You are on page 1of 51

Chuyên đề: 

 Chế Lan Viên và quan niệm về thơ


  Phần I. Con đường thơ Chế Lan Viên.
Chế Lan Viên là người có năng khiếu thơ từ nhỏ, 17 tuổi, ông đã xuất bản tập Điêu tàn, xuyên suốt tập thơ là nỗi
buồn không dứt về thân phận mất nước. Nỗi buồn ấy dù mơ hồ nhưng có những nét đáng quí và có ảnh hưởng lớn
đến toàn bộ sáng tác của nhà thơ, đó là cơ sở để Chế Lan Viên nhận thấy ánh sáng của cách mạng, nhận đúng con
đường phải đi cho đời mình khi xảy ra sự lựa chọn quyết định. Ông có nhiều phát biểu mang chất tuyên ngôn nghệ
thuật đưa ra nhiều định nghĩa về thơ, diễn biến theo hành trình sáng tác hơn 50 năm. Cả cuộc đời cầm bút, con đường
thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều giai đoạn với những biến đổi trong tư tưởng và nghệ thuật nhưng hành trình thơ
thơ ấy vẫn thống nhất trong một con người - con người Chế Lan Viên.
I.Trước cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca lãng mạn với xu hướng thoát ly hiện
thực nhưng ở ông ta cũng thấy có quan điểm thẩm mỹ riêng. Ông đã viết trong lời tựa tập Điêu tàn “ Làm thơ là làm
sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là
Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xáo trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói
những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý”. Quả là Chế Lan Viên cùng với trường thơ Loạn “ muốn xác
lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ của đời thường” ( Hà Minh Đức ). Đó là một thế giới dị thường với
bóng tối, mồ hoang, sọ người, xương khô, máu tủy và hồn ma vất vưởng :
                        Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối
Mênh mang lên bát ngát tựa đêm sầu
Cho hồn phách say sưa trong giả dối
Về cõi âm chờ đợi đã bao lâu
Cách nhìn thế giới như vậy chịu ảnh hưởng khá rõ ở quan điểm mỹ học của thơ tượng trưng Pháp. Chế Lan Viên say
mê cái phi thường, ông đã tìm thấy cái” thiêng liêng” ở các nền tôn giáo và sau này ông bắt gặp cái “ cao cả phi
thường “ trong hiện thực cách mạng của dân tộc. Về phương diện nghệ thuật “ cái phi thường “ chính là sự độc đáo.
Và đây chính là nét nhất quán trong phong cách thơ ông.
 
II. Sau cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên từ bỏ thế giới quan siêu hình với quan điểm mỹ học có phần cực đoan “ kinh dị “ và từng bước hoàn
thiện thế giới quan cộng sản hiện thực cách mạng, khơi nguồn sáng tạo đưa ông từ lầu thơ với thế giới quan của “
trăng, mây “ về với cuộc sống thực tại của nhân dân. Ông nói về “ kinh nghiệm tổ chức sáng tác “ Trước hết chúng ta
làm văn nghệ là để tả sự thật. Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho người đọc, cố nhiên không chỉ nói cái cảm xúc
của ta mà nói cả sự việc” , ông nhìn lại thơ mình và” Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy - Chửa vì người
bằng một bữa cơm ăn “.Ông dứt khoát lựa chọn nhiệm vụ mới cho thơ: “Thơ xưa chỉ hay than mà ít hỏi- Đảng dạy
ta thơ phải trả lời”, “Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói- Chỉ nói thôi mới nói hết được lời” Ông đem thơ phục vụ lợi
ích cách mạng, xem thơ là vũ khí để cải tạo tư tưởng, xung trận chiến đấu:
Đây là quan niệm phù hợp với thời đại. Niềm say mê, sự độc đáo phi thường vẫn còn nhưng nhà thơ không để thơ rơi
vào cõi siêu hình huyền bí mà để nó giữa hiện thực hào hùng của nhân dân.
 
III. Những năm cuối đời:
    Quan điểm sáng tác văn học phục vụ sự nghiệp cách mạng, phản ánh hiện thực xã hội vẫn tiếp tục được phát huy.
Nhưng càng về sau, Chế Lan Viên càng bộc lộ những băn khoăn trăn trở. Chưa bao giờ là dễ dãi trong nhận thức, ông
không chấp nhận những lối chạy theo thời thượng, học đòi khi đất nước đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ, ông
hiểu rõ mình cần làm gì để văn chương phù hợp với bước đi của lịch sử, ông sẵn sàng chấp nhận câu thơ mình không
còn “ nguyên sắc đỏ “ với cuộc đời mà:
                        Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm, có ích quá một ngày
Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ đỡ khổ
Đúng cái ngày người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay .
                                                                            ( Thơ bình phương - đời lập phương )
Nhưng bản chất của nghệ thuật luôn không thay đổi nên ông rơi vào mâu thuẫn. Khi chiêm nghiệm về thơ:
                        Ở đất nước ta ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt
Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc
Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong cuộc sống thường...
Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ
                                                      Nghĩ mà thương!
                                                                                                                                                       
(Sử)
Những kinh nghiệm từng trải và quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi khiến nhà thơ không ham mê “ làm sự phi thường “
nữa. Ông mong muốn “ Vực sự sống ba chiều - lên trang thơ hai mặt phẳng “ nhưng không thể, ông chới với hoang
mang ngay những vấn đề cá nhân ông chọn lựa. Ông muốn tìm về cái bản ngã, đúng với yêu cầu của nghệ thuật “ Tất
cả phải lấy mình ra che chở - Tự sâu thẳm đời mình, sâu thẳm tận cùng sâu “
Nhưng rồi bệnh tật lấy đi mong ước cuối đời ấy; những Di cảo là sự bổ sung đầy ý nghĩa  cho hành trình tự nhận thức
và sáng tạo của ông. Ở giai đoạn này, ông cố gắng tìm đến sự dung hòa các quan điểm về thơ, các hình thức tư duy
thơ vốn tách bạch dẫn đến trái ngược ở hai giai đoạn trước:
                                Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xịt
Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa
Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
                                         Thơ không phản ảnh đời mình thì nó cũng phản ảnh những mùa hoa
                                                                                       ( Dệt thảm)
Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa
của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc
về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ  đối với cuộc sống.
Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đã đạt được trong quá trình sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự
phát triển của thơ ca Việt Nam  nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung.
 
Phần II. Quan niệm về thơ, sự luận bàn về thơ của Chế Lan Viên.
        Cũng như một số nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã bàn luận khá nhiều về thơ qua văn xuôi chính luận và sau này
được tập hợp lại trong những cuốn tiểu luận phê bình như: “Suy nghĩ và bình luận”, “Phê bình văn học”, “Bay theo
đường dân tộc đang bay”, “Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân”, “Nghĩ cạnh dòng thơ”, “Ngoại vi thơ”, “Nói
chuyện thơ văn”, “Vào nghề” ... Ông cũng bộc lộ quan niệm của mình về thơ qua các bài giới thiệu, các bài “tựa” và
“bạt” cho một số tác giả mà ông am hiểu và quý trọng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Tế Hanh. Bằng vốn
sống và vốn văn hoá uyên bác, bằng trí tuệ sắc sảo và trực cảm nghệ thuật tinh tế, những trang tiểu luận - phê bình
thơ của Chế Lan Viên đã đem đến nhiều thú vị bất ngờ cho độc giả.
 
     Phát biểu, bàn luận về thơ qua hàng loạt những bài văn chính luận kể trên, dường như Chế Lan Viên vẫn cảm thấy
mình chưa nói được nhiều về thơ. Sự suy nghĩ, trăn trở của ông còn được tiếp nối liên tục qua một loạt các bài thơ
viết về thơ. Đó chính là những quan niệm, những nung nấu, kiếm tìm của Chế Lan Viên về thơ nhưng đã được hoá
thân thành các hình tượng lung linh lắm sắc màu. Ở những bài thơ ấy, những nguyên lý trừu tượng khô khan đã được
ông nâng lên thành cảm xúc, hình ảnh, âm điệu ... nên dễ đi vào lòng người và để lại ấn tượng lâu bền. Từ mấy chục
năm qua, Chế Lan Viên đã được nhiều người thừa nhận là “nhà vô địch” về các tuyên ngôn thơ cả trong lý luận và
trong sáng tác. Và khi cần đến những dẫn chứng làm sán tỏ lý luận về thơ, mọi người thường nghĩ ngay
đến Chế Lan Viên. Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phát triển, biến
đổi song hành cùng các chặng đường tư tưởng và sáng tác của ông. Nếu xét theo chiều lịch đại, quan niệm về thơ
của Chế Lan Viên vận động qua ba thời kỳ: trước năm 1945, sau năm 1945 đến hết thập niên 70 và những năm 80
được thể hiện tập trung qua ba tập Di cảo thơ.
 
  1.Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình Định với cái tên khá
rùng rợn Trường thơ loạn. Thay mặt cho nhóm thơ này, ChếLan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ nổi tiếng trong lời
tựa tập Điêu tàn: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên. Tôi nói thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là
người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xối
trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”. Chính cái quan niệm độc đáo khác người này đã hướng hồn
thơ Chế Lan Viên đến một thế giới đầy “Kinh dị, lẻ loi và bí mật” như Hoài Thanh đã nhận xét về Điêu tàn.
      Tuy không có bài thơ nào viết riêng về thơ, nhưng rải rác đây đó trong tập Điêu tàn, chúng ta có thể thấy có một
số câu đã thể hiện khá đậm quan niệm của Chế Lan Viên về thơ.
 
     * Đối với ông, thi sĩ phải là người thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát ở cõi siêu hình bất tận:
      Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
      Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
      Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
      Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo.
                  (Những sợi tơ lòng)
·        Đối với ông, cảm xúc thẩm mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ của thơ chính là nỗi đau khổ khôn cùng của thi nhân
trên cõi trần gian.
      -Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
       Những sắc màu hình ảnh của trần gian
                       (Tạo lập)
       -Vì u buồn là những đoá hoa tươi
       Và đau khổ là chiến công rực rỡ
                  (Đừng quên lãng)
      Với một quan niệm về thơ như vậy lại gặp điều kiện mảnh đất Bình Định với gợi mở là thành cổ Đồ Bàn cùng
những ngọn tháp Chàm chứng tích của một dĩ vãng đau thương, uất hận đã hướng thơ Chế Lan Viên càng ngày lạc
sâu vào cõi siêu hình, mờ ảo để đến mức ông phải hoảng loạn thốt lên “Có ai không nắm giùm tay ta lại! Hãy bẻ
giùm cán bút của ta đi ! Lời thơ ta đầy những điệu sầu bi. Đầy hơi thịt, yêu ma cùng sắp chết” (Tiết trinh). Và ông
nghi ngờ chính sự tồn tại, hiện hữu của mình “Ai bảo dùm: Ta có, có ta không?”.
      Cũng chính quan niệm “làm thơ là làm sự phi thường”, quyết không đi lại những con đường của các nhà Thơ Mới
thời ấy, đã khiến cho Điêu tàn trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngay từ lúc ấy,
chính Chế Lan Viên đã ý thức được sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ mình:
       Đường về thu trước xa lắm lắm
       Mà kẻ đi về chỉ một tôi.
   2. Sau Cách mạng.Trong lúc Chế Lan Viên đang lạc vào cõi hư vô, siêu hình và ngày càng bi quan; bế tắc vì chưa
tìm được hướng đi cho đời, cho thơ mình, thì cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Chính cách mạng đã làm “Thay đổi
đời tôi, thay đổi đời tôi” như sau này ông từng khẳng định. Từ một người mộng mơ, suy tưởng về thế giới huyền ảo,
ông trở thành một người hành động. Ông chân thành tham gia vào hoạt động cách mạng cùng quần chúng nhân dân.
Ông sung sướng “được quên thơ đi” như quên một cái già không thiết thực với cuộc sống sôi động trước mắt. Tuy tư
tưởng chính trị và tình cảm của ông rất gần với cách mạng, với nhân dân, nhưng tư tưởng nghệ thuật và tư duy nghệ
thuật của ông vẫn còn một khoảng cách khá xa. Do đó, phải mất hơn 10 năm trăn trở trong cuộc “nhận đường”, Chế
Lan Viên mới có được sự thay đổi căn bản về quan niệm nghệ thuật và tư duy thơ. Tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời
vào năm 1960 đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Ánh sáng của Đảng và phù sa của
cuộc đời đã giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vương tới niềm vui chung của dân tộc. Và từ đây, những bài
thơ hay nhất của ông lần lượt xuất hiện. Và cũng từ đây, thơ ca cách mạng có được một loạt bài thơ viết về thơ mang
dấu ấn phong cách rất đậm nét của Chế Lan Viên.
      Qua thơ viết về thơ của Chế Lan Viên, chúng tá có thể thấy rõ quá trình chuyển hướng thơ của ông hoàn toàn
không dễ dàng, đơn giản.
      Xưa phù du mà nay đã phù sa
       Xưa bay đi mà nay không trôi mất
       Cho đến được lúa vàng đất mật
       Phải trên lòng bao trận gió mưa qua.
                  (Thư gửi Tế Hanh)
      Và cũng chính là nhờ “bao trận gió mưa qua” ấy trong cuộc đấu tranh, phấn đấu để tự vượt lên mình đã
giúp Chế Lan Viên “sáng mắt sáng lòng” trên con đường thơ cách mạng, để ông càng thêm tin tưởng, tự hào thực
hiện sứ mạng vinh quang của một nhà thơ chiến sĩ.
     * Trước hết, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến những vấn đề cơ bản nhất của thơ. Đó là mục đích của thơ, đối
tượng và mạch nguồn sức sống của thơ, là nhiệm vụ của nhà thơ trong sự nghiệp cách mạng. Và để giải đáp
được các vấn đề trên, Chế Lan Viên đã trả lời dứt khoát được câu hỏi về bản thể từ lâu đã làm ông suy tư, trăn trở:
      “Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
      Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
      “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bấc,
      Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
                  (Hai câu hỏi)
 
      Từ “Ta là ai?” đến “Ta vì ai?” là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là cả hai hướng đối lập nhau
trong quan niệm nghệ thuật. Mục đích của thơ ông giờ đây đã khác xưa: thơ phải vì cách mạng, vì nhân dân mà phục
vụ, mà hướng tới. Mục đích đã thay đổi thì đối tượng thơ cũng thay đổi. “Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người... Cho
ai cũ thơ tôi làm ướt áo. Nay họ về sưởi ấm giữa thơ tôi” (Nghĩ về thơ).
      Sống gắn bó với nhân dân, với thực tiễn cuộc đời, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ gắn bó hữu
cơ giữa thơ và đời, đời và thơ. Cũng là một nguyên lý quen thuộc của quan niệm Mácxít về văn nghệ: cuộc đời là cội
nguồn, là sức sống của nghệ thuật, nhưng vào thơ Chế Lan Viên, chân lý ấy trở nên cụ thể hơn, sinh động hơn, dễ đi
vào lòng người hơn nhờ những cách diễn đạt lung linh hình ảnh đa dạng của thơ ông:
       -Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép.
       -Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng.
       Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi!
       -Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình
       Những vui buồn đời ký thác cho anh.
      Từ tháp ngà của nghệ thuật, của cái tôi cá nhân quẩn quanh bế tắc trước đây, Chế LanViên đã từng xót xa và thấm
hiểu thứ thơ “vô ích” “cách xa” “đối lập” với cuộc đời thực: “Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”, từ đó ông
càng thấm thía thơ hôm nay cần có ích. Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi. Và để thơ hoàn thàNh sứ mệnh cao cả, nhà thơ
cần hoà mình vào cuộc sống của nhân dân, phải đi đến “Trăm miền đất nước”, để lắng nghe và rung động với âm
thanh ríu rít, tràn đầy sức sống của cuộc đời.
      Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
       Cơn nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
       Một tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe.
                       (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...)
      Một lần khác, quan niệm “nhà thơ phải bám sát cuộc sống hiện thực” lại được ChếLan viên hình tượng hoá thành
hình ảnh con tằm ăn trăm vạn lá dâu xanh, con ong cần mẫn hút nhụy của những vườn hoa trăm miền để tạo ra thứ tơ
óng ả, tạo nên chất mật ngọt cho đời.
      -Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật
       Mỗi giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay
       Nay rừng nhãn non Đoài mai rừng cam xứ Bắc
       Ngọt mật đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây.
                       (Ong và mật)
       -Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật
       Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ,
       Trong sáng tạo chúng ở hai đầu cực
       Nào con nào đã được nhởn nhơ.
                       (Thơ bình phương - Đời lập phương)
     Như vậy hiện thực cuộc sống chính là cội nguồn, bầu sữa mẹ nuôi dưỡng mọi
   hồn thơ chân chính.Song,đến cuộc sống như thế nào lại là điều Chế Lan Viên luôn nghĩ suy để tìm câu trả lời đúng
nhất. Đối với ông, thu thập vốn sống mới chỉ là bước khởi đầu, bởi sáng tạo thơ không phải là sự sao chép một cách
thụ động những gì trông thấy, nghe thấy, mà là một quá trình lao tâm khổ trí, là sự nghiền ngẫm về hiện thực, là ấp ủ
nung nấu sáng tạo lại vốn sống, vốn thực tiễn để tạo nên chất thơ tinh lọc, đẹp đẽ bởi trí tuệ, tài năng và tâm hồn của
nhà thơ. Đó là thứ “muối thơ” kết tinh từ đại dương bao la của hiện thực.
      Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể
       Muối lắng ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu.
                        (Nghĩ về thơ)
      Hiện thực cuộc đời phải biến thành câu chữ, hình ảnh, âm điệu trên mỗi trang thơ và từ đấy sức mạnh, sức nặng
của sự sáng tạo nghệ thuật mà nhà thơ tác động trở lại với cuộc đời, và tô điểm thêm cho bao sắc đẹp của sự sống.
 
      Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy.
       Lặng vào đời rồi lại ngoi lên.
                               (Nghĩ về đời, nghĩ về thơ, nghĩ ...)
      Chế Lan Viên là người trở đi trở lại nhiều lần bàn luận và khẳng định con mắt nhìn đời của nghệ sĩ. Đó không
phải là cách nhìn một chiều, xuôi chiều đơn giản về hiện thực, mà là cái nhìn đầy sức phát hiện ở “cái bề sâu, ở cái bề
sau và ở cái bề xa”.
      Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh Không chỉ “ơi hời” mà con đập bàn quát tháo lo toan,....
      Trong xu hướng thơ của ta trong những năm 60,70 đang còn quá thiên về việc làm say mê người đọc hơn là tác
động vào trí tuệ của họ thì hướng thơ có tác dụng thức tỉnh con người trên đây của Chế Lan Viên là một khuynh
hướng thơ có nhiều ý nghĩa đổi mới. Muốn làm được điều này, Chế Lan Viên quan niệm nhà thơ phải “chịu suy
nghĩ”, phải đào sâu, lật đi lật lại các vấn đề để phát hiện ra cái mới trong mạch ngầm của hiện thực, để có cách nói
mới, tác động sâu sắc vào trí tuệ người đọc. Do đó chúng ta hiểu vì sao ngay từ cách đặt tiêu đề các tập thơ và cách
đặt tiêu đề các tập thơ và các bài thơ như: Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường chim báo bão, Hoa trên đá, Người đi
tìm hình của nước, Đối thoại mới về câu chuyện cổ v.v... và hàng loạt bài thơ có tiêu đề “nghĩ” (Nghĩ suy 68, Nghĩ về
thơ, nghĩ...) đã là sự biểu hiện cho những nghĩ suy, trăn trở thường trực trong tư duy thơ của Chế Lan Viên. Ta hiểu
vì sao phẩm chất trí tuệ trong thơ ông lại trở thành một hạt nhân toả sáng lấp lánh bao sắc màu trên mỗi trang thơ, trở
thành một nét phong cách tiêu biểu nhất của thơ ông.
      Không chỉ quan tâm và bộc lộ quan niệm của mình về các vấn đề cốt lõi của nội dung thơ, Chế Lan Viên còn hết
sức chú ý đến các vấn đề của hình thức thơ. Ông đã công khai tuyên ngôn rất hàm súc, rất ấn tượng về sức mạnh và
vai trò của hình thức trong thơ:
      Hình thức cũng là vũ khí
       Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lý
                               (Nghĩ về thơ)
      Bây giờ đọc lại những câu thơ này có lẽ mọi người chẳng thấy điều gì mới mẻ. Nhưng nếu ta đặc nó vào thời
điểm những năm 60, khi ý thức nghệ thuật của toàn xã hội (từ sáng tác, nghiên cứu đến phê bình, tiếp nhận nghệ
thuật) trong một hoàn cảnh chiến tranh ác liệt đã đặc biệt đề cao mặt nội dung tư tưởng của tác phẩm, đề cao chức
năng giáo dục của văn nghệ thì dĩ nhiên rất nhiều người sợ bị quy cái mũ “duy mỹ”, “vị nghệ thuật”, nếu đề cao vấn
đề cái đẹp, đề cao hình thức của nghệ thuật. Do vậy, quan niệm trên đây của ChếLan Viên trở nên khá táo bạo. Trong
tiểu luận, phê bình, ông cũng khẳng định: “Đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức
đẹp” (Nghĩ cạnh dòng thơ – tr.136). Ở một bài thơ khác, Chế Lan Viên lại nhắc quan niệm trên bằng hình ảnh khác:
       Đời một thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
       Nhan sắc của  viên ngọc ư? Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi!
                        (Sổ tay thơ)
      Xét cho cùng, cái cốt tử làm cho tên tuổi nhà thơ, cái cốt tử khiến cho thơ sống mãi không chỉ là ở tư tưởng, ở nội
dung hay câu chữ. Tất cả là sẽ vô nghĩa nếu nó nằm trong bài thơ dở. Thơ hay, đó là mục đích tối hậu, là cái duyên
chinh phục của thơ. Chế LanViên đã nhận thức rất rõ điều ấy:
      Câu thơ hay như người con gái đẹp
       Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng.
                        (Sổ tay thơ)
 
      Và muốn trở thành cô gái đẹp ấy, nhà thơ phải luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo về hình thức (“Cuộc đời cần đẻ ra
nhiều hình thức/ Dù là ngọc thì cũng nhiều  viên ngọc/ Chứ phải đâu cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu”). Nhiều khi
nhà thơ phải biết vượt qua văn phạm cứng nhắc, vượt qua những “xác chữ” để vương tới vẻ đẹp “phi lý” của thơ:
      Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
       Như những cây quá thẳng chim không về.
                               (Sổ tay thơ)
      Cũng có khi nhà thơ phải là người “làm xiếc với ngôn từ” để sáng tạo ra những hình ảnh, những ý tứ mới lạ trong
thơ:
      Căng cái dây hình ảnh ngữ ngôn ngang qua
       Vực tâm hồn sâu thẳm
       Không bao giờ anh ở độ chùng dây.
                               (Nghĩ về thơ)
      Hình thức thể loại đối với Chế Lan Viên là phải hợp lý, cái gì đáng viết dài, cái gì đáng ngắn gọn là nội dung quy
định. Ông khuyên người và cũng tự nhắc mình:
      Đừng bóp cây đa thành củ thuỷ tiên
       Cô đúc bản trường ca thành bài tứ tuyệt
                               (Sổ tay thơ)
      Chế Lan Viên cũng là người sớm nhận ra một điều rất quan trọng của thơ: cần phải có giọng điệu thơ thích hợp
với thời đại mới:
      Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
       Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
       Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
       Khúc hát hay đâu có lắm lời
                        (Sổ tay thơ)
      Nói đúng ra, xưa, ông có giọng thơ ảo não, đau thương, rên rỉ. Ông khóc than cho một dân tộc đã bị tiêu vong,
ông gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại. Nay, thơ ông cần phải là tiếng nói khoẻ khoắn về cuộc đời,
là tiếng thét căm thù quân xâm lược, là khúc ca hùng tráng ngợi ca Tổ quốc, là tiếng thủ thỉ tâm tình với người thân
và bè bạn... Và như vậy, tựu trung lại khi bàn luận, phát biểu quan niệm của mình về hình thức
thơ,Chế Lan Viên sớm nhận ra từ kinh nghiệm từng trải của mình cái lý của hình thức. Đó không chỉ giản đơn là các
biện pháp nghệ thuật, mà sâu xa hơn, đó là bản chất của sự thống nhất giữa nội dung và hình thức để tạo nên một bài
thơ hay. Đó cũng chính là một đóng góp của Chế Lan Viên vào lý thuyết thi pháp học hiện đại.
3.Khi viết bài thơ đề tựa cho tập thơ “Hoa trên đá”, xuất bản năm 1984, Chế Lan Viên thổ lộ:
      Đời ngoài tuổi năm mươi
       Mong gì hương sắc lạ
       Mọc chùm hoa trên đá
       Mùa xuân đâu chịu lùi.
      Không phải. Bạn đọc nào cũng nhận ra rằng mùa xuân trong thơ ông vẫn bừng nở những hương sắc mới lạ, lại
quyến rũ bao người, ngay cả khi ông ngoài sáu mươi, thậm chí cận kề cái chết. Với ba tập Di cảo thơ, mà phần lớn
những bài thơ này được viết ở cuối đời, ông vẫn tiếp tục làm ngạc nhiên độc giả. Hàng loạt những bài thơ trong di
cảo vẫn tiếp nối những suy nghĩ không ngừng, không nghỉ của Chế Lan Viên trong quan niệm về thơ ở một hoàn
cảnh xã hội mới.
      Nếu nhìn khái quát cả ba tập di cảo, chúng ta có thể nhận ra khá rõ điều này: quan niệm về thơ ông có nhiều thay
đổi, thậm chí đối lập với các thời kỳ trước.
 
      Chẳng hạn, nếu ở giai đoạn thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên sung sướng tự hào biết bao khi nhà thơ có sứ mạng vinh
quang của một nhà thơ – chiến sĩ: “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ / Bên những chiến sĩ ngoài đồng và hạ
trực thăng rơi”, thì nay trở lại đời thường, vị trí của nhà thơ trở nên thật khiêm tốn:
      “Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi trâu
       Đánh giặc cờ lau...
       Đã lâu ta không còn nghe hồn lau gọi nữa
       Chỉ nghe danh vọng ầm ào
       Vinh quang xí xố ....”
                       (Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
      Và trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động phức tạp, các thang giá trị thay đổi đến bất ngờ, có lúc ông đã phẫn
uất thốt lên:
      “Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc
       Của quyền lực tuổi tên đốp chát
       Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng”
                  (Thời Thượng)
      Nếu trước đây, ông đề cao, khẳng định và ước mong thơ mình thành “Tiếng sáo thổi lòng thời đại/ Thành giao
liên dẫn dắt đưa đường”,  thì nay ở những năm tháng cuối đời, ông thật sự xót xa, cay đắng nhận ra
      “Tôi chưa có câu thơ nào
       Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
       Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”
       “Ôi văn chương có lỗi với bao người”,
       “Nghìn lẻ câu viết ra
       Người ta quên cả một nghìn”
       “Chữ nghĩa thơ anh, nước ốc nhạt phèo”....
      Chế Lan Viên cũng viết nhiều bài thơ có tính chất tổng kết về đời thơ mình. Nhưng khác với một số bài thơ “nhìn
lại” thời “Ánh sáng và phù sa” trước đây (nhìn lại là để tự kiểm điểm, nhằm dứt khoát dứt bỏ một giai đoạn thơ lạc
hướng trước cách mạng, để thêm tin tưởng vào hiện tại), những bài thơ sau này như đem toàn bộ thơ ông lên bàn cân
để chính ông ngồi trầm tư cân đong thành những còn - mất, được – thua, để nhận ra những khiếm khuyết của thơ
mình mà một thời khó có thể nói ra. Tổng kết lại thơ mình không phải để phủ nhận, quay lưng, chối bỏ quá khứ mà là
sự phản tỉnh, tự vấn đầy ý thức trách nhiệm với thơ của mình hôm nay. Nhờ cái bất ổn, cái xôn xao, xáo động của tư
tưởng và tâm hồn ấy mà Chế Lan Viên đã gợi mở biết bao điều thú vị, bất ngờ qua các trang di cảo:
      Câu thơ phải luôn luôn bất ổn và xôn xao
       Không thể nằm yên mà ngủ được nào.
                               (Bất hoàn toàn)
 
    Góc nhìn, tầm nhìn của thơ ông giờ đây không còn ở tư thế cao vòi vọi – tư thế của cái ta cộng đồng đứng ở đỉnh
cao của thời đại để phát ngôn cho toàn dân tộc mà chính từ đời thường, từ chính cuộc sống cá nhân với bao đa đoan,
phức tạp của kiếp người. Trước đây, dù ông luôn tâm niệm nhà thơ “phải đào, phải xới, phải chắt, phải lọc” các chất
liệu của đời sống, phải nhìn vào ba chiều của hiện thực để đưa vào trang thơ “hai mặt phẳng”, thì vẫn chỉ để đi đến
một mục đích: tìm ra chất thơ cao đẹp của cuộc đời. Giờ đây, cuộc sống vào các trang thơ từ nhiều phía, nhiều góc
độ: mặt phải và mặt trái, bề nổi và chiều sâu, niềm vui và nỗi đau, thế giới hữu hình và vô hình... Do đó, nhiều mặt
còn khuất lấp của hiện thực và tâm trạng như được phơi trần trên các trang thơ di cảo. Đó cũng chính là hành trình đi
tìm lại chính mình của Chế Lan Viên
      “Con rồng ôm hạt châu
       Rồi nhả ra
       Rồi tìm lại
       Ta là ta mà luôn bối rối?
       Tìm lại ta ...”
               (Bất hoàn toàn).
      Để tiếp tục sáng tạo ở tâm thế mới của đời thướng, Chế Lan Viên đã chủ động thay đổi giọng điệu trang nghiêm
xen vào giọng điệu cười cợt, giọng xót xa phẫn uất, xen lẫn giọng tự trào hóm hỉnh, giọng độc thoại đan vào giọng
đối thoại, giọng trữ tình thấm đẫm cảm xúc bên cạnh giọng tự sự khách quan lạnh lùng, v.v...Nhưng nổi bật hơn cả
vẫn là cái giọng trầm buồn của một thi nhân đang trầm tư, chiêm nghiệm, triết luận về thế sự và con người.
      Ba tập di cảo thơ của Chế Lan Viên ngổn ngang bao ý tưởng, quan niệm về thơ còn đang ở dạng phác thảo: từ
những vấn đề cốt thiết của bản chất thơ đến bao chuyện thuộc về kỹ thuật của công việc làm thơ. Ông đã ra đi nhưng
còn bao dự định chưa thành, bao câu hỏi còn vương vấn chưa đủ lời giải đáp. Và những câu trả lời của Chế Lan Viên
không phải không còn những điều bất cập. Song có một điều mà không ai có thể phủ nhận được – Đó là ý thức trách
nhiệm rất cao của ông về thơ trong suốt cả cuộc đời. 
 
Phần III. Quan niệm về thơ và bạn đọc
2.     Nhà thơ và bạn đọc là tri âm.
  Theo Chế Lan Viên, “giữa tác giả và độc giả có mối quan hệ tri âm tri kỷ, nghe một chữ cũng hiểu nhau, có khi chỉ
cần hiểu ngầm” (2). Ông còn chỉ rõ: đây mà mối quan hệ biện chứng. Người đọc là niềm khắc khoải tri âm của nhà
thơ: “Tuổi tên là phù vân/Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm/ Nhỏ một giọt sương người trên khoé mắt/ Cái Nguyễn
chờ là giọt lệ hồi âm”. (Lệ hồi âm). Và ngược lại, nhà thơ cũng chính là niềm khắc khoải tri âm của người đọc:

               Bạn đọc cần những bài thơ như tâm hồn thứ hai của họ.
               Ngoài tâm hồn họ ra, họ cần thêm một tâm hồn.
               Sao anh tả cảnh, tả nhà, tả ao, tả phố...
               Để thêm anh vào họ rồi, cho họ trăm thứ rồi, họ vẫn cô đơn.
                                                                      (Thơ và bạn đọc)

  
Riêng về mối quan hệ giữa người đọc với nhà thơ, Chế Lan Viên còn chỉ rõ: “Người đọc tìm đến nhà thơ, là để đòi
hỏi một cách sống, không   phải chỉ hỏi lý tưởng như với một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách
nhớ, cách giận, cách ghét như với một người yêu”(3). Bởi lẽ nói đến sáng tạo và tiếp nhận là nói đến cuộc đối thoại
giữa tác giả và người đọc thông qua tác phẩm. Cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của những kẻ tri âm, của những
tâm hồn đồng điệu tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Quan niệm này của Chế Lan Viên cũng tương đồng với quan
niệm của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào đó có sự
cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình” (4) và rất gần với quan niệm: “bài thơ là sợi dây truyền tình cảm
cho người đọc” của Nguyễn Đình Thi (5). Thật ra quan niệm về mối quan hệ tri âm của Chế Lan Viên cũng như của
Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đều bắt nguồn từ quan niệm tri âm của lý luận tiếp nhận truyền thống phương đông: “Tri
âm thực là khó thay, cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó găp. Gặp được người tri âm nghìn năm mới có
một lần” (Lưu Hiệp)(6). Song điều đặc biệt của Chế Lan Viên ở đây là ông đã tiếp nhận nó một cách linh hoạt trên cơ
sở kết hợp với quan niệm tiếp nhận hiện đại. Với Chế Lan Viên, tri âm là chuyện để suy tư, để suy tưởng, để đối thoại
giữa nhà thơ và người đọc. Và mỗi độc giả có một cách đọc khác nhau tuỳ vào tuổi tác, tâm lý, vị thế xã hội,... của
mình:
   “Đọc thơ, có người như nhà thực vật/Đọc mùa quả, hoa chói mắt/Có người như nhà địa chất/Đọc ngầm cái gì ở
sâu trong đất,/Cái mạch ngầm văn bản phía sau văn./Kẻ đọc dương, người lại nghe cái âm âm./Cái nhạc trưởng chỉ
huy trong tiềm thức” (Đọc thơ mạch ngầm văn bản). Tuy không đề cập đến “tầm đón đợi của người đọc”, một phát
hiện có tính chất hạt nhân của mỹ học tiếp nhận, nhưng quan niệm của Chế Lan Viên rất gần với quan điểm của lý
luận tiếp nhận hiện đại phương Tây.

Và cũng xuất phát từ quan niệm mới về người đọc, mà quan niệm về mối quan hệ tri âm giữa nhà thơ với người đọc
của Chế Lan Viên là quan niệm mở, chứ không khép như quan niệm truyền thống. Với Chế Lan Viên, muốn có tri âm
nhà thơ phải chủ động hướng đến các loại người đọc:

               Làm thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm,
               Cứ phải hét vào tai những tiếng nói thầm.
               Làm thơ có lúc là thi sĩ câm
               Ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn thân,
               Đóng kịch để nói điều rất thật
                                                              (Tri âm)

Và cái gốc của tri âm theo ông chính là ở tấm lòng, là sự cảm thông, độ lượng, đồng cảm: “Người đọc người, thương
nhau/Ta cần chi giữ kẽ/Ai tri âm tri kỷ/Xin mở lòng trời bể/Gặp mỗi dòng mỗi ý/Tìm lòng ta phía sau” (Đề từ).

2. Nhà thơ - Người đọc: Sự đồng hành trong sáng tạo thơ ca

   Lý thuyết tiếp nhận hiện đại đã chỉ ra rằng: người đọc không chỉ là người tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà
là người lấp đầy khoảng trống trong tác phẩm, là người đồng sáng tạo với nhà thơ bởi “Mỗi tác phẩm văn học là một
tiếng gọi” (J.P. Sartre)(7). Đây chính là tính chất mở của văn bản nghệ thuật, là “điều kiện của mọi sự thưởng thức
thẩm mỹ, và tất cả mọi hình thức thưởng thức, nếu mang giá trị thẩm mỹ đều mở” (Umberto Eco)(8). Không biết Chế
Lan Viên đã tiếp cận lý thuyết tiếp nhận hiện đại ở thời điểm nào hay là sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn? Chỉ biết
rằng những câu thơ ông viết về người đọc như là sự chuyển hoá ngôn ngữ lý luận sang ngôn ngữ hình tượng và biểu
cảm của thơ:
“Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến/Sống cuộc đời riêng anh không dự kiến/Nó trôi đến các thời gian xa,
những năm tháng mơ hồ/Với ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ./(...)/Nhưng từ đấy bổ sung anh, đối
lập anh, tác phẩm sống riêng mình/May ra người ta tìm ở đáy thuyền, hạt gạo, đó là anh” (Con thuyền).

Như vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên, người đọc hiển nhiên trở thành người đồng sáng tạo với nhà thơ. Và sự
sáng tạo của người đọc nhiều khi tạo ra cho tác phẩm những ý nghĩa mới mà chính tác giả, người sáng tạo ra tác
phẩm cũng không ngờ đến. Điều này cũng rất gần với quan niệm của nhóm Xuân Thu Nhã Tập: “Làm xong một bài
thơ, người thi sĩ chưa thể gọi đã hoàn tất sáng tác của mình mà phải chờ đợi một tác giả thứ hai, tức là độc giả” (9).
Việc đồng sáng tạo của người đọc cũng là một quy luật tất yếu trong tiếp nhận thơ ca. Bởi vì “không nên quan niệm
tác phẩm như một cái gì đó cố định, bất biến, trái lại về hình thức cũng như về nội dung, nó mang ý nghĩa của một
cuộc đối thoại” (Huỳnh Như Phương) (10). Và cuộc đối thoại trong tác phẩm thơ chính là cuộc đối thoại giữa tác giả
và người đọc mà trong đó người đọc là người đồng sáng tạo, là người viết tiếp những trang thơ, là đối tượng mà nhà
thơ luôn hướng đến. Điều này đối với Chế Lan Viên không chỉ là quan niệm mà còn là một tâm niệm, một ý thức
trách nhiệm của người cầm bút: “Tôi viết cho ai? Cho cả mọi người” (Nghĩ về thơ).

Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã tự nguyện lấy người đọc làm động lực sáng tạo. Vì thế đối với ông, nhà
thơ cần phải quan tâm đến người đọc, phải xem những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ ca: “Tả
một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ/Phải giấu tình cảm của anh đi như ém quân trong rừng vắng/Chỉ vì anh
nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy/Đang bơi thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi
son” (Tín hiệu).
Văn Cao khi bàn đến vai trò của người đọc đã viết: “họ không muốn nghe lại những lời đã cũ như không muốn mua
lại những đồ cũ mà họ thải đi từ lâu rồi” (11). Như vậy, cả Văn Cao và Chế Lan Viên cũng đều nhận ra rằng: những
đòi hỏi của người đọc chính là động lực để nhà thơ phát huy cá tính sáng tạo của mình. Và bởi người đọc là người
đồng hành trong sáng tạo, là động lực sáng tạo của nhà thơ nên chính người đọc cũng là người quyết định số phận của
thơ ca.

3. Người đọc, “vị quan toà” quyết định số phận của thơ ca

    Khi bàn đến vai trò của người đọc trong việc thẩm định giá trị của thơ, Chế Lan Viên đã chỉ ra rằng: “Và những
giọt lệ rưng rưng trên mi người đọc/Ngọc của người còn trong gấp mấy/Ngọc thơ anh”(Lệ ngọc). Và khi người đọc
trở thành nhân tố quyết định sự sáng tạo của nhà thơ, thì theo ông, họ có quyền tiếp nhận hoặc không tiếp nhận thơ
nếu thơ ấy không phải là thứ tinh hoa được kết tinh từ tài năng và lao động nghệ thuật của nhà thơ, nghĩa là họ có
quyền quyết định sự tồn tại của nhà thơ và xác quyết giá trị của thơ:

               Ôi! chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy
               Là cũng đủ cho nhà thơ thoát khỏi vạc dầu
               Và bay lên chín tầng cao.
                                         (Sợ nhất)

   Chính vì nhận thức sâu sắc điều này nên Chế Lan Viên luôn trăn trở khi nghĩ về mối quan hệ giữa nhà thơ và người
đọc: “Nghìn lẻ một câu thơ viết ra, người ta quên cả một nghìn/May lẻ một có người còn nhớ đời nhớ mãi/Nếu lẻ hai,
lẻ ba, lẻ tư nữa thì hay quá/Ấy thế mà đã được nghìn câu đâu, mong lẻ nỗi gì?” (Nghìn lẻ).      Không những thế,
trong quan niệm về mối quan hệ Nhà thơ-Người đọc, Chế Lan Viên còn đề cập đến một loại người đọc đặc biệt đó là
nhà phê bình. Ông cho rằng quan hệ giữa nhà thơ với nhà phê bình như quan hệ vợ chồng: “Nàng yêu chồng, hẳn thế
rồi, nhưng đôi khi thường e ngại ông ta và nàng thích đi dạo một mình... Nhưng làm sao nàng ta có thể sống không có
anh ta được chứ, anh ta với tất cả khuyết điểm đáng yêu đáng ghét của mình” (Thơ và phê bình) (12), như là quan hệ
bè bạn: “Thơ và phê bình, phê bình và thơ, chỉ có hai bạn trên đường ấy thôi mà. Trái tim và khối óc, cái cá nhân và
cái xã hội, ý thức và vô thức, thơ và phê bình, đấy chỉ là hồng cầu và bạch cầu của một sức khoẻ chung”(13). Chế
Lan Viên cũng đã phân định rõ các loại nhà phê bình: “Nhà phê bình đại diện cho lý trí, không phải thứ lý trí hách
dịch, ba hoa, thứ lý giết chết cả thơ lẫn lý “càng luận vào càng đuối lý ra” mà đó là “một thứ lý biết điều, có lý có
tình, nhân hậu, nó là người tâm sự của chính tác giả”(14). Ông cho rằng nhà phê bình thơ vừa phải có “tâm” nhưng
cũng cần phải có “tầm”, phải có năng lực cảm thụ thơ để “phê bình có thể thấy xa, chỉ vì nó đã được hứng cảm bởi
hồn thơ không có thơ trong hồn, anh chỉ có thể thốt lên những lời càu nhàu, chửi rủa, chứ đâu có phải phê bình”(15).
Chính vì thế, điều ông sợ nhất là kiểu phê bình xoi mói, thiếu thiện chí, sẵn sàng ném nhà thơ vào vạc dầu của
quỉ: “Sợ nhất khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ/Lại thi nhân cùng thi nhân chạm trán, va đầu./Nếu bên vạc
dầu có nhà phê bình cầm roi càng nguy hơn nữa/Dẫu nhà thơ có chạy trốn đi thì phê bình gia cũng tóm cổ ném
vào!” (Sợ  nhất). Quan niệm về nhà phê bình như một đối tượng tiếp nhận của Chế Lan Viên cũng là một điểm nhìn
rất gần với lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Và đây chính là những nét độc đáo trong quan niệm của Chế Lan Viên về
quan hệ giữa thơ với người đọc

Mặt khác, ở bình diện quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ Nhà thơ và Người đọc cũng có sự vận động. Nếu
trước kia trong Điêu tàn, người đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên cũng phải khác thường, nghĩa là: “Đọc
tập Điêu tàn này xong (...) mà cái Buồn, cái Chán, cái Hãi hùng cùng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh làm cho anh phải
cười, phải gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cười cho mênh mang, gào cho vỡ cổ, khóc cho hả hê rồi gửi
cái cười, cái gào, cái khóc ấy cho không trung” (16) thì về sau này, đặc biệt là từ khi đi theo cách mạng và kháng
chiến, quan niệm về Nhà thơ-Người đọc của Chế Lan Viên đã có sự thay đổi. Nhà thơ bây giờ không còn là Tinh, là
Ma...mà là con người trần thế gắn số phận mình với số phận nhân dân, và người đọc trong thơ ông lúc này là những
người bình thường gần gũi, nhà thơ sáng tác là để hướng về họ, dành cho họ:

           
                Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về
               Dù tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
               Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
               Viết cho người độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh
.
                                                           (Thơ cao cả)
Tóm lại: Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Văn Cao...Chế Lan Viên đã thấy được vai trò của người
đọc trong việc tiếp nhận thơ ca. Nhưng nếu các nhà thơ khác chú trọng đến sự tác động của nhà thơ đối với người
đọc: “Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều
mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng cảm xúc hay cảm giác. Người đọc bị cuốn
sau cùng vào cái khuynh hướng của nhà thơ” (Văn Cao)(17) thì Chế Lan Viên lại chú trọng đến sự tác động của
người đọc đối với quá trình sáng tạo của nhà thơ. Người đọc trong quan niệm của ông là người quyết định sự tồn tại
của thơ ca và ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Và điều sợ nhất với ông là “không có độc giả”,
không có người đồng cảm với nhà thơ nghĩa là không có người nối dài cuộc sống cho những câu thơ: “Chả có gì sủi
tăm ở cái hồ lãng quên anh ném câu thơ vào đó/May ra thế kỷ sau, từ viên sỏi thơ anh sủi lên giọt máu như máu con
bông bống/”Bống bống bang bang!”... Sẽ có người đến bên hồ mà gọi thơ anh/Câu thơ trồi lên, đáp lại tiếng gọi
mình” (Sủi  tăm). Và chính điều này tạo nên sự độc đáo trong quan niệm về thơ của Chế Lan Viên, chi phối mạnh mẽ
đến quan niệm thơ của ông không những ở bình diện thơ với người đọc mà còn ở nhiều bình diện khác của thơ.
Phần IV. Yêu cầu đặt ra cho thơ và cho nhà thơ khi sáng tác.
Thơ, là gây ra một đám cháy trong hồn
1.Chế Lan Viên nói về việc chọn đề tài:
  Thấy vạn sông hồ, thấy vạn trời mây/ Rồi lui về chạm một cánh chim trên gác nhỏ/ Đấy là cái trọng điểm giữa đất,
trời mà anh chốt giữ/ Chớ làm sao anh bao quát vạn đề tài. Từ vạn sông hồ, vạn trời mây của cuộc đời, nhà thơ chọn
cho mình một đề tài. Nhà thơ không nên ôm đồm khi chọn đề tài. Không phải đề tài rộng rãi to lớn thì thơ hay. Có khi
cái bé nhỏ như một cánh chim trên gác nhỏ lại hóa diệu kỳ. Hãy chốt giữ một cái trọng điểm nhỏ, nhẹ thôi, nhưng hãy
biết gọi về trùng lớp trùng lớp suy tưởng, ý nghĩa của đề tài, làm cho mọi người thấy được những chân trời, đến được
những chân trời. Và Chế Lan Viên gọi cái trọng điểm giữa đất, trời là muốn nói: đề tài mang cái tinh, chắt lọc, đồng
thời mang cái bao la, phong phú của đời. Thơ đứng giữa hai chiều biện chứng đó:

Lấy tinh binh thắng đa binh


Lấy hạt muối có khối hình, 
thắng mặt bể to, không kết tụ kết tinh
… Nhưng cũng đừng tham một hạt muối con mà vứt bể
Vứt cả cái sóng gió xôn xao rất đỗi bể trời
Câu thơ nằm giữa bể sóng không yên và hạt muối chói ngời
Giữa hai mặt đối lập và thống nhất kia, 
chếnh choáng câu thơ ở giữa.

2.Chế Lan Viên nói về tính hàm súc của thơ:


Nhân loại đi xa chớ có vẽ bày/ Từ ngữ kềnh càng, văn chương vô lối/ Cả đời anh, anh thu nhỏ lại/ Chỉ còn cái lõi/
Cho nhân loại mang cùng, nhân loại cầm tay. Với thơ, nhân loại thường tránh dùng nhiều lời truyền đạt ít ý, mà cố
gắng thâu tóm được nhiều ý trong ít lời. Tứ tuyệt Đường thi chẳng hạn. Thơ cần phải hàm súc. Nhưng không phải vì
thế mà lược bỏ từ ngữ của thơ một cách giản đơn, máy móc. Không nên gạt bỏ cái đáng lẽ mang lại ánh sáng trên
toàn thể câu thơ. Thơ không phải hàm súc, cô đặc đến mức thành một câu đố hóc búa. Chính sự phong phú và sức
mạnh của tư tưởng khiến cho thơ được biểu lộ một cách gãy gọn và nhiều ý nghĩa. Còn lối diễn đạt cồng kềnh, dông
dài thường đi liền với một sự tối tăm mơ hồ của tư tưởng. Cái sâu trong thơ không đồng nhất với từ ngữ đao to búa
lớn, những lối diễn tả lạ thường, những câu thơ dài, khoa trương, chải chuốt:

Chỗ này sâu ư? Không – chỉ là nước đục ngầu


Chỗ này cạn ư? Không – chính nhờ nước trong 
nên ta nhìn thấy đáy
Cái sâu cạn trong thơ là thế đấy.
2.Chế Lan Viên nói về ngôn ngữ thơ.
  Ai cũng biết ngôn ngữ bao la trước hết là của cuộc đời. Người làm thơ lặn vào trong bể ngôn ngữ đó để chọn nhặt
cho mình những a, những b cần thiết. Rồi từ đó qua cảm xúc, ý tưởng riêng và cách trình bày riêng, ngôn ngữ của đời
trở thành ngôn ngữ thơ, của nhà thơ, trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là thứ ngôn ngữ của cảm xúc, của ẩn dụ, của
một tầng nghĩa khác không còn là lớp nghĩa thông thường. Mà vẫn phải là thứ ngôn ngữ đong đầy cuộc đời. Chế Lan
Viên viết mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy/ Lặn vào cuộc đời. Rồi lại ngoi lên, là một lần nữa nhắc lại cái lao
động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ.
3.Yêu cầu với nhà thơ.
a.Quá trình sáng tạo trong thơ.
  Nhiều người đến với thơ như một cuộc chơi. Thế nhưng, không thể phủ nhận tính lao động sáng tạo một cách
nghiêm túc trong thơ. Tài năng trời phú chưa đủ, còn phải lao động say mê nữa mới mong có thơ cho đời. Thi hứng
về rồi, nhà thơ đã nghe thấy tiếng thơ dâng lên rồi; trước trang giấy, hãy viết đi, viết và cứ viết. Câu thơ thứ nhất chưa
thành, hãy còn câu thứ hai, câu thứ ba… Thơ vẫn chờ ở phía trước, chờ lúc ta chạm vào, lóe sáng lên.

Một đêm ư? Phù du bay đến có muôn nghìn


Có phải con nào đến chết trước trang thơ đều đem thi tứ cả
…Trăm câu thơ xóa đi cho một câu khỏi ném vào trong gió
…Chữ được mùa; chữ ủ chua; chữ phóng xạ; chữ mùa trăng 
và chữ đêm rằm;
chữ lên men; chữ thành “gien”, mật mã; chữ đu bay, voi lồng…;
chữ hừng đông và chữ chớp đông; chữ ra đồng;
chữ hồng huyết cầu, tế bào vỏ não; 
chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo…
Dù trăm thứ chữ kia để được gì nào
Số phận chữ à? Là tan biến vào câu
Câu hay ư? Là câu không còn chữ nữa
Lửa cháy lên rồi, chỉ còn có lửa.
Người làm thơ như chàng Prométe đi tìm lửa, thật gian khó mới đến lúc gây ra một đám cháy trong hồn – mới tìm ra
thơ.
b.Phải mang con mắt thời đại anh để nhìn trời mưa cũ
Thơ vốn là tiếng vọng thẳm sâu từ tâm hồn con người, nên có đôi khi tưởng như thơ là ở một cõi nào vời xa cuộc
sống. Đâu biết rằng, tâm hồn chính là “trái tinh thần” được nuôi lớn trong mỗi con người qua năm tháng cuộc đời.

Cuộc sống vỗ vào thơ anh muôn nghìn lớp sóng


Đừng ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi
Tâm hồn anh là của đời một nửa
Một nửa kia lại cũng của đời.
Không có hồn thơ trên mây, không có hồn thơ trong mộng. Phải sống giữa cuộc đời, đó mới chính là cội nguồn của
mọi cảm hứng, cho thơ bay lên. Làm thơ, là vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng. Nhà thơ như con tằm
xe sợi tơ, như con ong lấy khách thể hoa làm bản ngã mật của mình. Mỗi bài thơ là tơ, là mật, là hoa quả cuối cùng
của một vụ mùa lao động cần mẫn, bền bỉ, sáng tạo.

Đời cho anh nắm đất


Anh làm nên cái bình
Đời cho anh nhành hoa
Anh vẽ lên mùi sứ.
Và mỗi bài thơ, khi thoát thai đều mang một giá trị thẩm mỹ, bước ra và đem đến cho đời; mỗi câu thơ đều muốn hóa
tin lành, đều sửa soạn một nắng mai lên.
Thơ, trước hết là nhu cầu tự thân, là cách tỏ bày cá nhân mình. Nhưng thơ, từ nói lên tình cảm của mỗi con người
nghệ sĩ qua đó nói tâm tư nhân loại quanh mình. Tiếng hát của nhà thơ là tiếng hát tiêu biểu cho một tập thể; nhà thơ
tiêu biểu cho một hoàn cảnh, một dân tộc.

Này ai viết nên Nguyễn để Nguyễn viết nên câu Kiều thế hở?
Sông Tiền Đường chăng? Cỏ Đạm Tiên chăng?
Hay mái tóc hoa râm? Hay cuộc đời đi sứ?
Hay vầng trăng chia đôi giữa cô gái Long Thành 
và Trường Lưu nhị nữ?
Hay cỏ áy bóng tà, tà huy lịch sử?
Có phải mỗi trang Kiều đều có mưa phùn thời đại 
nhuốm vào chăng?
Thơ dựng lại những khoảnh khắc của thời đại, để cho mọi người nghe được năm tháng mình đang sống, hiểu được
những tâm tình, trước hết là những tâm tình nhà thơ tự giải tỏa, sau đó sẻ chia với mọi người.
Hoạt động sáng tạo của nhà thơ gắn liền với thời đại, điều đó thể hiện ở chất liệu nghệ thuật lấy từ cuộc sống, ở xu
hướng thi pháp chung của từng thời kỳ nhất định, ở quan điểm tư tưởng nhân sinh quan, lý tưởng nghệ thuật… Nhà
thơ phải đặt mình trong mối quan hệ thẩm mỹ với cuộc sống thời đại, phản ánh đúng những giá trị thẩm mỹ của thời
đại. Vẫn là cơn mưa cũ, cơn mưa của muôn đời, nhưng nhà thơ phải mang con mắt thời đại mình để nhìn trời mưa cũ
ấy:

Vô vàn thi nhân trước anh đã viết về thơ


Mắt anh chả còn hồn nhiên đâu sau nhiều từ ngữ
Khéo cơn mưa anh viết bây giờ là cơn mưa của họ.
 
Thơ in dấu ấn của thời đại nhà thơ đang sống, đồng thời thơ vẫn âm ỉ mang theo trong nó những giá trị truyền thống.
Ta nối liền ta trong bề dọc thời gian, câu thơ thế kỷ XX liền hơi với hồn cha ông trong truyện Kiều, Chinh Phụ… Chế
Lan Viên thường hay nhắc đến Lý Bạch, Mozart, Rimbaud, Holderlin, Nguyễn Du, Tú Xương, Ôn Như Hầu, Yên
Đỗ… là muốn nhắc đến mối quan hệ giữa xưa và nay, quá khứ và bây giờ, truyền thống và hiện đại… Thơ ca nhân
loại không phải là một dàn đồng ca, mà là một đa âm; chính truyền thống là cái đem lại tính thống nhất cho tất cả mọi
giọng điệu và các khuynh hướng. Thời đại hôm nay nối tiếp trong lòng thời đại hôm qua; thơ hôm nay mang dòng
của thơ hôm qua chảy tiếp qua những bến, bờ bãi khác. Bao đời nay, dòng thơ nhân loại vẫn chảy qua từng thời đại,
mang tiếng hồn người đi đến muôn đời, đến muôn cùng.

Như sân khấu mở rộng rinh ra bốn phía


Câu thơ Ức Trai viết đâu chỉ cho một mình dân tộc ta xem
Ngoài trời còn trời. Hết trời có bể
Đâu chẳng trái tim người. Đâu chẳng xót oan khiên?
 
   Mỗi nhà thơ tự làm một cuộc hành trình cho mình. Họ bước lang thang giữa cuộc đời bên bờ thời gian thăm thẳm.
Họ đi qua cuộc đời không như chúng ta đã đi một cách vô tư. Trên những chặng đường của cuộc hành trình vốn ngắn
ngủi nhà thơ biết dừng lại bên một lối mòn, một canh khuya, hay một buổi mai nào đó và lắng nghe tiếng thời gian
xuôi chảy. Có thể nói nhà thơ là những con người ý thức về thời gian một cách da diết, bởi đối với họ thời gian đi
ngược lại với cái khát khao vươn tới, đạt tới sự hoàn thiện trong sáng tạo nghệ thuật.
Với Chế Lan Viên, cảm giác về sự qua đi của thời gian dâng ngập những trang thơ, nhất là những trang thơ cuối đời
của ông. Chế Lan Viên nghe mùi hoa bưởi giữa đêm vắng lặng, nghe giọt sương rơi, một tiếng gà, hay tiếng sông
trôi… đều cảm thấy như nghe tiếng thời gian đang cạn vơi đi. Chống chọi lại với thời gian nước xiết, chống chọi với
bệnh tật buồn đau cuối đời, là viết. Lao vào mà viết. Viết, để ngăn con đê thời gian ùa vỡ. Viết, để không đồng lõa
với thời gian hủy diệt chính mình. Viết, đồng nghĩa với còn tồn tại:

Số ngày còn lại cho anh trên trái đất


Đếm rồi
Như thóc giống đếm từng hạt một
Chỉ còn chừng ấy hạt thôi anh phải tạo ra mùa
Chỉ chừng ấy ngày! Chừng ấy tháng! Chừng ấy năm
Chưa kể bất thình lình đổ ập
Cày đi! Bừa đi! Gieo đi!
Sao còn phải chần chừ?
 
Nhưng dù có hì hục, cần mẫn đến thế nào nhà thơ vẫn thấy mình tài năng chưa đầy nửa giọt/ Có hộc tốc chạy đến hết
chân trời cũng là đồ bất lực. Nhà thơ nhìn trang giấy biết mình hữu hạn, có chạy ngút hơi về trang giấy/ Về đến nơi/
Nó đã hóa chân trời. Chạy tiếp ư? Nhà thơ không ngần ngại, dẫu trang giấy trắng vẫn như con đường hun hút về vô
tận. Cái trò đuổi bắt này như nhà thơ suốt đời xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt/ Chỉ sắp lọt rồi/ Kim bỗng lùi
xa, nhà thơ bước lên một bước/ Kim lùi thêm một bước. Nhà thơ chạy một đời không ngừng nghỉ, vắt kiệt sức lực,
mà vẫn toi công. Nhà thơ có hóa thành chim gõ kiến gõ vào thời gian/ Gõ vào số phận…/ Gõ vào trang giấy/ Vào câu
thơ gầy guộc…/ Chả ra được con kiến thơ nào, hay có làm chim bói cá tìm đến hồ, cái mặt hồ phẳng lặng/ Từng soi
bóng muôn đời thi sĩ ấy/ Khi anh đến/ Thì hồ biến thành ra bể/ Ầm ầm/ Ĩ ĩ/ Anh chỉ bói ra bèo bọt quanh bờ. Hỡi ôi!
Đời người, đời thơ có hạn, mà đỉnh cao của nghệ thuật cứ lửng lơ phía vô cùng, mà thời gian không đợi, mà tài năng
không gặp:

Tài năng ở đâu? Tài năng ở đâu?


Cho tôi với!
Trên trời cao hay dưới bể sâu?
Chỉ cho tôi để tôi tiến tới
Khốn nỗi
Nó ở bên kia bể thời gian không ai chờ đợi.
 
Cảm giác lực bất tòng tâm của tài năng hữu hạn trước chân trời nghệ thuật không cùng, của đời người ngắn ngủi
trước vô tận thời gian lại là cảm giác mang ý nghĩa tích cực. Nó không làm cho nhà thơ bỏ bút giữa chừng chán nản,
mà ngược lại thôi thúc nhà thơ sáng tạo, sáng tạo mãnh liệt hơn. Nhà thơ vẫn khát khao vươn tới hoàn thiện, khát
khao vô cùng, và Chế Lan Viên gọi đó là nỗi đau và hạnh phúc:

Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi


Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng làm viên thứ nhất
Đây là nỗi đau và hạnh phúc của con người.
Tóm lại. Một nhà nghiên cứu đã nói đó là niềm khao khát không bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự
thỏa mãn mà luôn luôn tự đòi hỏi, để đi tìm một tầm cao mới, tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt đối, tuy không
bao giờ có thể đạt tới, nhưng nếu không có nó thì cũng sẽ không bao giờ có sự sáng tạo thật sự. Chế Lan Viên cho đó
là ngôi sao xa khuya khoắt định hướng cho thơ, là con sông Ngân Hà mà nhà thơ phải đi dọc theo mãi để tìm thơ, chứ
không phải như Ngưu Lang chỉ cần sang ngang là tìm ra Chức Nữ:

Ngưu Lang chỉ cần một cái bến con, anh cần có dải Ngân Hà
Anh đi dọc nó tìm thơ chứ không phải bơi ngang tìm Chức Nữ’
Thời hạn đi tìm của anh hết rồi, mà bờ bến tít mù xa
Song dừng lại, anh đâu còn anh nữa…
 
                                                                                                Nguyễn Lê Anh Quân
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1)            Edward Hirsh “Thơ và độc giả”, Báo thơ số (7,8 tháng 1+2/2004) tr. 30
(2,12,13,14,15) Chế Lan Viên, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội, 1981 tr.
96,113,115,116.
(3) Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981 tr. 81.
(4) Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 441.
(5)Nguyễn Đình Thi “Mấy ý nghĩ về thơ”, Báo thơ số (2, Qúi II/2003) tr. 24.
(6) Lưu Hiệp, Văn Tâm Điêu Long, Nxb Văn học Hà Nội, 1999 tr. 270.
(7) J.P.Sartre, Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999,tr. 63.
(8) Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 12.
(9) Nguyễn Tấn Long, Việt thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Sống Mới xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr. 449.
(10) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.
139,140.
(11,17) Tuyển tập Văn Cao thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 152, 154.
(16)Võ Gia Trị, Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 9.
  2.Bài viết của  Lê Quốc Sinh(Q. Gò Vấp, TP.HCM) Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 376
3. Chuyên đề có sự tổng hợp nội dung từ một số bài viết trên mạng Internet.
CHƯƠNG I: CHI TIẾT VÀ VIỆC KHAI THÁC CHI TIẾT TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ
1. Chi tiết trong tác phẩm văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và
tư tưởng”. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện,
giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong
tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ
thuật nhất định.” (2)
Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc
khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ
thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
2.1. Đặc trưng của truyện ngắn     
Hướng khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự xuất phát từ đặc trưng của thể loại truyện ngắn.
           “Truyện  ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, phản ánh cuộc sống trong tính
khách quan của nó thông qua con người, hành vi và các sự kiện. Truyện ngắn đề cập đến hầu hết các phương diện
của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng.” “Nếu tiểu thuyết là
một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn chỉ là mặt cắt của dòng đời như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ. Chỉ liếc
qua những đường vân trên khoanh gỗ tròn kia dù trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời thảo mộc” (Nguyễn Minh
Châu). Do hạn chế về dung lượng câu chữ, nên truyện ngắn không phản ánh được một phạm vi hiện thực rộng lớn
như tiểu thuyết, mà chỉ là những câu chuyện trong khoảnh khắc, là giây phút lóe sáng trong cuộc đời nhân vật.
Pautốpxki đã nói: “Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như
một cái gì bình thường và một cái gì bình thường hiện ra như cái không bình thường”. Vì vậy, khi viết truyện ngắn,
nhà văn phải có khả năng quan sát sắc sảo, năng lực khái quát cao độ, để có thể phản ánh được bản chất của con
người và đời sống qua một hiện tượng, một biến cố, một lát cắt. Nhà văn phải dồn nén hiện thực và tư tưởng vào
trong những chi tiết nghệ thuật có dung lượng ý nghĩa lớn lao như “bàn tay xiết lại thành nắm đấm” (Hêmingway).
Vì vậy yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là các chi tiết nghệ thuật.
  Tuy nhiên, trong một truyện ngắn, không phải chi tiết nào cũng “mang nhiều ẩn ý”, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải lựa
chọn được những chi tiết đắt giá, phân tích làm sáng tỏ ý nghĩa của nó trong việc thể hiện hình tượng, chủ đề tác
phẩm và tư tưởng của tác giả. Hơn nữa, theo kinh nghiệm viết truyện ngắn của Vương Trí Nhàn: “toàn truyện phải là
một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào.
Khi đã vào truyện cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương
tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác” (5). Các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm có quan hệ máu thịt với
nhau, cho nên khi phân tích chúng ta phải đặt chi tiết đang tìm hiểu trong mối liên hệ khăng khít với các chi tiết khác,
trong chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn của tác phẩm.
2.2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự
2.2.1. Xây dựng cốt truyện
          Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, (biến cố) xảy ra trong đời sống của nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách,
số phận nhân vật và làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu
tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật
“đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí” (2).
          Cốt truyện “Chí Phèo” hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hóa, càng về cuối càng gay cấn với những
tình tiết quyết liệt, bất ngờ. Nam Cao là người có biệt tài tạo dựng chi tiết cho truyện của mình. Góp phần tạo nên sự
thành công cho kiệt tác “Chí Phèo” phải kể đến chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo. Nó đã thúc đẩy
cốt truyện phát triển và mở ra bước ngoặt trong cuộc đời của Chí. Sau khi ăn nằm với nhau như vợ chồng, thị Nở
thương Chí bị ốm nên đã nấu cháo mang sang cho hắn. Đó là khoảnh khắc lột xác của một con quỷ để trở thành một
con người. Đó là giây phút hạnh phúc duy nhất của một kẻ suốt đời bất hạnh. Bát cháo của Thị Nở đã làm tươi lại tâm
hồn tưởng như đã hoàn toàn chai sạn của Chí. Bát cháo không chỉ là liều thuốc giải cảm, mà còn là liều thuốc giải độc
tâm hồn. Vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, xưa nay muốn có ăn hắn “phải dọa nạt hay là giật
cướp. Hắn phải làm người ta sợ”. Bát cháo đã cho Chí hiểu được một điều giản dị mà xúc động: Hóa ra trên đời này
người ta có thể cho nhau ăn. Tình yêu mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã đánh thức nhân tính của Chí. Hết “ngạc
nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. Chí Phèo cảm động, rưng rưng nước mắt, có lẽ sau tiếng khóc chào đời
hôm nay Chí Phèo mới biết khóc. Với Nam Cao, nước mắt chính là giọt nhân tính, chỉ có những người giàu nhân
phẩm, có nhân tính mới biết khóc. Trong lòng Chí trào dâng bao cảm xúc của con người: “bâng khuâng”, “vừa vui
vừa buồn. và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí sám hối vì những việc mình đã làm trong hai mươi năm qua.
Lần đầu tiên trong đời Chí thấy cháo hành ăn rất ngon. Thị Nở đã giúp anh cảm nhận được hương vị của tình yêu,
tình bạn, tình mẹ. Chí thấy “lòng thành trẻ con...muốn làm nũng với thị như với mẹ”, cũng khao khát được yêu
thương, chăm sóc. Và một câu hỏi rất hệ trọng đã day dứt lương tâm anh: “Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây kẻ
thù”. Thị Nở bằng một bát cháo hành đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương
thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đó chính là khát vọng được hoàn
lương. Mặc dù những giây phút hạnh phúc chỉ lóe lên rồi vụt tắt, nhưng hương vị của cháo hành mãi ám ảnh Chí,
giúp anh chấm dứt những cơn mê muội dài mênh mông, sưởi ấm trái tim Chí để anh có đủ dũng cảm kết liễu kiếp
sống của một con quỷ và bảo toàn thiên lương của một con người chân chính. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ nhưng nhà
văn đã dồn vào đó cả triết lý sâu sắc của mình: tình yêu có sức mạnh cảm hóa kì diệu, và con người hãy sống với
nhau bằng tình yêu thương. Đồng thời, qua chi tiết này, Nam Cao cũng thể hiện niềm tin bất diệt vào bản chất tốt đẹp
của người lao động, cái phần NGƯỜI trong mỗi người lao động đâu có thể tước đi một cách dễ dàng. Nếu không có
chi tiết này, có lẽ “Chí Phèo” chỉ đơn thuần là câu chuyện về sự tha hóa biến chất của con người. Chi tiết bát cháo
hành đã thúc đẩy cốt truyện phát triển tự nhiên, hấp dẫn và tạo nên bước ngoặt bất ngờ, làm tỏa sáng chủ nghĩa nhân
đạo của Nam Cao.
2.2.2. Chi tiết nghệ thuật đã tạo nên cách mở đầu hấp dẫn cho câu chuyện
          Bàn về cách viết truyện ngắn, nhà văn Sêkhốp có phát biểu: “Theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải tô đậm
cái mở đầu và cái kết luận” (Theo “Sêkhốp bàn về văn học”). Nhà văn phải dụng công để tạo nên một cách mở đầu
thật độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Kiệt tác “Chí Phèo” của Nam
Cao thật đặc sắc khi mở ra bằng chi tiết tiếng chửi của Chí. Đây là cách giới thiệu trực tiếp nhân vật và mở đầu không
theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện. Chi tiết tiếng chửi là một dụng công rất lớn của Nam Cao. Cách
chửi của nhân vật khá độc đáo: “Bắt đầu hắn chửi trời... Rồi hắn chửi đời... Chửi ngay tất cả làng Vũ Đại... chửi cha
đứa nào không chửi nhau với hắn...”. Thoạt đầu Chí chửi vu vơ, sau đó thu hẹp dần đối tượng và cuối cùng bất ngờ
chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn...”. Hắn chửi người đẻ ra mình, tức là chửi chính mình, chửi số kiếp mình. Cả
làng Vũ Đại không ai biết “đứa chết mẹ nào” đã đẻ ra Chí Phèo, nhưng nhà văn Nam Cao biết: Đẻ ra Chí Phèo bằng
xương bằng thịt là một người đàn bà bất hạnh, còn đẻ ra hiện tượng Chí Phèo là cả cơ chế xã hội bất công thối nát
đương thời, ở đó chất độc nằm ngay trong sự sống. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được ai đó chửi lại, tức là hắn
khao khát được giao cảm với mọi người. Nhưng tín hiệu giao tiếp phát đi liên tục, lại chỉ gặp sự im lặng đến đáng sợ.
Ngay từ đầu tác phẩm Chí Phèo đã rơi vào tình trạng hoàn toàn cô độc, không ai giao tiếp với hắn dù là bằng hình
thức thấp kém nhất: chửi nhau: "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu". Tiếng chửi đã thể
hiện tâm trạng bi phẫn, bất mãn, một trái tim đau đớn, vật vã, giằng xé, một tâm hồn tuyệt vọng khi bị xã hội khai trừ,
bị cự tuyệt quyền làm người. Chi tiết này đã hé mở tình trạng bi đát của thân phận Chí Phèo. Tiếng chửi được thể
hiện trong một đoạn văn đa giọng điệu: ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, ngôn ngữ của người kể chuyện hòa
lẫn vào ngôn ngữ của nhân vật, tạo ra ngôn ngữ nửa trực tiếp. Nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật, đồng cảm và
nói hộ nỗi đau của thân phận Chí Phèo. Đằng sau cách gọi Chí là "hắn" đầy lạnh lùng là cả một trái tim trĩu nặng yêu
thương của Nam Cao.
2.2.3. Chi tiết nghệ thuật là yếu tố quan trọng tạo nên tình huống truyện
          Tình huống là một trong những thành tố cấu trúc nên truyện ngắn hiện đại. Một trong những khâu quan trọng
bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện ngắn thường được kết cấu
xoay quanh một tình huống. Tình huống là một biến cố, một sự kiện trong đời sống được nhà văn lạ hóa để làm nổi rõ
bản chất thật của con người, sự việc, qua đó, tác giả gửi gắm tư tưởng tình cảm của mình. Bởi vậy, tình huống giống
như một thứ thuốc rửa ảnh làm nổi bật lên chân dung của nhân vật và tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tình huống
truyện được hình thành bởi hệ thống các chi tiết nghệ thuật có quan hệ biện chứng với nhau.
Tình huống trong truyện "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam là tình huống độc đáo, giàu chất thơ, man mác buồn, một tình
huống bình dị mà sâu xa như đời sống: Cuộc sống nơi phố huyện tất cả đều tàn lụi nhưng có một thứ không tàn: đó
là khát vọng được đổi thay, được sống khác của những cư dân tội nghiệp sống trong phố huyện nghèo. Tuy phải sống
một cuộc sống nghèo khổ, tối tăm, lay lắt, nhưng đêm nào họ cũng cố thức chờ chuyến tàu từ Hà Nội về, để gửi gắm
mơ ước về một cuộc sống tươi sáng hơn. Tình huống truyện này đã được tạo nên từ những chi tiết về thời gian tàn,
không gian tàn, những kiếp đời tàn, những đồ vật tàn…. Thời gian tàn từ chiều tà đi dần vào đêm khuya. Chỉ cần qua
một buổi chiều, một lát cắt của thời gian, ta có thể cảm nhận mọi buổi chiều trong nhịp sống của phố huyện. "Chiều,
chiều rồi. Một chiều êm ả như ru...". Âm điệu câu văn mở đầu chậm rãi, như ngân như ru lòng người vào một nỗi
niềm bâng khuâng, mơ hồ, man mác. Câu văn được cất lên qua giọng điệu của Liên, hòa cùng sự ngậm ngùi của tác
giả. Đó là một tiếng kêu thảng thốt, một tiếng thở dài não nuột của một tâm hồn già nua trước tuổi. Thế là một buổi
chiều nữa của đời Liên lại về. Đó là khoảnh khắc Liên phải đối mặt và cảm nhận được sâu sắc nhất sự nghèo nàn, ảm
đạm của phố huyện. Và để cho không khí tàn lụi đọng thành một ấn tượng đậm nét, nhà văn đã chọn không gian tàn
với âm thanh, cảnh vật, màu sắc đều tàn lụi. Trong bức tranh khung cảnh, gợi cảm nhất là chi tiết: "Phương tây đỏ
rực như lửa cháy và những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn", cảnh vật như đang lóe sáng lên lần cuối cùng
trước khi tàn úa. Hình ảnh mặt trời đỏ ối sắp tắt là biểu tượng của một ngày tàn, là khoảnh khắc hấp hối của vũ trụ,
hay là của chính miền quê này? Về màu sắc, gam màu đen bao trùm cả không gian. Bóng tối là một chi tiết nghệ
thuật đầy ám ảnh đè nặng lên cảnh vật và con người. Không dưới ba mươi lần hình ảnh bóng tối xuất hiện, như một
cái gì hãi hùng đang xâm lấn, luồn lách vào mọi cảnh vật, bủa vây mọi con người. Nó tạo nên không gian đen đặc cho
bức tranh phố huyện. Bóng tối trở thành nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, bế tắc, ngao ngán. Đối lập với bóng tối
là những chi tiết về ánh sáng. Ánh sáng được miêu tả rất khe khắt, hiếm hoi và đơn độc, chỉ là những khe sáng, hột
sáng, quầng sáng, vệt sáng, chấm lửa,... không đủ để soi sáng không gian, mà còn tô đậm thêm bóng đêm đậm đặc,
mênh mông của phố huyện. Nếu như ánh sáng, âm thanh là biểu tượng của sự sống, thì bóng tối, sự tịch mịch là biểu
tượng của hư vô, của cái chết. Cuộc sống hiện tại của chị em Liên là phố huyện ngập chìm trong đêm tối, nghĩa là sự
sống đang hụt hơi, hấp hối như một miền đời quên lãng, một vùng đất chết, thiếu vắng sự sống.
          Bức tranh phố huyện càng buồn hơn khi nhà văn góp vào cái giờ khắc của ngày tàn một phiên chợ vãn, với
những chi tiết tưởng như vu vơ nhưng lại chứa đầy dụng ý của nhà văn. Trên đất chỉ còn lại những rác rưởi, vỏ bưởi,
vỏ thị, lá nhãn, lá mía. Ảm đạm nhất là chi tiết: “Một mùi âm ẩm bốc lên”, đó là mùi của sự tàn rữa. Trung tâm của
bức tranh phố huyện là những mảnh đời nhỏ bé, âm thầm trong cuộc sống tối tăm, quẩn quanh, bế tắc. Những kiếp
đời ấy làm nên gương mặt âm u của phố huyện. Làm nên cuộc sống của họ là những đồ vật tàn: một ngôi quán ọp ẹp,
vách dán giấy nhật trình, một cái chõng tre sắp gãy, một manh chiếu rách, chiếc chậu sắt rúm ró,… Qua bức tranh
phố huyện trong cảnh ngày tàn, với thời gian tàn, không gian tàn, kiếp người tàn lụi, tác giả thể hiện tiếng nói xót
thương cho những kiếp người bé nhỏ, sống cuộc sống vô danh, vô nghĩa, quẩn quanh. Bao trùm lên bức tranh phố
huyện là một vẻ tàn lụi, tăm tối, sự sống dường như đang từng ngày lìa bỏ nơi này. Nhưng có một thứ không tàn, đó
là niềm hy vọng của con người về một tương lai tươi sáng hơn: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Và khao khát vượt ra khỏi cuộc sống mòn mỏi ấy được thể hiện
rất rõ qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ.
Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng đoàn tàu theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ
trông của Liên và An. Chúng ta không thể bỏ qua được những chi tiết về đoàn tàu như: ánh sáng rực rỡ, lấp lánh chốn
thị thành, át đi ánh sáng mờ ảo, yếu ớt của phố huyện. Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng đối lập với những thanh âm
buồn tẻ, đơn điệu của phố huyện. Đoàn tàu đã mang đến một thế giới khác lạ, nó khuấy động không gian phố huyện,
làm cho con người nơi đây trong chốc lát quên đi hiện thực tăm tối, để sống với ước mơ.  Thạch Lam đã nhìn thấy
trong hành động đợi tàu của hai đứa trẻ chứa đựng một khao khát không phải của riêng hai đứa trẻ và không phải của
một thời, mà của mọi thời. Đó là khát khao đổi đời, cần phải thay đổi thế giới tăm tối này đi, đem đến một thế giới
khác, ở đó ai cũng có quyền được sống trong hy vọng, chứ không phải là tàn đi trong vô vọng.
          Như vậy, mọi chi tiết trong tác phẩm đều hội tụ, xoay xung quanh tình huống truyện và góp phần thể hiện tư
tưởng nghệ thuật của tác giả.
2.2.4. Vai trò của chi tiết trong việc xây dựng hình tượng nhân vật
          Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm tự sự, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện
thực, và “gửi gắm tư tưởng, tình cảm, quan niệm của mình về cuộc đời”. Nhân vật là “con đẻ tinh thần của nhà văn”.
Hình tượng nhân vật trở nên sinh động, gợi cảm là nhờ các chi tiết. “Chi tiết (…) cho thấy tính cách nhân vật và diễn
biến quan hệ của chúng (...). Do đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị, vừa bộc
lộ ý nghĩa của chúng.” (7). Mỗi nhân vật là một sinh thể toàn vẹn được tạo nên bởi các chi tiết có quan hệ máu thịt
với nhau: các chi tiết về ngoại hình (Chí Phèo: khuôn mặt, đầu, răng, mắt, quần áo, …); các chi tiết về hành động
(Chẳng hạn với Chí Phèo là những hành động: chửi, say, ăn vạ, đến với Thị Nở, đòi lương thiện, giết Bá Kiến, tự
sát.); các chi tiết về nội tâm (tâm trạng của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, …); các chi tiết về ngôn ngữ (Chí Phèo: tiếng
chửi, những lời nói tỏ tình với Thị Nở, tiếng nói đòi lương thiện,…); các chi tiết về mối quan hệ giữa các nhân vật và
giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh, các mối quan hệ này bộc lộ địa vị, tính cách, và số phận của nhân vật (Chí
Phèo: quan hệ với Bá Kiến, thị Nở, với hoàn cảnh xã hội của làng Vũ Đại,…)
      Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, tôi đặc biệt ấn tượng với nhân vật người “Vợ nhặt” mà tác giả đã dồn
bao tinh hoa và tinh huyết để xây dựng nên. Thị là nạn nhân khốn khổ nhất của nạn đói. Thân phận bất hạnh đó được
gợi lên từ một loạt những chi tiết nghệ thuật đặc săc. Chi tiết về tên gọi, người đàn bà này, thậm chí đến cái tên riêng
cũng không có, nhà văn gọi thị là "thị" hoặc "người đàn bà". Đằng sau cuộc đời của chị, còn thấp thoáng bóng dáng
của bao người phụ nữ khốn cùng khác. Thương cảm hơn là những chi tiết về ngoại hình. Cái đói đã tàn phá dung
nhan của thị, có mấy ngày không gặp mà Tràng thấy thị gầy guộc “trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai
con mắt”, xấu xí, rách rưới “quần áo tả tơi như tổ đỉa”. Nạn đói giống như một cơn lũ lớn cuốn phăng đi tất cả,
không chỉ đe dọa cướp đi cuộc sống về mặt sinh học, mà nó còn làm cho tính cách của thị cũng thay đổi. Cái nữ tính,
tính người, nhân phẩm của thị cũng có nguy cơ bị mai một. Biết bao trăn trở, xót xa của nhà văn được dồn tụ trong
những chi tiết miêu tả về lời nói và hành động của thị lúc này. Thị trở nên trơ tráo, ăn nói "chao chát, chỏng lỏn", mất
hết ý tứ và lòng tự trọng. Tiếng nói khẩn thiết nhất của cô vợ nhặt lúc này là phải duy trì được sự sống. Cô như người
sắp chết đuối đang nguy khốn giữa dòng nước xoáy khủng khiếp, cô đang cố gắng túm lấy bất cứ cái gì có thể bấu
víu để tồn tại. Câu hò trở thành cái cớ để thị bám vào Tràng. Rồi “thị cong cớn … Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng”. Thị không còn biết xấu hổ khi trách móc một người không quen biết: “Thị sầm sập chạy
đến… sưng sỉa nói… Điêu… Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Rồi thị còn trắng trợn “gạ ăn”:
“Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Khi Tràng tỏ ra ga lăng “đấy muốn ăn gì thì ăn”, thì lập tức “hai con mắt trũng hoáy
của thị tức thì sáng lên…. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã làm cho
con người trở nên thảm hại, đáng thương và cũng đáng được cảm thông, chia sẻ.
Nhưng điều đáng quý đã làm nên chất thơ cho hiên thực đắng cay này đó là, sau khi nguy cơ chết đói đã qua, cô gái
đã trở lại với con người thật của mình, và nữ tính cũng hồi sinh, cô chợt e lệ và xấu hổ. Chi tiết cô ăn xong thị “cầm
dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở : hà, ngon !” là chi tiết thể hiện nữ tính của người vợ nhặt. Đó là cách cô gái đánh
trống lảng vì ngượng và che giấu sự xấu hổ bên trong. Đặc biệt trên đường về nhà chồng người vợ nhặt đã thay đổi
hẳn, trở thành một cô dâu rất đáng yêu, không còn chao chát, chỏng lỏn nữa. Điều đó được thể hiện rõ nét qua những
chi tiết về dáng vẻ, lời nói của thị: vì xấu hổ nên nói chuyện trống không với chồng; bước chân “rón rén”, “e thẹn”,
“ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt”, đúng là dáng vẻ của một cô dâu đầy nữ tính. Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân thể hiện qua cách
ông đã miêu tả rất tỉ mỉ, chi tiết dáng vẻ của người đàn bà trên đường về nhà chồng, từ dáng đi e thẹn cho đến nỗi hờn
tủi cho thân phận mình. Ở đây nhà văn đã rất kiên nhẫn lặp đi lặp lại những từ đồng nghĩa. Dường như ông cố minh
oan, để trả lại cho người đàn bà khốn khổ bản chất dịu hiền vốn có. Khi về đến nhà, thị “ngượng nghịu”, “ngồi mớm
ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa. Người
đàn bà đã thực sự trở thành một người vợ "hiền hâụ đúng mực", đảm đang, tảo tần, chịu khó. "Thị" đã đem đến cho
ngôi nhà của Tràng một sinh khí mới, một nhịp sống mới. Trong bữa cơm đầu tiên, thị đã “điềm nhiên và vào miệng
miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Đây là chi tiết thể hiện sự ý tứ và thái độ đồng cảm, sẻ chia với gia đình
nhà chồng của người vợ nhặt. Thông qua một loạt các chi tiết biết nói, nhà văn muốn nhắn gửi tới chúng ta một điều:
Hóa ra chính cái đói đã đẻ ra sự liều lĩnh, táo bạo, thô thiển, trắng trợn, nhưng không thể làm mất đi bản chất hiền
hậu, tốt đẹp trong tâm hồn con người. Người vợ nhặt vốn là một cô gái nghèo, có tư cách, có khao khát hạnh phúc.
Nạn đói đã làm mất đi phần nào tư cách ấy, biến dạng một phần tâm hồn cô, nhưng cuối cùng cô vẫn vươn lên giữ
vững tư cách người. Dù bị đẩy đến đường cùng, "thị" vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc. Hành động theo
Tràng về làm vợ của người đàn bà, chứng tỏ "thị" luôn tìm mọi cách để vượt lên cái đói, tìm đến sự sống, kể cả phải
hành động liều lĩnh. Nhà văn đã mở ra con đường sống cho những kiếp đời khổ cực. Nhân vật vợ Tràng đã thể hiện
niềm tin bền vững của Kim Lân vào bản chất tốt đẹp của người lao động.
          Như vậy, khi phân tích một nhân vật, chúng ta phải tuân thủ tính hệ thống của các chi tiết nghệ thuật làm nên
hình tượng đó. Nhưng mặt khác, giáo viên cũng cần định hướng cho học sinh phát hiện và xoáy sâu vào những chi
tiết độc đáo, là điểm sáng mà nhà văn đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng. Đến với nhân vật người đàn bà làng
chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi cứ bị ám ảnh bởi chi tiết về
nước mắt và nụ cười của chị, về nỗi đau tột cùng và hạnh phúc vô bờ của người phụ nữ này. Lúc dơ lưng chịu những
trận đòn “như lửa cháy” của chồng, dù đau đến mấy bà vẫn không hề kêu xin, khóc lóc, nhưng khi đứa con chứng
kiến được toàn bộ tấn bi kịch gia đình, chị đã không cầm nổi những giọt nước mắt đau đớn. Sự xuất hiện của đứa con
như “một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những
dòng nước mắt”. Làm sao diễn tả được sự tan nát của trái tim người mẹ khi chứng kiến cảnh đứa con mình “nhẩy
xổ vào bố nó như một con sói con”, “giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật
vào giữa khuôn ngực” ông ta. Cái phản ứng tự nhiên của một tâm hồn trẻ thơ thương mẹ, lại khiến cho người
mẹ “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Bà gọi tên con, “ôm
chầm lấy nó”, rồi lại buông ra “chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Có phải bà đau đớn vì rốt cuộc đã
không sao tránh được cho con cái khỏi bị tổn thương vì bạo lực gia đình. Bà xấu hổ, nhục nhã vì phải giấu giếm con
tình trạng khốn khổ của mình, dù bà đã hết sức che chắn. Bà xót xa vì niềm tin trong trẻo của con thơ đã bị rạn vỡ.
Bà “vái lấy vái để” đứa con để “tạ tội” với nó, hay cầu xin nó đừng căm thù người cha đẻ của mình, đừng trở nên
độc ác như bố nó. Còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của người mẹ lúc này? Ẩn sâu trong trái tim đang rỉ máu của người
mẹ, là lòng yêu thương con vò xé tâm can. Nước mắt chảy tràn trên gương mặt của người mẹ dường như đã hòa cùng
giọt nước mắt xa xót cho thân phận con người của nhà văn?
          Bên cạnh những chi tiết buồn về thân phận của người đàn bà. Trong cả thiên truyện chỉ duy nhất một lần nhà
văn miêu tả nụ cười của chị: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười” khi chị
kể về những giây phút vợ chồng con cái được hòa thuận vui vẻ, là "lúc ngồi nhìn đàn con…được ăn no”. Đó là niềm
vui, niềm hạnh phúc rất đời thường, bình dị mà đáng thương, đáng trân trọng. Chị đã phải đánh đổi hạnh phúc ấy
bằng bao nỗi đau khổ. Sự yên lành no ấm của đàn con chính là mục đích sống, là nguồn sống của chị - người đàn bà
luôn sống cho con. Đó chính là sức mạnh tinh thần kì diệu đã giúp chị vượt qua bao đắng chát chua cay của cuộc đời,
để giữ lửa cho gia đình bé nhỏ của mình. Chị kết tinh vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với trái tim
chứa chan bao tình cảm vị tha, thánh thiện, lấy niềm vui, hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính mình.
Chỉ có tác giả là người thấu hiểu, người đàn bà làng chài mới là vẻ đẹp đích thực của “Chiếc thuyền ngoài xa”, đẹp
trong đau khổ, nhọc nhằn và nhục nhằn – một vẻ đẹp hình như chưa từng thấy trong văn học sử thi 1945 – 1975.
          Từ sự phân tích ở trên chúng ta thấy lựa chọn được những chi tiết đắt giá sẽ quyết định thành công của tác
phẩm, bởi chúng được chưng cất lên từ tấm lòng và tài năng của người cầm bút.
2.2.5. Chi tiết nghệ thuật góp phần tạo nên kết cấu đặc sắc cho tác phẩm
          Kết cấu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm... không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở
những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến
trúc nội dung cụ thể của tác phẩm” (2). Trong tác phẩm văn học chi tiết phải tuân thủ kết cấu. Kết cấu giúp tổ chức
chi tiết. Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn đã tạo nên được những kết cấu độc đáo nhờ các chi tiết nghệ thuật. Khi
mới ra đời “Chí Phèo” có tên là “Cái lò gạch cũ”. Đó là nơi Chí Phèo cha ra đời và cũng có thể là nơi hứa hẹn sự ra
đời của Chí Phèo con. Chi tiết cái lò gạch cũ được nhắc đi nhắc lại hai lần trong tác phẩm, đặt ở vị trí đầu và cuối của
thiên truyện như một thủ pháp trùng lặp, góp phần khái quát một hiện tượng phổ biến đến mức đã thành quy luật
khủng khiếp trong cuộc đời những người nông dân ở xã hội cũ: họ bị xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy vào con
đường lưu manh, sa vào kiếp sống tối tăm của thú vật, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Việc lặp lại hai lần chi
tiết cái lò gạch cũ và lấy chi tiết đó đặt tên cho tác phẩm, Nam Cao đã nói lên một điều rằng: chừng nào còn có xã hội
bất công, tàn bạo, có cơ chế đẻ ra tội ác, chừng ấy còn có hiện tượng Chí Phèo. Qua cách kết cấu này, chúng ta thấy,
Nam Cao đã nhận thức được cái tận cùng của xung đột giai cấp ở nông thôn.
          Nếu chi tiết “cái lò gạch cũ” tạo nên kết cấu vòng tròn đầy buồn thảm cho “Chí Phèo” của Nam Cao, thì chi tiết
lá cờ đỏ đã tạo nên kết thúc đầy lạc quan cho truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng ở cuối
truyện thật đột ngột, ngẫu nhiên mà cũng tất nhiên. Nó gắn với ý nghĩa sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của
sự sống với cái chết. Nó là biểu tượng của cách mạng, của con đường tương lai tươi sáng mà nhà văn bằng tấm lòng
nhân đạo cao cả đã soi đường chỉ lối cho nhân vật của mình. Những con người như bà cụ Tứ, đặc biệt là đôi vợ chồng
trẻ với tình yêu thương đùm bọc, với sức sống mãnh liệt và niềm tin vào ngày mai tốt đẹp sẽ rất dễ dàng bắt gặp ánh
sáng cách mạng của Đảng. Với ý nghĩa đó, “Vợ nhặt” có thể coi là bài ca ca ngợi sự sống, đã thể hiện niềm tin bất
diệt của Kim Lân vào con người, đặc biệt là người lao động. Câu chuyện mở ra bằng bóng hoàng hôn chạng vạng, kết
lại trong ánh sáng rực rỡ của ban mai và lá cờ đỏ sao vàng. Kết cấu tự nhiên ấy làm cho Vợ nhặt mở ra nhiều liên
tưởng cho người đọc hướng về niềm tin và hi vọng. Lá cờ đỏ ở cuối tác phẩm là dấu hiệu của một cuộc cách mạng,
một sự đổi đời. Và chính nhà văn Kim Lân từng nói: Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi
thời đại. Cho nên, đó là một đề tài thuộc về bản chất đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất
lực của con người trước nó. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn
luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai.
2.2.6. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm, tư tưởng nghệ thuật của tác giả
          Mácxim Gorki đã nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Điều đó thật đúng với tác phẩm “Chữ người tử tù”
của Nguyễn Tuân. Trong mỗi chi tiết mà ông sáng tạo nên đều dồn tụ biết bao ý nghĩa. Để làm nổi bật sự chiến
thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái cao thượng đối với cái thấp hèn, của cái đẹp với cái xấu xa, nhà văn đã
xây dựng một loạt những chi tiết về một Huấn Cao luôn hiên ngang, bất khuất, ngẩng cao đầu trước quyền lực của
nhà tù: hành động rỗ gông, thản nhiên nhận rượu thịt, câu nói khinh miệt đến điều với quản ngục, bình thản trước tin
báo mình sắp sửa bị hành hình... Đặc biệt, khi miêu tả tư thế Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, Nguyễn Tuân rất tài
tình khi ông dùng từ "vướng xiếng" thay từ "bị xiềng". Cách viết ấy đã gợi lên hình ảnh người tù hiên ngang, khẳng
khái, bị trói buộc, giam cầm về thân thể nhưng luôn tự do về tinh thần. Gông xiềng chỉ là một cái gì vướng víu dưới
chân. Còn tâm hồn người tù đang say sưa với mùi thơm của mực, ngây ngất trước màu trắng tinh khiết của tấm lụa
bạch. Huấn Cao hiện lên như một nghệ sĩ đang say mê sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo những con chữ nói lên hoài bão
tung hoành của cả một đời người. Giây phút cuối cùng của cuộc đời tử tù không than thân trách phận. Trong khoảnh
khắc thiêng liêng nhất, Huấn Cao vẫn dành trọn cho cái đẹp. Việc Huấn Cao cho chữ quản ngục, không phải là hành
động của người sắp bị tử hình đem những thứ quý giá nhất của đời mình trao cho người khác, càng không phải là cơ
hội cuối cùng để Huấn Cao trổ hết tài hoa. Mà lí do sâu xa như Huấn Cao đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên
tài của các người… Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, việc Huấn Cao cho chữ
Quản ngục thực chất là lấy lòng để tạ lòng, là tình cảm của kẻ tri âm dành cho người tri kỉ. Trong khoảnh khắc này,
cái tài và cái tâm của Huấn Cao cùng thăng hoa để cho cái đẹp vút bay.
          Bên cạnh những chi tiết miêu tả phong thái của Huấn Cao khi cho chữ, chủ đề của tác phẩm còn thấm đẫm
trong những chi tiết tưởng như rất nhỏ bé như chi tiết hương thơm của chậu mực, chi tiết tấm lụa trắng...“Thoi mựa
thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm từ chậu mực bốc lên không?...”. Câu hỏi của Huấn Cao
như muốn lay thức tâm hồn trong sạch của quản ngục trỗi dậy. Hương thơm của mực hay chính là hương vị của tình
người, hương vị của sự cộng cảm giữa những tâm hồn đồng điệu. Dấu (…) tạo nên khoảng lặng để tâm hồn con
người được thăng hoa, ngây ngất thưởng thức cái đẹp. Chi tiết tấm lụa trắng xuất hiện bốn lần trong một đoạn văn
ngắn mà bóng tối của nhà tù không thể xóa nhòa (tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, tấm lụa trắng tinh, phiến lụa
óng, bức lụa trắng). Hình ảnh tấm lụa trở đi trở lại gợi lên sự trong trẻo, thanh sạch trong tâm hồn con người mà hoàn
cảnh tăm tối không thể làm hoen ố. Như vậy, ngục tù không thể tiêu diệt được cái đẹp. Đó không chỉ là cái đẹp định
hình trong con chữ, mà còn là cái đẹp thoát bay từ tâm hồn, từ thiên lương trong sáng. Huấn Cao – người nghệ sĩ
sáng tạo cái đẹp tuy sắp lìa đời, nhưng cái chết của ông có ý nghĩa tái sinh sự sống và làm hồi sinh thiên lương của
quản ngục.
Dường như, Nguyễn Tuân đã dồn nén bao tư tưởng trong chi tiết lời giáo huấn của người tù: “Ở đây lẫn lộn. Ta
khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông
tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời giáo huấn không cứng nhắc, giáo điều
mà thấm thía. Nó cất lên khoan thai, thư thái, đĩnh đạc. Đó là những lời gan ruột của bạn tri âm dành cho người tri kỉ.
Câu nói ấy vừa gói ghém được nhân cách của Huấn Cao vừa thể hiện được quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp:
Cái đẹp không thể sống chung với cái xấu, cái ác, cái bạo tàn. Sự trong lành của thiên lương không thể đồng hành với
sự đê tiện. Huấn Cao nhấn mạnh lại: “Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã
rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời
lương thiện đi.” Qua những lời gan ruột này, nhà văn muốn nêu lên một yêu cầu đối với người thưởng thức nghệ
thuật: Phải sống trong sạch, sống lương thiện mới có thể đến với nghệ thuật, đến với cái đẹp. Trước khi là một nghệ
sĩ phải là một con người chân chính, có nhân cách cao đẹp. Lời răn dạy của Huấn Cao có sức mạnh cảm hóa kì diệu.
Bởi tiếng nói của trái tim sẽ đến với trái tim. Ngục quan cảm động, trào dâng những giọt nước mắt nóng hổi tình
người, nghẹn ngào nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây không chỉ là sự thuần phục của lí trí, mà còn là sự yêu
mến của trái tim. Cái cúi đầu của quản ngục đã dạy chúng ta rằng: muốn nên người phải biết kính sợ ba điều: cái tài,
cái đẹp, cái thiên tính tốt đẹp của con người. Như vậy: Cái đẹp có sức mạnh cảm hóa, có thiên chức hướng thiện.
“Cái đẹp cứu nhân thế”.  Sự trở về không bao giờ là muộn, và sự trở về của quản ngục đã chứng tỏ chiến thắng cuối
cùng của cái đẹp. Trong trật tự của xã hội phong kiến đó là cái đẹp “nổi loạn”. Qua chi tiết này, Nguyễn Tuân muốn
khẳng định rằng: Trên cõi đời này không chỉ có quyền lực của nhà tù, mà còn có quyền uy của cái đẹp – Cái đẹp của
nhân cách, của tài hoa, của khí phách và thiên lương con người.
          Như vậy chính những chi tiết có dung lượng lớn về ý nghĩa đã tạo cho tác phẩm “những chiều sâu chưa nói
hết”. Cái tài của người viết truyện ngắn là phải tạo được những chi tiết đắt giá để kí thác những tâm niệm của mình
đối với cuộc đời và con người.

 KIỂU NHÂN VẬT TỰ Ý THỨC


TRONG TRANG VĂN CỦA NAM CAO VÀ NGUYỄN MINH CHÂU
I. Giới thuyết về khái niệm.
1.     Kiểu nhân vật tự ý thức ( nhân vật tự nhận thức)
Nhân vật tự nhận thức là kiểu nhân vật tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn và cảnh tỉnh chính
mình với những xung động của nội tâm trước sự dồn đẩy âm thầm mà quyết liệt của lương tâm, của nhân cách con
người.
2. Đặc điểm của nhân vật tự ý thức.
Có thể xem đây là loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần xã hội.
Khác với nhân vật tính cách được chú trọng bồi đắp  đầy đặn về mặt cá tính, nhân vật tự nhận thức thường đưa ra một
cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá đời sống mang đậm chính kiến và suy ngẫm cá nhân.
Việc xây dựng loại hình nhân vật tự nhận thức là một cách nhà văn tự thức nhận và lý giải vấn đề trên theo quan niệm
riêng của mình.Nhà văn quan tâm, suy ngẫm và coi sống như thế nào trong mối tương quan giữa con người và hoàn
cảnh là vấn đề cần thiết, luôn đặt ra cho mỗi thế hệ.
II. Kiểu nhân vật tự ý thức trong những tác phẩm viết về đề tài người trí thức của Nam Cao.
1. Khái quát chung.
 Nam Cao sáng tác ở hai mảng đề tài chính: đề tài về người nông dân và đề tài về người trí thức. Tuy khác nhau về đề
tài nhưng các sáng tác của ông vẫn có chung một tư tưởng: nỗi băn khoăn đau đớn trước tình trạng con người bị hủy
hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. 
Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người bên trong
con người”. Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong con người, coi đó là
nguyên nhân của những hành động bên ngoài.“Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa,
nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động” (Sống mòn).
     Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế
giới tinh thần của con người. Ông tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm
lí phức tạp, những hiện tượng dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa hiền và dữ, giữa con người
với con vật. Truyện Nam Cao có tính triết lí sâu sắc, triết lí mà không khô khan, xuất phát từ chính cuộc sống thực và
từ tâm tư dằn vặt, đau đớn của nhà văn.
- Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái hằng ngày” nhỏ nhặt, xoàng xĩnh liên quan đến đời sống
riêng tư của các nhân vật thường gọi là “những chuyện không muốn viết”. Thế nhưng qua đó, Nam Cao đã chạm đến
vấn đề có tính nhân bản, đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa lớn lao, về thân phận con người, chứa đựng những
triết lí nhân sinh sâu sắc, quan điểm nghệ thuật tiến bộ và vấn đề xã hội về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bị kịch
của đời thường, của những cái vặt vãnh hằng ngày, qua ngòi bút của Nam Cao, đã trở thành những bi kịch vĩnh cữu.
* Đề tài người trí thức nghèo
- Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài
năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất, mỗi trang viết về đề tài người trí thức nghèo đều
chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.
 Thứ nhất, Nam Cao đau đớn, phẫn uất trước tình cảnh con người không sao thoát khỏi kiếp “sống mòn” hay “chết
mòn”. Những ước mơ, niềm say mê khát vọng chân chính của những nhân vật trí thức trong tác phẩm Nam Cao đều
bị vùi dập bởi hoàn cảnh, cuộc đời. Nam Cao chán ghét cuộc sống vô lí, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”,
“chết trong lúc sống”. Ông đồng cảm sâu sắc và đau đớn tột độ trước bị kịch của những con người muốn sống có ý
nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó, ta thấy Nam
Cao đã có cái nhìn sâu sắc, có tầm triết lí, tổng  hợp khái quát cao về tình trạng “chết mòn” của con người.
Thứ hai, những nhân vật trí thức của Nam Cao không những “chết mòn” những ước mơ, khát vọng, hoài bão mà còn
“chết mòn”về mặt nhân cách con người, dẫn đến những ý nghĩ, hành động tàn nhẫn. Qua đó, Nam Cao đã phê phán
sâu sắc cái xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người. Nhân vật của Nam Cao
không phải không có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập trường nhân đạo, vẫn giữ
vững được cái lẽ sống tình thương cao cả của mình.“Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn
không thể bỏ lòng thương…”( Hộ- Đời thừa). Họ có niềm khát khao một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh
liệt, có ích, có ý nghĩa, họ vẫn chưa hoàn toàn cạn hết niềm tin, niềm hi vọng.Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích
làm một việc ảnh hưởng đến xã hội ngay” và quan niệm: “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn
nhiều…Mỗi người chết đi, phải để lại chút gì cho nhân loại.”
Tất cả những yếu tố trên được coi là cơ sở là tiền đề để Nam Cao dụng công xây dựng kiểu nhân vật tự ý thức trong
trang văn của mình.
2. Kiểu nhân vật tự ý thức trong văn Nam Cao.
Xét cho tới cùng cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người
trước sự kiện, biến cố đó. Như một nguyên tắc các sự kiện biến cố , tình tiết chỉ giữ vai trò khiêu khích các nhân vật
để các nhân vật bộc lộ những nét tâm lí, tính cách. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao
đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang văn viết về đề tài người trí thức đều chứa đựng
tâm sự, nỗi đau và niềm khao khát cháy bỏng của chính nhà văn.
        Nhà văn đã dựng trước chúng ta hình ảnh những con người với những ước mơ, say mê, khát vọng chân chính bị
dồn đẩy tới chỗ không sao sống yên ổn được, không sao thực hiện được lí tưởng của cuộc đời mình, bị thui chột tài
năng, xói mòn nhân phẩm.Điều đáng chú ý là trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động
tàn nhẫn, Nam Cao vẫn không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình.Nhân vật
Điền trong Nước mắt sau cái cử chỉ không phải của mình với ông kí nhà dây thép tỉnh, lại thấy “ thương ông ấy quá”,
sau cái lúc gắt gỏng vì tức giận, nói những lời tàn nhẫn, cay độc với vợ con lại tự giày vò ăn năn, hối hận.Mặc dù
phải sống trong đau khổ và bế tắc có lúc mong muốn được giải thoát để lo sự nghiệp cho riêng mình nhưng Hộ
trong Đời thừa vẫn không chấp nhận sự tàn nhẫn và cũng không thể vứt bỏ tình thương. “ Hắn có thể hi sinh tình
yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương, có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng
hắn vẫn còn được là  người; hắn là người chứ không phải là thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái”
    Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mòn, một cách chết mòn,một cuộc sống vô lí, vô ích, vô
nghĩa, “ chết trong lúc sống”, “ chết mà chưa sống”. Nam cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn
tại sinh học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng với con người: “ có thú vị gì cái lối sống co quắp vào
mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?”. Cuộc sống
xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người là phải có đời sống tinh thần cao quý,sống với đầy đủ giá trị của sự
sống. Chính vì vậy Nam Cao đồng cảm với bi kịch của những kẻ phải sống như “ một kẻ vô ích, một người
thừa”. Nam Cao đã cứu vớt họ bằng cách để cho các nhân vật ấy tự đấu tranh, tự nhận ra bi kịch của mình. Họ không
ngừng đấu tranh để hoàn thiện nhân cách của chính mình, cứu vớt lương tâm và nhân cách giữa cái ranh giới mong
manh. Bất kể nhân vật người trí thức nghèo nào của Nam Cao cũng đang vật lộn giữa suy nghĩ, tình cảm, giữa nhận
thức và hành động. Từ ông giáo Thứ trong Lão Hạc, Thứ trong Sống mòn, Điền trong Trăng sáng đến Hộ trong Đời
Thừa… Nam Cao đều để nhân vật có những giây phút độc thoại nội tâm dằn vặt và tự thú về một lỗi lầm hay quan
điểm, hay một suy nghĩ. Đó chính là quá trình nhân vật tự nhận thức sâu sắc về mình về cuộc đời.
Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ, những Thứ…, Nam Cao thể hiện niềm
khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Để làm nổi bật điều đó
Nam Cao thường đặt nhân vật của mình vào những tình huống tưởng như vụn vặt, những điều xoàng xĩnh hằng ngày
của đời sống để từ đó nhân vật suy nghĩ, hành động, tâm niệm.Hộ trong Đời thừa hằng tâm niệm “Kẻ mạnh không
phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ.Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của
mình” và ước mơ viết được một tác phẩm “thực có giá trị (…) làm cho người gần người hơn”. Thứ trong Sống mòn
đã từng “ thích làm một việc gì đó có ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn “đem những sự thay đổi lớn lao
đến cho xứ sở mình”. Hơn một lần Thứ mơ ước: “ Mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng vượt lên trên sự tầm
thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi…”.Nhưng những con người mang hoài bão ấy khi chạm trán với cuộc
đời đều nếm trải cay đắng, đau đớn song họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được
sống, được cống hiến, được phát triển. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lí tưởng nhân văn của Nam Cao được gửi gắm qua
những suy ngẫm của nhân vật.  Những dằn vặt đấu tranh của nhân vật chính là sự đấu tranh nghiêm túc có trách
nhiệm của người trí thức trung thực đến vô ngần- Nam Cao.
Như vậy qua ngòi bút của Nam Cao, tất cả các phương thức và phương tiện nghệ thuật đếu hướng tới việc khám phá,
phát hiện “ con người trong con người”, nhằm hoàn thiện con người và đó chính là cuộc hành trình kiếm tìm chân lí
để tự hoàn thiện mình của các nhân vật tự ý thức.
3.Nhân vật tiêu biểu : Hộ - Nhân vật tự ý thức : Một cuộc giải phẫu về nhà văn và nghề văn.
Bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn - một trí thức giữa “cơn dâu bể” của
cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được
“thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực.
Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ cũng chính là nhận thức đầu tiên của Hộ là bi
kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ nhận ra bi kịch nghề nghiệp của mình.Hộ đã đặt văn chương lên trên hết:
văn chương dường như chính là khát vọng lớn nhất của đời anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính, anh sống
có ước mơ có hoài bão và nghiêm túc với nghề nghiệp của mình. Vậy mà vì miếng cơ manh áo anh đã vi phạm vào
nguyên tắc nghề nghiệp, đã viết ẩu, viết vội điều đó khiến anh đau khổ : đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh
phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất
nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Đó chính là bi kịch của anh – bi kịch của
một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lừa bút theo những điều mình chẳng hề
muốn.
       Nam Cao để nhân vật tự đấu tranh với chính mình bằng những suy nghĩ, những dòng độc thoại nội tâm sâu
sắc.Nhà văn cũng đã đặt nhân vật vào một tình huống tưởng như vụn vặt xoàng xĩnh để nhân vật bộc lộ suy nghĩ và
nỗi đau. Anh phải ẩu như thế, bôi bác như thế cũng chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Nước mắt anh không
chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn. Có lẽ sự day dứt,dằn vặt mà Hộ trải qua  Nam Cao cũng đã từng
phải chịu để rồi Nam Cao đấu tranh và hoàn thiện mình trong đời cũng như trong nghề văn.
Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người.
Giấc mộng văn chương sụp đổ nhưng anh còn có lẽ sống là tình thương. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình
thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả .Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ đựơc trọn vẹn cái lẽ sống cao
quý ấy của mình nữa. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đó khiến anh tìm niềm vui
trong men rượu. Rượu đã khiến anh trở thành kẻ vũ phu. Anh đã vi phạm lẽ sống tình thương của mình. Anh đó đánh
đập người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể.Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi
phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp ấy.
Và Hộ đã nhận ra và ý thức sâu sắc đến đau đớn bi kịch thứ hai của mình-bi kịch tình thương. Đó là bi kịch tinh thần
của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất. Điều
đáng chú ý là người trí thức trung thực ấy đã dằn vặt, đã đau đớn, đã ăn năn sau khi tỉnh rượu. Anh ta ý thức được
và đấu tranh để hoàn thiện mình, tự sỉ vả mình là thằng khốn nạn. Nước mắt Hộ đã bật ra như một quả tranh bị
người ta bóp mạnh. Đó là giọt nước mắt ăn năn đầy đau đớn, giọt nước mắt của sự bế tắc đến cùng cực của người trí
thức.
       Sự dằn vặt đau đớn của Hộ đã cứu Hộ vì ít ra anh còn đang đấu tranh để đến gần người hơn.Triết lí về nghề về
đời về tình thương của Hộ chính là khát vọng và lí tưởng mà Nam Cao đã giữ gìn và kiên trì thực hiện trong cả cuộc
đời viết văn của mình.Tuy là bế tắc, tuy là đau đớn những rõ ràng qua sự tự nhận thức của Hộ người đọc vẫn thấy
nhà văn đã đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ và muốn họ
vươn tới sự toàn vẹn về nhân cách.
III. . Kiểu nhân vật tự ý thức trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
1. Khái quát chung:
Trong giai đoạn văn học Việt Nam 1945-1975, quan niệm gắn bó với cuộc sống để nêu gương về con người là một
nội dung nổi bật. Chính từ quan niệm này con người trong văn học đã được nhìn chủ yếu dưới góc độ sử thi. Còn văn
học sau 1975 nhân vật trong văn học thường được thể hiện qua các quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua
miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn và phức tạp. Nằm trong xu hướng đó văn học sau 1975 đã hình thành một số kiểu con
người mới: con người tự nhận thức bên cạnh con người tư tưởng, con người đại diện cho cộng đồng. Có thể nhận thấy
nhà văn tiên phong trong vấn đề này chính là Nguyễn Minh Châu.
         Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm quá trình viết văn là quá trình ông đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con
người. Cuộc hành trình ấy ông mải miết thực hiện với cả tấm lòng, tâm huyết và tài năng của mình. Ông được xem là
người tiên phong trong việc đổi mới nghệ thuật truyện ngắn. “ người mở đường tinh anh và đầy tài hoa” của văn xuôi
hiện đại Việt Nam ( Nguyễn Khải).
Giai đoạn trước 1975 Nguyễn Minh Châu khắc họa vẻ đẹp lí tưởng của con người Việt Nam bằng ngôn ngữ giàu chất
thơ, với không khí sử thi.Ở chặng đường sau là quá trình khám phá bên trong con người trước những vấn đề nghiệt
ngã của cuộc sống.Nhà văn đã nhận xét khái quát về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh: “ Thời kì
này đang diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa
ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn mỗi con người”. Hiện thực ấy là mảnh đất màu
mỡ để ngòi bút Nguyễn Minh Châu khai phá.Và nhân vật tự ý thức đã ra đời từ mảnh đất hiện thực đa chiều đó với
các tác phẩm tiêu biểu: Bức tranh, Bến Quê, Chiếc thuyền ngoài xa….
2. Kiểu nhân vật tự ý thức của Nguyễn Minh Châu ( đối sánh với các nhà văn của văn học giai đoạn sau 1975).
- Xây dựng nhân vật tự ý thức nhà văn ít sử dụng đối thoại, nhân vật ít hành động mà luôn suy nghĩ, chìm đắm trong
suy nghĩ. Nhân vật được tác giả khơi sâu vào những góc ngách sâu kín của tâm hồn. Độc thoại, đối thoại bên trong
trở thành biện pháp hữu hiệu giúp nhà văn mổ xẻ quá trình tự ý thức của nhân vật. Với Nguyễn Minh Châu, có thể
nói lần đầu tiên trong văn học sau 1975, con người đối diện với chính mình một cách chân thật.
- Các nhân vật tự ý thức mang bóng dáng của nhà văn. Các nhân vật suy tư, triết lí. Những triết lí về lẽ đời, về nhân
sinh, về nghệ thuật…đều bắt nguồn từ trái tim của một nhà văn luôn trăn trở với nghề, với đời. Dẫu viết về người
lính, trí thức hay nông dân, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đều lóe lên những tư tưởng sâu sắc. Vì vậy nhiều truyện
của ông mang tính luận đề- nhà văn bàn bạc về đạo đức xã hội, nhân sinh, về tâm lí xã hội. Truyện ngắn Bức tranh là
luận đề đạo đức xã hội, Chiếc thuyền ngoài xa là luận đề về mối quan hệ nghệ thuật và đời sống.  Những luận đề của
tác phẩm được thể hiện qua hình tượng nhân vật, những nhân vật máu thịt và có quá trình phát triển tính cách. Những
nhân vật tự ý thức.
Theo quan niệm của Nguyễn Minh Châu, sáng tác văn học thực ra là “sự săn đuổi nhân cách của chính mình”, là thể
hiện “ sự săn đuổi nhân cách con người”. Với khát vọng hướng con người vươn tới sự hoàn thiện nhân cách, bảo vệ
cái thiện, cái đẹp, chế ngự cái ác, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng những nhân vật tự nhìn nhận, phán xử hành động
của mình. Khi con người đã tự phản tỉnh, soi xét, tự nộp mình trước “tòa án lương tâm” để nhận thức về mình, ý
thức được tội lỗi mà mình đã mắc với ai đó thì chí ít anh ta cũng thấy rằng mình chưa hoàn thiện và mong muốn
vươn tới sự hoàn thiện.
Truyện ngắn  Bức tranh đi sâu khám phá diễn biến quá trình tự nhận thức của nhân vật họa sĩ. Tác phẩm được thể
hiện như một “tự thú” của nhân vật sau một quá trình tự lộn trái, tự phán xét mình trước lỗi lầm trong quá khứ. Vấn
đề mà Nguyễn Minh Châu đặt ra là con người cần phải trung thực với chính mình, nhìn thẳng vào lương tâm mình,
nhận thức được những giới hạn để vươn lên tự hoàn thiện nhân cách.. Đây là biểu hiện của nhân cách làm người, là
kết quả của sự trăn trở, ăn năn, thể hiện sự mẫn cảm, đầy niềm tin vào phẩm giá con người của Nguyễn Minh Châu.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thường xuất hiện những nhân vật luôn tự đấu tranh với phần khuất tối của
mình, đối diện với chính mình để tự ý thức về bản thân trong sự chân thực của bản ngã. Đó là nét đẹp của con người
muốn vượt lên chính mình cũng là muốn trở về với chính mình, với “con người bên trong con người” .
Nếu như kiểu nhân vật tự nhận thức của Nguyễn Minh Châu luôn sống trong day dứt, dằn vặt hay tự thú về lỗi lầm
hay một quan niệm, một lối nghĩ, với những khắc khoải nội tâm thì nhân vật tự nhận thức của Nguyễn Khải lại
nghiêng về các “trạng thái ý thức” của con người trước các “trạng thái đời sống”, là những con người đang trong quá
trình vận động tư tưởng, kiếm tìm chân lý để tự hoàn thiện mình. Nhà văn thường đặt nhân vật vào những tình huống
có vấn đề gay cấn khiến nó không thể sống yên ổn mà phải suy tư, tìm hiểu, phải đối thoại, tranh luận nhằm cọ xát
các ý thức, lập trường của nhân vật khác, của tác giả hoặc của chính nó trong sự phân thân để nhận ra chân lý, sự thật.
Trong cuộc “đấu tranh” và chọn lựa con đường mà mình theo đuổi, có người đạt tới “đỉnh cao” nhưng có người về
“vực sâu” và tất cả đều cảm nhận đến tận cùng cái giá phải trả cho sự lựa chọn và xác quyết của mình.
Nếu như nhân vật tự nhận thức của Nguyễn Minh Châu đi sâu vào bản thể, luôn độc thoại nội tâm thì nhân vật tự
nhận thức của Nguyễn Khải có một đặc trưng riêng là ý thức đối thoại. Đối thoại để nhận thức hiện thực đời sống, đối
thoại để khám phá chính mình và đối thoại để lựa chọn đường đi nước bước cho mình. Ý thức đối thoại của nhân vật
đã trở thành sở trường của ngòi bút Nguyễn Khải.
Cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, với sự đổi mới tư duy nghệ thuật, cuộc sống thời bình với bao vấn đề
phức tạp xuất hiện trên từng trang viết . Ý thức được điều đó nên trong các sáng tác, nhà văn thường đặt nhân vật vào
cuộc sống đời thường, trong những tình huống tưởng như vặt vãnh, tầm thường để bộc lộ quan điểm tư tưởng. Nhân
vật tư tưởng hay nhân vật tự nhận thức của Ma Văn Kháng lại thường được miêu tả, soi chiếu ở đời sống tinh thần
phong phú, luôn hướng tới cái thanh tao, với tâm lý dưỡng thiện, khẳng định nhân cách, tài năng trong mọi hoàn
cảnh.
        Nếu kiểu nhân vật tự nhận thức của Nguyễn Minh Châu thường dằn vặt, day dứt trong mặc cảm tội lỗi, nhân vật
của Nguyễn Khải ham lý lẽ, đối thoại để đưa ra một thái độ, một nhận thức thì nhân vật của Ma Văn Kháng lại là
những người chịu nạn, chịu oan trái của cuộc đời. Và dù bị mắc nạn, họ rơi vào môi trường đầy sự tráo trở, bất công
vẫn hướng thiện, tự tìm cho mình niềm an ủi để chịu đựng và vượt qua.
Trong văn xuôi từ sau 1975 còn có thể nhận ra kiểu nhân vật tự nhận thức trong sáng tác của Chu Lai, Hồ Anh Thái,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Y Ban, Trần Thùy Mai,… Đây là một trong các kiểu nhân vật gắn với sự đổi mới tư
duy nghệ thuật của nhà văn trong thời kỳ mới.
    3. Nhân vật Phùng-Người nghệ sĩ nhiếp ảnh với quá trình vỡ lẽ về nghệ thuật và cuộc đời.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong
cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là
một trong những sáng tác tiêu biểu của ông .
Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa”, tác giả mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện,
nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.Nhà văn đặt nhân vật Phùng vào tình
huống đứng trước cái đẹp của thiên nhiên và cái ác, cái xấu của cuộc đời từ đó có những vỡ lẽ   về cuộc sống và
nghệ thuật.
      Trước hết là nhận thức của Phùng về cái đẹp của nghệ thuật. Phùng đang đứng trước cảnh biển sớm khi mặt trời
mới thức dậy qua đám mây ánh hồng.Phùng bộc lộ rung động trước “ Một cảnh đắt trời cho” mà “ suốt đời cầm
máy chưa bao giờ thấy”. Nó đẹp “ như bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”,“ toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp ,một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng thực sự rung động “
Đứng trước nó tôi trở nên bối rối .Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và“ phát hiện ra khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Đó là sự nhạy cảm, tinh tế của một người nghệ sĩ trước cái đẹp của thiên nhiên của cuộc đời.
     Nhận thức thứ hai của Phùng là về bạo lực gia đình. Bước từ chiếc thuyền đẹp như mơ ấy là một người đàn bà
xấu xí, một người đàn ông độc dữ và một cảnh tượng tàn ác. Chồng đánh vợ, con đánh cha, bố đánh con. Tìm hiểu rõ
hơn Phùng được biết cảnh ấy diễn ra thường xuyên “Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Lúc đầu
Phùng ngạc nhiên bất ngờ đến mức há mồm ra mà nhìn sau rồi anh chạy lại để ngăn chặn.Đặc biệt khi gặp người
đàn bà hàng chài ở tòa án huyện Phùng được nghe câu chuyện đời tự kể của bà anh đã có những vỡ lẽ cho riêng
mình. Đó là có những nghịch lí đôi khi ta phải chấp nhận. Cuộc sống của người dân chài còn nhiều bộn bề mà giải
pháp li dị để loại bỏ cái xấu cái ác chưa phải là tất cả. Không thể áp dụng lí thuyết sách vở mà phải căn cứ vào thực
tế đời sống. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tuỳ tiện. Giải quyết li hôn càng làm cho gia đình
rạn nứt và tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao ?
Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông. Phùng đi gặp thằng Phác. Kết quả như thế nào, tác giả còn bỏ ngỏ. Chỉ biết
bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng “ bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước
ra khỏi tấm ảnh ,đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch ,tấm lưng áo bạc phếch có miếng
vá ,nửa thân dưới ướt sũng ,khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Phải chăng đây là sự trăn trở trước
cuộc sống còn nhiều điều khó khăn, vất vả của người làm nghệ thuật . Đó là mối quan hệ giữa văn chương với cuộc
đời.
Với nghề anh là một người nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp, say mê công việc có ý thức trách nhiệm với công việc được
giao, nghiêm túc với nghề .Với cuộc đời anh là người giàu tình yêu thương, quan tâm và có tinh thần giúp đỡ bảo vệ
con người trước cái ác và cái xấu.Nhưng ở nhân vật Phùng còn tồn tại cái nhìn thiếu sự toàn diện mà chính cuộc gặp
gỡ với con thuyền và cuộc sống của người dân trên thuyền anh đã có những vỡ lẽ cho riêng mình.
Phùng là kiểu nhân vật tự ý thức. Kiểu nhân vật thể hiện sự trăn trở của Nguyễn Minh Châu về việc đổi mới tư duy
nghệ thuật, về thiên chức người nghệ sĩ, về cuộc đấu tranh với chính mình để hoàn thiện nhân cách.Những phát hiện
đầy nghịch lí của Phùng khiến Phùng rơi vào trạng thái lưỡng phân. Anh vừa tự hào về bức ảnh, vừa trăn trở khi
thấy hiện ra đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là bóng dáng cuộc sống tù đọng, nhẫn nhục của những ngư dân vùng biển. Nỗi
ám ảnh không nguôi ấy cũng chính là quá trình tự ý thức của Phùng, qua đó bộc lộ quan điểm của anh và chính là
của nhà văn Nguyễn Minh Châu: nghệ thuật và đời sống cần có mối quan hệ khăng khít.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng đã bộc lộ những lo lắng , trăn trở của nhà văn về nhân
cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao
động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
IV. Sự gặp gỡ giữa hai nhà văn.
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích kiểu nhân vật tự ý thức trong trang văn Nam Cao và Nguyễn Minh Châu chúng
tôi thấy rằng ở Nguyễn Minh Châu và Nam Cao có một sự gặp gỡ tiếp nối có ý nghĩa sâu sắc. Biểu hiện cụ thể của sự
gặp gỡ này có thể hiện thực hóa bằng những nét chính trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức của hai nhà văn
như sau:
- Nhân vật tự nhận thức sống trong day dứt, dằn vặt và tự thú về lỗi lầm hay quan niệm, một lối nghĩ, với những khắc
khoải nội tâm.
-Nhân vật tự nhận thức thường đi sâu vào bản thể, luôn độc thoại nội tâm.
-Nhân vật tự nhận thức thường đựơc đặt vào cuộc sống đời thường trong những tình huống tưởng như vặt vãnh tầm
thường, xoàng xĩnh để bộc lộ quan điểm tư tưởng, để đấu tranh hoàn thiện nhân cách để sống cho gần người hơn.
- Nhân vật tự ý thức luôn có những vỡ lẽ cho mình về cuộc đời, về lẽ sống, về nghề.
* Lí giải sự gặp gỡ giữa hai nhà văn:
Tuy Nam Cao và Nguyễn Minh Châu là hai nhà văn có phong cách nổi bật là hai nhà văn lớn của dân tộc ở hai thời
điểm khác nhau của nền văn học nhưng ở họ vẫn có một sự gặp gỡ, tiếp nối trong cách cảm cách nghĩ và bộc lộ rõ ở
cách xây dựng nhân vật tự ý thức. Nam Cao là nhà văn hiện thực chủ nghĩa lớn viết về một thời kì xã hội mà miếng
cơm manh áo ghì con người ta sát đất.Xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là hoàn cảnh chớ chêu thử thách
nghị lực và hơn hết là nhân cách làm người của con người. Nam Cao bằng cái nhìn nhân đạo đã cho thấy dù con
người có bị ám ảnh bởi cái đói, cái nghèo, dù sống mòn, chết mòn họ vẫn đang trong hành trình tìm những con đường
để hoàn thiện nhân cách để sống cho gần Người hơn. Nguyễn Minh Châu dù viết về cuộc sống của con người sau
chiến tranh khi đất nước hòa bình nhưng với cái nhìn nhạy cảm tinh tế ông phát hiện ra cuộc sống sau 1975 là một
cuộc đấu tranh âm thầm và đớn đau hơn đó là cuộc đấu tranh trong công cuộc mưu sinh để giành và giữ lấy nhân
cách. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu trăn trở nhận thức và vỡ lẽ về chính mình, về cuộc đời về nghề một cách sâu
sắc. Nên có thể nói chính Nguyễn Minh Châu là người kế thừa xuất sắc và đầy sáng tạo kinh nghiệm nghệ thuật của
Nam Cao.
Sở dĩ hai nhà văn có sự gặp gỡ nhau trong cách xây dựng nhân vật tự ý thức như trên còn bởi vì ở tài năng nghệ thuật
và tâm huyết tuyệt vời của họ. Chính Nguyễn Minh Châu từng viết : “ Chao ôi đọc Nam Cao tôi thấy ông thực nhân
bản quá, thấu hiểu đời quá, lòng ông gần kề lòng người quá. Cái việc như chẳng đâu vào đâu mà lại như một tảng
đá cữ đè trĩu lên lòng người đọc mãi.” ( Trang giấy trước đèn- tr97). “…ngòi bút ông lôi ra, làm sáng tỏ trước mắt
người đọc không biết bao nhiêu những điều thuộc về lương tâm và đời sống tinh thần của con người.”(  Trang giấy
trước đèn-tr194)
C. Kết luận.
Trong thế giới nhân vật phong phú của văn xuôi đặc biệt là văn xuôi thời kỳ đổi mới, nhân vật tự nhận thức là một
trong số các kiểu nhân vật nổi bật, cho thấy tính phức điệu và đa diện trong mỗi cá nhân con người, được thể hiện ở
các dạng thái và màu sắc khác nhau. Khơi nguồn từ những trang văn đầy suy tư trăn trở của Nam Cao các nhà văn
hiện đại mà tiêu biểu là Nguyễn Minh Châu đã cho ra đời một kiểu nhân vật có giá trị nghệ thuật và tư tưởng lớn.
Nhân vật tự ý thức giúp người đọc hiểu đời, hiểu nhà văn một cách sâu sắc và gần gũi hơn. Đặc biệt từ sau 1975, với
sự đổi mới tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã xây dựng  thành công nhân vật tự nhận thức – một kiểu nhân vật biết
vươn lên chính mình với mong muốn tự hoàn thiện nhân cách trong đời sống vốn sinh động và đầy thách thức hôm
nay.
Chuyên đề:
TIẾNG NÓI TRI ÂM TRONG
ĐỘC TIỂU THANH KÍ (NGUYỄN DU), KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU (TỐ HỮU)
VÀ ĐÀN GHITA CỦA LORCA (THANH THẢO)
 
I. Tri âm và tiếng nói tri âm trong thơ
1. Tri âm
      Tri âm (hiểu âm nhạc) bắt nguồn từ một tích cổ: Bá Nha thời Xuân Thu có tài chơi đàn tuyệt hay, thường than
không có người hiểu được tiếng đàn của mình, một lần đi sứ nước Sở trở về đến sông Hàm Dương, sơn thủy hữu tình
khiến trong lòng dấy lên cảm xúc đã đem đàn ra gẩy. Bản nhạc đang da diết dây đàn bỗng ngừng đứt. Đoán biết có
người nghe trộm tiếng đàn, Bá Nha bèn sai quân lên bờ tìm, gặp một tiều phu đang nấp sau lùm cây rậm tên Chung
Tử Kì. Tử Kì thanh minh mình không có ý đồ gì mờ ám, chỉ vì thấy tiếng đàn tuyệt hay nên dừng để trộm nghe. Bá
Nha chưa tin, hỏi: "Ngươi bảo nghe hiểu đàn ta, vậy ta vừa đàn bản gì đây?" Tử Kì  trả lời: "Thưa, là bài Khổng Tử
khóc Nhan Hồi". Bá Nha hết sức kinh ngạc, vì chốn nước non hiu quạnh này lại có người nghe được tiếng đàn của
mình, liền dạo một khúc nhạc hướng về ý cao siêu, lòng hướng về cảnh núi non hùng vĩ, bản đàn chưa dứt, Tử Kì đã
reo: " Hay! Hay! Tiếng đàn ngài cao vút, tâm chí ngài vòi vọi tại núi cao!" (Nga nga hồ chí tại cao sơn). Khi Bá Nha
chuyển ý, nghĩ đến cảnh mênh mang khoáng đãng. Tử Kì trầm tư : "Tâm chí ngài cuồn cuộn như nước chảy" (Dương
dương hồ chí tại lưu thủy). Bá Nha vô cùng xúc động, vì có người thấu tiếng đàn mà hiểu cả cõi lòng mình, bèn
nguyện kết nghĩa tâm giao. Vì việc quan cần gấp, Bá Nha phải từ biệt Tử Kì để về kinh, hẹn năm sau gặp lại cùng
thưởng đàn, nhưng khi Bá Nha trở lại, Tử Kì đã vì lâm bệnh nặng mà qua đời, mộ đặt nơi bến sông để trọn lời hẹn
khi xưa. Bá Nha đau khổ, đập vỡ cây đàn vì biết rằng trên thế gian không còn ai có thể hiểu được tiếng đàn của mình
nữa.
Từ đó, hai tiếng tri âm được dùng để chỉ những người hiểu thấu lòng nhau, đồng cảm với nhau dù có thể chỉ trong
một thời khắc, một sự tình cờ; không cần biết đến hoàn cảnh, xuất thân, địa vị hay bất cứ một ngoại tố nào khác. Tri
âm là nét đẹp thiêng liêng trong mối tương giao giữa người với người, một người có thể bằng trái tim mình để cảm
thấu những nỗi niềm thầm kín của người khác, có thể làm hiện hình những tâm sự chất chứa trong lòng người như
trải nghiệm và xúc cảm của chính mình. Thế nên, gặp được tri âm là hạnh phúc lớn lao của cuộc đời, và không ít
người đi hết cuộc đời mà cũng không gặp được kẻ tri âm...
Từ xưa đến nay, có biết bao tấm lòng tri âm khiến ta xúc động: Bá Nha và Chung Tử Kì, Bạch Cư Dị và người ca nữ
trên bến Tầm Dương, Nguyễn Khuyến với Dương Khuê ... Tri âm, ấy là tiếng nói của những tâm hồn nhạy cảm, biết
rung động mãnh liệt trước nhân thế và tình người.
2. Tiếng nói tri âm trong thơ
Là tiếng lòng đồng điệu của hai tâm hồn, là sự đồng cảm và thấu hiểu của người đọc thơ với người làm thơ được thể
hiện trực tiếp trong một tác phẩm thơ.
Thơ ca là biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. Đó là những tâm trạng, suy tư, xúc cảm, rung động của
con người trước cuộc sống. Nhà thơ sáng tác một tác phẩm, là gửi gắm vào đó tâm sự, cảm xúc của mình. Làm thơ, là
để giãi bày lòng mình, để tâm sự với chính mình và với cuộc đời. Thế nên, đọc thơ là đọc ở đó niềm vui, nỗi buồn,
băn khoăn, hờn giận, hạnh phúc hay khổ đau, cảm xúc mong manh mơ hồ hay tình cảm thiết tha mãnh liệt... qua
những biểu hiện cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Một bài thơ bao giờ cũng được ra đời trong một bối cảnh nội tâm và
bối cảnh ngoại giới nhất định. Người đọc thơ có thể mường tượng ra bối cảnh ấy qua thơ. Thế nhưng, cảm nhận về
nội dung trữ tình trong một bài thơ ở mỗi người đọc lại không giống nhau. Cảm nhận thơ phụ thuộc vào cá tính, trình
độ, quan điểm, và đặc biệt là tâm hồn của người đọc. Khi tâm hồn người đọc có sự đồng cảm sâu sắc với tâm hồn nhà
thơ, khi trái tim người đọc hòa cùng nhịp đập trái tim của thi nhân, khi người đọc thấu hiểu và tha thiết với những nỗi
niềm mà người viết gửi gắm, khi ấy, ta thấy tấm lòng tri âm với thơ.
Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng có dòng chảy theo quy luật riêng của nó, khó có thể biết nơi khởi đầu và
không thể xác định điểm kết. Trong dòng chảy với những bí ẩn đầy sức mê hoặc ấy, xúc cảm thơ lắng đọng nơi hồn
người đọc, và cũng có khi từ tâm hồn người đọc lại được thăng hoa cất lên thành những vần thơ. Khi ấy, ta có tiếng
nói tri âm trong thơ.
Cần lắm một tấm lòng tri âm trong cuộc đời. Ca dao có câu:
    Mông mênh góc bể chân trời
Biết trong thiên hạ ai người tri âm
Cổ thi có câu: Bất tích ca giả khổ, đãn thương tri âm hy nghĩa là: "Không tiếc người hát khó nhọc, chỉ đau đớn người
tri âm ít mà thôi". Thì ra, nỗi nhọc nhằn của thế sự đâu có ý nghĩa gì, chỉ nỗi cô đơn vì thiếu kẻ tri âm mới là điều
đáng đau khổ trên cõi đời. Thơ ca, nơi thổ lộ của những cõi lòng, lại càng cần biết bao nhiêu những tâm hồn đồng
điệu. Giả Đảo(788-843) đời Đường, trong ba năm ròng làm được hai câu thơ tâm đắc, rồi lại ôm sầu thở than:
Nhị cú tam niên đắc,
Nhất ngâm song lệ lưu.
Tri âm như bất thưởng,
Quy ngọa cố sơn thu.
Điều gì khiến Giả Đảo muốn quay về làm bạn với núi thu, điều gì khiến Tam Nguyên Yên Đổ trằn trọc "Câu thơ
nghĩ đắn đo không viết"? Ấy chính là vì không còn tri âm. Nỗi quan hoài đau đáu của hai thi nhân như lời minh
chứng: vắng tri âm, người làm thơ sẽ rơi vào bi kịch bất tận của nỗi cô đơn. Nỗi lòng đang trải ra trang giấy ấy, một
mình mình biết, một mình mình hay, như một thanh âm lang thang giữa khoảng không ngổn ngang thanh sắc. Và
khao khát lắm một tiếng nói tri âm.
Chủ nhân của tiếng nói tri âm trong thơ bao giờ cũng kinh qua hai trải nghiệm. Trải nghiệm thứ nhất là trải nghiệm
của người đọc thơ để lắng nghe tiếng lòng của người, cảm nhận và thấu hiểu tâm sự của người, sống lại những tình
cảm của người trong cõi hồn mình. Trải nghiệm thứ hai là trải nghiệm của người làm thơ để tấu lên khúc nhạc giao
hòa giữa hai tâm hồn, để khơi gợi trong nhân thế thêm những tiếng lòng tri âm.
Tiếng nói tri âm không phải là nhịp cầu đơn thuần giữa người làm thơ với người đọc thơ. Bởi người đọc thơ thì nhiều
vô vàn, người yêu thơ cũng không ít, nhưng tiếng nói tri âm trong thơ thật sự không dễ gặp. Bởi đó là tiếng nói của tư
tưởng, tâm hồn, tình cảm... mang tính cá thể vốn của những con người hoàn toàn xa lạ, thậm chí có sự cách biệt vời
vợi về cả không gian và thời gian nhưng lại cùng chung cảm nhận, cách nhìn cuộc đời, có thể thấu suốt đáy hồn của
nhau. Và nhìn nhận một cách thấu đáo, thì đó là tiếng nói rất đáng được trân trọng, lắng nghe.
Thơ ca là xúc cảm mang tính chủ quan của mỗi người, nhưng những xúc cảm chủ quan đó bao giờ cũng được nảy
sinh từ hiện thực tâm hồn, hiện thực cuộc sống cụ thể. Những hiện thực này không được miêu tả chi tiết mà được tái
hiện một cách gián tiếp qua thơ. Đây cũng là một yếu tố quan trọng để có được tiếng nói tri âm trong thơ. Như vậy,
tri âm không chỉ là cùng vui, cùng buồn, là khóc cười cùng tiền nhân, bởi đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài ai cũng
dễ dàng nhận thấy, mà cốt yếu là thấu hiểu căn nguyên những tâm trạng ấy. Thấu hiểu để đến được với đáy sâu tâm
hồn mình đang đối diện, đến được với tâm tình thuộc những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con người  trong những
suy tư mà người viết gửi gắm. Từ đó, đem tiếng lòng mình cất lên thành những trang thơ. Thấu triệt là từ đó, đồng
cảm là từ đó, tri âm là từ đó, đáng quý, đáng trọng cũng là từ đó.
II. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta
của Lorca (Thanh Thảo).
1. Điểm gặp gỡ trong tiếng nói tri âm ở ba bài thơ
Thơ ca là xúc cảm mang tính chủ quan, và như vậy thơ mang tính cá nhân, cá thể. Nhưng không phải thơ chỉ thể hiện
những gì thuộc về tình cảm cá nhân riêng biệt bởi cảm xúc của bất kì ai cũng mang những nét rất chung của loài
người. Với những tài thơ, những nhà thơ lớn, điều khiến cho sự nghiệp thơ ca của họ vượt qua được thử thách của
không gian, thời gian bao giờ cũng bởi tiếng nói nhân văn cao đẹp, bởi tiếng lòng trong thơ đã làm rung động được
tâm hồn của những thế hệ sau, ở những nền văn hóa khác. Nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du, Gacxia Lorca là những tài
thơ như thế, họ đã tìm được tiếng nói tri âm từ thế hệ sau là Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo. Và tiếng nói tri âm từ
thế hệ sau đã làm sống dậy không chỉ một trời thơ mà cả một cõi hồn, đã góp phần làm tiếng nói của yêu thương, khát
vọng trở nên bất tử, những bi kịch trở nên day dứt và đầy ám ảnh.
Ba bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh
Thảo) là tiếng nói thấu hiểu những bi kịch của tiền nhân, đã tái hiện những bi kịch ấy một cách sâu sắc và đớn đau
như sự trải nghiệm của chính mình. Từ đó, các nhà thơ đã thể hiện thái độ cảm thông, xót xa trước những số phận đầy
oan nghiệt, bi phẫn trước thời đại và xã hội đã vùi dập khát vọng chính đáng và cao đẹp của con người. Đồng thời,
Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo đã nói lên tình cảm trân trọng trước cái đẹp, tài năng, trước những tấm lòng. Một
lần nữa, tiếng nói nhân văn lại được vút cao.
 Độc Tiểu Thanh kí, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Đàn Ghita của Lorca đã thể hiện những trăn trở đầy tính nhân văn về
tình người, tình đời, về khát vọng lí tưởng sống cao đẹp của Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo. Ta gặp trong ba thi
phẩm tiếng nói đồng vọng của những tâm hồn mà điểm gặp gỡ chính là tâm sự nặng lòng vì nhân thế, thiết tha đau
đáu trước cái tài, cõi tình và những số phận. Đó chính là tinh thần nhân văn cao cả  bởi chỉ tinh thần đó mới đủ sức
mạnh để vượt qua được mọi giới hạn về không gian, thời gian, thậm chí cả những khác biệt về văn hóa để có thể
chung hòa và cộng hưởng để tinh thần bất tử ấy vút cao trong thơ. Ta gặp trong mỗi bài thơ hai tâm hồn đang giao
hòa và tỏa sáng.
2. Tiếng nói tri âm trong mỗi bài thơ
2.1. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du)
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:
   Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Chữ tâm là tấm lòng, là tình người, là tình cảm thương yêu với cuộc đời, nhân thế. Câu thơ khẳng định lòng người là
điều quý giá và quan trọng nhất, là thước đo giá trị của con người. Chữ tâm là điều mà Nguyễn Du tâm niệm và trăn
trở suốt cả cuộc đời. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, biết bao lần nhà văn đã xót xa thương cảm cho những kiếp
sống bất hạnh, khổ đau. Đó là nàng Kiều trong Đoạn trường tân thanh, là người ca nữ trong Long thành cầm giả ca,
là nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí... Với Độc Tiểu Thanh kí, ta nhận thấy trong đó không chỉ là tình thương
của Nguyễn Du với một kiếp sống đầy bi kịch, mà còn gặp tiếng nói tri âm đồng vọng của hai tâm hồn, điểm gặp gỡ
của hai số phận Tiểu Thanh và Nguyễn Du. Độc Tiểu Thanh kí là tiếng nói thương người, thương mình, thương đời.
Bài thơ mang tiếng nói tri âm sâu sắc và cảm động.
   Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Câu thơ mở đầu bài thơ đã đem đến cho người đọc một cảm nhận thật buồn, dù hình thức của nó giản dị như một lời
kể đơn thuần mang chất "sự": tả về cảnh vật. Vẫn biết cuộc đời không có gì là vĩnh viễn, bất biến, song vẫn thấy lời
thơ Nguyễn Du sao xót xa đến hãi hùng. Một sự đối lập khắc nghiệt giữa quá khứ và hiện tại, giữa vui và buồn, giữa
có và không... Tây Hồ là một địa danh, nhưng trong câu thơ nó mất đi vai trò chỉ một địa danh cụ thể mà có sức biểu
tượng cao, chỉ nơi đẹp đẽ rực rỡ huy hoàng. Nơi này đã trải qua một cuộc đổi thay, để rõ hơn về tính chất của cuộc
đổi thay, ta đọc lại câu phiên âm:
    Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Một vườn hoa nơi Tây Hồ, cảnh đẹp của hương sắc đất trời vốn lộng lẫy huy hoàng là thế bỗng chốc hoang phế tiêu
điều thành một gò hoang. Câu thơ bảy chữ, mỗi chữ đều đắt giá và hàm súc. Nguyễn Du không dùng biến, hóa,
thành... để nói sự đổi thay dù những chữ đó đều là từ Hán- Việt, mà nói tẫn. Tẫn chỉ sự thay đổi hết, thay đổi triệt để
không còn sót lại dấu vết của quá khứ, một sự thay đổi bao hàm trong nó nỗi dằn vặt nhức nhối. Hai hình ảnh chỉ sự
vật đối lập là hoa uyển và thành khư là những hình ảnh rất cụ thể: vườn hoa và gò hoang. Những hình ảnh sống động
đó có sức lay động mạnh mẽ, cho người đọc cảm nhận rõ rệt về cuộc đổi thay đến xót xa của tạo vật. Một là cái đẹp,
gợi nên sức sống thanh xuân dạt dào đầy sức mê hoặc, còn một là sự lụi tàn hoang vắng, xác xơ. Sự đối lập được đẩy
đến tuyệt đối để thấy được cái nghiệt ngã của cuộc đời và nỗi đau của lòng người.
Sự đổi thay bởi quy luật nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời bao giờ cũng gợi nỗi buồn se sắt trong hồn người.
Những cuộc bể dâu (Nguyễn Du), cuộc hí trường (Bà Huyện Thanh Quan) thương hải biến vi tang điền... cất lên đầy
ám ảnh. Ám ảnh bởi đó đâu chỉ là cái nhìn của thi nhân về ngoại giới, mà đó chính là cảm nhận về cuộc đời đầy rẫy
những đổi thay bất trắc, là tiếng thở dài  trước thời thế khi đành ngậm ngùi buông xuôi, bất lực, mang tâm trạng của
kẻ "bất phùng thời". Ở thế kỉ XVIII, thời huy hoàng của chế độ Phong kiến chỉ còn là dĩ vãng, còn hiện tại rối ren
khủng hoảng khiến những con người mang lí tưởng sống cao đẹp rơi vào bế tắc vì không tìm được con đường thực thi
chí nguyện của mình. Vậy có khác gì hoa uyển tẫn thành khư?
Câu thơ là nỗi niềm trước đổi thay của cuộc đời, trước một Tiểu Thanh tài sắc khi xưa giờ không còn nữa, hay trước
bi kịch của chính cuộc đời Nguyễn Du? Không thể đặt ra ranh giới phân định để trả lời cho câu hỏi trên. Ngay câu
thơ mở đầu, ta đã thấy sự gặp gỡ về số phận của hai con người trong cảm nhận của Nguyễn Du.
Câu thơ thứ hai gợi tâm thế của Nguyễn Du khi tìm đến với cuộc đời đầy đau khổ của Tiểu Thanh:
       Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Câu thơ dịch cụ thể hóa tâm trạng (thổn thức), nhưng lại làm mờ đi tâm thế của thi nhân. Độc điếu song tiền nhất chỉ
thư - Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Câu thơ gợi cho chúng ta nhớ đến cuộc đời Tiểu Thanh,
người con gái tài sắc mang một số phận oan nghiệt: phải làm lẽ nhà người, rồi vì bị ghen ghét phải sống một mình
trên núi Cô Sơn, buồn tủi mà chết. Những vần thơ bầu bạn cùng nàng trong ngày tháng cô đơn, những lời của trái tim
đau khổ bị chà đạp... cũng bị đốt bỏ bởi bàn tay đố kị tàn nhẫn, chỉ còn lại phần dư cảo ít ỏi. Nguyễn Du tìm về với
Tiểu Thanh- một kiếp đời bi kịch bởi tình thương yêu con người mông mênh vượt qua giới hạn của thời gian ba trăm
năm, giới hạn của không gian biên giới dân tộc; Nguyễn Du còn tìm về với Tiểu Thanh bởi ông nhìn thấy trong bi
kịch của Tiểu Thanh bi kịch của chính cuộc đời mình.
Có hai chữ mang ý "một" được nhắc đến trong câu thơ: "độc" và "nhất". Đặc biệt, chữ "độc" được dùng rất tài
tình: chỉ viếng hay chỉ có ta viếng nàng? "điếu" là hình thức duy nhất để có thể tương giao giữa hai con người giờ đã
có sự cách biệt của hai thế giới, là cầu nối giữa "nhất chỉ thư" - chỉ sự hiện diện của nàng và "độc điếu" là tâm thế của
ta. Hai chữ một gợi nên nỗi cô đơn miên viễn, một tâm hồn cô đơn tìm về với một kiếp cô đơn...
  Hai câu thơ là những nét phác họa giản đơn, tưởng như có ngoại cảnh mà thực chất chỉ có tâm cảnh.  Đó là cõi hồn
trĩu nặng ưu tư trước cuộc đời đầy dâu bể, là nỗi thương cảm đồng vọng chân thành với một kiếp tài hoa bạc mệnh.
Ta thấy ở đó tấm lòng tri âm của Nguyễn Du với kiếp người xưa.
Nguyễn Du đã đọc được gì, cảm nhận được gì từ di cảo của Tiểu Thanh:
       Son phấn có thần chôn vẫn hận
        Văn chương không mệnh đốt còn vương
Son phấn và văn chương, cộng hưởng lại là cái đẹp toàn vẹn của con người.  Son phấn là cái đẹp nhan sắc, văn
chương là cái đẹp nội tâm, trí tuệ, tài năng. Cái đẹp, thời nào cũng đáng được trân trọng, người có cái đẹp hoàn thiện,
lẽ thường xứng đáng được hưởng hạnh phúc, bởi họ đã đạt được đỉnh cao trong chuẩn mực nhân văn nhất của con
người! Thế nhưng, bất hạnh thay, cái đẹp ấy bị cuộc đời đang tâm vùi dập.  Cái chết, bị đốt bỏ là hiện thực được nhắc
tới trong hai câu thơ, đã khắc họa sự nghiệt ngã trong số mệnh của cái đẹp. Nói là số mệnh, nhưng không phải là sự
rủi ro ngẫu nhiên mà bởi một thế lực bạo tàn hữu hình hủy hoại. Nguyễn Du nhắc nhớ về bi kịch cuộc đời bị đày đọa
đến phải chết vì buồn khổ của nàng Tiểu Thanh. Niềm đồng cảm phải chăng có căn nguyên từ số phận của một "tài tử
đa cùng" khóc một "hồng nhan đa truân"?
Trong cuộc đời, cái đẹp vốn mong manh và khó thấy, nhưng nó có linh hồn và sức sống riêng của nó. Hai câu thơ là
giả thiết mà cũng là lời khẳng định của Nguyễn Du. Son phấn có linh hồn, văn chương có số mệnh, và nó không bao
giờ chết. Cái đẹp có quy luật tồn tại riêng, đó là sự tồn tại trong trái tim con người. Với những người như Nguyễn
Du, son phấn và văn chương vẫn là giá trị cao quý mà ông ngưỡng mộ và trân trọng. Không chỉ thế, Nguyễn Du còn
thấu cả tâm sự, linh hồn và đau cho số mệnh của cái đẹp qua cảm nhận "liên tử hậu", "lụy phần dư". Liên và lụy chính
là sợi dây nối cái đẹp của quá khứ với lòng cảm thông, trân trọng và đồng cảm của hiện tại. Nguyễn Du đã tìm về với
phần dư cảo của Tiểu Thanh, đã đau đớn trăn trở trước số mệnh nghiệt ngã của nàng, cảm thấu nỗi niềm của người tài
sắc. Với Nguyễn Du, bi kịch của Tiểu Thanh đâu phải là bi kịch của một người xa lạ, cách biệt ông cả về biên giới
quốc gia dân tộc, cả về thời gian vời vợi ba trăm năm! Bi kịch đời nàng là bi kịch chung của cái đẹp, cái tài trong
buổi "tài mệnh tương đố", "tài tử đa cùng, hồng nhan đa truân", "tài cao phận thấp", "tài tình chi lắm cho trời đất
ghen"... Nguyễn Du đã cảm nhận và tái hiện bi kịch của Tiểu Thanh bằng chính con tim đau khổ đang nếm trải bi
kịch của chính mình. Nguyễn Du là một tài năng lớn, một tấm lòng thương yêu con người cao cả mêng mông, nhưng
cả cuộc đời truân chuyên lận đận, chưa từng được thanh thản, bình yên một phút giây. Thế nên, lời thơ xót xa, day
dứt trước nghịch lí trái ngang nhưng không thể thay đổi đang ngang nhiên tồn tại trong thời đại Nguyễn Du.
Hai câu thơ tiếp theo vừa là lời suy ngẫm về Tiểu Thanh và cuộc đời, cũng là lời bộc bạch trực tiếp tấm lòng của
Nguyễn Du:
    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang.
Trong Nguyễn Du, trong trái tim những con người tài hoa bạc mệnh, trong những tấm lòng giàu thương yêu, nghịch lí
vừa được Nguyễn Du đưa ra nhức nhối ở hai câu thơ trước chính là "nỗi hờn kim cổ". Cách nói của Nguyễn Du gợi
nên độ chất chứa ngùn ngụt, độ dồn nén đến chật căng nỗi oán hận của bao kiếp người đau khổ. Nỗi hờn, nỗi hận vốn
là cảm xúc mạnh, lại thêm sự chồng chất dai dẳng của thời gian nối tiếp nhau. Năm tháng qua đi, những đau khổ oan
khiên thêm chồng chất. Dãy tên trong "Sổ đoạn trường" cứ dài thêm một cách vô tình. Bi kịch của ba trăm năm trước,
Nguyễn Du vẫn thấy trong hôm nay, còn trước đó, và sau này? "Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"- chỉ có thể trả lời
bằng lời thơ ai oán đó! Không một lối thoát cho hoàn cảnh. Một nét văn hóa của người Phương đông là khi bế tắc,
người ta gọi, kêu trời. Đó chỉ là giải pháp tinh thần, xoa dịu, vỗ về rằng nỗi niềm ấy sẽ được lắng nghe, để con người
có thể bình tâm lại. Nhưng mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh thì trời không thấu, thế nên kẻ bạc mệnh chỉ đành ôm
mối hận trong nỗi cô đơn thăm thẳm mà thôi. Nỗi hờn ấy vì thế càng thêm chồng chất, những tấn bi kịch càng trở nên
đau đớn. Đó đâu chỉ là phận của riêng một Tiểu Thanh, đó là số phận chung của cái đẹp trong thời đại mà cái đẹp như
một tội đồ. Nguyễn Du cũng không ngoài quy luật nghiệt ngã đó. Than cho mối oan của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đau
đớn cho nàng mà cũng thương cho mình nên lời thơ uất nghẹn, có thể lời thơ ấy không vọng được đến trời xanh,
nhưng nó đã vọng đến lòng người, đánh thức niềm rung cảm sâu xa trước cái đẹp cuộc đời và nỗi đau nhân thế.
Kết tinh nhất của tiếng nói tri âm trong bài thơ chính là câu "Cái án phong lưu khách tự mang", bởi ở đây, sự đồng
cảm đã đạt đến mức tri âm tri kỉ.
Oan khiên, vốn là điều bất thường của cuộc đời. Trong câu thơ, Nguyễn Du đã khắc sâu sự bất thường ấy bởi cách
nói "kì oan"- mối oan kì lạ. "Phong vận kì oan" - mắc oan vì nết phong nhã! Phong nhã là cái đẹp của con người, là
điều căn bản để mang lại hạnh phúc cho con người, vậy mà, cái đẹp ấy lại chính là nguyên do đẩy con người vào nỗi
oan đời.
Điều đáng nói ở đây, Nguyễn Du nhìn thấy, biết trước cái án dành cho kẻ phong vận ấy mà không sợ hãi hay né tránh
nó, ngược lại, ông tự biết, tự cho mình là người cùng mắc nỗi oan của Tiểu Thanh. "Ngã tự cư"- ta tự nguyện mang.
Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh. Là người đồng cảnh, Nguyễn Du không
chỉ hiểu và thương Tiểu Thanh mà còn có thể đồng cảm sâu sắc với những nỗi niềm tâm sự của nàng. Bằng trái tim
giàu thương yêu, Nguyễn Du đã xót cho người, thương cho mình và đau cho đời. Tiểu Thanh dù chỉ có một kiếp sống
ngắn ngủi đầy đau khổ, và giờ đây chỉ còn sót lại chút dư cảo, nhưng với nét phong vận nàng đã có thể nói với cuộc
đời, đến được với tấm lòng biết yêu thương. Nguyễn Du tự nhận mình mang "phong vận kì oan" để có thể gửi nỗi
lòng mình cho mai hậu.
Ngoài tình yêu thương cao cả vượt qua mọi giới hạn, còn những căn nguyên khác khiến Nguyễn Du coi mình cùng
mắc nỗi oan với Tiểu Thanh: đó phải chăng là sự đồng thanh của những kẻ "Cùng một lứa bên trời lận đận" như
Bạch Cư Dị và người cô phụ trên bến Tầm Dương năm xưa? Phải chăng đó là sự đồng cảm của những con người hội
tụ bao vẻ đẹp quý giá: tài năng, nhân phẩm, tình người? Phải chăng đó là "đồng bệnh" của những trái tim thiết tha đến
đau đớn với cái đẹp của cõi nhân sinh?
Nói câu thơ là đỉnh cao của tiếng nói nhân văn trong bài thơ, vì đến đây, ta không còn thấy một Nguyễn Du của hậu
thế đứng bên ngoài cuộc đời của Tiểu Thanh, chỉ viếng nàng qua dư cảo nữa, mà một cách thấm thía và sâu lắng,
Nguyễn Du đã nhập thân, nhập hồn vào bi kịch của Tiểu Thanh, cảm nhận nỗi buồn, niềm đau của nàng như của
chính mình. Cũng từ đây, tiếng nói nhân đạo, nhân văn đạt đến một đỉnh cao mới: trong cuộc đời, tồn tại rất nhiều
giới hạn, song tình yêu thương con người, lòng yêu cái đẹp có sức mạnh bất chấp tất cả mọi giới hạn. Sức mạnh
thiêng liêng ấy là nền tảng tạo nên ý nghĩa của cuộc sống.
Từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du khóc cho người, khóc cho đời, rồi khóc cho mình:
      Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
       Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Ba trăm năm sau thời Tiểu Thanh sống, có Tố Như đến khóc cho nàng bằng tấm lòng đồng cảm của kẻ tri âm.
Nguyễn Du trăn trở, không biết rồi ba trăm năm sau, liệu có ai khóc cho Nguyễn Du không? . "Khóc" ở đây, ta hiểu là
tiếng nói thấu hiểu, cảm thông, lòng thương cảm chân thành của con người.
Đó là nỗi trăn trở đầy tính nhân văn của Nguyễn Du về cuộc đời.
Có nhiều người đánh giá rất cao chữ "Tố Như" ở phương diện cho rằng Nguyễn Du đã táo bạo, đã khẳng định mạnh
mẽ cái tôi cá nhân khi đưa tên mình vào thơ. Phải chăng là như vậy? Đấy đâu phải Nguyễn Du! Cái tên Tố Như ấy là
sự nhân danh cho biết bao kiếp người tài hoa mà đường đời long đong chìm nổi. Ba trăm năm là một khoảng thời
gian rất dài, cuộc đời dâu bể đầy bất trắc đổi thay có thể xóa nhòa, cuốn trôi đi bao điều. Từ thời của Tiểu Thanh đến
thời của Nguyễn Du là thế, từ thời Nguyễn Du đến hậu thế cũng như vậy. Vượt qua những biến đổi ấy, tấm lòng vẫn
tìm về với những tấm lòng, chỉ cần con người có tình yêu thương, mở lòng ra với cuộc đời.
Trăn trở của Nguyễn Du đâu phải cho bản thân mình. Cũng giống như Nguyễn Du, với Tiểu Thanh, Nguyễn Du
không coi đó là một số phận mang tính cá biệt mà chỉ là một trong số vô vàn những bi kịch đang tồn tại đầy rẫy trong
thời đại mình. Khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương cho bao kiếp người oan trái và đã đau đời bằng chính nỗi
đau của con tim mình. Nguyễn Du cũng là một kiếp sống đầy bi kịch, dù là người tài năng kiệt xuất và có tấm lòng
nhân ái bao la. Thi nhân khao khát cuộc đời vẫn còn có những trái tim biết tìm đến với những số phận khổ đau để
cảm thông, thấu hiểu và an ủi họ bằng ngọn lửa yêu thương của trái tim mình. Đó là khát vọng- là tấm lòng dành cho
cuộc đời của Nguyễn Du.
Lòng đồng cảm, tiếng nói tri âm tạo nên sức rung động sâu xa của bài thơ.
Trong Truyện Kiều, trước số mệnh nàng Đạm Tiên hồng nhan bạc phận, Kiều đã "đầm đầm châu sa" và "Vạch da
cây vịnh bốn câu ba vần". Ấy là tấc lòng tri âm của Thúy Kiều với Đạm Tiên. Rồi chính bi kịch của Đạm Tiên cứ đeo
đẳng suốt cuộc đời Kiều. Nhưng số mệnh của Tiểu Thanh và Nguyễn Du có một điểm khác biệt căn bản: Sau thời của
Tiểu Thanh ba trăm năm, có một Nguyễn Du đơn độc khóc nàng trong niềm đồng vọng của nỗi cô đơn. Sau thời
Nguyễn Du sống chưa đến ba trăm năm, không phải là một, mà có biết bao trái tim hướng về ông với lòng cảm phục,
trân trọng và sự tri âm chân thành. Làm nên sự đổi thay kì diệu đó, không thể không kể đến một nguyên nhân: tiếng
nói nhân văn trong các sáng tác của Nguyễn Du đã đi vào lòng người, soi sáng lên tình yêu thương vốn là một vẻ đẹp
nhân bản của con người.
 
 
2.2. Tiếng nói tri âm trong Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu)
Gần ba trăm năm trước, Nguyễn Du trăn trở: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Không
biết hơn ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như? ) thì gần ba trăm năm sau, có thi nhân đã nói lên tiếng lòng
đồng vọng tha thiết của mình, của thế hệ và dân tộc mình với cuộc đời Nguyễn Du và tâm sự của ông gửi gắm trong
kiệt tác Truyện Kiều. Đó là tiếng nói tri âm của Tố Hữu trong bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du.
Dọc suốt bài thơ là cảm nhận của Tố Hữu về số phận và vẻ đẹp của nàng Kiều, tấm lòng nhân đạo và tâm sự của
Nguyễ Du, là lời đồng cảm và hưởng ứng tinh thần nhân đạo mà Nguyễn Du đã gửi gắm trong sự nghiệp của mình.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đưa ta cùng ngược thời gian trở về với người xưa:
       Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều .
Câu thơ giản dị, mộc mạc như một lời kể nhưng đủ sức gợi nên tâm thế trữ tình cho bài thơ. Gợi đến sự kiện năm
1965 kỉ niệm 200 ngày sinh Nguyễn Du và chuyến đi thực tế vào tuyến lửa khu IV của Tố Hữu. Câu thơ có không
gian, có thời gian, và có cả tâm trạng. Tâm trạng bâng khuâng nhớ và thương là xúc cảm về kí ức, về sự và tình đã
sẵn có trong tâm tưởng. Phải chăng Nguyễn Du, nàng Kiều là những cái tên mà Tố Hữu luôn cất giấu trong trái tim
mình, để đến một thời khắc nỗi nhớ niềm thương thao thức, thiết tha, cất lên thành tiếng nói tri âm- tiếng nói tri âm
với Nguyễn Du qua Truyện Kiều, số phận của nàng Kiều.
Tố Hữu xót xa, thấu hiểu bi kịch của Thúy Kiều, một người con gái giàu tình thương yêu, hiếu tình trọn vẹn mà phải
chịu một số phận đầy bi kịch
     Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh
      Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao
      Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường!
Những dòng thơ đã tái hiện một cách xót xa về số phận của Kiều trong cảm nhận của Tố Hữu. Những từ láy đặc tả
tâm trạng, cảnh ngộ liên tiếp được sử dụng: tê tái, lênh đênh, ngổn ngang, ngẩn ngơ... đã làm sống dậy không chỉ số
phận mà cả tâm trạng bi kịch đau đớn của Kiều trong kiếp sống đầy rẫy oan trái, khổ đau: tháng ngày nổi trôi phiêu
dạt trong dòng đời trong đục, bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần mà tương lai mịt mờ như khói bụi; lựa chọn không
hề dễ dàng, thanh thản giữa tình và hiếu; nỗi tuyệt vọng đến cùng cực chỉ có thể giải thoát bằng cái chết... Là Kiều
của Nguyễn Du, là nhân vật mà Nguyễn Du sáng tạo trong tác phẩm của mình, nhưng đó cũng là chính Nguyễn Du!
Bởi Kiều là hình tượng để Nguyễn Du gửi gắm tâm sự và cảm nhận về cuộc đời thế sự. Cảm thương kiếp sống bị vùi
dập đọa đày của Kiều cũng là cảm thương số phận gió bụi đầy thăng trầm của Nguyễn Du, nỗi đau của Kiều là nỗi
đau của Nguyễn Du, thương Kiều cũng chính là Tố Hữu thương Nguyễn Du. Thương một cuộc đời bế tắc trong thời
đại mình, không thể tìm được lối thoát, đường đi, đành ôm mối sầu hận. Nỗi đau ấy được hậu thế ghi lại trong những
vần thơ đầy xúc động (Cha ông ta đấm nát tay trước cửa cuộc đời/ Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa ( Chế Lan
Viên), Đau đời có cứu được đời đâu (Huy Cận)) . Tố Hữu đã rất tinh tế và tài tình khi tái hiện hình tượng trong thơ,
xóa nhòa đi ranh giới cụ thể giữa tác giả và nhân vật, cũng chính là đã bắt đúng cái hồn của truyện Kiều, là tri âm
được với Nguyễn Du.
Điều làm nên sự bất tử của tên tuổi Nguyễn Du và Truyện Kiều chính là tấm lòng nhân ái của một nghệ sĩ lớn. Mở
đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
                 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài...
Tấm lòng, tình cảm là điều mà Nguyễn Du tâm niệm trong suốt cuộc đời và day dứt trong mỗi tác phẩm của mình. Tố
Hữu đã tri âm với tấm lòng nhân đạo cao cả mênh mông ấy của Nguyễn Du qua những vương tơ lòng, nhân tình, tấm
lòng thơ...
Với hình thức tập Kiều khéo léo, Tố Hữu đã mượn những câu Kiều vốn ăn sâu trong tâm khảm mình để nói lên chính
những tâm sự của Nguyễn Du, mượn thơ Nguyễn Du để lồng vào đó tinh thần của thời đại mà Tố Hữu đang sống.
Hình thức này tạo nên mối dây liên hệ bền chặt giữa quá khứ với hiện tại, giữa Kiều với Nguyễn Du với Tố Hữu và
cuộc đời. Với Tố Hữu, Kiều không phải là một số phận cá biệt của người phụ nữ, mà là điển hình cho nỗi đau khổ
của con người. "Ai khen Nguyễn Du tài cũng rất đúng, nhưng tôi quý Nguyễn Du vì ông yêu thương con người. "Đau
đớn thay phận đàn bà", câu ấy có gì là "tài"? Vậy mà nghe xốn xang nhức nhối. Đau đớn kia đâu phải của riêng một
phận đàn bà. Đàn bà xưa chỉ là điển hình đau khổ của con người. Người đàn ông đau khổ nào cũng gặp mình trong
người đàn bà đau khổ đó" (Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí- Tạp chí Văn nghệ số 48, tháng 5,
1961).
       Nỗi niềm xưa, nghĩ mà thương
   Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng...
Câu thơ là nỗi không đành lòng, đành tâm của Kiều khi phải phụ nghĩa chàng Kim, tình yêu còn vương vít không
cách nào rũ bỏ nhưng đành phải chấp nhận để làm tròn đạo hiếu. Đó cũng là tấm lòng đầy thương yêu của Nguyễn
Du luôn hướng về cuộc đời, về quần chúng nhân dân mặc dù Nguyễn Du không thể chọn được con đường thực sự
đúng đắn và tích cực để đến được với quần chúng do yếu tố thời đại. Nguyễn Du đã phải chứng kiến một giai đoạn
lịch sử đầy biến động, trong khoảng ba mươi năm ông đã chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà: Chúa Nguyễn, Chúa
Trịnh, Nhà Lê, Tây Sơn- Nhà Nguyễn. Trong lòng Nguyễn Du bao lần băn khoăn, do dự, hãi hùng, trong đời Nguyễn
Du bao phen phiêu bạt, thăng trầm. Trong cảm nhận của Tố Hữu, nỗi niềm xưa là nỗi niềm của nàng Kiều, cũng là
nỗi niềm đau đáu của Nguyễn Du. Bi kịch của Kiều hay chính bi kịch của cuộc đời Nguyễn Du? Câu thơ thể hiện
niềm cảm thương sâu sắc của Tố Hữu với Nguyễn Du, không những thế còn thể hiện sự tri âm của mình đối với
Nguyễn Du qua cái nhìn thấu hiểu, sâu sắc về cuộc đời của một trái tim yêu thương con người tha thiết cháy bỏng
nhưng lại bế tắc trước cuộc đời. 
Câu hỏi mà Nguyễn Du đặt ra cho mình gần ba trăm năm trước đã tìm được câu trả lời trong câu thơ của Tố
Hữu:   Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?. Đã bao thế hệ độc giả khóc Tố Như, khóc một kiếp người tài hoa mà lận
đận gian truân. Bây giờ, không còn khóc cho riêng một Tố Như, mà có Tố Hữu, có biết bao trái tim đã rung động cảm
thương cho những kiếp người đau khổ, trân trọng và đồng cảm với tiếng nói nhân đạo mà Nguyễn Du đã róng lên
thiết tha mãnh liệt trong Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí, Long Thành cầm giả ca, Văn tế thập loại chúng sinh, Sở
kiến hành... và cả sự nghiệp thơ văn của mình; có biết bao con tim đồng cảm cùng với Tố Như tha thiết thương yêu
con người. Bằng một câu thơ mà Tố Hữu gợi lên cả nỗi đau đời quặn thắt trong khúc "Đoạn trường tân thanh"- tiếng
kêu đứt ruột trước tình trạng con người bị lăng nhục, nỗi đau ấy khiến Nguyễn Du "nhắm mắt chưa xong" , đau đáu
trăn trở. Tố Hữu đã từng viết:
    Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...
 Điều mà Tố Hữu cảm nhận được từ trái tim Nguyễn Du cũng giống như trong lời nhận xét của Mộng Liên Đường
năm xưa: " Tố Như tử, dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không có con mắt
trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy". Những câu thơ Nguyễn Du đã
hòa vào lòng người, tan chảy trong con tim yêu thương của nhân thế: Tiếng đàn xưa đứt ngang dây/ Hai trăm năm lại
càng say lòng người/ Trải bao gió dập sóng dồi/ Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha... Thôi thúc con người hôm nay
biết đấu tranh loại trừ tàn ác, xấu xa để bảo vệ điều nhân văn, tốt đẹp trong cuộc đời. Cụ thể ở đây là thế lực đen tối
phản cách mạng bè lũ đế quốc, là giặc Mĩ.
Tiếng nói tri âm cất lên thiết tha vang vọng trong lời khẳng định sức sống diệu kì của Nguyễn Du và Truyện Kiều:
    Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Những câu lục bát với giọng tâm tình sâu lắng thiết tha, ngôn từ giản dị nhưng mang sức gợi sâu xa, hàm súc. Tố
Hữu trân trọng và đánh giá rất cao về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du: tiếng thơ Nguyễn Du là kết tinh của
nghìn năm văn hiến của dân tộc, của tiếng nói ngàn kiếp người xưa vang dội đến hôm nay và vang vọng mãi mai sau,
vượt qua quy luật băng hoại của thời gian. Bởi đó là tiếng nói của tình đời, tình người, mà đỉnh cao là ý nghĩa nhân
văn cao cả. Tiếng thơ trở thành tiếng nói truyền thống nhân đạo của dân tộc, như tiếng mẹ ru gần gũi thân thương mà
thiêng liêng cao cả đã ăn sâu vào tâm khảm con người Việt Nam từ độ ấu thơ, là di sản tinh thần quý giá của dân tộc.
Truyện Kiều đã tô điểm cho non sông đất nước bằng giá trị văn hóa, nhân đạo, nhân văn.
Kết thúc bài thơ, là hình ảnh diễm lệ của non sông và không khí hào hùng của thời đại:                                   
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
Tiếng trống giục thôi thúc vừa gợi lại nét cổ kính xa xăm, vừa gợi nhuệ khí  thời đại đánh Mĩ. Đoàn quân ra trận hôm
nay còn mang sứ mệnh cao cả là hoàn thành ước nguyện, khát khao của bao thế hệ cha ông, trong đó có Nguyễn Du
là bảo vệ quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người, tiếp nối truyền thống nhân đạo.
Kính gửi của Nguyễn Du đã kết tinh những nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu (Thơ trữ tình chính trị được diễn
đạt bằng hình thức tâm tình, tâm sự, màu sắc dân tộc đậm đà...). Tố Hữu đã sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo lối "tập
kiều" làm sống lại cả thế giới tinh thần của thiên truyện. Nhưng điều tạo nên giá trị đặc sắc của bài thơ không nằm ở
những yếu tố nghệ thuật ấy, mà chính là cái tình, là tiếng nói tri âm sâu sắc của Tố Hữu đối với Nguyễn Du.
 
 2.3 Tiếng nói tri âm trong Đàn ghita của Lor- ca (Thanh Thảo)
 
Thanh Thảo là một hồn thơ giàu chất triết lí, luôn tìm đến với những vẻ đẹp nhân cách cao cả bằng hệ thống thi ảnh
và ngôn từ mới mẻ. Thơ Thanh Thảo vừa có sức lắng đọng, vừa có khả năng lan tỏa kì lạ trong hồn người. Đọc thơ
ông, không thể đọc lướt, đọc qua mà cần chậm rãi, nghiền ngẫm và suy tư cùng nhà thơ như nhâm nhi một thứ trà đặc
biệt để cảm nhận được vị ngọt sau cùng. Đàn Ghi ta của Lorca là bài thơ như thế. Đọc nhan đề bài thơ, tưởng chừng
tác phẩm viết về cây đàn hay một người nghệ sĩ, nhưng sức hút, sức sống của tác phẩm không chỉ giản đơn như vậy,
mà bởi thông qua đó,  ý nghĩa của bài thơ đã chạm đến những giá trị cao cả, thiêng liêng, là triết lí về cái đẹp, về sức
sống của nghệ thuật chân chính bằng tiếng nói tri âm của Thanh Thảo đối với người nghệ sĩ Tây Ban Nha Gar-xi-a
Lor-ca.
Cùng với những cái tên Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê- nhin..., Lor-ca đã đến với Thanh Thảo không phải
như một cuộc gặp ngẫu nhiên, tình cờ. Hồn thơ Thanh Thảo đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp của lòng nhân ái, bao dung,
can đảm, trung thực và yêu tự do. Và thế là, như một duyên nợ, Thanh Thảo đã tìm đến với thế giới nghệ thuật của
Lor-ca, với cuộc đời Lor-ca như một tri âm tìm đến một tri âm.
G. Lor-ca (1898-1936)- nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha, có đóng góp quan trọng và ảnh hưởng tích cực đến nền thơ ca
hiện đại Tây Ban Nha với những cách tân nghệ thuật tiến bộ, đã đấu tranh ngoan cường vì nền dân chủ và sự tiến bộ
của nghệ thuật chân chính đến hơi thở cuối cùng. Lor-ca là người có số phận bi kịch, sống trong đất nước Tây Ban
Nha những năm đầu thế kỉ XX dưới bầu không khí chính trị ngột ngạt, đen tối của nền độc tài Pri-nô đê Ri-vê-a. Vì
những ảnh hưởng mạnh mẽ của Lor-ca đến phong trào đấu tranh dân chủ và cách tân nghệ thuật rộng khắp Tây Ban
Nha và cả khu vực Tây Âu rộng lớn, bè lũ thân phát xít Phrăng-cô đã sát hại Lor-ca. Nhưng với nhân dân Tây Ban
Nha, với những người yêu tự do trên toàn thế giới, với Thanh Thảo, Lor-ca chưa bao giờ chết.
    Đàn ghita của Lor-ca được viết bằng hình thức thơ tự do với những sáng tạo độc đáo của Thanh Thảo: Bài thơ
không dấu câu, không viết hoa đầu mỗi dòng thơ, cả bài thơ như một mạch tâm cảm nối liền bởi những hình ảnh đầy
tính tượng trưng.       Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo là giàu chất suy tư, triết lí, ít nhiều
nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.
  Mở đầu bài thơ, bằng lời đề từ, Thanh Thảo dẫn ta đến với thế giới nghệ thuật của Lor-ca qua một dòng thơ: "Khi
tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn" .
Một câu thơ rất nổi tiếng của Lor-ca, đã từng là khởi nguồn cảm hứng nghệ thuật của nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ước
vọng làm một điều gì đó sau khi chết thường không là bình thường, nhỏ nhặt mà thường là điều tâm nguyện, ấp ủ của
cả một cuộc đời.Vậy lời đề nghị, ước vọng ấy của Lor-ca là gì?
   Ở đây, hình ảnh cây đàn cần được hiểu rộng hơn một nhạc cụ quen thuộc, nó là biểu tượng cho sự nghiệp nghệ
thuật của Lor-ca và những đóng góp của ông trên lĩnh vực nghệ thuật, bởi cùng với cây đàn đó, Lor-ca đã tấu lên bài
ca tự do, thôi thúc nhân dân đến với tự do và nghệ thuật tiến bộ chân chính. Chôn cây đàn cùng tác giả thể hiện niềm
đam mê, khát vọng theo đuổi nghệ thuật vĩnh cửu của Lor-ca, kể cả khi cái chết đã cướp đi sinh mạng của ông. Đồng
thời nói chôn tác giả cùng cây đàn không có nghĩa là phủ nhận mọi giá trị sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca mà là để thế
giới nghệ thuật của Lor-ca ngủ yên, không là đỉnh cao không thể vượt qua hay thành vật cản với những sáng tạo nghệ
thuật sau này, để nghệ thuật của ngày mai vượt trội hơn những gì là mới mà Lor-ca đã tạo ra hôm nay, như thế mới
chứng tỏ được sức sống và sức mạnh của nghệ thuật, tương lai luôn đón chờ những điều mới mẻ... Đây chính là tư
tưởng cách tân nghệ thuật tiến bộ và phóng khoáng của Lor-ca. Nhà thơ Thanh Thảo đã thật sự cảm thông đến tận
cùng với Lor- ca. Nghệ sĩ Lor- ca  ra đi bất ngờ khiến hành trình cách tân nghệ thuật của ông bị dang dở và con
đường ông đã đi qua ở thời đại ông không nhiều người thực sự hiểu . Lor- ca đã dặn "Khi tôi chết hãy chôn tôi với
cây đàn", lời dặn đó thể hiện nhân cách nghệ sĩ ,tình yêu say đắm với nghệ thuật và tình yêu tha thiết với đất nước
Tây Ban Nha. Thanh Thảo đã thấu hiểu điều đó khi trang trọng đặt câu thơ của Lor-ca làm lời đề từ cho bài thơ của
mình.
      Từ tốn và sâu lắng, Thanh Thảo cẩn trọng gỡ tấm mành cách bức về thời gian, về không gian, về văn hóa cho
chúng ta đến với không gian văn hóa, chính trị của đất nước Tây Ban Nha những năm đầu thế kỉ XX và đến với trái
tim cùng số phận nghiệt ngã của Lor-ca .
           Dòng thơ đầu tiên là cảm nhận của Thanh Thảo về hình ảnh của Lor-ca- một cảm nhận rất riêng:
       những tiếng đàn bọt nước
  Sự xuất hiện của Lor-ca không phải với cái tên Lor-ca hay sự tái hiện trực tiếp mà qua hình tượng tiếng đàn bọt
nước. Thanh Thảo đã hữu hình hóa cái vô hình, khiến tiếng đàn có thể được cảm nhận bằng thị giác. Gửi gắm trong
đó là sự ngưỡng vọng và trân trọng đối với những giá trị nghệ thuật của Lor-ca: Tiếng đàn mong manh mà huyền
diệu, như thực như mơ, không dễ gì nắm bắt, chiếm lĩnh và thấu hiểu, chính điều đó tạo nên sức mê huặc kì diệu
trong nghệ thuật của Lor-ca.  Bọt nước là sự vật rất mơ hồ, vừa lung linh hiện hữu đã có thể tan biến hoà vào dòng
chảy vĩnh cửu, nhưng cũng ngay tức khắc có thể tái sinh... Sự hiện hữu trong khoảnh khắc đó là một số phận, và nó
đã làm tròn sứ mệnh với cuộc đời này. Đó phải chăng cũng chính là số mệnh thế giới nghệ thuật của Lor-ca?
       Dùng hình ảnh tiếng đàn bọt nước để nói đến thế giới nghệ thuật của Lor-ca là cách nói vừa hình ảnh, vừa sâu
sắc và cũng là cảm nhận từ trái tim của Thanh Thảo.
       Đối lập hoàn toàn với hình ảnh thơ đầu tiên, câu thơ tiếp theo gợi sự đấu tranh ngoan cường của Lor-ca trong bối
cảnh khốc liệt của thời đại :
       Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
   Thanh Thảo đã chọn hình ảnh áo choàng đỏ với ý nghĩa tượng trưng có sức biểu đạt phong phú, bất ngờ. Hình ảnh
này nhắc tới môn đấu bò tót, một sinh hoạt văn hóa Tây Ban Nha nổi tiếng toàn thế giới mà sức hấp dẫn của nó là thử
thách bản lĩnh, ý chí và sức mạnh của con người. Hình ảnh áo choàng đỏ gắt còn giúp ta liên tưởng đến khung cảnh
của một đấu trường. Rộng hơn hình ảnh cụ thể một đấu trường truyền thống của văn hóa Tây ban Nha là đấu trường
quyết liệt giữa công dân Lor-ca cùng khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật già nua Tây
Ban Nha với nghệ thuật cách tân của Lor-ca. Áo choàng đỏ chính là hình ảnh của đấu sĩ Lor-ca trên trường đấu vì tự
do và tiến bộ nghệ thuật. Một đấu sĩ dũng cảm, đầy chí khí, dám đương đầu và không bao giờ lùi bước. Và vũ khí đấu
tranh của người nghệ sĩ ấy chính là:
        li-la li-la li-la
     Là tiếng đàn vang vọng, là thế giới nghệ thuật đang lan tỏa hay sắc tím bình yên lãng mạn đang triền miên trong
tâm thức của một loài linh hoa? Có lẽ cũng không cần đến một câu trả lời rõ ràng minh xác. Bởi đây là cảm nhận của
Thanh Thảo về một Tây Ban Nha huyền bí, về một Lor-ca tài hoa không mệt mỏi cùng cây đàn cất lên những khúc ca
yêu thương và tranh đấu.
     đi lang thang về miền đơn độc
      với vầng trăng chếnh choáng
      trên yên ngựa mỏi mòn
   Mở ra trước mắt ta là miền đất của cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, phóng túng, tự do, đầy chất nghệ sĩ. Những
hình ảnh này gợi tư duy liên tưởng của người đọc hướng tới đất nước Tây Ban Nha với không gian phóng túng,
hoang sơ, với những con người có tâm hồn phong phú, lãng tử,  đam mê dạt dào với cuộc sống. Và ở đây, Thanh
Thảo đã nhìn thấy một Lor-ca cô đơn, cô đơn trên hành trình đi tìm tự do và yêu thương cho con người. Những từ láy
mang sắc thái biểu lộ tâm trạng liên tục xuất hiện trong ba dòng thơ: lang thang, đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn tái
hiện bước chân phiêu lãng của tâm hồn hoàn toàn tự do giữa đất trời, đó cũng là bầu trời tự do mà lor-ca mở ra trong
thế giới nghệ thuật của mình song rồi cũng không vượt thoát được nỗi cô đơn trong thời đại mà cái xấu, cái ác, cái
phản tiến bộ đang bủa vây. Một bi kịch bắt đầu được hé lộ.
     Điều ám ảnh Thanh Thảo cũng như mỗi chúng ta khi đối diện với số phận của Lor-ca chính là cái chết oan khuất
của ông. Lor-ca chết khi đang bước đi trên con đường tranh đấu cho sự tiến bộ của nghệ thuật và nền dân chủ Tây
Ban Nha. Bài thơ này được khởi nguồn bởi cảm xúc của thanh Thảo trước cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca.
        Tây Ban Nha
         hát nghêu ngao
         bỗng kinh hoàng
         áo choàng bê bết đỏ
   Tiếng hát trong câu thơ mang ý nghĩa tượng trưng: hát nghêu ngao - đó là thanh âm của tự do, của tình yêu đời hồn
nhiên nồng nhiệt, của tâm hồn bay bổng say sưa. Tiếng hát đó là tinh túy của sự sống. Và tiếng hát đột nhiên vụt tắt.
Câu thơ bỗng kinh hoàng  với hai từ bỗng và kinh hoàng bổ trợ cho nhau, diễn tả cảm xúc bàng hoàng, đau đớn cực
độ trước cái chết đột ngột đầy bi phẫn của lor-ca. Một lần nữa hình ảnh áo choàng đỏ lại xuất hiện, nhưng không phải
sắc đỏ gắt của cuộc đấu khốc liệt, mà là màu bê bết đỏ bi thương của đổ máu, của cái chết.
     Tái hiện cái chết oan khuất của Lor-ca, Thanh Thảo không hề tả, chỉ gợi lên bởi những hình ảnh mang màu sắc
tượng trưng. Thanh Thảo biết đến Lor-ca qua những bài thơ của Lor-ca và huyền thoại về ông. Vậy mà đọc đoạn thơ
nói về cái chết của Lor-ca, ta như cảm nhận rõ nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn linh hồn. Nỗi đau hiện hữu bởi nỗi kinh
hoàng, bởi sắc áo choàng bê bết đỏ. Phải chăng niềm cảm thương, nỗi xót xa của Thanh Thảo trước cái chết oan
nghiệt của lor-ca đã tạo nên sức ám ảnh đến day dứt của những vần thơ này?
      Lor-ca bị điệu về bãi bắn
       chàng đi như người mộng du
  Trái tim nhạy cảm và lòng đồng cảm sâu sắc đã giúp thanh Thảo dựng lại hình ảnh của Lor-ca khi đến với cái chết.
Trong rất nhiều bài thơ của mình, Lor-ca nhắc đến cái chết như một ám ảnh khôn nguôi, như một dấu hiệu báo trước,
những linh cảm chẳng lành. Hình ảnh đi như người mộng du cho thấy, dù bước chân đưa ông vào cõi chết, nhưng trái
tim vẫn thổn thức với những nhịp đập yêu thương của cuộc sống. Bọn phát xít chỉ có thể đẩy thể xác ông xuống mồ
mà bất lực trước tâm hồn tự do, tình yêu và khát vọng cao cả của Lor-ca. Tinh thần của Lor-ca là bất tử. Bởi cả khi
Lor-ca cái chết đã chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi của ông thì hình ảnh cây đàn của Lor-ca, những vần thơ của Lor-ca
vẫn thôi thúc ý chí đấu tranh của dân tộc, những thanh âm tiếng đàn tự do của Lor-ca vẫn vang vọng mãi ngàn sau…
           tiếng ghi ta nâu
              bầu trời cô gái ấy
              tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
              tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
              tiếng ghi ta ròng ròng
              máu chảy
  Đoạn thơ là suy nghiệm về sức lay động của tiếng đàn và thân phận của nó trong thế giới bạo tàn.
    Với điệp khúc dồn dập, những dòng thơ ngắn:  điệp   tiếng ghi ta ngân lên như nốt nhạc ghita, như những tiếng
thổn thức đau đớn phẫn nộ chân thành của Thanh Thảo trước cái chết oan khuất của Lor-ca.
   Bằng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hình ảnh tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh đã làm nổi bật tình yêu,
cái đẹp, sức sống kì diệu của tiếng đàn Lor-ca trong cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc của Thanh Thảo. Thanh Thảo đã
cảm nhận được từ thế giới nghệ thuật của lor-ca thông điệp ông để lại đời, cũng chính là điều mà Thanh Thảo ấp ủ,
trân trọng và nâng niu: khát vọng với tự do, lòng yêu cuộc sống và ý chí đấu tranh. Đây chính là giao điểm của mối
tương giao kì lạ giữa hai nhà thơ vốn rất cách biệt về khoảng cách đời thường: không gian xa xôi, thời gian vời vợi,
hai nền văn hóa hoàn toàn xa lạ... nhưng lại dường như rất gần gũi về tâm hồn, tư tưởng. Thanh Thảo đã tìm đến Lor-
ca và khẳng định sức sống kì diệu của sự nghiệp nghệ thuật mà Lor-ca để lại.
       Với Thanh Thảo, nghệ thuật của Lor-ca, thế giới tinh thần của Lor-ca, số phận của Lor-ca ... đều có thể biểu lộ
thông qua hình tượng tiếng đàn. Tiếng đàn ấy là sinh thể có linh hồn, có thân phận:
                    tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
                         tiếng ghi ta ròng ròng
                         máu chảy
    Vỡ tan và ròng ròng/máu chảy là cách nói đầy sức ám ảnh về cái chết đau đớn oan khuất của Lor-ca. Đối diện với
nỗi đau mà Thanh Thảo tái hiện, trong ta hiện hữu hai trạng thái cảm xúc: nỗi xót xa đến tê tái cho nỗi đau của lor-ca
và nỗi căm phẫn đến uất nghẹn đối với bọn phát xít tàn ác hủy diệt tài năng và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Có thể
cảm nhận rõ rệt sự tương phản đối lập giữa sắc nâu bình yên của đất, màu xanh dịu dàng đầy sức sống của lá với hình
ảnh ròng ròng máu chảy đau đớn của những liên tưởng. Đó cũng chính là nghịch lí giữa lí tưởng sống cao đẹp, thế
giới nghệ thuật và số phận bi thảm oan khuất của ông. Như vậy, tiếng đàn là tâm hồn, là vẻ đẹp của nghệ thuật Lor-
ca, tiếng đàn cũng chính là thân phận của Lor-ca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà
cái ác ngự trị.
          không ai chôn cất tiếng đàn
            tiếng đàn như cỏ mọc hoang
            giọt nước mắt vầng trăng
            long lanh trong đáy giếng
   Bằng những so sánh, ẩn dụ, liên tưởng bất ngờ, Thannh Thảo đã suy tư về thân phận của tiếng đàn trong ý nghĩa
biểu tượng như đã nói ở trên. Niềm xót thương Lor- ca được chuyển hóa thành niềm tin về sự bất tử của tiếng đàn
Lor- ca: đó là cái đẹp mà sự tàn ác không thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống, lưu truyền mãi mãi, bền bỉ, âm thầm mà mãnh
liệt như thứ cỏ dại  mọc hoang.
     Hình ảnh giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng là hình tượng đẹp lạ lùng trong số lượng tương đối
lớn các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Nỗi đau hòa quyện cùng cái đẹp, cái đẹp sẽ bất tử, âm thầm tỏa sáng... tất
cả đem lại cho ta cảm giác vừa lạ lẫm vừa rất đỗi quen thuộc. Có lẽ lạ bởi cách kết hợp hình ảnh độc đáo của Thanh
Thảo, quen bởi Thanh Thảo đã cho ta thấy một bi kịch không của riêng một thời nào, một dân tộc nào. Đó là bi kịch
của cái tài, cái đẹp trong bối cảnh xã hội phản động. Nỗi buồn trước bi kịch ấy chính là biểu hiện của tinh thần nhân
văn tiến bộ, khao khát yêu thương và bảo vệ những giá trị tốt đẹp cho cuộc đời. Chính tiếng nói nhân văn ấy đã khiến
những con người vốn rất xa nhau về nhiều khoảng cách được xích lại gần nhau, như để vợi bớt nỗi cô đơn đằng đẵng,
như để sát cánh bên nhau trong cuộc chiến vì tự do, vì niềm yêu thương con người và cuộc đời.
        Vượt qua nỗi đau của cái chết và bi kịch số phận Lor-ca, Thanh Thảo suy tư về cõi tâm linh với cuộc giã từ của
Lor-ca: Lor-ca từ biệt cuộc đời như một điều đã sắp đặt sẵn của định mệnh- đường chỉ tay đã đứt. Một cách nói giảm
để dịu bớt cảm giác đau thương? Có lẽ không chỉ thế. Số mệnh của cái đẹp vốn mong manh, mà lời thơ, lời ca với
tinh thần nhân văn vút cao của Lor-ca chính là cái đẹp. Thanh Thảo khiến ta nhớ đến những Lí Bạch, Nguyễn Du, Ê-
xê- nhin... Và trong thế giới bên kia cõi sống, Lor-ca cùng cây đàn ghi ta tiếp tục cuộc hành trình miên viễn của mình.
      Trong Đàn ghi ta của Lor-ca, ta thấm thía một cách sâu sắc tấm lòng tri âm của Thanh Thảo với Lor-ca từ nhiều
phương diện: con người, tư tưởng, phẩm cách, số phận... phải là người hiểu và đồng cảm, thương yêu chân thành,
Thanh Thảo mới cất lên tiếng nói tri âm cảm động đến vậy. Và ở năm dòng thơ cuối bài, Thanh Thảo đã dựng lên bức
tượng đài nghệ thuật tuyệt vời về Lor-ca:
         chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
           vào xoáy nước
           chàng ném trái tim mình                  
           vào lặng yên bất chợt
 
            li-la li-la li-la...
    Hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng được Thanh Thảo sử dụng rất đắc địa để tái hiện sự lựa chọn cao cả
của Lor-ca: Lá bùa hộ mệnh là bảo bối để đảm bảo sự sống, người ta giữ lá bùa như bảo vệ mạng sống của mình. Lor-
ca đã chủ động ném lá bùa ấy vào dòng nước cuộn xoáy. Đâu có phải vì Lor-ca không còn tha thiết với sự sống nên
bất chấp số mệnh, mà ngược lại, chàng ném lá bùa ấy vì tình yêu tự do, cuộc sống thôi thúc mãnh liệt trong trái tim.
Lor-ca đã chủ động hy sinh sự bình yên của mình để dấn thân vào một con đường đầy chông gai như dòng nước cuộn
xoáy của tử thần: con đường đấu tranh vì con người, vì đất nước Tây Ban Nha. Trái tim là tình yêu, tâm hồn, là căn
cội thế giới nghệ thuật, và Lor-ca chấp nhận đành cất vào lặng yên khi cái chết chia lìa ông với nhân thế. Và như vậy,
Thanh Thảo đã giúp ta hiểu: cái chết về thể xác không phải là điều Lor-ca sợ, ông đã lường trước kết cục đó khi bước
đi trên con đường tranh đấu. Cái chết chưa từng làm Lor-ca một lần phải ngoảnh lại, phải dừng bước. Chính cái chết
lại là một yếu tố làm nên sự bất tử của Lor-ca!
         li-la li-la li-la...
  Thanh âm vang vọng của tiếng đàn lại ngân nga sau giây phút lặng yên bất chợt! Đó là sự bất tử.
   Nghệ thuật có quy luật tồn tại riêng của nó, nằm ngoài quy luật tồn tại của sinh mạng. Thanh Thảo đã khẳng định
sự bất tử của Lor-ca. Lor-ca không còn, nhưng tinh thần tranh đấu, khát vọng tự do cháy bỏng nơi ông vẫn tỏa sáng,
thấm thía một cách tự nhiên mà lắng sâu trong những tâm hồn đồng điệu, trong những trái tim cùng nhịp đập yêu
thương, để con người ngày càng được sống trong một thế giới tốt đẹp, nhân văn hơn.
      Đến với Đàn ghi ta của Lor-ca, ta được hiểu thêm về Lor-ca, một tư tưởng, tâm hồn lớn, một cuộc đời đã đi vào
bất tử. Và qua bài thơ, ta cảm nhận được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và sâu sắc của Thanh Thảo qua tiếng nói tri âm
của ông với người xưa. Thanh Thảo đã tìm về với G. Lor-ca bằng trái tim mình. Với trái tim thương yêu đồng vọng,
Thanh Thảo đã tái hiện một cách đầy xúc động con người, số phận của Lor-ca. Bằng lòng cảm phục, ngưỡng mộ chân
thành, bằng sự tri âm sâu sắc, Thanh Thảo đã khẳng định sự bất tử của tên tuổi Lor-ca cùng những tư tưởng nhân văn
tiến bộ mà Lor-ca thể hiện trong thế giới nghệ thuật của mình.
 
 
                                                   *
 
     Độc Tiểu Thanh kí, Kính gửi cụ Nguyễn Du và Đàn ghi ta của Lor-ca được sáng tác trong những giai đoạn văn
học khác nhau, vì thế, hình thức thi pháp hoàn toàn khác biệt (một bài thơ Đường luật mẫu mực, một bài thơ lục bát
dạt dào cảm xúc, một bài thơ tự do với những cách tân táo bạo về nghệ thuật). Hình tượng nghệ thuật được sáng tạo
trong mỗi thi phẩm cũng mang nhiều điểm khác biệt. .. Nhưng ba thi phẩm có một nét chung quan trọng: sức sống
của thi phẩm được dệt nên bởi tiếng nói tri âm được thể hiện sâu sắc và cảm động. Sự tri âm ở mối tác phẩm có một
tiếng nói riêng, nhưng cùng chung điểm gặp gỡ: các thi nhân tìm đến với nhau bởi tâm hồn nhạy cảm, lòng đồng cảm
về tình yêu cái đẹp, tình yêu thương con người. Nói cách khác, chủ nghĩa nhân văn chính là điểm hẹn của biết bao
tấm lòng tri âm trong cuộc đời. Và những tấm lòng tri âm đã góp phần làm chủ nghĩa nhân văn được tỏa sáng!
 
C. KẾT LUẬN
   
1. Tiếng nói tri âm trong thơ là nội dung giàu ý nghĩa nhân văn. Nói như vậy bởi đó đâu chỉ là câu chuyện của hai
cuộc đời, hai sự nghiệp thơ ca, hai tâm hồn. Mà qua những tìm hiểu trên, chúng ta đã thấy điểm gặp gỡ của những
hồn thơ lớn chính là tình cảm cao đẹp của con người với con người: tình thương yêu con người, khát vọng dân chủ, tự
do, tình yêu cái đẹp, niềm trân trọng tài năng, những tư tưởng tiến bộ của thời đại... Và người đọc đến với những lời
tri âm ấy sẽ được gặp lại chính mình trong những cảm nhận quen thuộc, đồng thời cũng được thấm thía bởi những
đồng cảm và khám phá mới mẻ.
  2. Trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lor-ca  (Thanh
Thảo) đã thể hiện tiếng nói tri âm của các thi nhân với những số phận, tâm hồn, vẻ đẹp của con người. Tiếng nói tri
âm có sức mạnh băng qua mọi rào cản của không gian, thời gian, sự cách biệt về văn hóa... để nói lên những điều
thuộc chân lí phổ quát của tinh thần nhân văn.
  3. Điều quan trọng nhất trong tìm hiểu ba bài thơ trên là không chỉ dừng lại ở phân tích câu chữ, mà phải cảm nhận,
đọc ra được tiếng nói tri âm được gửi gắm đầy cảm động ở mỗi bài. Có như vậy, mới nắm được cái thần, cái hồn của
bài thơ.
 
Chuyên đề:
Đặc sắc truyện ngắn Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương I: Khái quát về vị trí của Nam Cao và một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của ông
I. Vị trí của Nam Cao trong nền văn học dân tộc
Nam Cao là một trong số những nhà văn hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Ông thuộc trong số những
cây bút hiếm hoi của nền văn xuôi hiện đại có tư tưởng, phong cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có những
cách tân lớn lao góp phần quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của Nam
Cao không dài, chỉ gói trọn trong 15 năm (1936 - 1951), gia tài văn chương Nam Cao để lại cho hậu thế không mấy
đồ sộ song chúng đã thành “mẫu số vĩnh hằng” trong nền văn học dân tộc. Sáng tác của ông đã vượt qua được những
thử thách khắc nghiệt của thời gian, có sức sống mạnh mẽ trong lòng người đọc. Thời gian càng lùi xa, những tác
phẩm của ông càng bộc lộ những tư tưởng nhân văn cao đẹp, ý nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu
luyện, độc đáo. Đúng như nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét: “Sáng tác của Nam Cao là cả một kho trữ lượng
bên trong, một kho của dư đầy…có thể đào xới vào rất nhiều tầng vỉa, và vẫn còn hứa hẹn nhiều vỉa mới”.
Nam Cao xuất hiện trên văn đàn từ 1936 bằng một số bài thơ, truyện ngắn chịu nhiều ảnh hưởng của văn học lãng
mạn đương thời nhưng không mấy thành công và ít được chú ý. Chỉ đến 1940, khi viết truyện ngắn “Chí Phèo” Nam
Cao mới thực sự xác định được hướng đi cho ngòi bút của mình. Và với khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa tên tuổi
và vị trí của Nam Cao mới thực sự được khẳng định. So với các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn công Hoan,
Ngô Tất Tố, Vũ trọng Phụng, Nam Cao là người đến muộn song với tài năng và sự nỗ lực của mình ông đã trở thành
đại diện ưu tú nhất cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 với quan điểm nghệ thuật phải gắn liền với
hiện thực, phải “vị nhân sinh”. Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài: người nông dân và người trí thức
nghèo trước cách mạng tháng tám. Ở đề tài người nông dân Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn
Việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng, không lối thoát, hết sức thê thảm vào những năm trước cách mạng. Và
nổi lên trong bức tranh ấy là hình tượng những người nông dân hiền lành, lương thiện bị đẩy vào tình trạng tha hóa,
lưu manh hóa, bị hủy hoại cả nhân hình và nhân tính (Chí Phèo,Tư Cách Mõ, Một bữa no, Trẻ con không được ăn
thịt chó…). Những sáng tác về đề tài người trí thức của ông tập trung thể hiện những tấn bi kịch tinh thần của người
trí thức tiểu tư sản có hoài bão, khát vọng, giàu tài năng nhưng lại bị gánh nặng áo cơn ghì sát đất, trở thành những
mảnh “đời thừa”, những kiếp “sống mòn”. Nam Cao không chỉ dừng lại ở việc phản ánh tình trạng thê thảm của xã
hội và con người trước cách mạng mà còn trực tiếp phân tích, cắt nghĩa, truy tìm nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó.
Dù ở đề tài người nông dân hay người trí thức Nam Cao đều bộc lộ sự cảm thông, thương xót trước những đau khổ,
bất hạnh của con người. Tác phẩm của ông là lời kết án đanh thép xã hội thực dân nửa phong kiến bất công chà đạp
nhân phẩm của con người, đồng thời là tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy nhân phẩm con người.
          Về phương diện nghệ thuật Nam Cao đã đánh dấu sự cách tân ở nhiều mặt: kết cấu, nghệ thuật trần thuật, ngôn
ngữ, nghệ thuật xây dựng nhân vật…góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy và hoàn thiện quá trình hiện đại hóa nền
văn học dân tộc.
II. Một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Nam Cao
1. Đề tài, chủ đề
Nam Cao thường hướng ngòi bút của mình vào miêu tả những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh cuộc sống hàng ngày, từ đó
đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống, nghệ thuật. Sáng tác của
Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài: đề tài người nông dân và đề tài người trí thức, những đề tài quen
thuộc của văn học hiện thực phê phán. Tuy nhiên do biết đào sâu, biết tìm tòi nên tác phẩm của Nam Cao vẫn có khả
năng khám phá hiện thực ở một chiều sâu mới, đặt ra những vấn đề hết sức mới mẻ. Qua những sáng tác về đề tài
người nông dân Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói , xơ xác, đầy những
xung đột, mâu thuẫn, trong đó cuộc sống của người nông dân hiện lên hết sức bi thảm. Trong những tác phẩm của
mình Nam Cao đã phản ánh chân thực, sâu sắc tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường
bần cùng hóa, phá sản, không lối thoát vào những năm 1940 - 1945.
Nếu như Nguyễn Công Hoan đã xây dựng khá thành công hình ảnh người nông dân điêu đứng, phá sản vì thủ đoạn
tranh cướp ruộng đất của bọn địa chủ cường hào trong tiểu thuyết “Bước đường cùng”, Ngô Tất Tố với tiểu
thuyết “Tắt đèn”  nói lên số phận long đong, khốn khổ của những người nông dân Việt Nam trước cảnh sưu cao thuế
nặng thì Nam Cao lại viết về số phận bi thảm, cùng cực của người nông dân qua cuộc sống hàng ngày của họ. Đó là
những con người sống quẩn quanh, bế tắc trong cái đói, cái nghèo. Biết bao người chết vì đói, vì ốm đau không có
tiền thuốc thang. Anh đĩ Chuột trong truyện ngắn “Nghèo”  buộc phải thắt cổ tự tử để đỡ gánh nặng cho vợ con: “Cái
bộ xương bọc trong da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi dây thừng
lủng lẳng”. Lang Rận trong truyện ngắn cùng tên vất vưởng sống trong rách rưới đói nghèo, tủi nhục vì bị người ta
khinh bỉ, làm nhục đã phải tìm đến cái chết một cách thê thảm thê thảm: “Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của
mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông nghẹo xuống như đầu một thằng bé khi nó dỗi
trông thật là thiểu não”. Cuộc đời lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên cũng là một chuỗi ngày dài đầy bất hạnh.
Không đủ tiền cưới vợ cho con đến nỗi nó phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, lão Hạc phải sống mòn mỏi trong cô
đơn, nghèo đói. Lão làm thuê, làm mướn để kiếm ăn qua ngày chứ nhất định không tiêu vào tài sản của con. Thế rồi
ốm đau không còn sức để đi làm thuê nữa Lão Hạc đành phải tự kết liễu đời mình bằng một cái chết thật thảm khốc:
“Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng
phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết. Cái chết thật là dữ dội”. Có thể nói qua những
số phận bất hạnh, những cái chết thê thảm ấy Nam Cao đã phản ánh cuộc sống ngột ngạt, bế tắc, không lối thoát của
những người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Viết về người nông dân, Nam Cao đặc biệt quan tâm đến vấn đề miếng ăn, vấn đề cái đói - điều mà nhiều cây bút
hiện thực đã chú ý phản ánh. Song nếu như Ngô Tất Tố viết về cái đói là tiếng kêu khẩn thiết, cấp bách cứu đói cho
người ông dân (Mớ rau trong hòm, Làm no, Cái ăn trong những ngày nước ngập) thì Nam Cao viết về cái đói, miếng
ăn như một nỗi nhục nhã, ê chề làm hủy hoại cả nhân phẩm và nhân tính của con người. Ông nhấn mạnh nỗi nhục
hơn là nỗi khổ. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Nếu như ở tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng
kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người
đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”. Bà cái Tý trong “Một bữa no” vì quá đói
mà đành phải từ bỏ cả danh dự, lòng tự trọng và nhân cách của con người để mong kiếm một bữa no. Trong “Tư
cách mõ”, miếng ăn cùng với sự xúc phạm của những người xung quanh đã biến anh cu Lộ từ một người nông dân
thật thà thành một kẻ đê tiện, tham lam. Như vậy qua những câu chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, xoay quanh chuyện
cái đói, miếng ăn Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống khốn khổ, bần cùng ở nông thôn Việt Nam trước cách
mạng, cảm thông, thương xót trước nỗi cơ cực của những người nông dân đồng thời đặt ra những vấn đề mang ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là lời kêu khẩn thiết hãy cứu lấy nhân phẩm con người.
Viết về người nông dân Nam Cao tập trung viết về tình trạng những con người hiền lành, lương thiện luôn bị lăng
nhục, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa. Lộ trong “Tư cách mõ” vốn là người
hiền lành, thật thà, chăm chỉ làm ăn, vậy mà chỉ vì sự nhục mạ, khinh ghét của những người xung quanh mà trở nên
trơ trẽn, đê tiện, không còn biết xấu hổ, nhục nhã là gì.
Đề tài người trí thức tiểu tư sản khá quen thuộc đối với văn học Việt Nam 1930 - 1945 nhưng chỉ đến Nam Cao, với
ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, với sự phân tích tâm lý sắc sảo, hình ảnh những nhân vật trí thức tiểu tư sản
mới hiện lên thật cụ thể và sinh động qua những tấn bi kịch tinhthần dai dẳng, bế tắc. Viết về người trí thức tiểu tư
sản Nam Cao đã tập trung xoáy sâu làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ. Đó là bi kịch của những trí thức nghèo có
tài năng, hoài bão, khát vọng lớn lao nhưng bị hiện thực đói nghèo gánh nặng áo cơm ghì sát đất, không thực hiện
được ước mơ của mình, luôn dằn vặt, đau đớn về tinh thần như Hộ trong “Đời thừa”, Thứ trong “Sống mòn”, Điền
trong “Giăng sáng”. Có thể nói những tác phẩm viết về đề tài người trí thức của Nam Cao đã thực sự trở thành tiếng
khóc xót xa, ân hận về “cái chết của tâm hồn”, cái chết về tinh thần của cả một lớp người trong xã hội cũ, qua đó thể
hiện tình trạng bế tắc, không lối thoát của những người trí thức tiểu tư sản, đồng thời phản ánh sâu sắc bầu không khí
ngột ngạt của một xã hội đanh han rỉ và kiệt quệ về tinh thần, đang bị đe dọa nghiêm trọng trước thảm họa của đói rét
và chiến tranh. Dù viết về đề tài người nông dân hay trí thức tiểu tư sản Nam Cao đều dựng lên bức tranh chân thực
về xã hội Việt Nam trước cách mạng, đồng cảm, thương xót với những đau khổ, bất hạnh của con người. Đồng thời
khẳng định phẩm chất của con người dù bị hoàn cảnh chà đạp, vùi dập. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo cao cả bao
trùm sáng tác của ông. Như Nguyễn Văn Hạnh khẳng định trong bài Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống lương
thiện,xứng đáng (in trong Nam Cao về tác gia và tác phẩm): “Chủ nghĩa nhân đạo của Nam cao không chỉ thể hiện ở
lòng cảm thông, xót thương cho những người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội mà còn ở những trăn trở, dằn vặt
không nguôi trước cuộc sống vô nghĩa, bế tắc, một chủ nghĩa nhân đạo bao giờ cũng đặt con người ở trung tâm cuộc
sống, buồn cho con người mà vẫn tin ở con người, tin ở bản tính lành mạnh tốt đẹp của con người, nó đòi hỏi con
người không được thụ động, buông xuôi, mà phải tích cực, chủ động, có ý thức trách nhiệm về cuộc sống của mình”.
2. Cốt truyện, kết cấu
Trong văn học truyền thống cốt truyện là vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà văn bởi vì nó là yếu tố hàng đầu tạo nên
sự hấp dẫn của tác phẩm. Các nhà văn cùng thời với Nam Cao vẫn hết sức coi trọng cốt truyện. Họ đều có ý thức xây
dựng một cốt truyện với những tình tiết hấp dẫn, nhiều sự kiện, biến cố bất ngờ, tạo nên tính chất giàu kịch tính cho
tác phẩm. Cốt truyện của “Tắt đèn”  dồn dập những sự kiện, biến cố, rất căng thẳng và giàu kịch tính. Trong tác
phẩm của Nam Cao cốt truyện có vai trò khiêm tốn hơn, ông không coi đó là yếu tố hàng đầu tạo nên sức hấp dẫn của
tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm của ông cốt truyện được hư cấu rất đơn giản, dường như không cần đến sự tổ chức,
sắp xếp. Có nhiều truyện của Nam Cao không có cốt truyện.
Nếu như trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ trọng Phụng cốt truyện thường được xây dựng trên cơ sở miêu tả
những hành động bên ngoài của nhân vật vào những thời điểm quan trọng, có tính chất bước ngoặt làm thay đổi cuộc
đời, số phận nhân vật. Cuộc sống được miêu tả là những chuỗi biến cố, sự kiện, những tình huống ngẫu nhiên, đầy
bất ngờ làm đảo lộn tất cả thì Nam Cao thường xây dựng cốt truyện trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm
của nhân vật. Trong Giăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nước mắt, Sống mòn…những sự kiện xuất hiện thường là
nguyên nhân, là nguồn gốc của những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật. Nhân vật bộc lộ thái độ, tư tưởng,
tình cảm của mình chủ yếu là qua hành vi (cử chỉ, nét mặt, lời nói) và qua lời độc thoại nội tâm chứ chúng không có
những hành động dứt khoát để làm nên những thay đổi bên ngoài. Sự vận động của hành động không phải diễn ra ở
bên ngoài mà chủ yếu chỉ xảy ra ở bên trong, xảy ra trong thế giới nội tâm của nhân vật.
Ý thức được vai trò của người nghệ sĩ Nam Cao không chấp nhận tác phẩm của mình chỉ phản ánh được cái bề ngoài
của xã hội, bề ngoài của hiện thực. Ông muốn thể hiện cuộc sống tự nhiên, chân thật, khách quan như nó vốn có với
những cái hàng ngày bình thường, xoàng xĩnh, với tất cả những gì gần gũi, quen thuộc nên cốt truyện của ông thường
được nới lỏng, được giãn ra chứ không chặt chẽ, tập trung như trong cốt truyện truyền thống. Giăng sáng, Đời thừa,
Một đám cưới…đều có khuynh hướng nới lỏng cốt truyện để cho những chi tiết, những cái vặt vãnh hàng ngày ùa
vào tác phẩm. Tiểu thuyết Sống mòn  từ đầu tới cuối chỉ viết về cuộc đời riêng tư của vài nhân vật với những cái vặt
vãnh hằng ngày đang diễn ra xung quanh cuộc sống của nhân vật Thứ. Mãi đến cuối tác phẩm mới có một biến cố
thực sự thấp thoáng xuất hiện – chiến tranh thế giới thứ hai với những hồi còi báo động liên miên, những người dân
thành phố lục tục chạy loạn, trường học bị đóng cửa…làm lay động những cuộc đời đang mòn mỏi bế tắc. Nhưng
biến cố ấy vừa mới xuất hiện thì cuốn tiểu thuyết lại khép lại. Có thể nói đẩy cốt truyện xuống bình diện sau, xây
dựng những cốt truyện chủ yếu được hình thành từ những
hành động bên trong của nhân vật là một sự cách tân của Nam Cao, góp phần phát triển nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam.       Trong sáng tác của Nam Cao ta không chỉ gặp một kểu kết cấu mà thường thấy xuất hiện nhiều kiểu kết
cấu. Đối với ông kết cấu là con đường và phương tiện làm sâu sắc hơn tư tưởng của tác phẩm vì vậy ông đã tổ chức
những kiểu kết cấu hợp lý, phóng túng mà chặt chẽ, tạo dựng những tình huống, xếp đặt các sự kiện, tổ chức hệ thống
tính cách hợp lý, biến chúng trở thành những phương tiện để thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
          Trong nhiều truyện Nam Cao sử dụng kiểu kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm của tác phẩm (Chí Phèo, Tư
cách mõ, Từ ngày mẹ chết…) Ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm đã nói tới chi tiết, sự kiện thể hiện bản chất,
vấn đề cốt lõi của câu chuyện và sau đó nhà văn mới quay lại phía sau, miêu tả quãng đời quá khứ của nhân vật. Mở
đầu truyện Tư cách mõ Nam Cao nói thẳng vào vấn đề anh cu Lộ đã trở thành một thằng mõ điển hình, một thằng mõ
chính tông rồi sau đó mới quay lại lý giải nguyên nhân khiến cho Lộ bị tha hóa: “Bây giờ thì hắn đã thành mõ hẳn
rồi. Một thằng mõ đủ tư cách mõ chẳng chịu kém những anh mõ chính tông một tý gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng
tham ăn…”.
          Một số truyện của Nam Cao có kiểu kết cấu theo trình tự thời gian như “Nghèo”, “Ở hiền”, “Dì Hảo”.... Các
sự kiện diễn ra trong cuộc đời của nhân vật đều được sắp xếp theo trật tự thời gian nhờ vậy mà người đọc dễ theo dõi
sự phát triển số phận của nhân vật, đồng thời tạo ấn tượng sâu đậm theo dòng thời gian ấy cuộc sống của nhân vật
càng chìm sâu hơn trong khổ đau, tủi cực.
          Trong truyện của Nam Cao ta còn thấy xuất hiện kiểu kết cấu lắp ghép. Đây là kiểu kết cấu phổ biến trong điện
ảnh. Sử dụng kiểu kết cấu này Nam Cao thường sắp xếp, tổ chức lại thời gian, tạo nên sự luân phiên giữa các cảnh
với nhau. Những sự sắp xếp này làm cho những cảnh đời, những bức tranh hiện thực của đời sống lần lượt hiện ra.
Truyện ngắn “Chí Phèo”, tiểu thuyết “Sống mòn” thuộc kiểu kết cấu như thế. Những cảnh đời, những mảng hiện
thực khác nhau, mới thoáng nhìn tưởng chẳng có liên hệ gì với nhau được tác giả sắp xếp, lắp ghép vào tác phẩm, cứ
lần lượt xuất hiện như những cảnh trong phim, cùng tập trung thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, qua đó nhà văn
phản ánh được tính chất phong phú, phức tạp của cuộc sống.
          Hướng ngòi bút vào việc miêu tả thế giới tinh thần bên trong của nhân vật, Nam Cao thường xuyên lựa chọn
kiểu kết cấu tâm lý. Có thể coi đây là kiểu kết cấu đặc trưng, cơ bản nhất trong tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là
những sáng tác về chủ đề tiểu tư sản. Những truyện ngắn “Đời thừa”, “Giăng sáng”, “Nước mắt”, “Lão Hạc”,
“Chí Phèo” và tiểu thuyết “Sống mòn” là những mẫu mực về kiểu kết cấu này.
          Trên đây là những kiểu kết cấu thường gặp trong sáng tác của Nam Cao, tuy nhiên trong một tác phẩm ông
không chỉ sử dụng đơn thuần một kiểu kết cấu nào, mà thường kết hợp linh hoạt nhiều kiểu kết cấu phối hợp với nhau
tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh, trong đó có một kiểu kết cấu chính giữ vai trò chủ đạo. Có thể xem “Sống
mòn” và “Chí phèo” là những tác phẩm tiêu biểu hơn cả cho cách tổ chức kết cấu như thế. Nếu nhìn bề ngoài ta
thấy“Sống mòn” là sự nối kết của những câu chuyện tản mạn, rời rạc về những điều nhỏ nhặt, tầm thường trong cuộc
sống tưởng như chẳng liên quan gì đến nhau nhưng nếu đọc kĩ thì lại thấy kết cấu của truyện hết sức chặt chẽ, lôgic.
Từ những câu chuyện vặt vãnh hằng ngày diễn ra xung quanh nhân vật Nam Cao đã nói lên cuộc sống tù túng, quẩn
quanh, không
lối thoát của người trí thức trước cách mạng, đồng thời thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức có ước mơ, hoài
bão nhưng bị hiện thực xã hội chà đạp, đè nén dẫn đến tình trạng chết mòn về tinh thần, không có lối thoát. Đọc
truyện “Chí Phèo” ta thấy xuất hiện nhiều kiểu kết cấu: kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm, kết cấu vòng tròn, kết
cấu lắp ghép…góp phần tạo nên tính hấp dẫn của tác phẩm.
          Tóm lại, sáng tác của Nam Cao thể hiện sự cách tân quan trọng trong nghệ thuật tổ chức kết cấu. Với mong
muốn khám phá cuộc sống ở bề sâu ý nghĩa tư tưởng của nó ông thường cố gắng kết hợp nhiều kiểu kết cấu trong
một tác phẩm để tạo cho tác phẩm nhiều lớp ý nghĩa. Chính điều này góp phần tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm
của Nam Cao.
3. Nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật
Sáng tác của Nam Cao giàu sức khám phá sáng tạo. Với phong cách nghệ thuật độc đáo Nam Cao đã thể hiện tài năng
bậc thầy trong việc thể hiện tâm lý nhân vật. Hướng ngòi bút vào thế giới bên trong của con người, miêu tả tâm lý
trong chiều sâu của sự vận động và phát triển của nhân vật là đóng góp nổi bật của Nam Cao về phương diện nghệ
thuật.
     Đầu thế kỉ XX sự xuất hiện của con người cá nhân, ý thức cá nhân đòi hỏi văn học phải tập trung khám phá thế
giới nội tâm sâu kín của con người. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại đáp ứng yêu cầu đó bằng cách riêng của mình và ở
những mức độ khác nhau. Trong số đó Nam Cao là nhà văn đáp ứng xuất sắc nhất yêu cầu này của văn học. Điều đó
xuất phát từ quan điểm nghệ thuật về con người của Nam Cao. Ông quan niệm: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng.
Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động.
Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi
dào càng sâu sắc thì sự sống càng cao”. Ông luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong
của con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài. Đối với Nam Cao, cái quan trọng nhất trong
tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố mà là con người trước sự kiện, biến cố. Cho nên ông thường tập
trung miêu tả, phân tích đời sống tinh thần bên trong của nhân vật hơn là miêu tả những sự việc, biến cố bên ngoài
của sự sống. Trong hầu hết các sáng tác của Nam Cao các sự kiện, biến cố nói chung đều được miêu tả trong sự ảnh
hưởng của chúng tới tâm hồn nhân vật. Ông lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả. Hướng
ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người,miêu tả và phân tích mọi biểu hiện, mọi chuyển biến
trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Trong“Đời thừa” nhà văn không hướng ngòi bút vào miêu tả nỗi khổ cơm áo
mà tập trung thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt tinh thần của nhân vật trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và
xói mòn nhân cách. Nam Cao đã đi sâu vào diễn tả nỗi băn khoăn, day dứt, dằn vặt, ân hận của Lão Hạc khi buộc
phải bán con chó để làm nổi bật phẩm chất lương thiện của lão.
          Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm
lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của
nhân vật. Cảnh vật thiên nhiên qua ngòi bút của ông khi thì hiện lên trong sắc thái tương phản, lúc lại hòa hợp với
tâm trạng nhằm khắc họa rõ nét tâm trạng của nhân vật. Cảnh thiên nhiên rộn rã những âm thanh, “ không gian là một
đám hội xôn xao và rực rỡ” càng là nổi bật tâm trạng cô đơn, chua chát của Phúc (Điếu văn) khi ốm đau mà vẫn bị vợ
bỏ rơi, không chút đoái hoài.. Đọc “Sống mòn” người đọc bị ám ảnh mãi bởi cái nắng chiều úa vàng được lọc qua tâm
hồn đang chết mòn của Thứ: “Ở bên ngoài nắng nhạt dần. Nắng úa vàng. Sức nắng giảm rất mau. Thứ tưởng như
trông thấy thời gian trôi và ngày chết dần đi”. Như vậy những cảnh vật thiên nhiên trong truyện của Nam Cao
thường gắn liền vớitâm trạng của nhân vật. Nó là phương tiện quan trọng góp phần khắc sâu tâm trạng của nhân vật,
qua đó thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
          Ngòi bút nam Cao có khả năng miêu tả trực tiếp cả quá trình vận động và phát triển tâm lý, tính cách nhân vật.
Sức mạnh và chiều sâu của chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của Nam Cao còn được thể hiện ở chỗ quá trình tâm lý
của nhân vật được ông thể hiện như là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những mâu thuẫn, những mặt
đối lập trong thế giới tâm hồn của mỗicon người. Xung đột chủ yếu trong những tác phẩm của Nam Cao là xung đột
của thế giới nội tâm nhân vật. Và những sự kiện cũng được triển khai chủ yếu trên cái nền xung đột bên trong đó.
Nhìn chung trong mỗi nhân vật của Nam Cao luôn tồn tại hai khuynh hướng đấu tranh với nhau, phủ định lẫn nhau:
khuynh hướng sống sao cho sướng hơn và khuynh hướng sống sao cho tốt hơn, có ích, có ý nghĩa hơn. Những tác
phẩm viết về người trí thức đều thể hiện cuộc đấu tranh triền miên, căng thẳng, sự giằng xé phức tạp, quyết liệt diễn
ra trong tâm hồn con người giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả và chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, giữa lí tưởng, khát vọng cao
đẹp và thực tại nghiệt ngã, phũ phàng, giữa thái độ buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh và sự vùng vẫy, gắng gượng
thoát ra khỏi thực trạng đó.
          Trong tác phẩm Nam Cao thường miêu tả ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, của hoàn cảnh đối với việc hình
thành tâm lý, tính cách con người. Và ông đã miêu tả những diễn biến tâm lý do hoàn cảnh quyết định một cách chính
xác. Qua việc miêu tả, phân tích quá trình tâm lý tư tưởng của nhân vật tác giả phản ánh hiện thực xã hội.          Nam
Cao đã sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và thủ pháp nghệ thuật để thể hiện tâm lý nhân vật, đặc biệt ông sử dụng
rộng rãi và đầy hiệu quả hình thức độc thoại nội tâm. Trong số những nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam, Nam
cao là người sử dụng thành công nhất hình thức độc thoại nội tâm để diễn tả chân thực những suy nghĩ sâu kín nhất
trong tâm hồn con người.
          Có thể nói chủ nghĩa tâm lý đã trở thành một ý thức nghệ thuật thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao, tạo
nên một đặc điểm nghệ thuật nổi bật đem đến cho sáng tác của ông một sức hấp dẫn to lớn. Nam cao không chỉ phản
ánh hiện thực xã hội mà còn đi sâu vào miêu tả, phân tích sâu sắc thế giới tinh thần của nhân vật, thể hiện đời sống
tinh thần bên trong của họ, qua đó làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
4. Ngôn ngữ, giọng điệu
Trong tác phẩm của Nam Cao ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương tiện miêu tả mà còn là đối tượng miêu tả.
Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ đa âm, phức điệu, hiện đại. Ông không chỉ sử dụng đắc địa đại từ
nhân xưng: nó, hắn, y, thị, gã mà còn có khả năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật, suy nghĩ và nói năng
bằng tiếng nói của nhân vật.
          Trong sáng tác của Nam Cao có sự hòa quện giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, có sự
chuyển hóa, trao đổi từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật. Trong “Chí Phèo” diễn ra mạch ngầm
đối thoại giữa người kể chuyện với Chí Phèo, giữa nhân vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Nam Cao để một đoạn cụ Bá
kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn ngữ đối thoại nội tại, một đặc trưng của
ngôn ngữ trong sáng tác Nam Cao.
          Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao còn thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi
đời thường, ngoài việc thực hiện chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách nội tâm nhân vật (Chí Phèo, Sống
mòn, Lão Hạc…).
          Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, tạo điều kiện đi sâu vào phân
tích tâm lý nhân vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm, bộc lộ ý
kiến cá nhân của nhân vật về vấn đề nhân cách con người, sáng tạo nghệ thuật (Lão Hạc, Đời thừa, Giăng sáng, Sống
mòn).
             Giọng điệu là một yếu tố quan trọng đối với một tác giả. Mỗi một nhà văn thường cố gắng tạo cho mình một
giọng điệu riêng, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình. Nguyễn Công Hoan nổi bật giọng điệu suồng sã, giễu cợt,
châm biếm sâu cay. Vũ Trọng Phụng là giọng mỉa mai, cay độc, đầy phẫn uất, Nguyên Hồng đầy yêu thương thống
thiết thì giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm Nam Cao là giọng buồn thương, da diết. Đó là âm điệu chủ đạo làm nên
tiếng nói nghệ thuật riêng, độc đáo của ông thể hiện sự cảm thông, thương xót của nhà văn trước những số phận nhỏ
bé, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, quẩn quanh không lối thoát (Dì Hảo, lão Hạc, Một đám cưới, Nước mắt,
Sống mòn…). Cùng là giọng buồn thương, da diết nhưng ở mỗi tác phẩm Nam Cao lại thể hiện một sắc thái giọng
điệu riêng. “Một đám cưới” là giọng buồn thương, chua xót ngậm ngùi, gợi lên nỗi niềm day dứt khôn nguôi về
những kiếp sống mòn mỏi, dật dờ trong bóng tối, trong “Điếu văn” là giọng điệu buồn thương ai oán khi kể về cuộc
đời nhục nhằn và cái chết tội nghiệp của một người bạn. Ở “Lão Hạc” là giọng buồn thương chua chát xen lẫn nỗi
xót xa, tội nghiệp trước cuộc đời bất hạnh, đáng thương như lão Hạc. Cùng là nhà văn có trái tim nhân đạo, hướng
ngòi bút mình vào những con người nhỏ bé, những số phận đáng thương trong xã hội cũ nhưng giọng điệu chủ đạo
của Nam Cao vẫn có âm sắc riêng khác với Thạch Lam. Trong truyện Thạch Lam ta bắt gặp giọng điệu nhỏ nhẹ,
điềm đạm, dịu dàng thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng với tất cả những gì bình dị của cuộc sống. Còn ở Nam Cao
trong cái giọng điệu buồn thương da diết ấy luôn chứa đựng những suy ngẫm triết lý sâu xa về cuộc đời, về con
người. Ông không chỉ xót thương những kiếp người nhỏ bé, những con người dưới đáy của xã hội mà luôn day dứt,
trăn trở, ráo riết truy tìm nguyên nhân của những tấn bi kịch không lối thoát của con người.
          Trong truyện của Nam Cao ta thường bắt gặp một giọng điệu có sắc thái tưởng chừng đối lập nhau. Ấy là giọng
khách quan lạnh lùng, tàn nhẫn bên ngoài mà cảm thông, thương xót bên trong. Bề ngoài Nam Cao tỏ ra lạnh lùng,
tàn nhẫn với cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo, nhà văn luôn giữ khoảng cách, tách sự đồng cảm của mình ra khỏi đối tượng
được miêu tả. Sử dụng giọng điệu này Nam Cao không tạo ra một giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông đã có đóng
góp lớn trong việc đa thanh hóa giọng điệu tự sự. Trong một tác phẩm cụ thể, mỗi đoạn, mỗi tứ vẫn có sự chuyển hóa
giọng điệu tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của Nam Cao. Trong mỗi tác phẩm của ông có sự pha trộn tài tình các
kiểu giọng điệu. Người đọc có thể nhận ra trên những trang viết của nam Cao giọng khách quan lạnh lùng, giọng cảm
thông thương xót, giọng buồn thương da diết, giọng triết lý…
          Có thể nói Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam có tư
tưởng, phong cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có những cách tân lớn lao, góp phần quan trọng vào tiến trình
hiện đại hóa nền văn học dân tộc.         
III. Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo
1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.
Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức
tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nam cao đã sử
dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của
ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật. Khung cảnh
thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi thức tỉnh: “ tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có
tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh quen thuộc của
cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc
sống lương thiện, đánh thức khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí
Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là
những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.
Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí
Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng
những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu
manh.
Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết, đặc tả diện mạo bên ngoài,
hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân
Nam Cao thường tạo nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của những nhân
vật này. Đó là bộ mặt “nặng chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tànnhang.
Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận. Là bộ mặt “vằn dọc vằn
ngang không thứ tự biết baonhiêu là sẹo” của Chí Phèo hay bộ mặt xấu đến mức ma chê qỷ hờn của Thị Nở. Đặc tả
những bộ mặt dị dạng, ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của nhân vật.
Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà
Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê
chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện ra đốm sáng lương tri còn sót lại
trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương
thiện. Thị Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị lại dở hơi nên cả làng
Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”. Một người phụ nữ như thế mà Chí
Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dung
bút pháp cường điệu để tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn. Khi xây dựng
nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý,
tính cách nhân vật mà ông tập trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những cuộc
vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành đối tượng chính của ngòi bút Nam
Cao.
          Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những
rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức
tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ,
giữa con người với con vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng của Chí
Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống dậy bản chất lương thiện trong con người
Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương
thiện.
Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa
dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của
mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say
đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một
đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được
làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng
“anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ trong “Chí Phèo” vốn là những con
người lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những
người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên
nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con
người bị tha hóa ấy.
2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự
thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự
nhiên, hợp lý, hấp dẫn.
          Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao
giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện như vậy gây ấn tượng và tạo sự
cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của nhân vật.
          Nam Cao cũng hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu mà phần mở đầu
và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm
bằng hình thức này hay hình thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu này
đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng. Đọc “Chí Phèo” ta cứ
mãi bị ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Hình ảnh ấy vừa có ý
nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa
như dự báo về sự xuất hiện của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu này
Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều
số phận như Chí Phèo. Ở truyện “Đời thừa” kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn, bế tắc,
không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng
gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò bản
thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối xử với vợ con như một kẻ vũ phu,
nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận, tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …
sau đó lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần luẩn quẩn,
không lối thoát của nhân vật Hộ.
3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để,
mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống.
Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên
một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.
“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.
1. ĐỀ BÀI 1:
Nói về quy luật phát triển của nghệ thuật, có ý kiến cho rằng: “Không có giới hạn cuối cùng nào cho sáng tạo. Văn
học cũng như mỹ học nói chung không ngừng vận động. Lịch sử văn học thực chất là lịch sử của những sự vận động
liên tục: Mỗi thời mỗi khác”.
Bằng những hiểu biết của mình anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đoạn văn bản có vận dụng kiến thức tác phẩm ngoài SGK của HS:
Ep-tu-sen-co thực có lí khi cho rằng: “Tự tử đối với đời người nghệ sĩ không phải là phát súng hay sợi dây thừng mà
chính là khi ngồi vào bàn viết không đem đến một cái gì mới mẻ”. Phong cách, sáng tạo là vấn đề sống còn đối với
những người đã chọn lấy nghiệp cầm bút. Anh là bản sao thành công của ai đó không đồng nghĩa với việc anh có thể
trở thành một nhà văn chân chính. Là địa hạt của sự sáng tạo, văn học không bao giờ chấp nhận những sáng tác lặp
lại một công thức dù công thức đó đã từng được áp dụng thành công ở nhiều tác phẩm trước đó. Kinh nghiệm người
đi trước chỉ là một cú hích, một sự học hỏi, còn bản thân sáng tạo nghệ thuật là phải làm ra cái mới, sáng tạo. Thử
hỏi, nếu cái khát vọng muốn được “cởi trói cho thi ca”, muốn được nói lên “tình thực”, tiếng nói riêng của những thi
sĩ Thơ mới thời kì đầu như Lưu Trọng Lư, Thanh Tâm, Phan Khôi, Thế Lữ,…không đủ mãnh liệt; thì liệu rằng trong
cuộc đấu tranh với thơ cũ, Thơ mới có chiếm thế thượng phong? Nhắc đến phong trào thơ Mới là nhắc đến một thời
kì nở rộ của những cá tính, những hồn thơ riêng biệt. Thời bấy, không có chỗ cho sự “rập khuôn”, sao chéo hay “chắp
nhặt những ý sáo rỗng”, chỉ có những ai đến với làng thơ bằng một lối đi riêng, để lại một dấu ấn cá tính mạnh mẽ,
độc đáo mới có thể tồn tại. Cùng viết về đề tài làng quê Việt Nam, nhưng nếu Anh Thơ rất thành công trong việc
khắc họa cảnh quê, Đoàn Văn Cừ tài năng trong việc khắc họa những phong tục làng quê thì Nguyễn Bính lại sở
trường khắc họa những mối tình quê âm thầm, mãnh liệt, bẽ bàng. Cái hồn dân tộc như đã mượn tiếng thơ của ông để
lên tiếng. “Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết…chúng mình với nhau”. Đọc câu thơ ta như cảm nhận
được thế giới tâm hồn của những chàng trai, cô gái thôn quê thời ấy. Thứ tình yêu chân thành, cái hồn nhiên, hạnh
phúc của đôi lứa khi biết yêu gửi gắm trong những câu chữ giản dị, không hề gọt giũa. Chất giọng chính là Nguyễn
Bính, một hồn thơ “chân quê” bậc nhất làng thơ Việt Nam. Không có cá tính riêng, nhà văn sẽ chỉ còn lại một mình
giữa sự thờ ơ và quên lãng của bạn đọc. Đó là sự sàng lọc nghiệt ngã của nghệ thuật, không riêng chỉ trong thời kì
nào mà đã trở thành một định luật, một nguyên lí khắt khe của lao động sáng tạo trong mọi thời.
 Bởi vậy, như một lẽ thiết yếu, hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”, hành trình đi tìm cho mình một
giọng nói riêng của người nghệ sĩ chưa bao giờ là một điều dễ dàng. Sáng tạo không chỉ cần có tài năng, phẩm chất
mà còn cần có cả sự dũng cảm. Vì sao vậy? Trước hết đó là một hành trình cô đơn, không ai có thể giúp anh tìm được
tiếng nói của mình ngoại trừ chính anh. Hơn nữa, thi sĩ thường đứng trước hai thử thách: hoặc trước mắt anh là một
khoảng trống, không được ai thấu hiểu, bị coi là lập dị, thậm chí ghét bỏ những “đứa con tinh thần” của anh. Hoặc
trước anh đã sừng sững những cây cổ thụ và công việc của anh là phải tìm ra một không gian riêng cho mình, một
màu sắc riêng để không bị lu mờ. Trường hợp của Vi Thùy Linh là một ví dụ như thế. Viết về đề tài tình yêu, với thơ
mới Xuân Diệu là một “ông hoàng”, với ấn tượng mạnh mẽ về màu sắc dục tính, với những ham hố, vồ vập, cuống
quýt. Đây là một thử thách đối với nhà thơ trẻ, nhưng với những sáng tác của mình Thùy Linh đã chứng minh được
cái nhìn mới mẻ so với thời trước đó:
“Qùy trong đêm em cởi mình
Sao anh không làm khô nước mắt em bằng đôi môi anh”.
Câu thơ đã gợi ra không gian riêng tư của đôi lứa một cách đầy táo bạo, “cởi mình” là khát vọng được dâng hiến,
khao khát thôn tính, chiếm hữu được đẩy lên đến đỉnh điểm. Hình ảnh người phụ nữ đầy chủ động, với khát vọng tình
yêu cháy bỏng đã mang lại sự thể nghiệm kì diệu giữa xúc cảm tinh thần và thân thể. Nói về nụ hôn, ta đã từng ngỡ
ngàng với tiếng thơ Xuân Diệu: “Em hôn anh suốt một giờ /Anh hôn em mấy cho vừa lòng đau”, nụ hôn của chàng thi
sĩ họ Ngô có cái cuồng nhiệt, còn nụ hôn trong những sáng tác của Vi Thùy Linh đã trở thành một biểu tượng của cái
tôi tôn thờ sự hòa hợp tự do, sự khoáng đạt trong tình yêu, nó xuất hiện dày đặc và đan màu. Sự bứt phá của thơ Linh
là ở chỗ ngôn ngữ thân thể được chuyển hóa vào thơ ca với tất cả sự náo nức, tự tin, thành thực, vấn đề thể xác trong
thơ Linh như là một sự hiện hữu thường trực, một yếu tố tất yếu của tình yêu. Nhưng nó bạo dạn hơn so với Xuân
Diệu, nó thể hiện cái khoái cảm trực diện, cháy bỏng một cách phóng khoáng mà không hề che dấu. Dẫu vậy những
câu thơ không đi theo chủ nghĩa phồn thực, dung tục. Dưới dạng thức của một câu hỏi “Sao anh không làm khô nước
mắt em bằng đôi môi anh” câu thơ đã thể hiện khao khát được chở che, được bảo vệ của người phụ nữ, “nước mắt” là
sự yếu đuối, là những tổn thương cần phải được xoa dịu. Và tình yêu dường như đã trở thành một liều thuốc tinh thần
“làm khô nước mắt em”. Từ đây tôi nhớ đến lời dặn của nhà thơ Ba-lan với những hậu bối của nhà văn Borges (nhà
văn vĩ đại của đất nước Arghentina): “ Jo’venes, matad a Borges” (Hỡi tuổi trẻ hãy giết Borges) Câu nói có vẻ như
đùa cợt ấy của Gombrowicz chứa đựng một thông điệp tối quan trọng đối với rất cả những ai thực sự muốn sáng tạo
cái mới. Hãy dũng cảm để vượt qua những “thần tượng” cũ để làm nên cái mới. Và khi sức sáng tạo đã hết, bạn phải
biết lùi vào quá khứ để thế hệ mới được tự do sáng tạo, đừng để cáo bóng của mình đè mãi xuống tương lai. Đó là
đạo đức của con người sáng tạo. Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh không có ai
tiếp tục. Nhưng cái chết đau đớn hơn của người nghệ sĩ là tên tuổi của anh đã trở thành một bức tường kiên cố mà
không một ai dám phá bỏ hay vượt qua.
(Bài viết của Vũ Dương, HS vận dụng kiến thức ngoài để thưc hiện thao tác bình luận và chứng minh cho đề bài)
 
2. ĐỀ BÀI 2:
Suy nghĩ về ý kiến sau của nhà thơ Thanh Thảo và làm sáng tỏ qua những trải nghiệm văn học của riêng mình:
“Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con
người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách có những vệt sáng, những nguồn soi
rọi vào những góc khuất của cuộc đời và con người”
Đoạn văn bản của học sinh:
Một tác phẩm văn học chân chính dẫu có đào sâu vào lòng hiện thực để phản ánh đời người một cách chân thật, cụ
thể nhất, cốt cũng là để “giúp con người sống ra người hơn, sống tốt hơn”. Trong tác phẩm của mình, người nghệ sĩ
bộc lộ những tình cảm, tư tưởng riêng tư, thầm kín, song, tất cả đều hướng đến thể hiện tư tưởng, khát vọng chung
của loài người: yêu những cái đáng yêu- cái đẹp, cái thiện và căm ghét những cái xấu, cái ác. Văn học giúp nuôi
dưỡng phần “người” trong mỗi con người để ta biết rung lên xúc cảm cao đẹp trước những số phận bất hạnh, khổ đau,
biết đấu tranh để thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác... Từ bao đời nay, đích đến của nghệ thuật luôn là cái đẹp của
con người và cuộc sống, như Nam Trân từng khẳng định: “Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo”. Văn nghệ mang trong
nó sứ mệnh cao cả của một kẻ dẫn đường cho độc giả đến với thế giới của cái đẹp, của chân thiện toàn mỹ, khiến cho
con người sống nhân đạo hơn, sống cho “ra người” hơn. Thế nhưng,văn chương nghệ thuật không giáo dục con người
theo cái lối giáo điều, khuôn ép, không phải là những bài giảng đạo đức khô cứng, bắt buộc con người phải tuân theo,
mà con đường tác động của văn thơ là con đường đi từ trái tim đến trái tim, thẩm thấu vào tâm hồn, suy nghĩ của bạn
đọc, để ta tự nhìn lại chính mình, hiểu mình và biết sống tốt đẹp hơn. Thơ văn đã mở ra muôn ngàn “vệt sáng”, những
nguồn soi rọi tâm hồn, dẫn lối con người trên hành trình tự hoàn thiện chính mình. Thi sĩ của tình yêu Xuân Diệu đã
mang đến cho chúng ta những thông điệp sống giản dị mà đẹp đẽ qua tâm trạng của đôi lứa yêu nhau trong “Tương tư
chiều”
Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em!
Thôi đã hết hờn ghen và giận dỗi
(Được giận hờn nhau, sung sướng bao nhiêu!)
Con người thời xưa bởi chịu ảnh hưởng của những giáo điều hà khắc trong lễ giáo phong kiến mà chẳng thể trực tiếp,
thẳng thắn bộc lộ cảm xúc, khát vọng, suy nghĩ về tình yêu của chính mình. Thì con người ngày nay lại có cái nhìn
cởi mở hơn, được tự do yêu và tận hưởng cuộc đời hạnh phúc, bởi thế mà thi sĩ Xuân Diệu- đại diện tiêu biểu của
phong trào thơ Mới với cái tôi cá nhân sâu sắc đã dám bày tỏ hết lòng mình trong thơ. Lời thơ thốt lên như tiếng kêu
than đau đớn, đầy tiếc nuối “thôi hết rồi”, “còn chi nữa đâu”.Trong phút giây cao độ của nỗi xót xa, cô độc ấy, người
thi sĩ bỗng nhận ra một điều thật giản dị mà sâu sắc, giống như quy luật tất yếu của tình yêu “được giận hờn nhau
sung sướng bao nhiêu”. Trong những phút giận hờn mà con người ta đều từng trải ấy, có mấy ai như thi sĩ họ Ngô
biết ngẫm lại để quý trọng, nâng niu. Trái tim Xuân Diệu luôn thường trực nỗi lo lắng về kiếp đời phù du, về thời
gian tuyến tính một đi sẽ không trở lại, nên với ông, mọi phút giây, mọi trải nghiệm trong đời, trong tình yêu như
những “hờn ghen và giận dỗi” đều là trân quý. Trước giờ, người ta vẫn mải miết kiếm tìm cho “tình yêu” một định
nghĩa, khái niệm cụ thể, mà đến khi bắt gặp những vần thơ đầy xúc cảm của Xuân Diệu, ta mới nhận ra rằng, thì ra
hạnh phúc của tình yêu là ở trong những “hờn ghen và giận dỗi” ấy nữa. Nếu không có tấm lòng nhiệt thành và khát
khao giao cảm với đời mãnh liệt, thì làm sao thi sĩ có thể viết được những câu thơ tuy giản dị mà lại giàu chiêm
nghiệm đến vậy. Nhà thi sĩ chỉ qua ba câu thơ giãi bày nỗi lòng nhưng lại mang đến cho người đọc những bài học
sống quý giá: Hãy biết trân trọng từng khoảnh khắc của tình yêu dẫu đó là phút đau đớn, tuyệt vọng, giận hờn hay
sung sướng…bởi những trải nghiệm, xúc cảm khi yêu làm nên gia vị cho đời người, có biết trân trọng tình yêu thì
cuộc đời mới trở nên  ý nghĩa. Có lẽ, thơ tình Xuân Diệu không phải là thơ của những người ưa suy ngẫm, triết lý
nhưng bản thân nó lại mang chứa những chiêm nghiệm sâu sắc của một con người từng trải, đã sống hết mình, sống
vồn vã với đời chảy trôi. Những thông điệp, quan niệm về lẽ sống, về tình mới mẻ của Xuân Diệu được gửi gắm qua
vần thơ tràn đầy xúc cảm mạnh mẽ đã khơi gợi sự đồng cảm, đồng điệu nơi bạn đọc, mà dần dần thấm sâu vào trái
tim, suy nghĩ để độc giả biết “sống ra người hơn, sống tốt hơn”. (Trích bài của Đoàn Trang)
 
3. ĐỀ BÀI 3
Tại sao “để nói được nhiều hơn về con người, nhà văn cần phải vừa nghi ngờ, vừa tin tưởng”? Hãy làm sáng tỏ ý
kiến.
Trích đoạn văn của học sinh:
Văn chương từ bao đời nay vẫn là tấm gương soi của mọi tâm hồn. Những tình cảm, suy tư của con người đều được
cái khác trên trang viết một cách chân thực nhất. Thế nhưng, điều mà văn học lớn hơn tuổi chính là đi tìm những hạt
ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người. Để làm được điều ấy, nhà văn cần phải vừa biết nghi ngờ, vừa biết tin
tưởng. “Nghi ngờ” và “tin tưởng” là hai trạng thái tinh thần diễn ra song song trong quá trình sáng tạo. Bởi mục đích
của văn học là phản ánh tâm hồn con người với tất cả những gì phức tạp, phong phú nhất. Nhà văn-  người mang
thiên chức ấy không thể có cái nhìn hơi hợt, xuôi chiều mà cần có cái nhìn đa chiều để hiểu sâu, hiểu thấu bản chất
con người. Sự nghi ngờ trong sáng tác chính là cách nhà văn đặt nhân vật trong những tình huống éo le, khó xử, buộc
nhân vật ở hoàn cảnh ấy phải bộc lộ phần sâu kín nhất của tâm hồn. Đây là thử thách với nhân vật, song cũng chính là
sự giằng xé trong tâm can của người nghệ sĩ. Sáng tạo chính là sự nhập thân, cũng giống như cách nhà văn đối thoại
với chính bản thân mình. Giây phút nghi ngờ là cơ hội để mở ra cuộc đấu tranh nội tâm giữa thiện và ác, tốt và xấu.
Nhưng suy cho cùng, cái đích của văn học hướng tới là chân -thiện - mỹ. Vì vậy, đằng sau những nghi ngờ của nhà
văn cũng là sự khẳng định chắc chắn về nhân cách cao đẹp của con người. Ngờ vực để tìm ra bản chất, tin tưởng để
bảo vệ phẩm chất đẹp đẽ ấy. Vậy mới nói, trong nghi ngờ luôn chứa đựng những trông mong, hy vọng và niềm tin
của người nghệ sĩ ở tâm hồn con người. Không ít lần trên trang viết Thạch lam, ta thấy được sự nghi ngờ và niềm tin
của nhà văn dành cho nhân cách con người. Cuộc chiến giữa thiện ác chỉ trong gang tấc mà nhà văn đã dựng lên
trong tác phẩm “Sợi tóc” đã đặt nhân vật Thành đứng trên ranh giới của cái tốt và cái xấu. Thạch lam tái hiện một
cuộc đấu tranh nội tâm giàu kịch tính khi để Thành do dự lấy cắp tiền của Bân hết lần này đến lần khác. Suy nghĩ “tôi
vẫn cứ tì mình lên trên thành giường, lưỡng lự, một lát giờ này sao lâu thế” cứ lần lượt trỗi dậy trong tâm trí Thành.
Có lẽ trong khoảnh khắc ấy, nhà văn đã thực sự ngờ vực về nhân cách của nhân vật khi lòng tham của con người che
lấp mất tình bạn đẹp đẽ. Thế nhưng, cho đến phút cuối cùng, Thạch Lam đã bảo vệ được niềm tin của chính mình.
Nhân vật Thành đã không bước qua ranh giới mong manh ấy, không để những cám dỗ của phần con cướp mất nhân
tính phần người. Hành động Thành ra về, sáng hôm sau tỉnh dậy vẫn cứ ngẩn ngơ nghĩ về việc tối hôm trước mà ngờ
như chỉ là một giấc mộng. Anh tự hỏi mình sao mình hãy còn là người lương thiện, không phải là kẻ ăn cắp ? Hành
động ấy là cái kết chiến thắng của cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng thời là lời khẳng định tâm hồn, nhân
cách cao đẹp của con người. Nhà văn Thạch lam đã đặt ra câu hỏi: “Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới
của hai bên” như để chất vấn lương tâm của con người. Mỗi chúng ta, nếu như là nhân vật Thành trong tác phẩm, liệu
có còn giữ được thiên lương trong sáng ? Và câu hỏi tự vấn của nhân vật: “Tôi có tiếc đã không lấy hay không, hay
bằng lòng mình bị đã chống giữ lại được ý xấu?” đã nói lên sự phức tạp của tâm hồn con người. Như Nguyễn Minh
Châu đã nói: Trong mỗi con người luôn luôn tồn tại phần con và phần người, rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác
quỷ... Sứ mệnh của văn chương là hướng con người tới thế giới chân - thiện - mĩ. Dẫu nhà văn viết về cái xấu, từng
ngờ vực về nhân cách con người thì suy cho cùng cũng là để khẳng định chắc chắn về cái thiện, để ca ngợi những
điều tốt đẹp trong cuộc sống. Chỉ khi biết “nghi ngờ” và “tin tưởng”, người nghệ sĩ mới có thể tạo nên những tác
phẩm văn chương chân chính, mới tìm được “những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”.
(Trích bài viết của Nguyễn Hồng)
 
4. ĐỀ BÀI 4
Có ý kiến nhận xét: “Tiếp nhận đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn để cảm nhận cái thông
điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến cho người đọc văn học”.
Với kinh nghiệm đọc sách của bản thân, anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Trích bài viết của học sinh:
Nhà văn, anh  phải như chàng trai Samet đi nhặt những “hạt bụi quý” trong cuộc đời mênh mông vô tận và những
người đọc phải thật sâu sắc và hết mình mới thấy được bông hồng vàng giá trị tác giả gửi gắm . Franz Kafka- người
được mệnh danh là Dan-te của thế kỉ 20 đã chắt lọc “vị muối của đời” để viết lên tác phẩm  Hóa thân gây sức ám ảnh
sâu sắc với độc giả. Giật mình, hoang mang và hoài nghi là những cảm xúc đầu tiên chúng ta cảm thấy khi lần đầu
bước vào vùng đất của hóa thân. “Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến
thành một con côn trùng khổng lồ.” Tại sao trong một cuộc đời bình thường mà đột nhiên con người ta phải “hóa
thân”? Câu chuyện không dài, nhưng cứ khiến ta phải băn khoăn và đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mạch chuyện rất dễ
để tóm tắt, rằng Gregor biến thành côn trùng, anh từ một người kiếm tiền chính trở thành gánh nặng cho gia đình, dần
dần mọi người không còn công nhận anh nữa và coi anh là con quái vật. Những người thân yêu nhất cũng ghê tởm và
khiếp sợ Gregor. Thế nhưng, khi càng tiếp xúc và hiểu sâu hơn về tác phẩm, trong tôi, và chắc chắn cả những bạn đọc
khác nữa đều gợi lên một cảm giác đau lòng và thương tiếc đến kì lạ. Anh biến thành côn trùng, không phải do bệnh
tật, mà có lẽ vì bản thân chính anh đã trốn tránh hiện thực khắc nghiệt phải mệt mỏi kiếm tiền, phải sống là một
Gregor Samsa như mong ước của mọi người. Ta chợt nhận ra rằng, cuộc hóa thân không hề đơn giản và đơn thuần
như cách nhà văn miêu tả vào một “sáng tỉnh giấc băn khoăn” của Gregor. Sự chế ngự của đồng tiền, nghĩa vụ của
gia đình và nỗi sợ hãi, chán ghét với việc làm đã dẫn đến việc biến đổi nhân hình của Gregor. Kafka đã khéo léo lồng
ghép những cảm xúc, triết lý đằng sau con chữ, buộc người đọc phải tự tìm tìm kiếm và khám phá. Những khó hiểu
ban đầu đã dần được thế chỗ bằng cơn bão cảm xúc đang đến với trái tim bạn đọc. Tác giả như đang đưa ta trên một
hành trình kì lạ mà có lẽ, chính ông cũng không biết điểm đến là ở đâu. Mỗi người với một nhận thức, cách cảm nhận
khác nhau lại mang một suy nghĩ riêng về cuộc đời của gia đình Samsa. Nhưng có lẽ, ai ai cũng ám ảnh bởi hình ảnh
Gregor “côn trùng”, cùng thái độ bình thản kì lạ khi biến đổi về nhân hình của anh. Có lẽ, áp lực đè nặng trên vai
Gregor khi ấy rất lớn. Anh muốn nghỉ ngơi, anh tìm mọi cách để trốn tránh hiện thực khắc nghiệt đang chờ đón.
Khi người đọc sống với Hóa thân bằng cả tâm hồn, ta thấy mình dường như được “hóa thân” với nhân vật chính trong
truyện. Không chỉ là những xúc cảm của tình thương nữa, trong mỗi chúng ta có một khao khát được tham gia thay
đổi diễn biến mạch truyện. Các nhân vật được đưa vào một bối cảnh đầy bất ngờ, nhưng cách họ đón nhận lại rất thản
nhiên. Tôi rất muốn cho người nhà của Gregor hiểu được nỗi khổ của anh, giúp họ suy nghĩ tích cực hơn với hình
dạng côn trùng, để rồi biết đâu đấy, sẽ có một ngày anh trở lại làm Gregor của ngày xưa? Khi ấy mọi người trong gia
đình cùng nhau kiếm tiền và san sẻ gánh nặng, gia đình sẽ lại hạnh phúc. Nhưng sau tất cả, Kafka đã chọn để “quái
vật”, “gánh nặng” Gregor chết đi và bố mẹ cùng em gái anh “nhẹ nhõm xuống phố”. Đây thật sự là một kết truyện
gây ám ảnh. Đến cùng đâu mới là ý nghĩa của sự hóa thân? Phải căng sự thay đổi và biến mất của Gregor không có
ích gì? Một lần nữa, cảm xúc băn khoăn lại đến với bạn đọc. Nhà văn không tả nhiều, nhưng những lời kể của ông lại
có sức gợi mãnh liệt. Giá trị đầy ắp trong từng câu, từng từ. Chỉ có những độc giả chân chính, sống với tác phẩm
“toàn tâm, toàn trí, toàn hồn” mới khai mở được thông điệp thẩm mĩ ấy. Gregor biến mất, nhưng anh đã thay đổi suy
nghĩ của cả gia đình, họ chăm chỉ làm việc và kiếm tiền để trang trải cuộc sống. Và hơn hết, anh thay đổi nhận thức
của của chính chúng ta- những người đang đọc câu chuyện, thức tỉnh một chân lý về giá trị, áp lực cuộc sống để ta
sống đẹp và sống có ích hơn với đời. Đôi khi ta cũng cần biết vì chính bản thân mình, sống vì mình. Đừng để bản
thân quá mệt mỏi để rồi phải trốn tránh hiện thực, phải “hóa thân” biến đổi nhân dạng. Đọc những trang văn của
Franz Kafka, ta giật mình tự vấn lương tâm, có phải liệu ta đang quá vô tâm hời hợt với cuộc đời của chính mình?
(Trích bài viết của Bùi Giang)
 
5. ĐỀ BÀI 5
Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao). Anh/chị hãy bình luận và làm
sáng tỏ ý kiến.
Trích đoạn bài viết của học sinh:
Nguyễn Công Hoan là một gương mặt đại diện tiêu biểu cho trào lưu vănhọc hiện thực phê phán Việt Nam. Ông đã
ghi dấu trong lòng bạn đọc với bao tác phẩm kiệt xuất. Bằng giọng văn tỉnh lạnh, nhà văn đã làm nổi bật bức tranh
hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Những trang văn của ông đã khiến “Văn học không phải chỉ
nói chuyện văn chương mà thực chất là chuyện đời.” (Tố Hữu) Truyện ngắn “Cái vốn sinh nhai” là một trong số đó.
Truyện đã làm nổi bật thực trạng đói nghèo của người nông dân trong xã hội cũ. Khác với các nhà văn khác đi sâu
phản ánh người lao động nghèo khổ, ta thấy hiện lên trong trang văn của ông là số phận của những người ăn mày thật
sinh động và đầy chân thực. Ở “Cái vốn sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan đã lấy bối cảnh tại Phố Nối - một nơi mà thời
đó có thể coi là dễ kiếm ăn.Chính việc lựa chọn không gian  cụ thể này đã khiến văn ông càng đậm đặc tính hiện thực
khách quan. Xã hội ấy hiện lên với việc kiếm ăn bằng sự bố thí, van lạy người khác. Ông dường như đã hòa mình vào
cuộc sống của những người nghèo khổ nơi phố Nối để rồi phác họa nên những hình ảnh chân thực của những kiếp
người nghèo khổ “những bà lão lào”, những thằng bé cụt lúc nào cũng phải luôn miệng “lạy cụ, lạy ông, lạy bà, thí bỏ
cho con ăn cơm bát cháo.” Chỉ với vài ba dáng điệu ấy ta cũng có thể hình dung ra cuộc sống của người dân trước
cách mạng tháng Tám. Một cuộc sống cơ cực,nghèo nàn vì thiếu miếng ăn. Thử hỏi nếu là kẻ đứng ngoài hiện thực
để viết, liệu những trang văn của Nguyễn Công Hoan có còn chân thực mà cảm động đến vậy.
Nhà văn cũng rất tinh tế khi xây dựng hình tượng “nó”- một kẻ không tên để làm nổi bật rõ nét hiện thực cuộc sống
lúc bấy giờ. Ta đau đớn khi đọc đến đoạn nhân vật nó quyết tâm liều mình “nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay
ngả người ra, người rơi đánh bộp xuống đất, nằm còng queo trên cỏ chỉ kêu được một tiếng”. Có thể nói chỉ một chi
tiết này thôi ta đã cảm nhận được sự khốc liệt của hiện thực. Vì có miếng ăn, con người ta phải quyết định đánh đổi
bằng nỗi đau thể xác. Vì chỉ khi trở thành một kẻ ăn mày không lành lặn, nó mới được coi là ăn mày thực sự.  Hành
động quyết tâm nhảy xuống của nó là một lần đánh liều và có lẽ là quyết định đau đớn nhất mà nhân vật nó chọn cho
cuộc đời mình. Nhưng quyết định ấy lại khiến nó có kiếm sinh nhai. Có thể nói, đọc đến đây ta chợt nhận ra rằng
hoàn cảnh cũng đã quyết định đến số phận con người, đói khổ đã dồn con người ta đến đường cùng. Nó khiến nhân
vật nó rằng dù có những hôm trời mưa rét, nó quằn quại vì đau lưng và đầu gối nhưng như vậy lại khiến “người ta
động lòng thương” và khiến nó “vui đời lắm”. Ở đây niềm vui của con người đánh đổi bằng khổ đau. Dường như tác
giả đang sống trong một xã hội mà đói khổ đã trở thành bóng đen đè nặng lên vai con người, khiến họ phải chấp nhận
một cuộc đời đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn. Ông sống trong một xã hội mà vì định kiến ăn mày phải mù lòa hoặc
cụt chân đã khiến những người lương thiện nghèo khổ từ bỏ đi hình hài mình. Đọc những trang văn này, ta thấy tác
giả không dửng dưng đứng ngoài quan sát mà thực sự đã “hòa mình vào cuộc sống của nhân dân”. Để rồi khám phá
ra bộ mặt xã hội và nỗi đau tột cùng của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, hòa mình vào cuộc
sống của nhân dân không phải chỉ giúp người đọc nhận thức hiện thực mà còn cho thấy tấm lòng nhân đạo của người
cầm bút. Nhà văn tuy dùng giọng điệu, ngôn ngữ có phần sắc lạnh nhưng thực chất là xuất phát từ lòng yêu thương,
sự cảm thông sâu sắc cho phận người nghèo khổ. Những trang văn của Nguyễn Công Hoan viết về hiện thực để rồi
cải tạo hiện thực, hướng con người đến  giá trị chân- thiện- mĩ trong cuộc đời. Văn học quả thực là tấm gương phản
ánh hiện thực, mà khi tiếp xúc với nó ta thấy thêm hiểu đời, hiểu người.
(Bài của Nguyễn Trang)
 
6. ĐỀ BÀI 6
Nhận định về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “đó là một kỳ quan nghệ thuật bé nhỏ nhưng có sức chấn động phi
thường”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết về truyện ngắn, hãy làm sáng tỏ.
Trích bài viết của học sinh:
Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, truyện ngắn luôn đúng với tên gọi của nó: ngắn, cô đọng, súc tích nhưng đặt ra
được những vấn đề có ý nghĩa khái quát về hiện thực, nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất. “Mẹ
điên” của Vương Hằng Tích là một truyện ngắn như thế. Đó là một câu chuyện ngắn gọn mà cảm động dù chỉ có hơn
ba ngàn chữ. Cốt truyện của “Mẹ điên” khá đơn giản xoay quanh cuộc đời người phụ nữ bị điên. Nhưng chính vì yêu
cầu của thể loại này cho nên ở đây truyện chỉ miêu tả một khía cạnh, một lát cắt đời sống nhân vật- đó là lúc cô gái
điên gặp một gia đình mà sau này gia đình ấy là nhà chồng của mình. Không gian ở đây cũng rất hạn chế trong một
gia đình nhỏ, nghèo đói tại một ngôi làng không hề được tác giả nhắc tên. Nhân vật trong “Mẹ điên” cũng tương đối
ít, chỉ quẩn quanh người mẹ không bình thường, Thụ, bố Thụ, bà nội,... Khác với thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn
thường chỉ chứa đựng một vài biến cố, sự kiện, xung đột cũng không nhiều, Trong truyện ngắn của Vương Hằng
Tích, sự kiện, biến cố chỉ bắt đầu từ việc cô gái điên đển ngôi làng ấy. Sau đó là tình tiết cô được người ta đưa về để
làm một nhiệm vụ duy nhất là sinh ngươì “chống gậy”. Truyện khép lại bằng tình tiết, biến cố cuối cùng khi mẹ điên
ngã xuống vực chết ì mấy trái đào. Tác phẩm này tuy ngắn gọn nhưng lại chứa đựng “” sức chấn động phi thường”.
Tác giả không để nhân vật nói nhiều nhưng chỉ qua vài chi tiết đã bộc lộ rõ tính cách của mình. Người mẹ điên không
có cơ hội để có tiếng nói nhưng mỗi lần nhân vật ấy cất tiếng là một lần ta cảm phục trước tình mẫu tử thiêng liêng.
Sau khi sinh Thụ, mẹ cất tiếng nói đầu tiên:’’ Đưa, đưa tôi”. Khao khát được ôm vào lòng đứa trẻ mình mang nặng đẻ
đau để truyền cho nó hơi ấm là biểu tượng thiêng liêng của mình mẫu tử. Dù bị điên nhưng người mẹ ấy vẫn ý thức
sâu sắc về thiên chức của mình sau khi sinh ra đứa trẻ. Khi Thụ bị bà nội đánh, người mẹ ấy đã ra sức can ngăn: “
như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: “ đánh tôi, đánh tôi!”.
Người phụ nữ ấy tưởng chường điên nhưng thực chất “rất người”. Chị muốn bảo vệ con, yêu thương con dẫu cho gia
đình chồng không cho phép. Tình mẫu tử đã khiến người mẹ điên trở nên rất bình thường đẻ rồi có những hành động
không có khả năng xảy ra ở những người điên khác. Chỉ bằng vài chi tiết ấy thôi nhưng ta có thể thông thấu tư tưởng
nhân văn và tính triết lí của tác phẩm: Dù mẹ có điên thì mẹ vẫn có quyền yêu thương, chăm sóc đứa con mình sinh
ra. Qua đây ta như thấm thía bài học về tình mẫu tử và cách đối nhân xử thế trong cuộc đời. Truyện ngắn nhưng dung
lượng mà nó chứa trong mình là rất lớn, khiến người đọc sau khi đọc xong có thể nhìn thấy nhiều vấn đề, nhiều khía
cạnh của một vấn đề cũng như rút ra được bài học cho riêng mình. Đó mới chính là thành công và truyện ngắn “Mẹ
điên” đã làm được điều đó.
(Bài viết của Nguyễn Mai)
7. ĐỀ BÀI 7:
Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2017 – 2018; HS Nguyễn Ngọc Diệp (Giải Nhất  kỳ thi HSGQG 2017 – 2018),
trong phần chứng minh, đã lựa chọn và vận dụng một số dẫn chứng là văn bản văn học ngoài chương trình, trong đó
có tác phẩm Cao lương đỏ (Mạc Ngôn) từng đạt giải Nobel văn học. Dưới đây là phần vận dụng của học sinh được
chính em tự ghi chép lại theo trí nhớ:
Bàn về một “tác phẩm tốt” mà ở đó sự sống được “chắt lọc, nâng lên, tập trung cao độ” và được “nâng cao lên đôi
cánh tư tưởng” của nhà văn, kết tinh đủ chất mặn mòi của cuộc sống thì “Cao lương đỏ” của Mạc Ngôn (Trung Quốc)
quả thực xứng đáng có một vị trí trong lòng độc giả. “Cao lương đỏ” được hoàn thành năm 1998 và ngay năm ấy
được trao giải nhất của hội nhà văn Trung Quốc cùng với nhiều giải thưởng văn học lớn của thế giới. Trong tác phẩm
này, Mạc Ngôn đã trở về, vượt qua truyền thống, đã không ngần ngại khi đưa mọi sự vui, buồn, những điều tốt đẹp
nhất và cả những cái xấu xa nhất của hiện thực cuộc sống lên trang văn của mình. Dưới ngòi bút của Mạc Ngôn, cuộc
đấu tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc được phản ánh chân thực, sinh động như hiển hiện ngay trước mắt
độc giả. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản với kế hoạch 4 bước: đánh chiếm Đông Bắc Trung Quốc, độc
chiếm Trung Hoa, làm chủ Châu Á, bá chú toàn cầu đã dốc toàn lực càn quét những vùng chiếm đóng, gieo rắc tội ác
trên khắp đất nước Trung Quốc. Đó chính là nguồn cảm hứng, đề tài để Mạc Ngôn phản ánh tội ác quân Nhật và cuộc
đấu tranh chống Nhật của nhân dân thời kì bấy giờ. Tội ác tày trời ấy của phát xít Nhật được nhà văn tái hiện là chính
sách bắt phu. Ông miêu tả số lượng người bị bắt đi phu rất lớn chỉ riêng ở các làng Cao Mật, Bình Độ, huyện Giao đã
bắt tổng cộng “40 vạn lượt người, đắp một con đường cái Giao Bình”. Người phu bị bắt làm việc vất vả, nặng nề
thậm chí nguy hiểm tới tính mạng nhưng bị bọn Nhật bắt phải cống nạp vật phẩm, nếu không sẽ bị hành hạ tàn nhẫn.
Cảnh bọn đốc công đánh đập dân phu là một chi tiết hiện thực có sức ám ảnh mạnh mẽ trên trang văn này: “Đứng ở
bên bờ Nam, chừng là đốc công, dùng chiếc roi mây màu đỏ sẫm chọc vào đầu ông La Hán, máu trên đầu chảy
xuống làm ướt cả lông mày”. Đó đều là những sự thật lịch sử được Mạc Ngôn ghi lại trung thực, sinh động khiến bất
kì bạn đọc nào cũng như đang chiêm ngưỡng một thước phim quay chậm đầy cảm xúc. Sự sống, hiện thực được nhà
văn tâm huyết chắt lọc ở những biểu hiện cao nhất, chi tiết ám ảnh nhất của đời sống khốn khổ, cùng cực nhân dân
Trung Hoa trong chiến tranh. Cũng trong “Cao lương đỏ”, cuộc sống sinh hoạt của người dân không hiện lên một
cách trực diện nhưng qua lời của người kể vẫn giúp độc giả hình dung ra bao cảnh sống đói nghèo, cực khổ ở vùng
đất Cao Mật. Cả cuộc đời họ gắn liền với mảnh ruộng mà quanh năm vẫn không đủ ăn, thức ăn đơn sơ đạm bạc
không có gì khác ngoài “cây cao lương”- một loại cây giống như kê trồng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Đời sống
nhân dân vốn cực khổ nay dưới tội ác của bọn Nhật càng thêm điêu đứng. Không chỉ phá hoại kinh tế, chúng còn
thẳng tay giết hại đồng loại không thương tiếc. Những câu văn miêu tả khi tư lệnh Từ dắt tay “bố tôi” đi trong cánh
đồng cao lương đã lột tả tội ác của chúng với thái độ xót xa, căm giận cao độ: “hơn ba trăm xác đồng bào nằm ngổn
ngang, người mất tay, kẻ cụt chân, máu chảy thấm cả một dải cao lương rộng lớn, biến đất đen dưới gốc cao lương
thành một lớp bùn nhầy nhụa...” Đọc những dòng ấy, có bạn đọc nào không xúc động, không bị tác động mạnh mẽ?
Không cuộc chiến tranh nào không có tội ác nhưng để nói được thứ tội ác đáng căm ghét, ghê tởm và nhiều đau đớn
khắc sâu đến thế thì chỉ có ở tác phẩm của nhà văn tài tâm, nặng lòng với quê hương, lịch sử như Mạc Ngôn. Từng
chi tiết hiện thực ấy đều có tác động sâu mạnh làm dậy lên lòng căm ghét quân xâm lược, lòng thương cảm với đồng
bào, lòng nhân đạo của con người dù không trực tiếp chứng kiến những sự thật lịch sử trong quá khứ. Đó cũng chính
là tư tưởng nhân văn, nhân đạo của nhà văn Trung Quốc này. Không chỉ vậy, trên những trang viết “Cao lương đỏ”,
Mạc Ngôn còn tái hiện được cả khát vọng tự do trong tình yêu của con người Cao Mật, con người Trung Quốc dưới
những định kiến, gò bó của xã hội cũ. Thông qua cuộc đời của nhân vật nữ chính Đái Phượng Liên phải lấy người
đàn ông mình không yêu, lại mang bệnh sẵn trong người ở độ tuổi cô khao khát yêu đương nhất, rạo rực tuổi trẻ nhất.
Cuộc trốn thoát của Phượng Liên cùng anh phu kiệu khoẻ mạnh (sau là tư lệnh Từ Chiếm Ngao) trong ngày lên kiệu
hoa là bước “nâng cao đôi cánh tư tưởng” của Mạc Ngôn. Ba ngày hạnh phúc trong rừng cây cao lương đã cho họ
một đứa con trai. Suốt cuộc đời Phượng Liên gắn bó với mảnh đất Cao Mật ấy. Đó là nơi
bà sinh ra, lớn lên rồi trở thành anh hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Đó là nơi chứng kiến cuộc đời
nổi loạn của bà, chứng kiến những kỉ niệm tình yêu đẹp nhất và cũng là nơi chứng kiến cảnh bà ngã xuống lúc qua
đời. Nhân vật phụ nữ này đã mở đường cho một lối sống cá tính, tự do, tự chủ cuộc sống trong xã hội còn nhiều định
kiến nặng nề. Số phận và khát khao của Đái Phượng Liên cũng chính là những khát khao phá bỏ luật lệ của con người
mà Mạc Ngôn hướng tới. Trung quốc là một đất nước tồn tại rất lâu trong chế độ phong kiến nên rất nhiều những
định kiến, hủ tục mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến con người mãi về sau. Quan niệm trọng nam khinh nữ là một trong
những tập tục tiêu biểu của Trung Hoa phong kiến, nó đeo đẳng dai dẳng, áp đặt lên những người phụ nữ chân yếu
tay mềm trong xã hội. Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị coi thường và không có quyền tự quyết
định hạnh phúc của chính mình. Và, tiếng nói của Phượng Liên hay là tiếng tư tưởng nhân văn của tác giả đã thay
người phụ nữ đòi lại quyền sống, quyền tự do yêu đương và hạnh phúc đáng có của mình. Đó chính là sự điển hình
hoá, phổ quát hoá hiện thực của nhà văn cùng với sự “cất cao đôi cánh tư tưởng” mà Mạc Ngôn đã thể hiện rất tài
năng trong tác phẩm vĩ đại này. Suy đến cùng, tư tưởng mà anh muốn cất tiếng trong đứa con tinh thần của mình đều
chỉ vĩ đại khi nó vì con người, vì cái nhân bản của con người mà thôi. Vậy mới thấy, “tác phẩm tốt”, mang chất mặn
cuộc sống không thể đi con đường xa rời hiện thực và con đường sao chép đơn thuần hiện thực. Nó phải là hiện thực
mang tên sự sáng tạo và tư tưởng của “nhà văn tốt”.
(Nguyễn Ngọc Diệp – Bài giải nhất HSG văn QG 2017 – 2018)

You might also like