You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BỘ MÔN TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ

Đề tài:

Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về quản lý của NHTW
đối với hệ thống các NHTM trong bối cảnh CMCN 4.0

Giảng viên: PGS.TS. Nguyễn Thị Lan

Nhóm 5:

Cao Thùy Anh 2011110007


Nguyễn Thị Trang Anh 2011110019
Nguyễn Thị Vân Khanh 2014120066

Hà Nội, tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................... 2

LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................3

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, KHUNG PHÂN TÍCH


VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................................4

1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước và quốc tế:..................................................4

1.1.1. Quốc tế:.....................................................................................................4

1.1.2. Trong nước:.............................................................................................10

1.2. Khung phân tích.............................................................................................12

1.3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................12

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT............................................................................14

2.1. Ngân hàng trung ương (NHTW)....................................................................14

2.2. Ngân hàng thương mại (NHTM)....................................................................18

2.3. Tác động của cuộc CMCN 4.0 tới việc quản lý của NHTW đối với hệ thống
NHTM...................................................................................................................... 21

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.....................................26

3.1. Kết quả nghiên cứu.........................................................................................26

 Tổng hợp kinh nghiệm của một số NHTW trên thế giới về việc quản lý hệ thống
NHTM trong cuộc CMCN 4.0..................................................................................26

 Thực trạng về việc quản lý NHTM Việt Nam của NHTW trong cuộc CMCN 4.0
34

3.2. Thảo luận về kết quả nghiên cứu....................................................................38

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP...........................................39

PHỤ LỤC.................................................................................................................... 40
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, KHUNG PHÂN TÍCH
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước và quốc tế:

1.1.1. Quốc tế:

 Bài báo đăng trên Financial Times: “Central banks see limited roles for
crypto in reverse operations” của Eva Szalay, London 7/2021

Tác giả cho biết các NHTW hoài nghi rằng bitcoin và các loại tiền điện tử khác sẽ
thay thế vàng như một kho lưu trữ giá trị an toàn nhưng lạc quan về triển vọng cho
các đồng tiền kỹ thuật số chính thức khi các nhà chức trách vật lộn với sự bùng nổ
tiền điện tử.

 Bài phân tích đăng trên Fintech Futures: “Globalisation, crypto and the
new cold war” của Dace Wallace, 10/9/2021

Đây là những phân tích dựa trên những sự kiện mới nhất trên thế giới trong làn
sóng từ chối tiền điện tử, bao gồm cuộc đàn áp gần đây của Trung Quốc và việc
Tesla không chấp nhận thanh toán bằng Bitcoin,… Tác giả đã nhấn mạnh tầm
quan trọng về vấn đề Blockchain nhằm giúp mọi người lưu ý nhiều hơn.
 Bài báo đăng trên Financial Times: “Central banks step up fight againist
cryptocurrencies” của Eva Szalay, London 23/6/2021

Bài báo chỉ ra rằng các NHTW đã có động thái tăng cường phủ định tiền điện
tử khi cuộc chiến về hệ thống tiền tệ leo thang, lập luận rằng các đồng kỹ thuật
số như bitcoin có ít tính năng trao đổi và "làm việc chống lại lợi ích cộng
đồng". Qua đó thể hiện quyết tâm của họ trong việc kiểm soát loại tiền crypto
này.

 Bài báo trên trang Tôi yêu Bitcoin đăng ngày 4/6/2020: “Tiền kỹ thuật số:
Vũ khí mới của các Ngân hàng trung ương toàn cầu” và bài viết: “CBDC
là gì? Đồng tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương” của trang Đầu tư thụ
động đăng vào 22/3/2021
Hai bài đăng tập trung giới thiệu về đồng kỹ thuật số của NHTW có tên CBDC
(Central Bank Digital Currency) và chức năng của chúng. Đại diện cho Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (Fed), ông Jerome Powell gần đây đã nói về các biện pháp
mới được thực hiện trong cuộc khủng hoảng tài chính. Phát biểu này của ông
Powell được nhiều người cho rằng là bằng chứng về sự cần thiết của tiền điện
tử cấp độ quốc gia của Ngân hàng Trung ương. Qua đó bài báo chỉ ra các ưu
điểm của đồng điện tử quốc gia và tầm nhìn tương lai khi phát triển chúng.

 Bài đăng trên Fintech Futures: “Monetary Authority of Singapore and


Banque de France conduct cross-border CBDC test” của Martin Wybrow,
13/7/2021
Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) và Banque de France đã thông báo hoàn
thành thành công thử nghiệm thanh toán và thanh toán xuyên biên giới sử dụng
tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC). Mạng m-CBDC chung
cho phép hai ngân hàng trung ương có khả năng hiển thị về thanh toán xuyên
biên giới trong khi vẫn kiểm soát độc lập việc phát hành và phân phối CBDC
của riêng họ.

 Bài nghiên cứu “The Future of Central Banking” được viết bởi Hiromi
Yamaoka và được đăng trên trang degruyter.com ngày 26/09/2019
Tác giả đã giải thích và nêu ra những thách thức đặt ra cho ngân hàng trung
ương trong thời đại chuyển đổi số với sự phát triển của công nghệ và ứng dụng
rộng rãi của dữ liệu.  
Thứ nhất, do đổi mới kỹ thuật số, các công ty và cá nhân ngày càng nhạy
cảm hơn với chi phí xử lý, vận chuyển và lưu trữ tiền mặt. Trong một môi
trường như vậy, các ngân hàng trung ương có thể cần phải đánh giá hiệu quả
của các cơ sở hạ tầng hiện có, và xem xét liệu các phương án để nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế thông qua việc cải thiện các dịch vụ của mình. Thật vậy, tại
các nền kinh tế lớn, bên cạnh việc cố gắng cải thiện hệ thống thanh toán gộp
(RTGS) theo thời gian thực, một số ngân hàng trung ương đang nghiên cứu các
vấn đề về tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC).
Thứ hai, khi số lượng công ty tham gia vào ngành tài chính tăng lên, các
ngân hàng trung ương cần xem xét những đơn vị nào nên được phép tiếp cận
với các tài khoản ngân hàng trung ương và được cung cấp thanh khoản. Hơn
nữa, để đảm bảo sự ổn định của các khoản thanh toán, quyết toán và hệ thống
tài chính, các ngân hàng trung ương cần phải theo dõi hoặc giám sát không chỉ
hoạt động của các tổ chức tài chính truyền thống mà còn của những người tham
gia vào ngành dịch vụ tài chính. 
Ví dụ: kể từ tháng 4 năm 2018, Ngân hàng Trung ương Anh đã cho phép các
nhà cung cấp dịch vụ thanh toán phi ngân hàng truy cập trực tiếp vào hệ thống
thanh toán của mình, với điều kiện phải tuân theo một khuôn khổ giám sát hiệu
quả. Hơn nữa, các ngân hàng trung ương được yêu cầu kiểm tra tác động của
việc áp dụng AI và thuật toán vào các chiến lược giao dịch như giao dịch tần
suất cao (HFT) trên thị trường tài chính.
Thứ ba, với tư cách là “chất xúc tác”, các ngân hàng trung ương có thể
cần xem xét cách giao tiếp hiệu quả với nhiều đơn vị khác nhau để tạo điều
kiện phối hợp và hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả của các dịch vụ tài chính
trong khi duy trì sự ổn định tài chính. 
Thứ tư, sự phát triển của thanh toán “không dùng tiền mặt” dựa trên kỹ
thuật số cũng đặt ra nhiều vấn đề khác nhau cho ngân hàng trung ương. 
Ví dụ: Thanh toán di động đặt ra những thách thức mới liên quan đến sự ổn
định của thanh toán và an ninh mạng. Bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư đang
trở nên quan trọng hơn tất cả khi các công ty đang tích lũy một lượng lớn dữ
liệu khách hàng thông qua các nền tảng thanh toán kỹ thuật số. 
Ngoài ra, vì tiền và dữ liệu ngày càng liên kết với nhau, các ngân hàng trung
ương có thể cần phải xem xét các cách thức mà họ có thể theo dõi diễn biến của
các hoạt động kinh tế và giá cả liên quan. Ví dụ, nhiều công ty đang giảm giá
và tặng thưởng để đổi lấy dữ liệu khách hàng, các ngân hàng trung ương có thể
trở nên khó khăn trong việc theo dõi diễn biến của giá cả trong thương mại điện
tử. 

 EU:
Bài báo cáo đăng trên Bản tin Kinh tế tháng 4/2021 của European Central
Bank: “Economic and monetary developments”
Bài báo cáo phân tích và đánh giá về thị trường tài chính trên nhiều mặt đặc biệt
là lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt bài nghiên cứu đã chỉ ra diễn biến kinh tế và
tiền tệ cũng như những ảnh hưởng đến trung gian tài chính và phân bổ vốn
trong thời gian bình thường khi có sự xuất hiện của đồng kỹ thuật số trung
ương. Qua đó đề cập một số biện pháp phòng thủ trong thời đại công nghệ số.

Bài nghiên cứu của EBC: “Digiatal experimentation scope and key
learnings” vào tháng 9/2020

Bài viết tập trung nghiên cứu số liệu cụ thể trong năm 2020 qua việc phát hành
và thử nghiệm các dịch vụ công nghệ trong hệ thống quản lý của ngân hàng một
cách chi tiết để từ đó đưa ra các bài học quan trọng cần sửa đổi trong hệ thống
kỹ thuật số. Đó là những quan điểm rất chi tiết về sổ cái đồng euro kỹ thuật số,
về giao dịch với người dùng, quyền riêng tư, quyền truy cập,…

Bài phát biểu của EBC trên BIS: “On the new frontier – European in the
digital age” của Fabio Panetta vào ngày 22/10/2020

Bài phát biểu thể hiện nỗ lực của NHTW Châu Âu trong việc nhìn nhận sự thay
đổi của thanh toán trong thời kì 4.0 và sự cần thiết của các cấp chính quyền
trong việc thúc đẩy, kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi về mặt kỹ thuật số. Thị
trường Châu Âu đã ghi nhận những tiến bộ đáng kể khi bắt tay vào giám sát quá
trình chuyển đổi của thời đại CMCN lần thứ tư.

Bài báo với tiêu đề “Công nghệ trong bảo mật: Chìa khóa thúc đẩy thanh
toán điện tử” được đăng ngày 28/06/2019 trên trang thoibaonganhang.vn
Bài báo chỉ ra rằng việc gian lận trong thanh toán số là một trong những vấn
đề đáng báo động và là thách thức hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán trong
tương lai bởi nó gây ra những thiệt hại khổng lồ cho các nhà bán lẻ trên thế
giới. 
Tuy nhiên, cũng đã xuất hiện rất nhiều phương pháp để đảm bảo an ninh
công nghệ thông tin và phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực
ngân hàng, điển hình là việc ứng dụng công nghệ sinh trắc học.
“Trên thế giới đã có trường hợp Halifax - một ngân hàng ở Anh thử nghiệm
công nghệ xác thực cho dịch vụ ngân hàng online bằng nhịp tim. Chuyên gia
cho rằng, trong một tương lai không xa, nhiều khả năng mật khẩu hay PINs sẽ
không còn quan trọng nữa. Công nghệ vân tay trên iPhone, iPad đã được các
ngân hàng ứng dụng vào việc đăng nhập vào các ứng dụng trên điện thoại di
động. Những công nghệ mới và hiện đại hơn như tĩnh mạch vân tay đã được
Barclay and Robocoin thử nghiệm, MasterCard cũng đã thử nghiệm công nghệ
nhận dạng bằng khuôn mặt…”
Các ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại cần tích cực nắm bắt
xu thế trong việc đảm bảo tính an toàn, bảo mật trong giao dịch để có thể duy
trì được vai trò uy tín đối với khách hàng.

 MỸ

Bài báo có tiêu đề “Federal Reserve announces plan to develop a new round-
the-clock real-time payment and settlement service to support faster
payments” đăng ngày 05/08/2019 trên trang federalreserve.gov
Trong bài báo này, tác giả chủ yếu nói về dự định của FED trong việc
tạo ra một hệ thống thanh toán nhanh hơn cho khách hàng, đồng thời chỉ ra
những tiềm năng của FED trong công cuộc đổi mới thanh toán này cùng với
những dịch vụ và nguồn lực sẵn có.
“Cục Dự trữ Liên bang tin rằng các dịch vụ thanh toán nhanh hơn, cho phép
chuyển tiền gần như tức thời cả ngày lẫn đêm, cuối tuần và các ngày trong tuần,
có tiềm năng được sử dụng rộng rãi và mang lại lợi ích kinh tế cho các cá nhân
và doanh nghiệp bằng cách cung cấp cho họ sự linh hoạt hơn để quản lý tiền và
thực hiện các khoản thanh toán nhạy cảm với thời gian.”

Bài báo đăng trên tạp chí Forbes Việt Nam: "Tương lai phố Wall trong cuộc
cách mạng Fintech” của Antoine Gara, 14/3/2018
Tác giả đã đưa ra những công nghệ tài chính (Fintech) giúp ngành ngân
hàng, quỹ tài chính, các nhà đầu tư tại Mỹ và trên thế giới kiểm soát dòng tiền
tốt hơn, an toàn hơn và với chi phí thấp hơn. Cụ thể là các ứng dụng của Ngân
Hàng Mỹ đối với công nghệ máy lọc để chọn lọc thông tin, nhằm phát hiện gian
lận và tội phạm đánh cắp danh tính, giúp bảo vệ tiền của khách hàng được an
toàn. Các ngân hàng lớn cũng ứng dụng trí tuệ nhân tạo để có thời gian hiểu rõ
hơn về thị trường và rủi ro tiềm năng, trong khi đó các nền tảng (platform) phần
mềm mới đang dần thay đổi cách thức mà các doanh nghiệp lớn hoạt động nội
bộ, cũng như hợp tác với bên ngoài. Và từ đó nêu ra những hiệu quả đáng kể
của những công nghệ này đối với thị trường tài chính tại Mỹ.

Bài báo có tiêu đề “Emerging innovations that will define the future of
payments” đăng ngày 24/05/2021 trên trang fintechfutures.com
Bài báo đã đưa ra những thay đổi có thể xảy ra trong thanh toán khi khoa
học công nghệ ngày càng phát triển hơn nữa và nhu cầu thanh toán của con
người cũng ngày càng nhiều và đa dạng hơn. 
- Sử dụng AI: các ứng dụng AI ngày càng được các ngân hàng tận dụng cho
một loạt các trường hợp sử dụng (bao gồm giám sát gian lận, tuân thủ và
giải đáp các thắc mắc của khách hàng). Trong những năm tới, dự kiến chúng
cũng sẽ được áp dụng cho các dự án phức tạp hơn, như quản lý thanh khoản
và tối ưu hóa kênh thanh toán.
- Loại tiền kỹ thuật số hấp dẫn nhất - và là loại có tiềm năng lớn nhất cho
ngành thanh toán là stablecoin. Giống như tiền điện tử (Bitcoin và
Ethereum), stablecoin sử dụng các kỹ thuật mã hóa để kiểm soát việc tạo ra
các đơn vị tiền tệ. Xa hơn nữa, stablecoin cũng có thể ảnh hưởng đến cách
xử lý các giao dịch xuyên biên giới. 
- Trong bối cảnh tương lai, mã thông báo kỹ thuật số và tiền pháp định sẽ
cùng tồn tại, với các đường dẫn và kênh khác nhau (bao gồm đường ray
truyền thống, các công nghệ mới nổi và tiền tệ kỹ thuật số). Chúng vẫn có
liên quan và thậm chí tương tác để hỗ trợ cho yêu cầu thanh toán đa dạng
hơn. 

 Trung Quốc

Bài báo trên trang Bnews: “ Đồng NDT kỹ thuật số - biện pháp để quốc tế
hóa đồng NDT” của Tiến Trung, 8/12/2020

Bài viết chỉ ra rằng Trung Quốc đã có những chính sách để phát hành đồng
NDT kỹ thuật số để tăng các giao dịch thanh toán bằng đồng tiền này, phá vỡ
thế độc quyền của đô la Mỹ. Hơn nữa, tình hình Mỹ - Trung căng thẳng nên
Chính phủ Trung Quốc luôn muốn tìm cách giảm sự phụ thuộc, đặc biệt điều đó
trở nên dễ dàng hơn khi thời đại công nghệ bùng nổ, nhiều khái niệm mới mở
ra, các ngân hàng trung ương vẫn đang tìm cách kiểm soát hợp lý nhất.
Bài nghiên cứu trên trang ChinaPower với tựa đề: “How will a Central Bank
Digital Currency advance China’s interests?” vào ngày 26/8/2020

Trung Quốc chuyển sang cạnh tranh trong không gian thanh toán kỹ thuật số.
Trong vài năm qua, những đổi mới fintech như nền tảng thanh toán kỹ thuật số
đã mang lại cho các công ty công nghệ lớn ảnh hưởng đáng kể trong nền kinh tế
Trung Quốc. Sự gia tăng của "tiền điện tử" đã đặt ra những thách thức bổ sung
cho Bắc Kinh. Để đối phó với những phát triển này, chính phủ Trung Quốc đã
đề ra việc thành lập một CBDC. Đồng nhân dân tệ kỹ thuật số mới, được gọi là
Tiền tệ kỹ thuật số / Thanh toán điện tử (DCEP), sẽ hoạt động giống như một
dạng tiền mặt kỹ thuật số và chủ yếu hoạt động thông qua điện thoại thông
minh. Nếu thành công, đó có thể là giải pháp của Bắc Kinh để giữ cho đồng
Nhân dân tệ cạnh tranh trong nền kinh tế trong tương lai.

Bài báo có tiêu đề “China’s central bank to conduct strict supervision on


cash rejection” đăng ngày 26/11/2020 trên trang globaltimes.cn

Bài báo cung cấp thông tin về những chính sách của Ngân hàng trung ương
Trung Quốc áp dụng để đối phó với xu hướng phân biệt đối xử và loại trừ sử
dụng tiền mặt như điều chỉnh việc sử dụng tiền mặt trong việc thanh toán hóa
đơn nước, điện, tiện ích công cộng, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, trung tâm mua
sắm, công viên và các môi trường dịch vụ thông thường khác. Ngoài ra, PBoC
cũng sẽ tăng cường giám sát thông qua việc tiến hành các chuyến thăm và kiểm
tra không báo trước nhằm đảm bảo các doanh nghiệp, thương gia và các tổ chức
khác chấp nhận thanh toán tiền mặt, đặc biệt khi nó có thể ảnh hưởng đến sinh
kế của người dân hoặc gây lo ngại cho công chúng.

1.1.2. Trong nước:

 Bài báo trên tạp chí Vietnam+ với nhan đề: “E-banking Vietnam 2021 và
cách mạng công nghệ: Bứt phá mọi rào cản”, 31/8/2021

Bài viết là cái nhìn khái quát về việc triển khai công nghệ của ngành Ngân hàng
của Việt Nam trong thời đại 4.0, những chính sách đã triển khai, những thành
tựu đạt được cũng như hàng loạt các giải pháp công nghệ được lên kế hoạch
triển khai một cách chỉ chu nằm thay đổi cục diện ngành tài chính-ngân hàng
nói riêng và ngành kinh tế trong nước nói chung.

 Bài nghiên cứu của ThS. Lại Thị Thanh Loan đăng trên Tạp chí Ngân
hàng: “Phát triển ngân hàng số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
hiện nay và một số khuyến nghị”, 1/9/2020

Bài viết nói về thực trạng ngân hàng số tại Việt Nam. Nhờ việc áp dụng công
nghệ tiên tiến mà các NHTM Việt Nam đã đa dạng óa được dịch vụ cung cấp
tới khách hàng, tăng hiệu quả hoạt động cũng như góp phần tạo lợi thế cạnh
tranh cho ngân hàng. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế về pháp lý, tuyển dụng,
chi phí đầu tư. Do đó các khuyến nghị được cụ thể như sau:

  Hoàn thiện hành lang pháp lý cho chính hoạt động của các ngân hàng tập
trung vào: 

(i) Hình thành các quy định để quản lý được những thay đổi về công nghệ trong
ngành Ngân hàng như xác thực điện tử đối với khách hàng (e-KYC), ứng dụng
điện toán đám mây, blockchain trong hoạt động ngân hàng…

(ii) Thay đổi cơ chế quản lý theo hướng cho phép thực hiện các môi trường pháp lý
dạng thí điểm (sandbox) đối với các sản phẩm tài chính mới như cho vay ngang
hàng, huy động vốn cộng đồng… nhằm tận dụng tốt hơn thành quả công nghệ,
song vẫn kiểm soát được rủi ro và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của
người dân và doanh nghiệp

(iii) Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia - điều kiện
tiên quyết để phát triển kinh tế số nói chung và tài chính số nói riêng.

 Phát triển đội ngũ nhân lực cao về công nghệ ngân hàng. Lao động kỹ thuật
cao về công nghệ cũng như am hiểu về ngân hàng trong tình trạng khan hiếm
hiện nay đòi hỏi các NHTM cần đảm bảo chế độ đãi ngộ tốt, cũng như thực
hiện thay đổi mô thức đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; có chính sách bố
trí, sắp xếp nhân lực hợp lý khi thực hiện ngân hàng số; tạo lập môi trường đổi
mới và sáng tạo. 
 Các NHTM cần có kế hoạch chuẩn bị nguồn vốn cũng như lựa chọn phương án
đầu tư phát triển ngân hàng số phù hợp. Yêu cầu vốn đầu tư cho công nghệ
ngân hàng tăng cao và sẽ tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của ngân
hàng trong thời gian tới. Song, định hướng ngân hàng số cần cân nhắc kỹ lưỡng
và gắn liền với định hướng phát triển của ngân hàng, những chiến lược dài hạn
cũng như đối tượng khách hàng mục tiêu của ngân hàng. 

 Bài viết đăng trên VnEconomy: “Ngân hàng Nhà nước đang hướng tới
bơm tiền ra thị trường”, 10/9/2021 và “Trong quý 4/2021, Ngân hàng
Nhà nước phải trình Chính phủ về Nghị định về Fintech”, 7/9/2021

Bài báo nêu rõ Ngân hàng Nhà nước cũng đã ra Thông tư 14 sửa đổi sửa đổi
Thông tư 03, cho phép mở rộng các khoản nợ tái cơ cấu. Cùng đó là Thông tư
số 13 chính thức cắt giảm 50% phí giao dịch thanh toán điện tử liên ngân hàng
trong giai đoạn từ 1/9/2021 đến 30/6/2022.

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 6/9/2021 thông qua
đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công
nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng.
 Nghiên cứu trên trang Luật Tài chính - Ngân hàng: “Vấn đề quản lý rủi
ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam” của ThS. Nguyễn Ngọc Yến,
29/11/2016

Bài nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro thanh khoản ở
các NHTM, các tính chất pháp lý, những điểm được và điểm chưa được quản lý
cần hoàn thiện.

1.2. Khung phân tích


Để đạt được mục tiêu nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về việc quản lý hệ thống
NHTM của NHTW trong bối cảnh CMCN 4.0, nhóm chúng em đã đặt ra hệ thống câu
hỏi sau:
- Ngân hàng trung ương là gì? Đặc điểm, chúc năng của NHTW?
- Ngân hàng thương mại là gì? Đặc điểm, chức năng của NHTM?
- Cuộc CMCN 4.0 có những tác động gì đến việc quản lý NHTM của
NHTW?
- Các NHTW của quốc gia trên thế giới đã có những chính sách quản lý
NHTM như thế nào để đem lại hiệu quả trong bối cảnh CMCN 4.0?
- Việt Nam đã và sẽ học tập được gì từ các quốc gia trên thế giới?
Để trả lời cho các câu hỏi trên và xem xét vấn đề một cách toàn diện nhất, chúng em
đã sử dụng hệ thống luận điểm sau:
- Đưa ra những cái nhìn bao quát về các nghiên cứu hiện hành về vấn đề trước
bối cảnh của cuộc CMCN 4.0.
- Xây dựng cơ sở lý thuyết bao gồm giải thích các khái niệm về, ảnh hưởng của
cuộc CMCN 4.0 tới việc quản lý của NHTW đối với NHTM.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước ở một số các quốc gia trong lĩnh
vực này, điển hình là các nước Mỹ, Trung Quốc và khối liên minh Châu Âu
EU.
- Nhìn nhận những bước đi của NHTW của Việt Nam đối với hệ thống NHTM
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư.
- Thảo luận kết quả của các nghiên cứu, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Kiến nghị giải pháp ứng với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích, nghiên cứu về vấn đề, nhóm đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định
tính về số liệu thứ cấp.

- Nghiên cứu định tính nhằm cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm, cách
NHTW kiểm soát, hỗ trợ NHTM trong cuộc CMCN 4.0 đang ngày càng phát
triển. Nền kinh tế được nhìn nhận như một chuỗi các sự kiện liên kết chặt chẽ
với nhau và cần được mô tả một cách đầy đủ để phản ánh được cuộc sống thực
tế hàng ngày
- Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính
biện chứng. Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà
các nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định
tính, một số câu hỏi nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin được chuẩn
bị trước, nhưng chúng có thể được điều chỉnh cho phù hợp khi những thông tin
mới xuất hiện trong quá trình thu thập.
- (i)   Phạm vi nghiên cứu: Các quốc gia trên thế giới, điển hình là Mỹ, EU,
Trung Quốc
- (ii) Cách thức thu thập số liệu: tìm hiểu, tra cứu số liệu thứ cấp trên các trang
thông tin, trang web uy tín, trên các tạp chí chuyên ngành về kinh tế như BIS,
CSIS, ECB, Wikipedia,…
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Ngân hàng trung ương (NHTW)
 Khái niệm Ngân hàng trung ương (NHTW)
NHTW (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ
quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và
chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung
ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân
hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu
của Nhà nước, nhưng vẫn có mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
 Sự ra đời của Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi
ấy, tiền mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết
thanh toán (promises to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá
trị ở cả Châu Âu và Châu Á. Ngược lại 500 năm trước đây, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền
(Knight Templar) thời Trung Cổ sử dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên
của Ngân hàng trung ương. Các giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận
rộng rãi, và nhiều người cho rằng các hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống
ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung
Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden) ra
đời năm 1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of
England) ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William
Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội
chiến lúc đó. Ý tưởng về ngân hàng trung ương cũng được Marx ủng hộ trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản bằng việc đề xuất "tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông
qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước". Trước nhu cầu quản lý nền tài
chính quốc gia, các ngân hàng trung ương trên thế giới lần lượt ra đời. Cục Dự trữ
Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội tại đạo luật mang tên hai
nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill). Tổng thống Woodrow Wilson ký
đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Từ đầu thế kỷ XX, các ngân hàng trung ương đã hình thành tuy nhiên các ngân
hàng này vẫn thuộc sở hữu tư nhân, sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 thì mới trở
thành ngân hàng sở hữu của nhà nước.
 Phân loại

Tuy một định chế công cộng của Nhà nước, nhưng mối quan hệ của NHTW với
chính phủ với các định chế công cộng khác của Nhà nước không hoàn toàn giống
nhau. Mối quan hệ này ở các nước khác nhau cũng không giống nhau.

Có hai mô hình phổ biến của NHTW đó là mô hình trực thuộc và mô hình độc
lập với Chính phủ, xét theo đặc điểm ra đời của NHTW, thể chế chính trị, nhu cầu của
nền kinh tế cũng như truyền thống văn hoá của từng quốc gia.
- Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ là mô hình trong đó NHTW nằm trong
nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài
chính và đặc biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện
chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông
Á (Hàn quốc, Đài loan, Singapore, Indonesia, Việt Nam ...) hoặc các nước
thuộc khối XHCN trước đây. 
Đối với mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp đồng bộ chính sách
tiền tệ của NHTW với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhằm đảm bảo liều
lượng và mức độ hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ
mô trong thời kỳ. Mô hình này được cho là phù hợp với yêu cầu cần tập trung
quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
Tuy nhiên, mô hình này tồn tại điểm hạn chế chủ yếu là NHTW sẽ mất đi sự
chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Việc phụ thuộc vào chính phủ
có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền
tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc, Đài loan... (nơi
NHTW là một bộ phận trong guồng máy chính phủ) đã chứng minh được sự
phù hợp của mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hoá Á Đông. 
- Mô hình NHTW độc lập với chính phủ là mô hình trong đó NHTW không
chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính
phủ là quan hệ hợp tác.
 

Các NHTW theo mô hình này điển hình có Cục dự trữ liên bang Mỹ, NHTW
Thuỵ sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản và gần đây là NHTW châu Âu (ECB).  Ở
các nước phát triển, xu hướng tổ chức ngân hàng trung ương theo mô hình này
đang càng ngày càng tăng lên.
Đối với mô hình này, NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực
hiện chính sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân
sách hoặc các áp lực chính trị khác. Mặt khác, theo quan điểm của châu Âu thì
mọi chính sách phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng và phải được
quyết định bởi quốc hội - cơ quan đại diện cho quyền lực của toàn dân - chứ
không phải một nhóm các nhà chính trị - chính phủ. Chính vì vậy, NHTW 
không thể đặt dưới quyền chính phủ được mà phải do quốc hội kiểm soát do có
vai trò hết sức quan trọng tới đời sống kinh tế.
Mặc dù vậy, không phải tất cả các NHTW  được tổ chức theo mô hình này khi
điều hành chính sách tiền tệ đều đảm bảo được sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực
của chính phủ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của
người đứng đầu nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của NHTW.
Mô hình này lại tồn tại điểm bất lợi chủ yếu là khó có sự kết hợp hài hoà giữa
chính sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do chính phủ
chi phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả.
Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia. Việc
lựa chọn mối quan hệ phù hợp giữa NHTW và chính phủ phải xét theo chế độ
chính trị, đặc điểm lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế và sự phát triển của hệ
thống ngân hàng của từng nước. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định nó
còn bị ảnh hưởng bởi trào lưu của thế giới. 

 Chức năng của ngân hàng trung ương


Ngân hàng trung ương liên quan đến bốn chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền
tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của Chính phủ, quản lý nhà nước
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào
cũng mang đầy đủ 3 chức năng này.
Phát hành tiền tệ

Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát
hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành
tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do Chính phủ phát hành. Cục
Dự trữ Liên bang – ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ – không có chức năng phát
hành tiền, thay vào đó, Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho
rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự trữ Liên
bang phát hành. Nhưng hiện nay, đã có rất nhiều cuộc nghiên cứu, và họ đã phát hiện
ra, thực chất Cục Dự trữ Liên bang Mỹ mới có quyền phát hành tiền tệ, Chính phủ Mỹ
không có quyền này.

Ngân hàng của các ngân hàng

- Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với
các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng
thời qua đây kiểm soát lãi suất). 
- Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết
lượng vốn trên thị trường. 
- Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài
khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ 1 lượng
tiền nhất định. Thông thường, lượng tiền này được quy định tương đương với 1
tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến
cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ
chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người
cho vay cuối cùng.

Ngân hàng của Chính phủ

- Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho Chính
phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung
ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do
kho bạc đảm nhiệm.
- Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho Chính phủ khi can thiệp vào thị
trường ngoại hối.

2.2. Ngân hàng thương mại (NHTM)


 Khái niệm Ngân hàng thương mại

Trên thế giới, tính tới thời điểm hiện đại tồn tại nhiều khái niệm về NHTM:

- Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Pháp: Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính".
- Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán.

Từ những nhận định trên có thể thấy ngân hàng thương mại là một trong những định
chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ
bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM
còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.

 Chức năng của ngân hàng thương mại

Chức năng trung gian tín dụng

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân
hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là
cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân
hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và
hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Cho vay
luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận
lớn nhất cho ngân hàng thương mại.

Chức năng trung gian thanh toán

NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền
thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như
séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo
nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó
mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ,
gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào
đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung
đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,
từ đó góp phần phát triển kinh tế.

Chức năng tạo tiền

Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của
mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình
trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là
chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được
khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ
thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu
cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ
dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy ngân
hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM

- Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ

Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà
họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng
tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính
khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ.

- Sự gia tăng cạnh tranh

Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt
khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các
ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ
tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng,
ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức
bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự
phát triển dịch vụ cho tương lai.

- Sự gia tăng chi phí vốn

Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình
thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các
luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn
tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều
hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải
tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết
bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các
nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay
của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán
được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới
một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu
phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền
gửi).

- Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các quy định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng
khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới
làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ
USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản
giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập
cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân
hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục
hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung thành" của họ có thể dễ tăng
cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và
nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.

- Cách mạng trong công nghệ ngân hàng

Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và
đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ
thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán
bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động
ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh
toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các
phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại
xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.

2.3. Tác động của cuộc CMCN 4.0 tới việc quản lý của NHTW đối với hệ thống
NHTM
Nền tảng công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mang đến những
mặt tích cực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra rất nhiều cơ hội cho
các doanh nghiệp ngành Tài chính - Ngân hàng trong việc tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu, nhưng đồng thời cũng tồn tại những mặt hạn chế mà các bên cần xem xét
khắc phục.
Cơ hội

- Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thay thế các kênh phân phối và các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng truyền thống bằng việc ứng dụng nhiều hơn chuyển đổi kỹ
thuật số, ứng dụng công nghệ thông tin, các sản phẩm của ngân hàng có thể
tích hợp được với nhiều sản phẩm dịch vụ phụ trợ để làm hài lòng khách hàng.
Vì vậy, điều các ngân hàng trong nước cần chú trọng là tối đa hóa trải nghiệm
khách hàng dựa trên việc nắm bắt và hiểu rõ xu hướng trên bằng việc kết hợp
với các công ty fintech. Trong vài năm trở lại đây, sự hiện diện phổ biến của
chiếc điện thoại thông minh (Smartphone) đã trở thành phương tiện thông dụng
của con người trong giao tiếp cũng như tương tác, thêm vào đó là sự thay đổi
trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng thông minh và cách thiết kế sản
phẩm dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, Mobile
Banking, Tablet Banking, mạng xã hội (Social Media), phát triển ngân hàng kỹ
thuật số, giao dịch không giấy tờ từ đó mà trở thành xu thế phát triển mạnh
không ngừng như hiện nay.
- Việc áp dụng các nguyên tắc của cách mạng công nghiệp 4.0, dữ liệu lớn (Big
Data) và phân tích hành vi khách hàng sẽ là xu hướng tương lai cho thời đại
công nghệ số khi có thể thu thập dữ liệu bên trong và bên ngoài thông qua tổ
chức phân tích hành vi khách hàng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, mang
lại giá trị gia tăng, và hỗ trợ cho các quá trình ra quyết định. 

Hiện nay ở những quốc gia phát triển, chi nhánh giao dịch với không gian giao
dịch hiện đại, tiện ích, những màn hình, máy tính bảng cỡ lớn giúp khách hàng
tự tương tác và trải nghiệm dịch vụ hiện đại mà không cần đến sự giúp đỡ của
giao dịch viên truyền thống ngày càng phổ biến. Việc xây dựng các chi nhánh
này chủ yếu dựa vào nền tảng công nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều và
thông minh hóa của cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, các ngân hàng
cũng cần quan tâm đến việc phát triển các thiết bị tự phục vụ. Trên thực tế,
hành vi của khách hàng dần chuyển sang yêu thích các kênh giao dịch kỹ thuật
số mà chủ yếu là các thiết bị màn hình số và điện thoại di động.

Nhờ sự phát triển nhanh chóng trong thời đại ngày nay, thuật ngữ “ngân hàng
không giấy” đã và đang trở nên phổ biến, và là thách thức không nhỏ đối với
ngành Ngân hàng. Các chi nhánh ngân hàng không còn đóng vai trò quan trọng
và cũng sẽ không phải là kênh phân phối mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong
tương lai, thay vào đó là công nghệ ngân hàng hiện đại.

- Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự cạnh tranh lớn trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính, ngân hàng, dịch vụ thanh toán trong bối cảnh các doanh nghiệp công
nghệ tài chính - fintech đang ngày càng mở rộng và phát triển. PWC trong báo
cáo “vẽ lại ranh giới: ảnh hưởng ngày càng lớn của fintech lên ngành dịch vụ tài
chính” thì 82% của 1.308 nhà quản lý của dịch vụ tài chính truyền thống và
công ty fintech được phỏng vấn cho rằng sẽ tăng cường hợp tác với nhau trong
vòng 3 tới 5 năm tới dù các định chế tài chính truyền thống vẫn luôn cho rằng
các công ty fintech là mối đe dọa tuy tỷ lệ này đã giảm xuống 10% (PWC,
2017). Sự hợp tác giữa các công ty fintech và các định chế truyền thống là điều
tất yếu nhằm bổ sung sự khiếm khuyết của cả 2 bên.

Thách thức

Không thể phủ nhận cơ hội cuộc CMCN 4.0 mang lại cho ngành Ngân hàng là vô cùng
to lớn, tuy nhiên, đi kèm theo đó là thách thức không nhỏ mà ngành Ngân hàng cần
phải vượt qua, cụ thể:

- Khoảng trống chính sách đối với các dịch vụ tài chính được số hóa đòi hỏi cần
có sự chung tay phối hợp của các cơ quan quản lý trong việc xây dựng, hoàn
thiện quy định pháp luật. Trong khi các định chế tài chính chịu sự điều chỉnh
của nhiều quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, thì công ty
Fintech cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính như cho vay ngang hàng (P2P
Lending), huy động vốn cộng đồng (Crowdfunding)… chưa có quy định pháp
luật điều chỉnh trực tiếp. Nếu không kịp thời hoàn thiện các quy định của pháp
luật đối với các sản phẩm công nghệ tài chính mới, có thể tạo ra một “sân chơi
không bình đẳng” giữa công ty Fintech và ngân hàng. 
- Thay đổi mô hình kinh doanh, sản phẩm dịch vụ, kênh phân phối sản phẩm và
chuẩn bị nguồn lực tài chính lớn để thích ứng với xu hướng ứng dụng công
nghệ cao vào sản phẩm, dịch vụ, số hóa các hoạt động ngân hàng. Trong bối
cảnh cuộc CMCN 4.0 phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp, khách hàng có
xu hướng chuyển dần từ tương tác trực tiếp với ngân hàng sang tương tác qua
thiết bị điện tử, các ứng dụng (applicants), nền tảng số (platforms) từ xa. Điều
này đòi hỏi ngân hàng phải có sự dịch chuyển trong mô hình kinh doanh, tạo ra
sự nhất quán trong mô hình quản trị, kế hoạch hành động chuyển đổi sang ngân
hàng số và phương thức triển khai trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nguồn lực (tài
chính, nhân lực…) và rủi ro tiềm tàng trong quá trình chuyển đổi.
- Rủi ro về bảo mật thông tin, an ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ
cao trong lĩnh vực ngân hàng: Xu hướng tội phạm công nghệ đang chuyển dần
từ tấn công cơ học sang khai thác các lỗ hổng về công nghệ và người dùng. Do
đó, việc ứng dụng các thành tựu từ cuộc CMCN 4.0 tạo áp lực không nhỏ lên hạ
tầng an ninh mạng của ngân hàng.
- Năng lực và chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ
về trình độ nghiệp vụ ngân hàng mà còn là kiến thức, kỹ năng về vận hành và
làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, ngân hàng gặp nhiều khó khăn
trong việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm chủ công nghệ mới. Thêm
vào đó, áp lực trong việc giữ nguồn nhân lực chất lượng cao gắn bó lâu dài với
tổ chức trước làn sóng dịch chuyển nguồn nhân lực tài chính ngân hàng chất
lượng cao đang ngày một gia tăng.
- Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cuộc đua về công nghệ và sự xuất hiện
của các công ty Fintech: Số lượng công ty Fintech tăng nhanh và sức ép cạnh
tranh của công ty Fintech đối với hoạt động ngân hàng truyền thống cũng gia
tăng. Điều này tạo ra áp lực vô hình và hữu hình lên hệ thống ngân hàng, đòi
hỏi ngân hàng phải có chiến lược phát triển phù hợp. Trong bối cảnh đó, mối
tương quan giữa công ty Fintech và ngân hàng trong thời gian tới đây có thể
diễn ra theo ba 3 xu hướng chủ đạo:
(1) Ngân hàng cạnh tranh với công ty Fintech
(2) Ngân hàng hợp tác với công ty Fintech
(3) Một số dịch vụ của ngân hàng bị thay thế bởi công ty Fintech.
- Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu định danh toàn quốc (KYC). Hành lang pháp lý
cho kinh tế số chưa đủ và đồng bộ, hạ tầng công nghệ thông tin còn tồn tại
những bất cập nhất định, mức độ nhận thức, hiểu biết về dịch vụ tài chính, về
ngân hàng số của người dân và doanh nghiệp còn hạn chế. 

Như vậy, cuộc CMCN 4.0 tác động lên hệ thống tài chính ngân hàng một cách toàn
diện, không chỉ ở cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản
phẩm, dịch vụ mà trong cả cách thức quản trị ngân hàng, mối quan hệ tương tác với
khách hàng và với đối thủ cạnh tranh. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhiều
ngân hàng ở Việt Nam đã và đang nghiên cứu và thực hiện chuyển dịch mô hình ngân
hàng truyền thống phụ thuộc vào mạng lưới chi nhánh sang mô hình ngân hàng số.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu
3.1.1. Tổng hợp kinh nghiệm của một số NHTW trên thế giới về việc quản lý hệ
thống NHTM trong cuộc CMCN 4.0
 EU
Theo BIS, châu Âu có phần tụt hậu so với các đối tác trong sự phát triển của
lĩnh vực kỹ thuật số. Theo ước tính của OECD, tỷ lệ của lĩnh vực công nghệ thông tin
và truyền thông (ICT) về giá trị gia tăng dưới 5% đối với
hầu hết các quốc gia khu vực đồng Euro, khoảng 7% đối với Hoa Kỳ và 8% đối với
Hoa Kỳ và 8% đối với Nhật Bản. Tương tự như vậy, khi nói đến chi tiêu nghiên cứu
và phát triển (R &D), EU hiện đang theo sau cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh doanh.

Sự chuyển đổi kỹ thuật số đang diễn ra hứa hẹn về lợi ích năng suất lớn. Tăng
trưởng năng suất đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Về nguyên tắc, tăng trưởng năng suất thúc đẩy đầu tư và kỳ vọng về thu nhập cao hơn
trong tương lai khuyến khích người tiêu dùng để chi tiêu nhiều hơn ngày hôm nay.
Hơn nữa, tăng trưởng năng suất cao hơn làm tăng trạng thái cân bằng lãi suất thực, đó
là một yếu tố trung tâm trong việc hiệu chỉnh chính sách tiền tệ.

Về vấn đề thanh toán


Kỹ thuật số hóa đang biến đổi các dịch vụ tài chính và hành vi của người tiêu
dùng. Như nghiên cứu được công bố gần đây của ECB về thái độ thanh toán của người
tiêu dùng trong khu vực đồng Euro cho thấy, gần một nửa số người trưởng thành trong
khu vực đồng euro hiện thích thanh toán kỹ thuật số. Và càng nhiều công dân Châu Âu
dựa vào việc thực hiện thanh toán kỹ thuật số - có thể là bằng thẻ, chuyển khoản tín
dụng hoặc ghi nợ trực tiếp - thì các doanh nghiệp của Châu Âu càng dựa vào cơ sở hạ
tầng tài chính cơ bản hoặc thanh toán bù trừ và quyết toán các giao dịch này.
Trong thời kì COVID-19, việc giao dịch số được ưa chuộng hơn cả. Đó là khó
khăn và cũng là cơ hội để công nghệ phát triển, hệ thống ngân hàng chuyển đổi
phương thức thanh toán từ tiền mặt sang tiền kỹ thuật số.
Số hóa cũng đang định hình lại các hệ thống tài chính và hệ thống thanh toán,
đồng thời kích thích sự quan tâm mạnh mẽ đến các khái niệm như tài sản mã hóa và
tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương. Một tính năng đặc biệt của công nghệ kỹ
thuật số là sự phụ thuộc vào vốn vô hình vì nhiều thành phần của nó không được bao
gồm trong tài khoản quốc gia.

Đặc biệt, bối cảnh thanh toán của Vương quốc Anh đã có những thay đổi đáng
kể trong những năm gần đây. Việc tăng cường sử dụng các loại công nghệ thanh toán
mới trong các thị trường bán lẻ và bán buôn đã được tạo điều kiện thuận lợi cho thanh
toán (tăng tính dễ sử dụng, sự phát triển trong thương mại điện tử và tăng cường niềm
tin vào độ tin cậy và bảo mật). Nhìn về tương lai, có thể kỳ vọng sự chuyển đổi này sẽ
tiếp tục, được thúc đẩy bởi các công ty đương nhiệm cũng như sự phát triển của các
công ty Fintech mới, những người sẽ tiếp tục tìm ra những cách thức sáng tạo để đáp
ứng nhu cầu thanh toán nhanh hơn, đơn giản hơn, rẻ hơn và linh hoạt hơn. 
Ngân hàng Trung ương Anh đang tích cực nghiên cứu ảnh hưởng của cải cách
công nghệ đến sự thay đổi của các dịch vụ tài chính ngày nay và cách các dịch vụ tài
chính có thể phát triển trong thập kỷ tới (bao gồm ý nghĩa của thay đổi công nghệ đối
với người dùng, doanh nghiệp và lĩnh vực tài chính cũng như những rủi ro mà nó gây
ra đối với sứ mệnh của Ngân hàng). Trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng trong thanh
toán, Ngân hàng đang thực hiện hai sáng kiến chính để củng cố kiến trúc thanh toán
cốt lõi và cho phép nó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của ngành và công chúng. Các sáng
kiến này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: đổi mới dịch vụ RTGS và đưa hoạt động
của CHAPS vào Ngân hàng.
Dịch vụ RTGS (Thanh toán gộp theo thời gian thực) là cơ sở hạ tầng thanh
toán cốt lõi ở Anh, cung cấp giải quyết cuối cùng cho một số hệ thống thanh toán và
cơ sở hạ tầng cho thị trường tài chính. Nó cung cấp tài khoản cho các ngân hàng, các
hiệp hội xây dựng và các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán phi ngân hàng (PSP), sử
dụng nó để giải quyết các nghĩa vụ thanh toán. Nó cũng là nền tảng mà thông qua đó
các quyết định chính sách tiền tệ thay đổi Tỷ giá ngân hàng được thực hiện. Việc
thanh toán diễn ra trên sổ sách của Ngân hàng, bằng tiền của Ngân hàng trung ương
và trong thời gian thực. Điều này mang đến hiệu quả, thanh toán không có rủi ro và
không thể thu hồi. Gần đây, Ngân hàng đã bắt đầu Chương trình Gia hạn kéo dài
nhiều năm của dịch vụ RTGS, để tăng cường khả năng phục hồi và thúc đẩy đổi mới.
CHAPS (Hệ thống thanh toán tự động của Clearing House) là một trong những
hệ thống thanh toán giải quyết qua RTGS. Đây là hệ thống thanh toán có giá trị cao
của Anh, được sử dụng cho các khoản thanh toán bán buôn như mua nhà, nhưng nó
cũng được sử dụng cho một loạt các khoản thanh toán xuyên biên giới hoặc nhạy cảm
với thời gian.
Anh cũng tích cực thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro thanh toán, tăng
tính bảo mật và tin cậy cho các hệ thống này bằng cách thiết lập một trang web thứ ba
cho RTGS để đảm bảo việc thanh toán có thể tiếp tục hoạt động trong trường hợp rất
khó xảy ra là các trung tâm dữ liệu của Ngân hàng bị ngừng hoạt động đồng thời; sử
dụng nhiều hơn các công cụ và nguồn lực sẵn có cho Ngân hàng để: xác định, đánh
giá, giảm thiểu và ứng phó với toàn bộ các rủi ro đối với việc cung cấp hệ thống
CHAPS; kết hợp với các cơ quan quản lý khác để triển khai các tài nguyên không gian
mạng chuyên nghiệp để quản lý các mối đe dọa gây ra cho hệ thống.
Ngoài ra, Ngân hàng trung ương Anh cũng đang nỗ lực cải thiện khả năng tiếp
cận CHAPS và RTGS: mở rộng tiêu chí truy cập cho RTGS và CHAPS để cho phép
các tổ chức phi ngân hàng tham gia; giảm chi phí truy cập; chương trình Gia hạn
RTGS để giảm bớt các rào cản đối với việc tiếp cận (kiến trúc kỹ thuật của chương
trình sẽ được thiết kế để hỗ trợ hàng trăm người tham gia trực tiếp vào CHAPS); …

Sổ cái đồng euro kỹ thuật số


Sổ cái euro kỹ thuật số có thể bị giới hạn bởi các lựa chọn công nghệ về mặt
hiệu suất và tính linh hoạt. Thử nghiệm bổ sung các thành phần cốt lõi một mình cho
thấy điều này có thể được mở rộng lên đến 325.000 thanh toán bán lẻ mỗi giây. Giải
pháp dựa trên hệ thống TIPS chỉ bao gồm hệ thống thanh toán đằng sau một kim phun
giao dịch mô phỏng hướng dẫn được gửi bởi các trung gian và cho thấy rằng nó có thể
xử lý lên đến 40.000 giao dịch mỗi giây. Về độ trễ trong thanh toán giao dịch, với giải
pháp dựa trên blockchain, 95% các giao dịch có thể được ký bởi người trả tiền, được
giải quyết và xác minh mật mã bởi người trả tiền trong vòng chưa đầy ba giây, trong
khi với giải pháp dựa trên TIPS, 95% các giao dịch có thể được giải quyết ít hơn 0,8
giây.
Một thí nghiệm cũng phát hiện ra rằng mạng kênh thanh toán có thể được sử
dụng để tăng cường khả năng mở rộng và quyền riêng tư. Việc bổ sung tiềm năng các
tính năng lập trình cho đồng euro kỹ thuật số cũng là điều cần quan tâm. Kiểm soát rủi
ro chi tiêu gấp đôi. Một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo tính toàn
vẹn của hệ thống theo thời gian là các giao dịch không thể ngoại tuyến vô thời hạn,
tức là ngoại tuyến cần phải đồng bộ lại với sổ cái trực tuyến.

Về vấn đề bảo mật thông tin


Hệ thống TIPS tập trung vào sự phân biệt của thông tin giữa bên trung gian và
nhà điều hành hệ thống thanh toán. Trung gian sẽ sử dụng bút danh để chuyển tiếp
thông tin đến Hệ thống TIPS (có thể được liên kết với danh tính thực nếu cần thiết)
hoặc dựa vào "thẻ ẩn danh".
Một số ví dụ về các kỹ thuật được khám phá bao gồm:
- Bút danh một lần: một bút danh khác nhau được sử dụng cho mỗi giao dịch
người dùng tham gia, gây khó khăn cho người nhận để liên kết nhiều bút danh
với danh tính của người gửi;
- Trộn giao dịch: một giao thức hoặc một dịch vụ cho phép nhiều người dùng
trộn lẫn giao dịch để ngăn chặn liên kết và truy xuất nguồn gốc bút danh, tức là
liên kết người gửi và người nhận;
- Mạng kênh thanh toán: một mạng lưới các kênh song phương trong đó quyền
riêng tư mức độ có thể khác nhau, tùy thuộc vào các đại lý được phép tham gia
vào mạng lưới.

Về vấn đề giới hạn của đồng euro kỹ thuật số đang lưu hành
Các thí nghiệm cho thấy có thể đưa ra giới hạn về số dư và số tiền giao dịch bất
kể công nghệ cơ bản. Tài khoản/ví bằng tiền riêng được ghép nối với tài khoản/ví euro
kỹ thuật số. Tác động của điều này đối với độ trễ giao dịch sẽ cần phải được xác minh
thêm cho điều này để được coi là một lựa chọn khả thi.
Việc thực hiện một chương trình thù lao có thể có một số hạn chế, mặc dù thù
lao đã được thực hiện thành công trên các loại sổ cái khác nhau. Tuy nhiên, người
dùng cuối có thể nhận thấy đây là một tỷ lệ tùy ý được áp dụng cho các giao dịch.
Một giải pháp, như được đề xuất trong một trong những thí nghiệm dựa trên
blockchain, là giữ công cụ giá trị trong ví giam giữ cho phép các chương trình thù lao
được thực hiện theo cách tương đương với các chương trình dựa trên tài khoản.

Về vấn đề quyền truy cập người dùng cuối


Các thí nghiệm được thực hiện với một số giải pháp người dùng cuối (ứng dụng
di động, ứng dụng web và thẻ, tích hợp điểm tương tác / điểm bán hàng) được tiết lộ
nhiều lựa chọn để làm cho đồng euro kỹ thuật số có sẵn cho nhiều người dùng. Khả
năng sử dụng các cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện có sẽ giúp dễ dàng hơn. Sử dụng
đồng euro kỹ thuật số như một phương tiện thanh toán. Các giải pháp được cung cấp
thông qua trường gần giao tiếp (NFC) và Bluetooth để cho phép thanh toán không tiếp
xúc rất hứa hẹn về khả năng hỗ trợ giao dịch nhanh, nhưng cũng có những hạn chế về
mặt thực tiễn khi được yêu cầu chuyển số lượng lớn thông tin.

Để bảo vệ khả năng phục hồi trên không gian mạng của các dịch vụ tài chính,
EU có thể xây dựng trên ba tuyến phòng thủ: quy định và giám sát, kiểm tra khả
năng phục hồi trên không gian mạng và chia sẻ thông tin tình báo.
Đề xuất của Ủy ban Châu Âu về Đạo luật phục hồi hoạt động kỹ thuật số (DORA)
Vào tháng 9 năm nay, Ủy ban Châu Âu đã đưa ra đề xuất về Đạo luật về khả
năng phục hồi hoạt động kỹ thuật số  hiện nay thường được gọi là DORA. Theo chỉ ra
của Ủy ban, luật dịch vụ tài chính của EU kể từ cuộc khủng hoảng tài chính đã tập
trung rất nhiều vào các rủi ro tài chính liên quan đến các dịch vụ tài chính, trong khi nó
chưa giải quyết đầy đủ khả năng phục hồi hoạt động kỹ thuật số của các thực thể cung
cấp các dịch vụ này. Do đó, DORA là một sáng kiến được hoan nghênh: nó cung cấp
một cơ hội duy nhất để giải quyết tình trạng phân mảnh hiện tại trong pháp luật tài
chính và các phương pháp tiếp cận giám sát trong lĩnh vực khả năng phục hồi hoạt
động kỹ thuật số, bao gồm khả năng phục hồi trên không gian mạng.
DORA kết hợp các bài học đã học được từ chiến lược phục hồi không gian
mạng của Eurosystem đối với cơ sở hạ tầng thị trường tài chính. Nó bao gồm khả năng
phục hồi không gian mạng của Eurosystem giám sát các kỳ vọng, chương trình châu
Âu nhằm kiểm tra và cải thiện khả năng phục hồi của khu vực tài chính trước các cuộc
tấn công mạng tinh vi (TIBER-EU) và Sáng kiến chia sẻ thông tin và trí tuệ không
gian mạng do ECRB tạo ra (CIISI-EU).
Kiểm tra khả năng phục hồi không gian mạng: khuôn khổ TIBER-EU
Mặc dù rủi ro mạng là một dạng rủi ro hoạt động, nhưng nó có những đặc điểm riêng
biệt, cụ thể là tốc độ và quy mô mà nó có thể lây lan cũng như ý định và sự kiên trì của
các tác nhân đe dọa. Cách tốt nhất để chứng minh khả năng phục hồi trên không gian
mạng là kiểm tra nó theo cách bắt chước một cuộc tấn công ngoài đời thực. Đó là nội
dung của khuôn khổ TIBER-EU. TIBER-EU hiện được triển khai tại mười quốc gia
châu Âu. Một số người tham gia cuộc họp này đã trải qua bài kiểm tra TIBER-EU. Hà
Lan và Đan Mạch đã rút ra những phát hiện chính từ làn sóng thử nghiệm đầu tiên
được thực hiện trên các tổ chức tài chính cốt lõi của Hà Lan và Đan Mạch và tôi mong
muốn được tìm hiểu thêm về chúng ngay hôm nay.

 MỸ
Về vấn đề giám sát, hướng dẫn, điều tiết
Lịch sử cho thấy luật pháp và quy định có thể thúc đẩy đổi mới bằng cách thay
đổi các động lực cho khu vực tư nhân và tác động đến cấu trúc thị trường. Các NHTW
thường đóng vai trò tư vấn, soạn thảo hoặc thực hiện các quy tắc như vậy. Bài học từ
các ngành công nghiệp mạng chỉ ra rằng sự thống trị thị trường không dễ dàng khắc
phục và đòi hỏi phải có các biện pháp can thiệp chính sách liên tục. Vào những năm
1980, các cơ quan chống tín nhiệm của Mỹ đã yêu cầu công ty độc quyền (AT&T)
thoái vốn tại các công ty con tại địa phương. Khi các vấn đề chống cạnh tranh vẫn tiếp
diễn, khu vực công đã thông qua luật để thúc đẩy cạnh tranh ở tất cả các cấp độ dịch
vụ. Mặc dù sự xuất hiện của các kênh truyền thông mới, chẳng hạn như dịch vụ
internet và điện thoại di động, đã thúc đẩy cạnh tranh, nhưng chỉ điều này là không đủ
để thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ trong các dịch vụ internet. Khoảng một thập kỷ sau,
phải có luật bổ sung để thúc đẩy nó.
Chính sách có thể nâng cao hiệu quả và giảm chi phí. Ví dụ, Đạo luật séc 21
của Hoa Kỳ - luật liên bang có hiệu lực vào năm 2004, do Cục Dự trữ Liên bang thiết
kế - đã đưa ra hình ảnh séc hợp pháp, cho phép các ngân hàng xử lý séc theo cách
tương tự như thẻ ghi nợ. Bằng cách loại bỏ việc vận chuyển vật lý séc đã làm cho việc
xử lý nhanh hơn, rẻ hơn và hiệu quả hơn. 
Tại Hoa Kỳ, phí đối với các giao dịch thẻ ghi nợ được bảo hiểm (có quy định)
đã giảm đáng kể sau khi các quy định có hiệu lực vào năm 2011, trong khi các khoản
phí đối với thẻ được miễn vẫn ở mức cao, thậm chí sau gần 10 năm (bảng bên phải).
Nhìn chung, ở các quốc gia mà các nhà chức trách đã đưa ra giới hạn đối với phí thẻ
tín dụng và thẻ ghi nợ, chi phí sẽ thấp hơn so với những nơi khác đối với bất kỳ mức
độ cạnh tranh nhất định nào.
Về hệ thống thanh toán
Hệ thống thanh toán trong nước ở Mỹ có thể được phân loại theo ba khía cạnh
chính: loại hình thanh toán (bán buôn hoặc bán lẻ), nhà điều hành (ngân hàng trung
ương hoặc khu vực tư nhân) và phương thức thanh toán (thời gian thực hoặc trả
chậm). Hoa Kỳ là thị trường thanh toán lớn nhất trên thế giới và có vô số hệ thống
công cộng và tư nhân khác nhau. 
Hệ thống bán buôn
Fedwire (trước đây được gọi là Mạng lưới dây dự trữ liên bang) là một hệ thống
chuyển tiền thanh toán gộp theo thời gian thực do Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa
Kỳ điều hành, cho phép các tổ chức tài chính chuyển tiền điện tử. Chuyển khoản ngân
hàng được gửi qua Fedwire được hoàn tất trong cùng ngày làm việc, với nhiều chuyển
khoản được hoàn tất ngay lập tức. Gần đây hơn với sự tiến bộ trong công nghệ, nhiều
phương thức chuyển tiền điện tử thay thế đã xuất hiện. Các phương thức này đang thay
đổi cách mọi người thực hiện thanh toán vì ngày càng có ít người sử dụng các phương
thức ngân hàng truyền thống để chuyển tiền. Với việc ít người sử dụng các ngân hàng
truyền thống hơn và ít người chuyển tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, khối
lượng giao dịch qua Fedwire hàng ngày cũng có khả năng giảm. 
Nhưng gần đây Fed thông báo rằng sẽ tìm hiểu việc mở rộng giờ hoạt động của
Fedwire Funds Service. Tiềm năng mở rộng giờ hoạt động cho Fedwire cũng có thể
mở ra cơ hội doanh thu mới với các khách hàng kho bạc doanh nghiệp đang tìm kiếm
các khoản thanh toán theo thời gian thực trong giờ làm việc không theo tiêu chuẩn. 
Cùng với Hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Clearing House (CHIPS), được vận
hành bởi The Clearing House Payments Company, một công ty tư nhân, Fedwire là
mạng chính của Hoa Kỳ cho các khoản thanh toán trong nước và quốc tế có giá trị lớn
hoặc quan trọng về thời gian.
CHIPS (ban đầu là Hệ thống thanh toán liên ngân hàng Clearing House) là một
hệ thống do tư nhân vận hành. Bắt đầu hoạt động vào năm 1974 như một hệ thống
DNS, nhưng vào năm 2001, nó chuyển sang mô hình dàn xếp "hỗn hợp" liên tục khớp
và thanh toán qua mạng. CHIPS giải quyết các khoản thanh toán quốc tế và trong nước
có giá trị lớn, bao gồm các khoản liên quan đến giao dịch thương mại, khoản vay ngân
hàng và giao dịch chứng khoán. 
Dịch vụ Thanh toán Quốc gia (NNS) là một dịch vụ thanh toán đa phương do
Cục Dự trữ Liên bang sở hữu và điều hành. NSS thanh toán các nghĩa vụ liên ngân
hàng phát sinh trong các hệ thống thanh toán chứng khoán và thanh toán bán lẻ khác
trên cơ sở trả chậm thuần. Các tệp nghĩa vụ ròng đa phương được xử lý khi nhận được.

Hệ thống bán lẻ
FedACH và TCHACH là các ACH (hệ thống thanh toán bù trừ tự động) cung
cấp dịch vụ thanh toán bù trừ cho việc chuyển khoản ghi nợ và tín dụng điện tử từ các
khách hàng bán lẻ, với việc thanh toán cuối cùng diễn ra vào ngày ngân hàng tiếp theo.
FedACH được điều hành bởi Cục Dự trữ Liên bang trong khi TCHACH được cung
cấp bởi The Clearing House. Cục Dự trữ Liên bang cung cấp dịch vụ xử lý séc cho các
tổ chức lưu ký. Hầu hết các séc thu thập được sẽ được giải quyết trong vòng một ngày
làm việc. Thanh toán bằng thẻ ở Hoa Kỳ được xử lý bởi một trong các mạng thanh
toán thẻ (ví dụ: Visa, MasterCard, American Express, Discover). Chúng thường được
giải quyết trên cơ sở ròng với độ trễ một hoặc hai ngày. 
Về vấn đề thanh toán theo thời gian thực
Là dịch vụ thanh toán nhanh của The Clearing House cho các khoản thanh toán
bán lẻ. Với sự ra mắt của mạng lưới thanh toán thời gian thực bởi The Clearing House
vào tháng 11 năm 2017, quốc gia này đã chứng kiến sự ra đời của một hệ thống thanh
toán hiện đại phù hợp với cách thức hoạt động của người tiêu dùng và doanh nghiệp
trong thời đại kỹ thuật số - tức là trong thời gian thực. Ngày nay, mạng RTP đã có mặt
trên thị trường và được kết nối với hơn 50% tài khoản của Hoa Kỳ và cùng với đó,
Hoa Kỳ hiện có hệ thống thanh toán tiên tiến nhất trên thế giới, được thiết lập để cung
cấp khả năng thanh toán theo thời gian thực cho người tiêu dùng và doanh nghiệp
thông qua các tổ chức tài chính thuộc mọi quy mô.
FedNow 
Là nhà cung cấp cơ sở hạ tầng công cộng, các ngân hàng trung ương đang tận
dụng công nghệ mới để cải thiện và nâng cao hệ thống thanh toán. Tại Hoa Kỳ, Cục
Dự trữ Liên bang đã công bố FedNow, một đề xuất cho một hệ thống thanh toán nhanh
sẽ cung cấp các dịch vụ bán lẻ liên ngân hàng theo thời gian thực suốt ngày đêm.
Dự án mới của Cục Dự trữ Liên bang để cung cấp dịch vụ giải quyết ngay lập tức
24/7/365 cho các khoản thanh toán bán lẻ. FedNow dự kiến sẽ hoạt động vào năm
2023 hoặc 2024. Dịch vụ FedNow sẽ được phát triển như một hệ thống thanh toán gộp
theo thời gian thực liên ngân hàng (RTGS) với khả năng truy cập tiền ngay lập tức khi
nhận được tin nhắn thanh toán. Hệ thống sẽ giải quyết các khoản thanh toán bằng cách
ghi nợ và ghi có (các) tài khoản của tổ chức với các Ngân hàng Dự trữ Liên bang,
tương tự như cách Fedwire hoạt động để thanh toán các chuyển khoản liên ngân hàng
“có giá trị cao” ngày nay.
Fed tin rằng một hệ thống như vậy sẽ cho phép người tiêu dùng quản lý tiền
linh hoạt hơn và thực hiện thanh toán bất kể thời điểm. Đồng thời, tổ chức cũng kêu
gọi nhận xét về thiết kế và chức năng của dịch vụ mới. Bình luận về vấn đề này,
Thống đốc Ủy ban Dự trữ Liên bang Lael Brainard cho biết:
“Mọi người đều xứng đáng có khả năng thực hiện, nhận thanh toán ngay lập tức, an
toàn và mọi ngân hàng đều xứng đáng có cơ hội như nhau để cung cấp dịch vụ đó cho
cộng đồng của mình. FedNow sẽ cho phép các ngân hàng ở mọi quy mô trong mọi
cộng đồng trên toàn quốc cung cấp thanh toán theo thời gian thực cho khách hàng”.
Về vấn đề bảo mật, an toàn
An ninh mạng là một ưu tiên cho Ngân hàng trung ương khi thủ phạm ngày
càng trở nên tinh vi, những rủi ro mà các mối đe dọa mạng gây ra đối với sự ổn định
tài chính ngày càng leo thang. Trong bối cảnh này, mức độ phục hồi không gian mạng,
góp phần vào khả năng phục hồi hoạt động của hệ thống thanh toán, có thể là một yếu
tố quyết định trong khả năng phục hồi chung của hệ thống tài chính và nền kinh tế nói
chung. 
Những ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đang sử dụng công nghệ máy học (machine
learning) mới lạ để chọn lọc thông tin, nhằm phát hiện gian lận và tội phạm đánh cắp
danh tính, giúp bảo vệ tiền của khách hàng được an toàn.
Các ngân hàng lớn cũng ứng dụng trí tuệ nhân tạo để có thời gian hiểu rõ hơn
về thị trường và rủi ro tiềm năng, trong khi đó các nền tảng (platform) phần mềm mới
đang dần thay đổi cách thức mà các doanh nghiệp lớn hoạt động nội bộ, cũng như hợp
tác với bên ngoài.

 TRUNG QUỐC
Về vấn đề thanh toán
Trung Quốc đã nhanh chóng tiến tới một nền kinh tế không tiền mặt trong những năm
gần đây. Điều này phần lớn nhờ vào các nền tảng thanh toán di động như Alipay của
Alibaba và WeChat Pay của Tencent, hoạt động dưới dạng ví kỹ thuật số cho phép
người dùng mua hàng tại cửa hàng, thanh toán hóa đơn và chuyển tiền cho các cá nhân
khác. Trung Quốc dẫn đầu thế giới về việc áp dụng công nghệ thanh toán di động.
Theo một nghiên cứu của PricewaterhouseCoopers, 86% người dân ở Trung Quốc đã
sử dụng nền tảng thanh toán di động để mua hàng vào năm 2019. Con số này vượt xa
Thái Lan, quốc gia có tỷ lệ người dùng thanh toán di động cao thứ hai (67%) và hơn
gấp đôi toàn cầu. trung bình (34%).
Nền tảng thanh toán kỹ thuật số đã tạo thuận lợi cho thương mại ở Trung Quốc,
họ đã đặt phần lớn ngân sách của đất nước vào tay một số công ty công nghệ. Trong
quý 4 năm 2019, Alibaba kiểm soát 55,1% thị trường thanh toán di động ở Trung
Quốc. Tencent kiểm soát 38,9% khác, mang lại cho cả hai quyền độc quyền hiệu quả
hơn hàng nghìn tỷ đô la trong thanh toán di động. Thống đốc Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc (PBOC) Yi Gang đã nói rõ rằng những công ty lớn này đặt ra những
thách thức và rủi ro tài chính. Chẳng hạn như một vụ hack hoặc sự gián đoạn khác đối
với cơ sở hạ tầng thanh toán kỹ thuật số có thể có khả năng gây ra bất ổn kinh tế ngắn
hạn nghiêm trọng. Các nhà hoạch định chính sách cũng lo ngại rằng khi công dân
Trung Quốc đặt tiền của họ vào ví kỹ thuật số thay vì tài khoản ngân hàng, điều đó
đang gây ra áp lực cho tiền gửi ngân hàng thương mại và rút tiền ra khỏi hệ thống
ngân hàng truyền thống.

Về vấn đề tiền điện tử


Bắc Kinh vô cùng lo ngại về tiền điện tử. Tiền điện tử là loại tiền kỹ thuật số
hoàn toàn mới hoạt động ngoài sự kiểm soát của các ngân hàng trung ương của chính
phủ. Bắc Kinh đã đặt ra những hạn chế chặt chẽ đối với tiền điện tử. Vào năm 2013,
chính phủ Trung Quốc đã hạn chế các ngân hàng Trung Quốc sử dụng Bitcoin làm tiền
tệ, với lý do lo ngại về sự ổn định tài chính và khả năng Bitcoin bị sử dụng cho các
hoạt động bất hợp pháp. Ấn Độ và Indonesia và một số các quốc gia khác, đã thực
hiện các biện pháp tương tự. Bắc Kinh đã đàn áp một lần nữa vào năm 2017 với lệnh
cấm cung cấp tiền xu ban đầu trong nước, đây là một phương tiện quan trọng để đưa
tiền điện tử mới trực tuyến. 

Về vấn đề mở gói tiền tệ kỹ thuật số


Ngân hàng trung ương Trung Quốc lần đầu tiên thành lập một nhóm nghiên cứu
tiền kỹ thuật số vào năm 2014 và vào năm 2017, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã
chấp thuận cho PBOC bắt đầu thiết kế đồng tiền này với sự hợp tác của các ngân hàng
thương mại. PBOC cũng đã thành lập Viện nghiên cứu tiền tệ kỹ thuật số vào năm
2017, cơ quan này đã chỉ đạo công việc phát triển DCEP. Vào tháng 5 năm 2019,
Thống đốc PBOC tuyên bố rằng “thiết kế cấp cao nhất” của DCEP đã được hoàn thành
và thông báo rằng các dự án thử nghiệm ban đầu sẽ diễn ra ở Thành Đô, Thâm Quyến,
Tô Châu và Tây An. Vào tháng 4 năm 2020, các thí điểm DCEP đã được bắt đầu tại
bốn thành phố được chỉ định. Ở Tô Châu, một số nhân viên Chính phủ được yêu cầu
tải xuống một ứng dụng ví điện tử cho DCEP. Hình ảnh về thứ được cho là ví tiền kỹ
thuật số đã được lưu hành rộng rãi trên internet Trung Quốc vào thời điểm đó. Vào
tháng 5 năm 2020, những công nhân chính phủ ở Tô Châu bắt đầu được trả một phần
trợ cấp giao thông vận tải dưới hình thức DCEP.  
Khi Trung Quốc triển khai DCEP trên toàn quốc, người tiêu dùng Trung Quốc
có thể chấp nhận nó một cách tương đối dễ dàng do họ đã quen với các nền tảng thanh
toán di động hiện có. Chỉ mất một vài năm để thanh toán di động từ mới lạ sang được
sử dụng rộng rãi. Theo dữ liệu từ PBOC, lượng tiền được chuyển sang tay ở Trung
Quốc thông qua thanh toán di động đã tăng từ 11,7 nghìn tỷ NDT (1,9 nghìn tỷ USD)
vào năm 2013 lên mức đáng kinh ngạc 347,1 nghìn tỷ NDT (51,8 nghìn tỷ USD) vào
năm 2019.

Với mô hình này, các ngân hàng thương mại lớn sẽ đóng vai trò là trung gian quan
trọng kết nối PBOC với các cá nhân. Bốn trong số các ngân hàng thương mại lớn nhất
và quan trọng nhất của Trung Quốc đều thuộc sở hữu nhà nước, có nghĩa là chúng phù
hợp chặt chẽ với các ưu tiên chính sách của Bắc Kinh.
Ngoài biên giới của Trung Quốc, DCEP có thể giúp tạo điều kiện thuận lợi cho
việc quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ. Theo Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân
hàng Toàn cầu (SWIFT), hệ thống thanh toán điện tử quốc tế lớn nhất thế giới, đồng
nhân dân tệ chỉ được sử dụng trong khoảng 1,9% tổng số thanh toán quốc tế vào tháng
7 năm 2020. Tương ứng với đó, đồng đô la Mỹ và đồng euro được sử dụng trong
38,8% và 36,5% giao dịch.. 

Trung Quốc đã nỗ lực trong nhiều năm để thiết lập một chỗ đứng lớn hơn trong
không gian thanh toán quốc tế. Vào tháng 10 năm 2015, Trung Quốc đã ra mắt Hệ
thống thanh toán liên ngân hàng xuyên biên giới (CIPS) như một giải pháp thay thế
cho SWIFT. Nếu Trung Quốc có thể thiết lập thành công một kiến trúc thanh toán
quốc tế mới tập trung xung quanh đồng Nhân dân tệ kỹ thuật số, thì Bắc Kinh có thể
đạt được một con đường mới để thúc đẩy việc sử dụng quốc tế đối với đồng tiền của
mình.
Với cơ sở hạ tầng thanh toán quốc tế phù hợp, Trung Quốc có thể thúc đẩy quốc tế hóa
đồng Nhân dân tệ bằng cách kết hợp DCEP vào các hình thức hoạt động kinh tế khác
nhau. Ví dụ, Bắc Kinh có thể cung cấp hỗ trợ tài chính cho các quốc gia khác dưới
dạng đồng Nhân dân tệ kỹ thuật số. Nó cũng có thể thúc đẩy việc kết hợp DCEP vào
các khoản thanh toán xuyên biên giới liên quan đến các dự án Sáng kiến Vành đai và
Con đường và trong thương mại song phương. Trung Quốc đã bắt đầu thúc đẩy việc sử
dụng đồng Nhân dân tệ - thay vì đô la - trong thương mại song phương với Pakistan và
Thổ Nhĩ Kỳ .
DCEP có thể hỗ trợ quốc tế hóa đồng nhân dân tệ theo nhiều cách khác nhau nhưng
phần lớn vẫn phụ thuộc vào các chính sách tài chính của Trung Quốc. Nhiều lo ngại cơ
bản về đồng Nhân dân tệ vẫn chưa được giải quyết. Trung Quốc tiếp tục áp đặt sự
kiểm soát chặt chẽ đối với dòng vốn qua biên giới của mình và Bắc Kinh duy trì việc
giữ chặt tỷ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ. Những chính sách này bảo vệ Trung
Quốc chống lại sự biến động tài chính toàn cầu, nhưng chúng cũng làm giảm sức hấp
dẫn của đồng Nhân dân tệ như một phương tiện trao đổi và một kho lưu trữ giá trị.
Cho đến khi những mối quan tâm cơ bản này được giải quyết, các loại tiền tệ lâu đời
hơn như đô la Mỹ, euro và yên sẽ tiếp tục là sự đặt cược an toàn nhất cho hầu hết các
tác nhân quốc tế.

Về vấn đề Fintech
Theo một tuyên bố trên trang web của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, ngân
hàng trung ương Trung Quốc thực hiện các biện pháp mới để thúc đẩy hơn nữa sự phát
triển của khu vực tài chính Trung Quốc, bao gồm tăng cường các quy định quản lý lĩnh
vực fintech, ban hành các chính sách tiền tệ chính xác và mở cửa hơn nữa lĩnh vực tài
chính của Trung Quốc. Năm 2021, Trung Quốc tập trung vào 10 lĩnh vực trong lĩnh
vực tài chính của Trung Quốc, bao gồm thúc đẩy sự phát triển của tiền tệ kỹ thuật số,
cải thiện dịch vụ tài chính và cải cách sâu rộng lĩnh vực tài chính.
Ngân hàng trung ương cho biết họ sẽ cải thiện hơn nữa các cơ chế phòng ngừa
rủi ro và tăng cường các quy định quản lý các hoạt động tài chính internet để ngăn
chặn việc mở rộng vốn một cách mất trật tự. Tuyên bố của ngân hàng cho biết, họ "sẽ
tăng cường giám sát đối với thanh toán trực tuyến và trấn áp các hành vi vi phạm bao
gồm tiếp thị quá mức gây tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng để đảm bảo sự đổi
mới của fintech phát triển theo các quy định chính xác." (Phát biểu của ông Dong
Dengxin, Giám đốc Viện Tài chính và Chứng khoán thuộc Đại học Khoa học và Công
nghệ Vũ Hán) Các nền tảng thương mại điện tử của Trung Quốc có xu hướng rơi vào
tình trạng cạnh tranh gay gắt hoặc lạm dụng vị thế độc quyền bằng cách tính phí quá
cao cho các dịch vụ của họ. Ông Dong lưu ý rằng các quy định được tăng cường sẽ
không làm tổn hại đến khả năng đổi mới của ngành. Các cơ quan quản lý cũng cần có
các quy định chi tiết hơn để hỗ trợ nền kinh tế thực, giảm thiểu rủi ro tài chính và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3.1.2. Thực trạng về việc quản lý NHTM Việt Nam của NHTW trong cuộc
CMCN 4.0
Vấn đề nợ xấu
Việc Techcombank và MB có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn cả Vietcombank là một tín hiệu
mới, cho thấy nhóm ngân hàng thương mại tư nhân đã đặt chú trọng nhiều hơn vào
quản trị rủi ro. Một số ngân hàng thương mại tư nhân khác như TPBank, HDB,
Lienvietpostbank cũng có tỷ lệ nợ xấu tính đến 30/6/2021 khá thấp, chỉ từ 1,1-1,3%.
Đáng chú ý, một số ngân hàng từng có tỷ lệ nợ xấu ở diện cảnh báo, vượt quy định của
NHNN như Kienlongbank, NCB đều đã giảm tỷ lệ nợ xấu xuống khá thấp lần lượt là
1,08% và 1,4%. Điều này đến từ việc đẩy mạnh quá trình xử lý tài sản đảm bảo, xử lý
nợ xấu của các nhà băng.
Các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nửa đầu năm 2021 là ABBank (2,3%), PGBank
(2,7%), Bản Việt (2,8%) hay VPBank (3,4%) dù mức tăng trưởng tín dụng của nhóm
này đều khá cao như Bản Việt là 11,6%, VPBank là 6,8%, ABBank là 5,6%, PGBank
là 2,4%.
Đáng chú ý, tính đến 30/6/2021, nợ xấu nhóm 4, 5 của một vài đơn vị tăng mạnh so
với cuối năm 2020. Điều này có thể đến từ sự khác biệt trong áp dụng Thông tư 03 của
NHTW về cơ cấu lại nợ, lựa chọn tỷ lệ trích lập dự phòng với dư nợ được tái cơ cấu.

Về áp dụng chuẩn mực Basel II


Vấn đề áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế đã được nhấn mạnh trong định
hướng chiến lược ngân hàng và mục tiêu tái cơ cấu chung từ 2012 (Chính phủ 2006;
Chính phủ, 2012), như “Từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực cơ
bản theo chuẩn mực vốn mới (Basel II), Phát triển các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp
với các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel”; đổi mới, hoàn thiện các quy định
an toàn hoạt động của TCTD”,...
Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 792,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cuối
năm 2018 và 20,1% so với cuối năm 2017. Việc triển khai Basel II được tập trung thực
hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Đến nay, đã có 7 ngân hàng
thương mại (NHTM) được NHNN công nhận đạt chuẩn Basel II, gồm: Vietcombank,
VIB, OCB, MB, VPBank, TPBank, ACB.
Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng, đến cuối tháng 3/2019, tổng tài sản của
hệ thống các TCTD đạt hơn 11 triệu tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2018; huy
động vốn từ thị trường 1 đạt 8,5 triệu tỷ đồng, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng trưởng cùng với mặt bằng lãi suất tiếp tục duy trì
ổn định thực sự đã có tác dụng hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Các NHTM do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (NHTM) tiếp tục đóng vai
trò chi phối trong hệ thống các TCTD. NHTW đã hoàn thành việc phê duyệt phương
án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017 - 2020 của 4/4 NHTM. Đồng thời,
để đảm bảo các NHTM đáp ứng đủ mức vốn theo chuẩn mực vốn Basel II (phương
pháp tiêu chuẩn), NHTW đang tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư xử lý vấn đề tăng vốn cho các NHTM theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ.
Sau khi được phê duyệt chủ trương, NHTW đã khẩn trương tiến hành các bước để
tái cơ cấu và xử lý 3 ngân hàng mua bắt buộc và DAB đảm bảo đúng quy định của
pháp luật. Theo đó, thực hiện kiểm toán độc lập đánh giá thực trạng tài chính, xác định
giá trị thực của vốn điều lệ và quỹ dự trữ để làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo
phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Tiếp tục tăng cường kiểm soát, tái cơ cấu, giám sát chặt chẽ hoạt động của 3
NHTM mua bắt buộc gồm NHTMCP Xây dựng VNCB, Đại Dương Oceanbank và
Dầu khí Toàn cầu GPBank. Hai NHTMNN đã được NHTW chỉ định tham gia quản trị,
điều hành ba ngân hàng này là: Viecombank (VNCB), VietinBank (Oceanbank và
GPBank). Các vấn đề liên quan tới công nợ của các nhóm khách hàng lớn, xử lý tài
sản bảo đảm, xử lý nợ xấu được khắc phục; các vấn đề như chi trả tiền gửi cho khách
hàng, thóai vốn đầu tư, mua cổ phần,... được thực hiện tốt.
Công tác xử lý các vấn đề hậu sáp nhập vẫn diễn ra sôi động và trong tầm kiểm
soát. Các NHTMCP hình thành sau sáp nhập, hợp nhất (Pvcombank, Sacombank,
SHB, SCB) tiếp tục được củng cố và hoạt động ổn định, đã và đang xây dựng phương
án tái cơ cấu trong giai đoạn tiếp theo nhằm khắc phục triệt để những tồn tại, yếu kém
chưa xử lý dứt điểm. Hầu hết các chỉ tiêu tài chính và an toàn của các tổ chức này đã
được đảm bảo.

Vấn đề phát triển công nghệ e-banking 


Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), 94% ngân hàng Việt Nam
đang trong bước đầu triển khai hoặc xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Trong số 94%
ngân hàng nói trên, có 59% đã bước đầu triển khai ngân hàng số trong thực tế, 35%
đang nghiên cứu, xây dựng chiến lược; còn lại 6% hiện chưa tính được việc xây dựng
chiến lược. Đặc biệt, các NHTM nhỏ đã mạnh dạn chuyển hướng lấy ngân hàng số
làm trọng tâm hoạt động. Tiêu biểu nhất là trường hợp của ngân hàng OCB, TPBank...
Ngân hàng OCB đặt ra mục tiêu đưa chiến lược phát triển ngân hàng số vào hoạt động
kinh doanh cốt lõi ngân hàng, từ đó, hoạch định chiến lược phát triển một cách rõ ràng
với mọi hoạt động. Ngân hàng thực hiện xây dựng Ngân hàng hợp kênh OCB OMNI -
theo đó, các kênh giao dịch số được kết nối, đồng nhất với nhau, tạo được trải nghiệm
xuyên suốt cho khách hàng khi có sự chuyển dịch giữa các kênh. Trong đó, tất cả các
dịch vụ của một ngân hàng đều được tích hợp trên một nền tảng số duy nhất, giúp
khách hàng sử dụng dịch vụ, sản phẩm của OCB mà không cần đến quầy. Thậm chí,
khách hàng không cần phải thực hiện từng giao dịch riêng lẻ, mất nhiều thời gian xử
lý, khách hàng có thể thực hiện cùng lúc nhiều giao dịch chuyển tiền đến tài khoản/thẻ
khác nhau chỉ với một lần xác thực OTP thông qua tính năng “Giỏ giao dịch”… Đồng
thời, ngân hàng này cũng cho ra mắt Trang thương mại điện tử OCB GO là kênh giới
thiệu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ như mở tài khoản, thẻ tín dụng, gửi tiết kiệm,
tư vấn tài chính thông minh… hoàn toàn trực tuyến.
Các NHTMCP nhỏ có xu hướng thiết lập mảng kinh doanh mới hoặc thành lập
ngân hàng số thuần túy (pure digital banks). Theo đó, ngân hàng số là một mảng kinh
doanh riêng, độc lập với hoạt động kinh doanh cũ và hướng đến việc tìm kiếm đối
tượng khách hàng mới. Ví dụ điển hình như VPBank với mô hình Timo. Đây là mô
hình hoàn toàn độc lập được triển khai bởi đối tác chiến lược của VPBank. Là mô hình
ngân hàng pure digital banks nên Timo có thể kiểm soát chi phí vận hành và đưa đến
giảm chi phí cho khách hàng thông qua miễn phí dịch vụ. Hay như mô hình Livebank
của TPBank. Được ra mắt từ năm 2017, đến nay, TPBank đã mở được 150 điểm ngân
hàng tự động LiveBank trên toàn quốc, 2 triệu lượt khách hàng, tổng giao dịch hàng
nghìn tỷ đồng sau 3 năm. Sản phẩm ngân hàng tự động 24/7 có thể thực hiện gần như
đầy đủ các giao dịch như một chi nhánh truyền thống. Đại diện ngân hàng cho hay,
đến nay, trên 2/3 giao dịch của ngân hàng thực hiện tại LiveBank, giúp tiết giảm một
lượng lớn chi phí nhân sự, quản lý và tối đa thời gian, tiền bạc cho khách hàng.
Khoảng 60% giao dịch của LiveBank diễn ra ngoài giờ hành chính, giúp đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của bộ phận khách hàng mà mô hình ngân hàng truyền thống không thể
phục vụ. 
Các ngân hàng có quy mô lớn, chủ yếu là các NHTM nhà nước, tập trung
chuyển đổi số đối với hoạt động kinh doanh hiện tại. Trong đó, hầu hết các ngân hàng
đã thành lập một đơn vị chuyên trách phát triển các dịch vụ số để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng. Một số ngân hàng đã có thay đổi lớn về mô hình tổ chức để phát
triển ngân hàng số như BIDV, MB, LienvietPostbank, ACB… Tại BIDV, để triển khai
đúng hướng chiến lược về ngân hàng số, BIDV đã thành lập Trung tâm ngân hàng số
giúp BIDV xây dựng hệ sinh thái tài chính tiêu dùng cho khách hàng, MB,
LienvietPostbank hình thành khối ngân hàng số, ACB thành lập team công nghệ dưới
sự điều hành trực tiếp của CEO hay Hội đồng Quản trị…

Các NHTM thực hiện thay thế hệ thống công nghệ lõi cũng như tích cực ứng
dụng các công nghệ mới trong xử lý giao dịch, lưu trữ thông tin... Đơn cử như
Vietinbank đã thay thế thành công hệ thống CoreBanking vào tháng 2/2017 (Core
SunShine), vận hành kho dữ liệu doanh nghiệp mới (EDW) từ tháng 4/2017... Hay như
VPBank đã xây dựng ngân hàng số YOLO với hệ thống Core banking riêng, tách biệt
với hệ thống hiện tại, ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu của IBM để đồng bộ hóa
dữ liệu khách hàng, hỗ trợ phân tích hành vi khách hàng. Các NHTM nhỏ cũng rất
quan tâm đến việc đầu tư cho công nghệ và quyết tâm cao độ để thực hiện hiện đại hóa
hệ thống công nghệ thông tin của mình. Tại Vietbank, ngân hàng này đã thay thế mới
toàn bộ hệ thống phần mềm ngân hàng lõi Core Banking của Finastra, đầu tư mới toàn
bộ hệ thống lõi cho thẻ của Cardzone, chuẩn bị thay thế Internet banking bằng hệ
thống DC (digital channel) mới. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với các đối tác lớn trong
nước và quốc tế như Finastra, Cisco... nhằm mang đến những ứng dụng tích hợp các
chức năng, tiện ích đa dạng cho khách hàng. Hay rất nhiều ngân hàng đã ứng dụng trí
tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động như TPBank ứng dụng trợ lý ảo T’Aio có thể tương
tác với hơn 1,5 triệu khách hàng cùng một thời điểm trên Facebook Messenger, BIDV
thí điểm ứng dụng trí tuệ nhân tạo Watson phân tích dữ liệu khách hàng... Đồng thời,
các NHTM đã có sự liên kết với các nền tảng thanh toán chung để tạo được hiệu quả
hoạt động của việc cộng hưởng với các bên. Điển hình như NAPAS và 3 ngân hàng
gồm VietinBank - VIB - TPBank đã thử nghiệm thành công mô hình chuyển tiền trên
blockchain, đồng thời cũng sử dụng chung điện toán đám mây. 
Các đại diện tiêu biểu có thể kể đến như Vietinbank hợp tác với Opportunity
Network (ON) trong cung cấp nền tảng số cho doanh nghiệp; Vietcombank và
M_Service hợp tác trong thanh toán chuyển tiền; VPBank hợp tác với Moca trong
cung cấp dịch vụ thanh toán số; MB Bank kết hợp với Starup Fintech cung ứng dịch
vụ ngân hàng trong ứng dụng Messenger của Facebook, VIB  kết  hợp với công ty
Fintech Weezi cung cấp sản phẩm MyVIB Keyboard - một ứng dụng mới giúp chuyển
tiền qua mạng xã hội; Techcombank hợp tác với Fastcash đưa ra tính năng F@st
mobile giúp chuyển tiền qua Facebook và Google +...

3.2. Thảo luận về kết quả nghiên cứu


Thời đại công nghệ 4.0 bùng nổ, việc linh hoạt trong các giải pháp đáp ứng nhu
cầu của thị trường tài chính là điều các nhà chức trách của NHTW quốc tế đang hướng
tới. Điểm nổi bật trong chính sách ứng phó của các NHTW quốc tế đó là tắt chặt kiểm
soát vấn đề bảo mật thông tin. Rủi ro không gian mạng hiện nay rất lớn, việc các ngân
hàng trung ương dựng lên những tuyến phòng thủ mạnh về bảo mật trước các nguy cơ
khó lường là chính sách đúng đắn. Ngoài ra là sự phát minh đồng tiền kỹ thuật số
trung ương để giải quyết vấn đề thanh toán quốc gia để ngăn chặn hiện tượng bùng nổ
tiền điện tử hiện nay cũng là một giải pháp cấp thiết…
Tuy nhiên ngoài những kinh nghiệm quản lý thành công, giúp tăng trưởng kinh
tế mà ta đã tìm hiểu ở phía trên, chúng ta có thể thấy rõ được những lỗ hổng trong
những chính sách này. Những lỗ hổng đó chắc hẳn các nhà quản lý đã để mắt tới cũng
như thực hiện các nghiên cứu nhưng do nhiều yếu tố bất khả kháng mà đến nay nó vẫn
là một bài toán nan giải cho các nhà cầm quyền. Qua tìm hiểu kinh nghiệm quản lý của
các nước, nhóm chúng em muốn đưa ra quan điểm cá nhân về những điều dường như
các NHTW đang bỏ qua hoặc chưa có giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, tất cả các hệ thống quản lý của các nước nghiên cứu đều đang gặp
cản trở trong việc đồng bộ hóa lên hệ thống sổ cái kỹ thuật quốc gia. Sự đồng bộ là
cần thiết với bất kì bộ máy quản lý của bất kì quốc gia nào. Nó không chỉ đơn giản hóa
các thao tác trong kiểm soát dữ liệu, đặc biệt là thị trường tại chính – tiền tệ mà còn
tránh những sai sót không đáng có liên quan đến cả một thống kê quốc gia. Hơn nữa
đồng bộ hóa cũng tích kiệm thời gian và chi phí, những điều tra lấy được từ hệ thống
sẽ xuyên suốt, đầy đủ, dễ tìm kiếm, giúp các nhà chức trách của NHTW nhìn ra một
cách nhanh chóng những lỗ hổng của thị trường và ngay lập tức bổ sung, cải thiện sai
lầm đó. Các quốc gia đã rất chú tâm đến nghiên cứu và phát minh các máy móc, thiết
bị cũng như phần mềm bảo mật nhưng nó còn rời rạc, chưa thống nhất với nhau và
trên toàn bộ hệ thống để hoạt động lâu dài.
Ta có thể thấy rõ, sự thay đổi nhanh và tinh vi của các đồng tiền ảo, sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, việc kiểm soát được tất cả các dữ liệu của NHTW là vô cùng
cần thiết. Có công nghệ, sự thuận lợi trong giao dịch đã tạo nên sự sôi động hơn nữa
trong thị trường tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng cũng kèm theo đó là bài
toán cho các nhà cầm quyền trong việc làm thế nào để quản lý được hàng triệu, hàng
tỷ giao dịch diễn ra trong ngành, trong từng NHTM cũng như hệ thống các NHTM.
Đặc biệt, trên thị trường tài chính hiện nay đang dần được công chúng chấp nhận rộng
rãi các đồng tiền điện tử không do các ngân hàng trung ương phát hành như Bitcoin,
Onecoin, Lifecoin,... Về phương diện thị trường tài chính, việc đầu tư vào tiền điện tử
còn khá nhiều rủi ro cho nhà đầu tư khi giá của các đồng tiền này biến động với biên
độ lớn trong các phiên giao dịch. Về phía các nhà điều hành chính sách, sự xuất hiện
của tiền điện tử có thể sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả của các chính sách tiền tệ ở mỗi
quốc gia, đặc biệt là vấn đề tỷ giá và lãi suất…
EU đã thực hiện hàng ngàn nghiên cứu, thiết lập đồng tiền kỹ thuật số trung ương
nhưng việc đồng bộ hóa vẫn còn bị bỏ ngỏ, dường như họ đang tìm các phương án sao
cho phù hợp nhất vì nó khá tốn thời gian cũng như chi phí điều hành quản lý. Không
chỉ riêng EU, nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Anh,.. cũng tìm kiếm câu
trả lời và hướng đi thuyết phục nhất cho sự đồng bộ hóa không chỉ bộ máy quản lý của
NHTW đối với hệ thống các NHTM mà còn là với tất cả các trung gian tài chính khác.
Sự cải thiện dựa trên đồng bộ hóa này sẽ là một bước nhảy vọt đáng kể trong tư duy
quản lý của các nhà cầm quyền NHTW.
Thứ hai, đội ngũ các nhà quản lý của NHTW trong tương lai cần có một sự
hiểu biết nhất định và cơ bản về công nghệ kỹ thuật. Dường như, các vấn đề nghiên
cứu chưa thật sự quan tâm đến chất lượng đội ngũ các nhà quản lý của NHTW . Khi
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đến hồi cao trào, khi mà sức lao động của con người
dần bị thay thế bởi trí tuệ nhân tạo, người ta nghĩ rằng điều đó sẽ làm giảm chi phí thuê
nhân công cũng như bớt gánh nặng cho con người trong việc quản lý một cách chính
xác. Tuy nhiên, sự thật là việc nắm bắt được cơ chế hoạt động của công nghệ của tất cả
mọi người chứ không chỉ riêng các nhà quản lý mới là điều chúng ta cần quan tâm.
Các nhà chức trách cần có sự am hiểu về khoa học – kỹ thuật để có thể điều hành được
những “nhân viên tương lai” này. Nhưng có lẽ điều đó nên là bắt buộc đối với họ, kết
hợp với các kiến thức chuyên ngành về quản lý thị trường tài chính – tiền tệ, họ sẽ có
cách ứng phó nhanh và linh hoạt hơn nhiều so với bây giờ. Hiện nay, do thiếu đồng bộ
hóa cũng như việc áp dụng công nghệ AI dần dần vào các lĩnh vực còn khá mới, nhiều
nơi chưa thể quen được với các hoạt động của chúng. Nhưng trong tương lai, nếu các
nhà quản lý không chủ động điều hành và kiểm soát được hệ thống sẽ dẫn tới tình
trạng thiếu sót không đang có trên thị trường, đưa ra những quyết sách sai lầm mà có
khả năng không thể sửa chữa. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống các NHTM
mà còn làm giảm tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vì vậy muốn làm đúng ngay từ
đầu, các quốc gia cần trau dồi trước hết về chất lượng đội ngũ lãnh đạo NHTW để từ
đó có những buổi tập huấn tới các NHTM. Qua đó, sự chỉnh chu sẽ được xuyên suốt
toàn hệ thống.
Trong tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp như hiện nay, chúng ta
đang dần thay đổi cách điều hành thị trường. Tất cả đều làm việc ở nhà nên đôi khi sẽ
khó khăn cho các nhà lãnh đạo khi phải chỉ đạo thu thập dữ liệu cũng như các nghiên
cứu từ xa. Nhưng qua đó cũng sẽ là một vấn đề mà họ - các Thống đốc NHTW, cần
cân nhắc về việc có hay không ngay bản thân họ cũng cần đổi mới theo thời đại, tiếp
nhận các kiến thức về công nghệ thông tin, về mã hóa để phục vụ cho việc quản lý thị
trường tài chính tiện tệ nói chung và hệ thống các NHTM nói riêng.
Có thể nói, các bài nghiên cứu của các NHTW trên thế giới đã chỉ ra khá đầy
đủ các vấn đề then chốt mà hiện nay thị trường tài chính gặp phải trong việc quản lý hệ
thống NHTM. Tuy nhiên vẫn còn đâu đó những lỗ hổng rất nhỏ như chúng em đã bàn
luận và chỉ ra. Có lẽ hiện nay thì những vấn đề này không ảnh hưởng nhiều đến cách
họ quản lý hiệu quả NHTM nhưng chúng em tin rằng về lâu dài chắc chắn lỗ hổng này
sẽ để lại vài hệ lụy nghiêm trọng. Chúng em mong những ý kiến này sẽ góp phần giúp
các bộ máy quản lý NHTM của NHTW quốc tế hoàn thiện nhất có thể.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
4.1. Kết luận
Có thể nói, qua các nghiên cứu, CMCN 4.0 đem lại những cơ hội mới cho thế giới,
đặc biệt là lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng và dịch vụ thanh toán. Việc các NHTW
ứng biến một cách linh hoạt trong việc quản lý các trung gian tài chính, nổi bật là các
NHTM trước thời đại bùng nổ của tiền kỹ thuật số là điều vô cùng cần thiết. CMCN
4.0 sẽ thay đổi hoàn toàn phương thức huy động, phân phối vốn, tiếp cận vốn và các
sản phẩm dịch vụ tài chính cũng như biến đổi hoàn toàn kênh phân phối và các sản
phẩm dịch vụ của ngành ngân hàng truyền thống. Chính điều đó đòi hỏi các NHTW
cần sát sao hơn trong việc quản lý NHTM nhưng bằng cách mà Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư đang hướng tới: ứng dụng nhiều hơn công nghệ thông tin, kỹ thuật
số, tích hợp với nhiều sản phẩm dịch vụ phụ trợ nhằm làm hài lòng khách hàng, hỗ trợ
Chính phủ trong công tác điều tiết thị trường tài chính của quốc gia.

Với sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, “Ngân hàng không giấy”, dữ liệu lớn
(Big Data) và phân tích hành vi khách hàng được dự đoán là xu thế cho thời đại công
nghệ số trong tương lai gần khi có thể thu thập dữ liệu trong và ngoài nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ, mang lại giá trị gia tăng, giảm chi phí và hỗ trợ cho các quá trình
ra quyết định. Việc quản lý các trung gian tài chính chủ yếu dựa vào nền tảng công
nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều. Nhờ CMCN 4.0 mà hệ thống công nghệ thông tin
được ứng dụng sâu rộng vào hầu hết các hoạt động nghiệp vụ tài chính, trở thành một
phần không thể thiếu trong quản lý nhà nước nói chung và trong quản lý của NHTW
đối với các NHTM nói riêng.

Tuy vậy, CMCN 4.0 cũng đặt ra những thách thức cho nền tài chính các nước bởi
tính linh hoạt cần thiết trong thời đại mới. Với sự phát triển ngày càng tinh vi của công
nghệ và xu hướng chuyển dần sang điện toán đám mây, những lỗ hổng bảo mật cũng
vì thế mà tăng theo, kéo theo những lo ngại ngày càng nghiêm trọng về rủi ro tấn công
tin tặc. Thật sự, vấn đề bảo mật thông tin cho người dùng chưa bao giờ cấp thiết đến
thế. Sự xuất hiện và thay đổi khó lường của các loại tiền ảo như: Bitcoin, Libra,
Etherum… trên thị trường tài chính đang khiến thị trường tiền tệ lao đao còn người
dùng thì đứng trước nguy cơ bị đánh cắp thông tin,…Sự phát triển của các loại tiền ảo,
tiền điện tử không phải do NHTW phát hành sẽ buộc các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam phải thay đổi cách thức điều hành chính sách tài chính tiền tệ để thích
ứng do khả năng ảnh hưởng tới các chỉ số tiền tệ trong mục tiêu ổn định giá cả. Hơn
nữa, các chính sách quản lý NHTM của NHTW trong thời đại này còn lỏng lẻo, chưa
bám sát bởi tính “mới” hay thay đổi của công nghệ kỹ thuật. Thật khó để các nhà chức
trách có thể đưa ra ngay các giải pháp nếu không nghiên cứu và thử ngiệm hàng năm
trời. Nền tài chính Việt Nam trong thời kỳ hội nhập CMCN 4.0 cũng đặt ra những
thách thức về bảo mật, an ninh mạng. Thời đại 4.0 được coi là cú nhảy vọt lớn khiến
thị trường lao động thay đổi theo: số lượng nhân viên của các ngân hàng, tổ chức tài
chính, công ty chứng khoán sụt giảm một cách đáng kể (đặc biệt là với các bộ phận kỹ
sư tin học, giao dịch chi nhánh…). Thực tế hiện nay tại Việt Nam đã có sự cắt giảm
nhân sự để thay thế bằng trí tuệ nhân tạo ở một số doanh nghiệp giúp tích kiệm chi phí
đáng kể.

Nhìn chung, tác động của CMCN 4.0 tới sự quản lý NHTW đối với các NHTM khá
là rõ ràng. Ngay cả những NHTW trên thế giới như ECB hay Fed đều đang phải liên
tục có những chính sách mới đáng ứng tối ưu việc quản lý hệ thống tài chính để ổn
định thị trường, Việt Nam đang cố gắng hết sức mình để có phản ứng nhanh nhất có
trong việc chủ động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ của CMCN 4.0 vào
đổi mới cách thức quản trị ngân hàng; đổi mới quan hệ khách hàng; hiện đại hóa cách
thức thực hiện giao dịch; ứng dụng trí tuệ nhân tạo; ứng dụng điện toán đám mây;
công nghệ Fintech trong thanh toán...Nhưng những chính sách này còn nhiều bất cập
và chưa được phổ biến rộng rãi tới hầu hết các tỉnh thành, việc nghiên cứu, chủ động
ứng dụng công nghệ còn rất rời rạc và chỉ diễn ra chủ yếu ở các tổ chức lớn - là nhóm
có thế mạnh sẵn có về khoa học - công nghệ trước.

Với đặc trưng là ứng dụng phổ biến các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, trí
tuệ nhân tạo và kết nối mạng, sự phát triển của công nghiệp 4.0 đặt ra cho các NHTW
nhu cầu cấp bách trong việc quản lý chặt chẽ, dứt khoát, đưa ra các chiến lược đúng
đắn, thận trọng nhưng vẫn phải áp dụng được tối đa công nghệ kỹ thuật vào hệ thống
các NHTM.

4.2. Kiến nghị giải pháp


DANH MỤC THAM KHẢO

You might also like