Professional Documents
Culture Documents
o O o
Bài 122:
Hỏi về:
Phương pháp luyện thở
TU CHÂN NỘI LÝ ĐỒ
Luyện thở khí công theo phương pháp Đại Thừa Cửu Chuyển
Khí Công Y Đạo áp dụng những khẩu quyết tập luyện thở theo Đại Thừa Cửu Chuyển của
các tiên gia.
Theo đồ hình Tu Chân Nội Lý Đồ (đã giảng trong DVD Tu Chân Nội Lý Đồ)
Cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt, hít thở bằng mũi, dùng ý theo dõi hơi thở tự nhiên
hoà hoãn.
Con đường tu luyện khí công của Khí Công Y Đạo VN (Chùa Quan Âm,Montreal)
1-Dẫn khí đi từ tổng căn của Kỳ Kinh Bát Mạch là Sanh Tử Khiếu, sau thông Vĩ Lư,
Giáp Tích, Ngọc Chẩm đến não vào Nê Hoàn (thông Mạch Đốc)
2-Từ huyết quản Diên Tủy giữa đại não đi xuống Huyền Ưng thông xuống xương hàm
trên, chân khí tiết ra.
3-Đi xuống Thập Nhị Trùng Lầu qua động mạch phế vào huyết phòng tâm bên hữu tới màn
cách mô là ống huyết của can phòng gọi Giáng Cung ở dưới tim 1 tấc 2.( Đan Điền
Thần)
4-Đi xuống tới Khí huyệt (Đan Điền Tinh) đến cung Cao Hườn (chân khí huyệt) trở lên
Sanh Tử Khiếu (thông mạch Nhâm, rồi nối vào Mạch Đốc).
Tập thở thông Mạch Đốc-Nhâm nhiều lần để chuyển hóa khí huyết, theo Mạch Đốc hít
vào, theo Mạch Nhân thở ra.
Nhiều nhà khí công cho rằng thở như vậy là thở sai với phương pháp khí công, nghịch
đường kinh, nhưng phương pháp tu tiên làm trẻ hóa tế bào, chống lão hóa, trở lại
đời sống của thanh thiếu niên, cần phải đi ngược dòng theo khẩu quyết sau đây :
Bắt đầu từ Vĩ Lư lên GiápTích, Ngọc Chẩm vào Nê Hoàn rồi cho giáng xuống Huyền Ưng
qua Trùng Lầu tới Giáng Cung vào Chân Khí Huyệt gọi là một vòng chu thiên.
Tiến dương hỏa, thối âm phù thì dương tinh sẽ hóa ra Nguyên khí.
PHẦN HAI : THÔNG KHÍ BÁT MẠCH (Thở Vòng Đại Chu Thiên)
Là thông khí cho cả thân thể, khí huyết lưu thông đầy đủ, trăm bệnh mới do đâu mà
sinh được. Mỗi sáng thức dậy, vận khí khơi bát mạch nhiều lần để trục tà khí mới
kiết đơn được .
Tập hít vào gọi là Hấp, thở ra gọi là Hô, Hấp-Hô 10 lần là thông được Kỳ Kinh Bát
Mạch theo khẩu quyết sau :
3-Hấp từ Sanh Tử Khiếu lên Đới Mạch vòng 2 bên tới Yêu Nhãn lên đỉnh vai.
4-Hô từ đỉnh vai đi phía Mạch Dương Duy qua ngón tay giữa vào Lao Cung
5-Hấp từ Lao Cung theo Âm Duy Mạch lên vai trước ngực
6-Hô từ đỉnh vai xuống Đới Mạch gặp nhau ở Khí Hải về Sanh Tử Khiếu
7-Hấp từ Sanh Tử Khiếu lên Cưu Vĩ (Xung Mạch, nơi Đan Điền Thần)
8-Hô từ Cưu Vĩ xuống Sanh Tử Khiếu tẽ ra hai bên chân theo Dương Kiều Mạch vào Dũng
Tuyền
9-Hấp từ Dũng Tuyền theo Âm Kiều Mạch lên Chân Khí Huyệt (Đan Điền Tinh)
Ngoài những khẩu quyết tập thở để luyện mạng phải cùng lúc tu tánh, kiên trì theo
thời gian Tánh -Mạng song tu theo trình tự sau :
Phương pháp thở của tiên gia là thở theo kinh mạch, biết lúc nào tiến, lúc nào
thoái, biết quy luật âm dương, ngũ hành, tạng phủ, biết sự biến hóa của trời đất,
biết sự khí hóa của cơ thể, biết sự chuyển dịch của lục kinh lục khí, hiểu rành về
kinh mạch huyệt đạo. Từ đó biết vận dụng khí để tích lũy được nguyên tinh, nguyên
khí, nguyên thần. Chỉ riêng một câu khẩu quyết thứ nhất cũng đã phải mất hơn 10 học
và hành để hiếu được sự kỳ diệu của khí.
Khí của trời là Càn, tượng quẻ là 3 gạch liền (Càn tam liên). Khí của đất là Khôn,
tượng quẻ 3 gạch đứt đoạn thành 6 đoạn (Khôn lục đoạn)
Con người thu hút khí của trời và đất vào cơ thể. Lấy một gạch giữa của Càn, nên
quẻ Càn bị khuyết ở giữa biến thành quẻ Ly thuộc tâm hỏa. Lấy một gạch giữa của
Khôn, nên qủe Khôn biến thành quẻ Khảm thuộc thận thủy. Khi hít thở đúng như vậy
hỏa khí của tâm theo tam tiêu xuống Mệnh môn biến thận âm thủy ra âm khí, giùp chức
năng thận âm, thận dương tạo ra thuốc nội dược nuôi cơ thể khỏe mạnh không bệnh
tật, vì thế mới có câu : Khuyết hỏa thiếu Khôn thu vạn linh.
Khi Tâm-Thận (hỏa thủy) giao nhau không xung khắc ngũ hành, cũng giúp cho Gan mộc,
Phế kim giao hòa không xung khắc, hợp lại thành tứ tượng, nên mới có câu : Mộc thái
càn giao hòa tứ tượng.
Cứ tiếp tục tập thở dương từ trên đi xuống qua Mạch Nhâm, âm từ dưới đi lên qua
Mạch Đốc, lên xuống điều hòa quy luật tam tài thiên-nhân-địa sẽ tích lũy được tinh
ba của trời đất để biến thành nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần hòa hợp.
Phương pháp này gọi là Đại Thừa Cửu Chuyển theo lời dặn sau đây :
Đại Thừa phải cần tìm nơi thanh khí mà hòa hiệp âm dương, điều hòa đủ 8 lượng chân
dương, 8 lượng chân âm làm thành 1 cân đại dược tại cung Ly (Đan Điền Thần, Huỳnh
Đình Cung, rồi điều dưỡng đủ thập ngoạt (10 tháng) hoài thai, tam niên nhũ bộ (3
năm bú mớn, nuôi lớn) thì cái chân thần mới giao tiếp tiên thiên mà nhập xuất Thiên
Môn được…
(7 thể : 1-thân xác, 2-phách, 3-vía, 4-hạ trí, 5-thượng trí, 6-kim thân, 7-tiên thể
)
Khai Thông Kỳ Kinh Bát Mạch Vòng Đại Chu Thiên bằng bài tập thể dục động công theo
băng DVD dưới đây luyện tập mỗi ngày:


Chú Thích :
Có 2 nơi gọi là Hư Vô Huyệt Lý, một ở nơi Đan Điền Thần gọi là Ứng Cốc Giáng Cung,
một nơi đã thành tiên (có hình người tu luyện ở trên bộ đầu, có tứ thông, như nhãn,
nhĩ, tha tâm thông, thần túc thông).




Đặt tay vào Thiên Môn (đỉnh đầu), khi thở vào hay bậc thầy đưa khí vào bằng một lực
bức xạ sẽ khai mở Luân Xa 7. Nhiều người tập Tiểu Chu Thiên, mà không tập cho khí
ra vào Thiên Môn, nên hỏa khí chưa đủ tạo ra bức xạ nhiệt mà cứ tụ nhiệt ở đỉnh đầu
không có lối thoát, làm nóng nhức đầu thành tẩu hỏa nhập ma.
Đặt tay vào Ấn Đường (con mắt thứ ba), hay khi tập thở theo Trục Chẩm-Ấn, hay bậc
thầy đưa khí vào bằng một lực bức xạ sẽ khai mở Luân Xa 6 là con mắt thứ ba, người
tập sẽ thấy được màn hình.
Đặt tay vào Đan Điền Thần khi luyện thở, hay bậc thầy đưa khí vào bằng một lực bức
xạ sẽ khai mở Luân Xa 4.
Đặt tay vào Đan Điền Tinh khi luyện thở đến mức khí tạo ra một lực bức xạ sẽ khai
mở Luân Xa 3.
Khí công chữa bệnh, không đụng đến Vĩ Lư Quan nằm ở Luân Xa 1, chỉ khi nào tập theo
Tu Chân Nội Lý Đồ, trong bài Thông Khí Bát Mạch, Thông Tinh Bát Mạch, Thông Đại Chu
Thiên để nâng cao trình độ tâm linh mới sử dụng đến nhiều.
Tăng hỏa khí cho Mệnh Môn, dẫn khí từ Đan Điền Thần qua Mệnh Môn ở Luân Xa 2.
Tăng thủy khí cho Mệnh Môn. dẫn khí từ Đan Điền Tinh qua Mệnh Môn ở Luân Xa 2.
Lấy thuốc tiên đơn ở Lư Đảnh từ Đan Điền Thần xuống Đan Điền Tinh qua Mệnh Môn.
Luân Xa 5 nơi huyệt Thiên Đột ở cổ họng là nơi hỏa khí và thủy khí giao hội, nên
phải cuốn lưỡi ngâm miệng, nối vòng Nhâm-Đốc gọi là Thượng Kiều (cầu nối trên), và
nhíu hậu môn là Hạ Kiều (cầu nối dưới), mỗi khi dẫn khí qua, để chuyển hóa Tinh hoá
Khí, Khí hóa Thần, Thần hoàn Hư.