You are on page 1of 48

Ghi chú: chị đã cắt bớt 1 số phần và lấy những ý chính bằng cách dạ

quang với đổi màu chữ (có mấy phần chị sẽ để nguyên phần mấy em làm ko
cắt coi như là thông tin thêm cho bạn nào muốn nói thêm dô cho phần thuyết
trình của mình)
chữ thường: cái này là chị dạ quang những ý chính trong bài nhaa coi như là phần
mấy em thuyết trình luôn á (ngoài ra nếu mấy em muốn nói thêm thì có thể lấy những
phần dạ quang rồi ghép nối từ vô để nói cho mượt hơn)
chữ màu tím: cái này chị tô những khái niệm với những kết luận nên phần này cũng
là phần quan trọng để mấy em nói luôn nha.
 Những bạn nào thuyết trình thì phô ra để dễ nhìn hơn nhaa ngoài ra có dì thì
note lên giấy luôn cho nó dễ.
DANH TỪ VIẾT TẮT VÀ GIẢI THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ.
CBDC_Central Bank Digital Currency_Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng trung ương
BIS_Bank for International Settlements_Ngân hàng Thanh toán Quốc tế
PwC_PricewaterhouseCoopers_ một trong những tập đoàn kiểm toán và tư vấn lớn
nhất trên thế giới. PwC cung cấp dịch vụ kiểm toán, tư vấn thuế, tư vấn doanh nghiệp,
và tư vấn chiến lược cho các tổ chức và doanh nghiệp trên toàn cầu. Đây là một trong
các công ty "Big Four" kiểm toán hàng đầu, bên cạnh Deloitte, Ernst & Young và
KPMG.
Đồng e-CNY_Digital Yuan_đồng nhân dân tệ kỹ thuật số
EU_European Union_Liên minh Châu Âu
Blockchain_công nghệ chuỗi khối là hệ thống lưu trữ và truyền dẫn dự liệu an toàn
và không thể thay đổi, không càn đến trung gian
ASEAN+3_là cơ chế hợp tác giữa ASEAN và ba quốc gia Đông Bắc Á gồm Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
NHTW_Ngân hàng Trung ương
NHTM_Ngân hàng thương mại
NHNH_ Ngân hàng Nhà nước
UAE_United Arab Emirates_Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
DC/EP_ tiền tệ kỹ thuật số/thanh toán điện tử _là loại tiền điện tử hợp pháp duy nhất
ở Trung Quốc do NHTW Trung Quốc phát hành và kiểm soát, được dùng cho 3 chức
năng chính: Thanh toán, gửi tiền và rút tiền thông qua giao dịch điện tử.
DCEP_ Digital Currency Electronic Payment_tiền số thanh toán điện tử_ là loại tiền
điện tử hợp pháp duy nhất ở Trung Quốc do NHTW Trung Quốc phát hành và kiểm
soát, được dùng cho 3 chức năng chính: Thanh toán, gửi tiền và rút tiền thông qua
giao dịch điện tử.
Cryptocurrency_ một dạng tiền điện tử được tung ra và phát hành bởi các dự án
Blockchain được dùng tương tự một phương tiện giao dịch như tiền thật trong thực
tế, nhưng những giao dịch này lại được diễn ra trên nền tảng Blockchain
Stablecoin_ một loại tiền điện tử được tạo ra để theo dõi giá trị của một tài sản hoặc
đồng tiền khác. Các giao dịch với Stablecoin có thể thực hiện trên các sàn quốc tế,
thường tính theo đơn vị đô la Mỹ hoặc Euro
PoC_Proof of Concept_Chứng minh tính khả thi
DLT_ Distributed ledger technology_Công nghệ sổ cái phân tán

VỀ CÁC DỰ ÁN TIỀN KỸ THUẬT SỐ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
(CBDC)
Giới thiệu. (Mỹ Trà)
Tiền kỹ thuật số do Ngân hàng trung ương phát hành (CBDC) là một chủ đề
quan trọng, được thảo luận và trao đổi ở nhiều diễn đàn. Mặc dù còn nhiều quan
điểm khác nhau, nhưng hiện nay phần lớn các ngân hàng trung ương đều đang nghiên
cứu về khả năng ứng dụng của CBDC. Các ngân hàng trung ương đang ngày càng
nghiên cứu sâu hơn về hàm ý chính sách tiền tệ và hệ thống tài chính trong việc phát
hành CBDC.
Sự ra đời của CBDC có thể đại diện cho một sự đổi mới quan trọng trong lịch
sử tiền tệ và ngân hàng. CBDC thường được quảng bá như một phương tiện để đạt
tài chính toàn diện ở những nơi trước đây không có ngân hàng, cũng như là một giải
pháp thay thế an toàn hơn cho các tài khoản ngân hàng thương mại. Sự ra đời của
CBDC sẽ có những ảnh hưởng gì đối với hoạt động trung gian tài chính?
Liệu CBDC có làm giảm vai trò của hệ thống tài chính trong việc phân bổ vốn
cho các dự án hiệu quả? Liệu một CBDC có khiến hoạt động ngân hàng biến mất và
tác động đến sự ổn định của hệ thống tài chính?
Để có thể trả lời những câu hỏi trên nhóm chúng em chọn tìm hiểu về chủ đề
“Tiền kỹ thuật số Ngân hàng trung ương (CBDC)” nhằm mục tiêu đưa ra các
thông tin, các dẫn chứng và những ảnh hưởng của đồng tiền CDBC đối với nền kinh
tế, hệ thống tài chính.
I. Tổng quan tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương. (Mỹ Trà)
1.1 Khái niệm về tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương.
CBDC là “một dạng tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương khác với
số dư trong tài khoản dự trữ hoặc tài khoản thanh toán truyền thống” (BIS, 2018).
Được coi là một đại diện kỹ thuật số của tiền tệ pháp định, CBDC là một
khoản nợ (liability) của ngân hàng trung ương giống như tiền tệ vật chất (physical
currency). Đây là điểm khác biệt chính giữa CBDC và các hình thức tiền mã hóa
khác như cryptocurrency và stablecoin (PwC, 2021).
Các loại tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương đại diện cho một dạng tiền
điện tử (electronic money) mới, không giống như các loại tiền mã hóa như Bitcoin
hoặc Ether, được phát hành bởi các ngân hàng trung ương của một số quốc gia nhất
định. Là một phiên bản kỹ thuật số của tiền giấy, CBDC cung cấp một giải pháp thay
thế không rủi ro cho tiền gửi ngân hàng tư nhân. Thế hệ CBDC đầu tiên có khả năng
tương tác và khả năng lập trình hạn chế.
Thế hệ tiếp theo, CBDC 2.0, có thể sẽ hoạt động ở cấp độ quốc gia hoặc siêu
quốc gia (trong trường hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu) (Burchardi & cộng
sự, 2020).
1.2 Lịch sử hình thành tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương.
Các chuyển đổi tiền tệ trong lịch sử được thúc đẩy bởi sự thay đổi công nghệ,
thay đổi thị hiếu, tăng trưởng kinh tế và các nhu cầu nhằm thỏa mãn các chức năng
của tiền tệ một cách hiệu quả. Tiền (và tài chính) đã phát triển cùng với lịch sử loài
người (Goetzmann, 2017). Ba lần chuyển đổi trong kỷ nguyên hiện đại đã tạo tiền
đề cho quá trình chuyển đổi kỹ thuật số hiện nay, đó là: (1) Sự chuyển đổi trong thế
kỷ thứ 18 và 19 từ tiền hàng hóa (kim loại) tức là tiền vàng và bạc, chuyển đổi thành
tiền ủy thác (fiduciary money) kim loại do các ngân hàng phát hành (ngân hàng
thương mại và ngân hàng trung ương) cũng như tiền pháp định được phát hành bởi
chính phủ; (2) Sự chuyển đổi trong thế kỷ 19 và 20 từ tiền giấy được ngân hàng
thương mại phát hành sang ngân hàng trung ương độc quyền phát hành; (3) Kể từ
thế kỷ 17 (và thậm chí trước đó) với sự tiến triển của các ngân hàng trung ương và
các công cụ của chính sách tiền tệ (Bordo, 2021).
Lần chuyển đổi thứ 1.
Trong thế kỷ 18 và 19, công nghệ tài chính mới đã dẫn đến sự ra đời của tiền ủy
thác (tiền giấy khả hoán), làm giảm đáng kể chi phí tài nguyên của tiền kim loại.
Các ngân hàng thương mại bắt nguồn từ việc phát hành biên lai nhập kho đối với
vàng ký gửi của các thợ kim hoàn ở Ý thời trung cổ. Điều này dẫn đến sự phát triển
của ngân hàng dự trữ một phần (fractional reserve banking).
Ngoài ra, chi phí tài chính gia tăng cho chiến tranh trong thời kỳ đầu hiện đại đã
dẫn đến việc các chính phủ phát hành tiền pháp định bất khả hoán (inconvertible fiat
money – tiền pháp định không thể chuyển đổi thành tiền kim loại). Riksbank đã
phát hành tiền pháp định để tài trợ cho Chiến tranh Bảy năm (Seven Years War)
trong việc sử dụng thuế lạm phát trước đó (Bordo & Levy, 2021).
Các ví dụ khác bao gồm vấn đề Các lục địa trong Chiến tranh Cách mạng Hoa
Kỳ và các vấn đề trong Cách mạng Pháp dẫn đến siêu lạm phát (Capie, 1986; White,
1995). Cho đến cuối thế kỷ 20, tiền pháp định có liên quan đến lạm phát cao.
Chỉ trong vài thập kỷ gần đây, các cơ quan quản lý tiền tệ mới học được công
nghệ để vận hành các chế độ tiền pháp định lạm phát thấp đáng tin cậy (Bordo &
Flandreau, 2003). Xét về mặt xã hội thì CBDC tiết kiệm hơn so với tiền giấy pháp
định, do đó CBDC hứa hẹn sẽ là thế hệ tiếp theo trong sự phát triển này.
Lần chuyển đổi thứ 2.
Sự ghi chép đầu tiên về các ngân hàng thương mại phát hành tiền giấy (notes)
không được giám sát bởi các quy định, trên danh nghĩa có thể chuyển đổi thành tiền
kim loại (specie), đã có một lịch sử rõ ràng. Bản ghi chép này đã được sử dụng làm
hiện trạng cho những quy định về ngân hàng và sự độc quyền của chính phủ đối với
việc phát hành tiền giấy.
Trường hợp bất ổn kinh điển là trải nghiệm Ngân hàng tự do của Hoa Kỳ 1836-
1863 sau sự sụp đổ của Ngân hàng Thứ hai Hoa Kỳ (Hammond, 1957). Nhiều bang
cho phép các nhóm công dân thành lập ngân hàng phát hành tiền giấy với quy định
tối thiểu (có thể chuyển đổi thành tiền kim loại theo nhu cầu, yêu cầu vốn thấp, yêu
cầu dự trữ thấp, hỗ trợ bằng trái phiếu chính phủ bang). Wild bank là tên gọi dành
cho loại hình ngân hàng trên (ngân hàng hoang dã) đã được ghi nhận sự bất ổn
đáng kể với việc thất bại thường xuyên, thỉnh thoảng có gian lận và tiền giấy lưu
hành với tỷ lệ chiết khấu được xác định theo khoảng cách đến ngân hàng gốc để
chuộc lại (Gorton, 1996). Máy phát hiện hàng giả đã cung cấp thông tin về tờ tiền bị
hỏng, làm giả và tỷ lệ chiết khấu. Thông tin bất cân xứng đối với một hệ thống nhiều
đơn vị tiền tệ đã tạo ra một hệ thống thanh toán kém hiệu quả, từ đó dẫn đến sự cải
cách với hệ thống ngân hàng quốc gia được hỗ trợ bởi trái phiếu chính phủ liên bang
và cung cấp một loại tiền tệ thống nhất vào năm 1863.
Goodhart (1988) cho rằng ngân hàng Scotland là tổ chức độc quyền vào thế kỷ
18 và đầu thế kỷ 19, chủ sở hữu ngân hàng phải chịu trách nhiệm vô hạn, và sự hiện
diện của Ngân hàng Anh là người cho vay cuối cùng; một hệ thống tiền giấy an toàn
đã được tạo ra bởi hệ thống ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ (1863-1913), dựa trên 110%
trị giá của trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ và quỹ mua lại giấy bạc. Các ngân hàng đủ
tiêu chuẩn của Canada sau năm 1867 cũng có thành tích tốt và việc thua lỗ đối với
tiền giấy đã được ngăn chặn bằng cách thành lập quỹ mua lại tiền giấy, nhưng vẫn
còn đó cả Hoa Kỳ và Canada, thất bại ngân hàng tạo ra rủi ro tín dụng và đã gây ra
chi phí giao dịch đáng kể.
Trong tất cả những trường hợp này, việc phát hành tiền giấy cuối cùng đã bị thu
hút bởi sự độc quyền của ngân hàng trung ương / chính phủ. Do đó, giống như lịch
sử của nhiều loại tiền tệ cạnh tranh dẫn đến việc ngân hàng trung ương sẽ cung cấp
tiền tệ; sự gia tăng ngày nay của tiền mã hóa (cryptocurrencies) và đồng tiền ổn
định (stablecoins) cho thấy kết quả cũng có thể là một quá trình hợp nhất theo hướng
CBDC.
Lần chuyển đổi thứ 3.
Sự phát triển của các ngân hàng trung ương trong thế kỷ 17 đến thế kỷ 20 nhằm đáp
ứng một số nhu cầu quan trọng:
- (1) Trong thế kỷ 17 và 18, phần lớn tài chính là dành cho chiến tranh. Ví dụ,
Ngân hàng Riksbank (của Thụy Điển) thành lập năm 1667 và Ngân hàng Anh
năm 1694, hỗ trợ chính phủ cấp vốn và mua bán nợ của mình.
- (2) Vào đầu thế kỷ 20, một số ngân hàng trung ương đã được thành lập để
cung cấp một hệ thống thanh toán hiệu quả, nhằm sửa chữa những khiếm
khuyết của nhiều loại tiền tệ cạnh tranh, điển hình là Ngân hàng Quốc gia
Thụy Sĩ vào năm 1907 (Bordo & James, 2007);
- (3) Liên quan đến (2), nhiều ngân hàng trung ương được thành lập để cung
cấp sự ổn định tài chính. Trường hợp điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang,
được thành lập vào năm 1913, để cung cấp một loại tiền tệ co giãn và hoạt
động như một người cho vay cuối cùng để giải quyết vấn đề khủng hoảng
ngân hàng đang diễn ra (Bordo & Wheelock, 2013). Hoạt động cho vay cuối
cùng được phát triển ở Anh vào thế kỷ 19 với Quy tắc Bagehot (vào năm
1873) như trường hợp của các nước Châu Âu tiên tiến khác.
- (4) Để đảm bảo sự ổn định về giá trị của đồng tiền, hầu hết các ngân hàng
trung ương ban đầu hoạt động theo chế độ bản vị vàng cổ điển với quy tắc cơ
bản là tuân thủ giá vàng cố định. Với mục tiêu hướng tới một loại tiền tệ hỗn
hợp (tiền kim loại và tiền giấy khả hoán), Ngân hàng Anh đã tiên phong học
hỏi trong suốt thế kỷ 19, để ổn định nền kinh tế và đảm bảo khả năng chuyển
đổi thành vàng khi đối mặt với những cú sốc cả bên trong và bên ngoài (Viner,
1937). Chìa khóa cho sự thành công tương đối của Ngân hàng trung ương Anh
(BoE) là uy tín được duy trì bằng cách phục vụ các mục tiêu bên trong và bên
ngoài. Với sự tín nhiệm của mình, BoE linh hoạt tuân theo các chính sách ổn
định trong vùng mục tiêu của điểm vàng9 (Bordo & MacDonald, 2012). Các
nước châu Âu tiên tiến khác cũng thực hiện theo.
Một bộ công cụ chính sách tiền tệ đã được phát triển cho đến nay trong quá trình
phát triển của ngân hàng trung ương. Ngân hàng Anh trong suốt thế kỷ 19 đã dùng
lãi suất chiết khấu để dẫn dắt nền kinh tế vượt qua sự thăng trầm. Sayers (1957) đã
mô tả ngân hàng học hỏi phương thức làm cho tỷ suất chiết khấu có hiệu quả trong
những năm 1870 và 1880 bằng cách sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở. Những
công cụ tương tự như vậy cũng được các ngân hàng trung ương châu Âu khác phát
triển. Trong thế kỷ 20, các công cụ bổ sung đã được thêm vào ở các quốc gia khác
nhau: thay đổi yêu cầu dự trữ, cơ sở Lombard, repo; và trong thế kỷ 21 có công cụ
nới lỏng định lượng (quantitative easing) khi đối mặt với ELB.
- (5) Kể từ Thế chiến thứ hai, các ngân hàng trung ương đã được chính phủ và
công chúng khuyến khích cung cấp ổn định chu kỳ kinh doanh, ổn định vĩ mô,
duy trì toàn dụng lao động và ổn định giá cả. Thông qua một quá trình học hỏi
chậm chạp và khó khăn, đến ngày nay chính sách này đã phát triển thành lạm
phát mục tiêu linh hoạt dựa trên sự tin cậy đối với lạm phát thấp. Tiền kỹ thuật
số của ngân hàng trung ương sẽ tiếp nối truyền thống này với lãi suất trên
CBDC (dương hoặc âm) như một công cụ chính sách để ổn định nền kinh tế.
Nội dung trên nêu rõ trường hợp của CBDC thông qua lăng kính của lịch sử tiền
tệ. Lịch sử của những lần chuyển đổi trong hệ thống tiền tệ cho thấy rằng, các động
lực tài chính của nền kinh tế thị trường là điểm mấu chốt thúc đẩy sự thay đổi kỹ
thuật về tiền. Chính phủ luôn có vai trò chủ chốt trong việc cung cấp tiền ra bên
ngoài, vốn là một lợi ích công cộng. Chính phủ cũng đã điều tiết tiền nội bộ được
cung cấp bởi khu vực tư nhân. Tiền ủy thác cũng được điều tiết bởi chính phủ và có
khả năng sẽ áp dụng cho tiền kỹ thuật số. CBDC có thể làm cho chính sách tiền tệ
hiệu quả hơn và có thể biến đổi hệ thống tiền tệ và thanh toán quốc tế (Bordo, 2021).
1.3 Sự phổ biển của tiền kỹ thuật số đã có những ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ
thống tài chính truyền thống.
Rủi ro về bảo mật và gian lận: Một trong những ảnh hưởng tiêu cực của tiền
kỹ thuật số đối với hệ thống tài chính truyền thống là sự tăng cường các rủi ro bảo
mật và gian lận. Ví dụ, trong một số trường hợp, các sàn giao dịch tiền mã hóa đã bị
tấn công mạng và mất hàng triệu đô la tiền mã hóa của người dùng. Sự mất mát này
không chỉ gây ra tổn thất tài chính mà còn làm giảm niềm tin của người dùng trong
hệ thống tài chính truyền thống.
Biến động giá không ổn định: Tiền kỹ thuật số thường có biến động giá cực
kỳ lớn trong thời gian ngắn. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2021, giá của Bitcoin giảm gần
một nửa chỉ trong vòng vài tuần. Những biến động này tạo ra sự không ổn định trong
hệ thống tài chính truyền thống và làm suy giảm niềm tin của người dùng trong các
loại tài sản kỹ thuật số.
Thách thức pháp lý và quản lý rủi ro: Sự phát triển của tiền kỹ thuật số tạo
ra những thách thức pháp lý và quản lý rủi ro đối với hệ thống tài chính truyền thống.
Ví dụ, một số quốc gia đã áp đặt các hạn chế hoặc cấm vận đối với việc sử dụng
hoặc giao dịch tiền mã hóa, gây ra sự không chắc chắn và khó khăn cho các nhà đầu
tư và tổ chức tài chính.
Sự cạnh tranh với tiền tệ truyền thống: Sự phổ biến của tiền kỹ thuật số có
thể gây ra sự cạnh tranh với tiền tệ truyền thống, đặc biệt là đối với các ngân hàng
trung ương. Ví dụ, sự gia tăng của Bitcoin có thể ảnh hưởng đến vai trò và khả năng
kiểm soát tiền tệ của các ngân hàng trung ương, gây ra những lo ngại về tài chính và
kinh tế.
Tác động tiêu cực đến chính sách tiền tệ: Sự phổ biến của tiền kỹ thuật số có
thể tạo ra những tác động tiêu cực đối với chính sách tiền tệ của các quốc gia. Ví dụ,
việc tăng trưởng nhanh chóng của Bitcoin có thể làm giảm khả năng kiểm soát của
các ngân hàng trung ương đối với lạm phát và chính sách tiền tệ khác.
II. Khái niệm về tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương. (đã nói ở phần 1.1,
phần này là làm rõ khái niệm này với một khái niệm khác) (Mỹ Trà)
2.1 Khái niệm về tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC).
CBDC là “một dạng tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương khác với số dư
trong tài khoản dự trữ hoặc tài khoản thanh toán truyền thống” (BIS, 2018)
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlements – BIS) đưa
ra giải thích CBDC là “tài sản thể hiện dưới dạng số”
- CBDC tồn tại trong môi trường kỹ thuật số  nhận định hợp lý phù hợp với
đặc điểm cơ bản của tiền kỹ thuật số.
- BIS xem CBDC như một loại tài sản mà không đề cập là loại tài sản nào; nếu
như không phải là tiền pháp định tồn tại ở phiên bản kỹ thuật số thì không phù
hợp với ý tưởng của xu hướng phát hành CBDC do các quốc gia trên thế giới
đưa ra.
Tuy nhiên Ngân hàng trung ương Jamaica đưa ra cách giải thích về CBDC như
sau: “CBDC là một dạng tiền tệ kỹ thuật số do Ngân hàng trung ương phát hành
và do đó nó được đấu thầu hợp pháp. Không nên nhầm lẫn với tiền điện tử, được
phát hành bởi tư nhân và không được hỗ trợ bởi cơ quan trung ương. CBDC được
hỗ trợ hoàn toàn bởi Ngân hàng trung ương, nhà phát hành duy nhất”
 Với định nghĩa trên, Ngân hàng Trung ương Jamaica cũng đã giải thích được
CBDC mang đặc điểm cơ bản nhất của một loại tiền kỹ thuật số là sự tồn tại trong
nền tảng kỹ thuật số, không có hình thái vật chất. So với Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế chỉ nêu được CBDC là một loại tài sản mà chưa giải thích thuộc loại nào thì
Ngân hàng trung ương Jamaica đã làm rõ:
- CBDC là một loại tiền tệ được pháp luật điều chỉnh, đưa ra đặc điểm cơ bản
để phân biệt CBDC với các loại tiền điện tử của các tổ chức tín dụng.
- Chủ thể phát hành duy nhất tiền mã hóa đó là Ngân hàng trung ương – cơ
quan phát hành, quản lý tiền tệ.
 Như vậy, có thể thấy rằng, tuy có những giải thích khác nhau nhưng nhìn
chung những quan điểm trên cũng đã đưa ra cách nhìn nhận cơ bản đối với
CBDC.
Ví dụ: Nhóm thứ nhất gồm các quốc gia dẫn đầu đã chính thức triển khai rộng rãi Commented [DL1]: Mức độ nghiên cứu và triển khai
CBDC của các quốc giá trên thế giới tính tới tháng
hoặc đang thử nghiệm CBDC diện rộng như Trung Quốc, Bahamas, Thụy Điển, 1/2022

Uruguay,… bao gồm 26 nước.


Nhóm thứ hai (trong đó có Việt Nam) hiện chiếm đa số, là những quốc gia có
động thái tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho thử nghiệm, triển khai hoặc
đang nghiên cứu, tìm hiểu về CBDC, với khoảng 72 quốc gia.
Nhóm thứ ba gồm 12
quốc gia đang tạm dừng hoặc đã
hủy bỏ dự án CBDC. Các vấn đề
về CBDC khi nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế trải dài nhiều
khía cạnh khác nhau nhưng
quan trọng nhất là các vấn đề
được đề cập dưới đây.
Theo thống kê của Ngân
hàng Thanh toán Quốc tế (BIS)
thực hiện năm 2021, 86% số
ngân hàng trả lời đã thực hiện nghiên cứu về các tác động tiềm tàng của CBDC đối
với nền kinh tế. Điều đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và mới nổi đang năng
động hơn so với các quốc gia phát triển với việc thúc đẩy CBDC bán lẻ, loại tiền kỹ
thuật số tương đương với tiền giấy, do doanh nghiệp và người tiêu dùng nắm giữ để
thanh toán, trao đổi. Tại châu Á, các quốc gia đi đầu về CBDC bao gồm Trung Quốc,
Campuchia, và Hàn Quốc.
Đồng e-CNY của Trung Quốc đã bắt đầu được nghiên cứu từ 2014, thí điểm
ra công chúng từ hồi tháng 4/2020 và đi vào vận hành từ tháng 2/2022 cùng với việc
tổ chức Olympic Games mùa đông. Đây là mô hình CBDC tiên tiến nhất hiện nay.
Thái Lan bắt đầu thử nghiệm CBDC từ tháng 6/2020, và Ngân hàng Trung ương Hàn
Quốc kế hoạch phát hành CBDC vào tháng 7/2021. Campuchia và Bahamas là hai
quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa CBDC vào vận hành chính thức. Các quốc gia
phát triển hiện đang tập trung nhiều hơn vào mảng CBDC bán buôn áp dụng giữa
các tổ chức tài chính, chủ yếu được sử dụng với mục đích thanh toán liên ngân hàng.
Mặc dù tới nay chưa có CBDC bán buôn nào hoàn thiện, khoảng 70% các dự án bán
buôn đã được chạy thử nghiệm. Theo kế hoạch, dự kiến trong nửa đầu năm 2022,
Liên minh châu Âu (EU) sẽ công bố kết quả về việc sử dụng CBDC cho thanh toán
quốc tế, và tháng 10/2023, EU sẽ có kết luận về dự án đồng EUR kỹ thuật số. Tại
châu Á, Hongkong, Thái Lan, Singapore và Nhật Bản đang hợp tác trong dự án
Inthanon-Lionrock (dự án tài chính công nghệ hợp tác giữa Ngân hàng Thái
Lan (BOT); Cơ quan tiền tệ Hồng Kông (HKMA), cho phép các quốc gia thành
viên tăng cường khả năng vận hành nội tại, đồng thời thử nghiệm việc thúc đẩy thanh
toán và chuyển tiền xuyên biên giới.
2.2 Sự khác biệt giữa CBDC và tiền điện khác nhau như thế nào? (cụ thể giữa
CBDC và Bitcoin)
Nói sơ lược về đồng tiền Bitcoin.
- Bitcoin là một loại tiền điện tử (cryptocurrency) đầu tiên và phổ biến nhất trên
thế giới.
- Nó được tạo ra vào năm 2009 bởi một người hoặc một nhóm người ẩn danh
dưới bí danh Satoshi Nakamoto và công nghệ của nó được công bố qua một
whitepaper được đăng trên một diễn đàn trực tuyến.
- Ngoài ra Bitcoin có thể trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà
không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.
- Bitcoin hoạt động dựa trên một công nghệ gọi là blockchain một loại số cái
công cộng (public ledger) lưu trữ tất cả giao dịch được thực hiện với Bitcoin.
Điều này co phép mọi người tham gia mạng lưới Bitcoin kiểm trả và xác nhận
các giao dịch mà cần tin cậy vào một bên trung gian nào.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng trung ương (CBDC) Tiền điện tử Bitcoin
Nguồn gốc và quản Là một dạng tiền tệ kỹ thuật số được Được tạo ra bởi một người hoặc
phát hành và quản lý bởi ngân hàng nhóm người sử dụng bí danh

trung ương của một quốc gia hoặc Satoshi Nakamoto vào năm 2009.
khu vực. Bitcoin không có một cơ quan quản
CBDC thường được tạo ra để cung lý trung ương và hoạt động trên cơ
cấp một lựa chọn tiền tệ kỹ thuật số sở một mạng lưới phân tán gọi là
pháp lý và an toàn hơn so với tiền blockchain.
mặt và để tăng cường sự hiệu quả
của hệ thống thanh toán quốc gia.
Tính tập trung và Là một hình thức tiền tệ tập trung, Là một loại tiền tệ phân tán, không
nghĩa là quyền kiểm soát và quản lý có một tổ chức hoặc cá nhân nào
phân tán
đặc quyền đối với CBDC nằm trong kiểm soát hoặc quản lý mạng lưới
tay ngân hàng trung ương hoặc các Bitcoin. Mọi giao dịch được xác
cơ quan tài chính quốc gia. nhận thông qua một quá trình phân
quyền và được lưu trữ trên
blockchain một cách công khai
Cách thức giao CBDC thường được giao dịch thông Người dùng Bitcoin có thể thực hiện
qua hạ tầng thanh toán truyền thống giao dịch bằng cách sử dụng các ví
dịch
của một quốc gia: ngân hàng thương điện tử (wallet) hoặc các nền tảng
mại và các tổ chức tài chính được giao dịch trực tuyến được cung cấp
quy định bởi ngân hàng trung ương bởi các sàn giao dịch tiền điện tử.
Người dùng có thể sử dụng CBDC Mối giao dịch Bitcoin cần được xác
để thực hiện các giao dịch thanh nhận thông qua quá trình đào
toán, chuyển tiền giữa các tài khoản (mining) trên mạng lưới blockchain,
và thực hiện các hoạt động tài chính trong đó các thợ đào (miners) giải
khác tương tự như tiền mặt hoặc tiền mã các khối giao dịch và thêm
điện tử khác chúng vào blockchain.
Các giao dịch CBDC thường được Giao dịch Bitcoin có thể diễn ra một
thực hiện qua các kênh truyền thống cách nhanh chóng và toàn cầu mà
như hệ thống ngân hàng trực tuyến, không cần phải thông qua bất kỳ cơ
thẻ tín dụng hoặc thông qua các ứng quan trung gian nào. Tuy nhiên,
dụng di động được cung cấp bởi các việc xác nhận giao dịch có thể mất
tổ chức tài chính thời gian và phụ thuộc vào việc có
bao nhiêu thợ đào tham gia vào
mạng lưới Bitcoin.
Quy định và pháp Thường được pháp lý hóa và điều Không có một quy định hoặc pháp
chỉnh bởi các cơ quan quản lý tài lý chung đối với Bitcoin trên toàn

chính và ngân hàng trung ương theo cầu. Mỗi quốc gia có thể áp dụng
quy định của từng quốc gia. Việc các quy định khác nhau đối với
pháp lý hóa CBDC giúp đảm bảo Bitcoin, từ việc hoàn toàn cấm đến
tính bảo mật, tính minh bạch và tính việc chấp nhận và điều chỉnh.
an toàn cho người dùng.
Giá trị và tính Thường được liên kết với tiền tệ Giá trị của Bitcoin phụ thuộc hoàn
truyền thống của một quốc gia và có toàn vào thị trường và có thể biến
thanh khoản
giá trị ổn định. Sự thanh khoản của động mạnh. Tính thanh khoản của
CBDC phụ thuộc vào hệ thống Bitcoin phụ thuộc vào sự chấp nhận
thanh toán quốc gia và các quy định của thị trường và khả năng giao dịch
liên quan. của người dùng.

2.3 Mục tiêu và lợi ích của việc triển khai CBDC cho ngân hàng trung ương

2.3.1 Mục tiêu của việc triển khai CBDC


Nâng cao hiệu quả thanh toán: CBDC có thể giúp cải thiện hiệu suất và tốc
độ các giao dịch thanh toán của hệ thống bằng cách giảm thời gian xử lý cũng như
loại bỏ các bước trung gian và giảm thời gian xử lý chi phí giao dịch.
Tăng cường sự minh bạch và kiểm soát: CBDC cho phép ngân hàng trung
ương theo dõi mọi giao dịch tài chính trên một nền tảng kỹ thuật số, từ đó giúp giảm
thiểu hoạt động rửa tiền, gian lận và tăng cường sự minh bạch trong hệ thống tài
chính.
Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính số: Việc triển khai CBDC
thể hiện cam kết của ngân hàng trung ương trong việc thúc đẩy sự phát triển của hệ
thống tài chính số, mở ra cơ hội cho các dịch vụ tài chính mới và sự sáng tạo trong
ngành
2.3.2 Lợi ích
Giảm Chi Phí và Thời Gian Giao Dịch: CBDC giúp giảm bớt chi phí giao
dịch và thời gian xử lý so với các hình thức thanh toán truyền thống như chuyển
khoản ngân hàng, thẻ tín dụng và tiền mặt.
Tăng Cường Tiện Lợi và Tiếp Cận: CBDC tạo ra sự tiện lợi và tiếp cận cho
người dùng, giúp họ thực hiện các giao dịch một cách nhanh chóng và dễ dàng thông
qua các ứng dụng di động và các dịch vụ tài chính trực tuyến.
Bảo Vệ Tiền Tệ Truyền Thống: CBDC giúp ngăn chặn sự tiêu thụ của các
loại tiền điện tử khác và giữ cho ngân hàng trung ương có quyền kiểm soát tiền tệ
trong nước, đảm bảo tính ổn định và an ninh tài chính.
Tăng Cường Minh Bạch và Tuân Thủ Pháp Luật: CBDC tạo điều kiện cho
sự minh bạch và tuân thủ pháp luật trong các giao dịch tài chính, giúp giảm thiểu rủi
ro liên quan đến hoạt động phi pháp và làm tăng sự tin cậy vào hệ thống tài chính.
 Những mục tiêu và lợi ích này giúp củng cố vị thế của ngân hàng trung ương
trong việc thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính, cung cấp dịch vụ tài
chính hiệu quả và tiện lợi cho người dùng, đồng thời đảm bảo tính ổn định và an
ninh của tiền tệ quốc gia
Ví dụ: Kể từ tháng 12/2021, Ngân hàng Trung ương các nước Bahamas, Nigeria và Commented [DL2]: Tình hình triển khai các dự án về
đồng CBDC trong khu vực ASEAN+3
Đông Caribe đã đưa
đồng CBDC để sử
dụng cho mục đích
thương mại; 14 quốc
gia đã ra mắt hoặc hoàn
thành thử nghiệm thí
điểm CBDCs; 16 quốc
gia đang trong giai
đoạn phát triển hoặc
giai đoạn thử nghiệm chứng minh tính khả thi; và 40 quốc gia khác đang tiến hành
nghiên cứu sản phẩm (Hội đồng Đại Tây Dương 2021).
Nhiều ngân hàng trung ương ASEAN + 3 cũng đã đạt được những tiến bộ
đáng kể trong vấn đề này. Theo PwC (2021), Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore và Thái Lan được coi là nằm trong số mười nền kinh tế có dự
án CBDC bán buôn chín muồi nhất trên toàn cầu, trong khi Trung Quốc, Campuchia
và Hàn Quốc nằm trong số 10 dự án CBDC bán lẻ nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Một
số ngân hàng trung ương (Indonesia, Malaysia, Phillipines, Việt Nam) thể hiện sự
quan tâm về đồng CBDC.
Ví dụ: Theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), có tới 56/65 Commented [DL3]: Tốc độ phát triển CBDC trên thế
giới giai đoạn 2019 - 2022 (Nguồn: Tổng hợp CBDC
NHTW được khảo sát (tương đương 86%) đã hoặc đang tiến hành một số hoạt động Tracker)

gắn với CBDC, bao gồm nghiên cứu, chứng minh tính khả thi (PoC) hoặc phát triển
thí điểm. Trong khi đó, 14% số còn lại đã chuyển sang nghiên cứu thực tế cho các
đồng tiền thử nghiệm
(BIS, 2019)
Ngay từ năm
2014, NHTW
Ecuador đã khởi
động dự án có tên
“Dinero electrónico”
(tiền điện tử) để cho
phép các cá nhân
thực hiện thanh toán
di động thông qua
một hệ thống do NHTW điều hành.
NHTW Canada đã khởi động dự án Jasper vào đầu năm 2016 nhằm ứng dụng
công nghệ sổ cái phân tán (DLT) trong các giao dịch thanh toán liên ngân hàng có
giá trị cao (BOC, 2017)
Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) cũng đã khởi động Dự án Ubin vào năm
2016 nhằm tập trung vào các khoản thanh toán liên ngân hàng và đặc biệt là vào một
hình thức mã hóa của đồng đô la Singapore trên nền tảng DLT (MAS, 2016).
NHTW châu Âu (ECB) và NHTW Nhật Bản (BOJ) là hai NHTW đầu tiên
trên thế giới cùng hợp tác nhằm thúc đẩy CBDC thông qua dự án Stella năm 2017,
tập trung vào thanh toán xuyên biên giới. Dựa trên một cuộc khảo sát về các NHTW
thuộc Ủy ban BIS về Thanh toán và Cơ sở hạ tầng thị trường (CPMI) vào cuối năm
2019, Boar và cộng sự (2020) chỉ ra rằng, ở các nền kinh tế tiên tiến, NHTW đang
nghiên cứu, triển khai và ứng dụng CBDC để thúc đẩy sự an toàn và mạnh mẽ, hoặc
hiệu quả thanh toán trong nước.
 Công cuộc nghiên cứu và thử nghiệm CBDC của mỗi quốc gia là nhằm hướng
tới cân bằng những toan tính về kinh tế địa chính trị song song với lợi ích của
quốc gia. Do đó, CBDC vẫn còn là dấu hỏi lớn mà các nước cần thêm thời gian
để trả lời.
III. Phân loại tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương. (Mỹ Trà)
Ngân hàng thanh toán quốc tế phân loại tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương
như sau:
- CBDC bán buôn hoặc bán lẻ
- CBDC dựa trên tài khoản hoặc dựa trên mã thông báo
- CBDC theo mô hình trực tiếp, mô hình gián tiếp, mô hình kết hợp
3.1 Phân loại theo mô hình thực hiện: Bán buôn hoặc bán lẻ.
Trong mô hình bán buôn được sử dụng chủ yếu trong thị trường liên ngân
hàng. Được thiết kế để sử dụng giữa NHTW và các NHTM nhằm thanh toán bù trừ
những khoản tiền lớn. Dạng CBDC này giống với tiền dự trữ và tài khoản thanh toán
tại các NHTW hiện nay. Đồng CBDC “bán buôn” này còn được sử dụng trong hệ
thống tài chính hiện đại, nơi mà các token với thuật toán tự động xử lý các hợp đồng
thông minh để soát xét vị thế tài chính của các định chế tài chính và NHTW.
Ví dụ: Thái Lan và Hồng Kông (xếp hạng 1 Châu Á_ xếp hạng 1 thế
giới_chỉ số bán buôn 80) là hai quốc gia đang đứng đầu danh sách phát triển CBDC
bán buôn. Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông (HKMA) đã bắt đầu Dự án LionRock vào
năm 2017. Các kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy tiềm năng to lớn của việc áp
dụng CBDC cho các khoản thanh toán bán buôn và xuyên biên giới.
Vào năm 2019, để thử nghiệm việc áp dụng CBDC trong thanh toán xuyên
biên giới, HKMA và Ngân hàng Thái Lan (BOT) đã bắt đầu Dự án Inthanon-
LionRock. Nghiên cứu chung đã bước vào Giai đoạn 2 trong năm nay, với mục đích
phát triển một phần mềm mẫu, cho phép quyết toán CBDC xuyên biên giới và khám
phá một loạt các trường hợp sử dụng khác nhau.
Nghiên cứu này cũng đang tìm kiếm phương pháp để phát triển từ các trường Commented [DL4]: Sự phát triển của dự án CBDC bán
buôn
hợp sử dụng CBDC song phương xuyên biên giới sang các trường hợp có sự tham
gia của nhiều khu vực pháp lý và nhiều loại tiền tệ. Tại Diễn đàn Tài chính Châu Á
vào đầu tháng 1/2021, UAE
và Trung Quốc Đại Lục công
bố sẽ tham gia vào chương
trình này.
Đáng chú ý, nghiên
cứu CBDC của Hồng Kông
(SAR CBDC) đang kết hợp
bán buôn với bán lẻ. Hơn
nữa, HKMA đang phối hợp
chặt chẽ với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) để xác định khả năng kết nối
với DC / EP của Trung Quốc Đại Lục cho các khoản thanh toán xuyên biên giới
nhằm nâng cao vị thế của Hồng Kông SAR như một trung tâm toàn cầu cho các
doanh nghiệp kinh doanh ở ngoài nước sử dụng đồng Nhân dân tệ (RMB).
Singapore (xếp hạng 2 Châu Á_ xếp hạng 3 thế giới_chỉ số bán buôn 75):
Ngày 13/7/2020 đánh dấu cột mốc hoàn thành của Dự án Ubin vào giai đoạn thứ
năm của dự án nghiên cứu CBDC tại Singapore. Trong giai đoạn cuối này, Cơ quan
Tiền tệ Singapore (MAS), đã thông báo về việc hoàn thành một loạt các thử nghiệm
về các giải pháp thanh toán dựa trên công nghệ blockchain mà có thể hỗ trợ các loại
tiền tệ khác nhau. Giai đoạn cuối cùng này bao gồm việc phát triển các giao diện để
thiết lập kết nối với các mạng blockchain khác. Các giao diện này có thể hỗ trợ các
trường hợp sử dụng khác nhau như chuyển giao đối ứng thanh toán đối với sàn giao
dịch tư, thanh toán có điều kiện, ký quỹ thương mại và cam kết thanh toán thương
mại.
Trong tương lai, MAS khuyến khích hợp tác với các Ngân hàng Trung ương
khác và đã công bố công khai ý định hợp tác với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.
Sau dự án Ubin, để cải thiện hiệu quả của thanh toán bán buôn, một số tổ chức, cụ
thể là DBS, J.P. Morgan và Temasek, đang phát triển một mạng lưới thanh toán và
bù trừ dựa trên blockchain. Mạng lưới lấy Singapore làm cơ sở và từ đó, mở rộng
sang các khu vực pháp lý khác
Nhật Bản (xếp hạng 4 Châu Á_ xếp hạng 10 thế giới_chỉ số bán buôn 56):
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã tham gia vào một dự án nghiên cứu
chung - Dự án Stella - với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) kể từ tháng
12/2016. Đến nay, Giai đoạn 1 đến 4 đã được hoàn thành. Mặc dù BOJ không có kế
hoạch ban hành CBDC ngay lập tức, BOJ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
chuẩn bị, được thúc đẩy bởi những yếu tố sau:
- Với tốc độ đổi mới và tiến bộ của công nghệ, công chúng sẽ ngày càng quan
tâm đến CBDC;
- BOJ cần đảm bảo một hệ thống thanh toán và quyết toán ổn định và hiệu quả.
Để bổ sung cho dự án bán buôn, BOJ sẽ hướng tới kiểm tra tính khả thi cho bán
lẻ với mục tiêu là nghiên cứu chức năng kỹ thuật của các tính năng chính. BOJ có
thể khởi động một chương trình thử nghiệm với sự tham gia của các nhà cung cấp
dịch vụ thanh toán (PSP) và người sử dụng, nếu cần. Chương trình sẽ chia làm 2 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1, bắt đầu từ Quý 2 2021, sẽ tập trung phát triển môi trường thử
nghiệm và thử nghiệm các chức năng cốt lõi;
- Giai đoạn 2, sẽ bắt đầu thực hiện các chức năng bổ sung trong môi trường thử
nghiệm cùng với thử nghiệm tính khả thi.
BOJ sẽ tiếp tục tìm hiểu việc thiết lập thể chế và phối hợp chặt chẽ với các bên
liên quan.
Năm 2019, Ngân hàng Thái Lan và Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông đã khởi động
một dự án chung có tên là mBridge tập trung vào CBDC bán buôn cho phép thanh
toán xuyên biên giới theo thời gian thực giữa hai quốc gia. Đến tháng 02/2021, Viện
Tiền tệ Kỹ thuật số tại Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương
UAE đã tham gia vào dự án này.
 Ngoài ra nghiên cứu của PwC cho thấy, Singapore, Canada, Pháp và
Nam Phi là những quốc gia có nhiều tiềm năng và tiên tiến trong lĩnh vực CBDC
bán buôn.
CBDC “bán lẻ” phục vụ cho đối tượng người dùng như hộ gia đình và doanh
nghiệp cho các mục đích thanh toán hàng ngày, thay thế cho các hình thức tiền xu
và tiền giấy.
CBDC khác với các dạng tiền chuyển khoản, ví điện tử, thẻ thanh toán vì
CBDC là nghĩa vụ nợ trực tiếp của NHTW, còn các dạng thức khác là nghĩa vụ nợ
của các tổ chức tài chính trung gian. Các dự án triển khai CBDC dạng bán lẻ thường
sẽ nhắm đến mục tiêu mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân và
doanh nghiệp, giúp cải thiện tài chính vi mô và nâng cao năng suất lao động  trong
mô hình bán lẻ, các doanh nghiệp hoặc nói chung tất cả người tiêu dùng trong
toàn nền kinh tế đều có quyền tiếp cận CDBC.
Ví dụ: 80% các ngân hàng trung ương trên toàn cầu đã và đang xem xét tung ra một
loại tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC), theo Báo cáo Chỉ số
CBDC toàn cầu 2022 của PwC.
Theo đó, với CBDC bán lẻ (tiền kỹ thuật số được thiết kế cho mục đích sử
dụng công cộng), Nigeria đứng đầu với số điểm 95 trên 100. Quốc gia Tây Phi này
đã tung ra đồng tiền kỹ thuật số eNaira vào năm ngoái nhưng không nằm trong danh
sách 10 nước hàng đầu do eNaira vẫn còn sơ khai. Chỉ sau 1 năm, Nigeria trở thành
quốc gia châu Phi đầu tiên có bước nhảy vọt và eNaira hiện nay đã hoạt động rất
hiệu quả.
Đứng thứ hai trong Bảng xếp hạng top 10 là Bahamas - nơi ra mắt CBDC đầu Commented [DL5]: Bảng xếp hạng chỉ số bán lẻ của
CBDC
tiên trên thế giới vào tháng 10/2020. Hiện tại, CBDC của Bahamas có sức hút rất
lớn, thậm chí còn có
thẻ ghi nợ được liên
kết, đây là loại thẻ
đầu tiên trên thế
giới. Các quốc gia
tiếp theo sau
Bahamas là Trung
Quốc đại lục,
Jamaica, Đông
Caribe, Ukraine,
Uruguay, Thái Lan, Thụy Điển và Hàn Quốc.
3.2 Phân loại theo định dạng cơ bản: Dựa trên tài khoản hoặc dựa trên mã
thông báo.
Ở định dạng dựa trên tài khoản, quyền sở hữu CBDC được liên kết với định Commented [DL6]: Mô hình truy cập dựa trên tài
khoản so sánh với truy cập dựa trên mã thông báo
danh (identity), theo đó giao dịch là bản cập nhật số dư của người thanh toán và (Nguồn: BIS, 2020)

người nhận thanh toán. Loại định dạng này giống với các hệ thống mà các công ty
sử dụng ngày nay để gửi thanh toán
kỹ thuật số.
Ở định dạng dựa trên mã
thông báo, quyền sở hữu CBDC
được liên kết với một bằng chứng
(proof). Sử dụng mật mã, có thể xác
minh chữ ký điện tử để thực hiện và
xác minh chuyển giao. Do đó, giao
dịch là sự thay đổi quyền sở hữu đối
với một đơn vị tài khoản hoặc mã thông báo cụ thể. Theo nghĩa này, định dạng mã
hóa giống như uyền sở hữu tiền mặt
3.3 Phân loại mô hình phân phối: Mô hình trực tiếp, gián tiếp và kết hợp
Mô hình trực tiếp (Direct model): Theo mô hình này, tất cả các bên tham gia Commented [DL7]: Mô hình CBDC trực tiếp, gián tiếp
và kết hợp (Nguồn: PwC, 2021)
giao dịch sẽ có một tài khoản tại
ngân hàng trung ương. Các
khoản thanh toán sẽ chỉ đơn giản
là chuyển khoản từ tài khoản
này sang tài khoản khác và tất cả
các yêu cầu sẽ được hỗ trợ bởi
ngân hàng trung ương. Ngân
hàng trung ương sẽ phát hành
tiền và quản lý hệ thống cho
phép xóa những giao dịch. Với
các yêu cầu tuân thủ về Nhận biết khách hàng của bạn (KYC) và chống rửa tiền
(AML), ngân hàng trung ương cũng sẽ đáp ứng.
Mô hình gián tiếp (Indirect model): Trong mô hình gián tiếp, ngân hàng trung
ương sẽ chuyển mã thông báo tiền kỹ thuật số (digital currency token) cho ngân hàng
thương mại hoặc tổ chức tài chính phi ngân hàng (ví dụ: fintech),16 sau đó sẽ phân
phối tiền tệ và xử lý những yêu cầu KYC - AML. Yêu cầu bồi thường (claim) về tiền
tệ sẽ thuộc về ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính phi ngân hàng chứ không
phải ngân hàng trung ương. Loại CBDC này còn được IMF gọi là “CBDC tổng hợp”
(synthetic CBDC).
Mô hình kết hợp (Hybrid model): Một tỷ lệ lớn các ngân hàng trung ương
đang làm việc theo mô hình kết hợp, theo đó ngân hàng trung ương phân phối CBDC
cho một trung gian như ngân hàng thương mại hoặc fintech, nơi xử lý giao dịch và
các yêu cầu KYC và AML. Tuy nhiên, điều quan trọng là ngân hàng trung ương vẫn
thực hiện yêu cầu bồi thường (claim)
IV. Lợi ích của CBDC. (Ngọc Trinh)
Giảm thiểu rủi ro thanh toán: CDBC có thể hỗ trợ nhiều dạng thanh toán
khác nhau, từ thanh toán trực tuyến đến thanh toán trực tiếp bằng cách sử dụng thiết
bị di động hoặc thẻ thông minh, giúp giao dịch nhanh chóng hơn so với nhiều phương
tiện thanh toán truyền thống. Ngoài ra, CDBC còn sử dụng xác thực hai yếu tố và
thông tin sinh trắc học (biometric) trong quá tình giao dịch, giúp giảm rủi ro liên
quan đến việc sử dụng tiền mặt như mất mát, đánh cắp hoặc làm giả.
Ví dụ:
Một doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc có thể sử dụng
CBDC để thanh toán cho nhà cung cấp Trung Quốc một cách nhanh chóng, an toàn
và tiết kiệm chi phí.
Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có thể sử dụng CBDC để gửi tiền
về quê hương một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Chính sách tiền tệ linh hoạt: Ngân hàng trung ương có thể thực hiện chinh
sách tiền tệ một các linh hoạt hơn thông qua CBDC, bao gồm quản lý lãi suất và
kiểm soát nguồn cung tiền. CBDC cung cấp khả năng phản ứng nhanh chóng của
ngân hàng trung ương trước các biến động kinh tế, giúp họ điều chỉnh chính sách
tiền tệ một cách linh hoạt
Ví dụ:
Ngân hàng trung ương có thể tăng lãi suất CBDC để kiềm chế lạm phát.
Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng CBDC để hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn
trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
Chống giả mạo và gian lận: CBDC có thể tích hợp các công nghệ bảo mật
tiên tiến như mã hóa, chữ kỹ số và biometric để đảm bảo an toàn tối đa cho giao dịch
và ví tiền của người dùng. CBDC cũng cho phép ngân hàng trung ương theo dõi và
ghi lại mọi giao dịch một cách chi tiết, từ đó tạo ra một bản sao minh bạch về lịch
sử tài chính của người sử dụng.
Ví dụ:
Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng CBDC để phát hành tiền tệ kỹ thuật số Việt
Nam (e-VND). e-VND được bảo mật bằng công nghệ blockchain, giúp chống giả
mạo hiệu quả.
Ngân hàng trung ương có thể sử dụng CBDC để theo dõi các giao dịch tiền tệ và
ngăn chặn các hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Thúc đẩy giao dịch quốc tế: CBDC có thể giảm thời gian xử lý và định rõ
quy trình giao dịch, giúp tăng tốc quá trình chuyển khoản quốc tế. Bên cạnh đó,
CDBC còn giúp loại bỏ sự phụ thuộc vào ngoại tệ trong giao dịch quốc tế giúp người
sử dụng tránh được biến động của tỷ giá hối đoái từ đó tạo ra một hệ thống tài chính
quốc tế công bằng hơn.
Ví dụ:
Doanh nghiệp A ở Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Doanh nghiệp B ở Trung
Quốc. Hiện tại, hai doanh nghiệp phải sử dụng các dịch vụ chuyển tiền quốc tế với
chi phí trung bình 2-5% giá trị giao dịch.
Nếu sử dụng CBDC, chi phí giao dịch có thể giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 0.5-1%.
Phát triển Fintech: Sự xuất hiện của CBDC có thể thúc đẩy sự phát triển của
các dịch vụ và ứng dụng Fintech mới, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán di động
và tài chính số. CBDC có thể tạo ra cơ hội mới cho sự phát triển của DeFi, nơi mà
các dịch vụ tài chính truyền thống được thực hiện trên nền tảng blockchain mà không
cần sự can thiệp của các bên trung ương.
Ví dụ:
Công ty Y có thể phát triển nền tảng cho vay ngân hàng sử dụng CBDC giúp kết nối
người vay và người cho vay một cách trực tiếp, giảm chi phí và tăng hiệu quả cho
vay.
Nền tảng này có thể sử dụng CBDC để thực hiện các giao dịch cho vay, thanh toán
khoản vay và quản lý tài khoản.
V. Ưu và nhược điểm so với các dự án tiền tệ khác (Ngọc Trinh)
5.1 Ưu điểm của CBDC so với các loại tiền tệ khác.
Thanh toán hiệu quả:
- CBDC có thể giúp thanh toán nhanh hơn, rẻ hơn và an toàn hơn so với các
phương thức truyền thống như tiền mặt hoặc thẻ thanh toán.
- Việc loại bỏ các trung gian trong quá trình thanh toán giúp giảm chi phí và
thời gian giao dịch.
- CBDC có thể được sử dụng cho các giao dịch xuyên biên giới một cách nhanh
chóng và dễ dàng.
Tăng cường khả năng tiếp cận tài chính:
- CBDC có thể giúp mọi người dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính hơn, đặc
biệt là những người ở khu vực nông thôn hoặc những người không có tài
khoản ngân hàng.
- CBDC có thể được sử dụng để phân phối các khoản trợ cấp và hỗ trợ chính
phủ một cách hiệu quả hơn.
Kiểm soát lạm phát:
- Chính phủ có thể sử dụng CBDC để kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn so với
các phương thức truyền thống như tăng lãi suất.
- CBDC có thể được lập trình để tự động điều chỉnh giá trị theo các mục tiêu
lạm phát cụ thể.
Thúc đẩy đổi mới:
- CBDC có thể thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực tài chính, ví dụ như trong lĩnh
vực thanh toán di động và fintech.
- CBDC có thể tạo ra các cơ hội mới cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Dẫn chứng cụ thể về ưu điểm của CDBC:
Thụy Điển: Ngân hàng trung ương Thụy Điển (Riksbank) đang thử nghiệm e-krona,
CBDC của họ. e-krona có thể được sử dụng để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ
tại các cửa hàng bán lẻ, trực tuyến và thậm chí trên máy bán hàng tự động.
Ví dụ:
- Năm 2020, ICA, chuỗi siêu thị lớn nhất Thụy Điển, đã bắt đầu chấp nhận
thanh toán bằng e-krona.
- Năm 2021, Stockholm Transport, công ty vận tải công cộng của Stockholm,
đã bắt đầu cho phép hành khách thanh toán vé bằng e-krona.
Kết quả:
- Việc sử dụng e-krona đã tăng lên nhanh chóng.
- Các doanh nghiệp và người tiêu dùng đều hài lòng với việc sử dụng e-krona.
Lợi ích:
- Thanh toán nhanh hơn và rẻ hơn so với tiền mặt hoặc thẻ thanh toán.
- An toàn hơn so với tiền mặt.
- Dễ dàng sử dụng hơn so với các phương thức thanh toán truyền thống.
5.2 Nhược điểm của CBDC so với các loại tiền tệ khác:
Rủi ro về quyền riêng tư:
- CBDC có thể được sử dụng để theo dõi chi tiêu của người dân, điều này có
thể dẫn đến các vấn đề về quyền riêng tư.
- Chính phủ có thể sử dụng CBDC để kiểm soát hoạt động kinh tế của người
dân.
Rủi ro về an ninh mạng:
- CBDC có thể bị tấn công mạng, điều này có thể dẫn đến mất tiền hoặc dữ liệu.
- Việc sử dụng CBDC có thể làm tăng nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Khó khăn trong việc triển khai:
- Việc triển khai CBDC có thể gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các quốc gia
có hệ thống tài chính chưa phát triển.
- CBDC có thể dẫn đến sự cạnh tranh giữa chính phủ và các nhà cung cấp dịch
vụ thanh toán tư nhân.
Tác động đến hệ thống ngân hàng:
- CBDC có thể dẫn đến việc giảm sử dụng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, điều
này có thể ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng.
- Các ngân hàng có thể phải thay đổi mô hình kinh doanh để thích ứng với việc
sử dụng CBDC.
Dẫn chứng cụ thể về nhược điểm của CBDC:
Trung Quốc: Chính phủ Trung Quốc đã bị chỉ trích vì sử dụng DCEP (Digital
Currency Electronic Payment), CBDC của họ, để theo dõi chi tiêu của người dân.
Ví dụ:
- Năm 2021, chính phủ Trung Quốc đã ra mắt một ứng dụng di động cho phép
người dân sử dụng DCEP.
- Ứng dụng này thu thập dữ liệu về các giao dịch của người dùng, bao gồm vị
trí và thời gian giao dịch.
- Chính phủ Trung Quốc có thể sử dụng dữ liệu này để theo dõi chi tiêu của
người dân và kiểm soát hoạt động kinh tế của họ.
Kết quả:
- Nhiều người dân Trung Quốc lo ngại về quyền riêng tư của họ khi sử dụng
DCEP.
- Một số người dân Trung Quốc đã từ chối sử dụng DCEP.
Lợi ích:
- Chính phủ có thể sử dụng CBDC để kiểm soát lạm phát.
- Chính phủ có thể sử dụng CBDC để thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực tài chính.
VI. Thách thức và khả năng cải thiện. (Ngọc Trinh)
Thách thức:
Tính riêng tư: CBDC có thể được theo dõi dễ dàng hơn tiền mặt, dẫn đến lo ngại
về quyền riêng tư.
Khả năng tiếp cận: Người dân không có tài khoản ngân hàng hoặc điện thoại
thông minh có thể gặp khó khăn khi sử dụng CBDC.
Tính ổn định: Giá trị của CBDC có thể bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ và
sự ổn định của chính phủ.
Sự an toàn: CBDC có thể bị tấn công mạng hoặc lỗi kỹ thuật.
Khả năng cải thiện:
Bảo mật: Sử dụng công nghệ blockchain để bảo mật CBDC và tăng cường khả
năng chống tấn công.
Tính riêng tư: Áp dụng các biện pháp bảo vệ dữ liệu và cho phép người dùng
ẩn danh các giao dịch.
Khả năng tiếp cận: Cung cấp các phương thức truy cập CBDC đa dạng, bao
gồm ví điện tử ngoại tuyến và thẻ thanh toán.
Tính ổn định: Ràng buộc CBDC với một tài sản ổn định như vàng hoặc một rổ
tiền tệ.
Ví dụ minh họa:
Trung Quốc: Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đang thử nghiệm CBDC được
gọi là e-CNY. e-CNY được thiết kế để bảo mật, dễ sử dụng và có thể truy cập được
bởi tất cả mọi người.
Thụy Điển: Ngân hàng Riksbank của Thụy Điển đang phát triển CBDC được
gọi là e-krona. e-krona được thiết kế để bổ sung cho tiền mặt và tiền gửi ngân hàng,
chứ không thay thế chúng.
Bahamas: Ngân hàng Trung ương Bahamas đã phát hành CBDC đầu tiên trên
thế giới, được gọi là Sand Dollar. Sand Dollar được thiết kế để thúc đẩy sự hòa nhập
tài chính và hỗ trợ nền kinh tế kỹ thuật số.
 Kết luận: CBDC có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng có một số
thách thức cần được giải quyết. Các chính phủ và ngân hàng trung ương đang
nỗ lực để phát triển CBDC an toàn, bảo mật và dễ sử dụng.
VII. Các dự án CBDC trên thế giới. (Quốc Cường)
7.1 Một số ngân hàng trung ương đang thử nghiệm CBDC.
Trung Quốc
Với chủ trương đi đầu trong nghiên cứu CBDC, ngay từ năm 2014, cùng với
sự bùng nổ của hiện tượng đầu cơ Bitcoin tại Trung Quốc cùng sự gia tăng nóng của
đồng tiền này trên phạm vi toàn cầu, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đã
trở thành một trong những ngân hàng trung ương đầu tiên triển khai một nhóm
nghiên cứu về các loại tiền mã hóa. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc nhận định nếu
Bitcoin được giao dịch phổ biến tại nước này thì sẽ gây nguy hiểm đến chính sách
tiền tệ (Jiang & Lucero, 2021).
Các mối nguy của các loại tiền mã hóa đã được các chuyên gia và quan chức
Trung Quốc nhanh chóng nhận ra từ trốn thuế, bất ổn tài chính, tỷ giá biến động
mạnh…Do đó, các quy định thắt chặt đã được ban hành vào tháng 12/2013 để hạn
chế sự đe dọa tiềm tàng mà Bitcoin có thể gây ra cho đồng Nhân dân tệ nói riêng và
đất nước Trung Quốc nói chung.
Mặt khác, họ cũng nhận định công nghệ tiền mã hóa, đó là Blockchain và sổ
cái phân tán DLT là một công nghệ có sức ảnh hưởng và cần được đào sâu tìm hiểu
về chuỗi khối này.
Rất nhanh sau đó, chỉ chưa đến 2 năm nghiên cứu, vào tháng 1/2016, PBOC
đã chính thức ra mắt “Mục tiêu chiến lược” để tung ra đồng CBDC Trung Hoa. Theo
đó, nhóm nghiên cứu phải “sớm khởi động CBDC”. Danh sách các lợi thế mà CBDC
được liệt kê từ nâng cao hệ thống tài chính, thanh toán, giảm chi phí phát hành và
quản lý tiền giấy, đồng thời PBOC có thể kiểm soát nguồn cung tiền tốt hơn và thậm
chí có thể quản lý tội phạm thuế hay rửa tiền (Fernández-Villaverde & cộng sự,
2021).
Thị trường tiền mã hóa tại Trung Quốc vào năm 2017 có nhiều biến động lớn.
Dưới sự bùng nổ và làn sóng đầu cơ của nhiều loại đồng tiền mã hóa khác ngoài
Bitcoin như Ethereum về giá cũng như lượng giao dịch, Trung Quốc đã chứng kiến
hàng loạt các công ty chào bán tiền mã hóa ban đầu “ICO” để ra mắt các loại tiền
mã hóa mới. Trung Quốc quyết định cấm các hoạt động này, đồng thời tăng cường
nghiên cứu CBDC để có được nhiều quyền kiểm soát hơn trong thị trường tiền mã
hóa. Chính điều này đã cho thấy quan điểm ở Trung Quốc chỉ có tiền CBDC do
PBOC phát hành và quản lý thì mới có thể được lưu hành (Ward & Rochemont,
2019).
Sau nhiều năm nghiên cứu và các thử nghiệm nội bộ được tiến hành, Mu
Changchun, trên cương vị Phó giám đốc bộ phận thanh toán và quyết toán của
PBOC, đã cho biết hệ thống DC/EP (tiền tệ kỹ thuật số/thanh toán điện tử) gần như
đã sẵn sàng. Theo đó, CBDC sẽ không thay đổi quan hệ tài chính hiện có, các tổ
chức cần phải trả tiền để mua CBDC từ Ngân hàng Trung ương và vẫn phải trích
quỹ dự trữ bắt buộc (Mu, 2019). Bên cạnh đó, PBOC cũng phải chạy đua phát hành
CBDC trước các loại đồng tiền mới ra mắt như Libra. Vào tháng 4/2020, PBOC đã
công bố sẽ thử nghiệm CBDC bán lẻ tại 4 thành phố để chuẩn bị cho Thế vận hội
2020. Nhiều cuộc thử nghiệm quy mô đã diễn ra, nhưng không có nghĩa là PBOC sẽ
phát hành đồng nhân dân tệ kỹ thuật số (Yi, 2020). Bên cạnh đó, các khuôn khổ pháp
lý của CBDC cũng được PBOC nghiên cứu, các đề xuất đưa vào luật cấm lưu hành
các loại tiền crypto khác có thể cạnh tranh với đồng nhân dân tệ kỹ thuật số cũng
được xem xét (Chorzempa, 2021).
Thụy Điển
Dự án E-Krona của Ngân hàng trung ương Thụy Điển - Sveriges Riksbank -
ra đời vào tháng 9 năm 2017, một dự án CBDC tiên tiến nhằm điều tra khả năng tạo
ra một đồng tiền kỹ thuật số hỗ trợ cho tiền mặt (Riksbank, 2017).
Vào năm 2019, Riksbank đã thành lập bộ phận thí điểm e-krona, cho tới tháng
2 năm 2020, Riksbank đã ký thỏa thuận với công ty tư vấn Accenture về việc để đơn
vị này cung cấp giải pháp kỹ thuật thử nghiệm e-krona. Giải pháp này được phát
triển môi trường thử nghiệm khép kín không được xem là giải pháp mà Riksbank đã
chọn cho một e-krona tiềm năng, mà là phương pháp để phân tích các vấn đề chính
sách, kỹ thuật, bảo mật và pháp lý cũng như các vấn đề khác liên quan đến một e-
krona tiềm năng.
Giai đoạn 1 thử nghiệm e-krona là dạng mã thông báo trong một mạng lưới
phân phối dựa trên công nghệ blockchain mà Riksbank tạo ra và cung cấp một số
thuộc tính nhất định tương tự như tiền mặt. Khả năng lưu trữ mã thông báo cục bộ
với người dùng cuối, khác với tiền kỹ thuật số mà chúng ta lưu trữ trong tài khoản
ngày nay. Điều này tạo ra các lựa chọn thay thế cho cách triển khai giải pháp. Mạng
e-krona được phát triển trong giai đoạn đầu và đã được phát triển trong một môi
trường thử nghiệm xác định, nơi các phần quan trọng như người tham gia, nguồn
cung cấp thanh khoản và người dùng cuối đã được mô phỏng.
Trong báo cáo thử nghiệm e-krona giai đoạn 1 vào tháng 4 năm 2021,
Riksbank cho rằng giải pháp kỹ thuật đã được thử nghiệm trong dự án thử nghiệm
e-krona đã tạo ra một mạng lưới nơi mà e-krona dựa trên mã thông báo có thể được
sử dụng cho các giao dịch phù hợp với mô hình phân phối. Tuy nhiên, giải pháp dựa
trên DLT và mã thông báo là một công nghệ mới chưa được thử nghiệm trước đó và
cần phải điều tra thêm để xem liệu giải pháp này có thể quản lý các khoản thanh toán
bán lẻ hay không.
Riksbank đã quyết định gia hạn thỏa thuận với Accenture để tiếp tục thử
nghiệm các khả năng của giải pháp kỹ thuật. Trọng tâm cho giai đoạn 2 sẽ bao gồm
các nhà phân phối tiềm năng của e-krona với tư cách là những người tham gia vào
mạng để kiểm tra cách tích hợp hoạt động hệ thống nội bộ với mạng e-krona. Khả
năng lưu trữ mã thông báo và khả năng thanh toán ngoại tuyến cũng sẽ được nghiên
cứu thêm. Việc tiếp tục thử nghiệm hiệu suất của các khoản thanh toán bán lẻ cũng
sẽ được ưu tiên trong giai đoạn 2 (Riksbank, 2021).
7.2 Một số ngân hàng trung ương đang thảo luận, nghiên cứu về CBDC.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB)
ECB đã thành lập một Lực lượng đặc nhiệm cấp cao vào tháng 1 năm 2020 Commented [DL8]: Biểu đồ thể hiện “Tham vấn cộng
đồng về đồng Euro kỹ thuật”
với mục tiêu thực hiện các bước tiến về khái niệm CBDC trong khu vực đồng
Euro. Trong báo cáo vào tháng 10 năm 2020, Tháng 4/2021
ECB cũng xác định đặc điểm của đồng Euro kỹ
thuật số và thông báo tổ chức “Tham vấn cộng
đồng về đồng Euro kỹ thuật số”, được khởi
động từ ngày 12/10/2020 đến ngày 12
/01/2021. Đến tháng 4 năm 2021, báo cáo về
tham vấn cộng đồng nhận được hơn 8.200 phản
hồi - một sự tham gia kỷ lục cho một cuộc tham Đức Ý Pháp

vấn công khai của ECB. Phần lớn những người được hỏi là công dân (94%) và các
câu trả lời chủ yếu đến từ Đức (47%), Ý (15%) và Pháp (11%) cho thấy quyền riêng
tư là tính năng quan trọng nhất của đồng Euro kỹ thuật số. Hơn 2/3 số người được
hỏi thừa nhận nên tích hợp đồng Euro kỹ thuật số vào các ngân hàng và hệ thống
thanh toán hiện có. Họ muốn các dịch vụ bổ sung được cung cấp bên cạnh các khoản
thanh toán cơ bản bằng đồng Euro kỹ thuật số. Báo cáo tháng 4 năm 2021 không
đưa ra quyết định trước, kết luận hay cam kết cung cấp bất kỳ loại đồng euro kỹ
thuật số nào. Và ECB có thể sẽ điều tra thêm về chủ đề đồng Euro kỹ thuật số (Ngân
hàng Trung ương Châu Âu, 2021).
Ngân hàng Trung ương Anh (BoE).
Vương Quốc Anh Tháng 3 năm 2020, Ngân hàng Trung ương Anh (Bank of
England – BoE) đã thảo luận về “Cơ hội, thách thức và thiết kế tiền tệ kỹ thuật số
của Ngân hàng Trung ương”, thông qua đó lấy ý kiến từ công chúng, các nhà cung
cấp công nghệ, ngành công nghiệp thanh toán, các tổ chức tài chính, học giả, các
ngân hàng trung ương khác và các cơ quan công quyền trả lời bài thảo luận để làm
dữ liệu nghiên cứu thêm cho CBDC. Theo BoE, CBDC được coi là tương đương với
một tờ tiền kỹ thuật số, mặc dù trên thực tế CBDC có thể có các tính năng khác tùy
thuộc vào thiết kế cuối cùng. CBDC thường được kết hợp với DLT nhưng cũng
không nhất thiết phải được xây dựng bằng DLT. Tuy nhiên, DLT có một số đổi mới
tiềm năng, hữu ích mà có thể cân nhắc khi thiết kế CBDC. Ví dụ: các yếu tố của
phân quyền có thể nâng cao khả năng phục hồi, tính khả dụng và việc sử dụng công
nghệ hợp đồng thông minh cho phép phát triển tiền lập trình (programmable money).
Tuy nhiên, những thách thức, đánh đổi khi áp dụng các tính năng này cũng cần được
xem xét cẩn thận.
Vào ngày 19 tháng 4 năm 2021, BoE và Kho bạc HM đã thông báo về việc
cùng thành lập “Lực lượng đặc nhiệm về Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung
ương” để phối hợp khám phá CBDC tiềm năng của Vương quốc Anh. CBDC sẽ là
một dạng tiền kỹ thuật số mới do Ngân hàng Trung ương Anh phát hành cho các hộ
gia đình và doanh nghiệp sử dụng CBDC này thay vì thay thế, sẽ tồn tại cùng với
tiền mặt và tiền gửi ngân hàng. Khi nhóm đặc nhiệm khám phá CBDC, được thông
qua bởi các cơ quan có thẩm quyền của Vương quốc Anh, nhóm đặc nhiệm sẽ đảm
bảo cách tiếp cận CBDC phù hợp với các luật định và đồng thời thúc đẩy sự phối
hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan (Ngân hàng Trung ương Anh, 2021).
7.3 Một số quốc gia không triển khai CBDC.
Đức
Theo Deutsche Bundesbank (Ngân hàng Trung ương Đức), thay vì chấp nhận
các rủi ro mà CBDC mang tới, Ngân hàng Trung ương Đức chọn thay thế bằng công
nghệ thanh toán Blockbuster (cũng dựa trên Blockchain). Đây là dự án được hợp tác
giữa Bundesbank (ngân hàng trung ương Đức) và Deutsche Börse (sàn chứng
khoán). Theo đó, họ xây dựng công nghệ sổ cái phân tán cho chứng khoán và kết
nối với hệ thống thanh toán gộp (RTGS) theo thời gian thực của Eurosystem, có tên
là TARGET2. Họ đã tiến hành thử nghiệm trái phiếu liên bang kỳ hạn 10 năm trên
nền tảng này (Ngân hàng Trung ương Đức, 2021).
Giải pháp này mang tính trung lập, không gây ảnh hưởng nhiều đến chính
sách tiền tệ nhưng vẫn sử dụng được nền tảng thanh toán hiện tại, và mang tính linh
động cao vì có thể sử dụng được cho bất kỳ loại chuỗi tài sản nào (Ngân hàng Trung
ương Đức, 2021).
Người dùng sẽ được trải nghiệm một hệ thống đảm nhận vai trò là cầu nối
giữa thanh toán thông thường và công nghệ sổ cái phân tán. Phần mềm sẽ kết nối
TARGET2 và hệ thống công nghệ sổ cái phân tán thông qua một chuỗi kích hoạt từ
Bundesbank và một điều phối viên giao dịch từ Deutsche Börse. Sau khi giao dịch
được thực hiện, các tác vụ chuyển giao đối ứng thanh toán (Delivery versus Payment
- DvP) chứng khoán và tiền của ngân hàng trung ương sẽ được tiến hành (Ngân hàng
Trung ương Đức, 2021)
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) quan tâm đến khả năng triển khai công
nghệ blockchain trong một số lĩnh vực, nhưng sẽ không phát hành CBDC mà một
số suy đoán sẽ được gọi là Fed Coin và sẽ thay thế đồng đô la Mỹ. Fed cho biết hiện
không cần thiết phải phát hành CBDC vì hai lý do chính: hệ thống thanh toán hiện
tại đủ hiệu quả và đổi mới, và nhu cầu về CBDC do giảm sử dụng tiền mặt không
diễn ra ở Hoa Kỳ (Brainard, 2018, 2019, 2020).
VIII. Kinh nghiệm quốc tế. (Quốc Cường)
Trên thế giới, quá trình phát hành CBDC có sự khác biệt lớn giữa nhóm nước
phát triển và nhóm nước mới nổi và có thể chia thành 03 nhóm quan điểm khác nhau:
- Nhóm tiên phong (gồm Trung Quốc, Thụy Điển, Uruguay, Barbados,
Bahamas…)
- Nhóm ủng hộ tích cực và đang nghiên cứu phát hành (như Ấn Độ, Thổ Nhĩ
Kỳ, Thụy Sĩ, Pháp, Ả-rập Xê-út và Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất
(UAE), Campuchia, Ecuador, Đông Ca-ri-bê, Canada, Thái Lan, Singapore...)
- Nhóm thận trọng xem xét bởi lo ngại những tác động tiêu cực, rủi ro do CBDC
mang lại đối với sự ổn định tài chính, cấu trúc ngân hàng, sự gia nhập của các
tổ chức phi ngân hàng trong hệ thống tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ
gồm có Mỹ, Đức, Anh, Nga...
Kết quả một cuộc khảo sát mà Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) công bố
cho thấy, hơn 90% trong số 81 NHTW thuộc các quốc gia chiếm đa phần sản lượng
kinh tế toàn cầu tham gia khảo sát cho biết họ đang nghiên cứu ý tưởng về việc phát
hành tiền tệ kỹ thuật số của NHTW. Hơn 25% ngân hàng trung ương đang tích cực
phát triển một đồng tiền kỹ thuật số hoặc đang triển khai các chương trình thử
nghiệm, với tỷ lệ tăng gần gấp 2 lần trong khoảng thời gian từ năm 2020 đến năm
2021. BIS cho hay, trên toàn cầu, hơn 2/3 ngân hàng trung ương cho rằng họ có khả
năng hoặc có thể phát hành CBDC bán lẻ trong ngắn hạn hoặc trung hạn. Các khu
trung tâm thương mại bán buôn ngày càng được thúc đẩy nhờ hiệu quả thanh toán
xuyên biên giới. Nhiều NHTW coi CBDC có khả năng làm giảm bớt các “điểm
nghẽn” như thời gian hoạt động hạn chế của các hệ thống thanh toán hiện tại và độ
dài của chuỗi giao dịch hiện tại.
Thực tế cho thấy, vào tháng 5/2020, chỉ có 35 quốc gia đang xem xét CBDC
- một mức cao mới trong số 60 quốc gia đang trong giai đoạn thăm dò tiên tiến (phát
triển, thí điểm hoặc ra mắt). Dựa trên dữ liệu từ CBDC Tracker tháng 12/2022, có
114 quốc gia, chiếm hơn 95% GDP toàn cầu đã tìm hiểu các đề xuất đa dạng về thiết
kế, quyền truy cập và cơ sở hạ tầng của CBDC. Hiện tại, có 60 quốc gia đã đạt tới
giai đoạn phát triển chuyên sâu, thí điểm và triển khai CBDC. Có 11 quốc gia, bao
gồm Bahamas, Nigeria và các quốc gia trong Liên minh tiền tệ Đông Caribê đã ra
mắt đầy đủ một loại tiền điện tử của họ tiếp cận 260 triệu người, dự kiến sẽ mở rộng
sang hầu hết các quốc gia trong năm 2023. Jamaica là quốc gia mới nhất ra mắt
CBDC.
Có 18 trong số các quốc gia G20 đang trong giai đoạn phát triển CBDC tiên
tiến. Gần như mọi quốc gia G20 đã đạt được tiến bộ đáng kể và đầu tư các nguồn
lực mới vào các dự án này trong. Kể từ tháng 12/2022, tất cả các nền kinh tế G7 đã
chuyển sang giai đoạn phát triển của CBDC. Năm 2023, dự kiến có hơn 20 quốc gia
sẽ thực hiện các bước quan trọng để thí điểm CBDC, trong đó có Úc, Thái Lan,
Brazil, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nga dự định sẽ tiếp tục hoặc bắt đầu thử nghiệm này.
Hiện tại, 90% NHTW trên thế giới hiện đang trải qua các giai đoạn phát triển CBDC
(BIS, 2022). Bahamas nằm trong số ít những quốc gia đầu tiên đã phát hành CBDC
(Sand Dollar). Hầu hết các nước vẫn chưa thể hiện rõ kế hoạch phát hành CBDC và
vẫn đang trong quá trình nghiên cứu. Mỹ và Anh vẫn trong giai đoạn trưng cầu dân
ý và chưa thể hiện ý định phát hành CBDC, trong khi đó, Trung Quốc đã đi đến giai
đoạn thí điểm CBDC (e-CNY). Nhật Bản vẫn chưa có kế hoạch phát hành CBDC
dù đã thực hiện các giai đoạn thử nghiệm. Trong khu vực ASEAN, Singapore và
Philippines đã hủy bỏ ý định thí điểm CBDC bán lẻ và tập trung theo đuổi CBDC
bán buôn, trong khi đó Campuchia đã tiến tới giai đoạn thí điểm (CBDC tracker,
2022).
Mục tiêu chính sách.
Một số mục tiêu chính sách thường đặt ra cho CBDC gồm có tài chính bao
trùm, tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả cho hệ thống thanh toán, tăng khả năng
phục hồi cho hệ thống thanh toán, giúp đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ và
chủ quyền tiền tệ.
Các quốc gia đã phát hành hay đã có cam kết mạnh mẽ với CBDC bán lẻ như
Bahamas hay Trung Quốc đều cần CBDC để phát triển tài chính bao trùm. Bahamas
là quốc gia có rất nhiều đảo với cư dân sống rải rác, việc xây dựng một mạng lưới
ATM trở nên không có hiệu quả. 20% dân số Bahamas không có tài khoản ngân
hàng. Trung Quốc tuy là một quốc gia có tốc độ phát triển tài chính bao trùm nhanh
nhưng có 10% dân số thường tập trung ở vùng xa vẫn chưa tiếp cận được với dịch
vụ tài chính (Soderber và cộng sự, 2022).
Nhật Bản và Ấn Độ mặc dù không nhằm đến mục tiêu tài chính bao trùm
nhưng vẫn cần CBDC để đạt được hệ thống thanh toán hiệu quả hơn. Nhật Bản và
Bahamas cần đến CBDC để giúp đối phó với những tình huống khẩn cấp do thảm
họa thiên nhiên, giúp cho hệ thống thanh toán có khả năng phục hồi cao hơn (BOJ,
2020; Soderber và cộng sự, 2022).
Singapore với mức độ phát triển tài chính bao trùm và hệ thống thanh toán
hiệu quả với 92% cung tiền của Singapore là tiền gửi ngân hàng. Singapore tại thời
điểm hiện tại vẫn chưa có kế hoạch cho CBDC bán lẻ mà chỉ tập trung vào các dự
án CBDC bán buôn. Tuy vậy, Singapore vẫn lo ngại khả năng khi nền kinh tế đã số
hóa ở mức độ cao và nhiều cơ sở bán hàng không chấp nhận sử dụng tiền mặt thì
cần phải có CBDC để đáp ứng nhu cầu thanh toán (MAS, 2021).
Trung Quốc, Ấn Độ và Bahamas đều xem CBDC cần phải đảm bảo phù hợp
cho các mục tiêu của chính sách tiền tệ (RBI, 2022; Soderber và cộng sự, 2022).
Singapore và Nhật Bản đều chỉ rõ lo ngại trước khả năng tiền gửi ở NHTM giảm
xuống khi người dân đổ xô rút tiền gửi chuyển sang CBDC, ảnh hưởng đến khả năng
cấp tín dụng cho nền kinh tế (MAS, 2021; RBI, 2022).
Trung Quốc còn xem CBDC cần thiết để đạt được chủ quyền tiền tệ trước
các đồng tiền kỹ thuật số của nước ngoài (Soderber và cộng sự, 2022). Ngay cả khi
chưa có cơ sở cần thiết để phát hành CBDC bán lẻ, Singapore vẫn cân nhắc đến khả
năng bị cạnh tranh bởi các đồng tiền kỹ thuật số của nước ngoài (MAS, 2021).
Mô hình vận hành.
Cũng tương tự như hệ thống tiền tệ hai cấp truyền thống, mô hình vận hành
CBDC mà các nước chủ yếu đang phát
triển chủ yếu cũng là mô hình vận hành
qua trung gian. Ở mô hình này, NHTW
trực tiếp phát hành nhưng được phân phối
thông qua khu vực trung gian (định chế tài
chính tư nhân hoặc Nhà nước, các công ty
cung cấp dịch vụ thanh toán và dịch vụ trên mobile phone (Soderber và cộng sự,
2022). (Bảng) Commented [DL9]: Phân bổ các chức năng phát hành
CBDC giữa NHTW và khu vực tư nhân (Nguồn: Báo
Trong mô hình vận hành qua trung gian, có nhiều cách thức phối hợp các chức cáo của NHTW của các quốc gia khảo sát)

năng giữa NHTW và khu vực trung gian. Cần phân biệt người sở hữu và người vận
hành hệ thống kỹ thuật. NHTW có thể sở hữu hệ thống kỹ thuật của một chức năng
cụ thể nhưng chức năng này lại được vận hành bởi một công ty tư nhân. Ví dụ, tại
Bahamas, khu vực tư nhân vận hành chức năng chống rửa tiền và chống tài trợ mạng
lưới khủng bố trên hệ thống IT do NHTW sở hữu (Soderber và cộng sự, 2022).
Một số chức năng cụ thể bài viết khảo sát gồm có: Phát hành (issuance), xác
thực (validation), cập nhật sổ cái khi tiền đang lưu thông (transfer). Sổ cái tập trung
vốn là cách tiếp cận truyền thống của các NHTW nhưng công nghệ sổ cái phân tán
chính là cách tiếp cận mới đầy tiềm năng (Soderber và cộng sự, 2022). Có 03 kiểu
cập nhật công nghệ sổ cái phân tán: (i) NHTW vừa sở hữu hệ thống kỹ thuật vừa
tiến hành cập nhật; (ii) NHTW sở hữu nhưng khu vực trung gian cập nhật; (iii) Khu
vực trung gian sở hữu và cập nhật một phần sổ cái dựa trên sự phê duyệt của NHTW.
Bahamas hiện đang cập nhật sổ cái theo cách thứ nhất.
Công nghệ sử dụng.
Hiện có hai cách tiếp cận về công nghệ: (1) Sử dụng một nhà thầu chính phối
hợp với NHTW để vận hành CBDC, Bahamas theo cách thứ nhất và đang sử dụng
nhà thầu chính là NZIA; (2) Sử dụng nguồn lực nội bộ của NHTW kết hợp với nhiều
nhà thầu phù hợp cho nhiều khu vực khác nhau, Trung Quốc hiện đang lựa chọn
cách thứ hai trong các dự án thí điểm của mình.
Công nghệ sổ cái phân tán là lựa chọn được nhiều NHTW hướng tới. Bahamas
hiện đang sử dụng công nghệ sổ cái phân tán cho CBDC của mình. Nhật Bản thử
nghiệm CBDC bán buôn với công nghệ sổ cái phân tán từ 2016 (BOJ, 2020).
Singapore đã thu thập các phương án thiết kế công nghệ cho CBDC từ khu vực tư
nhân vào tháng 6/2021. Phần lớn các giải pháp công nghệ thu nhận được đều xoay
quanh công nghệ sổ cái phân tán.
Trung Quốc đã thí điểm công nghệ sổ cái phân tán và cho rằng công nghệ sổ cái
phân tán có thể không đáp ứng
được nhu cầu xử lý giao dịch vào
lúc cao điểm và hiện đang theo
đuổi công nghệ “hybrid” (phối
hợp sổ cái tập trung với công
nghệ sổ cái phân tán đồng thời
mở ra khả năng sử dụng các công nghệ khác nhau dựa trên nền tảng căn bản là sổ
cái tập trung (Soderber và cộng sự, 2022). (Bảng) Commented [DL10]: Tóm tắt về lựa chọn công nghệ
của các quốc gia (Nguồn: Báo cáo của NHTW của các
quốc gia khảo sát)
Khung pháp lý
Theo báo cáo từ BIS, tỷ trọng các NHTW đã có cơ sở pháp lý sẵn sàng phát hành
CBDC tăng từ 18% (2020) lên 26% (2021) (BIS, 2022).
Bahamas cũng đã ban hành Luật NHTW Bahamas (Central Bank of Bahamas
Act, 2020) tạo cơ sở pháp lý cho đồng Sand Dollar. Luật về Dịch vụ thanh toán
(Payment Services Act) có hiệu lực vào năm 2020 cho phép NHTW Singapore
(MAS) có thể thích ứng với bối cảnh mới của hoạt động thanh toán, tạo cơ sở pháp
lý cho các hình thức thanh toán điện tử và giao dịch các đồng tiền kỹ thuật số (MAS,
2021). Đạo luật về tài chính (Finance Act) năm 2022 của Ấn Độ cũng đã cung cấp
cơ sở pháp lý cho việc phát hành CBDC (RBI, 2022).
Trung Quốc cũng đang chuẩn bị dự thảo Luật NHTW (People’s Bank of China
Law) bổ sung hình thức tiền kỹ
thuật số vào định nghĩa tiền tệ của
mình tạo khung pháp lý cho NHTW
Trung Quốc có thể phát triển
CBDC, đồng thời, dự thảo cũng cấm các tổ chức phát hành tiền kỹ thuật số thay cho
CNY tạo vị thế độc quyền cho NHTW đối với tiền kỹ thuật số. Luật NHTW Nhật
Bản (Bank of Japan Act) hiện đang quy định chức năng phát hành tiền giấy (bank
notes) cho NHTW Nhật Bản và vì vậy hiện vẫn chưa có cơ sở pháp lý cho
CBDC. (Bảng) Commented [DL11]: Tóm tắt về tình trạng khung pháp
lý cho CDBC (Nguồn: Báo cáo của NHTW của các quốc
IX. Hướng đi cho Việt Nam. (Quốc Cường) gia khảo sát)

Việt Nam đã có những hành động cụ thể khi đồng tiền ảo du nhập vào Việt
Nam. Vào ngày 27.02.2014 Ngân Hàng Nhà Nước lần đầu tiên có thông cáo báo chí
về tiền ảo thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với sự phát triển này. Nhưng trước
những diễn biến khó lường thì những năm tiếp theo Việt Nam chỉ ban hành ra những
Quyết Định khẳng định đồng tiền ảo không phải là một loại tài sản và bị cấm lưu
hành tại Việt Nam. Nhưng sau đó ngày 21.8.2017 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt
đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý các loại tiền ảo, tài sản ảo và tiền
điện tử. Và đến 15.06.2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
942/QĐ-TTg (Quyết định 942) phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử
hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030.
Theo đó, về quan điểm của Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử là phát
triển Chính phủ số có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt
động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng
cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính
sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi
số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh
tế- xã hội; Phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt
được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải
pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát
triển Chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành Chính phủ số vào năm 2025.
Tuy rằng được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị về tiền kỹ thuật số, nhưng
sau 10 năm kể từ khi nhà nước có những động thái đầu tiên về tiền ảo cho đến hiện
tại Việt Nam chỉ đang trong quá trình nghiên cứu chưa đạt được kết quả và thử
nghiệm đồng tiền kỹ thuật số.
Nhóm các nước phát triển tương đối thận trọng trong việc ban hành tiền
CBDC bởi họ lo ngại rằng nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của NHTM,
chính sách tiền tệ của chính quốc gia thậm chí làm thay đổi trong cấu trúc, vận hành
hệ thống tài chính quốc gia. Các quốc gia như: Trung Quốc, Bahamas, Thụy Điển
tiên phong trong việc phát hành CBDC và đã đạt được những thành tựu tích cực.
Nhiều nước khác đang trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia đi trước trong việc phát hành
CBDC, Việt Nam cần có những chính sách mạo hiểm và đột phá hơn, để thực hiện
được điều này cần phải dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu chuyên sâu và xem
xét kỹ lưỡng các yếu tố quan trọng theo các chính sách đã đề ra:
- Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý đối với tiền kỹ thuật số theo nguyên tắc
luôn nâng cao vai trò của việc đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện để phát triển
các sản phẩm, dịch vụ tài chính, ngân hàng số tại Việt Nam.
- Thứ hai, các cơ quan liên quan đến việc thu thập cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống dữ liệu, đồng thời cải thiện, nâng cao
các cơ sở hạ tầng kỹ thuật số trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy
xuất dữ liệu theo thẩm quyền được duyệt.
- Thứ ba, xây dựng chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng
phục vụ cho quá trình phát triển CBDC tại Việt Nam. Nâng cao dân trí số và
dân trí về tài chính là nền tảng cho việc liệu CBDC có được chấp nhận bởi
công chúng. Vấn đề này cần đòi hỏi sự phối hợp giữa các cơ quan quốc gia
nhằm xây dựng chiến lược phù hợp, lâu dài giúp đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao thỏa mãn hai tiêu chí dân trí về kinh tế số và dân trí tài chính.
- Thứ tư, từng bước thừa nhận đồng tiền kỹ thuật trên nguyên tắc thử nghiệm ở
một số khu vực và cho phép giao dịch ở một số điểm nhất định. Song song
với đó là nâng cao dân trí của công chúng về CBDC, quản lý nghiêm ngặt về
vấn đề gian lận và lừa đảo. Cần ban hành những chủ trương liên quan đến tài
chính điện tử và xây dựng nền tảng tài chính số hiện đại, lâu dài. Tăng cường
sự hợp tác giữa các NHTM với Fintech và các tổ chức trung gian thanh toán
nhằm tạo ra một môi trường ổn định cùng hợp tác, phát triển lâu dài.
- Thứ năm, tiến hành nghiên cứu về các tiền đề cho sự phát triển CBDC tại Việt
Nam. Trên thế giới đã có rất nhiều nước bắt tay vào việc phát triển đồng tiền
này thì Việt Nam cũng phải cần có những sự chuẩn bị nghiêm chỉnh cho việc
phát hành CBDC, bởi đây là thực tế tất yếu của quá trình số hóa tài chính tiền
tệ.
Thời gian gần đây xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt bắt đầu gia tăng.
Theo thống kê của Ngân hàng nhà nước, đến tháng 4/2022, giao dịch thanh toán
không dùng tiền mặt tăng 69,7% về số lượng, 27,5% về giá trị; giao dịch qua Internet
cũng tăng tương ứng 48,39% và 32,76%; qua điện thoại di động tăng tương ứng
97,65% và 86,68%; qua QR code tăng tương ứng 56,52% và 111,62% so với cùng
kỳ năm 2021; tổng số ví điện tử đã kích hoạt tăng 10,37% so với cuối năm 2021.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, tất cả các phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt trên mặc dù được nhà nước chấp thuận nhưng vẫn phụ thuộc rất nhiều vào
các tổ chức phát hành. Từ việc vận hành, quản lý, cơ chế bảo mật thông tin đến việc
chi phí giao dịch đều do tổ chức đó quyết định. Trong khi rủi ro lộ thông tin người
dùng hay rủi ro tổ chức phát hành gặp bất trắc đều do người dùng chịu. Hơn nữa,
việc có nhiều tổ chức phát hành khác nhau khiến người dùng rơi vào ma trận thanh
toán. Đây là những vấn đề cũng đáng để lưu tâm trong thời gian tới khi mà thị trường
này trở nên nóng hơn.
Hiện Việt Nam đang đứng thứ 9 trên bảng xếp hạng các quốc gia có tỷ lệ người dùng Commented [DL12]: Bảng xếp hạng các quốc gia có tỷ
lệ người dùng nắm giữ tiền mã hóa nhiều nhất thế giới
nắm giữ tiền mã hóa nhiều nhất thế (Nguồn: Triple A)

giới.

Ở một góc độ khác, theo dữ liệu từ


công ty thanh toán tiền mã hóa Triple
A, có khoảng 6 triệu người Việt Nam
sở hữu tài sản kỹ thuật số, tương
đương 6% dân số. Bảng xếp hạng của
công ty phân tích Chainalysis thì cho biết việc chấp nhận tiền mã hóa giữa các nhà
đầu tư cá nhân tăng 8,81% trong năm 2021. Và Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan và
Ukraine là những quốc gia dẫn đầu bảng xếp hạng này. Đây là một số thông tin điển
hình cho thấy, mặc dù nhà nước chưa có quy định chính thức cho việc chấp nhận
giao dịch tiền mã hóa nhưng người dùng Việt Nam vẫn mua bán, giao dịch với lượng
khá lớn theo một cách phi chính thức nào đó.

Hay khi mà đại dịch Covid-19 đang diễn ra chưa có hồi kết. Lần đầu tiên
NHNN đã phải yêu cầu khử trùng tiền tệ, hay các biện pháp nhằm hạn chế tiếp xúc
và lây lan qua tiền mặt. Người dân cũng cần trọng và hạn chế hơn trong việc trao đổi
tiền mặt trực tiếp. Việc hỗ trợ người dân trong đại dịch của Chính phủ Việt Nam
cũng gặp rất nhiều khó khăn bởi những hạn chế của tiền vật lý hiện tại.
X. Kết luận và triển vọng tương lai. (Mỹ Trà)
Việt Nam đã có những chủ trương và quyết tâm nhất định trong việc thúc đẩy
ứng dụng blockchain và tiền ảo, tiền kỹ thuật số tại Việt Nam và đây sẽ là tiền đề
cho việc xây dựng CBDC tại Việt Nam. Nhu cầu của thị trường đối với việc sở hữu
giao dịch tiền kỹ thuật số, tiền ảo tại Việt Nam khá phổ biến. Bên cạnh đó, dân số
trẻ, mức độ phủ sóng Internet cao và sự phổ biến của các thiết bị di động tại Việt
Nam sẽ là những tiền đề vững chắc cho Việt Nam thúc đẩy sự thành công của đồng
tiền này trong thời gian tới, từ đó thúc đẩy hơn nữa nền tài chính toàn diện và nền
kinh tế số. Do đó, Việt Nam cần sớm nghiên cứu, ban hành khung pháp lý, cho phép
giao dịch, sở hữu tài sản kỹ thuật số, tài sản ảo.
Trên cơ sở đó, xây dựng khung quản lý, giám sát tài sản kỹ thuật số dần tiến
tới giao dịch tài sản kỹ thuật số đặc biệt là cho phép giao dịch tiền kỹ thuật số trên
sàn giao dịch hợp pháp. Cùng với việc nghiên cứu triển khai CBDC này, Việt Nam
sẽ phải tính đến nhiều khía cạnh khi thiết kế CBDC. Bên cạnh các yếu tố liên quan
đến hạ tầng, công nghệ, cho phép CBDC được chuyển nhượng và sử dụng làm công
cụ thanh toán, cần tính tới tác động của nó đối với việc ra quyết định của ngân hàng
trung ương liên quan đến chính sách tiền tệ…
Trong tương lai gần, nếu CBDC trong thanh toán doanh nghiệp được sử dụng
phổ biến, Việt Nam cũng sẽ phải cân nhắc đối với CBDC, bởi đây là yêu cầu đặt ra
trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, các quyết định liên quan đến CBDC cần trả lời
cho câu hỏi liệu việc phát hành đồng tiền này có hỗ trợ cho Ngân hàng Nhà nước đạt
được các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh
toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Ngân hàng Nhà nước cần xem xét, đánh giá cũng
như xây dựng khuôn khổ pháp luật để đưa vào quản lý trong đó, cần đẩy nhanh tiến
độ xây dựng hành lang pháp lý đối với các mô hình kinh doanh mới trong nền kinh
tế số, công nghệ tài chính, thanh toán di động…. Ngay cả trong trường hợp chưa
phát hành CBDC trong tương lai gần, Việt Nam vẫn nên chủ động tham gia các hoạt
động của các NHTW, đặc biệt là việc thiết lập các tiêu chuẩn của CBDC liên quan
đến bảo vệ quyền riêng tư cá nhân, bảo vệ chống lại việc lạm dụng dữ liệu người
dùng, song song với các tiêu chuẩn toàn cầu về chống rửa tiền và chống tài trợ cho
khủng bố.
Dù việc triển khai sử dụng CBDC đặt ra những thách thức rất phức tạp, nhưng
nhiều NHTW trên thế giới đang tiến hành nghiên cứu hay thử nghiệm loại hình tiền
tệ này. Chính vì vậy, việc xem xét sử dụng CBDC đòi hỏi phải phân tích cẩn thận
các lợi ích và rủi ro có thể phát sinh từ CBDC. Nếu một số nền kinh tế quyết định
sử dụng CBDC - nhất là các nền kinh tế có mức độ ảnh hưởng cao - thì quyết định
đó sẽ tác động đến các đồng tiền chủ chốt trên thế giới và điều này cũng có thể sẽ
ảnh hưởng đến quyết định của các NHTW khác.
Do vậy, theo dõi liên tục sự phát triển trong lĩnh vực này sẽ giúp Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có những phản ứng phù hợp và cần thiết đối với những thay đổi
diễn ra ở các quốc gia khác. Mặt dù có thể trong nhiều năm tới, các NHTW sẽ tiếp
tục sử dụng đồng tiền pháp định truyền thống cùng với ví điện tử, nhưng đồng tiền
kỹ thuật số đầy tham vọng này rất có thể sẽ được sử dụng phổ biến trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://tapchitaichinh.vn/tinh-hinh-trien-khai-cac-du-an-ve-dong-tien-ky-
thuat-so-quoc-gia-trong-khu-vuc-asean3.html
https://tapchinganhang.gov.vn/tien-ky-thuat-so-cua-ngan-hang-trung-uong-
kinh-nghiem-the-gioi-va-bai-hoc-doi-voi-viet-nam.htm
https://tapchinganhang.gov.vn/phan-tich-ve-dieu-kien-ra-doi-tien-ky-thuat-
so-cua-ngan-hang-trung-uong.htm
https://thitruongtaichinhtiente.vn/phat-trien-tien-ky-thuat-so-cua-ngan-hang-
trung-uong-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-hoc-cho-viet-nam-55545.html
https://coin98.net/cuoc-dua-cbdc-cua-cac-quoc-gia
https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/m/menu/trangchu/ddnhnn/nctd/nctd_chit
iet?leftWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV57
2231&rightWidth=0%25&centerWidth=100%25&_afrLoop=45638190059024466
#%40%3F_afrLoop%3D45638190059024466%26centerWidth%3D100%2525%2
6dDocName%3DSBV572231%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2
525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-
state%3D1bpqe6s77k_9
https://vneconomy.vn/muon-khong-bi-rot-lai-dang-sau-viet-nam-can-phat-
trien-tien-ky-thuat-so.htm
https://thitruongtaichinhtiente.vn/phat-trien-tien-ky-thuat-so-cua-ngan-hang-
trung-uong-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-hoc-cho-viet-nam-55545.html
https://ibt.uel.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/ibt/NC-02-2019-
Ng%C3%A2n-h%C3%A0ng-Trung-%C6%B0%C6%A1ng-v%C3%A0-
t%C6%B0%C6%A1ng-lai-c%E1%BB%A7a-ti%E1%BB%81n-k%E1%BB%B9-
thu%E1%BA%ADt-s%E1%BB%91.pdf
https://www.pwc.com/vn/vn/publications/2021/210923-pwc-vietnam-cbdc-
index-vn.pdf
http://baokiemtoan.vn/viet-nam-dang-o-thoi-diem-thich-hop-de-phat-trien-
tien-ky-thuat-so-14828.html
http://baokiemtoan.vn/cuoc-dua-tien-te-ky-thuat-so-cua-ngan-hang-trung-
uong-dang-nong-len-17823.html
https://www.pwc.com/vn/vn/publications/2021/210923-pwc-vietnam-cbdc-
index-vn.pdf
https://baoquangnam.vn/viet-nam-vao-top-10-quoc-gia-co-ty-le-nguoi-so-
huu-tien-dien-tu-cao-nhat-3062496.html
https://stockbiz.vn/tin-tuc/phat-trien-tien-ky-thuat-so-cua-ngan-hang-trung-
uong-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-hoc-cho-viet-nam/22795026
https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftW
idth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV533010&ri
ghtWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=46037265626281466#%40%3
F_afrLoop%3D46037265626281466%26centerWidth%3D80%2525%26dDocNa
me%3DSBV533010%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26
showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-
state%3D7bun9uwu7_9

You might also like