Professional Documents
Culture Documents
LỤC PHỦ
Đởm, vị, đại trường, tiểu trường, bàng quan, tâm tiêu gọi là lục phủ. Công năng của lục phủ là tiêu hoá thức
ăn uống, hấp thu và phân bố tân dịch, bài tiết phế liệu và cặn bã, chỉ nên tả ra mà không nên tàng chứa cho
nên lục phủ lại có tên là “phủ truyền hoá”.
ĐỞM
Đởm bám vào gan, công năng sinh lý của đởm vừa có quan hệ tới sự tiêu hoá của thức ăn, vừa quan hệ tới
hoạt động tinh thần. Vì thế đởm vừa được xếp vào lục phủ, vừa được xếp vào phủ kỳ hằng. Đởm chứa nước
mật, cho nên đởm lại được gọi là “phủ trung tinh”; Nước mật có vị đắng, cho nên khi đởm khí nghịch lên thì
có chứng miệng đắng. Nếu nước mật tiết vào vị, theo vị khí nghịch lên, thì thành chứng nôn ra nước đắng.
Tinh của đởm là cương trực, cương thì hào hùng quả cảm, cho nên thiên linh đan bí điểm luận sách Tố Vấn
gọi đởm là chức vụ trung chinh, chủ việc quyết đoán. Người có đởm khí hào hùng thì khí của ngũ tạng lục
phủ cũng vì đó mà cương thịnh dù có bị kích thích từ ngoài tới sự việc qua thì trở lại bình thường ngay được
đó là cái lẽ thường nói: “Khí nhờ đởm mà mạnh, tà không can phạm được”. Trái lại, người đởm khí hư
nhược hễ bị kích thích từ ngoài tới thì khí huyết rối loạn, thường gây thành bệnh. Ngoài ra, người đởm hư
yếu cũng thường có những chứng tinh thần thất thường, mất ngủ hay sợ sệt, trong lòng nơm nớp không yên.
VỊ
Vị ở dưới cách mạng, trên tiếp với thực quản, dưới thông với tiêu trường, miệng trên gọi là “bí môn”, miệng
dưới gọi là “u môn”, bí môn cũng gọi là “thượng quản”, u môn cũng gọi là “hạ quản” ba vùng gọi là “vị
quản”. Thức ăn uống từ miệng vào, qua thực quản rồi vào vị cho nên vị gọi là “đại thượng”. Cái kho lớn
hoặc gọi là “bể của thủy cốc”.
Vị có công năng thu nhận và tiêu hoá cơm nước, nếu vị có bệnh thì sẽ xuất hiện các chứng vùng bụng
chướng đau, chướng đầy, tiêu hoá không tốt, đói không muốn ăn, nôn mửa, nuốt chua, hoặc tiêu cơm chóng
đói.
Khí huyết của cơ thể là chất tinh vi trong đồ ăn uống hoá sinh, bắt nguồn ở vị. Vì thế vị vừa là bể của thủy
cốc, vừa là nguồn gốc của khí huyết. Sự vận động của lục phủ ngũ tạng, chân tay xương khớp đều nhờ vào
sự dinh dưỡng của khí huyết, cho nên người có vị khí sung bại không thu nhận được cơm nước thì tiên lượng
phần nhiều là không tốt. Người xua có nói: “ăn được thì tốt, không ăn được thì chết” tức là nói về tình huống
này.
TIỂU TRƯỜNG
Phía trên, tiểu trường tiếp với u môn, thông với vị, phía dưới tiếp với “Hạ lan môn” thông với đại trường.
Công dụng chủ yếu của tiểu trường là phân biệt thanh trọc, cơm nước trong vị sau khi đã chín nhừ đi qua u
môn chuyển xuống tiểu trường, tại đây lọc lựa ra thứ thanh thứ trọc, thanh là tân dịch, trọc là cặn bã, thanh
thì được hấp thu chuyển vào các bộ phận, cuối cùng thì thấm vào bàng quang; trọc thì chuyển xuống đại
trường. Cho nên thiên linh đan bí điểm luận sách Tố Vấn nói: “Tiểu trường giữ chức vụ thu thành, vật biến
hoá từ đó mà ra”. Nếu tiểu trường mất chức năng gạn lọc, không tách ra được thanh trọc, thì thủy dịch ở
bàng quang sẽ giảm sút, tiểu tiện ngắn, ít, thậm chí bí đái, đồng thời cả thanh và trọc trong tiểu trường đều
dồn xuống đại trường mà có chứng đại tiện lỏng.
ĐẠI TRƯỜNG
Đại trường bao gồm 2 bộ phận: hồi trường và trực trường, đầu cuối trực trường gọi là giang môn (phách
môn). Đại trường có công dụng hấp thụ phần nước gọi là “tế bí biệt trấp” vì cặn bã ở tiểu trường dồn xuống
sau khi được đại trường hấp thụ phần nước mới thành phân. Vì thế đại trường là một cơ quan truyền tống
cặn bã và làm cho cặn bã thành hình. Cho nên thiên linh đan bí diễn luận sách Tố Vấn nói: “Đại trường giữ
chức truyền tống, vật đã biến hoá từ đấy mà ra”. Nếu đại trường hư hàn, mất công năng “tế bí biệt trấp” thì
có các chứng sôi bụng đau xoắn ỉa chảy. Trái lại, đại trường thực nhiệt, dịch ruột khô ráo thì xuất hiện chứng
táo bón.
BÀNG QUANG
Bàng quang ở vùng bụng dưới, là chỗ chất nước dồn góp lại. Công dụng của bàng quang là bài tiết nước tiểu
cất giữ tân dịch. Nước tiểu là sản vật của quá trình khí hoá, cũng như mồ hôi từ tân dịch hoá ra, cho nên
thiên linh bí điển luận sách Tố Vấn nói: “Bàng quang giữ chức châu đô tân dịch chứa ở đó, khí hoá thì có thể
thải ra”.
Nước tiểu từ tân dịch hoá ra, tân dịch thiếu, ít thì có chứng đái không thông. Trái lại, đái quá nhiều thì hao
tổn tân dịch. Cho nên bàng quang có tác dụng chủ việc thải nước tiểu và giữ tân dịch lại.
TAM TIÊU
Tam tiêu là đường nguyên khí phân bố thức ăn uống chuyển hoá ra vào, chủ khí, chủ thủy, coi toàn bộ hoạt
động khí hoá trong cơ thể.
Duy trì quá trình khí hoá chủ yếu nhờ nguyên khí mệnh môn. Khí hơi thở và khí cơm nước ở tràng vị.
Nguyên khí mệnh môn là khí căn bản của tam tiêu. Nguyên khí đi vào tam tiêu phân bố khắp người để thúc
đẩy mọi hoạt động sinh lý của các tổ chức cơ quan. Khí trời do phế khi hấp thu vào, giao khí với khí cơm
nước của tràng vị tại khí hơi nhờ tác dụng túc giáng của phế và sự hoạt động của tâm mạch, tuyên tán khắp
trong ngoài để cung cấp dinh dưỡng. Cốc khí (khí cơm nước) nguyên khí, phế khí, nhờ đường tam tiêu mà
vận hành khắp trong ngoài toàn thân, thấu khắp 12 kinh mạch, ngũ tạng lục phủ, cơ nhục, hoàn thành cả loạt
tác dụng khí hoá của cơ thể.
Nói khí hoá, tức là làm cho những vật chất nào đó trong cơ thể hoá thành khí, khí lại hoá thành một số vật
chất nào đó trong cơ thể. Đó cũng chính là qúa trình sinh hoá của sự hoá khí, hấp thụ thành hình bài tiết các
thức của đồ ăn uống trong cơ thể. Cho nên thiên vinh vệ sinh hội sách Linh khu nói: “Thường tiêu như
sương mù, trung tiêu như bọt nước sủi, hạ tiêu như nước chảy”
Sương mù là hình dạng khí thượng tiêu man mác như sương mù, xủi là hình dạng thức ăn uống chín nát ở
trung tiêu, nước chảy là hình dạng chất nước ở hạ tiêu được thải ra. Cho nên nói tam tiêu là đường ra vào của
thức ăn uống, chủ việc tuần hoàn và bài tiết thủy dịch của cơ thể.
Như những điều nói trên, tam tiêu có hai công năng chính: là chủ trì các khí, hai là thông điều đường nước
nhưng tam tiêu có chia ra thượng, trung, hạ và mỗi phần đều có đặc điểm riêng, nay trình bày từng phần sau:
a) Thượng tiêu: từ họng xuống đến miệng trên dạ dày, công dụng chủ yếu của thượng tiêu là:
· Thu nạp chất ăn uống không để nôn ra ngoài
· Tiếp thu khí thủy cốc từ vị ra, phân bố khắp vùng cơ biểu toàn thân, để ôn dưỡng cho cơ nhục,
các khớp và da dẻ.
b) Trung tiêu: Ở trung quản vị (từ miệng trên dạ dày xuống miệng dưới dạ dày). Công dụng chủ yếu của
trung tiêu là:
· Chín nhừ thức ăn uống, chứng hoá tân dịch
· Tiếp thu tinh khí của thủy cốc, hoá sinh ra sinh khí
c) Hạ tiêu: Từ trung tiêu xuống chỗ vùng bụng dưới, công dụng chủ yếu của hạ tiêu là: gọn lọc chất thanh,
chất trọc, bài tiết chât bỏ đi, khí của hạ tiêu đi xuống chủ đưa ra mà không nhận vào.
Như trên có thể thấy được thượng, trung, hạ, tam tiêu bao gồm đủ ngũ tạng lục phủ, 12 kinh mạch, có những
công dụng hô hấp, tiêu hoá thức ăn uống, hấp thụ, bài tiết sinh hoá khí huyết. Cho nên mới có công dụng của
tam tiêu quan hệ với công năng khí hoá của toàn bộ cơ thể.
NGŨ TẠNG
Ngũ tạng bao gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, 5 thứ này đều có cùng dạng tàng chứa tinh khí. Tinh khí là cơ sở
của hoạt động sinh mệnh chỉ nên cất giữ lại mà không nên tản ra cho nên gọi là ngũ tạng.
Tâm (phụ thêm tâm bào và đản trung)
Tâm là chủ đề sự hoạt động sinh mệnh của cơ thể, các tạng trong cơ thể phân công hợp tác dưới sự thống
lĩnh của tâm mốc có thể hoạt động theo quy luật nhất định được. Vì thế, ảnh hưởng của tâm đối với sinh
mệnh rất lớn, công năng chủ yếu của tâm biểu hiện ở 2 mặt như sau:
1. Tâm chủ thần minh:
“Thần minh” là hoạt động của tinh thần, ý thức tư duy, “tâm chủ thần minh” là nói tâm làm chủ đề hoạt
động ý thức, tư duy. Cho nên trên lâm sàng thấy những bệnh có liên quan tới “thần kinh” như: hồi hộp,
phiền nóng trong tim hoảng sợ, mất ngủ, nói sảng, hôn mê, cười không nghĩ vv… phần nhiều quy vào phạm
vi bệnh của tâm, hoặc cho là có quan hệ với tâm.
Ngũ tạng lục phủ dưới sự chủ đề của “thần” tiến hành hoạt động sinh lý nhịp nhàng thống nhất với nhau.
Nếu tâm có bệnh, thần không tự chủ được thì hoạt động của tạng phủ sẽ mất nhịp nhàng cân đối, làm cho
sinh lý bị rối loạn, mà sinh ra bệnh. Chính vì tâm chủ thần minh, làm chủ của ngũ tạng lục phủ nên mỗi khi
bị tà khí xâm phạm thì uy hiếp rất lớn đến sinh mệnh. Cho nên thiên linh đan bí điểm luận sách Tô Vấn nói:
“Tâm giữ chức vụ quân chủ, thần minh từ đó mà ra…Cho nên chủ không sáng suốt thì 12 tạng đều nguy”.
2. Tâm chủ huyết mạch, tinh hoa của tâm phô ra ở mặt:
Huyết là do tâm làm chủ, mạch là do đường ống của huyết lưu hành, tâm với huyết mạch phụ thuộc chặt chẽ
với nhau. Trong việc thúc đẩy sự vận hành tuần hoàn của huyết dịch, tuy tâm với mạch có sự hợp tác với
nhau, nhưng làm nên tác dụng chủ động vẫn là tâm. Vì thế huyết tuy có công năng dinh dưỡng vẫn phải nhờ
vào sự hoạt động của tâm mạch. Màu sắc tươi tốt của 3 thứ tâm huyết mạch phản ánh ra ở mặt, cho nên theo
sự biến đổi màu sắc ở mặt, có thể biết được sự thịnh, suy, hư thực của 3 thứ tâm, huyết mạch điều này giúp
phần nào cho việc chẩn đoán lâm sàng.
Nếu người có công năng của tâm thần được kiện toàn huyết mạch được thịnh vượng thì sắc mặt hồng nhuận
sáng bóng có thần, trái lại thì nhợt nhạt, không tươi. Nếu huyết vận hành bị trở ngại, huyết dịch bị ngừng trệ
thì sắc mặt hay thấy xám đen, nếu huyết ngừng đọng không lưu thông, mất dinh dưỡng thì chẳng những sắc
mặt bị sạm đen mà còn khô như củi nữa.
Tâm chủ thần minh, lại như huyết mạch, thần nhờ huyết khí mà tươi sáng, huyết khí mà bất hoà thì thần
minh thường cũng mất bình thường. Cho nên tâm khí hư thì thần sút kém mà buồn bã.
Tâm khí thịnh thì thần mạnh khoẻ mà cười luôn.
Hoạt động của thần minh cũng ảnh hưởng đến huyết mạch, nếu lo buồn tư lự quá độ thì tổn thương tâm khí.
Sự hoạt động của ngũ tạng, lục phủ, lại cần nhờ vào sự nuôi dưỡng của khí huyết. Vì thế hoạt động của thần
minh, huyết mạch, tạng phủ có liên hệ chặt chẽ với nhau; từ đó mà đã nói rõ được tâm là chủ thể sự hoạt
động sinh mệnh của cơ thể là chủ toàn diện.
Phụ thêm: tâm bào lạc và đản trung
Tâm bào lạc là cái màng ở ngoài bọc lấy tim, lạc bám vào màng là đường của khí huyết thông hành, gọi
chung là tâm bào lạc. Tâm bào lạc (là tổ chức phần ngoài của tạng tâm) có tác dụng bảo vệ tâm – tà khí xâm
phạm vào cơ thể nói chung đều từ ngoài vào trong, từ biểu vào lý cho nên tà khí phạm tâm trước tiên là
phạm vào tâm bào lạc – Tà ở tâm bào đã có thể ảnh hưởng đến công năng mà xuất hiện ra chứng tạng của
tâm, cho nên bệnh tâm thường được gọi là như vậy, phần nhiều chỉ vào tà khí ở bào lạc của tâm mà không
phải thật đúng là bệnh của tâm.
Đản trung ở chỗ giữa hai vú trên ngực là chỗ tụ tập của tôn khí gọi là “khí hải”. Tôn khí là động lực của
huyết mạch vận hành và hô hấp, ngôn ngữ. Tâm chủ huyết mạch, phế chủ khí, coi về thanh âm cho nên bệnh
của đản trung phần nhiều có liên quan tới tâm, phế khí hải không đủ, thì thiếu khí không đủ để nói, khí hải
dồi dào thì khí đầy ở lồng ngực ảnh hưởng đến phế thì sinh bệnh khó thở, ảnh hưởng tới tâm thì thấy chứng
mặt đỏ.
CAN
1. Can chủ sơ tiết:
Can chủ sơ tiết, coi sự phân bố dương khí của toàn thân, tương ứng với khí sinh phát của mùa xuân.
Khí của can thường cấp bức mà dễ càng thịnh, thích vươn chải thoải mái mà ghét gò bó uất trệ, cho nên thiên
linh đan bí điển luận sách Tố Vấn ví can là: “giữ chức tướng quân”. Nếu can khí hữu dư thì làm cho người ta
hay sợ sệt, hay kinh khiếp. Nếu can khí sơ tiết quá độ, can dương càng thịnh lên thì sẽ xuất hiện chứng đầu
mặt choáng váng, mắt đỏ, chảy máu mũi, nếu can khí bị uất ức, không sơ tiết được thì thành bệnh can khí uất
kết như những chứng ngực khó chịu, sườn đau.
2. Can tàng huyết:
Can tàng huyết khác với tâm chủ huyết, can tàng huyết là chỉ vào việc điều tiết lượng huyết, tâm chủ huyết
là chỉ vào sự vận hành tuần hoàn của huyết dịch.
Sự hoạt động của các bộ phận trong cơ thể, cần phải nhờ sự dinh dưỡng của huyết dịch, lượng lưu thông của
huyết dịch lại thường tùy thuộc vào sự lao động nghỉ ngơi, động tĩnh nên có sự thay đổi. Khi vận động mạnh
thì lượng lưu thông của huyết cần phải tăng thêm. Khi nằm ngủ thì lượng lưu thông của huyết lại giảm bớt,
công năng điều tiết lượng huyết như vậy là nhờ vào can. Cho nên thiên ngũ tạng sinh thành sách Tố Vấn nói:
“người ta ngủ thì huyết vào can”. Nếu can mất chức năng tăng huyết thì sẽ xuất hiện chứng ngủ đêm không
yên.
3. Can chủ gân:
Tinh hoa của can phô ra ở móng tay, móng chân. Gân bám vào xương, sự thu co dãn duỗi của gân chủ về
việc vận động của khớp xương. Sự dinh dưỡng cần thiết cho gân lại nhờ vào sự cung cấp của can. Vì thế
bệnh ở gân phần nhiều có quan hệ với can.
Ví dụ: Người già động tác chậm chạp, vận động không nhanh nhẹn là vì can không dinh dưỡng cho gân, vì
sự thu co dãn duỗi của gân bị thất thường mà xuất hiện chứng co giật cấp tính cũng thường có quan hệ với
bệnh can.
“Can chủ cân” “móng tay là phần thừa của cân” màu sắc hình thái của móng tay có quan hệ rất lớn đến can
và cân. Nói chung sức cân khoẻ mạnh thì móng phần nhiều là mềm. Can đởm có bệnh thì móng tay dài băng
ra, cho nên người bệnh can nhiệt thì hay thấy chóng mặt, da xanh, móng khô.
TỲ
1. Tỳ chủ việc vận hoá:
Sự tiến hoá hấp thụ thức ăn và quá trình vận chuyển tân dịch là do sự chung sức hợp tác với nhau của tỳ và
vị mà nên việc. Tiêu hoá thức ăn là công năng của vị, mà hấp thu vận chuyển các chất dinh dưỡng lại cần
nhờ vào tỳ. Cho nên tỳ là tạng vận hành tân dịch cho vị phải thông qua đường kinh mạch để phân tán hoàn
thành. Vì là các kho cấp dưỡng cho ngũ tạng lục phủ, đường kinh mạch túc thái âm thông với vị thuộc vào
tỳ, tân dịch trong vị do tỳ hấp thụ, thông qua đường kinh mạch túc thái âm mà vận chuyển vào kinh túc
dương minh với thái âm kinh có quan hệ biểu lý với nhau cho nên tân dịch được tỳ hấp thu cũng thông qua
đường kinh túc dương minh mà phân bố đến 3 kinh dương.
Tóm lại, các bộ phận trong cơ thể cần phải nhờ vào sự luân chuyển tân dịch của tỳ mới được nuôi dưỡng như
thế quá trình tỳ chứa việc vận hoá chất tinh vi trong đồ ăn uống cũng là cái lẽ mà thầy thuốc đời sau gọi tỳ là
“nguồn gốc của hậu thiên”.
Trong quá trình tiêu hoá đồ ăn uống hấp thu chất dinh dưỡng phân bố tân dịch, tuy tỳ với vị mỗi thứ làm chủ
một mặt nhưng hai thứ này vẫn ảnh hưởng lẫn nhau vì thế tỳ có tính thấp (ướt) mà chỉ việc đưa lên, vị có
tính chất (khô) mà chủ việc đưa xuống tỳ thấp vị táo, táo với thấp cũng làm việc chung nấu thức ăn mới
được tiêu hoá. Tính vị chủ việc đưa xuống cho nên cơm nước mới được đưa xuống dưới. Tính tỳ chủ việc
đưa lên, cho nên tân dịch nhờ đó mới được tiếp thu, mộc thấp, mộc táo, mộc thăng, mộc giáng mới có thể
hoàn thành được toàn bộ qúa trình vận chuyển thức ăn.
Tỳ tuy tính thấp, nhưng lại có thể vận hoá thủy thấp, khi thủy thấp của người ta nhờ sự vận hoá của tỳ mới
có thể bài tiết liên tục mà không ứ đọng lại. Nếu tỳ hư không chuyển vận mạnh mẽ được thì sẽ làm cho thủy
thấp ngưng đọng, thậm chí sinh ra các bệnh đàm ẩm, phu thủy. Thủy thấp ngưng đọng lại trở ngại đến hoạt
động cơ năng của tỳ, như vậy gọi là “thấp hại tới tỳ thổ” đời sau theo lẽ này mà nói là “tỳ chủ thấp mà lại
ghét thấp”.
2. Tỳ chủ về tay chân:
Tay chân nhờ dương khí mà hoạt động, dương khí hoá sinh ra được từ các chất tinh vi trong đồ ăn uống, bắt
nguồn ở vị, chuyển vận ở tỳ. Vì thế sức hoạt động mạnh hay yếu của chân tay có quan hệ chặt chẽ với tỳ.
Nếu tỳ không thể thay cho vận hành tân dịch thì tay chân không được ôn dưỡng của dương khí mà không có
sức vận động, lâu ngày có thể thành chứng tay chân bại liệt, không chủ động được.
3. Tỳ cơ nhục tươi tốt ra ở môi:
Thức ăn uống vào vị, qua sự vận hoá hấp thu của tỳ để dinh dưỡng cơ nhục. Công năng của tỳ mạnh khoẻ,
cơ nhục được nuôi dưỡng đầy đủ thì người béo đẫy. Nếu tỳ bị bệnh đến nỗi bị trở ngại cho sự tiêu hoá hấp
thu, cơ nhục không được dinh dưỡng đầy đủ thì người sẽ vàng gầy dần dần, cho nên thiên suy luận sách Tố
Vấn nói: “Tỳ chủ về cơ nhục của toàn thân”. Tỳ và vị là biểu lý với nhau, kinh mạch của vị vòng quanh
miệng môi. Tỳ vừa chủ về cơ nhục lại vừa có mối quan hệ bên trong với miệng môi. Theo sự phân đổi màu
sắc hình thái của miệng môi, có thể phản ánh được bệnh của tỳ, vị, cơ nhục. Thường thấy ở những người tỳ
hư dinh dưỡng không tốt thì môi miệng thường vàng úa không tươi. Nếu tinh khí của tỳ kiệt hết, cơ nhục
mất tính năng bình thường thì sẽ xuất hiện các chứng lưỡi liệt, môi lật ra (chỗ nhân trung đầy lên).
Vì bệnh của tỳ thường phản ánh ra ở cơ nhục môi, miệng, cho nên thầy thuốc xem xét màu sắc trạng thái của
cơ nhục môi, miệng thì có thể đoán biết được tình hình sinh lý, bệnh lý của tỳ, cũng có thể tiên lượng suy
đoán được bệnh của tỳ sẽ tốt hay xấu.
4. Tỳ thông huyết:
Tỳ có quan hệ chặt chẽ với huyết, huyết là tinh khí của đồ ăn uống hoá ra, bắt nguồn ở trung tiêu tỳ vị cho
nên thầy thuốc đời sau có nói: “tỳ là nguồn sinh ra huyết, tâm là tạng phủ về huyết”.
Tỳ chẳng những có thể sinh huyết mà còn có công dụng thống nhiếp huyết dịch. Tỳ khi khoẻ mạnh mới có
thể duy trì được sự vận hành bình thường của huyết dịch mà không bị tràn ra ngoài. Nếu tỳ khí hư suy, mất
chức năng thống nhiếp huyết dịch thì huyết dịch sẽ chảy tràn ra ngoài mạch mà xuất hiện các chứng xuất
huyết khác.
PHẾ