Professional Documents
Culture Documents
PHẦN LÝ THUYẾT
2
Cơ quan được tạo thành từ nhiều tổ chức khác nhau mà trong đó, có một mô cơ bản.
Mỗi cơ quan có hình dáng và chiếm một vị trí nhất định trong cơ thể. Các mô tạo thành cơ
quan đều thực hiện một nhiệm vụ giống nhau.
3
1.2. Quá trình hình thành và phát triển cơ thể theo từng giai đoạn
Quá trình hình thành và phát triển cơ thể xảy ra liên tục và kéo dài từ lúc trứng mới
thụ tinh cho đến khi chết, gồm ba yếu tố cơ bản: sinh trưởng; phân hóa các cơ quan và hệ
cơ quan; tạo thành hình dáng đặc trưng cho cơ thể.
Các quy luật chi phối sự sinh trưởng và phát triển: quy luật phát triển theo giai đoạn;
quy luật không đồng thì và không đồng tốc; hiện tượng tăng tốc…
Các giai đoạn phát triển cơ thể: phát triển phôi thai (ngoài tử cung, trong tử cung),
phát triển sau phôi thai (từ lúc được sinh ra).
4
Chương 3. HỆ TIÊU HÓA VÀ VẤN ĐỀ DINH
DƯỠNG Ở NGƯỜI
3.1. Cấu tạo và chức năng từng phần của các cơ quan tiêu hóa
6
+ Có ba đôi tuyến nước bọt nằm trong khoang miệng (tuyến dưới lưỡi, tuyến
dưới hàm và đôi tuyến mang tai) có chức năng tiết ra nước bọt để làm ướt, bôi trơn và tiêu
hóa thức ăn. Trong nước bọt, không có enzyme tiêu hóa protein va lipid mà chỉ có
enzyme tiêu hóa glucid. Dưới tác động của enzyme amylase (ptialin) có trong
nước bọt, tinh bột chín được phân giải thành đường maltose. Ngoài ra, trong khoang
miệng còn có các tuyến nhỏ khác nằm rải rác tiết ra chất dịch đặc quánh có tác dụng bôi
trơn thức ăn, thành phần chất dịch này có chứa lysozyme có tác dụng diệt khuẩn.
7
Hình 3.5. Cấu tạo giải phẫu của dạ dày
- Ruột gồm có ruột non và ruột già có cấu tạo khác nhau.
+ Ruột non tiếp giáp với môn vị của dạ dày. Ruột non là đoạn dài nhất của ống
tiêu hóa (khoảng 5 – 6 m, gấp 4 lần chiều cao của cơ thể) và là phần quan trọng nhất để
tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Ruột non gồm ba phần là tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng. Tá
tràng là nơi nhận dịch tiêu hóa từ gan và tụy. Hồi tràng tiếp giáp với ruột già. Ruột
non cấu tạo gồm ba lớp, ngoài cùng là thanh mạc, lớp giữa là cơ trơn (cơ dọc và cơ vòng)
tạo cử động nhu động đẩy thức ăn. Trong cùng là lớp niêm mạc có nhiều nếp gấp, được bao
phủ bằng lớp nhung mao và vi nhung mao dày đặc làm cho bề mặt hấp thu của ruột
tăng lên. Xen kẽ với các nhung mao còn có rất nhiều tuyến tiết ra chất nhày và dịch ruột.
Dịch ruột có cả ba nhóm enzyme tiêu hóa protein, lipid và glucid. Ngoài ra, còn có hệ
thống thần kinh, mạch máu, mạch bạch huyết phân bố trong các nhung mao để hấp thu các
chất dinh dưỡng.
Hình 3.6. Vị trí của ruột non và ruột già trong ống tiêu hóa
8
+ Ruột già là phần tiếp theo của ruột non và là phần cuối cùng của ống tiêu hóa.
Ruột già gồm ba phần là manh tràng, kết tràng và trực tràng. Manh tràng là phần ruột non
đổ vào qua một van chỉ cho phép các chất đi một chiều từ ruột non đến ruột già mà không
thể đi ngược lại (van hồi – manh), có lỗ thông với ruột thừa. Kết tràng gồm có ba đoạn uốn
cong hình chữ U trong ổ bụng là kết tràng lên (thông với manh tràng), kết tràng ngang và
kết tràng xuống (thông với trực tràng). Trực tràng là nơi tích trữ phân trước khi
thải ra ngoài qua hậu môn. Niêm mạc của ruột già có cấu tạo đơn giản, không tiết ra
dịch tiêu hóa mà chỉ tiết ra chất nhày để bảo vệ niêm mạc của ruột. Niêm mạc ruột già
không tạo thành các nhung mao nhưng lại có hệ vi sinh vật rất phát triển, chủ yếu
là vi khuẩn hoại sinh.
- Gan: nằm ở phía trên hốc bụng bên phải. Gan tiết ra mật, dịch mật được trữ trong
túi mật và chỉ khi tiêu hóa thức ăn, dịch mật mới được chảy vào tá tràng theo cơ chế phản
xạ.Trong dịch mật không có enzyme tiêu hóa, tác dụng tiêu hóa của dịch mật
chủ yếu là vai trò của muối mật. Muối mật có tác dụng tăng cường hoạt động
của các enzyme dịch tụy và dịch ruột. Mật có tác dụng nhũ tương hóa lipid thành
các giọt cực nhỏ, tạo điều kiện cho các enzyme tiêu hóa và hấp thu được.
- Tụy: là một tuyến pha, vừa có chức năng ngoại tiết (tiết enzyme tiêu hóa thức ăn),
vừa có chức năng nội tiết (tiết hormone). Dịch tụy được tiết ra theo cơ chế phản xạ. Ngoài
ra, sự tiết dịch tụy còn phụ thuộc vào loại thức ăn. Trong dịch tụy, có chứa cả ba nhóm
enzyme tiêu hóa protein, lipid và glucid, giúp cho quá trình tiêu hóa hóa học gần như hoàn
tất ở ruột.
Hình 3.7. Vị trí của gan và tụy trong ống tiêu hóa
9
3.2. Cơ chế hấp thu các chất dinh dưỡng
Quá trình hấp thu chất dinh dưỡng diễn ra suốt chiều dài của ống tiêu hóa nhưng
chủ yếu diễn ra tại ruột non.
Chất dinh dưỡng được hấp thu bằng hai con đường: đường mạch máu và đường
mạch bạch huyết.
Chất dinh dưỡng có thể được hấp thụ một cách thụ động, không tiêu hao năng lượng
và tuân theo các quy luật vật lý, hóa học thông thường như cơ chế khuếch tán, thẩm thấu…
Ngoài ra, sự hấp thu các chất dinh dưỡng còn theo cơ chế vận chuyển tích cực ngược
chiều gradient nồng độ, đòi hỏi sự tiêu hao năng lượng, chọn lọc các chất cần thiết, có lợi
cho cơ thể.
10
Các loại thức ăn có tỉ lệ hấp thụ khác nhau. Tỉ lệ chuyển hóa các loại thức ăn còn
phụ thuộc giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Phẩm chất của các loại thức ăn,
cách chế biến, cách ăn uống cũng có vai trò quan trọng trong việc quyết định tỉ lệ hấp thụ
thức ăn.
3.4. Một số bệnh tiêu hóa thường gặp và cách phòng chống bệnh
3.4.1. Viêm loét dạ dày, tá tràng
Là tình trạng xuất hiện một hay nhiều các vết viêm, loét trên bề mặt niêm mạc dạ
dày gây đau đớn cho người bệnh. Đau nóng rát là triệu chứng phổ biến nhất của viêm loét
dạ dày tá tràng.
Đặc trưng của cơn đau là cảm thấy đau bất cứ nơi nào từ rốn đến xương ức từ vài
phút đến vài giờ; đau hơn khi dạ dày trống rỗng; cơn đau giảm bằng cách ăn các loại thực
phẩm nào đó đệm acid dạ dày hoặc bằng cách dùng thuốc giảm acid; cơn đau biến mất và
sau đó trở lại trong một vài ngày hoặc vài tuần.
Nguyên nhân của hầu hết các vết loét là vi khuẩn HP (Helicobacter pylori). Vi
khuẩn HP sống và nhân lên trong lớp niêm mạc bao phủ và bảo vệ các mô đường dạ dày
và ruột non. Đôi khi nó có thể phá vỡ các lớp niêm mạc và viêm niêm mạc dạ dày hoặc tá
tràng, tạo ra loét. Ngoài ra, một số yếu tố nguy cơ gây bệnh viêm loét dạ dày tá tràng:
thường xuyên sử dụng thuốc giảm đau; hút thuốc lá; sử dụng nhiều rượu, bia; căng thẳng,
stress.
11
chứng táo bón là nhịn đại tiện. Ngoài ra, đây cũng là vấn đề thường gặp ở người cao tuổi,
những người ít vận động.
Uống đủ nước là một khuyến nghị nhằm mục đích hạn chế tối đa nguy hại táo bón
ở người già. Duy trì cơ chế ăn có đủ thành phần sở hữu nhiều chủng loại rau lá xanh và
ngũ cốc. Tập thể dục mang đến hiệu quả giúp chống táo bón, những thuốc làm mềm phân,
thuốc thụt tháo và thuốc nhuận tràng hoàn toàn có thể được sử dụng trong trường hợp táo
bón trở nên trầm trọng.
13
- Sử dụng nước sạch trong ăn uống: nước thực sự rất quan trọng trong việc tránh ngộ
độc, sử dụng nguồn nước sạch là bạn đã yên tâm đến 50% trong việc phòng tránh ngộ độc.
Nước sạch phải là nước trong, không có mùi, không có vị lạ. Tuyệt đối không uống nước lã
và lấy nước lã để làm kem, đá. Nước đun sôi 100°C và bảo quản trong tủ lạnh, nếu để bên
ngoài phải có các dụng cụ chứa đảm bảo vệ sinh, kín, không chứa nước vừa đun sôi vào các
bình bằng các chất liệu nhựa, xốp.
- Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ: khi chuẩn bị và nấu nướng, trang phục phải sạch sẽ, tóc
quấn gọn, cắt ngắn móng tay, không hút thuốc, ho hay hắt hơi trong khi nấu nướng. Trước
khi ăn, sau khi chế biến thực phẩm tươi sống, sau khi đi vệ sinh… phải rửa tay bằng xà phòng
và nước sạch. Không tiếp xúc với thực phẩm khi đang bị đau bụng, tiêu chảy, nôn, sốt hay có
biểu hiện của bệnh truyền nhiễm.
- Giữ vệ sinh môi trường: môi trường sống trong lành, sạch sẽ chính là biện pháp lâu
dài phòng chống ngộ độc, bảo vệ sức khỏe. Nên thực hiện các biện pháp diệt côn trùng, gián,
chuột… và thực hiện nghiêm túc các hướng dẫn vệ sinh phòng chống các dịch bệnh theo cơ
sở y tế khuyến cáo. Rác thải phải được đựng vào thùng kín có nắp đậy và bỏ rác phân loại
theo đúng quy định.
3.5.3. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại các trường học ở địa phương
Làm thế nào để vừa bảo đảm được chế độ dinh dưỡng cho học sinh nhưng vẫn kiểm
soát được vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) luôn là bài toán khó trong các trường học có
bếp ăn tập thể. Tuy nhiên, chất lượng ATTP trong các trường học liên quan đến nhiều khâu,
nhiều quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng.Vì vậy, để đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm
là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội.
Để bảo đảm an toàn thực phẩm tại các bữa ăn bán trú, nhà trường cần nâng cao nhận
thức, kiến thức ATTP cho giáo viên, người chế biến thực phẩm trong trường học.
Thực hiện nghiêm túc các quy định của luật an toàn thực phẩm, Chỉ thị số 13/CT-
TTg ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm, Thông tư liên tịch số 13/2016/TTLT-BYT-BGDĐT ngày
12/5/2016 của Bộ GD&ĐT và Bộ Y tế quy định về công tác y tế trường học, Chỉ thị số
4316/CT-BGDĐT ngày 12/10/2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về tăng cường công tác
bảo đảm an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục và các văn bản hiện hành của Bộ
GD&ĐT, Bộ Y tế về bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Thực hiện nghiêm việc niêm yết công khai danh mục nguồn gốc thực phẩm, ký cam
kết bảo đảm ATTP, đồng thời phân công cán bộ, nhân viên theo dõi hàng ngày việc tiếp
nhận thực phẩm, ký giao nhận thực phẩm và kiểm thực 3 bước (kiểm tra trước khi chế biến
14
thức ăn, kiểm tra trong quá trình chế biến thức ăn và kiểm tra trước khi ăn), lưu mẫu thức
ăn.
Ngoài kiểm tra thường xuyên và đột xuất, phải xử lý nghiêm những đơn vị vi phạm,
buộc các trường chấm dứt hợp đồng cung cấp thực phẩm với doanh nghiệp vi phạm về
ATTP.
Bên cạnh đó, phụ huynh cần được tham gia trực tiếp vào việc giám sát. Nhà trường
cần thành lập ban giám sát an toàn, vệ sinh thực phẩm, trong đó phụ huynh là thành phần
của ban và trực tiếp giám sát hàng ngày.
Cần có chế tài xử phạt mạnh với các trường hợp vi phạm ATTP, có cơ chế giám sát
chặt chẽ và sự vào cuộc quyết liệt của các ban, ngành liên quan...
Theo Luật ATTP, việc quản lý ATTP trường học thuộc trách nhiệm của UBND các
cấp. Với cơ sở cung cấp bữa ăn cho trường học có giấy phép kinh doanh thì phải có thêm
giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Với cơ sở không đăng ký kinh
doanh (nhà trường tự nấu và cung cấp suất ăn cho học sinh) thì cần có cam kết với cơ quan
chức năng và phải đảm bảo đủ các điều kiện về nguồn gốc thực phẩm, cơ sở vật chất...
Ngành giáo dục cũng thường xuyên quán triệt các trường về vấn đề đảm bảo ATTP,
trong đó nhấn mạnh đến vai trò giám sát của Ban giám hiệu nhà trường và Ban phụ huynh
trong kiểm soát nguồn gốc thực phẩm.
15
Chương 5. HỆ HÔ HẤP Ở NGƯỜI
Quá trình hô hấp rất cần thiết cho cơ thể vì các tế bào cần cung cấp khí O2 để oxi
hoá các chất tạo ra năng lượng ATP và khí CO2. Nếu không được cung cấp năng lượng
đều đặn, tế bào sẽ không thực hiện được chức năng của mình. Hệ hô hấp thực hiện việc
trao đổi khí và một số chức năng khác.
- Chức năng trao đổi khí: hệ hô hấp đưa oxi từ không khí vào máu và carbonic từ
máu ra không khí. Hệ tuần hoàn vận chuyển oxi từ phổi đến các tế bào và vận chuyển khí
carbonic từ các tế bào của cơ thể đến phổi. Do đó, chức năng trao đổi khí thực hiện được
là do sự phối hợp giữa hệ hô hấp và hệ tuần hoàn.
- Điều hoà pH máu: hệ hô hấp có thể làm thay đổi pH máu bằng cách thay đổi hàm
lượng khí carbonic trong máu.
- Chức năng phát âm: sự chuyển động của không khí qua các nếp gấp thanh quản
đã tạo ra âm thanh và lời nói.
- Chức năng khứu giác: cảm giác về mùi xuất hiện khi các phân tử chất mùi trong
không khí và thức ăn đi vào xoang mũi.
- Chức năng bảo vệ: hệ hô hấp bảo vệ cơ thể chống lại một số vi sinh vật khi chúng
xâm nhập vào cơ thể bằng cách đưa chúng ra khỏi bề mặt cơ quan hô hấp.
16
Xoang mũi là cửa ngõ của đường hô hấp là một xoang rỗng được ngăn cách với
xoang miệng bằng khẩu cái. Vách ngăn chia xoang mũi thành hai phần, gọi là hai hố mũi.
Ở vùng ngoài của hố mũi, trên bề mặt của niêm mạc có nhiều lông nhỏ, có tác dụng ngăn
cản, không cho các vật nhỏ và các hạt bụi lớn lọt vào trong mũi. Bên trong lớp niêm mạc
là hệ thống mao mạch dày đặc, có tác dụng sưởi ấm và toả hơi nước làm ẩm không khí.
Xen kẽ với các tế bào niêm mạc còn có các tuyến tiết ra dịch nhày, có tác dụng như một
hệ thống lọc không khí trước khi đưa vào phổi và có khả năng ngăn cản, tiêu diệt vi khuẩn.
Nhờ có cấu tạo như vậy mà khi thở, không khí đi qua xoang mũi với tốc độ chậm và bị xáo
trộn nên đã được lọc sạch, làm ẩm và sưởi ấm.
Trong xoang mũi còn có các cơ quan thụ cảm khứu giác, giúp cơ thể cảm nhận được
các mùi. Khi ngửi thấy một mùi khó chịu thì có thể xuất hiện phản xạ ngừng thở tạm thời
hoặc hắt hơi. Nếu không khí không được trong sạch có thể bị viêm xoang. Ngoài ra, mũi
cũng thông với mắt thông qua một ống nhỏ để nước mắt tiết ra hàng ngày có thể chảy
xuống mũi, góp phần làm ẩm không khí hít vào.
Hầu là ngã tư giao nhau của đường tiêu hoá và đường hô hấp. Phần dưới của hầu
chia thành hai ống: ống phía sau dẫn thức ăn xuống thực quản và ống phía trước dẫn không
khí xuống thanh quản. Hai bên thành của hầu có các
tuyến hạnh nhân (amidan), là
nơi tập trung các lympho bào có khả năng tiêu diệt vi khuẩn.
Thanh quản vừa là đường dẫn khí, vừa là cơ quan phát âm. Nắp thanh quản đậy
đường vào thanh quản khi nuốt thức ăn. Lối đi qua giữa các dây thanh âm gọi là khe thanh
môn. Thanh quản chỉ phát tiếng khi thở ra. Khi thanh quản bị viêm thì giọng trở nên khàn
khàn, khản tiếng hoặc mất tiếng. Ở trẻ dưới 6 tuổi, khe thanh môn ngắn và hẹp nên giọng
của trẻ thường cao. Trước tuổi dậy thì, cấu tạo thanh quản của trẻ em nam và trẻ em nữ
tương đối giống nhau nên giọng nói không khác nhau nhiều. Đến tuổi dậy thì, sự phát triển
thanh quản của các em nam và nữ khác nhau nên giọng nói của các em nam trở nên trầm
và vang, còn giọng nói của các em nữ trở nên cao và trong.
Khí quản là phần nối tiếp với thanh quản và nằm phía trước thực quản. Khí quản là
một ống dài gồm 20 vành sụn hình chữ C. Sụn chiếm ¾ phía trước của khí quản, còn ¼
phía sau, chỗ tiếp giáp với thực quản là màng liên kết, nên có thể lõm vào mỗi khi nuốt
thức ăn. Mặt trong của khí quản được lót bằng lớp niêm mạc với các tế bào có tiêm mao.
Trong lớp niêm mạc của khí quản có những tế bào tuyến tiết dịch nhày, có tác dụng làm
dính các hạt bụi nhỏ và các vi sinh vật theo không khí đi vào để các bạch cầu đến tiêu diệt
và làm giảm độc tố của chúng, có tác dụng bảo vệ đường hô hấp. Khói thuốc lá có khả
năng làm cho các tiêm mao trong khí quản bị tê liệt, không cử động được và làm cho khí
quản tiết nhiều dịch nhày quánh đặc có thể gây viêm. Khi vào đến xoang ngực thì khí quản
chia làm hai nhánh đi vào hai lá phổi, được gọi là phế quản gốc. Khi đến phổi, các phế
17
quản gốc tiếp tục phân nhánh để tạo thành các tiểu phế quản, cuối cùng phân thành các phế
quản tận. Phế quản tận tiếp tục phân nhánh để tạo thành các ống túi phổi nối liền với các
phế nang.
Phổi là bộ phận chủ yếu của hệ hô hấp, nằm trong lồng ngực và chiếm khoảng 4/5
thể tích lồng ngực. Phổi có hình nón, gồm lá phổi bên phải và bên trái, trong đó lá phổi bên
phải lớn hơn lá phổi bên trái. Phổi được hai màng áp sát nhau bao bọc và khép kín tạo nên
xoang màng phổi. Nhờ có khả năng đàn hồi của mô phổi và sự chênh lệch áp suất giữa
không khí phía trong phổi và xoang màng phổi nên nó luôn ở trạng thái giãn căng. Khi
lồng ngực bị thủng, không khí tràn vào xoang màng phổi, làm cho áp lực âm tính phế mạc
không còn nữa, nên phổi bị xẹp xuống và không thể thực hiện được chức năng trao đổi khí.
Các phế nang xếp thành từng chùm trông giống như chùm nho, ở người lớn khoảng
600 – 700 triệu phế nang. Thành của phế nang rất mỏng, chứa nhiều sợi đàn hồi, nên phế
nang có thể phồng lên, xẹp xuống một cách dễ dàng. Bao quanh phế nang là hệ thống mao
mạch dày đặc, đảm bảo trao đổi khí được thuận lợi.
18
Thở ra thông thường là một động tác thụ động, không đòi hỏi năng lượng co cơ.
Khi thở ra gắng sức, các cơ liên sườn trong co cùng với sự tham gia của các cơ hạ
sườn, các xương sườn hạ xuống thấp hơn, xích lại gần nhau hơn, thể tích lồng ngực giảm
theo chiều ngang và chiều trước sau nhiều hơn, lượng khí từ phổi được đẩy ra nhiều hơn.
Như vậy, thở ra gắng sức là một động tác tích cực nên phải tiêu hao năng lượng.
Nhờ sự chênh lệch phân áp của các loại khí giữa phế nang và mao mạch
phổi nên quá trình trao đổi khí ở phổi chủ yếu diễn ra theo cơ chế khuếch tán từ phế nang
vào máu. Áp suất CO2 trong mao mạch phổi là 46 mmHg còn trong phế
nang là 40 mmHg, nên CO2 khuếch tán từ mao mạch phổi vào phế
nang.
Ở mô, O2 khuếch tán từ mao mạch vào trong các tế bào còn
CO2 khuếch tán từ tế
bào vào mao mạch.
19
Hình 5.4. Quá trình trao đổi khí ở mô và ở phổi
20
Khí dự trữ thở ra (ERV – Expiratory reserve volume) là lượng khí sau khi đã thở ra
thông thường rồi thở ra hết sức.
Khí cặn (RV – Residual volume) là lượng khí còn lại sau khi đã thở ra hết sức. Nó
đảm bảo cho phổi không bị xẹp xuống hoàn toàn vì trong phổi vẫn còn tồn tại một lượng
khí.
Dung tích sống (VC – Vital capacity) là lượng khí sau khi đã hít vào tận lực rồi thở
ra hết sức. Như vậy, dung tích sống bao gồm khí lưu thông, khí dự trữ hít vào và khí dự
trữ thở ra.
Hình 5.5. Đồ thị thay đổi dung tích phổi khi hô hấp
5.4. Điều hoà hoạt động hô hấp
Hoạt động hô hấp được điều hoà theo cơ chế thần kinh – thể dịch. Các trung khu hô
hấp hưng phấn tự động theo chu kì, đảm bảo cho các động tác hô hấp xảy ra nhịp nhàng.
Vỏ não có thể tạo ra các hoạt động hô hấp tuỳ ý, nên con người có thể chủ động nín thở,
thở nhanh, thở chậm trong một khoảng thời gian nhất định.
Điều hoà hoạt động hô hấp bằng cơ chế thể dịch chủ yếu dựa vào sự chênh lệch áp
suất từng phần của O2 và CO2. Điều hoà thể dịch chính là sự điều chỉnh áp suất của O2 và
CO2 thông qua các cơ quan thụ cảm hoá học nằm ở cung động mạch chủ và xoang động
mạch cảnh.
5.5. Thở đúng cách và một số biện pháp phòng tránh các tác nhân từ môi trường sống
Thở đúng cách là thở bằng mũi, hít vào phải ngắn hơn thở ra.
Vệ sinh hô hấp rất quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao sức khoẻ và đảm bảo sự
thích nghi với các hoạt động, nhất là những hoạt động tiêu tốn nhiều năng lượng như tập
thể dục, thể thao… Trong trường hợp hô hấp không đúng có thể dẫn đến mắc một số bệnh
21
làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động và sức khoẻ. Luyện tập hô hấp đòi hỏi phải giữ cho
lồng ngực ở trạng thái tự do khi thực hiện các cử động hô hấp, tránh đè ép và các cử động
cơ học khác ảnh hưởng đến kích thước tự nhiên của lồng ngực. Tập thể dục thường xuyên
và rèn luyện thể lực đúng phương pháp nhằm nâng cao thể tích lồng ngực, tạo nhịp thở đều
và giúp cơ thể tăng tính dẻo dai khi hoạt động. Việc rèn luyện hô hấp cần phải được làm
theo mức độ tăng dần trong giới hạn sinh lý đặc trưng cho từng lứa tuổi và từng
cơ thể.
Không nên la hét, nói to trong điều kiện độ ẩm không khí cao, lạnh và nhiều bụi vì
các yếu tố trên có thể tác động không tốt đến hệ hô hấp. Tránh tiếp xúc với những thay đổi
đột ngột về nhiệt độ như ăn kem hay uống nước lạnh, tiếp xúc với không khí quá lạnh khi
vừa tắm nóng. Nhà ở và nơi học tập phải đảm bảo vệ sinh, tránh bị ô nhiễm môi trường.
Một số khí thải sinh hoạt và khí thải công nghiệp, khí thải của các phương tiện giao thông
như ô tô, xe máy, khói thuốc lá gây viêm lớp niêm mạc, cản trở trao đổi khí và với liều
lượng cao có thể gây tử vong.
55
20 năm nghiện thuốc thì tần số bị ung thư phổi nhiều gấp 20 lần so với người không hút
thuốc. Người không hút thuốc nhưng thường xuyên hít thở phải khói thuốc cũng dễ bị ung
thư phổi.
56
Có nhiều phương pháp hô hấp nhân tạo như phương pháp nằm sấp, phương pháp
nằm ngửa, phương pháp tác động vào cơ hoành, phương pháp hà hơi thổi ngạt. Tuy nhiên,
dù phương pháp nào cũng phải đảm bảo lượng không khí ra, vào phổi vượt gấp 2 lần dung
tích của đường dẫn khí thì mới đạt hiệu quả.
57
Chương 4. MÁU VÀ HỆ TUẦN HOÀN CỦA CƠ THỂ
NGƯỜI
Các hệ đệm trong máu giữ cho máu có pH ổn định trong khoảng từ 7,35
– 7,45. Máu còn điều hoà cân bằng nước và các muối khoáng nên duy trì áp suất thẩm
58
thấu môi trường nội môi luôn ổn định.
4.1.5. Chức năng điều hoà nhiệt
Máu tham gia điều hoà thân nhiệt, đặc biệt là ở những động vật đẳng nhiệt. Duy trì
sự ổn định nhiệt độ bên trong cơ thể và thích ứng với nhiệt độ môi trường ngoài là chức
năng quan trọng của máu thông qua sự lưu thông phân phối máu trên toàn cơ thể.
4.2. Các thành phần của máu và chức năng của mỗi thành phần
Máu là một mô lỏng có màu đỏ, vị mặn, được hình thành cùng với hệ mạch. Mô
máu bao gồm dịch ngoại bào (huyết tương) và các tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu).
4.2.1. Huyết tương (Plasma)
Huyết tương là phần dịch lỏng của máu. Nếu ly tâm máu hoặc để máu lắng đọng thì
lớp trên có màu vàng nhạt là huyết tương, lớp dưới có màu đỏ là các tế
bào máu.
59
Trong huyết tương, nước chiếm khoảng 90 – 92%, protein chiếm khoảng 7,5%,
glucid chiếm khoảng 0,12%, lipid chiếm khoảng 0,5 – 1% và muối khoáng chiếm khoảng
1%.
Huyết tương chứa các loại protein như albumin (duy trì áp suất
thẩm thấu), globulin (chức năng vận chuyển và miễn dịch), fibrinogen
(có vai trò quan trọng trong quá trình đông máu).
Glucid tồn tại trong máu chủ yếu ở dạng glucose và có hàm lượng ổn định ở mức
0,12%. Nếu lượng glucose tăng quá 0,18% thì thận sẽ không thể
tái hấp thu hoàn toàn glucose và gây ra bệnh tiểu đường.
Lipid tồn tại trong máu chủ yếu ở dạng kết hợp với protein tạo thành các hợp chất
hoà tan.
Các thành phần vô cơ của huyết tương gồm các nguyên tố hoá học như natri (Na),
canxi (Ca), kali (K), magiê (Mg), kẽm (Zn), đồng (Cu), phốt pho (P), lưu huỳnh (S)… Các
nguyên tố có trong huyết tương thường tồn tại dưới dạng muối, chủ yếu là muối cloride,
phosphate, sulphate. Trong đó, quan trọng nhất là muối Natri clorid (NaCl), chiếm khoảng
0,9%.
Chức năng của huyết tương bao gồm:
- Là dung dịch tạo thành dòng chảy trong hệ mạch, tạo điều kiện cho các tế bào máu
như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu di chuyển.
- Là dung môi hoà tan các chất hữu cơ và vô cơ nên thực hiện chức năng vận chuyển.
- Đảm bảo áp suất thẩm thấu và giữ cho độ pH của máu ổn định.
- Fibrinogen tham gia vào quá trình đông máu.
- Một số loại protein trong huyết tương tham gia vào cơ chế miễn dịch của cơ thể.
60
và các ion nhưng một số chất khác không qua được.
Thành phần quan trọng nhất của hồng cầu là hemoglobin (Hb). Mỗi phân tử
hemoglobin gồm 4 hem (4%) và 4 globin (96%). Globin gồm 4 chuỗi
polypeptide, mỗi chuỗi gắn với 1 hem là sắc tố màu đỏ, được tạo thành từ hai thành
phần là protoporphyrine và sắt (Fe2+) nằm ở trung tâm. Mỗi nguyên tử sắt có thể gắn
với 1 phân tử oxygen. Một phân tử hemoglobin chứa 4 nguyên tử sắt nên nó có khả
năng liên kết với 4 nguyên tử oxygen. Phân tử globin có khả năng vận chuyển CO2 và
NO (nitric oxide). Số lượng sắt có trong hồng cầu chiếm tới 65% tổng số sắt của toàn
bộ cơ thể.
Hình 4.1. (a) Hình dạng hồng cầu; (b) Cấu trúc phân tử Hemoglobin;
(c) Cấu tạo hóa học của nhân Hem
Hồng cầu non được sinh ra trong tuỷ đỏ của xương trong các tế bào gốc đa năng.
Thời gian sống trung bình của hồng cầu là khoảng 120 ngày. Quá trình sản sinh hồng cầu
được kích thích bởi erythropoietin, chất này do thận sản xuất khi hàm lượng hồng cầu giảm.
Ở nam giới, trung bình có khoảng 5,4 triệu hồng cầu/mm3 máu, trong khi ở phụ nữ trung
bình có khoảng 4,8 triệu hồng cầu/mm3 máu.
Cứ mỗi phút có khoảng 150 triệu hồng cầu già bị tiêu huỷ. Hồng cầu già bị thực bào
bởi các đại thực bào ở gan, lách và tuỷ xương. Khi hồng cầu bị tiêu huỷ, lượng
globin và sắt được tuỷ xương thu hồi để sản xuất hồng cầu mới. Các phân tử
hem bị biến đổi thành bilirubin có màu vàng và giải phóng sắt để sử dụng lại. Bilirubin
theo máu đến gan, được gan tiết vào mật và vào ruột non rồi theo phân ra ngoài, hoặc được
hấp thu lại vào máu, chuyển đến thận để bài tiết ra ngoài theo nước tiểu. Do đó, phân và
nước tiểu thường có màu vàng. Khi gan không bình thường thì bilirubin bị tích tụ trong huyết
tương gây ra hiện tượng vàng da, vàng mắt.
Chức năng chính của hồng cầu là vận chuyển khí O2 từ phổi đến các mô và vận
61
chuyển khí CO2 từ các mô đến phổi để thải ra ngoài.
4.2.2.2. Bạch cầu
Bạch cầu là những tế bào không có hình dạng nhất định, không màu, có nhân. Bạch
cầu bảo vệ cơ thể chống lại vi sinh vật, loại bỏ các tế bào chết và các mảnh vỡ. Số lượng
bạch cầu trong máu khoảng 6.000 – 8.000 tế bào/mm3. Số lượng này có thể thay đổi tuỳ
trạng thái cơ thể, tăng lên sau khi ăn, khi lao động và khi bị nhiễm khuẩn. Sự tăng giảm
bạch cầu liên quan đến các trạng thái bệnh lý. Khi bị nhiễm phóng xạ, nhiễm độc, suy tuỷ
thì bạch cầu giảm.
Thời gian sống của bạch cầu rất ngắn, khoảng 6 – 8 giờ ở trong máu, sau đó xuyên
qua mạch máu vào các mô và ở đó khoảng 2 – 3 ngày. Riêng bạch cầu lympho có khả năng
sống được 100 – 300 ngày.
Bạch cầu thường được sinh ra từ các tế bào gốc trong tuỷ đỏ xương. Bạch cầu
thường bị chết nếu chúng di chuyển ra bề mặt của niêm mạc và bị chết rất nhiều khi bị
bệnh viêm đường hô hấp, viêm mủ. Phần lớn thành phần của mủ là do xác bạch cầu chết
tạo thành.
Có 5 loại bạch cầu:
- Bạch cầu đa nhân trung tính là những tế bào thực bào nhỏ, có thể tiết ra lysozyme
để tiêu diệt vi khuẩn.
- Bạch cầu ưa acid có chức năng giảm viêm, chúng tiết ra các enzyme để phân giải
các chất độc và tiết ra một số chất để tiêu diệt các ký sinh trùng (sán dây, sán lá, giun
móc…).
- Bạch cầu ưa kiềm sản xuất ra histamin để chống viêm và heparin để ức chế quá
trình đông máu.
- Bạch cầu lympho rất quan trọng trong hệ miễn dịch. Bạch cầu
lympho có hai loại là bạch cầu lympho B và bạch cầu lympho T.
+ Bạch cầu lympho B sản xuất ra các kháng thể để tiêu diệt vi
khuẩn.
+ Bạch cầu lympho T chống lại sự xâm nhập của virus và phá
huỷ các tế bào khối u và mô ghép.
- Bạch cầu mono có khả năng thực bào và nó lớn dần lên nên còn được gọi là đại
thực bào, có khả năng kích thích bạch cầu lympho sản xuất ra kháng thể.
62
Hình 4.2. Các loại bạch cầu
63
Tiểu cầu là những mảnh vỡ tế bào được tách ra từ các tế bào khổng lồ trong tuỷ
xương, có hình dáng không ổn định và không có nhân. Trong 1 mm3 máu có khoảng
250.000 – 400.000 tiểu cầu. Tiểu cầu chỉ sống được từ 5 – 9 ngày.
Tiểu cầu đóng vai trò quan trọng trong quá trình đông máu, giúp chống mất máu.
Tiểu cầu kết dính vào các sợi collagen ở các mô bị tổn thương và bịt kín các vết thương.
Đồng thời khi tiểu cầu vỡ đã giải phóng chất thromboplastin giúp hình
thành cục máu đông làm giảm mất máu.
Quá trình đông máu gồm ba giai đoạn: Đầu tiên là giải phóng
thromboplastin, sau đó thromboplastin đã hoạt hoá prothrombin
thành thrombin, cuối cùng thrombin hoạt hoá fibrinogen thành fibrin
không hoà tan, fibrin hình thành các cục máu đông.
Một số chất ức chế quá trình đông máu như heparin và antithrombin ức chế hoạt
động thrombin và fibrinogen nên không thể hình thành cục máu đông. Prostacylin chống
lại các tác động của thrombin. Có 13 yếu tố tham gia quá trình đông máu.
Nhóm máu A B AB O
Ngưng kết nguyên A B A, B -
Ngưng kết tố β α - α, β
Tỷ lệ giữa các nhóm máu trên các quần thể người phân bố không đều. Kết quả
nghiên cứu trên người Việt Nam cho thấy người Kinh có:
- Nhóm máu O : 48,35%.
- Nhóm máu A : 19,46%.
- Nhóm máu B : 27,94%.
64
- Nhóm máu AB : 4,24%.
Ngoài ra, còn có nhóm máu Rhesus là Rh+ và Rh–. Nhóm máu Rh+ có kháng nguyên
Rh, trong khi nhóm máu Rh– không có kháng nguyên. Người có nhóm máu Rh– khi tiếp
xúc với máu Rh+ sẽ tạo kháng thể chống Rh+. Nhóm máu Rh là nguyên nhân gây ra hiện
tượng tiêu huyết ở trẻ sơ sinh. Ở Việt Nam, tỷ lệ người có nhóm máu Rh+ là 99,93% và
Rh– là 0,07%.
Nguyên tắc truyền máu: Ngưng kết tố của người nhận không
làm ngưng kết hồng cầu của người cho.
Sơ đồ truyền máu:
65
Hình 4.3. Sự khác nhau giữa các nhóm máu trong hệ máu ABO
66
Hình 4.4. Vị trí của tim
b. Các buồng tim và van tim
Tim có bốn ngăn rỗng: hai tâm nhĩ ở trên và hai tâm thất ở dưới. Hai tâm nhĩ ngăn
cách với nhau bởi vách liên nhĩ và hai tâm thất ngăn cách với nhau bởi vách liên thất. Do
đó, tim được chia thành hai phần riêng biệt trái và phải.
Có các van tim bao gồm:
- Van 2 lá: ngăn thông nằm giữa tâm thất trái và tâm nhĩ trái. Van 2 lá mở ra cho
phép máu đi một chiều từ nhĩ trái xuống thất trái và đóng lại khi dòng máu được bơm từ
thất trái qua van động mạch chủ vào động mạch chủ để đưa máu đi nuôi toàn cơ thể. Việc
đóng lại này ngăn không cho máu đi ngược vào lại tâm nhĩ.
- Van 3 lá: ngăn thông nằm giữa tâm nhĩ phải và tâm thất phải của tim. Van ba lá
mở ra cho máu đi một chiều từ nhĩ phải xuống thất phải và đóng lại khi dòng máu được
bơm từ thất phải qua van động mạch phổi vào động mạch phổi đưa máu lên phổi để trao
đổi O2.
- Van động mạch phổi: gồm có ba van nhỏ hình tổ chim ngăn thông nằm giữa tâm
thất phải và động mạch phổi. Khi van động mạch phổi hở sẽ khiến van tim này không khép
kín, máu bị chảy ngược về tim, làm cho hiệu suất trao đổi oxi của cơ thể bị giảm sút.
- Van động mạch chủ: ngăn thông nằm giữa tâm thất trái và động mạch chủ. Bình
thường van động mạch chủ gồm 3 lá van thanh mảnh đóng mở nhịp nhàng theo hoạt động
của tim cho phép dòng máu chạy theo một chiều từ tâm thất trái ra động mạch chủ. Khi
van động mạch chủ bị hở thì tình trạng van đóng không kín làm một phần lượng máu sau
khi được bơm vào động mạch chủ chảy ngược lại tâm thất trái.
67
Hình 4.5. Cấu tạo giải phẫu của tim
c. Mạch vành tim
Các tế bào ở tim nhận oxi và chất dinh dưỡng bởi các mạch máu riêng đi vào thành
tim. Hai động mạch vành là động mạch vành phải và mạch vành trái từ gốc động mạch chủ
đi vào hai nửa của tim.
Khi động mạch vành bị xơ vữa do cholesterol tích tụ gây cản trở cho lưu thông của
máu, có thể dẫn đến hiện tượng thiếu máu cục bộ, nhồi máu cơ tim…
Một chu kỳ tim bao gồm tất cả các hoạt động xảy ra trong một
nhịp tim. Trung bình,
tim đập khoảng 70 lần/ phút.
69
Chu kỳ tim được chia ra thành 3 giai đoạn: tâm nhĩ thu (0,1 s), tâm
thất thu (0,30 s)
và tâm nhĩ, tâm thất trương (0,40 s).
Tiếng tim tạo ra là do đóng mở các van tim.
Quá trình hoạt động của tim được điều hòa bởi trung khu điều
hòa tim mạch ở hành tủy và hệ thần kinh tự chủ (giao cảm và phó giao
cảm).
70
b. Tĩnh mạch
- Tĩnh mạch được bắt nguồn từ các mao mạch, các tĩnh mạch thường song song với
các động mạch và gồm một số tĩnh mạch chính (tĩnh mạch phổi, tĩnh mạch tim, tĩnh mạch
chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới).
- Đa số tĩnh mạch nằm nông, gần bề mặt cơ thể hoặc nằm ở dưới da nên có thể dễ
dàng nhìn thấy bằng mắt thường.
- Nhìn chung, tĩnh mạch có cấu tạo giống như động mạch nhưng thành mạch mỏng
hơn. Lòng tĩnh mạch thường có đường kính lớn hơn lòng của động mạch tương đương. Do
vậy, tốc độ của dòng máu chảy trong tĩnh mạch là chậm hơn so với trong lòng của động
mạch.
c. Mao mạch: là các mạch máu nhỏ nhất, có chức năng dẫn máu từ các động mạch
sang các tĩnh mạch, chỉ vừa đủ để cho một hồng cầu đi lọt. Mao mạch là nơi diễn ra các
quá trình trao đổi chất giữa máu và các dịch kẽ. Thành của mao mạch rất mỏng gồm một
lớp tế bào.
71
4.5.2. Miễn dịch bẩm sinh
Miễn dịch bẩm sinh là khả năng của con người sẽ không mắc một số bệnh do các
loại vi khuẩn gây bệnh không còn có khả năng để sinh sản và phát triển trong cơ thể của
con người hay động vật.
Ví dụ: con người không mắc các bệnh dịch hạch của động vật có sừng, bệnh dịch tả
của lợn, bệnh sốt ho của chó…
Miễn dịch bẩm sinh giúp cho con người có thể chống lại được một số bệnh đặc
trưng cho loài và đó là kết quả của sự phát triển chủng loại.
Miễn dịch bẩm sinh gồm có các dạng chủ yếu sau:
- Bạch cầu (bạch cầu trung tính, bạch cầu mono và các đại thực bào) thực bào các
vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh của chúng khi đã xâm nhập vào cơ thể.
- Phản ứng của da với các loại vi khuẩn hay các vật lạ khi xâm nhập vào cơ thể
người.
- Một số chất hóa học đã có ở trong máu có thể phân hủy các sinh vật lạ, các độc tố
của chúng khi xâm nhập và cơ thể.
- Dịch vị có độ acid cao và các enzyme tiêu hóa có thể có tác dụng phân hủy các
sinh vật khi đã nuốt vào ống tiêu hóa theo thức ăn.
72
4.5.4. Tiêm chủng
Tiêm chủng là nhằm mục đích gây ra sự miễn dịch tập nhiễm cho cơ thể để chống
lại một số bệnh đặc hiệu như:
- Có thể tiêm vào cơ thể những vi khuẩn đã chết, không còn khả năng để gây ra bệnh
tật nhưng vẫn còn tính kháng nguyên nhất định. Loại này dùng để phòng chống một số
bệnh như thương hàn, ho gà, bạch hầu…
- Có thể dùng những độc tố của các vi sinh vật đã được xử lý nhưng vẫn còn tính
kháng nguyên để gây ra sự miễn dịch như chống uốn ván và những bệnh nhiễm độc khác…
- Có thể sử dụng các vi sinh vật đã làm giảm các hoạt lực của nó nhưng vẫn còn
mang các kháng nguyên đặc hiệu để tiêm chủng. Phương pháp này được dùng để tiêm
chủng các bệnh như bại liệt, sốt vàng và một số bệnh virus khác.
4.6. Một số bệnh về máu, tim mạch và cách phòng chống các bệnh
4.6.1. Bệnh lý máu lành tính
4.6.1.1. Thiếu máu thiếu sắt
Thiếu máu thiếu sắt là một dạng bệnh thiếu máu khi cơ thể không có đủ lượng sắt
cung cấp hồng cầu cần thiết. Thiếu máu thiếu sắt thường gặp ở phụ nữ có thai hoặc trẻ em
trong độ tuổi dậy thì.
Người bị thiếu máu thiếu sắt sẽ có biểu hiện như người xanh xao, nhợt nhạt; cơ thể
mệt mỏi; lưỡi nhợt hoặc nhẵn, mòn gai lưỡi; móng tay, móng chân khô; tóc khô, dễ gãy;
thường xuyên bị chóng mặt, hoa mắt, người quay cuồng nhất là khi thay đổi tư thế; giảm
năng suất lao động thể lực và trí lực…
Cách phòng tránh bệnh thiếu máu thiếu sắt: Có chế độ ăn uống hợp lý, cân bằng các
thực phẩm hàng ngày để cung cấp đủ lượng sắt cho cơ thể. Nên ăn các loại thực phẩm có
nhiều sắt như các loại hạt, ngũ cốc, đậu phụ, lòng đỏ trứng, các loại thịt màu đỏ, các loại
rau màu xanh đậm... Uống nhiều nước cam, nước chanh để tăng khả năng hấp thụ sắt. Phụ
nữ có thai nên bổ sung sắt trong suốt thai kỳ. Nuôi con bằng sữa mẹ vì trong sữa mẹ chứa
nhiều sắt dễ hấp thu. Trường hợp nuôi con bằng sữa bột cần chọn loại có chứa đủ sắt hoặc
bổ sung thêm sắt cho trẻ.
73
sẽ bị giảm khả năng lao động và sinh hoạt gây nên những gánh nặng cho gia đình và cộng
đồng.
Với các biện pháp xét nghiệm, tư vấn tiền hôn nhân. Các cặp vợ chồng chuẩn bị có
thai hoặc đang mang thai, đặc biệt các gia đình đã có bệnh nhân Thalassemia nên được tư
vấn và chẩn đoán tiền hôn nhân. Tư vấn di truyền trước hôn nhân với mục tiêu kiểm soát
sinh con giữa hai người cùng mang gen bệnh.
74
- Yếu tố di truyền: một số người mắc bệnh rối loạn sinh tủy có một nhiễm sắc thể
bất thường rút ngắn được gọi là nhiễm sắc thể Philadelphia.
- Yếu tố môi trường: rối loạn sinh tủy có thể là hậu quả do tiếp xúc quá nhiều với
bức xạ, hệ thống dây điện hoặc hóa chất.
75
vào thành mạch (gọi là mảng xơ vữa) gây hẹp lòng mạch, cản trở dòng máu lưu thông. Đó
gọi là bệnh xơ vữa mạch máu.
Xơ vữa mạch máu là quá trình diễn biến từ từ, bắt đầu ngay từ tuổi trẻ. Độ tuổi xảy
ra các biến cố liên quan đến xơ vữa động mạch đang dần bị trẻ hóa. Nguyên nhân chính
xác gây ra bệnh vẫn còn chưa được biết rõ nhưng người ta đã biết được nhiều yếu tố góp
phần vào sự hình thành mảng xơ vữa mạch máu. Một số tác nhân có thể gây tổn thương
nội mạc mạch máu như cao huyết áp, mức độ lipid cao trong máu, hút thuốc lá, đường
huyết cao.
76
4.6.3.6. Suy tim
Suy tim là tình trạng bệnh lý do tim bị yếu đi và không thể hoàn thành được chức
năng bơm máu đi nuôi cơ thể một cách bình thường được. Bệnh nhân suy tim luôn phải
đối mặt với những biến cố tim mạch.
Mức độ suy tim của người bệnh được đánh giá dựa trên triệu chứng cơ năng và khả
năng vận động gắng sức, chia làm bốn cấp độ từ 1 đến 4.
Hầu hết các vấn đề về tim mạch có thể được điều trị bằng thuốc, can thiệp hay phẫu
thuật sửa chữa, thay thế. Tùy vào nguyên nhân và các triệu chứng của bệnh (mệt mỏi, khó
thở, đau tức ngực), bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp với bạn. Để phòng
ngừa bệnh, cần giữ cho cơ thể luôn khỏe mạnh, khi mệt phải đi kiểm tra tim mạch ngay,
không làm việc quá sức, không để nhiễm hóa chất.
77
Chương 6. HỆ BÀI TIẾT Ở
NGƯỜI
6.1. Cấu tạo và chức năng từng phần của hệ bài tiết
Hoạt động bài tiết là đào thải các sản phẩm cuối cùng của quá trình trao đổi chất
như khí CO2, urea, uric acid, ammonia, nước, muối khoáng ra khỏi cơ thể để duy trì cân
bằng nội môi. Đây là khâu cuối cùng của quá trình trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường.
Ở người, cơ quan bài tiết nước tiểu gồm 2 quả thận, 2 niệu quản, bàng quang và niệu đạo.
78
Hình 6.2. Cấu tạo giải phẫu của thận
Trong vùng vỏ thận có các đơn vị thận (nephron) thực hiện chức năng lọc máu để
tạo thành nước tiểu. Mỗi quả thận có khoảng 1 triệu đơn vị thận. Mỗi đơn vị thận gồm có
cầu thận, ống thận và hệ thống mao mạch.
Cầu thận gồm có nang Bowman và quản cầu Malpighi. Nang Bowman là một
khoang rỗng bao bọc quản cầu và thông với ống thận. Quản cầu Malpighi là một búi
hình cầu gồm khoảng 50 mao mạch nằm gọn trong nang Bowman và nhận máu từ
tiểu động mạch. Ống thận chạy từ nang Bowman đến ống góp nước tiểu, bao gồm ống
lượn gần, quai Henle và ống lượn xa. Ống góp nước tiểu nhận nước tiểu từ các đơn vị
thận đổ tới. Nhiều ống góp nhỏ đổ vào ống góp chung và nhiều ống góp chung chụm
đầu lại tạo thành “bó tháp thận” để đổ nước tiểu vào bể thận.
Động mạch thận xuất phát từ động mạch chủ bụng đi vào thận rồi phân nhỏ dần và
có nhánh đến từng đơn vị thận, gọi là động mạch đến rồi phân thành các nhánh mao mạch
trong quản cầu Malpighi. Sau đó, các mao mạch của quản cầu tập hợp lại thành động mạch
đi để ra khỏi quản cầu. Khi đã ra khỏi quản cầu, động mạch đi lại phân thành mạng lưới
mao mạch dày đặc bao quanh suốt chiều dài của hệ thống ống thận để thực hiện nhiệm vụ
tái hấp thu các chất cần thiết cho cơ thể rồi tập trung thành tĩnh mạch nhỏ và đổ vào tĩnh
mạch thận. Tĩnh mạch thận đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.
79
Hình 6.3. Cấu tạo đơn vị thận (nephron)
80
Thận là cơ quan bài tiết chính của cơ thể. Da, gan, phổi và ruột cũng có khả năng
loại bỏ một số chất thải, nhưng nếu thận không hoạt động, các cơ quan này không thể đảm
đương đầy đủ chức năng bài tiết. Các chức năng của thận bao gồm:
- Chức năng lọc máu: chỉ có protein và các tế bào máu được giữ lại trong máu nên
dịch lọc ban đầu có thể tích rất lớn. Phần lớn thể tích dịch lọc được tái hấp thu trở lại máu
cùng với các phân tử hữu ích và các ion. Một lượng nhỏ nước, chất thải của trao đổi chất,
các phân tử độc hại và các ion dư thừa vẫn còn trong dịch lọc. Các chất thải khác được tiết
ra vào dịch lọc và kết quả là sự hình thành nước tiểu.
- Chức năng điều hoà thể tích máu: thận đóng một vai trò quan trọng trong việc
kiểm soát khối lượng dịch ngoại bào trong cơ thể bằng cách sản xuất nhiều hoặc ít lượng
nước tiểu. Khi uống nhiều nước thì lượng nước tiểu tăng lên và ngược lại.
- Chức năng điều hoà nồng độ các chất hoà tan trong máu: thận giúp điều hoà nồng
độ các ion chính như Na+, Cl-, K+, Ca2+ và HPO42-.
- Chức năng điều hoà độ pH của dịch ngoại bào: thận bài tiết một lượng ion H+
giúp điều hoà pH của dịch ngoại bào.
- Chức năng điều hoà quá trình tổng hợp các tế bào máu: thận tiết ra hormone
erythropoietin có chức năng điều hoà quá trình tổng hợp các tế bào máu ở tuỷ xương.
- Chức năng tổng hợp vitamin D: thận đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát
hàm lượng ion Ca2+ trong máu thông qua việc điều hoà tổng hợp vitamin D.
6.1.3. Cấu tạo và chức năng của đường dẫn nước tiểu
Có 2 niệu quản dẫn nước tiểu từ 2 quả thận xuống bàng quang. Thành của niệu quản
gồm 3 lớp (ngoài cùng là lớp màng liên kết, giữa là các sợi chun, trong cùng là lớp niêm
mạc).
61
Niệu đạo có nhiệm vụ dẫn nước tiểu từ bàng quang đến cơ quan bài xuất nước tiểu.
- Ở nam, niệu đạo xuất phát từ phần đáy của bàng quang, khi đến tuyến tiền liệt nó
nhập với ống dẫn tinh làm một và chạy dọc dương vật đến quy đầu.
- Ở nữ, niệu đạo xuất phát từ phần đáy của bàng quang chạy trong hố chậu và kết
thúc ở âm hộ, lỗ tiểu tiện nằm giữa âm vật và cửa âm đạo.
62
tuỷ sống hoặc hôn mê, vỏ não không còn chi phối hoạt động của tuỷ sống, phản xạ tiểu
tiện sẽ tự động xuất hiện gây ra đái dầm.
6.3. Một số bệnh về hệ bài tiết và cách phòng chống các bệnh
Thận và bàng quang là hai cơ quan thường hay bị bệnh. Triệu chứng thể hiện là đi
tiểu đau, tiểu tiện bất thường, “đái dắt”, đái đầm, đái ra máu. Khi cả hai thận đều bị viêm
nhiễm sẽ rất nguy hiểm. Phân tích thành phần hoá học và hiển vi nước tiểu có thể chẩn
đoán hữu hiệu các bệnh về hệ bài tiết.
63
Những người nghiện thuốc lá có tần số bị ung thư bàng quang gấp hai lần người
thường. Liệu pháp cắt bỏ, hoá chất và chiếu xạ là các liệu pháp tốt nếu kết hợp với chẩn
đoán sớm.
64
Chương 7. ĐIỀU HOÀ MÔI TRƯỜNG TRONG CỦA CƠ
THỂ
65
- Bộ phận thực hiện: là các cơ quan như thận, gan, phổi, tim, mạch máu… Bộ phận
này dựa trên tín hiệu thần kinh hoặc hormone để tăng hay giảm hoạt động nhằm đưa môi
trường trong trở về trạng thái cân bằng và ổn định.
Sự trả lời của bộ phận thực hiện làm biến đổi các điều kiện lí hóa của nội môi. Sự
biến đổi đó có thể lại trở thành kích thích tác động ngược trở lại bộ phận tiếp nhận kích
thích. Quá trình này gọi là liên hệ ngược.
66
Với những kết quả có được, bác sĩ sẽ tư vấn cho bệnh nhân những điều cần thiết để
giảm và điều trị dứt điểm các bệnh. Chương trình tư vấn sẽ bao gồm thay đổi cách sống,
thay đổi môi trường sống, thay đổi phương pháp làm việc, bảo hộ lao động, tập luyện thể
thao, vệ sinh thân thể và chế độ ăn thích hợp cho từng loại bệnh...
Một số trường hợp đặc biệt khác:
- Đàn ông trên 40 tuổi, hút thuốc lá nhiều khả năng ung thư phổi rất cao nên chụp
X-quang phổi định kỳ mỗi 6 tháng nhằm phát hiện sớm bệnh ung thư phổi. Một số người
làm việc ở môi trường ẩm thấp, ở các nước nóng vùng nhiệt đới khả năng bị lao phổi cao
cũng nên chụp X-quang phổi mỗi 6 tháng để phát hiện sớm bệnh lao.
- Những người béo phì, tuổi trên 40 khả năng tiểu đường tuýp II lên đến gần 40%
cũng nên thử đường huyết và đường trong nước tiểu để phát hiện sớm bệnh tiểu đường.
- Phụ nữ trên 40 tuổi, sinh đẻ nhiều, có tiền căn viêm nhiễm cơ quan sinh dục rất
cần khám nội soi cổ tử cung để tầm soát ung thư cổ tử cung.
- Bệnh ung thư tuyến vú cũng là một bệnh ác tính rất hay gặp ở những phụ nữ độc
thân trên 40 tuổi. Việc siêu âm tuyến vú định kỳ mỗi 3-6 tháng cũng có thể giúp phát hiện
bệnh sớm ở những đối tượng này. Và nếu phát hiện sớm, khả năng chữa lành bệnh rất cao.
- Ở mỗi lứa tuổi, mỗi giới nam hay nữ lại thường hay mắc một số nhóm bệnh khác
nhau. Nên khi khám bệnh định kỳ, để tránh lãng phí về tiền bạc và thời gian, tốt nhất là
nên chọn gói khám bệnh hợp lý. Với gói khám bệnh này, các khám nghiệm lâm sàng và
xét nghiệm cận lâm sàng sẽ tập trung hơn, điều này làm cho bác sĩ dễ dàng hơn trong công
tác khám bệnh và điều trị. Cái lợi lớn nhất là thuộc về bệnh nhân, qua việc khám bệnh này,
chúng ta sẽ:
+ Phát hiện bệnh sớm.
+ Tiết kiệm tiền bạc.
+ Tiết kiệm thời gian.
+ Khả năng chữa lành bệnh cao, ít gây tàn phế...
67
CHƯƠNG 2. HỆ VẬN ĐỘNG Ở
NGƯỜI
68
Hình 2.2. Cấu tạo giải phẫu xương
2.2.2. Chức năng của xương
- Chức năng làm bệ đỡ, hỗ trợ cơ thể (xương chi dưới hỗ trợ toàn bộ cơ thể trong tư
thế đứng; xương chậu hỗ trợ vùng bụng…).
- Chức năng vận động được thực hiện nhờ các khớp nằm giữa các xương liên kết
chuyển động từng phần của cơ thể nhằm tạo ra hệ thống đòn bẩy.
- Chức năng bảo vệ được thể hiện qua việc các xương liên kết với nhau để tạo ra
các khoang có chứa các cơ quan bên trong (hộp sọ bảo vệ não, lồng ngực bảo vệ tim và
phổi, cột sống bảo vệ tủy sống …).
- Chức năng sản xuất tế bào máu từ tủy xương có ở tất cả các xương trong giai đoạn
bào thai trong khi ở người trưởng thành, chỉ có một số xương có khả năng này.
- Bộ xương là nguồn dự trữ chất khoáng và chất béo. Tất cả xương đều có chất nền
chứa canxi phosphate, đây là nguồn cung cấp ion canxi và ion phosphate cho máu. Chất
béo được dự trữ trong tủy vàng của xương.
69
Hộp sọ bao gồm các xương sọ và xương mặt. Các xương này có các khoang chứa
khí, được bao bọc bởi màng nhày nên đã giảm khối lượng của xương sọ và làm cộng hưởng
âm thanh.
Các xương sọ gồm 8 xương (2 xương đỉnh, 2 xương thái dương, 1 xương trán, 1
xương chẩm, 1 xương bướm, 1 xương sàng) được ghép với nhau bằng các mối liên kết bất
động gọi là các đường khớp. Lúc mới sinh, trên nắp hộp sọ còn nhiều chỗ là mô liên kết,
nằm xen kẽ giữa các xương gọi là thóp, các thóp trước được khép kín khi trẻ được 2 tuổi.
Xương mặt gồm có xương hàm trên, xương hàm dưới, xương móng, xương lá mía,
xương khẩu cái (vòm miệng), xương gò má, xương lệ, xương mũi, xương xoăn mũi dưới.
Xương móng có hình chữ U, nằm trong cổ phía trên thanh quản, là xương duy nhất trong
cơ thể không khớp với xương khác mà được treo lơ lửng nhờ dây chằng và gắn với lưỡi,
tham gia vào việc nuốt thức ăn. Xương hàm dưới là phần chuyển động của hộp sọ.
Cột sống là trụ cột của cơ thể, liên hệ với xương sườn, với xương chậu và hộp sọ.
Cột sống được tạo thành từ 33 – 34 đốt sống liên kết với nhau, gồm 5 phần: đốt sống cổ (7
đốt), đốt sống ngực (12 đốt), đốt sống lưng (5 đốt), đốt sống cùng (5 đốt), xương cụt (4 –
5 đốt liền nhau).
Các đốt sống liên kết với nhau qua các lớp sụn, dây chằng và các khớp. Cột sống
có 4 điểm uốn khúc. Tại vùng cổ và vùng thắt lưng, cột sống lồi về phía trước tạo thành
các điểm ưỡn. Tất cả các điểm uốn của cột sống xuất hiện dưới tác động của việc chuyển
tư thế theo chiều thẳng đứng đã làm tăng sức chịu đựng cho cột sống, đảm bảo cho tư thế
thẳng đứng của cơ thể được vững chắc hơn. Đồng thời, làm tăng sức bật của cơ thể khi
chuyển động bằng cách tăng tính đàn hồi, giảm bớt các tác động gây chấn thương cột sống
khi đi bằng hai chân.
Các xương sườn gồm 12 đôi nằm cân xứng dọc theo hai phía. Mỗi xương sườn đều
gồm phần xương dài nằm ở phía sau nối với cột sống và phần sụn ngắn nằm ở phía trước
nối với xương ức tạo thành lồng ngực.
Các xương chi trên gồm có xương đai vai (xương đòn và xương bả nối với nhau qua
khớp xương ức – đòn), xương cánh tay, xương cẳng tay, xương bàn tay. Các xương chi
dưới gồm có xương đai chi dưới (xương đai hông hay chậu hông, xương cùng và xương
cụt), xương đùi, xương cẳng chân và xương bàn chân. Cấu tạo của xương chậu ở nam và
nữ có sự khác biệt.
70
Hình 2.3. Cấu tạo bộ xương người
71
Hình 2.5. Cấu tạo xương sống
2.3. Cấu tạo và chức năng của cơ
Mọi hoạt động của chúng ta thực hiện được nhờ sự liên kết chặt chẽ giữa xương và
cơ để tạo ra các hệ thống đòn bẫy khác nhau.
72
Hình 2.6. Các loại mô cơ
73
sợi actin, làm cho đơn vị co cơ ngắn lại, xảy ra nhanh và chấm dứt cũng nhanh, được hoạt
hóa bởi ion canxi (Ca2+) và năng lượng ATP (Adenosine triphosphate).
74
Hình 2.9. Cơ chế co cơ vân
2.4.1. Bệnh học đường (vẹo cột sống), nguyên nhân và hậu quả
Vẹo cột sống là tình trạng cột sống bị uốn cong sang bên phải hoặc bên trái theo
hình chữ C hay chữ S (thuận hoặc ngược).
Cong cột sống là khi cột sống xuất hiện những đoạn cong bất thường theo 2 dạng:
gù (cột sống phần ngực uốn cong quá mức ra phía sau); ưỡn (cột sống phần thắt lưng uốn
cong quá mức ra phía trước).
Các nguyên nhân bao gồm:
- Tư thế ngồi học không đúng: lệch vai sang trái hoặc sang phải, cúi đầu quá thấp.
- Học sinh phải ngồi học trong thời gian quá dài trên những bộ bàn ghế không đúng
kích thước.
- Học sinh có thói quen mang cặp một bên mà không đeo cặp trên hai vai.
- Do phải lao động sớm: gánh vác, gặt hái, bế em hoặc mắc phải một số di chứng
của bệnh còi xương, suy dinh dưỡng, lao cột sống, bại liệt.
Hậu quả: bệnh cong vẹo cột sống không phải bệnh nguy hiểm, không gây tác hại
nghiêm trọng tức thời, tuy nhiên bệnh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe thể chất và tâm
thần của một thế hệ trong tương lai.
75
- Gây lệch trọng tâm cơ thể, làm học sinh ngồi học không được ngay ngắn, gây cản
trở cho việc đọc, viết, căng thẳng thị giác và làm trí não kém tập trung dẫn đến ảnh hưởng
xấu kết quả học tập.
- Gây ảnh hưởng đến hoạt động của tim, phổi và sự phát triển của khung xương
chậu (đặc biệt đối với em gái sẽ gây ảnh hưởng đến sinh đẻ khi trưởng thành).
- Cơ thể lệch, bước đi không cân đối, bước đi không đều ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
2.4.3. Một số biện pháp bảo vệ các cơ quan của hệ vận động và cách phòng chống các
bệnh, tật
- Bàn ghế học tập cần có kích thước phù hợp với chiều cao của học sinh đối với
từng cấp học khi sử dụng.
- Đối với học sinh tiểu học và THCS phải sử dụng cặp sách 2 quai để đeo trên vai.
- Thầy cô giáo và bố mẹ luôn hướng dẫn, nhắc nhở các em ngồi học đúng tư thế.
- Lập thời gian biểu cụ thể cho học tập, vui chơi giải trí, lao động, nghỉ ngơi hợp lý
ở trường cũng như ở nhà sao cho phù hợp với từng lứa tuổi cho từng cấp học.
- Tập luyện thể dục thường xuyên, sẽ giúp cho xương chắc khỏe, phòng ngừa được
bệnh loãng xương. Vận động hợp lý, ngủ đủ giấc giúp tăng cường sức khỏe chung, điều
hòa hoạt động của hệ nội tiết, trong đó có tuyến yên, tuyến giáp. Nhờ đó hệ nội tiết tiết các
kích thích tố tăng trưởng GH (Growth Hormone) giúp tận dụng hết tiềm năng di truyền,
đồng thời kích thích sự phát triển của tế bào xương, tăng chiều dài của xương.
- Sự mỏi cơ là do tích tụ các sản phẩm của trao đổi chất trong cơ đang hoạt động
như acid lactic, acid phosphoric… Nghỉ ngơi đúng cách là yếu tố quan trọng để phục hồi
khả năng làm việc của cơ. Cử động, luyện tập đúng phương pháp để phòng tránh chuột rút,
giãn cơ…
- Chế độ dinh dưỡng phải hợp lý, khẩu phần ăn có chứa canxi, phospho, vitamin D,
vitamin K2 sẽ giúp cho bộ xương chắc, khỏe.
18
Chương 8. HỆ THẦN KINH VÀ CÁC GIÁC QUAN Ở NGƯỜI
8.1. Cấu tạo và chức năng sơ lược của tế bào thần kinh
Đơn vị cấu trúc của hệ thần kinh là tế bào thần kinh (neuron). Chức năng của neuron
là tiếp nhận kích thích, tạo ra các xung động thần kinh và dẫn truyền đến các tế bào khác.
Neuron có cấu tạo và hình dạng rất khác nhau.
- Theo hình dạng, có thể chia thành: neuron đơn cực, neuron lưỡng cực và neuron
đa cực.
- Theo chức năng, có thể chia thành: neuron cảm giác, neuron vận động và neuron
hỗ trợ.
Neuron được cấu tạo gồm phần thân và các rễ:
- Thân neuron bao gồm màng, nhân và tế bào chất.
- Các rễ của neuron gồm hai loại là sợi trục và sợi nhánh. Mỗi neuron có một hay
nhiều sợi nhánh nhưng bao giờ cũng chỉ có một sợi trục được gọi là các sợi vận động ly
tâm. Sợi nhánh là phần toả ra của thân neuron, đây là một phần của màng thân neuron biệt
hoá thành. Sợi nhánh làm nhiệm vụ tiếp nhận xung thần kinh để truyền đến các trung tâm
thần kinh nên còn được gọi là sợi cảm giác, sợi hướng tâm.
19
- Cơ chế vật lý: hưng phấn dưới dạng điện muốn truyền từ màng trước qua màng
sau phải vượt điện trở của khe synapse và điện trở của hai màng; do đó dòng điện phải có
cường độ nhất định, đó chính là ngưỡng kích thích.
- Cơ chế hoá học: ở màng trước có các bọc chứa chất môi giới thần kinh là
acetylcholine đối với các sợi thần kinh tự chủ, sợi thần kinh đối giao cảm và giao cảm,
hoặc catecholamine (adrenaline và noradrenaline) đối với sợi thần kinh giao cảm chi phối
hoạt động cơ trơn và cơ tim.
*Hoạt động điện thế trên sợi thần kinh:
- Ở trạng thái nghỉ ngơi, các sợi trục không có các hưng phấn thần kinh. Khi chúng
hoạt động, các sợi trục xuất hiện hưng phấn thần kinh, gọi là điện thế động.
- Điện thế nghỉ: khi một sợi thần kinh ở trạng thái nghỉ ngơi, màng sợi trục có tính
phân cực, bên ngoài tích điện dương, bên trong tích điện âm.
- Điện thế hoạt động: khi sự phân cực của màng sợi trục có sự thay đổi đã làm xuất
hiện xung động thần kinh. Đầu tiên, bên trong sợi trục chuyển dần sang điện tích dương
(quá trình khử cực) và bên ngoài chuyển sang điện tích âm (đảo cực). Sau đó bên trong trở
lại điện tích âm (tái phân cực). Để tạo ra điện thế hoạt động đòi hỏi có sự tham gia của hai
loại kênh vận chuyển trên màng (kênh Na+ và kênh K+) và bơm Na+ - K+.
Hình 8.2. Hoạt động điện thế trên sợi thần kinh
*Sợi thần kinh có các đặc tính sinh lý như sau:
- Tính hưng phấn: khi có kích thích làm xuất hiện sự biến đổi điện thế trong và
ngoài màng tạo ra dòng điện dẫn truyền trên sợi thần kinh. Tính hưng phấn của sợi thần
kinh có myelin cao hơn sợi không có myelin.
- Tính dẫn truyền: khi có một kích thích tác động vào một điểm nào đó trên sợi thần
kinh (với cường độ đủ ngưỡng) thì làm phát sinh luồng xung điện chạy trong sợi thần kinh,
đó là tính dẫn truyền hưng phấn của sợi thần kinh. Tốc độ dẫn truyền hưng phấn trong sợi
20
thần kinh phụ thuộc vào đường kính của sợi thần kinh, sợi có myelin tốc độ dẫn truyền cao
hơn sợi không có myelin. Sợi thần kinh có myelin dẫn truyền hưng phấn theo cách nhảy
bậc (nhảy cóc) từ eo ranvier này đến eo ranvier khác nên tốc độ sẽ nhanh hơn.
- Tính linh hoạt: tính linh hoạt của sợi thần kinh có bao myelin cao hơn sợi không
có myelin. Sợi thần kinh có thể tiếp nhận hàng ngàn xung thần kinh trong 1 giây.
21
Hệ thần kinh thực hiện ba chức năng cơ bản:
- Chức năng cảm giác: các thụ thể cảm giác ở da và các cơ quan phản ứng với các
kích thích bên ngoài và bên trong cơ thể tạo ra các xung động thần kinh truyền vào não và
tuỷ sống.
- Chức năng phân tích tổng hợp: não và tuỷ sống phân tích, tổng hợp các dữ liệu
nhận được từ các phần của cơ thể và đưa ra các xung thần kinh trả lời.
- Chức năng vận động: các xung thần kinh từ não và tuỷ sống đến các cơ quan đáp
ứng như cơ và các tuyến. Quá trình co cơ và bài tiết của các tuyến là đáp ứng với kích thích
nhận được của thụ thể cảm giác.
8.3. Cấu tạo và chức năng từng phần của hệ thần kinh
8.3.1. Hệ thần kinh trung ương
8.3.1.1. Cấu tạo và chức năng sinh lý của tuỷ sống
a. Cấu tạo: Tuỷ sống là phần dưới cùng của hệ thần kinh trung ương, nằm trong cột
sống. Ở người, tuỷ sống dài khoảng 40 – 43 cm, nặng khoảng 30 gram, phía trên giáp với
hành tuỷ, còn bên dưới hẹp dần để tạo thành phần đuôi được gọi là đuôi ngựa. Tuỷ sống
được chia ra thành 31 tiết đoạn có cấu tạo giống nhau. Mỗi tiết đoạn nằm trong một đốt
sống, đều có hai đôi rễ thần kinh: đôi rễ trước và đôi rễ sau. Sau khi chui ra khỏi tuỷ sống,
rễ trước và rễ sau hợp lại với nhau tạo thành các đôi dây thần kinh tuỷ. Các tiết đoạn của
tuỷ sống chia thành 4 phần:
+ Phần cổ: 8 tiết đoạn (C1 – C8).
+ Phần ngực: 12 tiết đoạn (từ D1 – D12 hoặc T1 – T12).
+ Phần thắt lưng: 5 tiết đoạn (L1 – L5).
+ Phần cùng: 6 tiết đoạn (S1 – S6).
Khi cắt ngang một tiết đoạn tuỷ sống ta thấy, chất xám có hình chữ H nằm ở trong,
chất trắng nằm ở ngoài.
- Chất xám gồm có sừng trước, sừng bên và sừng sau:
+ Sừng trước do thân của các tế bào thần kinh vận động tạo thành. Các tế bào này
có kích thước lớn.
+ Sừng bên tập trung các neuron có các sợi trục ngắn là thân của các tế bào thần
kinh sinh dưỡng.
22
+ Sừng sau bao gồm thân của các tế bào thần kinh kích thước nhỏ có các rễ ngắn,
phân ra thành nhiều nhánh liên kết với nhau để tạo thành thần kinh đệm. Chúng nối 1 – 2
tiết đoạn tuỷ sống với nhau. Còn thân của các tế bào cảm giác nằm trong hạch tuỷ.
- Chất trắng bao quanh chất xám là các đường dẫn thần kinh. Đó là các sợi myelin
thuộc hệ thống dẫn truyền đi lên và đi xuống. Hệ thống các đường dẫn đi lên sẽ truyền
thông tin hướng tâm tới các trung khu thần kinh khác của não bộ. Các đường dẫn truyền đi
xuống sẽ truyền thông tin tới các neuron vận động nằm trong sừng trước của tuỷ sống.
b. Chức năng:
Tuỷ sống tham gia vào thực hiện ba chức năng cơ bản là: phản xạ, dinh dưỡng và
dẫn truyền. Các phản xạ cơ bản của tuỷ sống là các phản ứng vận động phức tạp của cơ
thể. Một trong số các phản ứng này là phản xạ gân – cơ như phản xạ đầu gối. Ngoài phản
ứng này ra, tuỷ sống còn thực hiện các phản xạ giãn cơ, phản xạ co duỗi, phản xạ tư thế…
toàn bộ các phản xạ của tuỷ sống đều liên quan với các chức năng vận động nên được gọi
là các phản xạ bản thể.
Chức năng dinh dưỡng của tuỷ sống do hệ thần kinh dinh dưỡng đảm nhiệm. Tuỷ
sống điều tiết hoạt động của hệ sinh dục – tiết niệu thông qua hệ thần kinh dinh dưỡng.
Chính vì vậy, mọi phản xạ như bài xuất nước tiểu, đại tiện, xuất tinh, cương dương vật,…
đều do tuỷ sống đảm nhiệm.
Chức năng dẫn truyền được thực hiện qua hệ thống các đường dẫn đi lên và đi
xuống.
23
trung tâm phản xạ tham gia điều hoà nhịp tim, đường kính mạch máu, hô hấp, nuốt, nôn,
nấc, ho và hắt hơi. Các bó dây thần kinh đi xuống tham gia kiểm soát hoạt động cơ có ý
thức. Gần đến phần dưới cùng, hầu hết các bó thần kinh đi xuống đều bắt chéo qua phần
đối diện nên dẫn đến hiện tượng mỗi nửa của não kiểm soát một nửa của phần cơ thể đối
diện. Có thể trám giúp giữ thăng bằng, phối hợp và điều tiết âm thanh ở tai trong.
+ Cầu não: nằm trên hành tuỷ, gồm các bó sợi thần kinh đi lên và đi xuống cùng
với các nhân não. Nhân cầu não chuyển tiếp thông tin từ vỏ não đến tiểu não. Tại cầu não
còn có trung tâm ngủ và trung tâm hô hấp. Trung tâm hô hấp ở cầu não hoạt động phối
hợp với trung tâm hô hấp ở hành tuỷ để giúp kiểm soát động tác hô hấp.
+ Não giữa: là vùng nhỏ nhất của thân não, nằm trên cầu não. Não giữa gồm
cuống não và củ não sinh tư, có chức năng tham gia các phản xạ thị giác, thính giác, điều
hoà tư thế vận động.
b. Tiểu não: là bộ phận cấp cao của hệ thần kinh trung ương. Nó có vai trò quan
trọng trong việc điều hoà các cử động phối hợp tuỳ ý và không tuỳ ý. Các bán cầu tiểu não
chỉ phát triển ở động vật có vú và phát triển nhất ở Linh trưởng. Tiểu não có chức năng
điều hoà trương lực cơ, qua đó thực hiện các phản xạ quan trọng như phản xạ thăng bằng
cơ thể; phản xạ tư thế, chỉnh thế, các động tác tuỳ ý. Sau khi cắt bỏ hoặc tiểu não bị tổn
thương, cơ thể bị những rối loạn như mất trương lực cơ, không đứng vững, chóng mặt do
các cử động cơ liên tục, không phối hợp được cử động các cơ, mất nhịp điệu.
c. Não trung gian: là phần não giữa thân não và đại não. Não trung gian gồm đồi thị
(thalamus) và vùng dưới đồi. Đồi thị là vùng lớn nhất và chiếm 80% khối lượng não trung
gian. Đồi thị là trạm cuối cùng chuyển tiếp của tất cả các đường dẫn truyền cảm giác từ
dưới đi lên não. Các nhân xám nằm ở vùng dưới đồi là trung ương điều khiển các quá trình
trao đổi chất và điều hoà thân nhiệt.
d. Đại não: hay còn gọi là não cùng, là phần lớn nhất của não. Kích thước của não
liên quan đến kích thước cơ thể nhưng không liên quan đến trí thông minh. Đại não được
phân chia thành hai bán cầu não trái và phải bởi một khe dọc. Trên bề mặt của mỗi bán cầu
có nhiều nếp gấp gọi là cuộn não (gyri), do đó làm tăng diện tích bề mặt của vỏ não. Mỗi
bán cầu não được phân chia thành các thuỳ và tên của các thuỳ được đặt theo tên của xương
sọ não ở vùng đó.
+ Thuỳ trán: đóng vai trò quan trọng với chức năng vận động tự chủ, sự kích
thích vận động, khứu giác và tâm trạng.
+ Thuỳ đỉnh: là trung tâm chính tiếp nhận và xử lý các thông tin cảm giác trừ
khứu giác, thính giác và thị giác.
24
+ Thuỳ chẩm: tiếp nhận và tổng hợp các hình ảnh thu nhận được và không phân
biệt rõ ràng với các thuỳ khác.
+ Thuỳ thái dương: tiếp nhận và đánh giá các thông tin khứu giác và thính giác,
đóng vai trò quan trọng trong quá trình nhớ. Phần phía trước và phía sau của thuỳ thái
dương được xem như “vỏ não tâm lý” và cũng liên quan với các chức năng khác như tư
duy trừu tượng và suy luận.
Đại não gồm chất xám tạo thành vỏ não là trung tâm của các phản xạ có điều kiện;
chất trắng nằm dưới vỏ não là những đường thần kinh nối các phần của vỏ não với nhau
và vỏ não với các phần dưới của hệ thần kinh. Trong chất trắng còn có các nhân nền tham
gia vào kiểm soát chức năng vận động.
25
Phản xạ là cần thiết đối với cân bằng nội môi và giúp cho cơ thể tránh các chấn
thương. Nó giữ cho các hoạt động chức năng của các cơ quan bên trong xảy ra trong giới
hạn bình thường và bảo vệ cơ thể khỏi các tác hại từ bên ngoài.
26
8.4.2. Các bệnh nhiễm trùng
Viêm não (Encephalitis) là tình trạng viêm của não, thường gây ra bởi một loại virus
và đôi khi là do vi khuẩn hoặc các nguyên nhân khác. Các triệu chứng thường xuất hiện là
sốt, liệt, hôn mê, hoặc thậm chí tử vong.
Viêm tuỷ (Myelitis) là tình trạng viêm của tuỷ sống do chấn thương, bệnh đa xơ
cứng hoặc một số nguyên nhân nhiễm trùng khác như virus hoặc vi khuẩn. Các triệu chứng
xuất hiện tuỳ theo mức độ chấn thương và nhiễm trùng.
Viêm màng não (Mengingitis) là tình trạng viêm các màng não. Nó có thể do virus
gây ra nhưng chủ yếu là do vi khuẩn. Các triệu chứng bao gồm cứng cổ, đau đầu và sốt.
Có thể chảy dịch màng não dẫn đến úng thuỷ. Viêm màng não cũng có thể gây ra tê liệt,
hôn mê hoặc tử vong.
27
8.4.5. Tai biến mạch máu não (đột quỵ)
Tai biến mạch não (đột quỵ) xảy ra khi nguồn cung cấp máu cho một phần của bộ
não bị gián đoạn hoặc suy giảm nghiêm trọng, làm mất oxy và dinh dưỡng mô não. Trong
vòng vài phút, các tế bào não bắt đầu chết. Đột quỵ là một cấp cứu y tế. Hành động sớm
có thể giảm thiểu tổn thương não và các biến chứng tiềm năng.
Các dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm:
- Khó đi bộ. Có thể vấp ngã hoặc chóng mặt đột ngột, mất thăng bằng hoặc mất phối
hợp.
- Có thể nói khó hoặc là không thể giải thích những gì đang xảy ra (mất ngôn ngữ).
Hãy cố gắng lặp lại một câu đơn giản. Nếu không thể, có thể bị đột quỵ.
- Tê liệt hoặc tê ở một bên của cơ thể hoặc khuôn mặt. Cố gắng nâng cao cả hai tay
trên đầu cùng một lúc. Nếu một cánh tay bắt đầu yếu, có thể có cơn đột quỵ. Tương tự như
vậy, một bên miệng có thể trễ xuống khi cố gắng để cười.
- Vấn đề với tầm nhìn một hoặc cả hai mắt. Có thể đột nhiên bị mờ hoặc tối, hoặc
có thể nhìn đôi.
- Nhức đầu. Bất ngờ nhức đầu nghiêm trọng, có thể kèm theo nôn mửa, chóng mặt
hoặc thay đổi ý thức, có thể cho biết đang có cơn đột quỵ.
Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu nhận thấy bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu
chứng của một cơn đột quỵ. Một cơn đột quỵ không được điều trị, sẽ có tiềm năng tổn
thương não và khuyết tật. Để tối đa hóa hiệu quả của việc đánh giá và điều trị, tốt nhất đến
phòng cấp cứu trong vòng 60 phút khi các triệu chứng đầu tiên.
8.5. Các chất gây nghiện cho hệ thần kinh và tác hại
Chất gây nghiện là các chất khi hấp thụ vào cơ thể của một sinh vật sống có thể làm
thay đổi chức năng bình thường của cơ thể theo hướng tạo ra sự phụ thuộc của cơ thể đối
với chất đó hoặc cảm giác thèm thuồng, ghiền, nghiện ở các mức độ khác nhau. Một số
loại chất gây nghiện thường gặp như cần sa, cocain, heroin, ma tuý đá, thuốc lắc, LSD, cỏ
mỹ, ketamin,…
Ban đầu, dùng với liều lượng thấp sẽ gây ảo giác trong 2 hoặc 3 giờ với những biểu
hiện như: vui vẻ, thoải mái, đói, nhịp tim tăng, mắt vằn đỏ, kém tập trung, hoặc nói nhiều
hoặc trầm tư... Sau dần, liều dùng cao mạnh thì cảm giác bồn chồn, khó kiểm soát cảm
xúc, ảo giác, lo âu, sợ hãi, rối loạn hành vi...
28
Sử dụng lâu ngày các loại chất gây nghiện sẽ gây nhiều tác hại đến chức năng sinh
lý của các cơ quan trong cơ thể. Bên cạnh đó, các tác hại không chỉ gây hệ luỵ xấu cho bản
thân người nghiện mà còn liên luỵ cho cả gia đình và xã hội.
29
- Các cơ ngoài mắt: giúp mắt cử động. Có ba đôi cơ ngoài mắt đối xứng nhau điều
khiển mắt xoay trên và dưới, di chuyển hai bên, xoay tròn mắt cùng chiều và ngược chiều
kim đồng hồ.
30
Hình 8.5. Cấu tạo giải phẫu của tai
8.6.2.2. Thăng bằng
Tiền đình và các ống bán khuyên là nơi có các đầu mút sợi thần kinh nhận cảm về
sự thay đổi áp suất chất nội dịch trong tai rồi truyền theo thần kinh tiền đình lên các phần
thần kinh trung ương để thực hiện chức năng thăng bằng. Có 2 loại thăng bằng:
- Thăng bằng tư thế: do tiền đình đảm nhiệm, các bộ phận nhận cảm trong tiền đình
có liên quan với trương lực cơ và phản xạ trọng lượng cơ thể đè lên hai bàn chân gây phản
xạ thăng bằng trong tư thế đứng. Đó là thăng bằng tư thế trong trạng thái tĩnh.
- Thăng bằng chỉnh thế: khi thực hiện những động tác phức tạp làm chuyển động
nội dịch trong các ống bán khuyên. Các ống này được sắp xếp 3 chiều khác nhau trong
không gian. Khi thay đổi tư thế thì các chất dịch này chuyển động theo hướng ngược lại
với động tác, nên người ta sẽ nhận biết được sự thay đổi đó và biết được vị trí đỉnh đầu của
mình nằm ở hướng nào trong không gian. Khi tổn thương ống bán khuyên nào thì đầu ngả
về phía bên đó, nếu tổn thương cả 3 ống thì bị chóng mặt và dễ bị ngã, gọi là rối loạn tiền
đình. Căn cứ vào đường đi của dây tiền đình lên trung ương tới các phần thần kinh khác,
ta thấy có mối liên quan với các bộ phận khác trong phản xạ thăng bằng khi làm các động
tác phức tạp nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác của nó:
+ Các cơ vận nhãn định hướng đường chân trời, khi mất thăng bằng thì bị lay tròng
mắt.
+ Tiểu não điều khiển các loại thăng bằng nói trên.
+ Nhân đỏ và nhân tiền đình điều khiển trương lực cơ.
+ Vỏ não đóng vai trò điều khiển chỉ đạo chung.
31
+ Tuỷ sống thực hiện các mệnh lệnh vận cơ và trương lực cơ để giữ thăng bằng
hoặc thực hiện các động tác chính xác.
32
8.6.4. Cơ quan khứu giác
Cảm giác khứu giác là quá trình nhận biết các mùi khác nhau bởi các thụ thể khứu
giác nằm ở phía trên khoang mũi. Hầu hết diện tích khoang mũi có chức năng hô hấp, chỉ
có một khu vực nhỏ có chức năng khứu giác. Tại vùng này chứa các tế bào niêm mạc khứu
giác.
Cơ chế cảm nhận mùi: phân tử các chất bay hơi đi vào xoang mũi và được hoà tan
trong lớp dịch của biểu mô khứu giác. Một số phân tử chất bay hơi gọi là mùi hương gắn
vào các thụ thể hoá học của túi khứu giác. Khi các phân tử mùi liên kết với thụ thể trên các
lông mao của túi khứu giác làm xuất hiện phản ứng khử cực và tạo ra điện thế hoạt động
trong các tế bào khứu giác. Điện thế hoạt động được dẫn truyền qua các neuron khứu giác
và sau đó tập hợp thành dây thần kinh khứu giác dẫn truyền về não.
33
ngắn, các tia sáng song song sẽ hội tụ tại phía sau của võng mạc. Để khắc phục phải sử
dụng kính với thấu kính hội tụ ánh sáng.
- Loạn thị: là tình trạng mà ở đó giác mạc bị cong bất thường làm cho móp méo thị
lực. Giác mạc bình thường có hình dạng giống như hình cầu nhưng đối với loạn thị giác,
giác mạc có hình oval, gây nhiều vấn đề trong việc tập trung ánh sáng đi vào trong mắt.
Loạn thị thường phổ biến và xảy ra cùng với cận thị hoặc viễn thị.
34
8.7.3. Cách phòng tránh bệnh
Phải chăm sóc đặc biệt cho đôi mắt và đảm bảo nơi làm việc và học tập đầy đủ ánh
sáng. Nếu học ban đêm cần phải có ánh sáng phòng và đèn bàn, đèn phải có chụp phản
chiếu. Chiếu từ phía sau, chiếu từ phía trên xuống, nghịch với bên tay thuận của người làm
việc.
Kích thước của bàn, ghế phải phù hợp với chiều cao của từng người. Ngồi học đúng
tư thế, không được cuối đầu gầm mặt, nghiêng đầu, áp má bên bàn học, luôn để mắt xa
sách vở với khoảng cách thích hợp (tối đa khoảng 35cm).
Nên giảm mọi căng thẳng của mắt: Không sử dụng mắt làm việc quá lâu, hạn
chế thời gian xem ti vi, chơi game, nhìn máy vi tính,… không đọc sách có chữ quá nhỏ
hay mờ, có hình ảnh lem nhem.
Cứ mỗi 20 phút làm việc và học tập nghỉ ngơi khoảng 3 – 5 phút. Không xem tivi ở
khoảng cách gần, tránh ánh sáng phản xạ trực tiếp lên màn hình. Nếu có tật khúc xạ thì nên
đeo kính khi xem tivi. Nên có chế độ ăn uống hợp lý, trong thức ăn cần có đủ tinh bột,
đường, chất đạm, chất béo, vitamin và khoáng chất.
Để chăm sóc tốt cho mắt khi có dấu hiệu lạ về mắt như nhìn thấy mờ hơn hoặc mỏi
mắt nên đi khám tại các bệnh viện mắt chuyên khoa để bác sĩ theo dõi và điều trị kịp thời
tránh tình trạng bệnh chuyển biến nặng hơn.
35
Chương 9. HỆ NỘI TIẾT Ở
NGƯỜI
Hình 9.1. Vị trí các tuyến nội tiết trên cơ thể người
36
9.2. Cấu tạo và chức năng của các tuyến nội tiết
9.2.1. Tuyến yên
Tuyến yên là một cơ quan đơn nằm dưới não, trong hốc yên Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp xúc
với gò xám vùng dưới đồi qua cái cuống hình phễu, khối lượng khoảng 1/70.000 so với
khối lượng cơ thể, gồm ba thuỳ: thuỳ trước, thuỳ giữa và thuỳ sau.
9.2.2.1. Thuỳ trước
- Tiết hormone tăng trưởng GH (Growth Hormone Somatotropin) kích thích tăng
kích thước các tế bào và làm tăng khối lượng của cơ thể, kích thích mô sụn và xương phát
triển.
- Tiết hormone TSH (Thyroid-Stimulating Hormone) kích thích hoạt động tuyến
giáp.
- Tiết hormone ACTH (Adrenocorticotropic Hormone) kích thích miền vỏ tuyến
thượng thận sản xuất ra cortisol, điều tiết trong phản ứng đối với stress.
- Tiết hormone FSH (Follicle Stimulating Hormone) kích thích nang trứng hoặc sự
phát triển của tinh dịch; LH (Luteinizing Hormone) kích thích sự sản sinh estrogen và
progesterone cần cho sự rụng trứng trong chu kỳ kinh nguyệt hoặc kích thích tinh hoàn sản
sinh ra testosterone cần cho quá trình sản sinh tinh trùng và các đặc điểm sinh dục thứ cấp.
- Tiết hormone prolactin kích thích sự bài tiết sữa.
Hình 9.2. Vai trò của tuyến yên đối với các tuyến nội tiết khác
37
9.2.1.2. Thuỳ giữa
Tiết hormone MSH kích thích sự phát triển của các tế bào sắc tố non thành các tế
bào sắc tố trưởng thành, kích thích các tế bào này tổng hợp sắc tố (melanine) và phân bố
sắc tố đó trên bề mặt da.
38
Hình 9.4. Vai trò của tuyến giáp
Tuyến cận giáp bao gồm bốn cấu trúc nhỏ nằm rải rác hai bên ở bề mặt phía sau của
tuyến giáp.
Tuyến cận giáp sản sinh ra PTH (Parathyroid hormone), ảnh hưởng đến quá trình
chuyển hóa canxi và photpho. Mức canxi trong máu bình thường (9 – 10mg/100ml máu)
là rất quan trọng đối với sự hoạt động của cơ, nếu thiếu có thể gây nên sự co cứng cơ
nghiêm trọng. PTH được tổng hợp và được giải phóng ra trong phản ứng khi ion Ca2+ tồn
tại trong máu ở mức thấp, kích thích các tế bào hủy xương hòa tan các tinh thể photphat
canxi của cơ chất xương và phóng thích canxi vào máu.
39
- Insulin tăng tổng hợp glycogen, kích thích các tế bào (cơ vân, mỡ, gan) hấp thụ
glucose và giảm lượng glucose trong máu. Khi lượng đường trong máu cao, insulin sẽ được
tiết ra nhiều và ngược lại.
- Glucagon có tác dụng ngược lại với insulin. Glucagon làm tăng lượng đường trong
máu bằng cách phân hủy glycogen dự trữ trong gan.
Hình 9.6. Vai trò của hormone insulin và glucagon trong điều hòa nồng độ đường huyết
40
9.2.5. Tuyến thượng thận
Tuyến thượng thận nằm ngay bên trên mỗi quả thận, gồm hai phần: phần tuỷ và
phần vỏ.
- Phần tuỷ trên thận: tiết hormone epinephrin và norepinephrin kích thích gan cung
cấp glucose cho máu, cũng như các phản ứng điều hoà khác.
- Phần vỏ trên thận: tiết 3 loại hormone corticosteroit (các glucocorticoit, các
corticoit khoáng, số lượng nhỏ các steroit giới tính). Aldosterone là một corticoit khoáng
kích thích thận giữ Na+ và tiết K+. Cortisol là glucocorticoit vốn làm cho các tế bào giảm
sự tiêu thụ glucose, ngoài ra, còn tham gia vào phản ứng miễn dịch.
Tuyến tùng (tuyến quả thông) là một thể nhỏ có kích thước của hạt đậu Hà Lan và
có hình dạng giống quả thông, nằm ở phía trên củ não sinh tư.
41
Tuyến tùng sản xuất melatonin có khả năng tác động lên màu sắc của da, liên quan
đến sự điều hoà nhịp sinh học và quang chu kỳ. Mức melatonin trong máu tăng vào ban
đêm và giảm xuống vào ban ngày. Mùa đông, đêm dài hơn ngày, melatonin được tiết ra
nhiều hơn.
42
Hình 9.10. Vai trò của tuyến yên đối với việc sản xuất hormone sinh dục nam
Hình 9.11. Vai trò của tuyến yên đối với việc sản xuất hormone sinh dục nữ
43
9.3. Một số bệnh liên quan đến hệ nội tiết thường gặp và cách phòng tránh bệnh
9.3.1. Một số bệnh liên quan đến hệ nội tiết thường gặp
Bệnh nội tiết là bệnh liên quan đến hệ thống nội tiết trong cơ thể và mắc phải khi hệ
thống mất đi sự cân bằng sẽ gây ra nhiều bệnh nguy hiểm.
9.3.1.1. Đái tháo đường
Nguyên nhân gây bệnh đái tháo đường là do rối loạn chuyển hóa cacbohydrate khi
hormone insulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể. Biểu hiện là mức đường
trong máu luôn cao, trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban
đêm và do đó làm bệnh nhân luôn cảm thấy khát nước.
Biến chứng của bệnh tiểu đường rất nguy hiểm đến sức khoẻ như: suy thận, mù mắt,
tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, hoại tử và có nguy cơ tử vong... Vì vậy, phát hiện
sớm các yếu tố nguy cơ để có thể chẩn đoán sớm bệnh tiểu đường cũng như nắm vững
được các biến chứng của bệnh là hết sức cần thiết.
44
Suy giáp dẫn đến nhiều rối loạn với các biểu hiện: mệt mỏi; giảm khả năng gắng
sức; có khi tăng cân; sợ lạnh, da khô và thô, da tái lạnh; tóc dễ rụng gãy, rụng lông mày,
lông nách, lông mu thưa; phù niêm mạc toàn thể, da mỡ (trông láng bóng), thâm nhiễm các
cơ quan như mi mắt (nặng mí mắt), lưỡi (lưỡi to dày), thanh quản (nói khàn, khó thở), cơ
(gây giả phì đại cơ); dễ bị táo bón; nhịp tim chậm, tim to, tràn dịch màng tim; nếu suy giáp
nặng có thể suy tim (nhất là khi có thiếu máu đi kèm); suy nghĩ và vận động chậm chạp,
nói chậm, trí nhớ giảm.
9.3.2. Cách phòng tránh bệnh liên quan đến hệ nội tiết
- Tập thể dục hàng ngày bằng những bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, chạy bộ, tập
yoga,… là cách giúp cơ thể tăng cường sức khỏe, giảm viêm, giảm căng thẳng, hỗ trợ giấc
ngủ và điều hòa chuyển hóa trong cơ thể.
- Cần phải có chế độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi một cách khoa học như ăn đúng
và đủ bữa, bổ sung một lượng chất béo vừa phải, cân đối giữa thịt và rau củ, bổ sung
vitamin cần thiết cho cơ thể… để quá trình sản xuất nội tiết tố hoạt động tốt hơn. Bổ sung
đủ nước mỗi ngày, lượng nước cần thiết cho một người khỏe mạnh là 1,5 - 2 lít nước lọc.
- Sử dụng các loại thực phẩm sạch và có nguồn gốc rõ ràng, tốt nhất là nên dùng
thực phẩm hữu cơ và rau tự trồng.
- Hạn chế, tránh tiếp xúc với môi trường ô nhiễm.
45
- Ngủ đủ giấc, hạn chế và tốt nhất nên tránh thức khuya, tránh làm việc quá sức,
căng thẳng (stress)…
- Sử dụng thuốc tránh thai và các loại thuốc điều trị bệnh cần theo đúng hướng dẫn
của bác sĩ, không nên lạm dụng thuốc đặc biệt là thuốc tránh thai.
- Cần xét nghiệm máu định kỳ để phát hiện sớm và điều trị kịp thời tình trạng rối
loạn nội tiết tố.
46
Chương 10. DA VÀ ĐIỀU HOÀ THÂN NHIỆT Ở NGƯỜI
47
10.1.1.2. Lớp trung bì – Lớp giữa của da
Lớp trung bì được phân tách với lớp biểu bì qua lớp tế bào đáy, đây là cấu trúc da
thứ hai. Đây là cầu nối giữa lớp hạ bì và biểu bì thông qua một cấu trúc sợi có khả năng di
động tương đối. Độ dày của lớp trung bì trung bình từ 0,5 – 4 mm. Có 2 lớp trung bì là lớp
nhú và lớp lưới.
Chức năng cơ bản của lớp trung bì là cung cấp O2 và chất dinh dưỡng cho lớp biểu
bì; điều hòa thân nhiệt thông qua thay đổi tuần hoàn máu và tiết mồ hôi; giữ chức năng bảo
vệ cơ học cho các cấu trúc sâu hơn của da; quyết định độ nhạy cảm của da.
48
- Bài tiết: tùy vào cơ địa mà tuyến mồ hôi bài tiết với cường độ khác nhau để điều
hòa thân nhiệt và đào thải độc tố cho cơ thể.
- Miễn dịch: trong cấu trúc da có các tế bào langerhans giúp kháng khuẩn tăng cường
hệ miễn dịch cho cơ thể.
- Điều hòa thân nhiệt.
- Dự trữ nước
- Cảm giác: Da là một trong năm giác quan của con người. Da có khả năng nhạy
cảm với nhiều áp lực, tiếp xúc, nhiệt độ và đau.
- Tổng hợp vitamin D.
49
càng lớn bấy nhiêu. Do đó, ngưỡng của cảm giác xúc giác phụ thuộc vào khối lượng của
vật tác động và diện tích của bề mặt tiếp xúc.
Cảm giác tiếp xúc sẽ xuất hiện khi một vật nào đó chạm vào bề mặt của da, còn cảm
giác áp lực là khi ấn mạnh vào một điểm nào đó trên bề mặt của da. Trong cả hai trường
hợp, da đều bị biến dạng. Như vậy, sự khác biệt ở đây là do cường độ của kích thích tạo
ra. Một dạng khác của cảm giác xúc giác là ngứa.
Các cơ quan thụ cảm xúc giác trên bề mặt da có cấu tạo rất khác nhau, nó phụ thuộc
vào mức độ phủ lông của bề mặt da. Tại các vùng da có lông, các cơ quan thụ cảm xúc
giác là các đám rối thần kinh bao quanh lỗ chân lông. Tại vùng da không có lông, các cơ
quan thụ cảm xúc giác đặc biệt là các hạt Messner. Các thể này nằm ở lớp da chính thức,
trong lớp biểu mô của lòng bàn tay, ngón tay, chân, ngực, lưng, môi, lưỡi, núm vú,…và
các phần khác có các đĩa xúc giác (thể Merkel).
Các cơ quan thụ cảm xúc giác phân bố không đều trên bề mặt da nên độ nhạy cảm
xúc giác ở các vùng da khác nhau.
50
Các kích thích tạo ra cảm giác đau không mang một tính đặc trưng nào. Đó có thể
là các tác động vật lí, hoá học, cơ học, nhiệt độ,… Điểm chung nhất của tất cả kích thích
gây đau là đều gây ra sự tổn thương. Trong các trường hợp tác động của các kích thích gây
đau, cảm giác xuất hiện thường mang tính chất tổng hợp. Vì đồng thời với các cơ quan thụ
cảm đau, các cơ quan thụ cảm xúc giác, nhiệt độ cũng bị hoạt hoá.
Dưới tác động của kích thích gây đau, sẽ xuất hiện những thay đổi về mặt dinh
dưỡng làm tăng nồng độ adrenaline và glucose trong máu, tăng huyết áp, tăng khả năng
đông máu. Đặc biệt, những tác động quá mạnh lên cơ thể làm xuất hiện cảm giác đau có
thể tạo ra những rối loạn trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương và làm cho huyết áp
giảm đáng kể, tim hoạt động yếu, rối loạn hô hấp và điều hoà thân nhiệt,… Điều này chứng
tỏ vỏ não là cơ quan điều tiết sự hình thành cảm giác đau.
Đôi khi, sự kích thích của các thụ thể đau bên trong gây ra cảm giác đau của vùng
da tương ứng với các cơ quan nội tạng. Đây được gọi là phản xạ đau. Một số cơ quan nội
tạng có phản xạ đau tương ứng với vùng da lưng, háng và bụng. Ví dụ, cảm giác đau ở tim
được cảm nhận trong vai trái và cánh tay. Phản xạ này xảy ra khi xung thần kinh từ các thụ
thể đau của cơ quan nội tạng đi vào tuỷ sống cùng qua synapse với các tế bào thần kinh
cảm giác đau đến từ da.
51
10.3.1.2. Bệnh vảy nến
Vảy nến là bệnh về da mãn tính thường xuất hiện và sau đó tự hết. Bệnh khiến cho
da bị tổn thương, ngứa ngáy và dẫn đến nhiễm trùng. Bệnh xuất hiện nhiều nhất trong độ
tuổi 15 – 30 tuổi và tỉ lệ nam giới mắc bệnh vảy nến nhiều hơn nữ giới. Vảy nến là một
bệnh tuy không nguy hiểm nhưng nếu không được chăm sóc và điều trị kịp thời, người
bệnh có thể bị các biến chứng sau: đỏ da toàn thân, vảy nến mủ, viêm khớp, nhiễm trùng
da...
Vảy nến thường xuất hiện nhiều ở da đầu, mặt, cùi chỏ, bàn tay, đầu gối, bàn chân,
ngực, phần lưng dưới,… Móng tay và móng chân là những nơi thường bị tổn thương.
Một số nguyên nhân gây ra bệnh vảy nến đó là: do yếu tố di truyền; sử dụng quá
nhiều thuốc tây; do ảnh hưởng từ các bệnh khác như bệnh amidan, viêm họng, … ; do tâm
lý căng thẳng mệt mỏi; do thời tiết quá nóng nực, hanh khô.
Tùy thuộc vào mức độ hay cơ địa của từng người mà dấu hiệu của bệnh là khác
nhau, tuy nhiên một số triệu chứng thường gặp nhất đó là: vùng da bị ngứa, lở loét, đỏ da;
da rất khô, có nhiều vết nứt, dẫn đến chảy máu; xuất hiện vùng da có màu óng ánh bạc với
rìa xung quanh màu đỏ.
52
Bệnh này xuất hiện nhiều ở các vùng da bài tiết nhiều mồ hôi như ngực, lưng, trán...,
Rôm sảy thường nổi thành đám, mảng lớn.
Rôm sảy thường có rất nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu là do tuyến mồ
hôi bị tắc nghẽn làm cho mồ hôi không thể thoát ra ngoài được gây nên hiện tượng rôm
sảy. Đối với trẻ em, nguyên nhân của tình trạng rôm sảy là do chất liệu quần áo mà bé sử
dụng. Làn da của bé thường rất nhạy cảm, khi mặc quần áo có chất liệu kém không thấm
hút mồ hôi được sẽ tạo điều kiện cho rôm sảy xuất hiện.
Những dấu hiệu thường gặp của bệnh rôm sảy là: da sẩn màu đỏ hồng, trên có mụn
nước nhỏ hoặc mụn mủ trắng xen lẫn; người bệnh có cảm giác bứt rứt, khó chịu, ngứa,…
53
Những dấu hiệu nổi mề đay có thể xuất hiện như: nổi mẩn đỏ, ngứa ngáy khó chịu,
khó thở. Ngoài ra một số người còn xuất hiện một số dấu hiệu như: mụn nước, da bong
tróc, phù mí mắt, phù môi, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn…
10.6. Các biện pháp phòng ngừa bệnh cảm lạnh, cảm nắng
10.6.1. Các biện pháp phòng ngừa bệnh cảm lạnh
- Cách phòng bệnh tốt nhất là tránh tiếp xúc gần với người bệnh, rửa tay kỹ và
thường xuyên; và tránh chạm mặt và miệng. Xà phòng diệt khuẩn thì không có tác dụng
với virus cảm, tuy nhiên những động tác cọ rửa sẽ giúp tẩy đi các virus.
- Tăng cường uống vitamin C giúp phòng và chữa cảm lạnh, giúp làm giảm cơn khó
chịu của bệnh cảm như ho, nhảy mũi, nghẹt mũi, sổ mũi, bần thần... và nhiều triệu chứng
cảm khác. Ăn nhiều trái cây như cam, bưởi, chanh, hoặc ăn sống các rau cải có màu xanh
đậm để cung cấp vitamin C.
- Uống đủ nước để giúp cơ thể thải được độc tố (2 lít nước mỗi ngày).
- Cần vệ sinh răng miệng và súc miệng bằng nước muối sinh lý giúp cho cổ họng
thông hơn, bớt nghẹt mũi, diệt vi khuẩn và làm khạc ra đờm nhiều hơn.
106
Chương 11. SINH SẢN Ở
NGƯỜI
11.1. Sơ lược cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục nam và nữ
11.1.1. Cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam
Cơ quan sinh dục nam bao gồm tinh hoàn, túi tinh, ống dẫn tinh, ống phóng tinh,
dương vật và các tuyến sinh dục.
Hình 11.1. Cấu tạo giải phẫu cơ quan sinh dục nam
11.1.1.1. Tinh hoàn
a. Cấu tạo
Tinh hoàn có hình trứng được treo ở bên ngoài cơ thể trong một cái túi gọi là bìu,
có kích thước dài khoảng 4,5 cm, rộng khoảng 2,5 cm, bọc ngoài bởi màng xơ dày màu
trắng. Màng trắng ăn sâu vào tinh hoàn chia tinh hoàn thành nhiều thuỳ nhỏ, mỗi thuỳ nhỏ
có vài ống sinh tinh. Giữa các ống sinh tinh là các tế bào kẽ (tế bào Leydig). Những tế bào
này cùng các mao mạch tạo thành tuyến nội tiết kiểu riêng lẻ gọi là tuyến kẽ tinh hoàn.
Mỗi tinh hoàn chứa hàng trăm ống sinh tinh có chức năng tạo ra tinh trùng. Các ống
này kết hợp với nhau và tạo thành các ống xoắn cuộn của mào tinh hoàn. Sau đó mào tinh
hoàn nối với ống dẫn tinh và tiếp đó là đường tiết niệu đi ra ngoài qua niệu đạo.
b. Chức năng
Tinh hoàn có hai chức năng là sản sinh tinh trùng và tiết hormone.
107
- Chức năng sản sinh tinh trùng: quá trình này diễn ra tại các ống sinh tinh. Dưới
tác dụng của hormone sinh dục của tuyến yên, tinh hoàn bắt đầu sản sinh tinh trùng ở tuổi
dậy thì và chức năng này được duy trì đến suốt cuộc đời. Từ tuổi dậy thì trở đi, mỗi ngày
có khoảng 300 triệu tinh trùng được sản sinh ở tinh hoàn.
Tinh trùng có cấu tạo 3 phần: đầu, thân và đuôi. Phần đầu có tác dụng phân giải các
lớp xung quanh noãn chín để mở đường cho tinh trùng tiến vào tế bào chất. Đoạn giữa của
tinh trùng có nhiều ty thể để tạo ra năng lượng. Chuyển động quất mạnh của đuôi giúp tinh
trùng tiến lên phía trước với vận tốc 4 mm/giây. Tinh trùng được dự trữ trong mào tinh
hoàn và sẽ thành thục hoàn toàn tại đó. Ở người, sự sinh tinh diễn ra liên tục nhưng ở một
số loài động vật có vú khác, nó có thể xuất hiện theo mùa và trong những giai đoạn sinh
sản nhất định.
- Chức năng tiết hormone: tinh hoàn là tuyến sinh dục chính của nam, testosterone
là hormone chủ yếu. Khoảng tuần thứ bảy trong bào thai, một lượng đáng kể testosterone
được tiết ra giúp hình thành mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh và ống phóng tinh, đồng thời
kích thích đưa tinh hoàn từ bụng xuống bìu ở giai đoạn 2 – 3 tháng cuối thai kỳ. Từ tuổi
dậy thì trở đi, testosterone làm xuất hiện và bảo tồn đặc tính sinh dục thứ cấp như phát
triển dương vật, tuyến tiền liệt, túi tinh, đường dẫn tinh, mọc lông mu, lông nách, mọc
râu, gây hói đầu, giọng nói trầm do thanh quản mở rộng, da dày, thô, nổi mụn trứng
cá,… Ngoài ra, testosterone còn kích thích sự sản sinh tinh trùng, tác dụng lên sự chuyển
hoá protein ở cơ.
Hiện nay, testosterone (hoặc androgen) tổng hợp bị cấm sử dụng trong thi đấu thể
thao do một số vận động viên sử dụng để phát triển cơ bắp nhằm tăng thành tích thi đấu.
109
dịch được phóng ra khi giao hợp. Trong ống sinh tinh, tinh trùng có thể sống vài tuần nhưng
khi đã được phóng ra ngoài, tinh trùng sống tối đa chỉ từ 24 – 48 giờ. Với nhiệt độ thấp,
chuyển hoá của tinh trùng giảm nên thời gian sống kéo dài hơn.
- Chức năng: dịch túi tinh có tác dụng đẩy tinh trùng ra khỏi ống phóng tinh và niệu
đạo. Độ pH trung bình của tinh dịch là 7,5. Với độ pH hơi kiềm này, tinh dịch sẽ trung hoà
bớt tính acid của dịch âm đạo, tạo môi trường thích hợp cho tinh trùng hoạt động.
11.1.1.4. Bìu
Bìu là một cấu trúc có nhiều nếp nhăn, màu sẫm. Da bìu mỏng có các tuyến nhờn,
tuyến mồ hôi và các sợi đàn hồi. Ở giữa có vách ngăn chia bìu thành hai túi để chứa hai
tinh hoàn. Dưới da có màng cơ trơn có tác dụng nâng bìu lên.
11.1.1.6. Dậy thì và suy giảm hoạt động sinh dục nam
a. Dậy thì
Dậy thì là thời kỳ có những biến động lớn về thể chất, tâm lý và đặc biệt là hoạt
động chức năng của hệ thống sinh sản. Ở trẻ trai đánh dấu tuổi dậy thì là lần xuất tinh đầu
110
tiên. Tuy vậy rất khó xác định chính xác lần xuất tinh đầu tiên vì các em thường ít để ý.
Tuổi dậy thì của nam thường ở xung quanh tuổi 14 – 16. Những biến đổi trong thời kỳ dậy
thì là dưới tác dụng của hormone sinh dục nam (testosterone) phối hợp cùng các hormone
tăng trưởng khác, cơ thể đứa trẻ phát triển nhanh, đặc biệt khối lượng cơ tăng nhanh.
Đến giai đoạn dậy thì, vùng dưới đồi bài tiết đủ lượng GnRH kích thích tuyến yên
tiết FSH và LH, các hormone này tác động làm tuyến sinh dục nam (tinh hoàn) hoạt động.
Tinh hoàn bắt đầu sản sinh tinh trùng và bài tiết testosterone. Dưới tác dụng của
testosterone, cơ thể lớn nhanh và xuất hiện các đặc điểm sinh dục nam thứ cấp. Đứa trẻ bắt
đầu có khả năng hoạt động tình dục và sinh sản.
b. Suy giảm hoạt động sinh dục nam
Sau tuổi dậy thì, hormone tuyến yên được bài tiết liên tục trong suốt thời gian còn
lại. Nam giới tuy không xuất hiện giai đoạn suy giảm hoàn toàn chức năng tuyến sinh dục
như ở nữ giới nhưng theo thời gian, tuổi càng cao, hoạt động chức năng của tinh hoàn cũng
suy giảm dần. Bắt đầu từ tuổi 40 – 50, sự bài tiết testosterone bắt đầu giảm. Tuổi chấm dứt
hoạt động sinh dục ở nam giới là khoảng 68. Tuy nhiên, có sự khác nhau rất lớn về thời
gian hoạt động sinh dục giữa người này với người khác.
Ngoài ra, nếu thiếu testosterone thời kỳ bào thai dẫn đến rối loạn hình thành các cơ
quan sinh dục phụ của nam. Mất tinh hoàn hoặc tinh hoàn không hoạt động ở trước tuổi
dậy thì dẫn đến không xuất hiện các đặc tính sinh dục nam thứ cấp. Trẻ bị mất tinh hoàn
khi lớn lên thường cao hơn so với người bình thường, xương mỏng, cơ không phát triển,
cơ quan sinh dục giống của trẻ con, không mọc râu, giọng nói thanh và cao nữ.
111
Buồng trứng có chức năng sinh trứng và tiết hormone.
- Chức năng sinh trứng: quá trình sinh trứng xảy ra ở một nang trứng. Hàng tháng
có thể có nhiều nang trứng cùng phát triển, nhưng chỉ có một nang trứng phát triển đầy đủ
để tạo ra tế bào trứng. Nếu có hai nang trứng cùng phát triển tạo ra hai tế bào trứng và được
thụ tinh thì dẫn đến hiện tượng sinh đôi khác trứng.
- Chức năng tiết hormone: buồng trứng tiết hai loại hormone là Estrogen và
Progesterone.
+ Estrogen có chức năng làm tăng sinh các tế bào nội mạc của tử cung; phát
triển hệ thống các tuyến sinh dục; làm tăng tiết FSH và LH trong giai đoạn trước
rụng trứng; làm giảm FSH và LH sau thời gian rụng trứng; phát triển các đặc điểm
tính dục thứ cấp.
+ Progesterone có tác dụng làm tăng kích thước tế bào nội mạc và tiết dịch của
tử cung; làm giảm tiết FSH và LH sau thời gian rụng trứng; phát triển các đặc điểm
tính dục thứ cấp.
Hình 11.2. Cấu tạo giải phẫu cơ quan sinh dục nam
11.1.2.2. Ống dẫn trứng
a. Cấu tạo: Ống dẫn trứng là một ống dài 10 – 12 cm. Thành của ống dẫn trứng cấu
tạo bởi ba lớp từ ngoài vào trong: lớp liên kết sợi, lớp cơ trơn, lớp màng nhầy.
b. Chức năng: Ống dẫn trứng vừa là đường dẫn trứng, vừa là nơi trứng gặp tinh
trùng để xảy ra quá trình thụ tinh.
112
11.1.2.3. Tử cung
Tử cung có kích thước và hình dạng giống quả lê ngược, thường nằm ở trên bàng
quang, có ba phần gồm phần đáy, phần thân và phần cổ tử cung. Khối lượng và kích thước
tử cung biến đổi theo chu kỳ kinh nguyệt.
Phôi thai được phát triển trong tử cung. Nhau thai là nguồn cung cấp chất
dinh
dưỡng cần thiết cho sự phát triển phôi và thai nhi.
Ung thư cổ tử cung là một dạng ung thư phổ biến ở phụ nữ, có thể phát hiện sớm
qua xét nghiệm tế bào cổ tử cung.
11.1.2.4. Âm đạo
Âm đạo là một ống cơ dài khoảng 10 cm, kéo dài từ tử cung đến phần ngoài cơ thể,
là cơ quan giao hợp của nữ có chức năng nhận dương vật trong quá trình giao hợp và giúp
cho máu kinh nguyệt chảy qua và sinh con.
Thành của âm đạo có lớp cơ co giãn giúp tăng kích thước để phù hợp với dương vật
khi giao hợp và để kéo dài trong sinh đẻ. Nằm hai bên thành âm đạo có hai tuyến tiền đình
tiết ra dịch nhờn để bôi trơn âm đạo. Dịch này có tính acid nhẹ.
Màng trinh là một màng nhày mỏng bao phủ hoàn toàn cửa âm đạo hay bao phủ
không hoàn toàn tạo thành lỗ. Các lỗ này thường bị rách trong lần quan hệ tình dục đầu
tiên. Ngoài ra, màng trinh cũng có thể bị rách khi hoạt động thể dục như chạy nhảy…
11.1.2.6. Tuyến vú
Tuyến vú là cơ quan sản xuất sữa và nằm trên ngực, có nguồn gốc từ tuyến mồ hôi.
Vú phụ nữ phát triển to dần lên trong tuổi dậy thì do tác động của hormone estrogen và
progesterone. Có một số nam giới, ngực cũng phát triển to lên như nữ giới, đây là tình trạng
bị nữ hoá tuyến vú, nguyên nhân do hormone.
113
11.2. Chu kỳ kinh nguyệt, sự thụ tinh và cách phòng tránh thai
11.2.1. Chu kỳ kinh nguyệt
Chu kỳ kinh nguyệt là quá trình biến đổi của buồng trứng và tử cung xảy ra theo
chu kỳ hàng tháng dưới tác động của hệ thống hormone sinh dục. Chu kỳ kinh nguyệt ở nữ
trung bình khoảng 28 ngày.
Hình 11.3. Thay đổi hormone, chu kỳ buồng trứng và niêm mạc tử cung
trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường
Chu kỳ kinh nguyệt được chia làm hai pha pha trước rụng trứng và pha sau rụng
trứng.
- Pha trước rụng trứng (pha nang trứng, pha tăng sinh): kéo dài khoảng 14 ngày
đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt. Các hormone sinh dục tiết ra làm nang trứng thành thục
và làm cho buồng trứng tiết estrogen. Sự tăng sản xuất hormone LH và FSH diễn ra vào
ngày thứ 14 và là nguyên nhân trực tiếp của sự rụng trứng.
114
- Pha sau rụng trứng (pha thể vàng): sau khi trứng rụng, các nang bào trở thành thể
vàng và tiết ra hormone progesterone làm giảm mạnh nồng độ LH và FSH. Không thể có
nang trứng phát triển trong khi thể vàng tiếp tục tiết progesterone.
Nếu trứng không được thụ tinh thì thể vàng sẽ teo đi trong vòng 10 ngày kể từ sau
khi trứng rụng và kinh nguyệt có thể được lặp lại.
Trong trường hợp trứng được thụ tinh thì hoạt động của thể vàng được duy trì suốt
thời kỳ có thai nhờ hormone HhCG do nhau thai tiết ra. Sự có mặt của HhCG trong nước
tiểu chứng tỏ là đã có thai và đó chính là phương pháp đơn giản để chẩn đoán có thai.
115
11.2.3.2. Ngăn cản không cho hợp tử làm tổ và phát triển thành thai
Hiện nay biện pháp chủ yếu ngăn cản hợp tử làm tổ và phát triển là sử dụng dụng
cụ tử cung hay còn gọi là vòng tránh thai. Tác dụng sinh lý của vòng tránh thai là làm cho
thể vàng tiêu giảm nhanh nên phôi không phát triển và không làm tổ được.
11.3. Các bệnh lây qua đường sinh dục thường gặp và biện pháp phòng ngừa
Có nhiều loại bệnh lây lan qua con đường tình dục, một số bệnh phổ biến trong
chúng là lậu, giang mai và HIV/AIDS
- Bệnh lậu: là do nhiễm lậu cầu khuẩn. Bệnh lậu có thể gây tắc ống dẫn trứng, làm
hẹp đường dẫn tinh dẫn đến hiện tượng thai ngoài tử cung hoặc vô sinh. Con của người bị
bệnh lậu sinh ra có thể bị mù loà do nhiễm khuẩn khi qua âm đạo. Bệnh lậu dễ lây truyền
qua con đường tình dục nhưng có thể điều trị dễ dàng nếu được phát hiện sớm.
- Bệnh giang mai: do xoắn khuẩn gây ra. Triệu chứng của bệnh là xuất hiện các vết
loét nông, cứng, không đau, không có mủ, không đóng vảy, gọi là “sắng”. Sau đó các vết
loét mất đi nhưng bệnh tiếp tục phát triển ra khắp toàn thân với các mụn nổi trên da có các
vết ban tròn hoặc bầu dục. Ngoài ra, bệnh còn gây tổn thương hệ tuần hoàn, thần kinh, gây
loét gan. Con sinh ra có thể mang khuyết tật hoặc dị dạng bẩm sinh. Bệnh giang mai lây
qua quan hệ tình dục và có thể lây truyền qua cách tiếp xúc như hôn, sờ vì mầm bệnh ở da,
hoặc qua truyền máu, qua các vết xây xát trên cơ thể, qua nhau từ mẹ sang con.
- HIV/AIDS: HIV là virus gây ra bệnh AIDS có thể lây truyền qua máu và quan hệ
tình dục khác giới và đồng giới. Lây qua con đường tình dục là phổ biến nhất, chiếm 70 –
80%. HIV có trong tinh dịch, dịch âm đạo.
Để tránh khỏi bị lây nhiễm các bệnh trên cần có hành vi tình dục an toàn như sử
dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, một vợ một chồng, không quan hệ tình dục với nhiều
người. Nhất thiết phải đi khám và điều trị tại các cơ sở y tế chuyên khoa khi mắc các bệnh
lây truyền qua đường tình dục.
11.4. Sức khoẻ sinh sản vị thành niên và an toàn tình dục trong học đường
Tuổi dậy thì – vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Độ
tuổi vị thành niên là 10 – 19 tuổi. Lớp tuổi vị thành niên được chia thành 3 nhóm: từ 10 –
13 tuổi là nhóm vị thành niên sớm, từ 14 – 16 tuổi là nhóm vị thành niên giữa, từ 17 – 19
tuổi là nhóm vị thành niên muộn. Ở tuổi vị thành niên, dưới tác dụng sinh lý của hormone,
cơ thể trẻ em sẽ diễn ra hàng loạt những thay đổi về hình dáng, cơ quan sinh dục, tâm sinh
lý, phân biệt rõ giới tính nam/nữ và bắt đầu có khả năng tình dục, khả năng sinh sản.
116
Sức khoẻ sinh sản vị thành niên là tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã
hội của tất cả những yếu tố liên quan tới cấu tạo và hoạt động của bộ máy sinh sản ở tuổi
vị thành niên.
Do những thay đổi về tâm sinh lý, trẻ vị thành niên dễ bị dụ dỗ, lường gạt, mua
chuộc, xâm hại và dễ bắt chước những thói hư tật xấu. Những nguy cơ hay gặp ở trẻ là:
- Quan hệ tình dục không an toàn.
- Mang thai sớm ngoài ý muốn, dễ sảy thai, đẻ non, làm tăng nguy cơ tử vong của
người mẹ; làm mẹ quá trẻ; trẻ sinh ra thiếu cân, suy dinh dưỡng, mắc bệnh hoặc thậm chí
là tử vong.
- Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai; dễ nảy sinh tâm lý chán nản; phải
gánh chịu định kiến xã hội; gánh nặng về kinh tế khi nuôi con.
- Phá thai có thể dẫn đến các tai biến như nhiễm trùng, thủng tử cung, vô sinh,...
- Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và thậm chí là HIV/AIDS.
- Dễ bị lôi kéo sử dụng chất kích thích, chất gây nghiện
Thời kỳ vị thành niên, trẻ gặp nhiều vấn đề khủng hoảng, hoang mang về tâm lý.
Tuy trưởng thành về mặt cơ thể nhưng trẻ vị thành niên vẫn cần được giúp đỡ, giáo dục từ
gia đình và nhà trường để phát triển đúng hướng. Gia đình, nhà trường và chính trẻ vị thành
niên cần:
- Rèn luyện về kỹ năng sống: chủ động tìm hiểu kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh
sản tuổi thành niên từ cha mẹ, thầy cô, người thân và bạn bè. Tâm sự những lo lắng, băn
khoăn với người thân hoặc thầy cô. Duy trì thời gian biểu học tập, nghỉ ngơi, tập luyện và
giải trí phù hợp. Phân biệt rõ ràng giữa tình yêu và tình bạn trong sáng.
- Chăm sóc sức khỏe thể chất và tâm lý: trẻ cần được cung cấp đầy đủ các chất dinh
dưỡng cần thiết trong chế độ ăn gồm protein, vitamin, khoáng chất, tinh bột,... Cần có sự
quan tâm, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, người thân và thầy cô giáo. Tránh xa các chất
kích thích như rượu bia, thuốc lá, ma túy,... Phụ huynh cũng cần căn cứ vào nhu cầu, sở
thích và năng lực của trẻ vị thành niên để hướng nghiệp phù hợp.
- Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên: trẻ nữ cần biết cách vệ sinh thời kỳ
kinh nguyệt, đi khám nếu đến 15 – 16 tuổi vẫn chưa có kinh nguyệt và bổ sung viên sắt
theo chỉ định của bác sĩ. Trẻ nam phải biết phát hiện những bất thường về cơ quan sinh dục
của mình để đi khám kịp thời; không mặc quần lót bó sát, quá chật. Tránh xa hình ảnh,
phim ảnh, trang web đồi trụy, khiêu dâm. Không nên quan hệ tình dục trước tuổi trưởng
thành. Nếu quan hệ tình dục cần thực hiện tình dục an toàn.
HẾT
117
118