phía sau.
- Cuống đại não: là 2 cột chất trắng từ cầu não đi lên, chếch ra ngoài, để đi vào não trung
gian. Giữa 2 cuống đại não có khoảng thủng sau.
Bờ trong cuống đại não có dây thần kinh số III (dây vận nhãn chung) thoát ra.
- Củ não sinh tư: là 4 ụ tròn xếp thành 2 đôi: hai củ trên (trước) và 2 củ dưới (sau) bé
hơn. Dưới củ não sinh tư ở 2 bên hãm van Vieussent, có 2 dây thần kinh IV thoát ra.
Trong lòng trung não có cống Sylvius là 1 cống hẹp thông não thất IV với não thất III
của não trung gian ở trên.
2.4.2. Hình thể trong: gồm 2 chất: chất trắng và chất xám.
- Chất trắng:
Bao quanh chất xám chủ yếu ở khu cuống não, bị liềm đen (chất đen) chia làm 2
phần.
Phần trước có các bó thần kinh vận động.
Phần sau có các bó thần kinh cảm giác.
Trên một thiết đồ ngang, cống Sylvius chia trung não làm 2 khu: khu cuống não ở
trước và khu củ não sinh tư ở sau.
- Chất xám:
Bao quanh cống Sylvius, có nhân của các dây thần kinh số III và số IV. Phía trước
các nhân này còn có một nhân rất quan trọng là nhân đỏ và liềm đen liên quan với
đường ngoại tháp.
Mỗi củ của củ não sinh tư là một nhân xám lớn ở trong, được phủ một lớp mỏng
chất trắng bên ngoài.
9
1
+ Hai củ trên là trung khu dưới vỏ não của thị giác.
+ Hai củ dưới có liên quan đến thính giác.
Các đường dẫn truyền xung động thần kinh đi qua phần cuống của trung não
2.4.3. Chức năng của não giữa:
Não giữa là nơi có nhiều đường dẫn truyền thần kinh từ hành cầu não lên vỏ não
là trung tâm của nhiều phản xạ, đặc biệt là phản xạ chỉnh thể.
Chức năng dẫn truyền:
- Dẫn truyền vận động: từ vỏ não xuống dưới qua phần trước của cuống đại não có:
Bó gối: dẫn truyền vận động các cơ ở mặt.
Bó tháp: dẫn truyền vận động các cơ ở thân và chi.
Bó vỏ cầu – tiểu não: dẫn truyền vận động phụ vào tiểu não để điều chỉnh các
cử động tùy ý như đi, đứng, giữ thăng bằng…
- Dẫn truyền cảm giác: từ tủy sống và tiểu não đi lên qua phần sau của cuống đại não có
các bó dẫn truyền các cảm giác nông, sâu và thính giác.
Chức năng phản xạ:
- Phản xạ chỉnh thế và tư thế: nhân đỏ của cuống đại não là một trung tâm ức chế trương
lực cơ nên giữ vai trò quan trọng đối với phản xạ chỉnh thế và tư thế.
- Phản xạ định hướng: do các nhân xám ở trong củ não sinh tư.
- Các nhân phản xạ khác:
Nhân xám của dây III chỉ huy sự vận động nhãn cầu và phản xạ co đồng tử.
Nhân xám của dây IV làm cho mắt lên trên và vào trong
2.5. Não trung gian (Gian não)
2.5.1. Hình thể ngoài: não trung gian gồm 2 đồi thị, các vùng quanh đồi thị và não
thất III.
- Đồi thị (Thalamus): là thành phần lớn nhất của não trung gian hình trái xoan, đầu sau
to hơn gọi là đồi chẩm, đầu trước nhỏ, nằm ở 2 bên buồng não III.
- Vùng trên đồi: có tuyến tùng.
- Vùng sau đồi: có thể gối nối với các củ não sinh tư bởi cánh tay liên hợp (cánh
trước nối củ trước (trên) với thể gối ngoài và cánh sau nối củ sau với thể gối trong)
9
2
1. Đồi thị 2. Não thất III 3. Lồi não trên
4. Lồi não dưới 5. Vân tận cùng 6. Sán đồi thị
7. Tuyền tùng 8. Thể gối ngoài 9. Thể gối trong
Hình 12: Vùng trên đồi và sau đồi
- Vùng dưới đồi: nằm ngay dưới đồi thị và chứa các nhân dưới đồi thị cũng như 1
phần của chất đen và nhân đỏ (của trung não).
- Vùng hạ đồi (hypothalamus): nằm đè lên cuống đại não, kề ở phía trước - dưới đồi
thị, ngay trên tuyến yên; và cùng với đồi thị tạo nên 2 thành bên của não thất III. Ở
đây có chứa các nhân thực vật quan trọng để điều hoà nước, nhiệt độ, huyết áp, giấc
ngủ và chuyển hoá các chất trước khi lên vỏ não.
- Não thất III nằm kẹp giữa hai đồi thị có hai lỗ Monro thông với hai não thất bên ở đại
não và thông với não thất IV qua cống Silvius.
2.5.2. Hình thể trong:
9
3
- Đồi thị: là một khối chất xám tạo nên bởi nhiều nhân trước, giữa, sau và bên.
- Vùng hạ đồi: có những nhân xám nằm trong chất trắng. Các nhân xám to nhất là củ
xám và củ núm vú. Ngoài ra còn nhân xám khác của trung não kéo dài lên như nhân
đỏ, liềm đen, nhân Luys và nhiều nhân thần kinh thực vật.
Chất trắng là các bó chạy vào đồi thị, hoặc qua đó vào bao trong.
2.5.3. Chức năng chính của não trung gian:
Chức năng của đồi thị:
Đồi thị là một trạm quan trọng trên đường dẫn truyền cảm giác, tất cả các xung
động xuất phát từ bất kỳ cơ quan cảm thụ nào trước khi tới vỏ não đều phải qua đồi
thị, sau đó mới tới những vùng tương ứng ở vỏ não. Có thể nói, đồi thị là trung tâm
của mọi loại cảm giác.
Khi đồi thị bị tổn thương sẽ gây ra rối loạn cảm giác bên đối diện.
- Giảm năng đồi thị: sẽ biểu hiện:
Mất cảm giác nửa người.
Đi đứng loạng choạng (chứng thất điều cảm giác).
- Tăng năng đồi thị: sẽ biểu hiện
Chứng đau đặc biệt “kiểu đồi thị” đau dữ dội như vò xé, đau lan tỏa, đau tự phát
và có cảm giác buốt lạnh.
Chức năng của các vùng quanh đồi thị:
- Vùng sau đồi: có 4 thể gối, chuyển tiếp thị giác và thính giác
- Vùng trên đồi: có tuyến tùng, tham gia điều hòa nội tiết
- Vùng dưới đồi: tham gia kiểm soát sự vận động
- Vùng dưới đồi thị (vùng hạ đồi): tham gia vào sự điều hòa hoạt động sinh sống quan
trọng của cơ thể vì vùng dưới đồi thị bao gồm:
• Chức năng nội tiết
• Chức năng sinh dục
• Chức năng chống bài niệu
• Chức năng chuyển hóa
• Chức năng điều nhiệt
• Chức năng thực vật
• Chức năng dinh dưỡng
• Trung tâm ngủ
2.6. Đại não (Đoan não, bán cầu đại não)
Đại não là phần phát triển lớn nhất của hệ thần kinh trung ương gồm 2 bán cầu đại
não và được nối với nhau bởi mép liên bán cầu, trong mỗi bán cầu đại não có não thất
bên.
9
4
2.6.1. Hình thể ngoài:
Các bán cầu đại não:
- Có 2 bán cầu đại não phải và trái phân cách nhau bởi khe gian bán cầu.
- Hai mép bán cầu nối nhau bằng các mép trắng: thể trai, thể tam giác, mép trắng
trước, và mép trắng sau. Trong mỗi bán cầu có 1 não thất bên, thông với buồng não 3
bằng một lỗ nhỏ. Não thất bên ôm quanh đồi thị và nhân đuôi, hình thể phức tạp.
Gồm có 3 sừng và 1 ngã ba nối giữa 3 sừng:
Sừng trước: nằm trong thùy trán trên đồi thị và nhân đuôi.
Sừng sau: nằm trong thùy chẩm.
Sừng dưới: nằm trong thùy thái dương.
Ngã ba nằm sau đồi thị.
- Trong 2 não thất bên có dịch não tủy.
- Mỗi bán cầu đại não có 3 mặt:
Mặt ngoài: khuôn theo hình vòm sọ.
Mặt trong: phẳng, áp vào bán cầu đối diện.
Mặt dưới: phần trước và giữa chiếm phần trước và giữa nền sọ, các khe rãnh và
phần sau đè lên tiểu não.
Các thùy và hồi:
Trên các mặt của đại não có các khe (sâu) và các rãnh (nông) chia đại não thành
các thùy và các hồi.
- Các khe và các thùy: có 5 khe
Khe Sylvius (khe bên) ở mặt ngoài và mặt dưới bán cầu.
Khe Rolando (khe trung tâm) ở mặt ngoài và ở trên.
Khe thẳng góc ngoài (khe đỉnh chẩm): ở mặt ngoài.
Khe thẳng góc trong: ở mặt trong.
Khe viền trai hay khe dưới trán: ở mặt trong.
Các khe trên chia bán cầu đại não thành 6 thùy:
Thùy trán: ở phần trước bán cầu đại não.
Thùy đỉnh: ở phần trên bán cầu đại não.
Thùy chẩm: ở phần sau bán cầu đại não.
Thùy thái dương: ở phần bên và dưới bán cầu đại não.
Thùy đảo nhỏ: nằm sâu trong khe Sylvius.
Thùy viền trai: hay thùy dưới trán nằm giữa khe viền trai và thể trai ở mặt
trong bán cầu đại não.
9
5
- Các rãnh và các hồi: các rãnh chia các thùy (trừ thùy trai) ra làm nhiều hồi (hay
cuộn não).
9
6
Hình 15: Mặt trong bán cầu đại não
9
8
Hình 18: Các vùng chức năng của vỏ não
1
0
0
Hình 20: Hệ thống não thất
1
0
1
Hình 21: 12 đôi dây thần kinh sọ não
1
0
4
Hình 22: Đám rối thần kinh cổ
Hình 24: Các TK chính của chi trên (A: nhìn trước; B: nhìn sau)
1
0
6
- Thần kinh trụ: đi xuống qua cánh tay ở dọc bên trong động mạch cánh tay. Ở
khuỷu, nó nằm sau mỏm trên lồi cầu trong xương cánh tay. Từ dây, nó đi xuống qua
phần trong cẳng tay trước rồi vào gan bàn tay. Ở cẳng tay, Thần kinh phân nhánh vào
cơ gấp cổ tay trụ, một phần cơ gấp sâu các ngón tay, da nửa trong mu tay và mặt mu
tay của 2 ngón tay rưỡi bên trong. Ở gan tay, nó vận động cho các cơ của gan tay
chưa được tk giữa chi phối và cảm giác cho da của mặt gan tay của ngón út và nữa
trong ngón nhẫn.
- Các thần kinh bì trong gồm thần kinh bì cánh tay trong cảm giác cho da mặt rong
cánh tay và thần kinh bì cẳng tay trong cảm giác cho da mặt trong cẳng tay.
2.3. Mười hai đôi thần kinh đốt sống ngực (Từ D I- XII)
Đi ra tạo thành các đôi thần kinh liên sườn, gồm có 12 đôi thần kinh liên sườn.
Một dây thần kinh liên sườn kết hợp với một động mạch liên sườn gọi là bó mạch
thần kinh liên sườn (BMTKLS), nằm mặt trong, ở rãnh sát bờ dưới xương sườn. Để
vận động các cơ và cảm giác da vùng ngực - bụng.
2.4. Đám rối thần kinh thắt lưng
1
0
7
Đám rối thắt lưng là phần trên của đám rối thắt lưng cùng. Nó do nhánh trước của 3
thần kinh sống thắt lưng trên cùng và 1 phần nhánh trước thần kinh sống thắt lưng 4
tạo nên. Các nhánh chính và các rễ thần kinh góp phần tạo nên các nhánh đó là: thần
kinh chậu hạ vị(TL1), thần kinh chậu bẹn (TL1), thần kinh sinh dục đùi (TL1-2), thần
kinh bì đùi ngoài (TL2-3), thần kinh đùi (TL2-4), thần kinh bịt (TL2-4) và thân thắt
lưng –cùng (TL4-5). Các thần kinh chậu hạ vị, chậu bẹn và sinh dục đùi chi phối cho
các cơ phần dưới thành bụng trước bên, da mặt trên-trong của đùi, phần trên mặt
ngoài đùi và bộ phận sinh dục ngoài
- Thần kinh bì đùi ngoài: cảm giác cho mặt ngoài đùi
- Thần kinh đùi: đi xuống, chui sau dây chằng bẹn vào đùi và nằm ở sát bên ngoài
động mạch đùi. Thần kinh đùi tách ra các nhánh bì và nhánh cơ để phân phối vào da
và cơ (cơ tứ đầu đùi, cơ may) của vùng đùi trước. Nhánh của thần kinh đùi xuống
cảm giác cho da mặt trong cẳng chân có tên là thần kinh hiển.
- Thần kinh bịt: chạy đi xuống chi phối cho các cơ khép đùi và một phần mặt trong
đùi.
- Thân thắt lưng cùng: đi xuống chậu hông và góp phần tạo nên đám rối cùng.
2.5. Đám rối cùng:
Do thân thắt lưng-cùng và nhánh trước của thần kinh sống cùng 1,2,3 và 4 tạo nên.
Thân thắt lưng-cùng do nhánh trước thần kinh sống TL5 và 1 phần nhánh trước thần
kinh sống TL 4 tạo nên. Đám rối cùng nằm trước cơ hình quả lê ở thành sau chậu
hông. Các nhánh chính của đám rối cùng và các rễ tham gia tạo nên các nhánh chính
đó là: Thần kinh mông trên (TL4-5, Cg 1), thần kinh mông dưới (Thắt lưng 5, Cùng
1-2), thần kinh mác chung (TL4-5, Cg1-2), thần kinh chày (TL4-5, Cg1-3), thần kinh
thẹn (Cg2-4) và thần kinh bì đùi sau (Cg1-3). Thần kinh mác chung và thần kinh chày
hợp nên thần kinh ngồi.
- Thần kinh mông trên: chi phối cơ mông nhỡ và nhỏ; thần kinh mông dưới chi phối
cơ mông lớn.
- Thần kinh thẹn: chi phối các cơ của đáy chậu và da bộ phận sinh dục ngoài.
- Thần kinh bì đùi sau: cảm giác cho da của đáy chậu, mặt dưới mông và mặt sau
đùi.
- Thần kinh ngồi: là thần kinh lớn nhất cơ thể. Nó chạy qua khuyết ngồi lớn, ở dưới
cơ hình quả lê, vào mông rồi đi xuống qua mông và vùng đùi sau. Ở vùng đùi sau,
thần kinh ngồi phân nhánh vào các cơ ụ ngồi-cẳng chân. Ở đỉnh hố khoeo, thần kinh
ngồi lại tách ra thành tk chày và thần kinh mác chung.
- Thần kinh chày: tiếp tục đi xuống qua hố khoeo và vùng cẳng chân sau, phân
nhánh cho tất cả các cơ của vùng này. Cuối cùng, tk chày đi dưới mắt cá trong chia
1
0
8
thành các tk gan chân trong và ngoài đi vào gan chân để chi phối cho các cơ của gan
chân, da của gan chân và các ngón chân. thần kinh chày tách ra nhánh bì bắp chân
trong. Nhánh này nối với 1 nhánh của tk mác chung tạo nên tk bắp chân cảm giác cho
mặt ngoài cổ chân, gót chân và phần ngoài mu chân.
- Thần kinh mác chung: đi chếch xuống dọc bờ ngoài hố khoeo, tới dưới chỏm
xương mác thì vòng ra trước quanh cổ xương mác và tận cùng bằng 2 nhánh là thần
kinh mác nông và thần kinh mác sâu. Trước khi tận cùng, tk mác chung tách ra thần
kinh bì bắp chân ngoài cảm giác cho da phần trên mặt ngoài cẳng chân. Thần kinh
mác sâu đi xuống vận động cho tất cả các cơ cẳng chân trước và mu chân. Thần kinh
mác nông đi xuống vận động các cơ của cẳng chân ngoài và cảm giác cho phần dưới
mặt ngoài cẳng chân và hầu hết mu chân.
Hình 26: Các TK chính của chi dưới (A: nhìn trước; B: nhìn sau)
2.6. Đám rối cụt:
1
0
9
Là đám rối rất nhỏ do 1 phần của thần kinh sống sống cùng 4, thần kinh sống cùng
5 và các thần kinh cụt tạo nên. Đám rối tách ra thần kinh hậu môn cụt: thần kinh này
vận động cho cơ cụt, 1 phần cơ nâng hậu môn rồi xuyên qua cơ cụt cảm giác cho da
vùng xương.
1
1
1
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ TUẦN HOÀN VÀ MÁU
BÀI 1: TIM
MỤC TIÊU:
1. Mô tả được hình thể ngoài, hình thể trong, cấu tạo của tim.
2. Nói rõ được sự liên quan của các phần chính của tim và đối chiếu trên thành ngực.
3. Trình bày được chức năng của tim.
NỘI DUNG
Tim là cơ quan chính của hệ tuần hoàn. Tim là một khối cơ rỗng, nằm trong lồng
ngực, ở trung thất giữa, giữa hai lá phổi, trên cơ hoành, sau xương ức và xương
sườn, hơi lệch sang trái. Chức năng của tim là hút máu từ các tĩnh mạch chủ và tĩnh
mạch phổi về bơm máu vào các động mạch chủ và động mạch phổi.
1. Hình thể ngoài và liên quan
Tim màu hồng, mật độ chắc, to bằng nắm tay của từng người, nặng khoảng 260 –
270g.
Tim hình tháp, có 3 mặt, một đỉnh, một đáy. Đỉnh hướng ra trước sang trái. Đáy
hướng ra sau sang phải nên trục của tim là một đường chếch xuống dưới, sang trái và
ra trước.
1.1. Mặt trước (mặt ức sườn)
Gồm 2 phần, ngăn cách nhau bởi 1 rãnh nằm ngang gọi là rãnh nhĩ thất hay
rãnh vành.
1.3. Mặt trái ( mặt phổi) : Lấn vào phổi trái tạo thành khuyết tim.
1
1
3
1.4. Đỉnh tim : Còn gọi là mỏm tim. Hướng xuống dưới, ra trước và sang trái, nằm
trong khoang liên sườn V( bên trái) trên đường giữa đòn trái.
1.5. Đáy tim
Đáy tim là mặt sau của hai tâm nhĩ.
- Tâm nhĩ phải: hướng sang phải, lên trên, có tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch
chủ dưới đổ vào, liên quan với dây thần kinh hoành phải.
- Tâm nhĩ trái: Hướng lên trên, ra sau, có 4 tĩnh mạch phổi đổ vào, liên quan trực
tiếp với thực quản nên khi tâm nhĩ trái to đè vào thực quản làm cho khó nuốt.
2. Hình thể trong và hình đối chiếu của tim, các ổ van tim trên thành ngực
Tim gồm 2 phần: tim trái và tim phải. Mỗi phần lại chia làm 2 buồng tâm nhĩ ở
trên và tâm thất ở dưới.
I.1. Tâm nhĩ
Giữa hai tâm nhĩ có vách liên nhĩ. Khi còn là bào thai, vách này có lỗ Botal, sau
khi đẻ lỗ này đóng kín lại để ngăn cách hai tâm nhĩ; nếu còn lỗ này gọi là bệnh thông
liên nhĩ (bệnh tim bẩm sinh). Thành tâm nhĩ mỏng và nhẵn, có lỗ thông với tiểu nhĩ
và các lỗ thông với các tĩnh mạch dẫn máu về tim.
- Tâm nhĩ phải: có lỗ tĩnh mạch chủ trên (không có van) và lỗ tĩnh mạch chủ
dưới ( có van đậy không kín).
- Tâm nhĩ trái: có lỗ của 4 tĩnh mạch phổi ( không có van).
I.2. Tâm thất
1
1
4
Giữa hai tâm thất có vách liên thất. Thành tâm thất dày, xù xì, nhất là tâm thất
trái. Có các lỗ thông với tâm nhĩ ở trên và với các động mạch để dẫn máu đi, mặt
trong tâm thất có các cột cơ.
- Tâm thất phải: có 2 lỗ.
+ Lỗ nhĩ thất phải: thông với tâm nhĩ phải, có van 3 lá.
+ Lỗ động mạch phổi: thông với động mạch phổi, có van động mạch phổi
(van 3 lá hay van tổ chim).
- Tâm thất trái: có 2 lỗ.
+ Lỗ nhĩ thất trái: thông với tâm nhĩ trái, có van 2 lá,
+ Lỗ động mạch chủ: thông với động mạch chủ, có van động mạch chủ.
1
1
8
BÀI 2: HOẠT ĐỘNG CỦA TIM
MỤC TIÊU
1. Trình bày được cơ chế hoạt động của tim.
2. Nói rõ được vai trò chủ chốt của tim trong hệ tuần hoàn.
NỘI DUNG
Tim hoạt động như cái bơm: Hút máu từ các tĩnh mạch về hai tâm nhĩ, đẩy máu từ
hai tâm thất vào động mạch chủ và động mạch phổi. Đem máu đến các tế bào để cung
cấp các chất dinh dưỡng đồng thời nhận chất thừa đào thải ra ngoài.
Sự hoạt đông của tim thể hiện bằng sự co bóp tự động, mỗi lần co bóp như thế gọi
là một chu kỳ tim.
1. Chu kỳ tim, các thì trong chu kỳ tim :
Chu kỳ tim là sự hoạt động của tim có chu kỳ qua các giai đoạn kế tiếp nhau một
cách đều đặn nhịp nhàng theo một thứ tự nhất định.
Mỗi chu kỳ tim có ba thì (hay 3 giai đoạn).
1.1.Thì tâm nhĩ thu :
Thì tâm nhĩ thu là thì hai tâm nhĩ co bóp, do áp lực trong hai tâm nhĩ tăng lên nên
máu chảy mạnh hơn, chảy hết xuống hai tâm thất. Lúc này các van nhĩ - thất đã mở
sẵn. Thì tâm nhĩ thu lâu khoảng 1/10 giây, sau đó hai tâm nhĩ giãn nghỉ 7/10 giây để
hút máu các tĩnh mạch trở về tim.
1.2. Thì tâm thất thu :
Thì tâm thất thu là thì hai tâm thất co bóp tiếp sau thì tâm nhĩ thu để đẩy máu vào
động mạch chủ và động mạch phổi. Thì tâm thất thu gồm 2 giai đoạn nhỏ:
- Giai đoạn tăng lực: áp lực trong tâm thất lên rất nhanh và cao.
+ Đầu giai đoạn này: máu bị chèn ép thúc các van nhĩ thất đóng lại, không cho
máu dồn ngược về tâm nhĩ.
+ Cuối giai đoạn này: áp lực trong tâm thất đã đủ mạnh đẩy được các van tổ
chim (van động mạch chủ và van động mạch phổi) mở ra.
- Giai đoạn tống máu: dài hơn, máu bị đẩy vào động mạch chủ và động mạch phổi
khi các van tổ chim mở ra.
Thì tâm thất thu lâu khoảng 3/10 giây sau đó hai tâm thất giãn nghỉ 5/10 giây.
1.3.Thì tâm trương toàn bộ :
Thì tâm trương toàn bộ là cơ tim giãn nghỉ toàn bộ, áp lực trong tâm thất sụt xuống
thấp hơn áp lực trong động mạch nên máu ở động mạch chảy ngược về tâm thất, thúc
các van tổ chim đóng lại, đồng thời các van nhĩ thất mở ra để hút máu từ hai tâm nhĩ
xuống tâm thất. 1
1
9
Thì tâm trương lâu khoảng 4/10 giây. Hết thì tâm trương, hai tâm nhĩ lại co bóp,
tức là bắt đầu 1 chu kỳ mới.
Như vậy một chu kỳ tim lâu khoảng 8/10 giây,trong đó tim làm việc nửa thời gian
và nghỉ nửa thời gian. Trong một phút có 75 chu kỳ tim tức là 75 lần tim đập hay 75
lần mạch đập. Số lần tim đập trong một phút gọi tần số tim đập. Tần số tim đập trung
bình ở người lớn khoảng 70- 80 lần và có thể thay đổi theo giới, lứa tuổi, tập luyện,
bệnh lý:
- Ở phụ nữ, trẻ em thường cao hơn ở nam giới; ở trẻ sơ sinh khoảng 140 lần/phút, trẻ
3-4 tuổi khoảng 100 lần/phút.
- Ở người già thường chậm hơn thanh niên.
- Khi lao động thì tăng hơn. Ở người có luyện tập thể dục thể thao thì tăng ít, còn ở
người không tập luyện thì tăng nhiều.
- Bệnh lý: khi sốt thì tăng, trong một số bệnh có thể nhanh, chậm hoặc rối loạn.
2. Tiếng tim: Là do hai van đóng cùng một lúc gây nên.
- Tiếng thứ nhất (T1) là do van hai lá và van ba lá đóng cùng một lúc, nghe rõ nhất ở
mỏm tim. Tiếng này có âm sắc trầm, dài. Sau tiếng thứ nhất có một khoảng im lặng
ngắn rồi đến tiếng tim thứ hai.
- Tiếng thứ hai (T2) do van động mạch chủ và van động mạch phổi đóng cùng một
lúc, âm sắc thanh và ngắn, nghe rõ nhất ở khoảng gian sườn II cách bờ phải hoặc trái
của xương ức khoảng 1 cm. Sau tiếng tim thứ hai có một khoảng im lặng dài rồi đến
tiếng tim thứ nhất của chu kỳ sau.
3. Tính tự động của tim, hệ thống nút
Tim có khả năng tự động co bóp là nhờ hệ thống thần kinh tự động - hệ thống nút.
1
2
0
- Nút xoang (Keith- Flack): ở trong thành tâm nhĩ phải, cạnh lỗ tĩnh mạch chủ trên.
Nút xoang là trung tâm tự động chính của tim, từ đây phát ra luồng xung động làm
tim co bóp, điều khiển nhịp tim.
- Nút nhĩ thất (Tawara): ở vách liên nhĩ, gần nền tâm thất về mé sau và về phía tâm
nhĩ phải. Nút nhĩ thất là trung tâm tự động phụ của tim. Nút này sẽ điều khiển tim đập
khi nút xoang bị tổn thương và khi đó tim sẽ đập chậm hơn, cả hai tâm nhĩ và hai tâm
thất cùng co bóp một lúc.
- Bó nhĩ thất (Bó His) : từ nút nhĩ thất, chia làm 2 nhánh chạy dọc theo hai bên vách
liên thất, xuống đến mỏm tim rồi chia thành nhiều nhánh nhỏ tỏa ra khắp hai tâm thất.
Chức năng chủ yếu của bó này là dẫn truyền xung động.
Từ nút xoang xung động theo các thớ cơ lan dần đến tâm nhĩ phải, sang tâm nhĩ trái và
đến nút nhĩ thất, từ đây xung động theo bó nhĩ thất truyền đến hai tâm thất. Vì vậy,
nếu bó này bị tổn thương, tâm thất sẽ đập chậm lại không ăn khớp với nhịp của tâm
nhĩ.
1
2
1
BÀI 3: CÁC MẠCH MÁU
MỤC TIÊU
1. Mô tả khái quát hệ thống mạch máu từ tim cung cấp máu trong cơ thể.
2. Ứng dụng được sự cấp máu từng vùng, từng tạng của các mạch máu chính, sự liên
quan của động mạch và tĩnh mạch của từng vùng trọng yếu trong cơ thể.
NỘI DUNG
1. Cấu trúc của mạch máu: Gồm có 3 loại mạch là động mạch, tĩnh mạch và mao
mạch.
1.1. Động mạch: là những mạch dẫn máu từ tim ( tâm thất) đi đến lưới mao mạch.
Nhánh động mạch càng xa tim càng nhỏ, gọi là tiểu động mạch.Thành động mạch
dày, gồm ba lớp áo chính:
- Lớp áo ngoài: là lớp mô liên kết có nhiều sợi thần kinh.
- Lớp áo giữa: quan trọng nhất, gồm các sợi cơ trơn và các sợi chun làm cho động mạch
có tính chất đàn hồi để điều hòa lưu lượng máu, làm dòng máu chảy liên tục, đều
đặn.
- Lớp áo trong: nằm trong cùng, được cấu tạo bởi các tế bào nội mô dẹt.
Các động mạch trong cơ thể phần lớn nằm ở trong sâu hoặc ở lớp sâu giữa các cơ,
chỉ có vài động mạch nhỏ nằm nông và sát xương. Dựa vào đặc điểm trên ta thấy:
- Khi tổn thương phần mềm có thể làm đứt động mạch, máu chảy phụt từng tia, có thể
ép mạch máu trước khi tiến hành garo cầm máu. 1
2
2
- Thường bắt mạch ở những vị trí động mạch nông, sát xương như bắt động mạch quay.
1.2. Tĩnh mạch : là những mạch dẫn máu từ các cơ quan, tổ chức trở về tim (tâm nhĩ).
Nhánh tĩnh mạch càng xa tim càng nhỏ, gọi là tiểu tĩnh mạch.
Máu tĩnh mạch chạy theo hướng ngược dòng với máu động mạch. Thành của tĩnh
mạch cũng gồm ba lớp như ở động mạch nhưng có một số điểm khác sau:
- Thành tĩnh mạch mỏng, ít sợi cơ và sợi chun hơn nên khả năng đàn hồi kém, dễ bị
xẹp, khi bị giãn quá nhiều sẽ khó co lại, co không hết.
- Ở tĩnh mạch lớp áo trong có các van tĩnh mạch, có tác dụng cho máu chảy theo một
chiều.
Các tĩnh mạch sâu của cơ thể nằm ngay cạnh động mạch và gọi theo tên của động
mạch như động mạch cảnh thì có tĩnh mạch cảnh đi kèm…Còn các tĩnh mạch nông
nằm ngay dưới da và qua các tĩnh mạch này người ta ứng dụng để tiêm một số thuốc
vào máu để chữa bệnh.
1.3. Mao mạch : là những mạch rất nhỏ nối giữa động mạch và tĩnh mạch.
Thành mao mạch rất mỏng, chỉ có một lớp tế bào nội mô, giữa các tế bào này có
những lỗ nhỏ để cho quá trình trao đổi chất giữa các tế bào và máu được thực hiện.
Sự trao đổi chất giữa máu và các mô chỉ xảy ra ở mao mạch: một phần huyết
tương có chứa chất dinh dưỡng và oxy được truyền từ máu vào mô qua thành các
mao mạch và từ các mô chất lỏng lại về mao mạch nhưng ít hơn, phần ứ đọng tạo
thành dịch mô và bạch huyết.
2. Các mạch máu chính
1
2
3
Động mạch chủ được phân ra làm 3 đoạn: quai động mạch chủ, động mạch chủ
ngực, động mạch chủ bụng.
- Quai động mạch chủ: đi từ tâm thất trái uốn vòng qua phế quản trái (tại đốt sống
ngực thứ tư D4). Gồm 4 nhánh chính:
+ Động mạch vành trái và động mạch vành phải: cấp máu cho tim.
+ Thân động mạch cánh tay đầu: chạy chếch lên trên, chia thành hai động mạch:
động mạch cảnh chung phải và động mạch dưới đòn phải.
Động mạch cảnh chung: Cả hai động mạch cảnh chung trái và động mạch
cảnh chung chia thành 2 ngành cùng là: động mạch cảnh ngoài (nằm phía trong) và
động mạch cảnh trong (nằm phía ngoài).
Động mạch cảnh ngoài:
- Các nhánh cùng: Động mạch thái dương nông và động mạch hàm cấp máu
nuôi dưỡng cho da đầu và các vùng sâu ở mặt.
- Các nhánh bên: Động mạch giáp trên, động mạch lưỡi, động mạch mặt, động
mạch chẩm, động mạch hầu lên và động mạch tai sau, cấp máu cho các vùng tương
ứng với tên gọi.
Động mạch cảnh trong: có 4 ngành cùng
- Động mạch não trước:cấp máu cho mặt trong bán cầu đại não.
- Động mạch não giữa: cấp máu cho mặt ngoài bán cầu đại não.
- Động mạch mạc trước: đi vào não thất.
- Động mạch thông sau nối với động mạch não sau.
- Ngoài ra còn một ngành bên nhỏ là động mạch mắt, đi vào ổ mắt cấp máu cho
nhãn cầu.
1
2
4
Hình: Hệ thống động mạch cảnh
Động mạch dưới đòn: Cả 2 động mạch dưới đòn phải và trái đều nằm ở nền
cổ, đến điểm giữa xương đòn đổi tên thành động mạch nách cấp máu nuôi dưỡng
cho chi trên. Trên đường đi, dưới đòn còn cho ra các nhánh bên:
- Động mạch đốt sống: Trên đường đi cho ra cánh nhánh cấp máu cho não, rồi
cho 2 nhánh tận là động mạch não sau, nối với 2 động mạch thông sau ( nhánh tận
của động mạch cảnh trong) tạo nên vòng đa giác động mạch não.
- Động mạch thân giáp cổ cho 4 nhánh tận: Động mạch giáp dưới, động mạch cổ
lên, động mạch ngang cổ, động mạch vai trên.
- Động mạch ngực trong: đi hướng xuống vùng ngực, đi sau đầu ức của xương
đòn và phía sau các sụn sườn.
- Thân động mạch sườn cổ
- Ba cặp động mạch gian sườn trên cùng.
- Động mạch vai xuống
- Các nhánh bên của động mạch dưới đòn cấp máu cho các vùng tương ứngở cổ
và thành ngực. Động mạch nách, tiếp nối với động mạch dưới đòn, đi vào nách tới
cánh tay đổi tên thành động cánh tay.
- Động mạch chủ ngực: tiếp nối từ quai động mạch chủ xuống lỗ cơ hoành -
ngang mức đốt sống ngực XI(từ D4 đến D11). Động mạch chủ ngực cho các nhánh
bên sau:
+ Động mạch phế quản: phải và trái.
+ Động mạch thực quản: trên, giữa và dưới.
+ Động mạch gian sườn: mỗi bên có 9 nhánh cấp máu cho các khoang gian sườn từ
IV đến XII (các khoảng gian sườn I đến III do nhánh của động mạch dưới đòn cấp
máu). Các động mạch gian sườn chạy ở bờ dưới xương sườn. 1
2
5
Hình: Động mạch chủ ngực
- Động mạch chủ bụng: chạy tiếp nối với động mạch chủ ngực từ lỗ cơ hoành đến
bờ dưới đốt sống thắt lưng IV ( từ D11 đến L4). Động mạch chủ bụng cho các nhánh
bên sau:
+ Động mạch hoành dưới: phải và trái.
+ Động mạch thân tạng có 3 nhánh: động mạch vị trái, động mạch lách, động mạch
gan chung; cấp máu cho dạ dày, gan, lách, túi mật, tuyến tụy và một phần tá
tràng.
+ Động mạch mạc treo tràng trên: cấp máu cho manh tràng, ruột thừa, kết tràng
ngang, tá tràng, hồi hỗng tràng.
+ Động mạch thượng thận giữa: phải và trái.
+ Động mạch thận: phải và trái.
+ Động mạch sinh dục: phải và trái.
+ Động mạch mạc treo tràng dưới: cấp máu cho kết tràng xuống, kết tràng sigma và
phần trên trực tràng.
+ Các động mạch thắt lưng.
Các nhánh tận của động mạch chủ: khi đến bờ dưới động mạch thắt lưng IV, động
mạch chủ chia làm 3 nhánh tận là động mạch cùng giữa và 2 động mạch chậu chung
trái và phải. Mỗi động mạch lại chia làm 2 nhánh:
- Động mạch chậu trong cấp máu cho các cơ quan ở khung chậu nhỏ như bàng
quang, niệu đạo, tử cung và âm đạo ( ở nữ giới), tuyến tiền liệt và túi tinh, ống dẫn
tinh ( ở nam giới), các mô đáy chậu.
- Động mạch chậu ngoài khi đi qua cung đùi đổi tên là động mạch đùi, cấp máu
cho chi dưới.
1
2
6
Hình: Động mạch chủ bụng
I.1.2. Động mạch phổi: Dẫn máu đỏ sẫm từ tâm thất phải lên hai phổi. Thân động
mạch phổi dài khoảng 5cm lên đến ngang mức đốt sống ngực thứ 4 thì phân hai
nhánh thành động mạch phổi phải và trái đi vào hai lá phổi.
- Động mạch phổi phải: to, nằm ngang để đi vào rốn phổi phải. 1
2
7
- Động mạch phổi trái: nhỏ, đi chếch ra trước để đi vào rốn phổi trái.
I.2. Tĩnh mạch: toàn bộ hệ thống tĩnh mạch dẫn máu và bạch huyết chảy về hai tâm
nhĩ. Các tĩnh mạch lớn dẫn máu về hai tâm nhĩ gồm 4 tĩnh mạch phổi, tĩnh mạch chủ
trên và tĩnh mạch chủ dưới.
2.2.1. Tĩnh mạch phổi: có 4 tĩnh mạch phổi dẫn máu đỏ tươi từ phổi về tâm nhĩ trái.
2.2.2. Tĩnh mạch chủ trên: hợp bởi hai thân tĩnh mạch cánh tay đầu phải và trái, dẫn
máu đỏ sẫm từ hai chi trên, đầu mặt cổ đổ về tâm nhĩ phải.
2.2.3. Tĩnh mạch chủ dưới: Máu tĩnh mạch ở chi dưới đổ vào tĩnh mạch chậu ngoài,
máu ở các cơ quan trong khung chậu nhỏ đổ vào tĩnh mạch chậu trong. Tĩnh mạch
chậu ngoài và tĩnh mạch chậu trong hợp thành tĩnh mạch chậu chung. Hai tĩnh mạch
1
2
8
chậu chung phải và trái hợp lại thành tĩnh mạch chủ dưới ở ngang mức đốt sống thắt
lưng thứ IV. Tĩnh mạch chủ dưới chạy lên trên, đi ở mặt sau của gan và tiếp tục nhận
thêm các nhánh tĩnh mạch như: tĩnh mạch sinh dục, tĩnh mạch thận, tĩnh mạch trên
gan…và xuyên qua lỗ trung tâm của cơ hoành đổ vào tâm nhĩ phải.
Tĩnh mạch cửa là một phần đặc biệt của tĩnh mạch chủ dưới, qua rốn gan và gan,
do ba tĩnh mạch tạo nên: tĩnh mạch mạc treo tràng trên, tĩnh mạch lách và tĩnh mạch
mạc treo tràng dưới. Tĩnh mạch cửa nhận máu của dạ dày, ruột non, kết tràng, lách,
tụy, túi mật, vào tiếp xúc với các tế bào gan sau đó chuyển sang tĩnh mạch trung tâm
gan, vào tĩnh mạch trên gan, rồi đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.
Hình: Tĩnh mạch chủ dưới Hình: Hệ thống tĩnh mạch cửa
1
2
9
BÀI 4: TUẦN HOÀN MẠCH MÁU
MỤC TIÊU
1. Trình bày được chức năng cung cấp Oxy và chất dinh dưỡng của vòng tuần hoàn
mạch máu.
2. Kể được những nguyên nhân chính làm máu tĩnh mạch trở về tim và nêu được số
bình thường của huyết áp.
NỘI DUNG
1. Sơ đồ tuần hoàn mạch máu
Toàn bộ mạch máu cùng với tim tạo thành vòng kín: Đại tuần hoàn và tiểu tuần
hoàn.
1.1. Vòng đại tuần hoàn
Vòng đại tuần hoàn bắt đầu từ tâm
thất trái qua động mạch chủ đến lưới mao
mạch rồi qua tĩnh mạch chủ trên và tĩnh
mạch chủ dưới trở về tâm nhĩ phải.
Vòng này mang máu có nhiều Oxy
và chất dinh dưỡng theo động mạch chủ
đến khắp các nơi trong cơ thể để nuôi tế
bào, nhận thêm chất tế bào bài tiết ra đưa
vào tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ
dưới đi tới các bộ phận và bài tiết ra ngoài.
1.2. Vòng tiểu tuần hoàn
Vòng tiểu tuần hoàn bắt đầu từ tâm
thất phải, qua động mạch phổi, lên 2 phổi
rồi qua 4 tĩnh mạch phổi trở về tâm nhĩ
trái.
Vòng này mang máu có nhiều khí
cacbonic và ít Oxy lên phổi để trao đổi khí
ở phế nang (nhả khí cacbonic vào phổi để
theo đường dẫn khí thải ra ngoài và nhận
Oxy từ phổi vào máu) để thành máu có
nhiều Oxy và ít khí cacbonic đưa về tâm
nhĩ trái qua 4 tĩnh mạch phổi.
1
3
0
2. Sự chuyển động của máu trong mạch máu
Mỗi lần tâm thu, tim co bóp tống máu từ tâm thất vào động mạch gặp sức cản
của động mạch và làm căng giãn thành động mạch. Đến thì tâm trưưng không có sức
đẩy của tim nữa mà máu vẫn lưu thông liên tục là nhờ tính đàn hồi làm thành động
mạch thu lại gây áp lực đẩy máu đi, máu chảy từ nơi có áp lực cao đến nơi có áp lực
thấp nên máu chảy từ động mạch tới mao mạch rồi qua tĩnh mạch. Khi đến tĩnh mạch
dòng máu trở nên đều đặn theo hướng đổ về tim.
2.1. Huyết áp
Huyết áp là áp lực của máu tác động vào thành mạch, huyết áp giảm dần từ đầu
hệ thống mạch máu (các động mạch lớn từ tâm thất ra). Đến cuối hệ thống mạch máu
(các tĩnh mạch lớn đổ vào tâm nhĩ) vì vậy ta có 2 loại huyết áp: Huyết áp động mạch
và huyết áp tĩnh mạch.
2.1.1. Huyết áp động mạch
- Nhân tố tuần hoàn: Huyết áp động mạch là kết quả tổng hợp của 4 nhân tố tuần
hoàn.
+ Sức co bóp của tim: Tim co bóp mạnh sẽ làm cho huyết áp cao.
+ Sức cản ngoại biên: Sức cản lớn (khi mạch máu co hoặc thành mạch máu xơ
cứng) làm cho huyết áp cao.
+ Khối lượng máu: Nhiều thì huyết áp cao và ít thì huyết áp thấp vì vậy khi bị chảy
máu nhiều thì huyết áp sẽ tụt xuống nhiều.
+ Độ quánh của máu: So với nước có độ quánh là 1, thì độ quánh của máu là 4,5
đến 4,7. Độ quánh của máu tăng như khi hồng cầu tăng, các chất Protit trong huyết
tương tăng sẽ cản trở sự lưu thông máu làm cho huyết áp cao.
- Đo huyết áp: Ở động mạch cánh tay, động mạch cỡ trung bình ta thấy huyết áp thay
đổi giữa 2 trị số tối đa và tối thiểu.
+ Huyết áp tối đa (hay huyết áp tâm thu): Khi tâm thu, tim co bóp đẩy máu với một
áp lực cao nhất. Ở người lớn, huyết áp tối đa bình thường là 110 - 120 mmHg.
+ Huyết áp tối thiểu (hay huyết áp tâm trương): Khi tâm trương, sức đàn hồi của
động mạch đẩy máu với một áp lực thấp nhất vừa đủ thắng được sức cản ngoại biên.
Ở người lớn, huyết áp tối thiểu bình thường là 70 - 80 mmHg.
Ta thường viết trị số huyết áp động mạch dưới dạng phân số (tử số là huyết áp
tối đa, mẫu số là huyết áp tối thiểu). Ví dụ: 120/70 mmHg.
Huyết áp động mạch có thể thay đổi theo sinh lý và theo bệnh lý; theo sinh lý,
huyết áp thấp hơn ở nữ giới (110/60 mmHg), ở trẻ sơ sinh (70/40 mmHg) hoặc lúc
ngủ. Huyết áp cao hơn ở người già (140/90 mmHg) hoặc thời gian lao động chân tay.
1
3
1
Theo bệnh lý, nếu huyết áp tối đa trên 140 mmHg và huyết áp tối thiểu trên 90
mmHg là tăng huyết áp. Tăng huyết áp tối đa ít nguy hiểm hơn tăng huyết áp tối thiểu
vì huyết áp tối đa là do phản ứng nhất thời của tim, còn huyết áp tối thiểu tăng là do
tuần hoàn ngoại biên đã có những rối loạn lâu dài và trầm trọng như xơ cứng động
mạch v.v...
Nếu huyết áp tối đa thấp hơn 90 mmHg và tối thiểu thấp hơn 60 mmHg là hạ
huyết áp. Hạ huyết áp tối đa là do giảm sức co bóp của tim và hạ huyết áp tối thiểu là
do giãn động mạch nhất là những động mạch nhỏ, do chảy máu, v.v...
2.1.2. Huyết áp tĩnh mạch
Đo huyết áp tĩnh mạch trên các tĩnh mạch cỡ trung bình (như tĩnh mạch khuỷu
tay) bằng áp kế ta thấy huyết áp tĩnh mạch chỉ có một trị số trung bình ở người lớn là
12 - 13 cm nước vì dòng máu đã chảy đều đặn.
Trị số này giảm dần từ đầu hệ thống tĩnh mạch (giáp mao mạch) đến cuối hệ
thống tĩnh mạch và trở thành âm tính ở các tĩnh mạch lớn trong lồng ngực vì các tĩnh
mạch lớn này chịu sức hút của tâm nhĩ và lồng ngực.
Huyết áp tĩnh mạch tăng trong suy tim phải, tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
2.2. Mạch đập
Khi ta ấn nhẹ ngón tay lên vùng động mạch nằm trên xương và dưới lớp da,
thường ở cổ tay, ở thái dương, ở cổ, bẹn ta sẽ thấy mạch đập. Tần số mạch đập tương
đương với tần số tim đập tức là 70 - 80 lần trong 1 phút ở người lớn. Mạch đập là do
làn sóng rung động phát sinh ở động mạch chủ do ảnh hưởng của tâm thất thu lan
truyền tới chứ không phải là do máu chảy tới nơi bắt mạch, làn sóng rung động càng
lan ra xa càng yếu dần và tới đầu lưới mao mạch thì không còn nữa nên ta không thấy
hiện tượng mạch đập ở trên tĩnh mạch.
2.3. Những nguyên nhân chuyển máu từ tĩnh mạch trở về tim
Tĩnh mạch là nơi có áp lực thấp. Máu từ tĩnh mạch trở về tim được là do các
nguyên nhân sau :
- Sức co bóp của tim :Thì tâm thu, tim co bóp đẩy một lượng máu mới, động
mạch dồn lượng máu cũ đi tới. Thì tâm trương, tim giãn ra hút máu từ các tĩnh mạch
về.
- Sức hút của lồng ngực :Khi hít vào, lồng ngực nở rộng ra làm giãn rộng các
tĩnh mạch lớn ở trong lồng ngực gây ra sức hút máu về tâm nhĩ.
- Sức ép của cơ hoành :Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp xuống ép lên các cơ quan
ở bụng dồn máu từ các tĩnh mạch trong bụng về các tĩnh mạch trong lồng ngực để về
tâm nhĩ phải.
1
3
2
- Động mạch đập:Động mạch và tĩnh mạch thường nằm cạnh nhau trong một
bao không co giãn nên khi động mạch đập sẽ ép vào tĩnh mạch làm chuyển động máu
trong tĩnh mạch. Máu trong tĩnh mạch chỉ chảy theo một chiều về tim nhờ các van
tĩnh mạch.
- Sức co cơ:Các cơ co sẽ ép vào tĩnh mạch dồn máu chảy theo hướng về tim nhờ
có các van tĩnh mạch đặc biệt là các van tĩnh mạch ở chi dưới. Nhưng nếu co cơ lâu
mà không giãn ra thì sẽ cản trở tuần hoàn.
- Trọng lực :Là một yếu tố thuận lợi cho tuần hoàn đối với các tĩnh mạch ở trên
tim nhưng lại bất lợi cho tuần hoàn đối với các tĩnh mạch phía dưới tim nhưng nhờ có
các van tim làm máu khỏi chạy ngược lại.
1
3
3
BÀI 5: SINH LÝ MÁU
MỤC TIÊU
1. Trình bày được công thức bình thường và quan hệ giữa huyết tương với huyết cầu.
2. Nêu được cơ chế đông máu và thời gian máu đông, thời gian máu chảy bình
thường.
3. Kể tên các nhóm máu khác nhau để ứng dụng trong truyền máu.
4. Nói rõ được các chức năng của máu trong hoạt động của cơ thể.
NỘI DUNG
1. Cấu tạo
Nếu giữ cho máu không đông trong
ống thuỷ tinh rồi để yên sau một thời gian
ta sẽ thấy hiện tượng lắng huyết cầu, máu
chia làm hai phần :
- Phần dưới đỏ sẫm chiếm 45% thể
tích máu gọi là huyết cầu.
- Phần trên lỏng màu vàng, chiếm
55% thể tích máu gọi là huyết tương.
1.1. Huyết cầu : Có 3 loại tế bào máu khác nhau là hồng cầu, bạch cầu, và tiểu cầu.
1.1.1. Hồng cầu : hầu hết được hình thành trong tủy xương, đặc biệt là tủy đỏ ở các
xương dẹt (xương sườn, xương ức, các thân đốt sống) cũng như ở đầu xương đùi và
xương cánh tay.
- Hồng cầu trưởng thành có dạng đĩa, hai mặt lõm bao quanh bởi một màng bán
thấm, không có nhân, đường kính 7-8 μm, trong có các sợi xơ và một chất màu gọi là
huyết cầu tố (Hemoglobin viết tắt là Hb).
- Tuổi thọ trung bình của hồng cầu là 100 – 120 ngày.
- Số lượng: bình thường có 4.000.000 – 4.500.000 hồng cầu/ mm3. Số lượng hồng
cầu có thể thay đổi trong 2 trường hợp:
+ Sinh lý: ở nam giới thường cao hơn nữ giới; trẻ sơ sinh bình thường có
6.000.000 hồng cầu/ mm3; số lượng hồng cầu còn giảm khi ăn no (nên trước khi xét
nghiệm không được ăn gì để cho kết quả chính xác); khi có thai, khi lao động, khi
thấy kinh nguyệt.
+ Bệnh lý: số lượng hồng cầu tăng do cơ thể mất nước (như nôn ói quá nhiều,
tiêu chảy nặng) làm máu cô đặc lại. Ngược lại, số lượng hồng cầu giảm do chảy 1máu
3
4
nhiều, chảy máu kéo dài, sốt rét, giun móc, suy tủy…Khi số lượng hồng cầu dưới
4.000.000 là thiếu máu nhẹ, dưới 3.000.000 là thiếu máu vừa, dưới 2.000.000 là thiếu
máu nặng.
- Huyết cầu tố (Hb) là một protein phức tạp ở trong hồng cầu, có chứa Fe ++ để kết
hợp với một số chất khí như: O 2, CO2, CO nên đóng vai trò quan trọng trong chức
năng hô hấp. Nhờ tác dụng của Hb, hồng cầu có thể hấp thu được O 2ở phổi đem đến
cho tế bào và đem khí CO2ở tế bào thải qua phổi ra ngoài. Nhưng chú ý khi nhiễm
độc CO sẽ nặng vì Hb kết hợp với CO thành HbCO là một chất bền vững khó phân
ly. Bình thường có đến 140-180g huyết cầu tố trong 1 lít máu. Hb thiếu chủ yếu là do
thiếu chất sắt vì hình thành Hb chính là do sắt, ngoài ra còn do protein (các acid
amin), vitamin B12, vitamin C, vitamin B6, một số yếu tố trong dạ dày, trong tá
tràng.
- Sức bền hồng cầu: Hồng cầu trong dung dịch muối NaCl nhược trương bị trương
to lên và vỡ ra do nước từ dung dịch muối vào trong hồng cầu.Khi hồng cầu vỡ,
hemoglobin giải phóng vào dung dịch và làm cho nó có màu hồng. Một số hồng cầu
bắt đầu vỡ trong dung dịch muối NaCl nhược trương 0,44%. Nồng độ muối NaCl
0,44% được gọi là sức bền tối thiểu của hồng cầu. Toàn bộ hồng cầu vỡ hết trong
dung dịch NaCl nhược trương 0,34%. Nồng độ muối NaCl 0,34% được gọi là sức bền
tối đa của hồng cầu.
- Khi hồng cầu vỡ do nguyên nhân bất kỳ: các mảnh xác của hồng cầu được gan,
lách, tủy tiêu đi; Hb phân hóa thành Bilirubin bị đào thải dưới dạng sắc tố mật và
biến thành Urobilinogen để một phần vào tuần hoàn ruột gan rồi đào thải qua nước
tiểu, phân, hay tái sử dụng để tổng hợp các sắc tố hô hấp; còn sắt được giữ lại để sản
xuất hồng cầu mới.
1.1.2. Bạch cầu:Bạch cầu là các tế bào có nhân, hình dáng và kích thước rất khác
nhau tùy từng loại. Bạch cầu không phải chỉ lưu thông trong máu, mà nó còn có mặt
ở nhiều nơi trong cơ thể: bạch huyết, dịch não tuỷ, hạch bạch huyết, các tổ chức liên
kết...
- Tuổi thọ của bạch cầu rất ngắn, thường chỉ được vài giờ đến 2 hoặc 3 ngày.
- Số lượng: bình thường là 6.000 – 8.000 bạch cầu/ mm3máu, ở trẻ sơ sinh là 10.000
bạch cầu/ mm3máu. Bạch cầu tăng khi ăn no, khi có thai và trong nhiều trường hợp
bệnh lý, nhất là các bệnh nhiễm khuẩn, mưng mủ. Bạch cầu giảm trong một số trường
hợp bệnh có nhiễm khuẩn nhiễm độc như thương hàn, bệnh do virus (cúm, sởi, viêm
gan do virus)…
- Phân loại bạch cầu: Người ta phân loại bạch cầu thành bạch cầu đa nhân và bạch
cầu đơn nhân. Bạch cầu đa nhân được chia làm 3 loại: trung tính, ưa acid và base.
1
3
5
Bạch cầu đơn nhân được chia làm 2 loại: monocyt và lymphocyt. Ở người bình
thường, tỷ lệ các bạch cầu trong máu ngoại vi như sau:
- Chức năng của bạch cầu: bạch cầu có nhiều chức năng như sinh kháng thể, chống
độc và chức năng thực bào để bảo vệ cơ thể. Thực hiện được khả năng thực bào là
nhờ các đặc tính của bạch cầu như sau:
+ Tự di chuyển: bằng những chân giả kiểu amip. Bạch cầu thường bị thu hút
và tìm đến nơi có vi khuẩn, độc tố…
+ Xuyên mạch: mỗi khi có nơi nào bị vi khuẩn hoặc vật lạ xâm nhập, bạch cầu
ở các vùng lân cận lập tức thoát khỏi mạch, tập trung vào nơi đó để dùng chân giả ôm
lấy vi khuẩn, vật lạ hoặc xác tế bào, rồi tiết ra các chất men để tiêu hóa chúng.
1.1.3. Tiểu cầu: là những huyết cầu nhỏ, hình đa giác, không có màu, không có nhân
và tụ lại từng đám.
- Số lượng: Bình thường có từ 200.000 đến 300.000 tiểu cầu/mm 3 máu. Tiểu cầu
giảm trong bệnh chảy máu, trong các giai đoạn cấp tính của bệnh nhiễm khuẩn và
tăng khi ăn nhiều thịt, bị chảy máu, bị dị ứng.
- Chức năng : Các tiểu cầu giữ một vai trò quan trọng trong cầm máu. Tiểu cầu
chứa nhiều yếu tố gây đông máu nhưng đặc biệt là chất men tromboplastin,
tromboplastin có tác dụng mở đầu cho hiện tượng đông máu.
1.2. Huyết tương : Huyết tương là dịch trong, hơi vàng, vị hơi mặn. Gồm có:
1.2.1. Nước: chiếm 90% thể tích của huyết tương.
1.2.2. Muối khoáng: muối khoáng thường thấy dưới dạng clour, bicacbonat, sulfat,
photphat của các chất Na+, K+, Cl-,… Các muối khoáng của huyết tương ở dưới hình
1
3
6
thức các chất điện giải. Riêng muối NaCl đã chiếm 6g/lít. Muối NaCl là muối quan
trọng trong duy trì áp suất thẩm thấu giữa máu và tế bào.
1.2.3. Các chất hữu cơ: bao gồm các chất protein, lipit, glucid.
- Protein huyết tương: toàn phần là 82-83g/lít, trong đó gồm có:
+ Albumin từ 45 - 50 g/lít
+ Globulin từ 25 - 30 g/lít
+ Fibrinogen từ 3 - 4 g/lít
- Lipit huyết tương: toàn phần là 5 – 8 g/lít, trong đó có:
+ Cholesterol: từ 1,5 – 1,8 g/lít
+ Acid béo: khoảng 4 g/lít
- Glucid huyết tương: chất dinh dưỡng là glucose ở dạng tự do với nồng độ là 1
g/lít.
1.2.4. Các chất khác
- Urê : là chất thải quan trọng của cơ thể qua nước tiểu, bình thường chỉ có 0,2 –
0,4 g/lít.
- Các kích thích tố kháng thể, kháng độc tố…
Ta thấy huyết tương có chứa các chất cần thiết cho tế bào và các chất của tế bào
thải ra, nên việc xét nghiệm các chất trong huyết tương giúp ích rất lớn cho việc phát
hiện và theo dõi bệnh.
2. Đông máu
Trong máu và trong các mô có chứa khoảng 50 chất có ảnh hưởng tới quá trình
đông máu. Các chất kích thích quá trình gây đông máu gọi là các chất gây đông máu.
Các chất lại ức chế quá trình gây đông máu gọi là các chất chống đông máu. Máu có
đông hay không đông là phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các chất gây đông máu và
các chất chống đông máu. Bình thường máu trong cơ thể không đông là do chất
chống đông máu chiếm ưu thế. Khi máu, mạch máu bị tổn thương, khi máu lấy ra
ngoài cơ thể, các chất gây đông máu được hoạt hoá và trở nên ưu thế, đông máu được
thực hiện.
Máu ra khỏi mạch sẽ đông lại thành cục máu đông. Sau vài giờ, cục máu đông
co lại để rỉ ra một chất dịch hơi vàng gọi là huyết thanh ( Huyết tương bị mất
fibrinogen thì gọi là huyết thanh).
I.1. Định nghĩa:
Đông máu là một quá trình chuyển máu ở thể lỏng sang thể đặc, mà thực chất là
chuyển fibrinogen ở dạng hòa tan thành fibrin ở dạng không hoà tan.
I.2. Cơ chế đông máu
1
3
7
Đông máu được diễn ra theo một cơ chế rất phức tạp. Đây là một quá trình hoạt
hoá và hoạt động của các enzym với mục đích là tạo ra fibrin. Thông thường người ta
chia quá trình đông máu ra làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn hình thành Tromboplastin huyết tương hoạt động : các yếu tố gây
đông tiếp xúc với tế bào dập nát ở miệng vết thương cùng với các chất do tiểu cầu tụ
lại và giải phóng tạo thành Tromboplastin huyết tương hoạt động.
- Giai đoạn hình thành trombin: Tromboplastin huyết tương hoạt động cùng với
sự có mặt của Ca++ sẽ hoạt hóa protrombin của huyết tương tạo thành trombin.
- Giai đoạn hình thành fibrin: Trombin lại tác động tiếp các chất fibrinogen của
huyết tương làm cho chất này ngưng tụ lại thành những sợi to nhỏ gọi là fibrin. Các
sợi fibrin này kết dính với nhau và với các huyết cầu để hình thành cục máu đông.
1
4
0
Vậy nhóm O là nhóm phổ thông – chuyên cho; nhóm AB là nhóm nhận phổ
thông – chuyên nhận. Trong mọi trường hợp, truyền máu cùng nhóm là tốt hơn cả.
* Đối với hệ nhóm máu Rh: kháng thể chống Rh chỉ hình thành ở người Rh-
khi được miễn dịch bằng hồng cầu Rh+. Tỷ lệ Rh- của người Việt lại rất thấp, cho
nên thực tế người ta chú ý hai trường hợp cần xét nghiệm nhóm máu hệ Rh đó là
người đã được truyền máu nhiều lần và người phụ nữ có tiền sử xảy thai, đẻ non, đẻ
con có hội chứng vàng da huỷ huyết. Việc xét nghiệm nhóm máu hệ Rh cũng dựa
trên kháng thể của huyết thanh mẫu để tìm kháng nguyên. Nếu người cần được truyền
máu là Rh+ thì truyền máu Rh+ hoặc Rh- đều được. Nếu người cần được truyền máu
là máu Rh- thì nhất thiết phải được truyền máu là Rh-.
4. Chức năng của máu: Máu có nhiều chức năng rất quan trọng, các chức năng
chính là :
4.1. Chức năng hô hấp: Máu thực hiện được chức năng này là nhờ có huyết cầu tố
(Hb)
- Huyết cầu tố vận chuyển O2 từ phổi đến từng tế bào:
Hb + O2 = HbO2 (Oxyhemoglobin)
Kết hợp này dễ phân ly để trở thành Hb và O2.
- Huyết cầu tố vận chuyển CO2 từ tế bào đưa về phổi:
Hb + CO2 = HbCO2 (CacbOxyhemoglobin).
4.2. Chức năng dinh dưỡng:Sau khi thức ăn được hấp thụ vào máu, máu mang các
chất hấp thu như Axit Amin, axit béo, Glucose, VitAmin v. v... tới nuôi dưỡng các tế
bào.
4.3. Chức năng đào thải: Các sản phẩm do tế bào sinh ra như CO2, Urê, nước v.v...
sẽ được máu vận chuyển đến các cơ quan bài tiết (thận, phổi, tuyến mồ hôi v.v...) để
đào thải ra ngoài.
4.4. Chức năng điều hoà nhiệt độ cơ thể: Trời nóng, máu đưa nhiệt ra phần nông
của cơ thể (bằng cách giãn mạch ngoại biên) để nhiệt của cơ thể dễ tỏa ra ngoài. Trời
1
4
1
lạnh, máu chuyển nhiệt vào các phần sâu của cơ thể nhiều hơn (bằng cách co mạch
ngoại biên) để giữ nhiệt.
4.5. Chức năng bảo vệ cơ thể: Nhờ có bạch cầu làm nhiệm vụ thực bào, tiêu diệt vi
khuẩn, đồng thời nhờ có các kháng thể, kháng độc tố của huyết tương tạo ra khả năng
miễn dịch của cơ thể. Ngoài ra hiện tượng đông máu là một hình thức tự bảo vệ cơ
thể khi bị chảy máu.
4.6. Chức năng thống nhất cơ thể:Máu lưu thông khắp cơ thể tạo ra mối liên hệ mật
thiết giữa các bộ phận của cơ thể vì các chất do những bộ phận này sinh ra có thể
theo dòng máu tới tác động vào các bộ phận khác làm cho toàn bộ cơ thể hoạt động
nhịp nhàng, thống nhất.
1
4
2
BÀI 6: MẠCH MÁU Ở CHI VÀ HỆ BẠCH HUYẾT
MỤC TIÊU
Mô tả được những đặc điểm giải phẫu chính của các mạch máu và thần
kinh vùng đầu mặt cổ và tứ chi
Nêu được hệ tuần hoàn bạch huyết
I. CHI TRÊN
1. Động mạch
Động mạch dưới đòn là động mạch nguồn của các động mạch chi trên. Chi trên
được cấp máu nhờ động mạch nách, động mạch cánh tay, động mạch quay và động
mạch trụ cùng các nhánh của chúng.
Động mạch nách cấp máu cho vùng ngực, vai và nách. Trên đường đi động mạch
nách cho 6 nhánh bên lần lượt là:
Động mạch ngực trên cấp máu cho các cơ ngực.
Động mạch ngực cùng vai cấp máu cho vùng vai và ngực.
Động mạch ngực ngoài cấp máu cho thành ngực.
Động mạch dưới vai cấp máu cho thành sau hõm nách.
Động mạch mũ cánh tay trước và động mạch mũ cánh tay sau đi vào vùng
delta, nối nhau quanh cổ phẫu thuật xương cánh tay.
1.2. Động mạch cánh tay
Động mạch cánh tay là động mạch tiếp theo động mạch nách, bắt đầu từ bờ dưới cơ
ngực lớn đi trong ống cánh tay, sau đó đi trong rãnh nhị đầu đến dưới nếp gấp khuỷu
3 cm. Động mạch cánh tay cho các nhánh chính:
Động mạch cánh tay sâu cấp máu cho toàn bộ cánh tay sau, cho nhánh bên là
động mạch bên giữa và động mạch bên quay.
Động mạch bên trụ trên, cùng dây thần kinh trụ chạy xuống dưới. 1
4
4
Động mạch bên trụ dưới
Hai nhánh cùng động mạch quay và động mạch trụ.
Động mạch cánh tay cấp máu cho khu vực cánh tay, có thể bắt mạch này ở rãnh
nhị đầu trong, cũng là vị trí nghe khi đo huyết áp.
Mạng mạch quanh khuỷu tạo thành do động mạch bên trụ trên nối với động mạch
quặt ngược trụ sau, động mạch bên trụ dưới nối với động mạch quặt ngược trụ trước.
Trong đó, động mạch quặt ngược trụ là nhánh của động mạch trụ. Động mạch bên
quay là nhánh nối với động mạch quặt ngược quay là nhánh của động mạch quay,
động mạch bên giữa nối với động mạch quặt ngược gian cốt là nhánh của động mạch
gian cốt.
1.3. Động mạch trụ
1
4
5
Động mạch trụ là nhánh của động mạch cánh tay, bắt đầu từ 3 cm dưới nếp khuỷu
chạy ở phía trước trong vùng cẳng tay xuống cổ tay và vào gan tay tạo nên cung động
mạch gan tay nông. Động mạch trụ cho các nhánh bên nuôi dưỡng vùng cẳng tay và
bàn tay, trong số đó có nhánh gan tay sâu nối với động mạch quay tạo nên cung động
mạch gan tay sâu.
Động mạch quay là nhánh của động mạch cánh tay. Bắt đầu từ 3 cm dưới nếp gấp
khuỷu, động mạch quay chạy xuống dưới ở phần trước ngoài của cẳng tay, nằm trong
rãnh động mạch quay, sau đó vòng quanh mỏm trâm quay, qua hõm lào giải phẫu đổ
vào gan tay, tạo nên cung gan tay sâu.
Động mạch quay cho các nhánh bên nuôi dưỡng vùng cẳng tay và bàn tay. Trong
số đó có nhánh gan tay nông nối với động mạch trụ tạo nên cung động mạch gan tay
nông.
Cung động mạch gan tay nông do động mạch trụ nối với nhánh gan tay nông của
động mạch quay tạo nên, cho các nhánh nuôi dưỡng bàn tay và ngón tay.
Cung động mạch gan tay sâu do động mạch quay nối với nhánh gan tay sâu của
động mạch trụ tạo nên, cho các nhánh nuôi dưỡng: bàn tay và ngón tay.
1
4
6
2. Tĩnh mạch: gồm hai hệ thống tĩnh mạch sâu và tĩnh mạch nông.
2.1. Tĩnh mạch sâu
Đi chung và mang cùng tên với động mạch như tĩnh mạch quay, trụ, cánh tay,
nách, dưới đòn. Từ dưới lên đến phần cánh tay thường có hai tĩnh mạch sâu đi kèm
theo hai bên động mạch cùng tên. Đến hõm nách thì nhập lại thành tĩnh mạch nách.
2.2. Tĩnh mạch nông chạy trong lớp mỡ dưới da không đi kèm với động mạch, xuất
phát từ cung tĩnh mạch mu tay, máu đổ về ba tĩnh mạch nông theo thứ tự từ trong ra
ngoài là: tĩnh mạch nền, tĩnh mạch giữa cẳng tay và tĩnh mạch đầu. Các tĩnh mạch
này đi lên vùng khuỷu trước để góp phần tạo nên mạng tĩnh mạch cánh tay. Sau đó
tĩnh mạch đầu và tĩnh mạch nền tiếp tục chạy lên trên đổ vào tĩnh mạch nách.
Mạng tĩnh mạch cánh tay gồm 2 dạng mạng tĩnh mạch: dạng chữ H và dạng chữ
M. Dạng tĩnh mạch chữ H có tĩnh mạch giữa khuỷu nối giữa tĩnh mạch đầu và tĩnh
mạch nền. Mạng tĩnh mạch chữ M có thêm tĩnh mạch giữa cẳng tay. Trong đó, tĩnh
mạch giữa cẳng tay hợp với tĩnh mạch nền bằng tĩnh mạch giữa nền, hợp với tĩnh
mạch đầu bằng tĩnh mạch giữa đầu. Người ta thường thực hiện tiêm truyền ở mạng
tĩnh mạch này.
1
4
8
Hình : Các động mạch chi dưới ( nhìn sau)
1
4
9
1.1. Các nhánh ngoài chậu của động mạch chậu trong
Động mạch mông trên là nhánh của thân sau động mạch chậu trong; từ trong chậu
hông, nó qua khuyết ngồi lớn, ở trên cơ hình quả lê ra vùng mông và chia nhánh cấp
máu cho cơ mông to (nhánh nông), cơ mông nhỡ và bé (nhánh sâu).
Động mạch mông dưới tách ra từ thân trước của động mạch chậu trong; nó đi qua
khuyết ngồi lớn ở dưới cơ quả lê ra mông chia thành các nhánh: nhánh cho cơ mông
to nối với động mạch mông trên, nhánh cho các cơ chậu hông - mấu chuyển nối với
các nhánh mũ đùi của động mạch đùi sâu.
Động mạch thẹn trong là nhánh của thân trước động mạch chậu trong; nó đi qua
khuyết ngồi lớn ở dưới cơ quả lê ra mông nhưng ngay lập tức vòng quanh gai ngồi
vào đáy chậu, phân nhánh cấp huyết cho vùng đáy chậu và cơ quan sinh dục ngoài
Động mạch khoeo: tiếp tục chạy xuống qua khoeo, đoạn trên hơi chếch ra ngoài,
đoạn dưới đi thẳng xuống, tới ngang bờ dưới cơ khoeo thì chia thành hai nhánh tận là
động mạch chày trước và động mạch chày sau. Động mạch khoeo cho một số nhánh
bên (như động mạch gối trên trong, động mạch gối trên ngoài, động mạch gối dưới
trong...) thông với các động mạch lân cận tạo nên vòng động mạch quanh khớp gối,
cấp máu nuôi dưỡng vùng gối.
Động mạch chày trước: Động mạch chày trước là nhánh của động mạch khoeo,
bắt đầu từ bờ dưới cơ khoeo, vượt qua bờ trên màng gian cốt để ra khu cẳng chân
trước cho nhánh động mạch quặt ngược chày trước và động mạch quặt ngược chày
sau, góp phần tạo nên mạng mạch khớp gối, sau đó chạy cùng thần kinh mác sâu
xuống cổ bàn chân đổi tên động mạch mu chân. Có thể bắt được mạch động mạch mu
chân ở ngay phía ngoài gân cơ duỗi ngón chân cái dài.
1
5
1
Các nhánh chính của động mạch chày trước gồm động mạch quặt ngược chày trước,
động mạch quặt ngược chày sau, động mạch mắt cá trước ngoài, động mạch mắt cá
trước trong.
Động mạch chày sau: Động mạch chày sau là nhánh của động mạch khoeo, đi
từ bờ dưới cơ khoeo đi giữa vùng cẳng chân sau chạy dọc xuống sau mắt cá trong và
phân làm hai nhánh tận là động mạch gan chân trong và động mạch gan chân ngoài.
Ngoài các nhánh trên, động mạch chày sau còn cho nhánh khác quan trọng là nhánh
động mạch mác tách từ động mạch chày sau khoảng 2,5 cm dưới bờ dưới cơ khoeo,
chạy chếch ra ngoài sát dần vào xương mác đế xuống cổ chân cấp máu cho vùng sau
và ngoài cẳng chân. Động mạch chày sau còn cho các nhánh mũ mác, động mạch
mác, các nhánh mắt cá trong, các nhánh gót.
Động mach gan chân ngoài và động mạch gan chân trong là các động mạch
cấp máu cho gan chân. Động mạch gan chân ngoài lớn hơn; nó từ rãnh gân cơ gấp
ngón cái dài ở mặt trong xương gót chạy chếch ra ngoài tới nền xương đốt bàn chân
V rồi chạy ngang vào trong tới ngang đầu sau khoang gian xương đốt bàn chân thứ
nhất thì tiếp nối với nhánh gan chân sâu của động mạch mu chân tạo nên cung gan
chân. Cung này tách ra bốn động mạch gan đốt bàn chân đi trong bốn khoang gian
xương đốt bàn chân; mỗi động mạch lại chia thành hai nhánh đi vào ngón chân
2. Tĩnh mạch
Tĩnh mạch chi dưới có hai hệ thống: tĩnh mạch sâu và tĩnh mạch nông.
1
5
2
2.1. Tĩnh mạch sâu: Các tĩnh mạch sâu đi kèm theo động mạch và mang tên như
động mạch. Động mạch khoeo và động mạch đùi có một tĩnh mạch đi kèm; các động
mạch còn lại có hai tĩnh mạch đi kèm. Tĩnh mạch đùi chạy lên tới sau dây chằng bẹn
thì đổi tên thành tĩnh mạch chậu ngoài. Tĩnh mạch chậu ngoài chạy lên dọc bờ trong
cơ thắt lưng, tới ngang khớp cùng - chậu thì hợp với tĩnh mạch chậu trong để tạo
thành tĩnh mạch chậu chung. Những tĩnh mạch đi kèm các nhánh động mạch cấp
máu cho chi dưới của động mạch chậu trong thì đổ về tĩnh mạch chậu trong.
2.2. Tĩnh mạch nông: bắt đầu từ cung tĩnh mạch mu chân tạo thành tĩnh mạch hiển
lớn và tĩnh mạch hiển bé. Tĩnh mạch này có chung đặc điểm là trong nòng có nhiều
van để ngăn máu chảy ngược, giúp máu chảy từ dưới lên và nối với tĩnh mạch sâu
bằng các tĩnh mạnh xuyên. Tĩnh mạch hiển bé nằm ở lớp nông, từ cạnh ngoài bàn
chân vòng sau mắt cá ngoài, đi thẳng chính giữa mặt sau cẳng chân và đổ vào tĩnh
mạch khoeo ở hố khoeo. Tĩnh mạch hiển lớn là tĩnh mạch dài nhất cơ thể nhận máu
từ cung tĩnh mạch mu chân, chạy lên trên trước mắt cá trong rồi theo dọc bờ trong
xương chày lên mặt trong đùi và cuối cùng qua lỗ tĩnh mạch hiển ở mạc đùi để đổ
vào tĩnh mạch đùi. Với đường kính khoáng 4-5 mm, các tĩnh mạch hiển là một vật
liệu quan trọng được sử dụng trong phẫu thuật tái lập sự lưu thông của mạch máu
(trong phẫu thuật nối rẽ tắt động mạch vành) và có thể bộc lộ tĩnh mạch để thực hiện
tiêm truyền. Tĩnh mạch hiển bé và tĩnh mạch hiển lớn hợp với nhau lại tĩnh mạch
chậu ngoài.
3. Hệ bạch huyết (máu trắng)
Hầu hết các thành phần của huyết tương có thể tự do đi qua thành mao mạch để
tạo nên dịch kẽ ( hay dịch mô). Lượng dịch từ các mao mạch đi vào dịch kẽ lớn hơn
lượng dịch từ dịch kẽ trở lại mao mạch (lượng ứ lại ở dịch kẽ khoảng 3 lít/ngày). Mặt
khác, các protein của huyết tương đã đi vào dịch kẽ thì không thể trực tiếp trở lại
huyết tương qua thành mao mạch được vì nồng độ protein trong mao mạch lớn hơn
trong dịch kẽ. Các mạch bạch huyết có nhiệm vụ đưa lượng dịch và protein bị ứ lại ở
dịch kẽ trở lại hệ tuần hoàn máu. Chất dịch được vận chuyển trong mạch bạch huyết
gọi là bạch huyết. Hệ bạch huyết gồm có: các mạch bạch huyết, các hạch bạch huyết
và các mô bạch huyết khác.
Trong số các cơ quan bạch huyết, tủy xương và tuyến ức là các cơ quan bạch huyết
nguyên phát, lách, vòng bạch huyết hầu vá các hạch bạch huyết là các cơ quan bạch
huyết thứ phát.
1
5
3
3.1. Các mạch bạch huyết
Mao mạch bạch huyết là các ống nội mô có đầu tịt nằm trong các khoảng kẽ;
khe giữa các tế bào nội mô liền kề nhau chỉ cho phép chất dịch chảy từ khoảng kẽ
vào mao mạch (sắp xếp như một van). Các mao mạch bạch huyết hợp lại để tạo
thành các mạch bạch huyết. Các mạch bạch huyết nhỏ hợp lại để tạo thành các
1
5
4
mạch bạch huyết lớn hơn. Những mạch thu bạch huyết từ các vùng lớn của cơ thể
được gọi là các thân bạch huyết. Các thân hợp nên các ống bạch huyết.
Thành mạch bạch huyết có chiều dày gần giống như thành tĩnh mạch nhỏ và
cũng có các lớp mô giống như vậy. Lớp nội mô của mạch bạch huyết gấp nếp
thành nhiều van để ngăn không cho bạch huyết chảy ngược lại.
Phần cơ thể dưới cơ hoành có ba thân bạch huyết: hai thân thắt lưng nhận bạch
huyết ở chi dưới, chậu hông (thành và tạng chậu) và thành bụng; thân ruột thu
bạch huyết từ các tạng bụng.
Phần cơ thể trên cơ hoành có ba thân bạch huyết ở mỗi bên: thân dưới đòn nhận
bạch huyết ở chi trên; thân cảnh nhận bạch huyết ở đầu và cổ; thân phế quản -
trung thất nhận bạch huyết ở ngực. Các thân bên phải đổ vào ông bạch huyết phải,
bên trái vào ống ngực.
Ống ngực. Ống này dài 30 - 40cm, đưòng kính 3mm, do các thân thắt lưng và
thân ruột hợp lại. Tại đây nó vòng từ sau ra trưóc ở trên động mạch dưới đòn trái
để đổ vào tĩnh mạch dưới đòn trái. Ống ngực còn nhận bạch huyết ở nửa trái của
đầu, cổ, ngực và chi trên bên trái.
Ống bach huyết phải dài khoảng 1,0 cm, nhận các thân dẫn lưu bạch huyết ở nửa
phải của đầu, cổ, ngực và chi trên bên phải, rồi đổ vào tĩnh mạch dưới đòn phải.
3.2. Các hạch bạch huyết
Hạch bạch huyết là những cơ quan nhỏ, có đường kính 1 - 20 mm, nằm dọc
đưòng đi của các mạch bạch huyết. Các hạch thường nằm thành nhóm tại những vị
trí xung yếu của cơ thể như nách và bẹn. Chúng có hình tròn hay bầu dục, màu sắc
tuỳ vị trí (ở gan màu nâu, phổi màu đen, ruột màu trắng sữa. . .)
Mỗi hạch bạch huyết được bọc bởi một bao xơ. Từ mặt trong bao xơ có những
bè tiến vào trong chất hạch. Chất hạch chủ yếu được cấu tạo bằng mô lưới lympho
chứa nhiều tế bào lympho và đại thực bào.
Bạch huyết chảy qua hạch theo một chiều. Có 4 - 5 mạch bạch huyết đến đi vào
một hạch bạch huyết trong khi chỉ có một mạch bạch huyết đi mang bạch huyết ra
khỏi hạch
Trong dòng bạch huyết đi tới hạch bạch huyết có các tế bào chết, các vật lạ, các
tế bào lạ (tế bào ung thư) và có thể cả các vi sinh vật. Các thành phần này sẽ bị các
đại thực bào của hạch nuốt, còn các lympho bào của hạch sẽ tiêu diệt chúng bằng
kháng thể đặc hiệu. Các lympho bào cư trú và nhân lên ở hạch bạch huyết và chúng
có thể đi vào máu khi cần. Như vậy vai trò của hạch bạch bạch huyết là "làm sạch"
bạch huyết trước khi nó được dẫn về hệ tuần hoàn máu
1
5
5
3.3. Các mô bạch huyết khác
Ngoài hạch bạch huyết, trong cơ thể còn có những đám mô chứa nhiều tế bào
lympho được nâng đỡ bởi các tế bào lưới và sợi cơ trơn. Chúng được gọi là mô
dạng bạch huyết và bao gồm: vòng bạch huyết quanh hầu, các nang bạch huyết ở
ruột non và ruột thừa, tuyến ức, lách, tuỷ xương. Mô bạch huyết niêm mạc chỉ có
mạch đi.
3.3.1. Lách
Lách hay tỳ là cơ quan bạch huyết quan trọng và lớn nhất cơ thể; là nơi sinh tế
bào lympho, là chỗ chứa và chôn các hồng cầu già. Ngoài ra tỳ còn tham gia
chuyển hoá một số chất sắt, lưu huỳnh, cholesterol. Lách nằm ở vùng hạ sườn trái,
giữa đáy vị và cơ hoành. Nó nặng khoảng 200 gr, màu đỏ sẫm, xốp, dễ bị dập vỡ
khi chấn thương và dễ có phản ứng phình to trong 1 số bệnh về máu, sốt rét,
leucose.
Ngoài các thành phần chống đỡ, lách được cấu tạo chủ yếu bởi các mô bạch
huyết (tuỷ trắng) bao quanh các nhánh động mạch trong lách, xen giữa các mô bạch
huyết là mô màu đỏ (tuỷ đỏ). Tủy lách được tạo nên bởi các tế bào lympho và các
đại thực bào . Vì lách là mô bạch huyết nằm trên đường tuần hoàn máu, nó có vai
trò loại bỏ các tế bào máu già, nhất là hồng cầu, và cả các tế bào lạ hay vi sinh vật
đã lọt vào hệ tuần hoàn. Nó cũng phần nào có vai trò dự trữ máu và đáp ứng miễm
dịch
3.3.2. Tuyến ức
Tuyến ức nằm trong trung thất, sau xương ức và kéo dài lên trên tới nền cổ.
Những tế bào lympho có nguồn gốc từ tủy đỏ của xương, chúng đi tới tuyến ức và
phát triển ở đó thành tế bào lympho T có khả năng đáp ứng miễm dịch.
Tuyến ức ở trẻ nhỏ có trọng lượng khoảng 70g. Ở người trưởng thành tuyến ức
đã teo đi đáng kể, và ở người già nó chỉ nặng khoảng 3g
3.3.3. Vòng bạch huyết hầu
Vòng bạch huyết hầu bao gồm hạnh nhân lưỡi, hạnh nhân khẩu cái,hạnh nhân
hầu và hạnh nhân vòi
Các nang bạch huyết đơn độc và các nang bạch huyết kết khối trong thành ruột non và
ruột thừa cũng xem như là những mô bạch huyết
1
5
6
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ HÔ HẤP
- Đường dẫn khí bao gồm: Mũi, Họng (hầu),Thanh Quản, Khí Quản, Phế Quản
1
5
7
- Bộ phận trao đổi khí: Chính là các phế nang và các thành phần liên quan, chúng
tập hợp lại thành 2 lá Phổi trong lồng ngực.
I. MŨI
Mũi là phần đầu tiên của đường dẫn khí, đồng thời là bộ phận phân tích khứu giác.
1. Hình thể ngoài :
Mũi có hình dạng: hình tháp ở giữa mặt, phần trên bằng xương và phần dưới bằng
sụn.
Đáy tháp có 2 lỗ hình bầu dục gọi là 2 lỗ mũi trước.
1
5
8
Hình: Giới hạn của hốc mũi
1
6
1
2. Cấu tạo và hình thể trong :
2.1.Khung sụn có 7 sụn: 3 sụn đơn là: sụn giáp, sụn nắp thanh quản, sụn nhẫn 2 đôi
sụn kép là: 2 sụn phễu, 2 sụn sừng.
2.2.Các khớp thanh quản
- Khớp nhẫn giáp
- Khớp nhẫn - phễu.
2.3.Các dây chằng: có tác dụng làm cho các khớp sụn thanh quản di động tại chỗ
như trượt, nghiêng, nâng và hạ thanh quản. Có 2 loại :
- Các dây chằng nối sụn của thanh quản với các bộ phận lân cận.
- Các dây chằng nối các sụn thanh quản với nhau
2.4.Các cơ thanh quản có 2 loại: 1
6
2
- Cơ đi từ thanh quản tới các bộ phận lân cận như : cơ ức-giáp, cơ giáp-móng…tác
dụng nâng, hạ thanh quản.
- Cơ nối các sụn thanh quản :
+ Cơ nhẫn-giáp: làm căng dây thanh âm;
+ Cơ nhẫn-phễu sau: làm mở rộng thanh môn;
+ Cơ nhẫn-phễu trên và bên: làm khép thanh môn.
2.5.Niêm mạc:
Phủ mặt trong thanh quản, có những chỗ dày lên tạo thành các dây thanh âm. Có 2
dây thanh âm trên và 2 dây thanh âm dưới. Giữa hai dây thanh âm trên và hai dây
thanh âm dưới có một khe, được gọi là buồng Morgagni. Phần thắt hẹp ở giữa hai dây
thanh âm dưới gọi là thanh môn.
Khi phát âm: Không khí thở ra qua thanh môn đang khép làm rung các dây thanh
âm kèm theo sự thay đổi vị trí của lưỡi và môi tạo nên các âm khác nhau. Khi bị viêm
thanh quản có thể gây phù nề các dây thanh âm, tiết nhiều dịch làm cho giọng nói
khàn. Có khi thanh quản còn bị tắc do dị vật hoặc do bệnh bạch hầu thanh quản gây
khó thở dữ dội.
3. Mạch máu, thần kinh :
- Động mạch cấp máu: là động mạch thanh quản trên, dưới và sau.
- Thần kinh chi phối : là nhánh của dây thần kinh phế vị (dây X).
4. Chức năng của Thanh Quản :
1
6
3
Vừa là đường dẫn khí, vừa là bộ phận chủ yếu của sự phát âm, đồng thời còn là bộ
phận cảm thụ của phản xạ sặc khi có dị vật lọt vào đường thở. Có tác dụng đẩy các
vật lạ ra, chống tắc, ngạt.
IV . KHÍ QUẢN
1. Vị trí :
Khí quản là ống dẫn khí tiếp theo thanh quản. Nằm ở trước và giữa cổ ngang
mức đốt sống cổ VI, xuống dưới đi sâu vào lồng ngực và tận cùng ở ngang mức đốt
sống ngực IV. Khi đường hô hấp trên bị tắc, người ta có thể mở khí quản bằng cách
rạch các vành sụn đầu tiên và luồn một ống kim loại vào, để không khí đi vào phổi.
2. Hình thể ngoài :
Khí quản dài khoảng 12cm, rộng khoảng 1cm, gồm 16 đến 20 vành sụn hình chữ D
xếp chồng lên nhau, vành cong ra trước. Các vành sụn của khí quản gắn liền với nhau
bởi các dây chằng. Thành sau của khí quản mềm, có màng liên kết dính với thực
quản.
1
6
4
Liên quan :
Ở mặt trước :
-Phía trên liên quan với eo tuyến giáp.
-Phía dưới liên quan với quai động mạch chủ.
Ở mặt sau :
Liên quan với thực quản và cột sống
3. Hình thể trong :
Trong lòng khí quản được phủ 1 lớp niêm mạc. Trong đó có biểu mô rung và các
tuyến tiết dịch nhầy. Nhờ biểu mô rung có những lông rung mà chất tiết được đẩy từ
dưới lên trên và ra ngoài.
4. Mạch máu, thần kinh :
- Động mạch cấp máu cho khí quản là động mạch giáp trạng trên, dưới và động mạch
phế quản phải.
- Thần kinh chi phối khí quản: là các nhánh thần kinh quặt ngược (của dây thần kinh
số X).
5. Chức năng của khí quản :
Là đường dẫn khí vào phổi, đồng thời cũng là một bộ phận cảm thụ của phản xạ ho
khi bị kích thích.
V . PHẾ QUẢN
1. Hình thể ngoài :
Phế quản nối tiếp với khí quản từ chỗ chia đôi của khí quản (ngã ba khí phế
quản). Có 2 phế quản phải và trái, đi chếch xuống dưới và ra ngoài, ra sau, qua rốn
phổi để vào 2 phổi. Mỗi phế quản được chia làm 2 đoạn :
- Đoạn ngoài phổi đó là phế quản gốc
- Đoạn trong phổi đó là phế quản phổi
1.1.Phế quản gốc:
Phế quản gốc bên phải rộng và ngắn hơn, đi dốc xuống nhiều hơn phế quản gốc
bên trái. Vì vậy dị vật dễ vào phế quản gốc bên phải hơn.
1.2.Đoạn phế quản phổi:
- Bên phải chia làm 3 nhánh đi vào 3 thùy của phổi phải.
- Bên trái chia làm 2 nhánh đi vào 2 thùy của phổi trái.
Các nhánh này gọi là Phế quản thuỳ. Các phế quản thuỳ lại chia ra làm các nhánh
để đi vào các phân thuỳ phổi và được gọi là các Phế quản phân thuỳ. Sau đó chúng
tiếp tục chia nhỏ mãi cho tới các phế quản nhỏ nhất đó là những Tiểu Phế Quản, và
tận cùng các tiểu phế quản là các Phế Nang.
1
6
5
Tất cả các đoạn của phế quản hợp thành cây phế quản, các phế quản nhỏ nhất gọi
là tiểu phế quản, tận cùng là các phế nang. Giống như một cái cây, gồm có: gốc, thân,
cành ( cành lớn, cành bé,…), cuốn lá và lá.
1
6
6
Phổi có hình nón, màu đỏ hồng.Có 2 phổi phải và trái, mỗi phổi có 1 đỉnh, 3 mặt, 3
bờ
1.1.Đỉnh phổi : Đỉnh phổi hẹp nhô lên khỏi đầu trong của xương sườn số I khoảng
2cm đến 3cm, liên quan với động mạch và tĩnh mạch dưới đòn.
1.2. Ba mặt :
- Mặt ngoài (mặt sườn) : uốn theo hình của lồng ngực.
- Mặt trong (mặt trung thất) : hướng về tim, mặt này có rốn phổi.
- Mặt dưới (mặt hoành hay đáy phổi) : nằm trên cơ hoành, đúc sát theo vòm hoành.
Phổi phải : lớn hơn phổi trái, có 2 rãnh liên thùy chia phổi phải ra làm 3 thùy :
- Thùy trên có 3 phân thùy.
- Thùy giữa có 2 phân thùy.
- Thùy dưới có 5 phân thùy.
Phổi trái : có 1 rãnh chia phổi trái làm 2 thùy, mỗi thuỳ có 5 phân thùy. :
- Thùy trên nhỏ,
- Thùy dưới lớn hơn.
Như vậy mỗi phổi có 10 phân thùy, mỗi phân thùy lại phân chia thành nhiều
tiểu thùy phổi. Giữa những tiểu thùy có lớp trung gian mô liên kết trong đó có thần
kinh, mạch máu, bạch mạch đi qua.Trong mỗi tiểu thuỳ phổi có các phế nang và tiểu
phế quản của cùng một nhánh phế quản phân thuỳ cuối cùng.
Thành phế nang rất mỏng và sát thành phế nang có mạng lưới mao mạch dày
đặc (mao động mạch của động mạch phổi và mao tĩnh mạch của tĩnh mạch phổi).
Thành mao mạch cũng mỏng như thành phế nang (khoảng 0,1 – 0,5 micromet) nên
mới thực hiện được sự trao đổi khí: Oxy từ phế nang vào máu và khí Carbonic từ
máu vào phế nang để thải ra ngoài.Ở người lớn, số lượng phế nang có tới 300 - 400
triệu và tổng diện tích các phế nang lên đến khoảng100m2
1
6
8
Hình: Phế nang
3. Mạch máu, thần kinh:
- Động mạch cấp máu nuôi dưỡng phổi là các động mạch phế quản phải &trái (bắt
nguồn từ động mạch chủ ngực ).
- Thần kinh chi phối là các nhánh thần kinh xuất phát từ đám rối thần kinh tim phổi;
các nhánh của dây thần kinh phế vị (dây số X) và các dây thần kinh giao cảm.
4. Màng phổi :
Màng phổi là loại thanh mạc bao bọc lấy phổi và để hở ra ở rốn phổi.Màng phổi gồm
2 lá : lá tạng ở trong, lá thành ở ngoài.
- Lá tạng: Dính sát vào phổi (trừ rốn phổi) và quặt ngược lại để liên tiếp với lá thành.
Lách vào các rãnh liên thùy để ngăn cách các phân thùy của phổi. 1
6
9
- Lá thành: Tiếp nối với lá tạng ở rốn phổi và quặt ra để dính vào mặt trong của thành
ngực.
*** Giữa lá thành và lá tạng là khoang màng phổi, trong đó có 1 ít thanh dịch để
giảm sự cọ xát khi thở, làm cho 2 lá của màng phổi trượt lên nhau dễ dàng.
Khoang màng phổi không có không khí, có áp suất nhỏ hơn áp suất không khí nên
được gọi là áp suất âm. Chính áp suất âm này làm phổi chuyển động theo cử động hô
hấp của lồng ngực. Nếu có không khí trong khoang màng phổi như trường hợp thủng
màng phổi, làm cho phổi không co giãn theo lồng ngực gây khó thở và suy hô hấp .
Khi màng phổi đi từ mặt này sang mặt kia của phổi tạo nên các góc của màng phổi,
được gọi là cùng đồ hay túi cùng của màng phổi.Cùng đồ sườn-hoành (góc sườn-
hoành) được tạo bởi mặt hoành và mặt sườn. Đây là nơi thấp nhất của khoang màng
phổi, nên khi có xuất tiết, tràn dịch màng phổi thì dịch tập trung ở đây sớm nhất.
B/ SINH LÝ HÔ HẤP
Hô hấp là sự trao đổi khí giữa cơ thể và môi trường thông qua các hiện tượng cơ
học, lý học, hoá học và các quá trình điều hòa trong hô hấp.
1. Hiện tượng cơ học trong hô hấp:
Các động tác thở làm co giãn lồng ngực, làm thay đổi thể tích của phổi để hút
khí vào phổi và đẩy khí ra ngoài.Thực hiện được hiện tượng này là nhờ vào lồng
ngực với các cơ hô hấp (đặc biệt là cơ hoành) và khoang màng phổi luôn có áp suất
âm tính để cho hai lá màng phổi luôn áp sát vào nhau.
1.1. Động tác hít vào :
Thực hiện được là nhờ các dây thần kinh vận động hưng phấn điều khiển các cơ
hô hấp ở thành ngực và cơ hoành co lại làm cho lồng ngực nở ra theo 3 chiều: chiều
ngang, chiều trước sau và chiều dọc; làm cho phổi nở theo, thể tích của phổi tăng lên
gây áp suất trong phổi giảm thấp hơn bên ngoài nên khí trời bị hút vào trong phổi.
1.2. Động tác thở ra :
Sau khi hít vào, các dây thần kinh vận động bị ức chế, các cơ hô hấp giãn ra làm cho
lồng ngực trở lại vị trí ban đầu, thể tích của phổi giảm theo, áp suất trong phổi tăng
lên và khí bị đẩy ra ngoài. Bình thường, các động tác thở có tính chất tự nhiên vô
thức. Khi chủ động thở, các động tác thở được điều khiển có thể sâu nông, nhanh
chậm làm cho không khí ra vào phổi nhiều ít, nhanh hay chậm theo ý muốn.
1.3. Nhịp thở và số lần thở :
- Nhịp thở: gồm 1 lần hít vào và 1 lần thở ra.Trong mỗi nhịp thở, thời gian hít vào chỉ
bằng 5/8 thời gian thở ra, nhưng khi nghe phổi ta lại thấy tiếng hít vào to và dài hơn
tiếng thở ra.
1
7
0
- Số lần thở: Bình thường trong 1 phút số lần thở ở người lớn khoảng 20 lần. Ở trẻ
em, số lần thở nhiều hơn người lớn tuỳ độ tuổi, ví dụ ở trẻ mới đẻ khoảng trên 40 lần,
từ 5-15 tuổi khoảng 26 lần/ 1phút.
Số lần thở có thể thay đổi :
Thay đổi sinh lý, như khi hồi hộp lo sợ, khi chạy nhảy… thì thở nhanh; khi ngủ
thì thở chậm.
Hoặc thay đổi do bệnh lý, như suy hô hấp, viêm phổi,… đặc biệt trong viêm
phổi ở trẻ em, số lần thở nhanh là dấu hiệu quan trọng nhất giúp chẩn đoán viêm phổi
trẻ em.
1.4. Dung lượng phổi :
Dung lượng phổi là sức chứa không khí của phổi. Ở người lớn khoảng 4,5 – 5 lít
trong đó gồm có dung tích sống và thể tích cặn :
- Dung tích sống: Là thể tích khí thoát ra trong một lần thở ra cố gắng hết sức ngay
sau động tác hít vào cố gắng hết sức. Bình thường ở người lớn khoảng 3,5 lít.
- Thể tích khí cặn: khoảng 1-1,5 lít, là khí còn lại trong phổi sau khi đã cố gắng thở ra
hết sức.
Dung lượng phổi, dung tích sống, thể tích cặn thay đổi tùy theo tuổi, giới, cách vận
động tập luyện thể thao, dưỡng sinh, tư thế của thân thể và tình trạng sức khỏe.
1.5. Sự thông khí :
Bình thường, ở người lớn, phổi chứa sẵn khoảng 3 lít khí, gọi là khí cũ. Sau mỗi lần
hít vào tự nhiên, có khoảng 0,3 lít khí mới vào phổi. Như vậy thể tích khí mới so với
khí cũ là 1/10, đó là tỷ số thông khí, nghĩa là thở 1 lần sẽ thay đổi được 1/10 thể tích
khí cũ trong phổi.
Trong phương pháp luyện khí công người ta tập thở chậm và sâu để tăng cường sự
thông khí nên có tác dụng tốt cho sức khoẻ.
1
7
2
lên điều hòa hoạt động trung tâm hô hấp. Do đó, ta thấy hoạt động của trung tâm hô
hấp cần có một nồng độ khí CO2 nhất định trong máu .
3.2. Điều hòa của vỏ não :
Vỏ não có ảnh hưởng thường xuyên đến hô hấp làm thay đổi tần số và độ sâu của
nhịp thở. Thí dụ : ta có thể tự ý thở nhanh, chậm, nông, sâu hoặc điều hòa hơi thở dài,
ngắn khi nói, khi hát, khi luyện thở….v.v. Những kích thích tâm lý, vui buồn, xúc
động, ... thường làm thay đổi hô hấp, có khi còn bị nghẹn thở.
3.3. Điều hòa của các phản xạ ngoại biên:
- Kích thích các dây thần kinh cảm giác như đau, nóng, lạnh, điện giật nhẹ, ... thường
làm cho thở nhanh lên. nếu kích thích quá mạnh có thể làm ngừng thở.
- Ngửi thấy hơi độc hoặc thuốc mê mạnh thì có thể làm ngừng thở đột ngột.
- Ngửi thấy các mùi thơm gây thở nhanh, các mùi hôi thối gây ức chế thở…
3.4. Vai trò của dây X trong hô hấp :
- Khi hít vào các phế nang giãn ra kích thích dây phế vị (dây X) làm hưng phấn trung
tâm thở ra, đồng thời ức chế trung tâm hít vào làm các cơ hô hấp giãn ra, làm lồng
ngực xẹp xuống, gây nên động tác thở ra.
- Khi thở ra, các phế nang co lại không kích thích dây phế vị (dây X) nữa thì trung
tâm thở ra lại bị ức chế và trung tâm hít vào lại hưng phấn và như thế tiếp tục điều
khiển nhịp thở đều đặn.
1
7
3
GIẢI PHẪU HỆ TIÊU HÓA
Hệ tiêu hoá là một tập hợp của các cơ quan có chức năng tiêu hoá và hấp
thu các chất có trong thức ăn. Hệ này bao gồm ống tiêu hóa (đi từ miệng
tới hậu môn) và các cơ quan tiêu hóa phụ (răng, lưỡi, các tuyến nước bọt,
gan và tụy).
1. Đại cương
1.1. Đại cương về cấu trúc ống tiêu hóa
Các đọan của hệ tiêu hoá từ thực quản trở xuống đều có một kiểu cấu trúc
chung nhưng mỗi đoạn lại có những biến đổi vế cấu trúc gắn liền với chức
năng chuyên biệt của từng đoạn
1
7
4
Thành của ống tiêu hoá do bốn lớp mô tạo nên: lớp ngoài, lớp cơ, tấm dưới niêm mạc
và lớp niêm mạc.
Lớp ngoài: Ở thực quản, lớp này là một mô liên kết lỏng lẻo, còn ở trong bụng,
phần lớn chiều dài ống tiêu hóa được bao quanh bởi phúc mạc. Phúc mạc lại gồm hai
lớp là áo thanh mạc và tấm dưới thanh mạc.
Lớp cơ: Lớp cơ gồm hai lớp cơ trơn: lớp cơ dọc ở ngoài và lớp cơ vòng ở trong,
ở giữa hai lớp cơ có các mạch máu, các mạch bạch huyết và một đám rối thần kinh tự
chủ (gọi là đám rối áo cơ ruột - đám rối Auerbach) chi phối cho cơ trơn. Lớp cơ tạo
ra kiểu cử động gọi là nhu động đẩy các thành phần trong đường tiêu hoá về phía
trước và nhào trộn thức ăn với dịch tiêu hoá. Tại một số điểm trên đường đi của ống
tiêu hóa, lớp cơ vòng dày lên tạo nên các cơ thắt. Cơ thắt có vai trò làm chậm sự dịch
chuyển về phía trước của các thành phần chứa bên trong, giúp cho sự tiêu hoá và hấp
thu có thời gian diễn ra.
Tấm dưới niêm mạc: Đây là lớp mô liên kết lỏng lẻo chứa các đám rốì mạch
máu và thần kinh, các mạch bạch huyết và các mô dạng bạch huyết với số lượng khác
nhau tuỳ từng đoạn. Các mạch máu bao gồm các tiểu động mạch, các mao mạch và
các tiểu tĩnh mạch. Đám rối thần kinh trong lớp này là (đám rốì dưới niêm mạc (đám
rốì Meissner) chi phối cho niêm mạc.
Lớp niêm mạc: Niêm mạc có chức năng bảo vệ, tiết dịch và hấp thu. Ở nơi dễ bị
tổn thương cơ học (miệng, thực quản), niêm mạc là thượng mô lát tầng chứa các
tuyến tiết niêm dịch nằm ngay dưới bề mặt. Tại những nơi diễn ra sự tiết dịch, tiêu
hoá và hấp thu, niêm mạc là lớp thượng mô trụ đơn; nằm xen kẽ với các tế bào hấp
thu của thượng mô là các tế bào tiết nhầy và một số tế bào nội tiết, ở dưới bề mặt của
thượng mô trụ đơn có những tuyến đổ dịch tiết (dịch tiêu hoá) vào lòng ống tiêu hoá.
1.2. Phúc mạc
1.2.1. Ý niệm về phúc mạc
Phúc mạc là lá thanh mạc lớn nhất cơ thể. Nó tạo thành một túi nằm trong ổ
bụng. Có thể hình dung là các tạng bụng nằm ở giữa thành ổ bụng và túi phúc mạc,
trên các thành trên, sau và dưới của ổ bụng. Từ các thành này, các tạng lồng vào túi
phúc mạc và kéo theo chúng một lớp vỏ bọc bằng phúc mạc. Các tạng trong chậu
hông lồng vào túi phúc mạc từ phía dưới nên chỉ có mặt trên của chúng được phúc
mạc phủ; dạ dày và ruột lồng vào túi từ phía sau, hầu như hoàn toàn được phúc mạc
bao quanh, và được treo vào thành bụng sau bằng một nếp phúc mạc kép; gan lồng
vào túi từ phía trên và được phúc mạc bọc gần hết; tụy, thận, tuyến thượng thận và
niệu quản lồng vào từ phía sau mức độ ít nên chỉ có mặt trước của chúng được bọc
1
7
5
bằng phúc mạc; các mạch máu lớn và thần kinh trên thành bụng sau tách ra các nhánh
đi giữa các nếp phúc mạc để tới các tạng.
1.2.2. Cấu tạo và các thành phần của phúc mạc
Phần phúc mạc che phủ mặt trong thành ổ bụng là phúc mạc thành, phần bọc các
tạng là phúc mạc tạng và phần trung gian giữa hai phần trên hoặc giữa phúc mạc của
hai tạng được gọi là các mạc nốì, các mạc treo và các dây chằng. Khoang nằm giữa
các phần nói trên của phúc mạc là ổ phúc mạc. Khoang nằm giữa ổ phúc mạc và
thành ổ bụng là khoang ngoài phúc mạc chứa mạc ngoài phúc mạc và các cơ quan
(tạng) ngoài phúc mạc. Phúc mạc được cấu tạo bằng hai lớp: áo thanh mạc là lớp
thượng mô nhẵn bóng hướng về ổ phúc mạc và tấm dưới thanh mạc là lớp mô liên kết
dính với tạng, với thành bụng hoặc nằm giữa hai áo thanh mạc (của mạc nối và dây
chằng).
1.2.3. Các mạc treo, mạc nối và dây chằng
Đây là các phần phúc mạc trung gian giữa phúc mạc thành và phúc mạc tạng.
Mạc treo là phần phúc mạc trung gian (gồm hai lá thanh mạc) nằm giữa phúc mạc
bọc một số đoạn ruột và phúc mạc thành bụng sau, là phương tiện treo các đoạn ruột
này vào thành bụng đồng thời tạo nên đường để mạch và thần kinh đi tới các đoạn
ruột. Có bốn mạc treo ruột: mạc treo tiểu tràng, mạc treo đại tràng ngang, mạc treo
đại tràng xich-ma và mạc treo ruột thừa.
Mạc nối là phần phúc mạc trung gian giữa phúc mạc bọc dạ dày- hành tá tràng và
phúc mạc thành hoặc phúc mạc của các tạng quanh dạ dày. Giữa hai lá của các mạc
nối cũng chứa các mạch và thần kinh. Mỗi phần cấu thành của một mạc nối được gọi
là dây chằng. Có hai mạc nối: (1) mạc nối nhỏ nối gan với bờ cong nhỏ dạ dày, gồm
hai phần chính là dây chằng gan- vị và dây chằng gan-tá tràng; và (2) mạc nối lớn
nối bờ cong lớn của dạ dày với cơ hoành (dây chằng vị -hoành), với tì (dây chằng vị-
tì ) và với đại tràng ngang (dây chằng vị-đại tràng). Phần phúc mạc nối tì với tụy,
thận và cơ hoành cũng thuộc mạc nối lớn và được gọi là các dây chằng tì- tụy, tì -
thận và tì -hoành. Mạc nối lớn còn có phần trĩu xuống ở dưới đại tràng ngang. Một số
dây chằng khác treo gan vào cơ hoành (xem Gan) hoặc treo cơ quan sinh dục trong
của nữ vào thành bụng.
1.2.4. Các nếp, các hố và các ngách phúc mạc
Nếp là những chỗ phúc mạc thành bị các mạch máu hay các ống đội lên. Những
khoang của ổ phúc mạc do các nếp phúc mạc, các mạc nối, dây chằng và các tạng
giới hạn được gọi là ngách hoặc hố. Những ngách lớn của ổ phúc mạc là ngách dưới
gan, ngách dưới hoành, ngách gan-thận. Những ngách nằm ở chỗ thấp của ổ phúc
mạc được gọi là túi cùng. Ngách lớn nhất của ổ phúc mạc là túi mạc nối.
1
7
6
Túi mạc nối là ngách lớn nhất của ổ phúc phúc mạc được vây quanh bởi các mạc
nối và những tạng nằm trên mạc treo đại tràng ngang; nó thông với phần còn lại của ổ
phúc mạc qua lỗ mạc nối. Túi mạc nối gồm tiền đình và túi chính.
Lỗ mạc nối là khe dọc nằm giữa bờ phải mạc nối nhỏ ở trước và tĩnh mạch chủ
dưới ở sau, giữa gan ở trên và khối tá-tụy (dính) ở dưới .
Tiền đình túi mạc nối là phần túi mạc nối được vây quanh bởi gan ở trên, khối
tá-tụy (dính) ở dưới, mạc nối nhỏ ở trước và các mạch chủ (động mạch chủ bụng và
tĩnh mạch chủ dưới) ở sau.
Phần chính của túi mạc nối nằm về phía trái của tiền đình, được vây quanh bởi
(dạ dày và dây chằng vị-đại tràng ở trước, tỳ cùng các dây chằng vị-tỳ và tỳ-tụy ở bên
trái, và thận-tuyến thượng thận và tụy ở sau. Sàn của túi chính là mạc treo đại tràng
ngang, còn bờ trên của nó là chỗ bám của dây chàng vị - hoành vào cơ hoành.
2. Miệng
2.1. Ổ miệng
Ổ miệng là phần đầu của ống tiêu hoá là nơi chứa các cơ quan có chức năng tiêu
hoá và phát âm như răng, lưỡi, và tiếp nhận dịch tiết của các tuyến nước bọt nằm
quanh ổ miệng.
Các giới hạn ổ miệng thông ở trước với bên ngoài qua khe miệng và thông ở sau
với hầu qua eo họng. Các giới hạn (các thành) của ổ miệng là khẩu cái (vòm miệng) ở
trên, nền miệng ở dưới và môi-má ở phía trước-bên.
Hình: Ổ miệng 1
7
7
Khẩu cái gồm khẩu cái cứng ở trước cấu tạo bằng xương, và khẩu cái mềm ở
sau cấu tạo bằng cân-cơ, tất cả đều được phủ bằng niêm mạc. Khẩu cái mềm ngăn
cách tị hầu với khẩu hầu; ở bờ tự do của nó có lưỡi gà ở chính giữa và hai nếp ở mỗi
bên: nếp trước là cung khẩu cái lưỡi, nếp sau là cung khẩu cái hầu. Giữa hai cung này
là hố hạnh nhân chứa hạnh nhân khẩu cái.
Má (ở bên) và môi (ở trước) được cấu tạo từ nông vào sâu bằng da, các cơ bám
da và niêm mạc. Giữa cơ và niêm mạc má có thể mỡ má. Môi trên và môi dưới gặp
nhau tại các mép môi, còn hai đầu của khe miệng (khe giữa các môi) gọi là các góc
miệng. Rãnh dọc ở giữa mặt da của môi trên được gọi là nhân trung. Mặt trong của
mỗi môi có một nếp niêm mạc nối với lợi gọi là hãm môi.
Nền miệng chứa lưỡi và vùng dưới lưỡi.
Phân chia: Các cung răng-lợi chia ổ miệng thành hai phần: khe hẹp hình móng
ngựa nằm trước các cung là tiền đinh miệng và phần sau các cung là ổ miệng chính.
2.2. Các tuyến của miệng
Có các tuyến nước bọt lớn và các tuyến nước bọt nhỏ đổ vào ổ miệng. Ba đôi
tuyến lớn là tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi. Tuyến mang tai là
tuyến nước bọt lớn nhất. Nó nằm dưới ống tai ngoài, giữa ngành xương hàm dưới và
cơ ức-đòn-chũm. Ống tuyến mang tai dẫn nước bọt ra khỏi tuyến tại bờ trước tuvến
và đổ vào tiền đình miệng ở mặt trong của má bởi một lỗ nhỏ nằm đối diện với răng
cối thứ hai hàm trên.
2.3. Lưỡi
Lưỡi là một cơ quan tiêu hóa phụ được cấu tạo bằng một khối các cơ xương có
niêm mạc bọc ngoài. Lưỡi cùng với các cơ kết hợp với nó tạo nên sàn ổ miệng: nó là
cơ quan vị giác nhưng cũng đóng vai trò quan trọng trong các động tác nhai, nuốt và
nói.
2.3.1. Hình thể ngoài. Lưỡi gồm một đầu tự do, gọi là đỉnh lưỡi, và một rễ lưỡi dính
với xương móng, xương hàm dưới và mỏm trâm xương thái dương. Mặt trên (lưng)
của lưỡi có một rãnh hình chữ V mà đỉnh quay ra sau gọi lả rãnh tận, ở đỉnh rãnh có
lỗ tịt. Rãnh tận chia lưng lưỡi thành hai phần phần trước rãnh là phần được phủ bằng
một niêm mạc có nhiều nhú lưỡi; phần sau rãnh ít nhiều cố định và được phủ bằng
một niêm mạc có nhiều nang bạch huyết tập trung lại thành hạnh nhân lưỡi. Các nhú
lưỡi là nơi chứa các nụ vị giác.
Mặt dưới lưỡi nhẵn, dính với nền miệng bởi một nếp miêm mạc trên đường giữa
gọi là hãm lưỡi: hai bên hãm lưỡi có hai cục dưới lưỡi. Lỗ của ống tuyến dưới hàm
mở vào ổ miệng ở đỉnh cục dưới lưỡi.
2.3.2. Cấu tạo: Lưỡi được cấu tạo bởi một khung xương-sợi và các cơ. Khung xương-
sợi gồm xương móng cùng hai màng sợi là cân lưỡi và vách lưỡi. Các cơ của lưỡi
gồm những cơ mà các thớ phát sinh và tận hết ngay trong lưỡi (các cơ nội tại) và các
cơ đi từ những phần lân cận tới lưỡi (cơ ngoại lai). Khi co các cơ lưỡi làm nâng, hạ
lưỡi, đẩy lưỡi ra trước hoặc kéo lưỡi ra sau.
2.3.3. Mạch máu và thần kinh của lưỡi: Lưỡi được cấp máu bởi động mạch lưỡi, một
nhánh của động mạch cảnh ngoài. Tĩnh mạch lưỡi đổ về tĩnh mạch cảnh trong. Bạch
huyết từ lưỡi đổ vào các hạch dưới cằm, dưới hàm và các hạch cổ sâu. Các cơ1 của
8
0
lưỡi do thần kinh hạ thiệt vận động. Phần trước rãnh tận của lưỡi được thần kinh lưỡi
(nhánh của thần kinh hàm dưới), chi phối cảm giác chung, thừng nhĩ (của thần kinh
mặt) chi phối cảm giác vị giác. Cảm giác chung và cảm giác vị giác ở phần sau rãnh
tận đều do thần kinh thiệt hầu chi phối.
3. Thực quản
Thực quản là một ống cơ dài khoảng 25 cm. Nó bắt đầu tại đầu dưới thanh hầu
(ngang mức bờ dưới sụn nhẫn), đi xuống qua cổ (đoạn cổ), ngực (đoạn ngực), lỗ thực
quản của cơ hoành và một đoạn ngắn ở bụng (đoạn bụng) rồi tận cùng tại lỗ tâm vị
của dạ dày. Đoạn cổ của thực quản nằm trước cột sống cổ, sau khí quản và giữa các
động mạch cảnh chung và các thùy bên tuyến giáp. Đoạn ngực của thực quản nằm
giữa hai ổ màng phổi, sau khí quản và tim, trước cột sống ngực và động mạch chủ.
Đoạn bụng của thực quản là một đoạn ngắn nằm sau gan. Niêm mạc thực quản là một
thượng mô lát tầng không sừng hóa có khả năng chịu được sự chà xát của thức ăn.
4. Dạ dày
4.1. Vị trí và hình thể ngoài
Dạ dày là phần phình to nhất của ống tiêu hoá, nằm ở vùng thượng vị và hạ sườn
trái, ngay dưới vòm hoành trái. Dạ dày rỗng có hình chữ J với hai thành trước và sau,
hai bờ cong nhỏ và lớn, và hai đầu là tâm vị ở trên và môn vị ở dưới. Các phần của dạ
dày kể từ trên xuống dưới là tâm vị, đáy vị, thân vị, phần môn vị và môn vị.
4.2. Liên quan
1
8
1
Hình: Liên quan của dạ dày
Bờ cong nhỏ được nối với gan bằng mạc nối nhỏ. Bờ cong lớn được nối với cơ
hoành, tỳ và đại tràng ngang lần lượt bằng các dây chằng vị-hoành. vị - tỳ và vị- đại
tràng.
4.3. Cấu tạo
Để thích ứng với chức năng nghiền trộn thức ăn, lớp cơ của dạ dày có ba tầng cơ
thay vì hai tầng: một tầng cơ dọc ở ngoài, một tầng cơ vòng ở giữa và một tầng cơ
1
8
2
chéo ở trong, tầng cơ vòng dày lên ở quanh lỗ môn vị tạo nên cơ thắt môn vị. Khi dạ
dày rỗng, niêm mạc của nó có những nếp dọc gọi là nếp vị. Dưới niêm mạc có nhiều
tuyến tiết dịch vị. Bề mặt niêm mạc dạ dày là một lớp thượng mô trụ đơn. Dưới bề
mặt là mô liên kết xốp. Các tế bào thượng mô phát triển xuống lớp mô liên kết thành
những cột tế bào tiết gọi là các tuyến vị. Chất tiết từ một số tuyến vị đổ vào một hố
nhỏ (hố vị) trước khi đổ vào lòng dạ dày. Tuyến vị chứa ba loại tế bào ngoại tiết: tế
bào cổ tiết niêm dịch, tế bào chính tiết pepsinogen và tế bào thành tiết hydrochloric
acid và yếu tố nội tại. Ngoài ra, tuyến vị vùng hang môn vị còn có loại tế bào gọi là tê
bào G tiết hormon gastrin vào máu.
5. Ruột non và các tuyến tiêu hoá lớn đổ vào ruột non
1
8
3
Ruột non là đoạn dài nhất của ống tiêu hoá, đi từ môn vị tới góc tá - hỗng tràng.
Nó gồm ba phần liên tiếp nhau là tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng. Các tuyến tiêu hoá
lớn đổ dịch tiết vào tá tràng là gan và tụy cũng được mô tả ở phần này.
5.1. Ruột non
Đặc điểm cấu tạo: Thành ruột non được cấu tạo bằng các lớp áo giống như ở
các đoạn khác của ống tiêu hóa nhưng lớp niêm mạc và tấm dưới niêm mạc có những
đặc điểm riêng thích hợp với các quá trình tiêu hóa và hấp thụ. Niêm mạc ruột non có
những nếp vòng không cho phép dịch ruột dịch chuyển theo đường thẳng mà theo
hình xoắn. Niêm mạc có nhiều nhung mao cao 0.5-1 mm nhỏ vào lòng ruột. Số lượng
lớn nhung mao (20-40 tròn milimet vuông) làm cho diện tích bề mặt thượng mô tăng
lên rất nhiều. Mỗi nhung mao có một lõi bằng mô liên kết chứa một tiểu động mạch,
một tiểu tĩnh mạch, một lưới mao mạch và một mao mạch bạch huyết.
Thượng mô của niêm mạc là một thượng mô trụ đơn chứa các tế bào hấp thu,
các tế bào hình đài tiết niêm dịch, các tế bào nội tiết ruột (tiết secretin,
cholecystokinin), và các tế bào Paneth (tiết lysozym và có khả năng thực bào). Màng
đỉnh của các tế bào hấp thu có các vi nhung mao. Có chừng 200 triệu vi mhung mao
trên một milimet vuông niêm mạc. Vì các vi nhung mao làm tăng diện tích bề mặt
màng bào tương, các chất dinh dưỡng có thể khuyếch tán vào tế bào hấp thu rất
nhanh.
Ở vùng niêm mạc nằm giữa chân các nhung mao, thượng mô lõm xuống thành
những khe sâu gọi là tuyến ruột. Các tế bào tuyến ruột dịch chuyển lên trên để tạo
nên thành của các nhung mao và thay thế cho các tế bào ở đỉnh các nhung mao bị
bong ra. Trong lúc dịch chuyển lên chúng tổng hợp nên các men tiêu hóa chứa trong
các vi nhung mao.
Tấm dưới niêm mạc của ruột non các nang bạch huyết chùm và các nang bạch
huyết đơn độc.
5.1.1. Tá tràng
Tá tràng là phần đầu và ngắn nhất của ruột non. Nó cũng là phần cố định (trừ
bóng tá tràng) vì nằm sau phúc mạc. Tá tràng dài khoảng 25 cm, bắt đầu từ môn vị ở
ngang sườn phải đốt sống thắt lưng I và tận cùng tại góc tá-hỗng tràng ở ngang sườn
trái đốt thắtt lưng II. Tá tràng là nơi ống mật và ống tụy đổ vào. Tá tràng uốn cong
hình chữ C hướng sang trái và ôm quanh đầu tụy. Nó đi theo một con đường gấp
khúc gồm bốn phần trên, xuống, ngang và lên.
Phần trên nằm trên sườn phải thân đốt sống thắt lưng I. 2 cm đầu tiên của phần
trên, trông hơi phình to và di động, được gọi là bóng tá tràng hay hành tá tràng.
1
8
4
Phần xuống chạy xuống ở bên phải đầu tụy, dọc theo sườn phải các thân đốt
sống thắt lưng I – III, và ở trước bờ trong thận phải. Ống mật chủ và ống tụy đổ vào
thành sau-trong phần này. Chỗ gấp góc giữa các phần trên và xuống gọi là góc tá
tràng trên.
Phần ngang chạy ngang trước tĩnh mạch chủ dưới và động mạch chủ bụng, sau
các mạch mạc treo tràng trên. Nơi liên tiếp giữa phần xuống và phần ngang gọi là góc
tá tràng dưới.
Phần lên chạy lên dọc bờ trái động mạch chủ bụng và tận cùng tại góc tá hỗng
tràng ở ngang bờ trái thân đốt sống thắt lưng II.
Hình thể trong: Niêm mạc trên mặt trong của phần xuống có hai nhú lồi: ở trên
là nhú tá tràng bé và ở dưới là nhú tá tràng lớn. Ống mật chủ và ống tụy đổ vào tá
tràng tại đỉnh nhú tá tràng lớn; ống tụy phụ đổ vào đỉnh nhú tá tràng bé.
1
8
5
Tĩnh mach: Các tĩnh mạch đi kèm động mạch rồi đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng
trên.
5.2. Gan
Gan là tuyến lớn nhất cơ thể nặng khoảng 1.4 kg. Gan nằm ở phần tư trên phải
của ổ bụng, nơi nó được che khuất bởi lồng ngực và vòm cơ hoành phải nhưng có
một phần lấn qua đường giữa tới dưới vòm hoành trái. Mặt phải của gan nằm dưới
các xương sườn VII-XI. Bờ dưới gan chạy dọc theo bờ sườn phải. Gan xuống thấp
hơn ở tư thế đứng và có thể sờ thấy gan lúc hít vào sâu. Chiếu lên thành bụng trước,
gan chiếm phần lớn vùng hạ sườn phải, một phần của vùng thưựng vị và lấn sang tận
vùng hạ sườn trái.
5 2.1. Hình thể ngoài và liên quan
Gan có hai mặt: mặt hoành lồi và mặt tạng phẳng. Ranh giới giữa hai mặt ở phía
trước là một bờ sắc gọi là bờ dưới.
1
8
6
Hình : Các mặt của gan
Mặt hoành có hình vòm, nhẵn, khuôn hình theo mặt lõm của cơ hoành. Mặt lồi
này được chia thành các phần trên, trước, phải và sau. Mặt hoành ngăn cách với cơ
hoành bằng ngách dưới hoành. Dây chằng liềm chia ngách này thành hai khoang phải
và trái, đồng thời chia mặt hoành thành hai thùy phải và trái. Phần sau của mặt hoành
có một vùng không được phúc mạc phủ, được gọi là vùng trần và dính vào cơ hoành.
Trên vùng trần có rãnh dây chằng tĩnh mạch và khe dây chằng tròn. Qua cơ hoành,
mặt hoành liên quan với ổ màng phổi phải và ổ ngoại tâm mạc.
Mặt tạng hướng về phía sau-dưới và liên quan với nhiều tạng bụng. Ở giữa mặt
tạng có một khe nằm ngang gọi là cửa gan. Đáy là nơi mà tĩnh mạch cửa và động
mạch gan đi vào gan và các ống mật rời khỏi gan. Từ đầu phải của cửa gan chạy tới
1
8
7
bờ dưới của gan có hố túi mật (chứa túi mật). Từ đầu trái của cửa gan có khe dây
chằng tròn (chứa dây chằng tròn gan) chạy ra trước tới bờ dưới của gan và khe dây
chằng tĩnh mạch (chứa dây chằng tĩnh mạch) chạy ra sau tới mặt hoành.
Mặt tạng được chia làm bốn thùy và mang những vết ấn của các tạng bụng. Thùy
phải nằm ở bên phải hố túi mật, nơi có ấn đại tràng ở trước, ấn thận và ấn thượng
thận ở sau. Thùy trái nằm ở bên trái khe dây chằng tròn và khe dây chằng tĩnh mạch,
có ấn thực quản và ấn dạ dày. Thùy vuông nằm trước cửa gan, có ấn tá tràng và thùy
đuôi nằm sau cửa gan. Mạc nối nhỏ đi từ mặt tạng của gan tới dạ dày và hành tá
tràng.
5.2.2. Cấu tạo
Gan được phủ bởi phúc mạc, trừ vùng trần, hố túi mật và cửa gan. Dưới phúc mạc
là áo xơ. Ở cửa gan, áo xơ cùng các mạch đi vào trong gan tạo nên bao xơ quanh
mạch. Gan được tạo nên từ nhiều đơn vị chức năng gọi là tiểu thùy. Mỗi tiểu thùy là
một khối nhu mô gan mà mặt cắt ngang có hình 5 hoặc 6 cạnh, ở mỗi góc của tiểu
thùy có một khoảng mô liên kết gọi là khoảng cửa, nơi chứa một nhánh tĩnh mạch
cửa, một nhánh động mạch gan và một ống dẫn mật. Ở trung tâm mỗi tiểu thùy gan
có một tĩnh mạch trung tâm. Từ tĩnh mạch trung tâm có những đôi dây tế bào gan
hình lập phương tỏa ra ngoại vi. Giữa hai đôi dây tế bào liền nhau là những mao
mạch dạng xoang (lớn hơn mao mạch bình thường) dẫn máu từ nhánh tĩnh mạch cửa
và nhánh động mạch gan ở khoảng cửa tới tĩnh mạch trung tâm. Thành của các mao
mạch dạng xoang được tạo nên bởi các tế bào nội mô, trong đó có một số đại thực
bào có tên là tế bào Kupffer. Các tĩnh mạch trung tâm của một số tiểu thùy tạo nên
các tĩnh mạch lớn hơn, và cuối cùng tạo thành các tĩnh mạch gan chạy ra khỏi gan đổ
vào tĩnh mạch chủ dưới. Ở giữa các dây tế bào gan của mỗi đôi dây là các vi quản
mật; đầu ngoại vi của vi quản mật đổ vào ống mật ở khoảng cửa (ống gian tiểu thuỳ).
Các ống mật ở khoảng cửa hợp nên những ống mật lớn dần, cuối cùng thành các ống
gan phải và trái đi ra khỏi gan.
1
8
8
Hình : Tiểu thùy gan
1
9
1
5.3. Tụy
Tụy vừa là một tuyến ngoại tiết của hệ tiêu hoá, vừa là một tuyến nội tiết. Tụy dài
khoảng 15 cm. Nó vắt ngang trước cột sống thắt lưng và đi từ phần xuống của tá
tràng tới cuống tỳ. Tụy nằm sau phúc mạc, trừ đuôi tụy.
5.3.1. Hình thể ngoài và liên quan
Tụy trông như một cái búa; từ phải sang trái, nó có ba phần là đầu, thân và đuôi.
Đầu tụy gần có hình vuông và tách ra một mỏm ở dưới gọi là mỏm móc. Đầu
được phần cố định của tá tràng vây quanh và gắn với phần này thành một khối có
những liên quan chung. Mặt sau của khối dính với mặt trước thận và tuyến thượng
thận phải, cuống thận phải và tĩnh mạch chủ dưới; ống mật chủ đào thành một rãnh ở
mặt sau đầu tụy. Mặt trước của khối bị gan, túi mật, môn vị và ruột non trùm lên. Rễ
mạc treo đại tràng ngang đi ngang qua đẩu tụy.
Thân tụy liên quan trước qua túi mạc nối với dạ dày; mặt sau dính với thận trái,
cuống thận trái và tuyến thượng thận trái. Rễ mạc treo đại tràng ngang bám dọc theo
bờ dưới của thân; bờ trên có động mạch tỳ nằm.
Đuôi tụy cùng với các mạch tỳ và di động trong hai lá của dây chằng tụy-tỳ.
5.3.2. Cấu tạo của tụy - các ống tiết
Mô tụy bao gồm nhiều tiểu thuỳ. Mỗi tiểu thuỳ do nhiều nang tuyến hợp nên và
thành của mỗi nang lại do các tế bào tiết dịch (ngoại tiết) tạo thành. Dịch từ mỗi tiểu
thuỳ được dẫn lưu bởi một ống tiết nhỏ, và những ống này hợp lại để cuối cùng đổ
vào hai ống lớn là ống tụy chính và ống tụy phụ. Ống tụy đi ngang qua suốt chiều dài
đuôi tụy và thân tụy, tới ngang khuyết tụy thi đi chếch xuống dưới và sang phải qua
đầu tụy rồi cùng ống mật chủ đổ vào phần xuống tá tràng tại một lỗ ở đỉnh nhú tá
tràng lớn. Thường thì ống mật chủ hợp với ống tụy thành một đoạn ống chung ngắn
trước khi vào tá tràng và đọan này thường phình ra tạo nên bóng gan tụy. Các thớ cơ
vòng ở quanh đầu đổ vào tá tràng của bóng tạo nên cơ thắt bóng gan tụy. Ống tụy phụ
dẫn dịch của đầu tụy; nó xuất phát từ ống tụy ở nơi mà ống tụy bắt đầu thay đổi
hướng đi và chạy thang sang phải đổ vào phần xuống tá tràng ở đỉnh nhú tá tràng bé.
Nằm xen kẽ với các nang tuyến tụy ngoại tiết còn có những đám tế bào gọi là các tiểu
đảo Langerhans. Chúng tiết ra insulin, glucagon và somatostatin; các hormon này đi
thẳng vào máu để tham gia vào sự chuyển hoá glucose của cơ thể.
5.3 3. Mạch máu và thần kinh
Động mạch: Thân và đuôi tụy được cấp máu bởi các nhánh của động mạch tỳ. Đầu
tụy và tá tràng cũng được nuôi dưỡng bỏi các nhánh tá-tụy của động mạch vị-tá tràng
và động mạch mạc treo tràng trên. Động mach vị-tá tràng tách ra các động mạch tá-
1
9
2
tụy trên trước và sau; động mạch mạc treo tràng trên tách ra động mạch tá-tụy dưới
với hai nhánh trước và sau.
Tĩnh mạch: đi kèm động mạch và đổ vào hệ thống tĩnh mạch cửa.
6. Ruột già
6.1. Giới hạn, phân đoạn, vị trí và kích thước
Ruột già là đoạn cuối của ống tiêu hóa và gồm bốn phần: manh tràng, đại tràng,
trực tràng và ống hậu môn. Đại tràng lại gồm bốn khúc đi từ manh tràng đến trực
tràng: đại tràng lên, đại tràng ngang, đại tràng xuống và đại tràng xích- ma. Các phần
của ruột già nằm ở ngòai vị của phần ổ bụng dưới gan và dạ dày; chúng sắp xếp thành
một hình chữ U lộn ngược vây lấy khối ruột non. Ruột già dài khoảng 1.5m và có
đường kính khoảng 6,5cm. Ruột già có những đặc điểm chung về hình thể, cấu tạo và
sự cấp máu.
6.2. Hình thể và cấu tạo
Mặt ngoài của manh tràng và đại tràng có ba dải dọc gọi là các dải sán đại tràng
hay các dải cơ dọc. Vùng nằm giữa các sán đại tràng có những bướu đại tràng ngăn
cách nhau bởi những nếp thắt ngang. Có những túi phúc mạc nhỏ chứa mỡ có tên là
những mẩu phụ (túi thừa) mạc nối bám vào các dải sán đại tràng. Mặt trong manh
tràng và đại tràng có những nếp bán nguyệt nhô vào, mỗi nếp tương ứng với một nếp
thắt ngang thấy ở mặt ngoài.
1
9
7
SINH LÝ TIÊU HÓA
Nội dung
Bộ máy tiêu hoá gồm ống tiêu hoá và các tuyến tiêu hoá. Ống tiêu hoá gồm
miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già và hậu môn. Tuyến tiêu hóa gồm:
tuyến nước bọt, tụỵ, gan và các tuyến nằm ngay trong thành ống tiêu hoá.
Chức năng của ống tiêu hoá là tiếp nhận và biến đổi thức ăn thành những chất có
thể hấp thu được và hấp thu các sản phẩm đó vào máu, để cung cấp năng lượng và
các chất cần thiết cho cơ thể. Thực hiện được chức năng này là nhờ hoạt động cơ học,
hoạt động bài tiết dịch và hoạt động hấp thu của ống tiêu hoá. Nghiên cứu sinh lý tiêu
hoá thường nghiên cứu hoạt động chức năng từng đoạn ống tiêu hoá.
2
0
5
Mật được tạo ra ở tế bào gan và được bài tiết vào ống dẫn mật và chứa trong túi
mật. Tại đây mật được cô đặc và bơm vào ruột có tác dụng tiêu hoá (xem phần dịch
mật).
5.2. Chức năng chuyển hóa
Là nơi diễn ra quá trình chuyển hoá các chất.
Glucid, glucose được hấp thu ở ruột đưa đến gan, tại đây glucose được tổng hợp
thành glycogen để dự trữ, khi đường huyết giảm glycogen phân giải thành glucose để
đưa vào máu, duy trì đường huyết. Glucose tại gan còn dùng cung cấp năng lượng,
tổng hợp lipid, ngoài ra gan còn tổng hợp đường mới từ các nguyên liệu khác.
Lipid, phần lớn lipid đến gan từ ống tiêu hoá và từ các kho dự trữ của cơ thể, tại
đây được tổng hợp thành triglycerid, phospholipid. Lipid tại gan cũng được oxy hoá
cho năng lượng.
Protid, gan tổng hợp phần lớn protein huyết tương: albumin, fibrinogen globulin và
nhiều yếu tố đông máu. Tại gan cũng diễn ra quá trình khử và chuyển amin và oxy
hoá cho năng lượng.
5.3. Chức năng khử độc
Tại gan nhiều chất độc là sản phẩm của quá trình chuyển hoá được khử độc tại đây
như : NH3 là sản phẩm chuyển hoá acid amin rất độc được chuyển thành ure và thải
ra ngoài. Các chất độc đến gan còn được khử độc và thải vào ống tiêu hoá ra ngoài.
5.4. Chức năng đông máu
Gan tổng hợp nên nhiều yếu tố đông máu, khi chức năng gan bị rối loạn gây ra rối
loạn đông máu.
5.5. Chức năng dự trữ và tạo máu
Hệ thống mạch máu phong phú tại gan có khả năng chứa đựng một lượng máu của
cơ thể, thời kỳ bào thai tham gia tạo máu.
Ngoài ra còn là nơi dự trữ một lượng lớn vitamin, đặc biệt là vitamin B12
2
0
6
GIẢI PHẪU HỆ SINH DỤC
MỤC TIÊU
1. Mô tả được những nét chính về vị trí, hình thể, liên quan và cấu tạo của các cơ
quan thuộc hệ sinh dục nam, nữ.
2. Gọi được đúng tên của những chi tiết giải phẫu chính trên các phương tiện thực
hành giải phẫu hệ sinh dục.
NỘI DUNG
1. Hệ sinh dục nam
Các cơ quan sinh dục trong và các cơ quan sinh dục ngoài hợp nên hệ sinh dục nam.
2
0
7
Tinh hoàn là một cơ quan sinh tinh trùng, đồng thời là tuyến nội tiết (tiết ra nội
tiết tố nam testosteron) làm cho cơ thể phát triển giới tính nam.
Vị trí và hình thể ngoài
Các tinh hoàn là đôi tuyến hình bầu dục nằm trong bìu. Các tinh hoàn được hình
thành ở gần thận, trên thành bụng sau, và chúng thường bắt đầu di chuyển xuống bìu
qua ống bẹn trong nửa cuối của tháng thứ bảy của sự phát triển thai. Mỗi tinh hoàn có
kích thước dài 5 cm và rộng 2,5 cm, nặng 10 - 20g. Tinh hoàn được bao bọc bởi áo
bọc tinh hoàn (có nguồn gốc từ phúc mạc và hình thành trong lúc tinh hoàn đi
xuống). Ở sâu hơn lớp áo bọc là một lớp vỏ xơ dày, trắng gọi là lớp áo trắng.
Cấu tạo
Tinh hoàn được chia thành 200-300 tiểu thùy ngăn cách nhau bởi các vách xuất
phát từ mặt trong của lớp áo trắng. Mỗi tiểu thùy có từ 1 - 3 ống sinh tinh xoắn. Tinh
trùng do các ống này sinh ra được đổ vào các ống sinh tinh thẳng, rồi vào lưới tinh
hoàn ở phần sau trên của mỗi tinh hoàn. Từ lưới tinh hoàn có 12- 15 ống xuất dẫn
tinh trùng vào ống mào tinh. Ở giữa các ống sinh tinh có những nhóm tế bào kẽ tiết ra
hormon testosteron.
2
0
9
Hình : Thừng tinh
1.1.4.Túi tinh
Túi tinh, hay tuyến tinh, là một tuyến sản xuất khoảng 60% thể tích tinh dịch. Nó dài
khoảng 5cm, nằm ở mặt sau bàng quang, dọc bờ dưới của ống dẫn tinh. Thành túi
được cấu tạo bởi ba lớp mô giống như ống dẫn tinh. Đầu dưới của túi tinh mở vào
một ống bài xuất ngắn gọi là ống tiết. Ống này kết hợp với ống dẫn tinh cùng bên tạo
thành ống phóng tinh.
1.1.5.Ống phóng tinh
Mỗi ống phóng tinh dài khoảng 2cm, do ống dẫn tinh và ống tiết của túi tinh hợp
lại tạo thành. Hai ống chạy chếch qua tuyến tiền liệt và đổ vào niệu đạo tiền liệt.
Ống mào tinh, ống dẫn tinh, ống phóng tinh và niệu đạo nam hợp thành đường dẫn
tinh.
1.1.6. Tuyến tiền liệt
Tuyến tiền liệt là một khối hình nón mà đáy ở trên, đỉnh ở dưới. Tuyến rộng 4
cm, cao 3 cm và dày 2.5 cm, nặng trung bình 15 - 20 g (ở ngưòi lớn độ tuổi 30- 45); ở
sau tuổi 45, tuyến thường to ra. Tuyến tiến liệt nằm ở dưới bàng quang và bao quanh
niệu đạo tiền liệt. Có thể thăm khám tuyến qua trực tràng.
Dịch tiết của tuyến tiền liệt đóng góp khoảng 25% thể tích tinh dịch và góp phần
vào sự vận động và sức sống của tinh trùng. Dịch tiết của tuyến được đổ vào niệu đạo
tiền liệt.
2
1
0
Hình: Ống dẫn tinh và túi tinh
1.1.7. Tuyến hành niệu đạo
Có hai tuyến hành niệu đạo nằm trong cơ ngang đáy chậu sâu, ở hai bên niệu đạo
màng. Mỗi tuyến to bằng hạt ngô và đổ dịch tiết vào niệu đạo hành xốp bằng một ống
tiết. Dịch tiết của tuyến là một chất kiềm có tác dụng trung hòa dịch acid của nước
tiểu trong niệu đạo, qua đó bảo vệ cho tinh trùng. Tuyến cũng tiết ra niêm dịch để bôi
trơn đầu dương vật và niêm mạc niệu đạo.
1.1.8. Mạch và thần kinh của các cơ quan sinh dục trong
Động mạch: Động mạch tinh hoàn tách từ động mạch chủ bụng ngang đốt sống thắt
lưng II hoặc III. Nó chạy xuống qua thành bụng sau tới lỗ bẹn sâu, rồi đi qua thừng
tinh tới bìu cấp máu cho tinh hoàn và mào tinh hoàn.
Động mạch ống dẫn tinh là nhánh của động mạch rốn. Nó cấp máu cho ống dẫn tinh,
túi tinh và ống phóng tinh.
Tuyến tiến liệt được cấp máu bởi nhánh của các động mạch bàng quang dưới và trực
tràng giữa.
Tĩnh mạch: Các tĩnh mạch của tinh hoàn, ống dẫn tinh và cơ bìu đi kèm các động
mạch. Trong thừng tinh, các tĩnh mạch này tạo nên đám rối tĩnh mạch hình dây leo.
Các tĩnh mạch của tuyến tiền liệt tạo nên đám rối tĩnh mạch tiền liệt.
Thần kinh: Thần kinh tự chủ của tinh hoàn tách ra từ đám rối liên mạc treo tràng và
đám rối thận; chúng tạo thành đám rối tinh hoàn. Đám rốì thần kinh của ống dẫn tinh
là chi nhánh của đám rối hạ vị dưới. Đám rối tiền liệt tách ra từ đám rối hạ vị.
1.2. Các cơ quan sinh dục ngoài
Dương vật (chứa niệu đạo) và bìu là các cơ quan sinh dục ngoài của nam.
1.2.1. Dương vật
Hình thể ngoài: Dương vật gồm rễ, thân và quy đầu dương vật. Rễ dương vật nằm
ở đáy chậu và dính vào xương mu bởi dây chằng treo dương vật. Thân dương vật
2
1
1
hình trụ, có mặt trên hơi dẹt gọi là mu dương vật và mặt dưới gọi là mặt niệu đạo.
Qui đầu dương vật được bao bọc trong một nếp nửa da nửa niêm mạc có thể di động
được gọi là bao qui đầu. Ở đỉnh quy đầu có lỗ niệu đạo ngoài.
Dương vật do ba khối mô cương và các lớp bọc tạo nên. Hai khối mô cương hình
trụ nằm song song ở trên là các vật hang. Khối còn lại nằm trong rãnh ở mặt dưới hai
vật hang là vật xốp. Bên trong vật xốp chứa niệu đạo xốp. Phần sau vật xốp phình to
thành hành dương vật còn đầu trước của nó liên tiếp với mô xốp của qui đầu. Phần
sau của các vật hang dính vào ngành dưới xương mu và được gọi là trụ dương vật.
Các lớp bọc dương vật bọc quanh ba khối mô cương, bao gồm các lớp mạc dương vật
và da.
1.2.2. Bìu
Bìu là một túi da rất sẫm màu do các lớp của thành bụng trĩu xuống tạo thành. Nó
được chia thành hai ngăn, mỗi ngăn chứa một tinh hoàn và một mào tinh.
2. Hệ sinh dục nữ
Các cơ quan sinh dục trong, các cơ quan sinh dục ngoài và tuyến vú hợp nên hệ sinh
dục nữ.
2
1
2
Hình : Cơ quan sinh dục nữ
2.1. Các cơ quan sinh dục trong
Âm đạo, tử cung, hai vòi tử cung và hai buồng trứng là các cơ quan sinh dục trong
của nữ.
2.1.1. Buồng trứng
Buồng trứng là tuyến sinh dục vừa sản sinh ra noãn vừa tiết ra các nội tiết tố
quyết định đặc điểm giới tinh ở nữ.
Buồng trứng có hình thể và kích thước giống với một quả hạnh. Mặt ngoài buồng
trứng áp vào hố buồng trứng ở thành bên chậu hông, mặt trong tiếp xúc với các tua
của phễu vòi tử cung. Buồng trứng được cố định bởi ba dây chằng: (1) mạc treo
buồng trứng nối buồng trứng với mặt sau dây chằng rộng; (2) dây chằng riêng buồng
trứng buộc buồng trứng vào sừng tử cung; và (3) dây chằng treo buồng trứng gắn
buồng trứng vào thành bên chậu hông. Các mạch máu và thần kinh của buổng trứng
đi vào và ra khỏi buồng trứng tại rốn buồng trứng.
2
1
5
Hình : Các dây chằng tử cung
Dây chằng rộng: là một nếp phúc mạc gồm hai lá căng ngang từ bờ bên tử
cung tới thành bên chậu hông, nối phúc mạc tử cung với phúc mạc thành chậu.
Bờ trên dây chằng rộng bao bọc vòi tử cung.
Dây chằng tròn là một thừng xơ từ sừng tử cung chạy qua thành chậu và ống bẹn
rồi tỏa ra tận cùng ở mô dưới da của gò mu và môi lớn.
Dây chằng tử cung-cùng đi từ mặt sau cổ tử cung tới mặt trước xương cùng.
Dây chằng ngang cổ tử cung đi từ bờ bên cổ tử cung tới thành bên chậu hông.
2.1.4. Âm đạo
Âm đạo là cơ quan giao hợp và đường ra ngoài của máu kinh nguyệt và thai nhi.
Nó là một ống xơ-cơ được lót bằng niêm mạc dài khoảng 8 cm từ cổ tử cung chạy
chếch xuống dưới và ra trước tới tiền đình âm đạo. Âm đạo gồm hai thành: thành
trước nằm sau bàng quang và niệu đạo, thành sau nằm trước trực tràng. Đầu trên âm
đạo bám vào cổ tử cung và cùng với phần âm đạo của cổ tử cung giới hạn nên vòm
âm đạo; đầu dưới mở vào tiền đình âm đạo. Lỗ âm đạo được đậy một phần (không
kín) bởi một nếp niêm mạc từ bờ lỗ tiến vào gọi là màng trinh. Lỗ âm đạo ở phía sau
lỗ niệu đạo ngoài.
Niêm mạc âm đạo là thượng mô lát tầng không sừng hóa liên tiếp với niêm mạc
của tử cung. Bề mặt của niêm mạc có nhiều nếp (gờ) ngang. Các tế bào của niêm mạc
dự trữ một lượng lớn glvcogen và sản phẩm thoái hóa của chất này sinh ra các acid
hữu cơ. Môi trường acid kiềm chế sự phát triển của vi khuẩn nhưng cũng có hại cho
tinh trùng. Thành phần kiềm của tinh dịch (do túi tinh tiết ra) trung hòa tính acid của
âm đạo và tăng sức sống cho tinh trùng. Áo cơ trơn của âm đạo có thể giãn ra đáng kể
để thích ứng với dương vật. Áo ngoài của âm đạo là lớp mô liên kết xốp kết nối 2 âm
1
6
đạo với các cơ quan xung quanh như niệu đạo và bàng quang ở trước, trực tràng và
ống hậu môn ở sau.
2.1.5. Mạch và thần kinh của các cơ quan sinh dục trong
Các động mạch
Động mạch buồng trứng tách ra từ động mạch chủ bụng; nó đi theo dây chằng
treo buồng trứng đến đầu vòi của buồng trứng thì chia làm hai nhánh là nhánh vòi tử
cung và nhánh buồng trứng; chúng tiếp nối với các nhánh cùng tên của động mạch tử
cung.
Động mạch tử cung tách ra từ động mạch chậu trong. Nó đi qua thành bên chậu
hông và nền dâv chằng rộng tới bờ bên cổ tử cung. Từ đây, nó đi lên dọc bờ bên của
tử cung, khi tới sừng tử cung thì tận cùng bằng hai nhánh là nhánh buồng trứng và
nhánh vòi tử cung, tiếp nối với các nhánh tương ứng của động mạch buồng trứng.
Trước khi tận cùng, động mạch tách ra nhiều nhánh bên cho âm đạo, niệu quản, bàng
quang, cổ tử cung và thân tử cung.
Tĩnh mạch: Tĩnh mạch đổ vào các đám rối tĩnh mạch buồng trứng và tử cung rồi
đổ về tĩnh mạch chậu trong.
Bạch huyết đổ vào chuỗi hạch cạnh động mạch tử cung, hay động mạch âm đạo cuối
cùng đổ vào các hạch chậu trong.
Thần kinh tách ra từ đám rối hạ vị dưới.
2.2. Các cơ quan sinh dục ngoài của nữ
Các cơ quan sinh dục ngoài của nữ được gọi là âm hộ. Âm hộ gồm có: gò mu ở
trước; hai hên là hai nếp da lớn là môi lớn ở ngoài và môi bé ở trong; và khoảng lõm
nằm giữa các môi bé là tiền đình âm đạo. Mở thông vào tiền đình có lỗ niệu đạo
ngoài ở trước, lỗ âm đạo ở sau và những ống tiết của các tuyến tiền đình lớn. Ở trước
tiển đình là âm vật.Âm vật tương đương với dương vật ở nam giới. Nó nằm ở chỗ
tiếp nối ở phía trước của các môi bé và do mô cương tạo nên.
2
1
7
Hình : Cơ quan sinh dục ngoài của nữ
Tuyến tiền đình lớn là hai tuyến lớn tiết ra chất nhầy nằm ở hai bên lỗ âm đạo,
mỗi tuyến có ống dẫn đổ vào tiền đình. T uyến này tương đương với tuyến hành niệu
đạo của nam. Chất nhầy do nó tiết ra có tác dụng bôi trơn tiền đình trong lúc giao
hợp.
2.3. Tuyến vú
Vú là hai tuyến tiết sữa nằm ở ngực, trước các cơ ngực, đi từ xương sườn III đến
xương sườn VI.
Hình thể ngoài: Vú có hình mâm xôi; ở giữa mặt trước của vú có một lồi tròn
gọi là núm vú hay nhú vú, nơi có nhiều lỗ của các ống tiết sữa. Xung quanh núm vú
là một vùng da sẫm màu hơn gọi là quầng vú. Trên bề mặt quầng vú có nổi lên nhiều
cục nhỏ do những tuyến bã ở quầng vú đẩy lồi lên.
Cấu tạo: Mỗi vú có từ 15-20 thùy mô tuyến sữa, mỗi thùy do một số tiểu thuỳ tạo
nên; ống tiết của các tuyến sữa chạy theo hình nan hoa từ chu vi hướng vào núm vú.
Hình : Tuyến vú
Mạch máu và thần kinh:
- Động mạch là các nhánh tách từ động mạch ngực trong và động mạch ngực
ngoài..
- Tĩnh mạch đổ về các tĩnh mạch ngực trong và tĩnh mạch ngực ngoài. 2
1
8
- Bạch huyết đổ về ba chuỗi hạch là chuỗi hạch nách, chuỗi hạch ngực trong và
chuỗi hạch trên đòn.
- Thần kinh là những nhánh trên đòn của đám rối cổ nông và các nhánh xiên của
các dây thần kinh gian sườn từ II đến VI.
2
1
9
SINH LÝ SINH SẢN
MỤC TIÊU
1. Trình bày được chức năng nội tiết của buồng trứng
5.1.2. Trình bày được các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt
5.1.3. Trình bày được chức năng nội tiết và chức năng tạo tinh trùng của tinh hoàn
5.1.4. Trình bày được các biện pháp tránh thai.
NỘI DUNG
2
2
3
Hình : Thay đổi ở hệ thống nội tiết, buồng trứng, tử cung trong chu kỳ kinh nguyệt
2
2
5
tinh trùng sẽ hoà lẫn với bào tương của noãn; nhân của noãn hoà với nhân của tinh
trùng.
Sau thụ tinh, trứng phải mất 3 - 4 ngày để di chuyển tới buồng tử cung. Trong quá
trình đó, trứng phân chia và được nuôi dưỡng bằng dịch vòi trứng. Khi tới tử cung
trứng đã thành là phôi bào. Nếu trứng đã thụ tinh không di chuyển vào buồng tử cung
vì một lý do nào đó (ví dụ do viêm tắc vòi trứng) trứng có thể phát triển ngay tại vòi
trứng hoặc loa vòi trứng, hoặc rơi vào ổ bụng (do nhu động ngược chiều của vòi
trứng). Những trường hợp này được gọi là chửa ngoài tử cung. Nếu không được phát
hiện và xử trí kịp thời, phôi phát triển sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng người mẹ.
6.2. Trứng làm tổ và phát triển trong buồng tử cung
Sau khi trứng đã được thụ tinh, di chuyển vào buồng tử cung. Lúc này niêm mạc
tử cung đã được chuẩn bị sẵn sàng để đón trứng vào làm tổ.
Hiện tượng làm tổ của phôi bắt đầu bằng sự phát triển của các tế bào lá nuôi trên
bề mặt túi phôi. Các tế bào lá nuôi phát triển ăn sâu vào niêm mạc tử cung làm cho
túi phôi vùi sâu vào niêm mạc tử cung. Các tế bào lá nuôi của phôi và các tế bào nội
mạc tử cung tại chỗ đểu tăng sinh nhanh, tạo thành nhau thai và các màng thai.
Trong hai tuần đầu, phôi phát triển nhờ chất dinh dưỡng lấy từ dịch niêm mạc tử
cung. Sau đó hệ thống mạch máu của bào thai phát triển và nguồn dinh dưỡng nuôi
bào thai được lấy từ máu mẹ qua nhau thai.
6.5. Chức năng của nhau thai
Tổng diện tích bề mặt của các tua rau vào khoảng vài m 2 . Khoảng cách giữa máu
mẹ và máu thai khoảng 3,5 µm (gấp 10 lần khoảng cách qua màng phế nang). Nhau
thai có 3 chức năng quan trọng là: cung cấp chất dinh dưỡng cho thai; bài tiết các
hormon và bài tiết các sản phẩm chuyển hoá được tạo thành từ thai qua máu mẹ để
thải ra ngoài.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho thai bằng cơ chế khuếch tán như oxy, glucose,
acid amin. v.v...
Bài tiết ra estrogen, progesteron làm phát triển tử cung và giảm co bóp, phát triển
tuyến vú. HCG do các tế bào lá nuôi của rau thai bài tiết vào máu mẹ có tác dụng
giống LH. Hormon này có trong máu hoặc nước tiểu của mẹ 8- 9 ngày sau khi phóng
noãn. Nồng độ HCG tăng trong máu mẹ, cao nhất vào 10 -12 tuần sau phóng noãn,
sau đó giảm dần. Đến tuần thứ 16 - 20, nổng độ còn rất thấp và được duy trì ở mức
này trong suốt thời gian còn lại. Định lượng HCG trong nước tiểu hoặc trong máu
giúp cho chẩn đoán có thai và một số bệnh trong sản - phụ khoa.
HCG có tác dụng ức chế nang trứng phát triển; duy trì sự tồn tại của hoàng thể và
do đó duy trì sự bài tiết progesteron và estrogen trong 2 - 3 tháng đẩu; bài tiết
2
2
6
progesteron và estrogen trong những tháng tiếp theo; kích thích các tế bào Leydig của
tinh hoàn thai nhi bài tiết testosteron có tác dụng làm chuyển tinh hoàn từ ổ bụng
xuống bìu.
Nhau thai còn cho một số kháng thể từ mẹ sang thai, giúp cho trẻ sơ sinh có khả
năng miễn dịch đối với một vài bệnh trong mấy tháng đầu. Nhau thai cũng cho một
số thuốc đi qua nên cần thận trọng khi dùng thuốc ở phụ nữ mang thai.
7. Sự bài tiết và bài xuất sữa
Tuyên vú đã được chuẩn bị bởi estrogen và progesteron. Trong thời kỳ có thai,
prolactin được bài tiết nhiều gấp 10 lần so với bình thường. Prolactin kích thích nang
tuyến sữa đã được phát triển và bài tiết sữa. Trong khi có thai, do tác dụng ức chế của
estrogen và progesteron nên mỗi ngày tuyến sữa chỉ bài tiết một lượng nhỏ cho tới
lúc đẻ. Sữa được bài tiết vài ngày đến vài tuần trước khi đẻ được gọi là sữa non. Sữa
này có thành phần giống sữa sau khi sinh con nhưng chứa ít lipid hơn. Ngay sau khi
đẻ, estrogen giảm nên tác dụng bài tiết sữa của prolactin không bị ức chế nữa, sữa
đựơc bài tiết nhiều.
Sữa được bài tiết nằm trong bọc tuyến. Dưới tác dụng của oxytocin, sữa được đẩy
vào ống tuyến. Khi đứa trẻ bú, sữa từ ống tuyến sẽ chảy vào miệng đứa trẻ. Chính
động tác mút núm vú của đứa trẻ tạo xung động truyền về vùng dưới đồi và thùy sau
tuyến yên gây bài tiết oxytocin; bởi vậy, người mẹ cần cho con bú ngay sau khi sinh.
Việc cho bú sớm sẽ làm tăng bài tiết oxytocin để kích thích bài xuất sữa và giúp co
hồi tử cung sau đẻ nhanh hơn.
Sự bài tiết oxytocin còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý, cảm xúc. Vuốt ve,
âu yếm con, nghe tiếng con khóc đều gây những tín hiệu cảm xúc truyền về vùng
dưới đồi làm tăng bài xuất sữa. Trái lại những kích thích giao cảm mạnh, căng thẳng
kéo dài sẽ ức chế bài xuất sữa.
8. Cơ sở sinh lý của các biện pháp phòng tránh thai
Mang thai là kết qủa của ba quá trình: thụ tinh; trứng đã thụ tinh di chuyển từ vòi
trứng vào buổng tử cung; trứng làm tổ và phát triển trong buồng tử cung. Do vậy
muốn phòng tránh thai cần phải can thiệp vào một trong ba quá trình trên.
Có những biện pháp tránh thai chi có tác dụng tạm thời. Khi ngừng sử dụng, cặp
vợ chồng lại có khả năng sinh con. Có những biện pháp ngăn cản sinh con vĩnh viễn
nên được gọi là biện pháp triệt sản.
8.1. Các biện pháp tránh thai tạm thời
Dùng thuốc tránh thai
2
2
7
- Loại thuốc kết hợp hai thành phần là estrogen và progestin. Tác dụng chủ yếu
của loại thuốc này là ức chế tuyến yên bài tiết FSH và LH do đó ức chế phóng noãn.
Loại thuốc này có hiệu quả tránh thai cao.
- Loại progestin: làm giảm tiết dịch nhầy cổ tử cung, ngăn cản tinh trùng di
chuyển vào trong tử cung, đổng thời cũng có tác dụng làm teo mỏng nội mạc tử cung
do vậy ảnh hưởng đến quá trình làm tổ trong nội mạc tử cung.
- Viên thuốc ngày hôm sau: gây phù nề mô đệm, ức chế tuyến niêm mạc tử cung
bài tiết nên ngăn trứng làm tổ.
- GnRH tổng hợp liều cao ức chế rụng trứng do ức chế tuyến yên bài tiết FSH
và LH do đó có tác dụng tránh thai cao mà lại có ít có tác dụng phụ của loại thuốc
tránh thai steroid.
Có nhiều dạng dùng thuốc: uống, tiêm bắp, tiêm hoặc cấy dưới da. Việc dùng
thuốc cần có chỉ định đúng theo đối tượng và phải có theo dõi.
Tránh giao hợp vào ngày phóng noãn (phương pháp Ogino - Knaus)
Khoảng thời gian từ lúc phóng noãn đến ngày thấy kinh đầu tiên của chu kỳ kế
tiếp (vào khoảng 14 ngày) là khoảng cố định ở người có chu kỳ kinh nguyệt đều. Dựa
vào, ta có thể tính được ngày phóng noãn và tránh giao hợp vào những ngày có khả
năng phóng noãn (“thời gian an toàn”). Theo cách tính này, thời gian an toàn là
khoảng 1 tuần trước ngày có kinh lần sau. Phương pháp này chỉ áp dụng được ở
2
2
8
người phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều và ở những cặp vợ chồng luôn sống gần
nhau vì xúc cảm có thể gây phóng noãn.
Biện pháp cơ học: bao cao su cho nam giới vừa có tác dụng tránh thai vừa phòng
tránh lây nhiễm các bệnh qua đường sinh hoạt tình dục, màng ngăn âm đạo, mũ tử
cung cho nữ giới.
Dụng cụ tử cung (thường được gọi là vòng tránh thai) là những dụng cụ làm bằng
chất dẻo được đưa vào buồng tử cung để ngăn cản quá trình gắn và làm tổ của trứng
đã thụ tinh. Phương pháp này có hiệu quả tránh thai cao và không gây phiền phức
hàng ngày cho người dùng nên đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở nước ta,
đặc biệt ở các vùng nông thôn.
2
3
1
niêm mạc đặc biệt là tuyến hành niệu đạo. Dịch túi tinh được phóng ra cuối cùng với
một lượng lớn có tác dụng đẩy tinh trùng ra khỏi ống phóng tinh và niệu đạo.
Độ pH trung bình của tinh dịch là 7.5. Độ pH hơi kiềm này trung hoà bớt tính
chất acid của dịch âm đạo, tạo môi trường thích hợp cho tinh trùng hoạt động.
Trong ống sinh tinh, tinh trùng có thể sống vài tuần nhưng khi đã được phóng ra
ngoài, đời sống tối đa chỉ từ 24- 48 giờ, ở nhiệt độ thấp, chuyển hoá của tinh trùng
giảm nên thời gian sống của tinh trùng dài hơn.
5. Giao hợp và xuất tinh
Dương vật có cấu trúc đặc biệt, gồm hai thể hang và một thể xốp. Thể hang và thể
xốp được cấu tạo bởi mô liên kết - cơ, có những hốc máu, những động mạch xoắn.
Mô đặc biệt này được gọi là mô cương. Trong các tiểu động mạch và tĩnh mạch có
những cấu trúc hãm tạo thành các van.
Khi dương vật bị kích thích bởi các tác nhân cơ học (sò, nắn, đụng chạm tại chỗ)
hoặc bởi các yếu tố tâm lý (nghĩ, nghe, nhìn) thì sợi cơ trơn của các tiểu động mạch
co lại, kéo các vòng chun giãn ra làm cho máu từ các tiểu động mạch tràn vào trong
các hốc máu do vậy dương vật to ra, dài ra. Lúc này các bó cơ ở chung quanh hốc
máu co lại ép chặt vào các tĩnh mạch. Những sợi chun không bị các bó sợi cơ dọc kéo
nữa nên co lại và bịt các tĩnh mạch. Máu trong các hốc máu không thoát đi đâu được,
lại bị ép bởi các bó cơ cho nên dương vật cương lên và rất cứng. Trong giao hợp, khi
khoái cảm lên tới cực điểm thì các cơ ngồi hang và các cơ thành hang co thắt nhịp
nhàng gây ra hiện tượng phóng tinh. Tinh dịch được phóng vào âm đạo. Khi các bó
cơ giãn ra, máu thoát đi bằng đường tĩnh mạch, dương vật mềm trở lại.
Cương dương vật và phóng tinh được điều hoà bởi cơ chế phản xạ tuỷ mà trung
tâm phản xạ nằm ở đoạn thắt lưng cùng. Cơ chế phản xạ này được khởi phát hoặc
bằng các kích thích tâm lý truyền xuống từ não, hoặc bằng kích thích vào cơ quan
sinh dục, nhưng thông thường là sự phối hợp của cả hai.
6. Một số rối loạn thường gặp
6.1. Bệnh lý tuyến tiền liệt
U xơ tuyến tiền liệt
Ở trẻ con, tuyến tiền liệt rất nhỏ. Từ tuổi dậy thì thì tuyến tiền liệt bắt đầu phát
triển, đạt tới kích thước tối đa vào tuổi 20 và giữ nguyên kích thước cho tới năm 50
tuổi. Kể từ tuổi 50, ở một số đàn ông tuyến tiền liệt bắt đầu xoắn lại, đồng thời tinh
hoàn cũng giảm bài tiết testosteron. Rối loạn thường gặp ở đàn ông cao tuổi là u xơ ở
tuyến tiền liệt gây bí đái.
Ung thư tuyến tiền liệt
2
3
2
Các tế bào ung thư của tuyến tiền liệt thường phát triển rất nhanh dưới tác dụng
kích thích của testosteron. Nếu cắt bỏ tinh hoàn hoặc tiêm estrogen thì khối u (ngay
cả khi đã di căn vào xương) hoặc phối hợp cả hai biện pháp thì khối di căn sẽ thu nhỏ
lại
6.2. Suy giảm chức năng sinh dục
- Suy giảm bẩm sinh: Thiếu testosteron trong thời kỳ bào thai hoặc thiếu
receptor tiếp nhận androgen ở mô đích dẫn đến rối loạn phát triển các cơ quan sinh
dục phụ của nam; các cơ quan sinh dục nữ sẽ được hình thành.
- Suy giảm trước tuổi dậy thì: Mất tinh hoàn hoặc tinh hoàn không hoạt động ở
thời kỳ này dẫn tới tình trạng không xuất hiện các đặc tính sinh dục nam thứ phát; cơ
quan sinh dục ở tình trạng trẻ con. Do sụn liên hợp không được cốt hoá nên các chi
dài. Giọng nói cao, da tóc mịn (hình dạng quan hoạn).
- Suy giảm sau tuổi dậy thì ít gây biến đổi về hình thể: Các cơ quan sinh dục có
thể giảm kích thước nhưng không trở về tình trạng trẻ con. Ham muốn tình dục giảm
nhưng không mất hoàn toàn. Mặc dù có khó khăn nhưng vẫn có hiện tượng cương,
song ít khi có hiện tượng phóng tinh vì các cơ quan tham gia bài tiết tinh dịch bị thoái
hoá.
6.3. U tinh hoàn - Ưu năng sinh dục nam
U tế bào Leydig: nồng độ testosteron tăng rất cao, ở trẻ nhỏ, bệnh làm hệ cơ
xương của trẻ trai phát triển sớm và nhanh nhưng cũng dừng lại nhanh do bị cốt hóa
sớm. Cơ quan sinh dục, đặc tính sinh dục thứ phát phát triển sớm.
Hiện tượng phát dục sớm còn có thể do u tuyến thượng thận là nơi có sản xuất ra
các androgen là sản phẩm trung gian của quá trình sinh tổng hợp các corticoid hoặc
do thiếu enzym nên các sản phẩm trung gian không chuyển thành các corticoid được.
2
3
3
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ TIẾT NIỆU
NỘI DUNG
Hệ tiết niệu hoạt động như một máy lọc cho cơ thể, cho phép các sản phẩm dư
thừa của chuyển hóa và các chất độc hại cho cơ thể được thải ra ngoài qua nước tiểu.
Hệ tiết niệu bao gồm 2 thận, 2 niệu quản, bàng quang và niệu đạo.
I. THẬN
1. Hình thể ngoài, vị trí, kích thước
1.1. Hình thể ngoài
Thận có màu nâu nhạt, hình hạt đậu dẹt nên có hai mặt trước và sau, hai bờ trong và
ngoài và hai cực trên và dưới. Bờ trong lõm ở giữa tại rốn thận, nơi có các mạch thận
đi vào và đi ra khỏi thận, và là nơi bể thận thoát ra ngoài để liên tiếp với niệu quản.
2
3
4
Hình. Hình thể ngoài thận
2. Liên quan
2.1. Liên quan trước:
- Thận phải: cực trên liên quan với tuyến thượng thận phải. Bờ trong liên quan với
tĩnh mạch chủ dưới. Mặt trước liên quan với vùng gan, góc kết tràng phải và phần
xuống tá tràng.
- Thận trái: cực trên liên quan với tuyến thượng thận trái. Bờ trong liên quan với
động mạch chủ bụng. Mặt trước liên quan với lách, tụy, dạ dày, góc đại tràng trái, đại
tràng xuống và các quai ruột non.
2.2. Liên quan sau: Mặt sau là mặt phẫu thuật chủ yếu của thận, xương sườn XII bắt
chéo ngang qua mặt sau thận và chia mặt sau thận làm 2 phần liên quan:
- Phần trên xương sườn 12 tầng ngực):
Từ sâu ra nông liên quan với cơ hoành, góc phế mạc sườn hoành, với tấm sườn XI-
XII và 2 dây chằng sườn thắt lưng. Từ mỏm ngang các đốt L1, và L2, tới xương sườn
có 2 trường hợp:
Nếu xương sườn XII ngắn thì một dây bám vào xương sườn XI một dây bám vào
xương sườn XII. Trường hợp này màng phổi xuống thấp hơn xương sườn XII khoảng
1cm. Khi phẫu thuật thận phải cắt xương sườn XII dễ chạm thương màng phổi.
Nếu xương sườn XII dài: Thì cả 2 dây đều bám vào xương sườn XII màng phổi
bắt chéo xương sườn XII cách cột sống 6cm.
- Phần dưới xương sườn 12 (tầng bụng): Phần này chủ yếu liên quan với 2 khối cơ:
Khối cơ dựng sống (cơ thắt lưng, cơ vuông thắt lưng, cơ mỏm ngang).
2.3.Các bờ của thận
- Bờ ngoài: thận phải liên quan với gan, thận trái liên quan với tỳ và đại tràng
xuống.
- Bờ trong : có rốn thận ở giữa, nơi các thành phần của cuống thận đi vào và ra
khỏi thận. Đoạn trên rốn thận của bờ trong có tuyến thượng thận úp lên. Bờ trong
thận phải nằm cạnh tĩnh mạch chủ dưới, bờ trong thận trái nằm cạnh động mạch chủ
bụng
2
3
6
3. Hình thể trong và cấu tạo
3.1. Cấu tạo đại thể:
Cắt đứng ngang qua thận, ta thấy thận có hai phần: phần đặc ở xung quanh là nhu mô
thận, phần giữa rỗng là xoang thận . Ngoài cùng, bọc lấy thận là một bao xơ.
2
3
7
Thận được cấu tạo gồm các đơn vị thận gọi là nephron. Nephron là đơn vị cấu tạo
cũng như đơn vị chức năng của thận, chúng có khả năng tạo nước tiểu độc lập với
nhau. Cả 2 thận có khoảng trên 2 triệu nephron.
- Nephron gồm cầu thận và hệ thống ống thận. Máu đi vào cầu thận qua tiểu động
mạch đến và rời khỏi cầu thận bằng tiểu động mạch đi. Cấu tạo cầu thận gồm khoảng
50 quai mao mạch song song, các mao mạch nối với nhau và được bao trong nang
Bowman. Hệ thống ống thận gồm ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa và ống góp.
- Ống lượn gần: là đoạn tiếp nối với nang Bowman, có một đoạn cong và một đoạn
thẳng.
- Quai Henle: là phần tiếp theo ống lượn gần. Quai Henle có hình chữ U và hướng
về vùng tủy thận
- Ống lượn xa: tiếp nối với nhánh lên của quai Henle, hình dáng cong queo uốn
lượn cạnh cầu thận. Có một phần sát với tiểu động mạch đến, tiểu động mạch đi và
cầu thận tạo nên tổ chức cận cầu thận, nơi này bài tiết các hormon quan trọng tham
gia vào quá trình điều hòa huyết áp và sản sinh hồng cầu.
- Ống góp: không thuộc về nephron. Có khoảng 8 ống lượn xa đổ vào một ống góp
nhỏ vùng vỏ thận, phần cuối của ống góp đi sâu xuống vùng tủy thận, những ống góp
nhỏ hợp lại thành ống góp lớn hơn đi suốt qua vùng tủy thận song song với quai
Henle rồi đổ vào bể thận.
Mạng lưới mao mạch quanh ống và các mạch thẳng
Xung quanh hệ thống ống thận có mạng lưới mao mạch rất phong phú gọi là mạng
lưới mao mạch quanh ống. Máu sau khi qua cầu thận sẽ theo tiểu động mạch đi đến
mạng lưới mao mạch quanh ống. Hầu hết mạng lưới mao mạch nằm trong vùng vỏ
thận, quanh ống lượn gần, ống lượn xa và ống góp vùng vỏ. Từ những phần ở sâu2 của
3
8
mạng lưới này các quai mao mạch chia thành các nhánh dài gọi là mạch thẳng đi sâu
vào vùng tủy, nằm cạnh những quai Henle. Sau đó chúng quay trở lại vùng vỏ và vận
chuyển máu vào tĩnh mạch vùng vỏ.
Khi máu qua cầu thận, khoảng 1/5 lượng huyết tương được lọc qua cầu thận
vào hệ thống ống thận. Trong hệ thống ống, những sản phẩm có hại không những
không được tái hấp thu, mà còn được bài tiết thêm từ huyết tương qua tế bào biểu mô
rồi vào dịch ống. Ngược lại, nước, các chất điện giải và các chất chuyển hóa được tái
hấp thu vào mạng lưới mao mạch quanh ống
4. Mạch máu và thần kinh
4.1. Mạch máu
Động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ bụng. Động mạch thận phải dài
hơn và hơi thấp hơn động mạch thận trái.
Trong xoang thận, các động mạch thận sẽ chia ra những nhánh đi vào nhu mô
thận ở giữa các tháp thận gọi là động mạch gian thùy thận. Khi tới đáy tháp thận,
động mạch gian thùy thận chia thành các động mạch cùng nằm trên đáy tháp. Từ
động mạch cùng đi về phía vỏ thận có các nhánh động mạch gian tiểu thùy, rồi chia
nhánh nhỏ dần thành các tiểu động mạch đến đi vào cầu thận.
2
3
9
Trong cầu thận, nhánh động mạch đến sẽ tạo nên một cuộn mao mạch nằm
trong nang Bowman rồi từ đó ra khỏi cầu thận bởi nhánh tiểu động mạch đi. Nhánh
tiểu động mạch đi sau đó lại chia thành một mạng lưới mao mạch xung quanh hệ
thống ống sinh niệu. Các mao mạch quanh ống này kết hợp lại tạo nên các tiểu tĩnh
mạch quanh ống, rồi sau đó thành các tĩnh mạch gian tiểu thùy. Tiếp đó máu được lần
lượt dẫn lưu qua các tĩnh mạch cung, các tĩnh mạch gian thùy và các tĩnh mạch phân
thùy. Máu rời khỏi thận qua một tĩnh mạch thận ở rốn thận và cuối cùng đổ vào tĩnh
mạch chủ dưới.
5. Sinh lý thận
Bộ máy tiết niệu bao gồm nhiều bộ phận trong đó thận đóng vai trò chủ yếu.
Thận có hai chức năng quan trọng: chức năng ngoại tiết và chức năng nội tiết. Chức
năng ngoại tiết của thận nhằm duy trì hằng định nội môi thông qua sự thành lập và
bài tiết nước tiểu. Quá trình bài tiết nước tiểu thực hiện được là nhờ có chức năng lọc
của cầu thận, chức năng tái hấp thu và bài tiết của ống thận. Vai trò nội tiết của thận
có ảnh hưởng tới sự điều chỉnh huyết áp và tạo hồng cầu.
5.1. Quá trình tạo nước tiểu
Sự tạo thành nước tiểu ở thận gồm hai quá trình:
- Quá trình lọc ở cầu thận: một phần huyết tương được lọc qua màng lọc cầu thận
vào nang Bowman và trở thành dịch lọc.
- Quá trình tái hấp thu và bài tiết ở ống thận: khi dịch lọc đi xuống ống thận, thể
tích và thành phần của dịch lọc sẽ bị thay đổi. Nước và một sô chấtt hòa tan được đưa
trở lại máu nhờ quá trình tái hấp thu. Ngược lại, một số chất hòa tan dược bài tiết vào
dịch ống thận để tạo thành nước tiểu.
- Như vậy thông qua chức năng tạo nước tiểu, thận giúp cơ thể giữ lại nước, các
chất điện giải và các chất chuyển hóa quan trọng, đồng thời đào thải những sản phẩm
có hại như urê, creatinin, acid uric, v.v... Thành phần của nước tiểu có thể thay đổi do
có rất nhiều cơ chế điêu hòa hằng định nội môi nhằm giữ cho thành phần của dịch
ngoại bào được hằng định bằng cách thay đổi lượng nước và các chất hòa tan trong
nước tiểu.
5.1.1.Quá trình lọc ở cầu thận
a. Màng lọc cầu thận: màng của nang Bowman cùng với thành của các mao mạch
cầu thận tạo thành màng lọc cầu thận. Màng có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp tế bào nội mô mao mạch, có nhiều lỗ nhỏ gọi là các cửa sổ, đường kính các
lỗ khoảng 160 A°.
- Màng đáy: là một mạng lưới sợi collagen và proteoglycan đan xen nhau, giữa các
sợi có các khe nhỏ đường kính 110 A°, tích điện âm.
- Lớp tế bào biểu mô thành nang Bowman: là một lớp tế bào biểu mô có chân, mỗi
tế bào có nhiều tua nhỏ bám lên màng đáy. Giữa các tua nhỏ có các khe đường kính
khoảng 70A°.
2
4
1
- Nhờ cấu trúc đặc biệt này, màng lọc tiểu cầu thận có tính thấm cao gấp hàng trăm
lần tính thấm của các mao mạch khác của cơ thể.
Quá trình lọc ở cầu thận là sự khuếch tán qua màng lọc cầu thận. Tính thấm chọn lọc
của màng phụ thuộc vào kích thước lỗ lọc, diện tích của thành lỗ lọc. Những lớp tế
bào này bình thường cho lọt qua mọi thành phẩn của huyết tương vào cầu thận, trừ
những protein có kích thước phân tử lớn (>70 A°), albumin, huyết thanh.... Đường
kính phân tử albumin là 60 A° nhưng chỉ khoảng 0,5% qua được màng lọc do các
phân tử này tích điện âm nên bị lực đẩy của thành lỗ lọc cản lại
b. Cơ chế lọc ở cầu thận
Sự lọc của cầu thận phụ thuộc vào các áp suất trong cầu thận:
- Áp suất thủy tĩnh của mao mạch cầu thận (ký hiệu là Pt): là huyết áp mao mạch,
có tác dụng đẩy dịch qua màng lọc sang nang Bowman, thuận lợi cho sự lọc. Trị số
trung bình (Pt) khoảng 60 mmHg.
- Áp suất keo của máu trong mao mạch (ký hiệu là Pk): do protein máu quyết định,
có tác dụng giữ nước lại trong mao mạch, chống lại áp suất lọc. Trị số trung bình (Pk)
khoảng 32 mmHg.
- Áp suất thủy tĩnh nang Bowman (ký hiệu là Pn): chính là áp suất thủy tĩnh của
dịch lọc cầu thận, chống lại áp suất lọc. Trị số trung bình (Pn) khoảng 18 mmHg.
- Áp suất lọc của cầu thận (ký hiệu là Pl): áp suất đẩy dịch qua màng lọc cầu thận
vào nang Bowman.
P1 = Pt - (Pk + Pn).
- Áp suất lọc bình thường vào khoảng: 60 - (32+18) = 10 mmHg.
- Quá trình lọc chỉ xảy ra khi P1 > 0. Nếu P1 < 10 mmHg thì sẽ gây thiểu niệu P1 =
0 thì vô niệu.
2
4
2
Thành phần dịch lọc
Dịch lọc có thành phần tương tự như của huyết tương, nhưng dịch này không có
các tế bào máu và có rất ít protein (khoảng 0,03% protein). Do nồng độ protein mang
điện tích âm rất thấp nên nồng độ của những anion không phải protein như Cl+,
HCO3- trong dịch lọc cao hơn trong huyết tương khoảng 5%.
Mức lọc cầu thận (GFR):
- Là số lượng dịch lọc qua cầu thận trong 1 phút của cả hai thận. Ở người bình
thường số lượng dịch được lọc 125 ml/phút. Như vậy toàn bộ dịch lọc cầu thận mỗi
ngày vào khoảng 180 ml/24giờ nhưng hơn 99% dịch lọc được tái hấp thu trong hệ
thống ống thận, số còn lại khoảng 1 lít/24 giờ thành nước tiểu.
- Mức lọc cầu thận luôn giữ tương đối hằng định nhờ cơ chế điều hòa, qua đó duy
trì sự hằng định lượng dịch lọc trong nang Bowman, góp phần ổn định lượng nước
tiểu.
- Nếu lọc ít, dịch xuống ống thận ít, sự thải các sản phẩm chuyên hóa và những
chất thừa cũng sẽ giảm, chúng sẽ ứ lại trong cơ thể.
- Nếu lọc nhiều, dịch qua nhanh, hệ ống không kịp tái hấp thu, cơ thể mất nhiều
chất cần thiết.
Phân số lọc
Đó là phần huyết tương qua cầu thận và trở thành dịch lọc. Bình thường lượng
huyết tương qua hai thận là 650 ml/phút, số lượng dịch được lọc là 125 ml/phút. Vậy
phân số lọc là 125/650 =19% hoặc 1/5. 2
4
3
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức lọc cầu thận
- Ảnh hưởng của lưu lượng máu qua thận: lưu lượng máu qua thận tăng lên sẽ làm
tăng áp suất trong mao mạch cầu thận và làm tăng lựu lượng lọc.
- Ảnh hưởng của sự co tiểu động mạch đến: co tiểu động mạch đến làm giảm lượng
máu đến thận và cũng làm giảm áp suất trong mao mạch cầu thận. Cả hai tác dụng
này đều làm giảm lưu lượng lọc cầu thận.
- Ảnh hưởng của sự co tiểu động mạch đi: co tiểu động mạch đi cản trở máu ra
khỏi mao mạch cầu thận do đó làm tăng áp suất mao mạch cầu thận. Nếu co nhẹ sẽ
làm tăng lưu lượng lọc. Nếu tiểu động mạch đi co vừa hoặc co rất mạnh, huyết tương
bị giữ lại ở cầu thận trong một thời gian dài, lượng huyết tương bị lọc qua nhiều hơn
làm áp suất keo trong mao mạch cầu thận tăng cao, kết quả là lưu lượng lọc giảm dù
áp suất mao mạch cầu thận vẫn tăng.
5.2. Quá trình tái hấp thu và bài tiết ở ống thận
Dịch lọc cầu thận sẽ lần lượt qua ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa, ống góp
rồi vào bể thận. Trong quá trình này nước và các chất được tái hấp thu hoặc bài tiết
một cách chọn lọc nhờ các tế bào biểu mô của hệ thống ống thận và dịch trở thành
nước tiểu.
Ở người bình thường số lượng dịch được lọc là 125 ml/phút. Như vậy toàn bộ dịch
lọc cầu thận mỗi ngày vào khoảng 180 ml/24 giờ, nhưng hơn 99% dịch lọc được tái
hấp thu trong hệ thống ống thận, số còn lại khoảng 1 1ít/24 giờ thành nước tiểu.
5.2.1. Tái hấp thu và bài tiết ở ống lượn gần
- Glucose được tái hấp thu hết trừ khi nồng độ glucose máu cao hơn ngưỡng glucose
của thận thì glucose không được tái hấp thu hoàn toàn và một phân glucose sẽ bị đào
thải qua nước tiểu.
- Protein, acid amin và các vitamin... được tái hấp thu gần 100%. Dịch xuống quai
Henle không còn những chất này nữa.
- Nước,-ion Na+, ion K+, ion Cl- được tái hấp thu khoảng 65%.
- Sự tái hâp thu này không chịu ảnh hưởng của các hormon.
- Bài tiết creatinin, ion H+.
5.2.2. Tái hấp thu ở quai Henle
- Sự tái hấp thu nước ở quai Henle chỉ diễn ra ở nhánh xuống, chiếm khoảng 15%.
- Tái hấp thu ion Na+, ion Cl-: khoảng 27% ở đoạn dày nhánh lên theo cơ chế vận
chuyển tích cực.
5.2.3. Tái hấp thu và bài tiết ở ống lượn xa
- Tại đây Na+ được tái hấp thu do nồng độ aldosteron trong máu (hormon của vỏ
thượng thận) kiểm soát. Nếu nồng độ aldosteron rất cao, Na + sẽ được tái hấp thu hết
2
4
4
và không có Na+ trong nước tiểu. Ngược lại, nếu không có aldosteron, hầu hết Na + đi
vào đoạn cuối ống lượn xa sẽ không được tái hấp thu và bị thải hết qua nước tiểu.
- Nước được tái hấp thu khoảng 10%. Tái hấp thu H 20 phụ thuộc vào nồng độ
hormon chống bài niệu ADH của vùng dưới đồi.
- Tái hấp thu ion bicarbonat, bài tiết ion hydro.
- Bài tiết NH3 dưới dạng muối ammoni.
- Bài tiết ion K+ và một số chất khác.
5.2.4. Tái hấp thu và bài tiết ở ống góp
- Tái hấp thu nước cũng phụ thuộc vào nồng độ ADH huyết tương và tính ưu trương
vùng tủy thận. Khi nồng độ ADH huyết tương cao, nước được tái hấp thu làm cho
thể tích nước tiểu giảm và làm cô đặc hầu hết các chất hòa tan trong nước tiểu.
- Tái hấp thu Na+ và một ít urê.
- Bài tiết ion H+ và, ion K+
5.3. Hoạt động điều hòa nội môi
Qua sự tạo nước tiểu, thận còn có khả năng duy trì sự ổn định các chất trong huyết
tương, áp suất thẩm thấu, thể tích dịch và độ pH.
5.3.1. Duy trì nồng độ các chất trong huyết tương
Thận tham gia điều hòa cân bằng nước và các chất điện giải của máu thông qua
quá trình lọc, tái hấp thu và bài tiết tích cực.
5.3.2. Duy trì áp suất thẩm thấu
Sự tái hấp thu Na+, Cl- trong các ống thận góp phần duy trì áp suất thẩm thấu.
5.3.3. Duy trì pH máu
pH máu bình thường là 7,4. Khi pH máu có xu hướng giảm, thận tăng cường bài
tiết H+ và tái hấp thu HCO3- giữ cho pH máu ổn định. Ngược lại, khi pH máu tăng thì
quá trình diễn ra ngược lại. Do đó sự cân bằng lượng H+, HCO3+ là điều cần thiết.
6. Chức năng nội tiết của thận
6.1. Điều hòa huyết áp
Thận bài tiết renin để điều hòa huyết áp nhờ tác dụng của hệ Renin - angiotensin -
aldosteron. Huyết áp tăng làm tăng lưu lượng máu đến thận và thận sẽ giảm tiết renin.
6.2. Điều hòa sản sinh hồng cầu
Thận là một trong những cơ quan sản xuất erythropoietin đê tham gia vào quá trình
sản sinh hồng cầu trong tủy xương. Erythropoietin có tác dụng kích thích tủy xương
tăng sinh nguyên hồng cầu, thúc đẩy nhanh các quá trình biệt hóa và trưởng thành
của hồng cầu.
2
4
6
Cấu trúc: Thành niệu quản dày khoảng 1 mm, gồm 3 lớp:
- Lớp niêm mạc: liên tục với niêm mạc bể thận và bàng quang.
- Lớp cơ (cơ trơn) gồm 3 lớp: Lớp trong cơ dọc, giữa vòng, ngoài thô chỉ gồm vài
bó cơ dọc.
- Lớp bao ngoài: bao bọc bên ngoài.
Mạch máu thần kinh:
- Được nuôi dưỡng bởi nhiều động mạch nhỏ từ động mạch thận. Động mạch
sinh dục, động mạch bàng quang dưới, động mạch chậu chung,...
- Tĩnh mạch theo các tĩnh mạch tương ứng đi kèm động mạch.
- Bạch mạch: đổ vào các hạch bạch huyết tĩnh mạch và bạch huyết dọc theo
động mạch chậu trong.
- Thần kinh: từ đám rối thận và đám rối hạ vị: gồm các sợi vận động chi phối cơ
trơn thành niệu quản, sợi cảm giác đau khi có sự căng đột ngột thành niệu quản.
2
4
8
Hình: Thiết đồ đứng dọc chậu hông nữ
2. Liên quan
- Với phúc mạc: phúc mạc phủ ở đáy bàng quang rồi phủ lên thành bụng trước
và thành bên chậu, phía sau phủ lên tử cung. Ở nữ tạo nên túi cùng bàng quang – tử
cung. Ở nam, phúc mạc từ bàng quang lật lên phủ bóng ống tinh và túi tinh rồi quặt
lên mặt trước trực tràng tạo nên túi cùng trực tràng - bàng quang
- Bàng quang liên quan với các cơ quan xung quanh:
Mặt trên: ở nam liên quan với ruột non và đại tràng chậu hông, ở nữ liên quan
với thân tử cung.
Mặt sau: ở nam liên quan ống dẫn tinh, túi tinh và trực tràng, ở nữ liên quan
với thành trước âm đạo, cổ tử cung.
3. Cấu tạo và hình thể trong
2
4
9
Bên trong bàng quang có 3 lỗ gồm: 2 lỗ niệu quản nằm trên thành sau (đáy)
cách nhau khoảng 2,5 cm và lỗ niệu đạo trong ở cổ bàng quang. Ba lỗ này tạo thành
các đỉnh của một tam giác gọi là tam giác bàng quang. Bàng quang có cấu tạo từ
ngoài vào trong gồm 4 lớp:
- Lớp niêm mạc.
- Lớp dưới niêm mạc: không có ở vùng tam giác bàng quang.
- Lớp cơ: 3 lớp cơ vòng ở giữa, cơ dọc ở ngoài và ở trong.
- Lớp thanh mạc: là lớp phúc mạc. Ở những nơi không có phúc mạc phủ, bàng
quang được che phủ lớp mô liên kết.
2
5
1
2. Niệu đạo Nữ: tương ứng với phần niệu đạo tiền liệt tuyến và niệu đạo màng của
nam, dài khoảng 3-4 cm, chạy dọc xuống trước âm đạo và tận cùng bằng lỗ niệu đạo
ngoài nằm ở phần trước tiền đình âm hộ.
- Niệu đạo nữ hoàn toàn cố định, tương ứng phần cố định ở nam giới, gồm 2
đoạn là đoạn chậu hông và đoạn đáy chậu.
Đoạn chậu hông: cũng có cơ thắt trơn niệu đạo.
Đoạn đáy chậu: xuyên qua màng đáy chậu và có cơ thắt vân niệu đạo. Lỗ
niệu đạo ngoài ở tiền đình âm đạo là nơi hẹp nhất của niệu đạo, nằm sau âm
vật khoảng 2,5 cm và trước lỗ âm đạo.
2
5
2
GIẢI PHẪU SINH LÝ HỆ NỘI TIẾT
MỤC TIÊU
1. Trình bày được định nghĩa của hệ nội tiết, tuyến nội tiết, hormone và cách phân
loại hormon.
2. Trình bày được vị trí, hình thể, chức năng của tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận
giáp, tuyến thượng thận
3. Trình bày rối loạn của các tuyến nội tiết trong cơ thể: tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận
giáp, tuyến thượng thận
I. ĐỊNH NGHĨA
1. Hệ nội tiết
Hệ nội tiết là một mạng lưới các tuyến nội tiết, sản xuất ra các hormon để duy trì
và điều hòa những chức năng cơ bản của cơ thể.
Các quá trình hoạt động sinh lý của cơ thể được điều hòa bởi hệ nội tiết có thể diễn
ra trong một khoảng thời gian hay diễn ra liên tục suốt đời.
Các quá trình này bao gồm: sự lớn lên, phát triển, sinh sản, khả năng duy trì sự cân
bằng những chức năng bên trong cơ thể
Tuyến yên nằm trong hố yên của xương bướm ở nền sọ và dính liền với não bộ bởi
cuống tuyến yên. Kích cở của tuyến yên rất nhỏ, khối lượng nặng chừng 0,5g. Tuyến
yên là một tuyến hỗn hợp, gồm có 3 thùy:
1.1. Thùy trước
Gồm những tế bào chế tiết. Tiết ra nhiều hormon điều hòa các hoạt động của cơ thể
và chi phối các tuyến nội tiết khác: tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến thượng thận,
tuyến sinh dục.
1.2. Thùy sau 2
5
5
Còn gọi là thùy thần kinh, các tế bào ở đây giống tế bào thần kinh đệm, không có
khả năng chế tiết hormon mà có chức năng hỗ trợ cho các sợi trục và cúc tận cùng tiết
ADH và Oxytocin.
1.3. Thùy giữa
Xen giữa thùy trước và thùy sau. Thùy này ở người kém phát triển.
2. Các hormon thùy trước
2.1. Hormon tăng trưởng (GH)
GH làm phát triển hầu hết các mô có khả năng tăng trưởng trong cơ thể. Nó vừa
làm tăng kích thước tế bào vừa làm tăng quá trình phân chia tế bào do đó làm tăng
trọng lượng cơ thể, làm tăng kích thước các phủ tạng.
- Tác dụng phát triển cơ thể: Kích thích mô sụn và xương phát triển
- Tác dụng lên chuyển hóa:
Chuyển hoá Gluxit: Hạn chế việc sử dụng Glucose các mô, kích thích sự
chuyển hoá glycogen thành Glucose, ngăn cản việc chuyển hoá Glucose thành mỡ dự
trữ và kích thích sự chuyển hoá mỡ thành Glucose.
Chuyển hoá Protit: Làm tăng dự trữ chất đạm trong cơ thể.
Chuyển hoá Lipit: Làm tăng sự phân hoá mỡ.
2.2. Hormon kích thích tuyến giáp (TSH)
Làm tuyến giáp trạng phát triển, bài tiết ra nhiều hormon giáp - Thyroxin
2.3. Hormon kích thích vỏ thượng thận (ACTH)
- Dinh dưỡng, kích thích sự tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận.
- Tác dụng chủ yếu lên lớp bó và lớp lưới bài tiết glucocorticoid và androgen.
- Trên tổ chức não, ACTH làm tăng quá trình học tập và trí nhớ.
- Tác dụng lên tế bào sắc tố: ACTH kích thích tế bào sắc tố sản xuất sắc tố melanin
rồi phân tán sắc tố này trên bề mặt biểu bì da. Thiếu ACTH sẽ làm cho da không có
sắc tố (người bạch tạng). Ngược lại thừa ACTH làm cho da có những mảng sắc tố.
2.4. Các hormon hướng sinh dục
- FSH: Ở nam giới dinh dưỡng tinh hoàn, phát triển ống sinh tinh và sản sinh tinh
trùng. Ở nữ giới kíck thích sự phát triển của các nang trứng trong giai đoạn đầu, phối
hợp LH làm cho trứng chín, rụng và bắt đầu bài tiết estrogen
- LH: Ở nam giới dinh dưỡng tế bào Leydig, kích thích sự bài tiết testosteron. Ở nữ
giới gây hiện tượng rụng trứng, tiết estrogen, sau đó tạo hoàng thể và kích thích sự
bài tiết progesteron.
2.5. Hormon kích thích bài tiết sữa- Prolactin (PRL)
Prolactin có tác dụng làm tuyến vú phát triển và phối hợp với Progesteron kích
thích tuyến vú tiết ra sữa.
2
5
6
2. Các hormon thùy sau
Hai hormon được bài tiết từ thùy sau tuyến yên có nguồn gốc từ vùng dưới đồi.
Hai hormon đó là hormon oxytocin và ADH
3.1. ADH (antidiuretic hormon)
Chủ yếu là tăng tái hấp thu nước ở ống xa và ống góp, liều cao gây co mạch, tăng
huyết áp nên còn gọi là vasopressin
3.2. Oxytocin
Gây co thắt tế bào biểu mô cơ, là những tế bào nằm thành hàng rào bao quanh
nang tuyến sữa. Những tế bào này co lại sẽ ép vào các nang tuyến và đẩy sữa ra ống
tuyến, khi đứa trẻ bú sẽ nhận được sữa. Tác dụng này được gọi là tác dụng bài xuất
sữa, khác với tác dụng gây bài tiết sữa của prolactin. Gây co cơ tử cung mạnh khi có
thai, đặc biệt mạnh vào cuối thai kỳ, lúc chuyển dạ.
4. Rối loạn chức năng tuyến yên
4.1. Bệnh lùn tuyến yên
Nguyên nhân của lùn tuyến yên thường do thiếu GH trong thời kỳ cơ thể đang phát
triển. Nhìn chung cơ thể phát triển cân đối nhưng mức độ phát triển thì giảm rõ rệt,
đứa trẻ 10 tuổi chỉ bằng 4 - 5 tuổi, người 20 tuổi chỉ bằng đứa trẻ 7 - 10 tuổi.
Người lùn tuyến yên chức năng sinh dục không phát triển như người trưởng thành
bình thường.
4.2. Bệnh suy tuyến yên ở người lớn
Hình ảnh chung của hội chứng suy tuyến yên toàn bộ là một tình trạng lờ đờ, chậm
chạp do thiếu hormon tuyến giáp; tăng cân do thiếu tác dụng thoái hoá mỡ của
hormon GH, ACTH, vỏ thượng thận và hormon tuyến giáp; mất tất cả chức năng sinh
dục.
4.3. Bệnh khổng lồ
Nguyên nhân gây bệnh thường do các tế bào bài tiết GH tăng cường hoạt động
hoặc do u của tế bào ưa acid trong thời kỳ cơ thể đang phát triển dẫn tới GH được bài
tiết quá mức bình thường.
Biểu hiện của bệnh là tình trạng phát triển nhanh và quá mức của tất cả các mô
trong cơ thể bao gồm cả xương và các phủ tạng làm cho người đó to cao quá mức
bình thường nên được gọi là người khổng lồ.
4.4. Bệnh to đầu ngón
Nếu u tế bào ưa acid xảy ra vào sau tuổi trưởng thành khi các sụn ở đầu xương đã
được cốt hoá nhưng các mô mềm vẫn phát triển và các xương, đặc biệt xương dẹt và
xương nhỏ có thể dày lên.
2
5
7
Bệnh nhân bị bệnh này sẽ có hình ảnh đầu to, hàm nhô ra, trán nhô ra, mũi to, môi
dày, lưỡi to và dày, bàn tay to, bàn chân to, phủ tạng to, đôi khi có cả sự biến dạng
cột sống làm lưng gù.
4.5. Bệnh đái tháo nhạt
Tổn thương vùng dưới đồi hoặc thùy sau tuyến yên sẽ làm giảm bài tiết ADH.
Triệu chứng chính của bệnh là đái nhiều nhưng nồng độ các chất điện giải trong nước
tiểu lại rất thấp nên bệnh được gọi là bệnh đái tháo nhạt.
2
6
0
IV. TUYẾN CẬN GIÁP TRẠNG
1. Vị trí và hình thể:
Tuyến cận giáp dính ở phía sau tuyến giáp trạng, gồm có 4 tuyến nhỏ bằng hạt
thóc.
2. Chức năng:
Tuyến cận giáp trạng rất cần cho sự sống, thiếu nó động vật sẽ không sống được
vì hormon tuyến cận giáp trạng - parathormon (PTH) có các chức năng sau:
- Điều tiết nồng độ canxi và Phospho trong máu. Dưới tác dụng của PTH nồng độ
ion calci huyết tương tăng nhưng ngược lại nồng độ phosphat lại giảm (Bình thường
canxi trong máu ở mức 100 - 120mg/lít và Phospho trong máu khoảng 35mg/lít).
PTH thực hiện chức năng này bằng các tác động trên xương, thận và ruột.
- Tăng cường hoạt động của các huỷ cốt bào làm tăng mức giải phóng ion calci từ
xương vào máu bằng cách tác động lên các tế bào xương, tế bào tạo xương và tế bào
hủy xương.
- Làm giảm hưng phấn của cơ và thần kinh do tăng nồng độ canxi trong máu.
3. Rối loạn chức năng :
- Giảm năng: Gây ra bệnh têtani do canxi trong máu giảm, phốtpho trong máu tăng.
Hiện tượng co cơ thường xảy ra ở đầu chi, mặt. Bàn tay, cẳng tay, bàn chân co quắp
như “tay đỡ đẻ”, nguy hiểm nhất là cơ thanh quản co thắt gây ngừng thở và nếu
không được cấp cứu kịp thời bệnh nhân sẽ chết.
- Tăng năng: Khi có u ở một trong số các tuyến cận giáp: canxi trong máu tăng,
phốtpho trong máu giảm. 2
6
1
Do tình trạng hủy xương xảy ra mạnh nên xương bị rỗng và dễ gẫy. Đồng thời do
lượng ion calci và phosphat được đào thải qua thận nhiều nên dễ gây ra sỏi thận.
Tuyến tụy
ĐẠI CƯƠNG
Hệ giác quan gồm các cơ quan cảm ứng đóng vai trò quan trọng trong sự giao
tiếp của cơ thể với môi trường. Có 5 loại giác quan là xúc giác (da), khứu giác (mũi),
thị giác (mắt), thính giác và thăng bằng (tai), vị giác (lưỡi). Mũi và lưỡi được mô tả
tương ứng ở các bài trước, bài này chỉ đề cập đến thị giác, thính giác.
2.1. Lớp xơ: có chức năng bảo vệ nhãn cầu, gồm 2 phần:
- Giác mạc: hình tròn, vô mạch, chiếm khoảng 1/6 trước nhãn cầu, gồm nhiều lớp
trong suốt cho phép ánh sáng đi qua.
- Củng mạc: là một lớp mô liên kết dày và chắc màu trắng sáng, làm nhiệm vụ tạo
hình và bảo vệ nhãn cầu. Củng mạc chiếm 5/6 phía sau nhãn cầu, còn gọi là lòng
trắng của mắt. Phần trước củng mạc có kết mạc che phủ.
2.2.Lớp mạch: còn gọi là lớp hắc mạc, bao gồm màng mạch, thể mi và mống mắt. 2
7
1
Nhiệm vụ chung của lớp mạch là nuôi dưỡng nhãn cầu và điều hòa nhãn áp.
- Mống mắt (hay lòng đen), giống như một màn chắn sáng, nằm thẳng đứng ngay
phía trước thể thấu kính, hình vành khăn. Ở giữa mống mắt là một lỗ tròn gọi là đồng
tử (hay con ngươi), về màu sắc, mống mắt thay đổi tùy theo chủng tộc người (người
Châu Âu mống mắt màu xanh, người Châu Á mống mắt có màu đen hay màu nâu...).
Vai trò chính của mống mắt là điều chỉnh lượng ánh sáng đến võng mạc thông qua
việc thay đổi kích thước của đồng tử. Mống mắt chia giác mạc — thấu kính ra 2
phòng chứa thủy dịch. Tiền phòng nằm giữa giác mạc và mống mắt, hậu phòng ở
giữa mống mắt, thể mi và thể thấu kính.
- Thể mi: là một vòng dẹt, được coi là phần dày lên của màng mạch. Thể mi nối
liền giữa màng mạch và mống mắt, gồm có cơ thể mi và mỏm mi. Thể mi có tác dụng
điều tiết giúp mắt nhìn rõ những vật ở gần và tiết ra thủy dịch.
- Màng mạch hay mạch mạc: chiếm 2/3 sau nhãn cầu, là một màng liên kết lỏng
lẻo nằm giữa củng mạc và võng mạc. Màng mạch có nhiều mạch máu và những tế
bào sắc tố đen có nhiệm vụ nuôi nhãn cầu và biến lòng nhãn cầu trở thành một buồng
tối giúp hình ảnh được thể hiện rõ nét trên võng mạc.
2.3. Lớp võng mạc: nằm trong cùng. Chia làm 3 phần: võng mạc thị giác, võng mạc
thể mi và võng mạc mống mắt.
- Võng mạc thị giác là phần võng mạc phủ phần sau nhãn cầu, chứa đựng các tế
bào thần kinh cảm thụ ánh sáng, là màng thụ cảm chính của mắt. Mặt ngoài liên quan
với màng mạch (không dính vào màng mạch). Mặt trong liên quan với dịch kính, có 2
điểm là điểm mù và điểm vàng.
- Vết võng mạc (điểm vàng): cạnh cực sau nhãn cầu, nơi có thể nhìn được vật rõ
nhất, chi tiết nhất.
- Đĩa thần kinh thị giác (điểm mù): không nhận ánh sáng.
- Võng mạc thể mi: là phần võng mạc phủ mặt trong thể mi, gồm một lớp tế bào
thượng bì không sắc tố ở trong và một lớp có sắc tố ở ngoài.
- Võng mạc mống mắt: là phần võng mạc phủ mặt sau mống mắt cho đến bờ con
ngươi- cả 2 lớp tế bào đều chứa sắc tố. Phần giữa của võng mạc được gọi là hoàng
điểm có chức năng nhạy cảm nhất.
5.4. Mí mắt: là 2 nếp da cơ màng di động, nằm phía trước ổ mắt, để bảo vệ nhãn cầu.
Có 2 mí: mí trên và mí dưới. Mí trên di động nhiều hơn mí dưới, khoang giữa 2 bờ tự
do của 2 mí gọi là khe mí. Hai đầu của khe mí giới hạn 2 góc mắt: góc mắt trong và
góc mắt ngoài. Tại góc mắt nơi 2 mí dính nhau gọi là mép mí.
5.5. Kết mạc: là lớp niêm mạc mỏng, khi lót ở mặt sau của mi mắt thì gọi là kết mạc
mi và khi lót lên mặt trước của nhãn cầu thì gọi là kết mạc nhãn cầu.
5.6. Bộ lệ: gồm tuyến lệ, 2 điểm lệ, 2 tiểu quản lệ, túi lệ và ống lệ mũi. Tuyến lệ có
nhiệm vụ tiết nước mắt thường xuyên để bảo vệ giác mạc. Trong trường hợp bị tắc ở
môt nơi nào đó trong các đường dẫn lệ, nước mắt sẽ không chảy được vào mũi qua
ống lệ mũi làm cho luôn luôn bị chảy nước mắt.
II. SINH LÝ THỊ GIÁC
1. Cơ chế điều tiết 2
7
4
Bộ phận khúc xạ ánh sáng là một hệ thống các môi trường trong suốt tham gia vào
việc tạo hình ảnh rõ nét trên võng mạc. Tất cả các tia sáng tác động vào mắt đều phải
qua một loạt các bề mặt khúc xạ ánh sáng của giác mạc, thủy tinh thể và dịch kính.
Muốn nhìn rõ một vật thể, các tia sáng phải rơi đúng vào võng mạc. Hệ thống quang
học của mắt người hoạt'động như sau: các tia sáng song song xuất phát từ vô cực hay
từ các vật thể khá xa sẽ hội tụ trên võng mạc (>10 m). Tuy nhiên mắt ta có thể nhìn
rõ những vật thể gần nhờ khả năng điều tiết của mắt để ánh sáng roi đúng vào võng
mạc. Khả năng điều tiết này được thực hiện bằng cách thay đổi khả năng khúc xạ của
thủy tinh thể. Sự thay đổi khả năng khúc xạ của thủy tinh thể là do thay đổi độ cong
của nó. Đồng thời khả năng điều tiết luôn xảy ra cùng với sự thay đổi kích thước của
đồng tử. Khi vật ở gần, đồng tử co lại, khi vật ở xa thì đồng tử dãn ra.
Tia sáng khi đi vào mắt sẽ bị khúc xạ tại bốn bề mặt tiếp giáp: (1) Giữa không khí
và mặt trước giác mạc, (2) giữa mặt sau giác mạc và thủy dịch, (3) giữa thủy dịch và
mặt trước thủy tinh thể, (4) giữa mặt sau thủy tinh thể và dịch kính.
Thủy tinh thể được cấu tạo bởi các sợi protein trong suốt, bao bọc trong một cái
vỏ chun dãn. Khi nhìn xa, cơ thể mi dãn, các dây chằng treo thủy tinh thể ở trạng thái
căng, thủy tinh thể hình dẹt, các tia song song hội tụ trên võng mạc. Khi nhìn gần, các
tia sáng trở nên phân kỳ, nếu thủy tinh thể vẫn dẹt, các tia sáng sẽ hội tụ phía sau
võng mạc, hình ảnh sẽ bị mờ. Để các tia này vẫn hội tụ trên võng mạc, cơ thể mi phải
co lại để các dây chằng chùng xuống, thủy tinh thể phồng lên và tăng thêm độ khúc
xạ. Khả năng tăng thêm độ khúc xạ của thủy tinh thể gọi là sự điều tiết. Vì cơ thể mi
chỉ có thể co đến một giói hạn nào đó, nên sự điều tiết tối đa vào khoảng 12 đi-ốp và
quá giới hạn đó hình ảnh sẽ bị mờ, càng lớn tuổi khả năng điều tiết càng kém, do hiện
tượng thoái hóa protein của thủy tinh thể làm cho các sợi bớt chun dãn. Đó là hiện
tượng lão thị bắt đầu vào khoảng 40- 45 tuổi.
Đồng tử có thể to hay nhỏ là tùy theo mức nhìn xa hay gần, lúc tối hay sáng. Hiện
tượng đó gọi là sự điều tiết của mắt (hoạt động này do các sợi cơ trơn co dãn đông tử,
nằm ngay trong bề dầy của mống mắt và do hệ thần kinh thực vật đảm nhiệm). Đồng
tử có chức năng làm tăng lượng ánh sáng vào mắt khi nhìn trong tối và làm giảm
lượng ánh sáng vào mắt khi nhìn trong sáng. Lượng ánh sáng qua đồng tử tỷ lệ thuận
với bình phương bán kính của đồng tử. Đồng tử có thể có đường kính nhỏ nhất là 1,5
mm và lớn nhất là 8 mm, vậy lượng ánh sáng qua đồng tử có thể tăng hoặc giảm tới
30 lần do thay đổi đường kính đồng tử.
2. Thi lưc và thi trường
2.1. Thị lực: là khoảng cách nhỏ nhất giữa 2 điểm mà mắt có khả năng phân biệt
được.
2
7
5
Khả năng phân biệt các khoảng cách càng nhỏ thì thị lực càng tốt.
Khả năng cảm nhận và phân biệt được hai vật thể của thế giới bên ngoài phụ thuộc
vào kích thước của hình ảnh trên võng mạc. Khi hình ảnh trên võng mạc nhỏ hơn một
giới hạn nhất định và kích thích ánh sáng rơi vào 2 tế bào thụ cảm ánh sáng nằm cạnh
nhau thì hình ảnh các vật sẽ chồng lên nhau và không thể phân biệt được.
2.2. Thị trường: khoảng không gian mắt có thể nhìn thấy nhiều điểm trong cùng
một lúc, chỉ bị hạn chế phần rìa bên ngoài của võng mạc. Ánh sáng trắng có thị
trường rộng hơn thị trường của ánh sáng khác.
Cảm giác nghe và thăng bằng do tai và dây thần kinh tiền đình ốc tai (thần kinh sọ số
VIII) đảm nhận. Tai gồm có tai ngoài, tai giữa và tai trong.
1. Tai ngoài: đi từ loa tai tới màng nhĩ, gồm có loa tai và ống tai ngoài.
1.1.Loa tai: như hình một vành loa có những chỗ lồi chỗ lõm giúp ta thu nhận âm
thanh từ mọi phía, mà không cần cử động tai hoặc xoay đầu về phía tiếng động như
động vật. Đáy của loa tai thu hẹp thành một chỗ lõm như cái phễu gọi là xoắn tai.
Xung quanh xoắn tai có 4 gờ:
- Gờ luân là gờ chạy theo bờ chu vi của loa tai, từ xoắn tai đến dái tai.
2
7
6
- Gờ đối luân là gờ chạy song song ở phía trước và ở trong gờ luân. Phần trên gờ đối
luân chia thành 2 trụ đối luân, giữa hai trụ là hố tam giác (hố thuyền).
- Gờ bình nhĩ hay bình tai là một gờ nhỏ chắn phía trước xoắn tai.
- Gờ đối bình tai là một gờ nhỏ nằm đối diện với bình tai và cách bình tai bởi khuyết
gian bình tai (khuyết liên bình).
Ở dưới cùng là phần mềm không có sụn gọi là dái tai. Dái tai là một nếp mô liẽn kết
và mỡ được da che phủ.
1.2.Ống tai ngoài: là một ống xương -
sụn đi từ xoắn tai tới màng nhĩ. Ống tai
ngoài cong hình chữ s, lúc đầu hướng
vào trong, ra trước và lên trên, rồi hơi
cong ra sau và cuối cùng lại tiếp tục
hướng vào trong, ra trước, nhưng lại hơi
xuống dưới. Vì vậy, khi thăm khám
màng nhĩ, ở người lớn ta phải kéo la tai lên
trên ra ngoài và ra sau để giảm bớt độ
cong.
2. Tai giữa: gồm có hòm nhĩ chứa màng nhĩ, chuỗi các xương con của tai và vòi tai..
Hòm nhĩ: là một khoang rỗng chứa không khí hình cái trống con đục trong xương
thái dương. Hòm nhĩ ở trên thông với ngách thượng nhĩ.
2.1. Màng nhĩ: nằm giữa ống tai ngoài và hòm nhĩ, dày khoảng 0,1 mm, màu xám
lóng lánh, hơi trong suốt. Màng nhĩ ở người trưởng thành nằm nghiêng và hợp với
mặt phẳng của thành trên ống tai ngoài một góc 140°. Nhìn từ ngoài vào màng nhĩ có
thể thấy được hình cán xương búa in trên màng nhĩ.
2.2. Chuỗi xương con: gồm 3 xương nhỏ là xương búa, xương đe và xương bàn đạp.
Ba xương này tiếp khớp với nhau theo dạng thức đòn bẩy (xương búa khớp với
xương đe, xương đe khớp với xương bàn đạp) tạo thành một chuỗi truyền và khuếch
đại xung động âm từ màng nhĩ vào tai trong. Chuỗi xương con đóng vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh âm thanh.
2.3. Vòi tai (vòi nhĩ): là một ống xương — sụn, một đầu mở vào hòm nhĩ bằng lỗ nhĩ
của vòi tai và một đầu thông vào hầu mũi bằng lỗ hầu của vòi tai. Vòi tai có tác dụng
2
7
7
cân bằng áp lực cùa hòm nhĩ với khí quyển nhưng lại là một đường lan truyền tự
nhiên của nhiễm trùng từ vùng hầu họng vào tai giữa.
Ống ốc tai: là một ống dài 32 mm, xoắn hai vòng rưỡi nằm trong ốc tai của mê đạo
xương. Trên thiết đồ cắt ngang, ống ốc tai hình tam giác với ba thành:
- Thành dưới là mảnh nền, lớp thượng bì của mảnh nền dày lên thành cơ quan xoắn
ốc (cơ quan Corti) là nơi tận cùng của dây thần kinh ốc tai.
2
7
9
- Thành ngoài.
- Thành trên (màng tiền đình).
Tóm lại: Mê đạo màng chứa một dịch lỏng gọi là nội dịch và được bao quanh bằng
khoang ngoại dịch, ở ốc tai, khoang ngoại dịch được ống ốc tai ngăn thành hai phần:
Trên màng tiền đình là thang tiền đình, dưới mảnh nền là thang nhĩ. Hai thang thông
với nhau ở khe xoắn ốc ở cuối ốc tai. Cuối thang nhĩ, thành ốc tai có cửa sổ ốc tai
(cửa sổ tròn) được đậy bằng màng nhĩ phụ. Trên thiết đồ cắt ngang của ống ốc tai
màng có hình tam giác, với 3 thành: thành nhĩ, thành tiền đình và thành ngoài. Nằm
trên mảnh nền của thành nhĩ là một loạt các cấu trúc thượng mô dày lên biệt hóa cao
độ, tạo nên cơ quan xoắn ốc (cơ quan Corti), nơi nhận cảm thính giác của các sợi thần
kinh ốc tai.
3.2. Mê đạo xương: chứa mê đạo màng, giữa mê đạo xương và mê đạo màng tồn tại
một khoang rỗng chứa ngoại dịch. Có 3 phần: tiền đình xương, các ống bán khuyên
xương và ốc tai xương.
Tiền đình xương: là phần hộp xương chứa xoan nang và cầu nang. Thành ngoài của
tiền đình có cửa số tiền đình (cửa sổ bầu dục) được đậy lại bởi nền xương bàn đạp.
Bên phải tiền đình liên hệ với các ống bán khuyên, bên trái liên hệ với ốc tai, thành
bên còn có lỗ để cho dây thần kinh tiền đình và ốc tai đi vào não.
Ba ống bán khuyên xương: chứa bên trong chúng là các ống bán khuyên màng cùng
tên và tương tự như các ống bán khuyên màng. Các ống chụm lại với nhau và thông
với tiền đình.
2
8
1