You are on page 1of 42

Câu 1: Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu?

Phân tích sự sáng


tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên.
Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu ?
1. Sự ra đời của ĐCS là một tất yếu dựa vào bối cảnh quốc tế và trong nước.
a. Bối cảnh quốc tế:
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ
nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột
nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân dân tộc
thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới
trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế
giới chuyển sang phạm trù cách mạng XHCN và nó dần trở thành một vấn đề mang tính thời
đại. Từ đây, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của CM t10 Nga chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở
thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho
các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thức đẩy sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đôi với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có
vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập ĐCS VN.
b. Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược VN và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến
nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc
ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chúng ngang nhiên tiến hành những cuộc
khai thác thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt. Chính sách thống trị
của thực dân Pháp là chuyên chế về chính trị, kiềm hãm về kinh tế khiến cho xã hội VN có
những biến đổi lớn.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Đó là một chính sách chuyên chế
điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người VN, mọi
quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia VN thành ba kỳ (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột
tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức
thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông,
bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít,
ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, nô dịch,
sùng Pháp, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa VN và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu để
dễ bề phục tùng sự cai trị của chúng.
2. Tiền đề lý luận và thực tiễn
a. Về lý luận

Giữa thế kỷ XX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh. Yêu cầu
bức thiết lúc bấy giờ phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai
cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản.

Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Marx – Lenin ra đời, là học thuyết, là nguyên tắc, là quy
luật chung của lịch sử để đi lên chủ nghĩa xã hội, là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất. Học thuyết Marx – Lenin đã chỉ rõ: Phải thành lập ĐCS ở các nước tư
bản chủ nghĩa với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng đấu tranh nhằm lật đổ
chế độ tư bản, lật đổ áp bức, bóc lột và tiến lên xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa; xã hội không còn áp bức, bóc lột, không còn bất bình đẳng và bất công,
con người được giải phóng hoàn toàn và được tạo mọi điều kiện cần thiết để tự do phát triển
những tiềm nằng của bản thân. Kể từ khi chủ nghĩa Marx – Lenin được truyền bá vào VN,
phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng
vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở VN. Khi ấy, Nguyễn Ái Quốc đã vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng VN, sáng lập ra
ĐCSVN.
b. Về thực tiễn
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược VN, từng bước thiết lập chế độ thống trị
tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân ở VN. Dưới quá trình khai thác thuộc địa triệt để
của thực dân Pháp đã làm cho xã hội VN có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc VN với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là
nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của
chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời
nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng VN đặt ra, cần được giải quyết.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm
hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Vì vậy,
ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm
1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân,
phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi
nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo
và đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu
nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội VN. Khi ấy, cách mạng nước ta đứng trước
sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của
dân tộc ta lúc bấy giờ.
Giữa lúc cách mạng VN đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày
5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước. Từ
1919 -1929, thông qua hoạt động chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập
Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin vào VN. Khi chủ
nghĩa Marx – Lenin được truyền bá sâu rộng vào VN đã dẫn lối cho phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của
giai cấp vô sản lãnh đạo. Mặc dù có ba ĐCS (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) lần lượt ra đời nhưng đều hoạt động riêng rẽ
nên yêu cầu bức thiết lúc đó là phải hợp nhất thành một Đảng duy nhất. Vì vậy, từ ngày 6-l
đến ngày 7-2-1930, Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng thành ĐCS VN; thông
qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Như vậy, ĐCSVN ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân VN và hệ tư tưởng Marx –
Lenin đối với cách mạng VN. Sự kiện ĐCSVN ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con
đường phát triển của dân tộc ta.

Phân tích sự sáng tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên.

Một là, sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa
phản đế và phản phong.

Nếu C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những người đặt nền móng cho việc hình thành
lý luận về giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong thời đại mới, thì Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là những người đầu tiên đã thành công trong
việc vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó vào điều kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến.

Ngay từ khi mới ra đời, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo,
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) đã nhận thấy yêu cầu khách quan, bức
thiết nhất của xã hội thuộc địa như Việt Nam là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp lên cao như ở các nước tư bản phương Tây. Đối
tượng trực tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ chưa phải là chủ nghĩa tư
bản và giai cấp tư sản nói chung. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chủ trương đó đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử
Việt Nam. 

Khi chiến tranh thế giới lần thứ Hai bùng nổ, liên tiếp trong ba hội nghị: lần thứ Sáu
(11-1939), lần thứ Bảy (11-1940), và đặc biệt là Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, trên cơ sở phân tích chuẩn xác những biến
chuyển của tình hình thế giới và Đông Dương, đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược với chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc và Việt gian tay sai để giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất”. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp
hành Trung ương khẳng định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là
một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”(1). Vấn đề ruộng đất
mà hội nghị bàn đến chỉ là chia lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản
quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không phải của địa chủ
nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Vì thế, “Trong khi
tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá thời... Không nên nói đánh đổ Nam
triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản
quốc”(2).

Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Đảng tiếp tục được khẳng định
trong Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943): “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc
giải phóng cần kíp và quan trọng hơn. Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách mạng
đặng mau hoàn thành nhiệm vụ ấy trước... Do đó khẩu hiệu thổ địa cách mạng không thể đề
ra lúc này”(3).

Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng (2-1943) đều xác định nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược của cách mạng tư sản dân
quyền ở Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho
dân cày. Đó là chủ trương đúng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như yêu cầu tập hợp
lực lượng cách mạng cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, chủ trương đó đã có thời
kỳ vấp phải sự phản ứng và phê phán gay gắt từ phía Quốc tế Cộng sản và những người cùng
chung chí hướng. Song bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ
Chí Minh đã bình tĩnh, vượt qua các rào cản của những tư tưởng và khuôn mẫu giáo điều,
kiên định với mục tiêu đã định. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và tập hợp được sức mạnh và lực
lượng của toàn thể quốc gia dân tộc, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đó chính là biểu hiện rõ nhất của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, cũng như góp phần làm phong phú lý luận đó từ điều
kiện cụ thể ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Hai là, sáng tạo trong tập hợp lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc.

Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và đi
sâu bàn về liên minh công nông, coi đó là nguyên tắc của cách mạng vô sản, thì Nguyễn Ái
Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lại cho rằng lực lượng cách mạng là toàn dân, tuy nhiên vị
trí vai trò của từng giai cấp, bộ phận lại không giống nhau. Theo đó, bộ phận trung tâm trong
lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là liên minh công nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Trung thành với lý luận Mác - Lênin về liên minh công nông và vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân, song việc đánh giá vai trò của giai cấp nông dân trong khối liên
minh ấy của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam có những nét mới rất sáng tạo.
Nếu chủ nghĩa Mác- Lênin nhấn mạnh hạn chế của giai cấp nông dân ở tính chất tư hữu, thì
Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta chỉ nêu hạn chế của họ là không có khả năng tự giải phóng,
không có khả năng lãnh đạo cách mạng; đồng thời, nhấn mạnh mặt tích cực của nông dân,
nhất là khả năng đấu tranh chống áp bức giai cấp và áp bức dân tộc của họ. Nguyễn Ái Quốc
cho rằng: nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong
dân tộc. Vì thế, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là lực lượng chủ công của
cách mạng.

Nếu chủ nghĩa Mác - Lê nin coi tiểu tư sản, trí thức là tầng lớp trung gian trong cách
mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lại coi tầng lớp này là đồng
minh gần gũi của công nhân và nông dân. Cương lĩnh năm 1930 khẳng định: “Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”,
đồng thời khẳng định tiểu tư sản là một trong những động lực của cách mạng...”.

Trọng trí thức là một chính sách được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm quan tâm
và được Đảng nhận thức ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn trong quá trình vận động cách mạng
giải phóng dân tộc ở nước ta. Sự có mặt của tiểu tư sản, trí thức; vai trò ngày càng tích cực
của tiểu tư sản trí thức, sinh viên, học sinh thông qua các cuộc đấu tranh rất sôi nổi ở các đô
thị trước và trong Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng minh cho sự nhận định đúng đắn
của Hồ Chí Minh và Đảng ta về năng lực hoạt động cách mạng của những đội ngũ này.

Trong khi lý luận của C.Mác coi toàn bộ giai cấp tư sản là đối tượng của cách mạng vô
sản thì V.I.Lênin là người đầu tiên nhận thấy và đánh giá cao vai trò của giai cấp tư sản dân
tộc. Cả V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều nhận rõ hạn chế lớn nhất của giai cấp này là tính
không triệt để trong cách mạng. Cùng với ưu điểm là tính dân chủ, thì Hồ Chí Minh còn nhấn
mạnh nhiều hơn đến yếu tố dân tộc trong tầng lớp này. Thời kỳ 1936-1939, Đảng đã chủ
trương tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, “không những chỉ có nhân dân lao động mà
gồm cả giai cấp tư sản dân tộc”. Đặc biệt, tới Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), đã xác định tư
sản dân tộc đứng trong lực lượng “hậu bị quân của cách mạng”.

Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã phân biệt rõ đặc điểm và thái độ của từng bộ phận trong giai cấp địa chủ
phong kiến, thấy rõ những yếu tố tích cực để lôi kéo họ về hàng ngũ cách mạng. Vì thế, chủ
trương của Đảng ngay từ đầu đã xác định: bộ phận đại địa chủ phong kiến mà quyền lợi hoàn
toàn gắn bó với đế quốc, đứng hẳn về phía phản cách mạng thì phải kiên quyết đánh đổ. Còn
lại, bộ phận tiểu, trung địa chủ, và số ít đại địa chủ mà thái độ còn đang “lừng chừng”, do dự
thì phải tranh thủ họ, lôi kéo họ về phía cách mạng để chống kẻ thù dân tộc hoặc “ít lâu làm
cho họ đứng trung lập”.

Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng
trong cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa nửa phong kiến, mà cụ thể là ở Việt
Nam không hề bó hẹp trong khuôn mẫu của lý luận, mà là toàn thể dân tộc, đoàn kết thành
một khối thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng (bao gồm các giai cấp, tầng lớp có lòng yêu
nước, có tinh thần dân tộc). Đó là một đóng góp vừa sáng tạo, vừa thực tế.
Tóm lại, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc
và tính nhân văn sâu sắc với tư tưởng cốt lõi “Độc lập – Tự do” cho dân tộc.

Câu 2: Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền
của ĐCS Đông Dương (1939-1945), liên hệ với việc nắm bắt thời
cơ hiện nay của Việt Nam.
1. Yếu tố thời cơ:
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và Chủ tịch HCM, dân tộc VN đã thực
hiện thành công CMT8, đánh đổ thực dân, phong kiến; thành lập nên Nhà nước VN Dân chủ
Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời
cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Trước hết, sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị thua to
trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II nên phải gửi
công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén,
tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, HCM và Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay
sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được thêm một tin rất quan trọng,
đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung
ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn
thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, HCM đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây,
từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng, HCM và Trung
ương Đảng quyết định tổng khởi nghĩa ngay lúc đó vì: phát xít Nhật đã gục theo phát xít Đức;
quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng Minh
sắp kéo vào Đông Dương. Nếu không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật mà để
đến khi quân Đồng Minh kéo vào, nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật thì nhân dân
ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân
Đồng Minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ Cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp
nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã
chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu
sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các
thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách
mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Cuối cùng, sự kiện ngày 2/9/1945, Chủ tịch HCM đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”
nhằm tuyên bố với toàn thể nhân dân VN và với thế giới: Nước VN Dân chủ Cộng hòa, độc
lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước VN Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính
thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước
khi quân Đồng Minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho
quân Đồng Minh tiếp quản. Vì vậy, việc HCM tiếp tục khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ
chức quốc khánh sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa CMT8 thành công nhằm mục đích ngay lập
tức khẳng định chủ quyền của nhân dân VN trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới
danh nghĩa quân Đồng Minh chứng tỏ Người có cái nhìn xa trông rộng, biết nắm bắt và tận
dụng thời cơ. 
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong CMT8 là:
Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào miền
Nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân
Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng Minh đến tước vũ khí; Ngụy quyền tay sai bỏ trốn
hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ
thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của CMT8/1945 chứng tỏ Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch HCM, có tầm
nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng
chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là
sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo
trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.

2. Liên hệ:

Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến khách quan
mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng hội
nhập, bắt đầu từ kinh tế, rồi dần là văn hóa, thể thao… cho đến chính trị. Việt Nam đã gia
nhập ASEAN, trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta
trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Bên cạnh đó, hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế
giới nhưng cũng có thể tạo ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy mô
đầu tư, họ đã và đang chọn điểm đến là Việt Nam. Nước ta có thể nắm bắt cơ hội này để thúc
đẩy phát triển đất nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và hấp dẫn để “lót ổ
đón đại bàng” như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo.

Câu 3: Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ
mới (1945-1954).
Ngay từ những năm đầu thập niên 20 (thế kỷ XX), Hồ Chí Minh đã sớm nhận định về
thời cơ cách mạngở Đông Dương. Người viết: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời
cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”(1). Hồ Chí Minh
đã sớm nhìn thấy lực lượng và thời cơ cách mạng tiềm ẩn ở Đông Dương - được hình thành
từ sự áp bức, bóc lột và khủng bố dã man của chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái
việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(2). Nhận định của Hồ Chí Minh
khi đó không được nhiều người trong Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đồng tình. Bởi vì, tại
thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, chủ nghĩa đế quốc đang thống trị toàn cầu, ánh sáng cách mạng
chỉ vừa mới lóe lên ở châu Âu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga; tương lai của
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dường như còn đang chìm
trong đêm tối.
Trong bối cảnh và điều kiện lịch sử như thế mới thấy sự nhạy bén trong nhìn nhận và
phán đoán tài tình của Hồ Chí Minh khi phân tích, đánh giá về tình hình cách mạng thế giới
và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Đó là sự nhận định, phán đoán dựa trên cơ sở
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; thể hiện tính logíc biện chứng và dự báo biện chứng và về
sự vận động cách mạng mang tính quy luật: “Có áp bức dân tộc, có đấu tranh cách mạng giải
phóng dân tộc”. Người đã sớm suy đoán chính xác về thời cơ cách mạng, không thụ động chờ
thời cơ, mà tích cực, chủ động tạo ra thời cơ cách mạng, bắt đầu bằng việc thành lập một
chính đảng, từ đó lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng, để tạo nên thời cơ và tình thế cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, thời cơ cách mạng và tình thế cách mạng có liên quan trực tiếp và
biện chứng với nhau. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn cách mạng thế giới và trong
nước, để dự báo về thời cơ cách mạng. Từ dự báo thời cơ để chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đón
thời cơ và ngược lại, tích cực xây dựng, phát triển lực lượng để tạo ra thời cơ và chờ đón tình
thế cách mạng.
Soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tháng 9-1939, khi Chiến tranh thế giới thứ II
nổ ra và lan rộng khắp châu Âu, tình hình thế giới và phong trào cách mạng trong nước có
những chuyển biến mau lẹ. Tháng 11-1939, Đảng ta đã họp Hội nghị Trung ương 6 và đưa ra
những nhận định hết sức quan trọng về tình thế cách mạng, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo
chuyển hướng chiến lược cách mạng. Hội nghị Trung ương 6 đã phân tích sâu sắc tình hình
thế giới và tính chất chiến tranh trong giai đoạn đầu là đế quốc chiến tranh; dự báo khả năng
phát xít sẽ chuyển sang tiến công Liên Xô do đó chiến tranh đã thay đổi về tính chất, dự báo
tiền đồ cách mạng thế giới là rất sáng lạn. Hội nghị Trung ương 6 nhận định: “Những thảm
trạng do đế quốc chiến tranh gây nên sẽ làm cho trình tự cấp tiến hóa và cách mệnh hóa quần
chúng hết sức mau chóng... Lòng phẫn uất sẽ sôi nổi, cách mệnh sẽ bùng nổ”(3). Trên cơ sở
phán đoán thời cơ khởi nghĩa, giành độc lập dân tộc đang đến rất gần, Hội nghị chỉ rõ nhiệm
vụ chủ yếu của cách mạng lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa đế quốc
thực dân Pháp và phong kiến tay sai, chuẩn bị những điều kiện cần thiết tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương 7 được tổ chức tại Đình Bảng (Bắc Ninh) để đánh
giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới. Trên cơ sở phân tích sâu sắc về tình hình chính trị thế
giới và những tác động, ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II đối với cách mạng
Việt Nam, Hội nghị nhận định thời cơ của cách mạng Việt Nam đang đến gần: “Một cao trào
cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng:
lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc
lập”(4). Đảng ta xác định nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này là tích cực xây dựng lực lượng, chờ
thời cơ. Năm 1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp, Thủ đô Pari thất thủ rơi vào tay quân
Đức, còn ở Việt Nam, phát xít Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, hai tên đế quốc Nhật -
Pháp tranh nhau miếng mồi Đông Dương.
Từ sự phân tích khoa học về diễn biến cuộc chiến tranh giữa phe phát xít và Đồng minh,
tương quan lực lượng cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định thắng lợi cuối
cùng sẽ thuộc về phe dân chủ; thời cơ giải phóng dân tộc đang đến rất gần, tình thế cách
mạng sắp xuất hiện:
“Ấy là dịp tốt cho ta
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông” (5).
Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương 8 được triệu tập dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Hội nghị đánh giá: tình hình thế giới, tình hình trong nước sẽ có những biến chuyển
theo chiều hướng Liên Xô và các nước Đồng minh sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát xít, chính
quyền của phát xít Nhật lung lay, đổ nát; nhân dân ta bị bọn thực dân, phát xít xô đẩy vào
thảm họa diệt vong, sẽ bước vào đường khởi nghĩa vũ trang và giành thắng lợi bằng tổng
khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”(6). Trên cơ sở xác định quyết tâm phải giành cho được tự do,
độc lập, Đảng đã tích cực xây dựng lực lượng cách mạng, chủ động sẵn sàng đón thời cơ, nổi
dậy khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Để hoàn thành được
nhiệm vụ đó, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (tức Việt
Minh), đưa ra Chương trình Việt Minh, kêu gọi nhân dân giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, tích cực chuẩn bị lực lượng, đứng về phe Đồng minh chống phát xít.
Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính quân Pháp. Lúc này, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đang họp và nhanh chóng đưa ra những nhận định về thời cơ khởi nghĩa đang đến
rất gần: “những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi”; và ra
Chỉ thị: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng quyết định phát động cao
trào kháng Nhật cứu nước. Đến tháng 7-1945, phát xít Đức, Ý đã thất bại trên chiến trường
châu Âu. Ở châu Á, phát xít Nhật đang trên đường thảm bại. Đảng ta khẳng định tình thế
cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc nghìn năm có một: “Giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”(7). Mặc dù lãnh tụ Hồ Chí Minh đang ốm nặng giữa rừng Tân Trào, nhưng
Người vẫn chỉ thị: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do,
độc lập”(8). Cả dân tộc ta theo tiếng gọi của Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong
gần một tháng, tất cả các địa phương trong cả nước đã giành được thắng lợi, thành lập chính
quyền nhân dân.
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng
Tháng Tám là Đảng ta đã chọn đúng thời cơ “nổ ra đúng lúc”. Đó là lúc 16 nghìn quân Anh
chưa vào miền Nam và khi 20 vạn quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật;
quân Nhật bại trận mất tinh thần, hoang mang, rệu rã ngồi chờ quân Đồng minh đến tước vũ
khí; còn chính quyền bù nhìn tay sai Trần Trọng Kim thì bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền
cách mạng. Do chọn đúng thời cơ nên sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến
tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, ít đổ máu và thành
công triệt để. Đồng thời, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là do lãnh tụ Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã nhanh chóng và kịp thời chuyển hướng chiến lược cách mạng. Sự
chủ động và nhạy bén đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng, đường lối, quan điểm đúng đắn,
trí tuệ tập thể của Đảng. Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 là minh chứng sinh
động vềsự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn
khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ giành thắng lợi; chứng tỏ tầm nhìn thời đại của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

//Câu 4: Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn
(1959-1964).

Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế
chung của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường lối đúng
đắn, hợp lí. Trải qua nhiều lân nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 15, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
Trung ương Đảng nhận định: "Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm
hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan
hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất
nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị
quyết xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng thay vì
chỉ đấu tranh dân chủ và chính trị như trước đó, chuyển từ giữ gìn lực lượng sáng thế tiến
công. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã
mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã
giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà. Miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân
miền Bắc; mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng của
cả nước. Kinh tế, văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc ngày
càng được cải thiện, lực lượng quốc phòng của miền Bắc ngày càng được vững mạnh thì sẽ
tăng thêm sức mạnh của cách mạng và uy thế chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng
và tính tích cực cách mạng của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.

Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong
kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay đang
tiếp tục phát huy ý chí quật cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt Nam. Phong
trào yêu nước của nhân dân miền Nam càng được giữ vững và phát triển thì một mặt càng
tăng cường lực lượng cách mạng để đánh bại chính sách nô dịch, gây chiến và chia cắt của
Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống trị tàn khốc của chúng, thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. 

Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố và phát triển lực lượng để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền
Nam. Quá trình hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước là
quá trình tích cực phát huy tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời
cũng là quá trình tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ ở miền Nam để đấu tranh
chống Mỹ - Diệm, tiến lên làm thất bại các chính sách của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn
thống trị Ngô Đình Diệm, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà.

Câu 5: Phân tích mối quan hệ giữa CT-QS-NG trong kháng chiến
chống Mỹ (1965-1975).
Ngay từ đầu, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu phối hợp ba mặt trận quân sự-chính trị-ngoại
giao để chống Mỹ, cứu nước. Thông thường trong chiến tranh, ngoại giao chỉ có mặt khi kết
thúc chiến tranh để đi đến ký một hiệp định ghi lại mức thắng bại của mỗi bên. Trái lại, trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao của chúng ta có mặt từ đầu đến cuối, luôn luôn
có vai trò, vị trí, nhiệm vụ nặng nề. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành
Trung ương (khóa III), tháng Giêng 1967 về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến
công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã khẳng định: “Chúng
ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng địch, thế của ta là
thế mạnh...”.
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng Tư 1969 ghi rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao tự nó phải tăng cường và xây dựng lực lượng,
vừa phát huy thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường. Trên chiến trường,
ta đánh thắng được keo nào thì ngoại giao phải phát huy, khuếch trương trên thế giới, đồng
thời phải phục vụ và phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp
đưa cuộc chiến đấu đến thắng lợi.
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao có hai nhiệm vụ lớn.
Nhiệm vụ thứ nhất là tăng cường hậu phương quốc tế của ta và làm suy yếu hậu phương của
địch. Đối với hậu phương quốc tế của ta, ngoại giao có nhiệm vụ thực hiện khẩu hiệu của
Đảng đề ra là thêm bạn bớt thù, tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, từ những đồng minh chiến
lược đến những người chỉ đồng tình với ta một điểm nào đó. Như trên đã nêu, chúng ta chống
đế quốc Mỹ là nhằm mục tiêu chung của loài người, của thời đại, từ mục tiêu cao là chủ
nghĩa xã hội, cho đến mục tiêu thấp là hòa bình, độc lập dân tộc. Ai đồng tình với ta trên cơ
sở chiến lược là đi tới chủ nghĩa xã hội đều là bạn của ta. Ai chỉ đồng tình với ta dù chỉ là trên
cơ sở chủ nghĩa nhân đạo, ta cũng coi là bạn. Ta tranh thủ kết bạn với mọi người từ mức thấp
tới mức cao, theo đúng phương châm thêm bạn bớt thù của Bác Hồ.
Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao là giải quyết vấn đề ta thắng địch thua. Lãnh đạo ta
nhìn vấn đề với đầu óc rất sáng suốt và thực tế. Với một địch thủ lớn mạnh hơn hẳn như Mỹ,
cuộc đấu tranh của ta chống Mỹ không thể chỉ khi nào ta buộc đối phương phải quy hàng mới
kết thúc. Phải có khái niệm thật rõ thế nào là ta thắng, thế nào là địch thua thì mới xác định
được giải pháp. Ta thắng tức là khi nào ta bảo vệ được độc lập tự do, giải phóng được đất
nước của ta. Mỹ thua tức là Mỹ phải rút hết quân, chấm dứt xâm lược, phải cam kết tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam.
Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói khi tiếp đại
diện Ý La Pira và Mario Frimicherio ngày 11/11/1965 rằng: “Chúng tôi sẵn sàng rải thảm đỏ
và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi. Chúng tôi và nhân
dân chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với nhà cầm quyền Mỹ và nhân dân Mỹ”. Ngoại giao phải
làm sao đạt được thực chất vấn đề như vậy. Để thắng một kẻ thù cỡ lớn như thế mà ta lại là
một nước nhỏ thì phải có ngoại giao đóng góp vào đó, thực hiện phương châm thắng từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phải có ngoại giao để giải quyết vấn đề ta thắng địch
thua.
Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng vững chắc về
chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta.Trước một kẻ thù giàu
mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ biến trên thế giới như vậy, điều tối cần
thiết đối với ta là phải tạo lập được một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ
để tập hợp dư luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.
Nhằm mục đích đó, việc tuyên truyền vận động quốc tế của ta trong thời gian đầu
hướng vào bốn nội dung: thứ nhất là nêu cao chính nghĩa của Việt Nam, thứ hai là nêu cao
quyết tâm giành độc lập của Việt Nam, thứ ba là nêu cao thiện chí hòa bình của Việt Nam,
thứ tư là tố cáo tội ác chiến tranh và vạch trần tính chất phi nghĩa của xâm lược Mỹ.
 Trong thời gian Mỹ leo thang chiến tranh, chiến sự còn ở thế giằng co quyết liệt, nhiệm
vụ ngoại giao chủ yếu vẫn là tăng cường hậu phương quốc tế của ta, làm suy yếu rối loạn hậu
phương quốc tế của địch.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng Mười hai 1965)
của Đảng nhận định lúc đó “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp về Việt Nam”, song
đã tính đến lúc nào đó sẽ đi vào vừa đánh vừa nói chuyện, lấy đàm để hỗ trợ cho đánh, lấy
đánh để ép địch đàm phán nhằm chuyển biến so sánh lực lượng. Ngay từ những năm 1965-
1967, ta chưa tính đến đàm phán nhưng đã chuẩn bị việc này. Rút kinh nghiệm của Hiệp định
Genève 1954, ta làm cho các nước hiểu và đồng tình với ta: vấn đề Việt Nam phải do nhân
dân Việt Nam giải quyết trực tiếp với Mỹ.
Thời gian này, hoạt động dùng trung gian “tiến công hòa bình” của Mỹ rất sôi nổi.
Trong một cuộc họp ở Nhà Trắng, Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận
đấu ăn giải. Tay phải của ta nắm lực lượng quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình.
Mỗi khi đưa quân đội lên phía trước thì cũng phải đưa các nhà ngoại giao lên phía trước. Các
tướng lĩnh muốn tôi đưa ra nhiều nhiều hơn nữa. Họ muốn tiến xa hơn. Song Bộ Ngoại giao
cũng phải cung cấp cho tôi thêm cái gì nữa.” Có tới hàng chục nước đủ các loại: các nước
Không liên kết, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, rồi Nhật Bản, Bắc Mỹ, đến các nhân vật như
Tổng thư ký Liên hợp quốc U Thant, Giáo hoàng, các trí thức, nhà báo có tên tuổi,... làm
trung gian cho Mỹ. Thông thường, dùng trung gian chỉ là một phương thức có tính chất quá
độ để mở đường cho đàm phán trực tiếp giữa hai bên đối địch trong một cuộc tranh chấp.
Nhưng với Mỹ, việc dùng trung gian đã được xem như một thủ đoạn nhằm những mục đích
khác như: thu thập tin tức về ý đồ chiến lược hoặc về lập trường đàm phán cụ thể đối phương,
tung ra những tin thất thiệt làm cho đối phương chập chững, mơ hồ về ý đồ của Mỹ; bắn tin
tức thúc ép, đe dọa hoặc ve vãn dụ dỗ; xoa dịu phản ứng quốc tế đối với Mỹ và chuyển sức ép
sang đối phương; gây hiểu lầm chia rẽ giữa đối phương với bạn bè của họ.
Để thực hiện những mục đích khác nhau này, Mỹ đã dùng đủ các loại trung gian. Trước
năm 1967, Mỹ dùng thủ đoạn này khá nhiều. Làm trung gian cho Mỹ không những là các
nước đồng minh của Mỹ và các nước thế giới thứ ba mà còn cả nước xã hội chủ nghĩa nữa;
không những là nhân vật trong chính giới các nước mà cả những nhân sĩ, trí thức, v.v.. Mỹ
không những dùng trung gian rất mạnh trong thời gian chưa có cuộc đàm phán Paris, mà cả
khi đã tiếp xúc với ta rồi họ vẫn tiếp tục dùng trung gian. Thủ đoạn này thâm độc ở chỗ các
nước trung gian khi nhận đề nghị của Mỹ đã phải đồng tình hoặc đồng tình một nửa với ý
kiến của Mỹ. Nếu họ truyền đạt ý kiến đó cho ta mà ta bác đi, như vậy có nghĩa là ta bác cả
Mỹ lẫn nước trung gian, và mặc nhiên Mỹ tranh thủ được nước đó, chia rẽ được họ với ta.
Thời gian 1965-1966 và dai dẳng tới cuối năm 1967 đầu 1968, Mỹ chủ yếu dùng loại
“trung gian thân tín” – các nước châu  u và đồng minh của Mỹ - vừa để gây sức ép bên ngoài
với ta vừa để thu thập tình báo chính trị, đánh giá tình hình tại chỗ, giúp cho Mỹ tài liệu nhận
tin tổng hợp về khả năng và ý chí của ta. Mỹ còn thông qua Liên Xô dùng “mồi kinh tế” lôi
kéo được bốn nước Đông  u làm trung gian. Khác với việc dùng các nước phương Tây làm
trung gian, Mỹ dùng các nước xã hội chủ nghĩa làm trung gian với mục đích phân hóa mặt
trận đoàn kết xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam, gây sức ép từ bên trong phe xã hội chủ
nghĩa đối với ta hòng tác động đến ý chí của ta và giảm viện trợ cho ta.
Còn ta kiên trì giải thích cho những nước định làm trung gian hiểu âm mưu, ý đồ, tội ác
của Mỹ, tại sao ta chưa đàm phán. Ta cảm ơn họ ủng hộ Việt Nam, và cho họ biết đến lúc
chín muồi ta sẽ trực tiếp đàm phán với Mỹ. Bằng cách đó, ta không còn phải lo vừa đối phó
với Mỹ, vừa phải giải thích cho bạn mà bạn vẫn hiểu ta, tránh được âm mưu chia rẽ, lừa bịp
của Mỹ, tăng cường hậu phương ta và chuẩn bị cho đàm phán sau này. 

Câu 6: Vì sao trong quá trình xây dựng CNH-HĐH thời kỳ đổi mới,
ĐCSVN lại gắn vấn đề CNH-HĐH với vấn đề bảo vệ môi trường ?
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan
rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị
suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường. Đây
chính là kết quả của quá trình Công nghiệp hóa nhanh ở nước ta. Trước tình hình đó, ngày 15-11-
2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội
dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã
thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với
quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa
thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển
năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với
môi trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn đều gây ô
nhiễm môi trường. CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong
quản lý đô thị. Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi
cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó,
các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến
kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi
trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ
XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng
và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ
yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Nhà
nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử
dụng các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực,
điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh
vực công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo
thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng
tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp,
chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC,
trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện
một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn;
iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ
công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.)
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng
phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là
do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài
hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ
hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc
kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã
hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt
động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Câu 7: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là
bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng? Vì sao ĐCSVN lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu?
(Tại sao ĐCSVN xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa?)
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh
tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và
tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực
tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ
đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư
duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống
động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... Thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân
tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc
gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" 
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay
Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là: (1) Là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; (2) Do nhân dân làm chủ;
(3) Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc;(5) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; (6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; (7)Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; (8) Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù
hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là
một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng
vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế
không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển,
mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ
thể. 
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng
như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm
tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới về tư duy
lý luận của Đảng, là sự sáng tạo độc lập của Đảng:
Tiến lên XHCN là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử VN, và quá trình đó nhất thiết
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển dưới nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
trong những phương hướng cơ bản để thực hiện thành công quá trình cách mạng ấy.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của thị trường được
sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân.”, còn tính định hướng XHCN được thể
hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Với nền kinh tế thị trường thì Đảng đã nhìn nhận sự phát triển về tư duy như sau:
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội hóa, sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền quan
trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá hình sản xuất và trao đổi,
các trường tố như cung – cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân
bố các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động…
phục vụ cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ bổ sung các nguồn
kinh tế. Trong một nền kinh tế, khi các nguồn kinh tế, được bổ sung bằng trường nguyên tắc
thì đó là trường kinh tế.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng đến nay nó mới thể hiện rõ nhất
trong tư bản chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa tư bản, nó đạt đến mức độ cao đến mức chi phối
toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Song, chủ nghĩa tư bản không sản xuất kinh
tế hàng hóa. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở độ cao không phải là
sản phẩm riêng của tư bản chủ nghĩa mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức,
vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế trên cơ chế lấy thị trường làm cơ sở để
phân bổ các nguồn lực kinh tế. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại,
tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể
liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì
vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo
con dường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn
đến phủ định kinh tế thị trường.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ
sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng
hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết thừa
kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới
ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường
làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản
của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn
tiêu chí:
Về mục tiêu: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
nhằm giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người cùng lao động chính đáng, giúp đỡ
người khác và cùng vươn lên.
Về phương hướng: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và
mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều
tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu
cầu nền kinh tế phải đuợc dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ
yếu.
Về định hướng xã hội: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã
hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Về định hướng phân phối: Trong lĩnh vực phân phối, định hướng XHCN được thể hiện
qua ché độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội. Đồng thời, để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta
còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước Pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này
thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh té thị
trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một lựa chọn tất yế
của ĐCSVN; thể hiện bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng. Là một sinh viên, em
luôn tích cực học tập, rèn luyện bản thân, tuyên truyền với mọi người xung quanh để góp
phần xây dựng và phát triển đất nước.
Câu 8: Tại Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI , ĐCSVN khẳng định
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững của đất nước”.
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.” Quan điểm ấy được thể
hiện qua những nội dung cơ bản:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội.
Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người
VN, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương lai của
những giá trị phổ quát chân - thiện - mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng ta cần
phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn
hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa VN bắt kịp
sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi
thời, xa lạ với văn hóa. Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi
trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn
hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn
định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu
hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định:
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu
“tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi
trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích
hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa
vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó
chính là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa. Văn hóa với tư cách là đời sống tinh
thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế
của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy
vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự
khác vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên, thậm
chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ
coi trọng yếu tố văn hóa, con người thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển. Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước
thấm sâu trong văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái
tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó
của mỗi dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân
sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi
mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa. Trong điều kiện của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát
triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặc dù yếu tố này
phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố
quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng
tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã
hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa
đến sự phát triển bền vững.
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn
lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ
không được sự dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai khác
chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác
dụng vào trong phát triển.

//Câu 9: Quan điểm của Đảng về vị trí vai trò của văn hóa trong
phát triển bền vững đất nước.
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này
được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.Quan diểm này một lần nữa khẳng định
vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển
nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ
và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua
các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và
hướng đến tương lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng
ta làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở
thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng
ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ
trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,
làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay
và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa. Đảng ta coi văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững
đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế
độ ta. 
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một
xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục tiêu
của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá,
nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh
thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn
hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát
triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong
văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì
nó là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu
cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người,
xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên
nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội
tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn hóa,
con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng
không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của
mỗi dân tộc là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng
minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh
tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan
niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều
kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có
hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát
triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó
tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa
đến sự phát triển bền vững. 
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng
tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng
đồng. Chỉ có nguồn lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt,
các nguồn lực khác sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí
tuệ và năng lực khai khác chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng
không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát triển
Tóm lại, theo Đảng ta, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,xã
hội.Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới. Xây
dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Nhà nước quản lý, nhân
dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Câu 10: Vì sao trong thời kỳ đổi mới, ĐCSVN phải đưa ra lựa chọn
phương châm đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa?
1/ Hoàn cảnh ra đời:
a/ Tình hình thế giới:
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều biến động. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế thế giới. Xu thế
chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển
cũng dần đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa vàkhu
vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao của các nước, trong đó có
các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu
những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ hoàn toàn. Trật tự thế giới hai
cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc hình thành trật tự thế giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc gia không chỉ
bó hẹp ở mặt quốc phòng, quân sự, chính trị mà phải là tổng thể của sự phát triển tất cả các mặt: kinh
tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trong đó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong những năm cuối
thế kỷ XX đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất, đưa loài người từ xã hội công nghiệp
sang xã hội hậu công nghiệp và đang bước vào ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức.
Chính sự phát triển mạnh mẽ này, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầm
mức mới, bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lý, lan ra toàn cầu.
Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước và dần hình thành mạng lưới kinh tế đa
chiều.
b/ Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thành
chính sách đổi mới:
Trước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhập quốc tế và thiết
lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịp với xu hướng quốc tế mà VN vẫn
trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sự kiện Campuchia”, các nước ASEAN và một số nước khác
thực hiện cấm vận chúng ta; Mỹ đã ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập, lại
bị các thếlực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn
cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa
(đứng đầu là Liên Xô) là bài học quý giá cho chúng ta. Đảng nhận định rằng sự sụp đổ đó không phải
là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị
biến dạng, mang nhiều khuyết tật. Từ đó, Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có cả
mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảođộc lập, tự chủ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, những
đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về
đường lối và chính sách đối ngoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về mọi mặt. Đại hội VIII của Đảng
chủ trương “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”.
Quá trình phát triển tư duy lý luận:
Trong đường lối ngoại giao thời kỳ đổi mới của Đảng không thể không nhắc đến chủ trương đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trong những chủ trương quan trọng, thể
hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm và tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói, việc đa
phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ
trương khác như hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế.
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơn thuần theo tiêu
chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn
và thù; có khuynh hướng đánh giá một cách chủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà
không nhận thấy chủ nghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với các nước trong khu
vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá
tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiến cho quan hệ đối ngoại của VN bị bó hẹp trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa và trong khu vực.
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế ra ngoài các nước
xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ những điều kiên thuận lợi mới về hợp tác
kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng
tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách
này, tháng12/1987, Đảng đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới,không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng khác, trong đó
có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đây là những chủ trương mở đầu cho quá
trình đa phương hóa, đa dạng hóa cácquan hệ đối ngoại.
Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII (6/1992) về
chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơ bản hoàn chỉnh đường lối, chính
sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đố ingoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc; đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, một trong những việc chúng ta
cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền
độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế
và hội nhập quốc tế. Độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng hóa và
đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trên trường quốc tế.
Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các mâu thuẫn bằng
biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Chúng
ta mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội và ý thức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo dục,
y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quan hệ ngoại giao của Quốc
hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển
quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các nước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng
sâu, ổn định, bền vững với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực
lượng ảnh hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹ phát
triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượng cách mạng và tiến bộ,
những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
(6/1996) quyết định đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang
phục vụ phát triển kinh tế là chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX (4/2001) nâng lên một mức cao hơn,
chủ trương “VN sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển”. Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa, Đảng đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từng vấn đề và từng thời điểm
cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta không đơn giản phân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định
một cách biện chứng hơn: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với VN đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và
hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối
tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan
trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định
đối tương đối tác tùy theo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.

2/ Đánh giá:
Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao của Đảng, chúng ta
đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một số hạn chế.
a/ Khó khăn:
Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúng đắn, thể hiện sự
trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên có không ít những khó khăn, thử thách mà chúng ta
phải đối mặt.
Một là, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về an ninh trong nước
cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từ bên ngoài, các lực lượng khủng bố,
cực đoan…
Hai là, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta cònlúng túng, bị động, dễ
bị chi phối, áp đặt.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như
sự cạnh tranh của hàng ngoại, hàng kém chất lượng…
Cuối cùng, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào VN nhiều yếu tố văn hóa không
lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người Việt, thậm chí còn mang tính chất phản
động
Bên cạnh đó còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa khi tiến hành mở rộng quan hệ ngoại giao,
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảng phải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra
các chính sách, đường lối tiếp theo.
b/ Thành tựu:
Thành công phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoại giao với
hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọi phương diện; từ chính trị,
kinh tế đến an ninh, quốc phòng. Đến nay, VN đã có quan hệ ngoại giao khoảng 189/193 thành viên
LHQ quốc gia, có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực
của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng
lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị
thế của VN trên trường quốc tế được nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ
trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. VN đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến
xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước lớn như TQ, Mỹ, EU (LMCÂ).
Nhìn chung, quan hệ giữa VN với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. VN hiện nay dưới
chính thể Cộng hòa XHCN đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước thuộc tất cả các châu lục và
có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân
tộc, chúng ta đã đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc (nhiệm kỳ 2008-2009). Sau đó, VN liên tục và đồng thời được các nước tín nhiệm bầu vào các
cơ quan quan trọng như: thành viên Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Hội đồng Kinh tế -
Xã hội (ECOSOC) (nhiệm kỳ 2016-2018), thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA) (nhiệm kỳ 2013-2015) và là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IAEA trong 2
năm 2013-2014. VN đã đảm nhiệm vai trò thành viên của ECOSOC nhiệm kỳ 2016-2018 và trong
cuộc vận động ứng cử vào HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021 thì VN đã đắc cử Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021). Đặc biệt khi dịch COVID-19 bùng phát
toàn cầu, VN đã đề nghị tổ chức cuộc họp giữa VN và tám nước thành viên không thường trực khác
của HĐBA LHQ (9/4/2020) nhằm thống nhất và phát huy vai trò trong việc huy động phối hợp quốc
tế nhằm ứng phó đại dịch COVID-19 của HĐBA LHQ. Trong suốt gần 43 năm là thành viên có trách
nhiệm của Liên hợp quốc trên cả ba trụ cột hòa bình – an ninh, phát triển và quyền con người.
Bên cạnh ngoại giao chính trị, hoạt động ngoại giao văn hóa VN cũng có những bước phát triển
mới, góp phần nâng cao vị thế VN trên trường quốc tế. Trong diễn đàn văn hóa đa phương rộng lớn
như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), ngoại giao văn hóa VN
đã phát huy vai trò tích cực, trong đó có những thành tựu đáng ghi nhận như: ký kết Bản ghi nhớ hợp
tác giữa VN và UNESCO (giai đoạn 2016-2020); đảm nhiệm một số vị trí quan trọng như thành viên
Ủy ban Di sản thế giới (nhiệm kỳ 2013-2017), Phó Chủ tịch Chương trình Ký ức thế giới khu vực
châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP) (nhiệm kỳ 2014-2018), và đặc biệt trở thành thành viên Hội
đồng Chấp hành UNESCO (nhiệm kỳ 2015-2019) với số phiếu cao nhất từ trước đến nay. Hình ảnh
đất nước cũng được đẩy mạnh quảng bá thông qua việc đã có 24 di sản của VN được UNESCO công
nhận là di sản thế thế giới . Điều này chứng tỏ những bước tiến của ngoại giao văn hóa tại các diễn
đàn đa phương, và cho thấy tình cảm của bạn bè quốc tế đối với một đất nước VN cởi mở, giàu lòng
mến khách, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong số các chủ trương
được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn những hạn chế nhưng nó vẫn đóng góp một
phần to lớn vào quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến
nay. Chủ trương ấy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, giúp nền kinh tế VN có bước phát triển mới; thế và lực của VN được nâng cao trên
thương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong suốt quá trình qua đã
chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung; chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn
và sáng tạo.

Câu 11: Đại hội X (2006), ĐCSVN đề ra chủ trương “chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế”, anh chị hiểu hội nhập quốc tế như thế nào?
Theo anh/chị, là sinh viên cần phải làm gì để chủ động hội nhập
quốc tế.
Đại hội X (2006), ĐCS VN đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu
phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể
giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa
đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản chất, hội nhập
quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục
tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
 Hội nhập quốc tế hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. Hội nhập quốc tế
toàn diện thực chất là mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối ngoại,
mà còn bao gồm an ninh quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học-kĩ
thuật, y tế, giáo dục…
Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong
hoạt động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có
những chủ trương cứng nhắc và bảo thủ.  
Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là
hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc
tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng
cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần
tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ
vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và
phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán
triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn
được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời chú trọng một số quan điểm sau:
 Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ
động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các
tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam
đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá
trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng,
nâng cao sức mạng tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng
cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
 Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho
hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an
ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã
hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập
quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
 Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia,
dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối
đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.
 Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ
động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham
gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp
tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc
tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế
Một là, am hiểu văn hóa dân tộc.Văn hóa không phải giá trị cố định, bất biến mà văn
hóa luôn phát triển. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và tồn tại
dưới các hình thức như: các công trình kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, ngôn ngữ, tập quán, âm
nhạc, tôn giáo…. Bản sắc văn hóa dân tộc là sắc thái gốc, là những đường nét, màu sắc riêng
biệt không thể trộn lẫn của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc làm nên cốt lõi vững
chắc giúp cho nền văn hóa luôn giữ được tính duy nhất, tính nhất quán trong quá trình phát
triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể sáng tạo văn hóa luôn thống nhất cái riêng của
bản thân mình và cái chung của dân tộc. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc luôn chứa đựng cả
tính nhân loại, cả tính khu vực và tính dân tộc.  
Hai là, tích lũy kỹ năng cần thiết như tin học, ngoại ngữ,… và kiến thức chuyên môn
nhất định. Tin học và ngoại ngữ là hai nhân tố có vai trò rất lớn trong việc quyết định hội
nhập vào sân chơi chung trong bối cảnh “thế giới phẳng” ngày nay. Bên cạnh đó, sinh viên
không thể thụ động chờ đợi tương lai, càng không thể đi tới tương lai nếu không có tri thức,
trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Mỗi sinh viên trong giai đoạn
hiện nay phải có chuyên môn sâu về một lĩnh vực cụ thể, tuỳ vào năng lực của từng người.
Khả năng đó có cơ sở từ một trí tuệ và trình độ học vấn, tay nghề cao. Đây là yếu tố để thanh
niên thực hiện được lý tưởng nghề nghiệp của mình
Ba là, bản lĩnh và tỉnh táo. Là lực lượng lớn, ưu tú, tràn đầy tiềm năng trong xã hội, hơn
ai hết, chính sinh viên là lực lượng chủ công, xung kích để đưa đất nước hội nhập quốc tế
thành công. Và đó là một nhiệm vụ, là sứ mệnh to lớn, vẻ vang của thanh niên hôm nay.
Cùng với trình độ ngoại ngữ, tin học, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình,…để hội nhập
quốc tế đòi hỏi sinh viên phải trang bị cho mình một bản lĩnh vững vàng, phải không ngừng
nâng cao được bản lĩnh chính trị. Thế giới mà chúng ta hội nhập đã, đang và sẽ hết sức phức
tạp. Do đó cần phải hết sức tỉnh táo để phân biệt được cái đúng, cái sai, cái thật, cái ảo... Vì
vậy, cần có được một thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn và tiến bộ. Điều này đặc biệt
cần thiết trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Bốn là, kỷ luật lao động, kỹ năng làm việc nhóm. Để tăng cường kỹ năng làm việc theo
nhóm, mỗi thanh niên phải không ngừng học hỏi, đọc sách báo về các nền văn hóa, tìm hiểu
về lịch sử, tôn giáo, giá trị, phong tục của các địa phương, các quốc gia để có thể hiểu được
nhiều nhất các thành viên khác nghĩ gì và hành động như thế nào qua giao tiếp cá nhân – cá
nhân. Không ngừng cải thiện kỹ năng viết, một kênh giao tiếp quan trọng. Viết sao cho rõ
ràng, ngắn gọn, tránh sử dụng thành ngữ, tiếng lóng… Làm sao cho người đọc hiểu thông
điệp mình muốn gửi đến họ như mình hiểu. Cải thiện kỹ năng nói, cần luyện sao cho trường
độ, cao độ, âm lượng và âm vực tiếng nói rõ ràng, dễ hiểu với người nghe. Ngoài ra khi nói,
kết hợp với ngôn ngữ không lời (động tác tay, chân, nét mặt…) phù hợp với ngữ cảnh gây ấn
tượng với người nghe. Phải biết lắng nghe- Lắng nghe người khác là biểu thị sự tôn trọng họ.
Là một đoàn viên thanh niên, em luôn xác định hội nhập quốc tế là một mũi xung kích;
trang bị sãn sàng và hăng hái tham gia vào chủ trương lớn tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nước ta; trang bị nhận thức đúng đắn về hội nhập quốc tế , tích cực
học ngoại ngữ, tin học, rèn luyện kỹ năng, mở rộng không gian quan hệ quốc tế cho bản thân,
tích cực tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế của Đoàn, học hỏi phong trào thanh niên của
các quốc gia thế giới.

Câu 12: So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước
đổi mới và thời kỳ đổi mới.
- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách
quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực
hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình
hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năngsuất lao động thấp, đời sống nhân
dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Sự khác nhau:
- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường.Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động
thấp, cơ sở hạ tầng chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công
nghiệp hóa được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá trình hiện đại
hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.Chính
vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình công
nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử
dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang
tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại
hóa ngay lậptức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khépkín,
hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc tế.Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khaithác hiệu quả mọi
nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa
kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinhtế quốc tế,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công
nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế
giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự
nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực
hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo
kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ
đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát
triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực
cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có
khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và
có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải
đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội
sinh.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã hội. Còn ở
thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với pháttriển nhanh, hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục
tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng
là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát triển con
người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.

Câu 13: Phân tích vai trò của Nghị quyết Trung ương 15 (tháng 1/1959) đối
với cách mạng miền Nam.
1/ Hoàn cảnh lịch sử Hội nghị Trung ương lần thứ 15:
Sau năm 1954, thế giới có những thay đổi lớn, tác động đến cách mạng miền Nam. Mỹ
thể hiện ý đồ bá chủ thế giới với chiến lược toàn cầu phản cách mạng hết sức thâm độc; hệ
thống XHCN đã trở thành một lực lượng to lớn làm đối trọng với Mỹ và các thế lực phản
động quốc tế. Nước ta, sau Hiệp định Genève (7/1954) tạm thời chia cắt làm hai miền. Miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng bước vào khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã
hội (CNXH) để đảm nhiệm vai trò là hậu phương cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Miền Nam, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để hoàn thành
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đế quốc Mỹ với âm mưu biến miền Nam VN trở thành thuộc địa kiểm mới, dựng nên
chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn. Dựa vào sự hậu thuẫn
của đế quốc Mỹ, Ngô Đình Diệm tuyên bố xóa bỏ Hiệp định Genève, tổ chức cuộc “trưng
cầu dân ý” (23/10/1955) phế truất Quốc trưởng Bảo Đại để lên làm Tổng thống. Chế độ thực
dân kiểu cũ chấm dứt, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Để bảo vệ cho sự tồn
tại của bộ máy nhà nước bù nhìn, phản động, Mỹ - Diệm tập trung vào chống phá, đàn áp
phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam. Chúng mở các cuộc càn quét với chiến dịch
“tố cộng, diệt cộng”, mà đỉnh điểm là thực hiện Đạo luật 10/59, đưa thẳng bị can ra xét xử,
không cần mở cuộc thẩm cứu (điều 12 luật 10/59). Trong 4 năm (1955-1958), cả miền Nam
bị tổn thất nặng nề cả về người và của. Như vậy, cách mạng miền Nam đứng trước tình thế
cực kỳ nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng phải có một đường lối hoàn chỉnh và toàn diện về cách
mạng miền Nam. Đây là đường lối chung cho toàn Đảng, toàn dân ở cả hai miền nhằm thực
hiện nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Những kết quả và kinh nghiệm đấu
tranh chống địch khủng bố, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam, đặc biệt
là ở Nam Bộ đã giúp Đảng rút ra những bài học cần thiết nhằm bổ sung, hoàn chỉnh đường
lối và phương pháp cách mạng miền Nam.
2/ Quá trình phát triển đường lối cách mạng VN ở miền Nam:
Các hội nghị Trung ương Đảng từ năm 1954 đến 1956, xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù
chính, trực tiếp của nhân dân VN. Nhiệm vụ của cách mạng là: “Phải ra sức củng cố miền
Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”.
Từ thực tiễn cách mạng miền Nam, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đề
cương cách mạng VN ở miền Nam. Bản Đề cương đã được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Xứ
ủy Nam Bộ họp tại Phnom Penh tháng 12-1956. Trong đó, xác định: “Muốn chống Mỹ -
Diệm, ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác; dựa
vào lực lượng chính trị của quần chúng làm căn bản; xây dựng Mặt trận để đoàn kết nhân dân
chống Mỹ và tay sai…”. Đề cương cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan
trọng góp phần vào sự hình thành đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (tháng 12-1957), Đảng và Chủ tịch HCM đã xác
định ngày càng rõ hơn nhiệm vụ của cách mạng cả nước: “Nước ta đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai
lầm”.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15, diễn ra trong 2 đợt:
+ Đợt 1 (1/1959) tại HN, do Chủ tịch HCM chủ trì đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của miền
Nam là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến,
đánh đổ Tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một
chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và
các quyền tự do dân chủ. Cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam
Á và thế giới”. Phương pháp cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân bằng bạo lực của nhân dân: “Cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả
năng chuyển thành đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất
định về ta. Trong khi lãnh đạo, Đảng phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ
động đối phó trong mọi tình thế”.
+ Đợt 2 (7-1959), Hội nghị xác định: “Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam còn lâu
dài, gian khổ, khó khăn và phức tạp, Đảng bộ miền Nam tin tưởng dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng và Chủ tịch HCM, cách mạng miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, hòa bình
độc lập, dân chủ, thống nhất trong toàn quốc sẽ được thực hiện”.
Trên cơ sở thống nhất ý kiến của hai đợt họp, tháng 7-1959 Hội nghị Trung ương 15
chính thức thông qua Nghị quyết. Trong đó xác định cách mạng VN do Đảng lãnh đạo có hai
nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành là cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ tuy tính chất khác nhau nhưng có quan hệ
hữu cơ, cùng tác động, ảnh hưởng và hỗ trợ lẫn nhau chung mục tiêu là “đánh đổ chế độ
thống trị Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam là nhiệm vụ chung, vì lợi ích và yêu cầu chung
của nhân dân cả nước”. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam: “Giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người
cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, góp phần xây dựng một nước
VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh… Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn
thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân
tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời
sống của nhân dân, giữa vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”. Đồng thời Nghị
quyết xác định phương pháp tiến hành đấu tranh ở miền Nam là: “Khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân” và theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con
đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đưa cách mạng miền Nam bước sang giai đoan phát
triển mới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã đến với các địa phương ở miền
Nam bằng nhiều con đường, đi vào quần chúng đúng lúc họ đang ở vào tình thế “không
muốn sống như cũ” và đang khát khao mong đợi đường lối của Đảng. Vì vậy khi cán bộ,
quần chúng hiểu Nghị quyết với tinh thần là “Đảng cho đánh rồi” đã nổi dậy và tạo nên
phong trào Đồng khởi rộng khắp các tỉnh miền Nam nhằm phá ách kìm kẹp của địch, xây
dựng chính quyền cách mạng, theo phương châm dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng
là chủ yếu, kết hợp với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, tiêu biểu là tỉnh Bến Tre. Thắng lợi
phong trào Đồng khởi tỉnh Bến Tre đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng hầu hết các
tỉnh Nam Bộ. Lực lượng vũ trang nhân dân phát triển mạnh với 3 hình thức: Các đội tự vệ, du
kích xã; các đội vũ trang ở huyện, tỉnh; các đơn vị bộ đội tập trung của khu ngày càng lớn
mạnh, là sức mạnh lớn của phong trào cách mạng ở miền Nam. Phong trào Đồng khởi ở nông
thôn miền Nam đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị diễn ra mạnh mẽ.
Phong trào đã giành thắng lợi khiến quân địch thua thảm hại; đẩy chính quyền địch vào thế
khó khăn, khủng hoảng kéo dài triền miên dẫn đến hàng loạt những cuộc đảo chính, li khai và
đồng thời cũng thu hút sự ủng hộ và đồng tình của các nước xã hội chủ nghĩa và loài người
tiến bộ.
3/ Giá trị của Nghị quyết Trung ương 15:
Nghị quyết đã chứng tỏ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc vận
dụng lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin và kinh nghiệm của các nước XHCN, kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp vào điều kiện cụ thể của đất
nước để đưa cách mạng VN phát triển. Đó là sử dụng “lực lượng vật chất để đánh bại lực
lượng vật chất”; sử dụng bạo lực cách mạng; khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền v.v...
Có thể nói, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 là một nghị quyết có giá trị lịch sử sâu
sắc, tạo nên sự chuyển biến căn bản của phong trào cách mạng miền Nam, đưa cách mạng
miền Nam tiến lên, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và đông đảo quần
chúng cách mạng, giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược của đế quốc Mỹ và tay sai, làm thất
bại chiến lược “Chiến tranh một phía” của địch, tạo cơ sở vững chắc để nhân dân ta đánh
thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Nghị quyết ra đời cũng là lúc miền
Nam đã có những cuộc nổi dậy vũ trang và đã có nhiều trận đánh của các lực lượng cách
mạng. Tuy nhiên, những trận đánh này, cùng với các cuộc đấu tranh chính trị, chủ yếu vẫn là
để giữ vững quyền sống và bảo toàn lực lượng, có tính chất tự vệ. Nhưng dưới ánh sáng của
Nghị quyết, với phương châm, phương thức và mục tiêu hoàn chỉnh của nó là vũ khí lý luận
vững chắc để Đảng bộ và nhân dân miền Nam cùng với nhân dân cả nước vùng dậy tấn công
tiêu diệt kẻ thù, giành thắng lợi cho cách mạng.
Nghị quyết đã đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của cách mạng miền Nam và nhanh
chóng biến thành phong trào Đồng Khởi rộng khắp, tạo ra bước phát triển mới làm thất bại
từng bước cuộc “Chiến tranh một phía” của Mỹ ở miền Nam và do đó đã tạo đà cho các
thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến
tranh trực thuộc Bộ Chính trị khẳng định: “Nghị quyết 15 phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử,
giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín
muồi, đáp ứng nguyện vọng thiết tha lúc này của cán bộ và đồng bào miền Nam. Nó là ngọn
lửa dấy lên cao trào Đồng khởi làm soay chuyển tình thế cách mạng miền Nam lúc bấy giờ”.
Để tiếp tục khẳng định tầm vóc lịch sử của Nghị quyết này, tháng 7/1997 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương khóa II là sản
phẩm trí tuệ của toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị
khóa II, xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên của Chủ tịch HCM từ tháng
7/1954 khi hòa bình vừa mới lập lại trên một nửa đất nước, có sự trực tiếp chỉ đạo công phu
của đồng chí Lê Duẩn, quyền Tổng Bí thư lúc bấy giờ, cùng một số đồng chí trong Bộ Chính
trị và trong Trung ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí ở
miền Nam nước ta lúc đó”.
Nghị quyết là một thành công điển hình của Đảng về phương pháp tiến hành cách mạng
bạo lực, về nghệ thuật chỉ đạo khởi sự cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Mở đầu
bằng “Đồng khởi” do đồng bào và chiến sỹ miền Nam trực tiếp tiến hành, cuộc chiến tranh
giải phóng miền Nam thực sự đã được khởi động một cách độc đáo, khéo léo, phù hợp với
năng lực cách mạng của nhân dân miền Nam, phù hợp với thời cơ lịch sử, gây bất ngờ lớn
cho kẻ địch, làm yên lòng nhiều bạn bè quốc tế.

Câu 14: Phân tích sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
trong CMT8.
Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1/9/1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính
trị thế giới. Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ
phản động, giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp, ở Đông Dương, chúng thực thi chính sách cai trị
tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và các đoàn thể do Đảng lãnh
đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của
tại chỗ phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc của chúng. Chính sách phát xít hóa bộ máy chính
quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương không làm Đảng ta bất ngờ, vì Đảng đã sớm dự báo
vấn đề này.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, Đảng cho rằng nếu cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918) làm xuất hiện tình thế cách mạng ở Nga, dẫn tới cuộc Cách mạng
Tháng Mười năm 1917 nổ ra, thì cuộc chiến tranh thế giới lần này sẽ làm xuất hiện tình thế
cách mạng. Nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin: giai cấp vô
sản nắm lấy ngọn cờ dân tộc, tự mình trở thành dân tộc, dựa trên cơ sở phân tích diễn biến
tình hình ở Đông Dương lúc này, Đảng kịp thời đề ra chủ trương cách mạng mới. Chiến lược
cách mạng đã được Đảng xác định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930), đó là
đường lối cách mạng vô sản ở VN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong ba Hội nghị
Trung ương 6, 7, 8, Đảng không có sự thay đổi chiến lược cách mạng, mà dựa trên cơ sở nắm
vững sự biến đổi của tình hình thế giới và Đông Dương, nhu cầu đòi hỏi khách quan của thực
tiễn cách mạng, bổ sung phát triển chiến lược cách mạng phù hợp nhằm thúc đẩy phong trào
đấu tranh cách mạng của quần chúng phát triển, mau chóng thắng lợi. Chủ trương của Đảng
trong ba Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 là sự nối tiếp, phát triển chiến lược cách mạng của
Đảng ở thời kỳ mới, thể hiện tư duy mới về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, tập
trung trong mấy vấn đề cơ bản:
Một là, chuyển hướng mục tiêu đấu tranh từ đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ hằng ngày
lên mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đảng khẳng định vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương lúc này là phải tập
trung lực lượng đánh đổ đế quốc và tay sai phản động, giải phóng dân tộc. Trong các Hội
nghị Trung ương, Đảng chỉ rõ tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Cách nêu lên như vậy
không đồng nghĩa với việc Đảng từ bỏ cách mạng ruộng đất, mà vẫn thực hiện đồng thời. Sự
sáng tạo của Đảng trong chuyển hướng chỉ đạo là thực hiện nhiệm vụ chống phong kiến và
nhiệm vụ dân chủ khác rải ra làm từng bước, phục tùng và phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là
chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đây là bước phát triển tư duy lý luận của Đảng so với thời
kỳ trước.
Sự chuyển hướng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng là nội dung quan trọng nhất trong chủ
trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng thời kỳ 1939-1945. Xét về thực chất, chủ
trương này của Đảng nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp,
dân tộc và dân chủ trên lập trường giai cấp công nhân. Chủ trương ra đời không chỉ có giá trị
trong phân hóa cô lập kẻ thù, tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, mà còn trực tiếp định
hướng thống nhất mọi hoạt động của các lực lượng cách mạng tập trung vào thực hiện thắng
lợi mục tiêu hàng đầu của cách mạng: giải phóng dân tộc.
Hai là, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng trong từng nước, lấy liên minh công
- nông làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương 6, 7, 8, vấn đề thành lập, xây dựng phát triển lực
lượng cách mạng luôn được Đảng coi trọng, bởi không có lực lượng cách mạng thì không thể
làm cách mạng. Theo đó, Đảng từng bước lãnh đạo, chỉ đạo xúc tiến thành lập Mặt trận dân
chủ Đông Dương - mặt trận chung cho cả 3 dân tộc.
Từ khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, xuất hiện tình thế cách mạng, Đảng phân
tích kỹ lưỡng và cho rằng tuy dân tộc VN, Lào, Campuchia cùng trên bán đảo Đông Dương,
song mỗi dân tộc lại có những đặc điểm, yêu cầu riêng trong tập hợp lực lượng cách mạng.
Vận dụng lý luận Mác - Lênin về “quyền dân tộc tự quyết”, Đảng chủ trương mỗi nước thành
lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Tháng 5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức
thành lập ở VN. Chủ trương này của Đảng vừa tạo điểu kiện để các lực lượng cách mạng
trong từng nước tận dụng những thế mạnh trong xây dựng phát huy kịp thời sức mạnh toàn
dân tộc, đồng thời khắc phục những biểu hiện thiếu tính chủ động, ỷ lại. Đảng cũng chỉ rõ
việc thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở mỗi nước không có nghĩa tách biệt giữa
các mặt trận, mà các mặt trận phải liên minh chặt chẽ với nhau, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
thống nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương. Phải tích cực xây dựng, phát triển Mặt trận dân
tộc thống nhất mỗi nước trở thành tổ chức tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, trên nền
tảng lấy liên minh công - nông làm nòng cốt.
Ba là, chuyển hướng phương pháp đấu tranh cách mạng.Chủ trương và phương pháp
đấu tranh cách mạng luôn được Đảng coi là vấn đề mấu chốt của chiến lược cách mạng.
Thắng lợi của cách mạng chỉ có thể giành được trên cơ sở chủ trương và phương pháp
cách mạng đúng đắn. Thiếu phương pháp cách mạng đúng đắn thì dù chủ trương có đúng đến
bao nhiêu cũng không đem lại thắng lợi cho cách mạng. Trong thời kỳ 1936-1939, chủ
trương của Đảng là tranh thủ điều kiện thuận lợi, sử dụng nhiều phương pháp đấu tranh công
khai đòi dân sinh, dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh phát xít. Đến khi chiến tranh thế giới
lần thứ 2 nổ ra, bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương chuyển mạnh sang
“phát xít hóa”: chúng tăng cường đưa quân đội khủng bố, đàn áp, giết hại đồng bào, tìm phá
các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 của Đảng đều phân tích,
thống nhất rằng phương pháp cách mạng ở thời kỳ trước cần có sự điều chỉnh cho phù hợp
với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Theo tinh thần đó, Trung ương Đảng quyết định chuyển
phương pháp đấu tranh cách mạng sang thời kỳ mới: kết hợp đấu tranh bí mật, bất hợp pháp
với tranh thủ triệt để mọi điều kiện để xây dựng phát triển lực lượng; sử dụng kết hợp lực
lượng, hình thức đấu tranh chính trị với lực lượng, hình thức đấu tranh quân sự làm phương
pháp đấu tranh chủ yếu để giành chính quyền.
Đến Hội nghị Trung ương 8, Đảng chỉ rõ phương thức (hình thái) đấu tranh giành chính
quyền đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Sự khẳng định như vậy của Đảng
thể hiện tính sáng tạo, xuất phát từ sự phân tích khoa học của Đảng về tính chất mâu thuẫn và
sự chín muồi không đều về thời cơ khởi nghĩa. Việc xác lập hình thái đấu tranh mang tính
“giai đoạn” - khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa cho phép lực lượng cách mạng
trong từng nước, từng địa phương chủ động tận dụng tối đa mọi điều kiện, khả năng trong
xây dựng, phát huy sức mạnh lực lượng cách mạng khi thời cơ khởi nghĩa vũ trang xuất hiện.
Chủ trương này phản ánh tư duy sắc sảo của Đảng trong vận dụng sáng tạo tư tưởng của
V.I.Lênin về quy luật “thắng từng bước” vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở VN.
Bốn là, chuyển hướng công tác xây dựng Đảng.
Kể từ khi ra đời, công tác xây dựng Đảng luôn được Đảng coi là nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng vô sản ở VN. Trong thời kỳ 1939-1945, Đảng nhận định sẽ xuất hiện thời cơ
cho cuộc “cách mạng chính quyền”, do đó cần chuẩn bị đầy đủ các yếu tố, trong đó công tác
xây dựng Đảng đóng vai trò then chốt. Xét về nội hàm, cả ba Hội nghị Trung ương của Đảng
đều phân tích, chỉ rõ vấn đề gay cấn đang đặt ra đối với Đảng và cách mạng là thực trạng: đội
ngũ cán bộ, đảng viên còn thiếu nhiều, thành phần công nhân trong đảng còn ít; hệ thống tổ
chức của Đảng tuy đã phát triển nhưng chưa vững chắc, hoạt động thiếu tính thống nhất, bí
mật, trong khi chính quyền đế quốc phát xít và tay sai tìm mọi cách tìm diệt cán bộ, đảng
viên, phá tan tổ chức của Đảng, Nếu không kịp thời chỉ đạo chuyển hướng công tác xây dựng
Đảng theo đòi hỏi của tình hình thì chẳng những sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng bị
ngưng trệ, mà phong trào cách mạng khó có thể phát triển giành thắng lợi. Chiến lược nhất
quán trong công tác xây dựng Đảng từ khi Đảng ra đời là xây dựng vững mạnh, trong sạch cả
3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Do yêu cầu cấp bách trong thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, các Hội nghị Trung
ương 6, 7, 8 của Đảng đều nhấn mạnh là: gấp rút đào tạo cán bộ, tăng thành phần công nhân
trong Đảng, kiện toàn, củng cố vững chắc hệ thống tổ chức của Đảng, nhất là ở Lào và
Campuchia. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng thời kỳ 1939-
1945 xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng Đông Dương đặt ra. Đó là chủ
trương đúng đắn, khoa học của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa chiến lược và chỉ đạo
chiến lược trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trên thực tế, chủ trương đó đã được
Đảng và HCM hiện thực hóa trong thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng
sản Đông Dương, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng được lực lượng
cách mạng ở 3 nước quán triệt, thực hiện khẩn trương: thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
trong từng nước; chủ động xây dựng phát triển lực lượng chính trị quần chúng, lực lượng vũ
trang; củng cố, phát triển tổ chức và đoàn thể cách mạng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
phát triển lực lượng với tổ chúc quần chúng tranh đấu giành độc lập dân tộc.
Đầu năm 1945, thực hiện mưu đồ nắm quyền thống trị ở Đông Dương, phát xít Nhật
đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng ở
Đình Bảng (Bắc Ninh), do đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí thư) chủ trì. Hội nghị đưa ra
quyết định lịch sử: Đánh đuổi phát xít nhật, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh
mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhiều nhiệm vụ khẩn kíp được triển khai nhanh: thành lập căn cứ địa mới, thống nhất các
chiến khu, thống nhất lực lượng vũ trang; tổ chức ủy ban dân tộc giải phóng các cấp, chuẩn bị
thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng VN (tức Chính phủ cách mạng lâm thời) v.v.. Ngay sau
Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào (16-8-1945), HCM đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[4]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta
đã nhất tề vùng dậy, kết thành sức mạnh đại đoàn kết xuống đường tranh đấu, đánh sụp, xóa
bỏ bộ máy thống trị tàn bạo của phát xít Nhật và bè lũ tay sai, giành lại nền độc lập dân tộc.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch HCM thay mặt Chính phủ lâm thời
khảng khái đọc Tuyên Ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập dân
tộc và sự ra đời của nước VN Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi của CMT8/1945 là mốc lịch sử mở đầu cho sự phát triển mới của cách mạng
VN. Chủ tịch HCM đã viết: “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước
ta”[5]. Đã 70 năm trôi qua (1945-2015), song thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong
CMT8/1945 vẫn là bản anh hùng ca bất hủ, là thực tiễn sinh động chứng minh tư duy chính
trị sắc sảo, nghệ thuật lãnh đạo xuất sắc của một Đảng mácxit chân chính mới 15 tuổi. Đó
cũng là một trong những bằng chứng thực tiễn đập tan luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò
to lớn của Đảng đối với cách mạng VN của các thế lực thù địch. Những kinh nghiệm từ thực
tiễn lãnh đạo, chỉ đạo CMT8/1945 tiếp tục được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng ở giai đoạn mới, với việc đề ra nhiều quyết sách chiến lược mới hết sức đúng
đắn, đem lại những thành tựu to lớn, bền vững trong suốt mấy thập kỷ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Câu 15: Vì sao nói sau CMT8/1945, VN rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”?
Thắng lợi của CMT8/1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc, chấm dứt
ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, mở ra kỷ nguyên độc lập, dân chủ của dân tộc VN
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thế nhưng, ngay khi vừa giành lại độc lập, đất nước phải đối
diện với tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" bởi "thù trong, giặc ngoài". Với dã tâm xâm lược
nước ta một lần nữa, thực dân Pháp cùng với quân Tưởng Giới Thạch và bọn tay sai đã tiến
hành nhiều hoạt động chống phá trắng trợn nhằm thực hiện mưu đồ tiêu diệt lực lượng, Chính
phủ cách mạng và Đảng ta để thành lập chính quyền phản động, tay sai. Trong khi đó, tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng: sản xuất trì trệ,
ngân khố quốc gia trống rỗng, nạn đói năm 1945 làm gần 2 triệu người chết chưa khắc phục
xong, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn rất phổ biến, các thế lực phản động ra sức
hoạt động chống phá... Vận mệnh dân tộc nguy nan như "ngàn cân treo sợi tóc".
Trong tình thế hiểm nghèo ấy, Đảng ta và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hòa do
Chủ tịch HCM đứng đầu đã đề ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo như: Tổ chức Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội, Hội đồng nhân dân nhằm củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng
nền móng cho chế độ mới; phát động phong trào tăng gia sản xuất, xóa bỏ mọi thứ thuế vô lý,
thực hiện giảm tô, chia lại ruộng công, tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho
nông dân nghèo; mở lớp Bình dân học vụ, kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù
chữ; xây dựng "Quỹ độc lập" và phong trào "Tuần lễ vàng" huy động đóng góp tự nguyện
của nhân dân; phát triển lực lượng vũ trang cách mạng theo nguyên tắc toàn diện cả về chính
trị và quân sự, chú trọng cả số lượng và chất lượng... Nhờ đó, chỉ một thời gian ngắn, ta đã
căn bản diệt được "giặc đói", "giặc dốt", giải quyết khó khăn về tài chính, từng bước tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, tạo tiền đề quan trọng để diệt "giặc ngoại xâm".
Để tranh thủ được thời gian hòa bình nhằm củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng
lực lượng vũ trang và khắc phục những khó khăn về kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân và
đẩy quân Tưởng ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, ta đã phải ký với thực dân Pháp các hiệp định,
nhượng bộ cho Pháp một số quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp đấu tranh
mềm dẻo tạm thời nhằm củng cố và chuẩn bị tập trung nguồn lực để kháng chiến chống Pháp
lâu dài. Nhờ vậy, VN có thể tạm thời tránh được cả thù trong lẫn giặc ngoài.
Có thể nói, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” sau CMT8/1945 vô cùng khó khăn và đầy
thách thức với một Chính phủ mới, còn non trẻ của chúng ta. Thế nhưng, bằng đường lối lãnh
đạo khéo léo, đúng đắn cùng sự đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta đã vượt qua được tất cả và
tiếp tục giữ vững nền độc lập, tự do dân tộc.
Câu 16: Năm 1986, ĐCSVN đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Hãy lý
giải vì sao ĐCSVN tiến hành công cuộc đổi mới là một điều tất yếu.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ 1986 đến
nay đã trải qua gần 30 năm. Đó là một công trình vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI (1986) của
Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới
tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi
mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
1/ Trước hết, cần khẳng định bản chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới.
Đổi mới là một cuộc vận động mang tính cách mạng không ngừng để thay cái cũ bằng
cái mới tốt hơn. Không phải bây giờ mà trong quá trình cách mạng, chúng ta luôn thực hiện
sự đổi mới. Công cuộc đổi mới lần này mang tính toàn diện, tổng thể, sâu sắc, liên tục và
được chuẩn bị có bài bản. Đổi mới là công việc của chúng ta, theo cách thức và bước đi của
ta. Đổi mới là công cuộc sáng tạo mang tính tất yếu. Công cuộc đó phải được triển khai một
cách sâu rộng và đồng bộ, nhưng phải cân nhắc từng đường đi nước bước cụ thể, chắc chắn.
Đổi mới vừa là sự thay thế cái cũ, vừa là sự chọn lựa cái cũ, cái hiện đang còn tác dụng
để cải biến cho nó trở nên thích dụng hơn. Đổi mới có thể coi là một sự phủ định biện chứng:
Không bao giờ phủ định sạch trơn và không bao giờ quay lại cái cũ. Đổi mới đồng bộ, hài
hòa giữa kinh tế và chính trị với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với phát triển, nhưng là sự phát triển trong thế ổn
định, sự phát triển theo đúng định hướng và con đường mà chúng ta đã chọn. Đổi mới là thực
hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng trong
khi thực hiện cơ chế thị trường, Nhà nước phải quản lý và điều hành theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; đổi mới để phát triển kinh tế, nhưng sự
phát triển đó phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu
nghèo. Đổi mới có yêu cầu và gắn với mở cửa, hội nhập. Đổi mới có yêu cầu và gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Toàn bộ công cuộc hội nhập, mở cửa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và
bền vững; là để xây dựng và tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp; là để nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới. Vậy nên
đổi mới chính là để hướng tới chủ nghĩa xã hội, để hiện thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng được xác lập rõ ràng hơn.
Đổi mới và cải cách có cùng nội dung hướng tới cái mới, cái tốt đẹp hơn. Nhưng cải
cách thường được hiểu là những hành động nhất định, những cuộc vận động nhất định nhằm
những mục tiêu nhất định. Khi những hành động cải cách ấy, những cuộc vận động, cải cách
ấy đã đạt tới mục tiêu đề ra thì phải có hành động cải cách mới, cuộc vận động, cải cách mới.
Còn đổi mới, theo cách hiểu của chúng ta, tuy cũng nhằm những mục tiêu nhất định trong
những thời kỳ nhất định, song do bản chất và tính tất yếu của nó, lại là một quá trình lâu dài.
Đổi mới như một dòng chảy liên tục, vận động liên tục của cả guồng máy xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng, phát động và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Thông qua các
Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII, Đảng đều khẳng định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới để đưa đất nước đi lên.
2/ Nhờ công cuộc đổi mới, VN đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Qua 35 năm đổi mới, "nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là
động lực, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vượt qua
mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ,
phát triển nhanh và bền vững đất nước".
Đổi mới tư duy đã khắc phục được những nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều,
chủ quan duy ý chí, từng bước hình thành những quan niệm mới về mục tiêu, bước đi và cách
thức phát triển đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản
lý xã hội. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản
xuất mới, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng của một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, định hướng xã hội chủ
nghĩa được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, an ninh quốc phòng được
củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được đẩy mạnh thêm.
Đổi mới đã giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đã đạt được
trước đây vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước,
phù hợp với tình hình đang phát triển. Đổi mới đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước,
tiếp sức đôi chân chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, trong tiến trình đi lên, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, chúng ta không
quên rằng đất nước mình vẫn còn nghèo, sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu
quả và sức cạnh tranh còn thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền,
còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, mà những nhân tố đó còn có phần tăng thêm. Rõ
ràng là phía trước của chúng ta không chỉ có thuận lợi và thời cơ mà còn có những khó khăn
và nguy cơ không thể xem thường. Càng như vậy, càng phải tiếp tục đổi mới, tận dụng thời
cơ, vượt qua thách thức để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.
3/ Động lực và nguồn của đổi mới.
Nếu quan niệm động lực, nguồn là những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát
triển, thì động lực của đổi mới bao gồm nhiều yếu tố tiềm ẩn và hiển hiện có thể nhận biết
được.
Một là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định hướng đúng, phát
động đúng thời điểm.
Xác định đổi mới phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đúng đắn cho sự
nghiệp đổi mới vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự chắc chắn, vững tin.
Chuẩn bị kỹ và phát động đổi mới đúng lúc, đồng thời với mở cửa hội nhập nên chúng ta có
thể chủ động và sáng tạo trong mọi tình huống, đã đứng vững và phát triển trong khi cải tổ,
cải cách ở Liên Xô và Đông Âu bị thất bại.
Hai là, những thành quả của đổi mới lại tiếp thêm luồng sinh khí mới, tăng thêm động
lực cho nó, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới.
Thế mới và lực mới là tổng hợp những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, là kết quả
của việc phát triển mọi mặt với sự thông thoáng trong nước và mở rộng quan hệ hợp tác với
bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ tăng trưởng liên tục ở mức khá cao tạo đà
cho giai đoạn kế tiếp. Thế mới, lực mới, gia tốc mới tạo ra tầm vóc và khả năng mới của đất
nước. Đó không chỉ là khả năng đất nước vươn tầm mà còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp
tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển. Đổi mới được nạp thêm năng lượng mới.
Ba là, yếu tố quyết định là động lực và những nguồn lực trong nước.
Động lực quan trọng phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các nguồn lực
trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa
đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và quan trọng hơn hết là nguồn lực con
người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc
ta. Trong các nguồn lực đó, nguồn lực về tài nguyên là khá phong phú; nguồn lực về đất đai,
vị trí địa lý là khá thuận lợi; nguồn lực về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực về con
người và trí tuệ vô cùng to lớn.
Bốn là, những nguồn lực từ bên ngoài.
Đây là một yếu tố quan trọng, nếu biết cách tranh thủ cũng sẽ tạo nên động lực cho công
cuộc đổi mới đất nước. Nguồn lực bên ngoài bao gồm: vốn, kỹ thuật - công nghệ, kinh
nghiệm quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân loại. Trên cơ sở phát huy mọi nguồn lực
trong nước, chúng ta có đầy đủ điều kiện để có thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Với việc mở
rộng nhiều hình thức, có bước đi, biện pháp và chính sách ưu đãi thích hợp, chúng ta nhất
định khuyến khích mạnh mẽ việc hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ;
đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Năm là, sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân.
Đây là động lực mang tính quyết định đối với sự nghiệp đổi mới. Động lực đó bắt
nguồn từ năng lực sáng tạo, bản lĩnh trí tuệ của Đảng ta và của nhân dân ta, thể hiện ở trình
độ đoán định, nắm bắt những yếu tố và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến đúng tình huống,
xác định đường đi nước bước rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy
cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước đi lên. Do đổi mới là sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng
dân nên khi Đảng ta phát động nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành động lực to lớn thực
hiện có hiệu quả sự nghiệp đổi mới đất nước.
Rõ ràng là công cuộc đổi mới của chúng ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn
qua 35 năm thực hiện, mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và hết
sức to lớn, trong đó có những nguồn lực không bao giờ cạn. Hành trình đổi mới với sự phù
hợp giữa ý Đảng và lòng dân đã và đang kết hợp nhuần nhuyễn ba yếu tố: thiên thời, địa lợi,
nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, là yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng thành công của sự
nghiệp cao cả trọng đại: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 17: Đánh giá đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi
mới
Quá trình hình thành , nội dung và ý nghĩa của đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng ta thời kì đổi mới (1986 đến nay).
1. Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối
Giai đoạn 1986 - 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VI nhận định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp
tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều
kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Từ đó, Đảng
chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và
đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa,
với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi.
+ Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tạo cơ sở pháp
lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
+ Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại
trong tình hình mới. Bộ Chính trị chủ trương kiên quyết chủ động chuyển từ tình trạng đối
đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đặt nền móng hình
thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc
tế.
+ Từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh
doanh xuất nhập khẩu. Chủ trương trên được xem là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh
tế đối ngoại của Việt Nam.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VII chủ trương: “Hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
+ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01/1994) chủ trương triển khai
mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương
hóa quan hệ đối ngoại
Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ
VI, sau đó được các Nghị quyết Trung ương khóa VI, VII phát triển đã hình thành đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế. Giai đoạn
1996 - 2016: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VIII khẳng định: tiếp tục mở rộng quan hệ quốc
tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế; đồng
thời, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới.
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có 3 điểm mới. Một là, chủ
trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác; hai là, quán triệt yêu cầu
mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; ba là, lần đầu
tiên trên lĩnh vực đối ngoại Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra
nước ngoài.
Hội nghị 4 khóa VIII (12/1997) chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán,
lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, Nghị quyết đề ra chủ trương tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và
WTO.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần IX: chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên Đảng nêu rõ quan điểm về xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự
chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất
nước”. Đại hội IX phát triển phương châm của Đại hội VII: từ phương châm: “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển” thành phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần X nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời, đề ra chủ trương “chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động;
+ Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa
phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải thận
trọng, vững chắc.
Đại hội XI: triển khai đồng bộ toàn diện hiệu quả các hoạt động đối ngoại tích cực chủ
động hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện.
Đại hội XII: Khẳng định lại nội dung của Đaị hội XI.
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
- Cơ hội và thách thức
+ Cơ hội:
Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo thuận lợi cho nước
ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ
đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thách thức
Những vấn đề toàn cầu như phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc
gia,...gây tác hại bất lợi đối với nước ta. Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh
gay gắt trên cả 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia; những biến động trên thị trường
quốc tế tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn,
thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính. Lợi dụng toàn cầu hóa, các thế lực thù địch sử dụng
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của
nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau (cơ hội
không tự phát huy mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế
và lực mới để vượt qua thách thức. Ngược lại, nếu không tận dụng hoặc bỏ lỡ cơ hội thì thách
thức sẽ tăng lên, cản trở sự phát triển).
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước; kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát
huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của
Việt Nam.
+ Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị
xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác trong khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa
phương, khu vực và toàn cầu.
+ Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định
hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
+ Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ
môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh
trong quá trình hội nhập.
+ Đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ
trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
+ Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
- Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc,
quy định của tổ chức WTO.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như: giáo dục, bảo hiểm y
tế, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho
môi trường,...
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại
nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các
hoạt động đối ngoại.

You might also like