You are on page 1of 126

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thắm

TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM – TRUYỆN NGẮN


PAUXTỐPXKI: SỰ GẶP GỠ CỦA PHONG CÁCH
NGHỆ THUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Mã số: 60 22 34

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Phương,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
thực hiện và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn
Nam Phong, người đã dịch và cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi
có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ
Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng Quản lí sau
đại học – trường Sư phạm TP. HCM, Ban giám hiệu nhà trường –
trường Dự bị đại học TP. HCM, tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.
TP. HCM, ngày 02 tháng 12 năm 2010
Trần Thị Thắm
DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra từ cuối thế kỉ XX, đồng đều ở mọi lĩnh vực, hầu như đã
xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nước, làm cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau
hơn. Trong bối cảnh ấy, văn học so sánh ra đời nhằm khám phá mối liên hệ văn học giữa
các quốc gia, bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học dân tộc biệt lập từ trước
đến nay.
Quả thật, ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc trên thế giới là khác nhau, nhưng tư
duy, tình cảm, tâm lí, thẩm mĩ lại có nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu văn học Việt
Nam trong mối tương quan với văn học thế giới giúp chúng ta ý thức về vị thế, thân phận,
tư cách của văn học dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó còn là con đường khám
phá bản sắc dân tộc.
Một điều không thể phủ nhận là mặc dù cách xa nhau hơn “nửa vòng trái đất” nhưng
Việt – Nga có quan hệ “thâm tình”, gắn bó. Văn hóa của hai nước phương Đông –
phương Tây này có nhiều điểm tương đồng. Hơn nữa, cả hai dân tộc đều có số phận lịch
sử thật lắm thăng trầm: từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, từng trải qua nhiều cuộc chiến
tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và cũng từng lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, ghi
dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của mỗi dân tộc. Vì thế mà mặc dù đến Việt
Nam muộn hơn văn học Trung Quốc và văn học Pháp, song văn học Nga vừa gặp đã trở
nên gắn bó, thân quen.
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam đóng góp ở
nhiều thể loại. Mặc dù ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, với một số lượng tác phẩm chưa đạt
đến mức “đồ sộ”, nhưng nhà văn đã sớm xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi
có tầm vóc, một người viết truyện ngắn xuất sắc, không thể thay thế. Nhìn sang văn học
Nga, ta thấy có sự “hội ngộ bất ngờ” giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong địa hạt văn
xuôi trữ tình, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nổi
tiếng với những truyện ngắn “không có chuyện”.
Tác phẩm của Pauxtốpxki được đón nhận một cách nồng nhiệt ở Việt Nam. Bình minh
mưa và Bông hồng vàng trở thành tập sách gối đầu giường của độc giả yêu văn học, nhất
là giới trẻ. Truyện ngắn của ông đã đi vào thơ của nhiều cây bút người Việt, những tâm
hồn đã tìm thấy ở đây sự đồng cảm, chia sẻ, những rung động mãnh liệt, chẳng hạn Bằng
Việt, Thúy Toàn, Phạm Ngọc Lan… Với bản thân người viết, những trang sách của
Pauxtốpxki luôn là “áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu” 1, là người bạn trong hành trình
tuổi trẻ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ viết về tình yêu và cuộc
sống.
Trong cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp hôm nay, những truyện ngắn của Thạch Lam –
Pauxtốpxki vẫn luôn là những món ăn tinh thần quý giá, là bến nước trong êm ả, an lành
cho tâm hồn mỗi chúng ta tìm về neo đậu.
Đặt truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki bên cạnh nhau trong thế đối
sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về hai tác giả, đồng thời vẻ đẹp văn hóa của
mỗi dân tộc cũng được phát hiện, tôn tạo thêm.
Trên đây là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn “Truyện ngắn Thạch
Lam – truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật” làm đề tài
nghiên cứu cho bản luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam và Pauxtốpxki lâu nay đã chiếm lĩnh được nhiều tình cảm của độc giả
Việt Nam. Từ những năm 30 trở đi, xuất hiện với 3 tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937),
Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Thạch Lam được coi như một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ thập niên 50, qua các
bản dịch của Vũ Minh Thiều, Bửu Kế, Cẩm Tâm, Kim Ân, Mộng Quỳnh, Phan Hồng
Giang…, bạn đọc Việt Nam biết đến Pauxtốpxki như một tài năng đoản thiên tự sự, làm
không ít người bất giác liên tưởng đến Thạch Lam.
Một thực tế rằng ở Việt Nam, từ trước 1945 đến nay, các công trình, bài nghiên cứu về
Thạch Lam khá đồ sộ. Khoảng mười năm trở lại đây, có nhiều công trình có quy mô, tầm cỡ
nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam. Truyện ngắn của ông đã được khám
phá từ mọi giác độ, mọi bình diện: tư tưởng, quan điểm của tác giả, nội dung phản ánh, nghệ
thuật thể hiện, phong cách văn xuôi nghệ thuật… Số lượng công trình, bài viết về
Pauxtốpxki, so với Thạch Lam, “mỏng” hơn nhiều. Những vấn đề liên quan đến đặc trưng
phong cách nghệ thuật Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ, ở những bài giới thiệu khái
quát, hầu hết các dịch giả trên đều đề cập đến. Riêng việc nghiên cứu truyện ngắn Thạch

1
Thơ Bằng Việt
Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn Pauxtốpxki thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi xem vấn
đề này là một mảnh đất trống đầy hấp lực và thách thức trong việc tìm hiểu, khám phá nó.
Vì tránh sự trùng lặp không cần thiết với công việc nhiều nhà nghiên cứu đã làm, ở
đây chúng tôi xin phép không bàn đến những công trình nghiên cứu về truyện ngắn ở mỗi tác
giả (Thạch Lam hoặc Pauxtốpxki) mà chỉ quan tâm đến các tài liệu trực tiếp đề cập đến đề
tài.
Phan Hồng Giang, một trong những dịch giả có đóng góp rất lớn với việc đưa tác
phẩm của Pauxtốpxki đến với người đọc Việt Nam, trong bản dịch của tập tiểu luận Một
mình với mùa thu, đã có những nhận xét rất xác đáng về Pauxtốpxki: “Có thể coi là một tấm
gương cùng soi chung của tâm hồn hai dân tộc Nga – Việt. Ông đã là biểu hiện cụ thể cho
cái đồng cảm, đồng điệu giữa tâm hồn hai dân tộc vốn có rất nhiều điểm chung trong số
phận lịch sử hình thành và phát triển” (Chúng tôi nhấn mạnh) [64, tr. 325]. Bùi Việt Thắng
trong cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cho rằng: “Đọc văn
Thạch Lam chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà sinh thành. Nhân vật của
ông nhận biết hết thế giới xung quanh và giao hòa được với người khác cũng chủ yếu nhờ
vào cảm giác. Đọc Thạch Lam ta nhớ tới A. Đôđê (Pháp), Pauxtốpxki (Nga), A. Môroa
(Pháp) – những nhà văn có sức mạnh của trực giác trong văn” (Chúng tôi nhấn mạnh) [
80, tr. 187]. Đó là những nhận xét mang tính mở đường, gợi dẫn mà chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu trong bản luận văn.

Tóm lại, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu truyện ngắn Thạch Lam trong
thế đối sánh với truyện ngắn của Pauxtốpxki. Tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi
trước, vừa nỗ lực tìm kiếm một hướng khám phá mới, chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn
Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật với hi vọng
bổ sung vào phần khiếm khuyết, góp thêm một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên
cứu truyện ngắn của hai tác giả này, tuy chắc chắn không thể toàn diện.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu đã có, luận văn của chúng tôi nhằm tìm
hiểu và xác lập những đặc trưng thẩm mĩ của kiểu truyện ngắn “không có truyện” ở Thạch
Lam và Pauxtốpxki. Trên cơ sở đó, chúng tôi soi chiếu vào văn hóa của mỗi nước để thấy
được đâu là “phần giao thoa” văn hóa giữa hai quốc gia, đâu là bản sắc dân tộc của mỗi
nước.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Từ
những hiện tượng văn học gần gũi nhau, chúng tôi xác định đặc trưng thẩm mĩ của loại
truyện ngắn làm nên phong cách của hai nhà văn.
Về Thạch Lam, chúng tôi tìm hiểu và khảo sát 33 truyện ngắn của ông. Về
Pauxtốpxki, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu đã được dịch, chọn lọc trong các
tập “Bông hồng vàng” và “Bình minh mưa”. Giữa các ấn phẩm của Thạch Lam và
Pauxtốpxki, chúng tôi tin tưởng chọn hai cuốn: Thạch Lam – 33 truyện ngắn, Nxb. Văn học,
2009 và cuốn Pauxtốpxki , Bông hồng vàng và Bình minh mưa (dịch giả Kim Ân và Mộng
Quỳnh dịch), Nxb Văn học, 2003 làm tư liệu khảo sát chính.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những
nét đặc sắc trong phong cách truyện ngắn ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương
đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Luận văn cũng đặt ra một
hướng đi mới mẻ trong việc tiếp cận truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki
cũng như cung cấp một số kiến thức bổ ích về văn hóa của nước ta và nước bạn.

Ý nghĩa thực tiễn: Thêm một tiếng nói khiêm nhường đưa truyện ngắn của hai nhà
văn đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy truyện ngắn
Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trong trường phổ thông và đại học.

5. Phương pháp nghiên cứu


Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:

– Phương pháp so sánh: đặt truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trong cái
nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy mối quan hệ trực
tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh loại hình, lí giải các
tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường
văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với
một số nhà văn xuất hiện cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền
chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.

– Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi tiết nghệ
thuật, biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong truyện ngắn Thạch Lam và
Pauxtốpxki, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.

– Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm
kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.

6. Cấu trúc của luận văn


Luận văn gồm có 167 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (8 trang), Kết luận (3 trang), Phụ
lục (18 trang), Thư mục tham khảo (8 trang), phần nội dung chính của luận văn gồm 130
trang, được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Thạch Lam – Pauxtốpxki: con người và quan niệm nghệ thuật
Ngoài phần giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp, những tác phẩm chính, chúng tôi trình bày
sự gặp gỡ về quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtôpxki ở các phương diện: đối
tượng của văn chương (cái đẹp), nghề văn, sứ mệnh nhà văn. Từ sự tương đồng về quan
niệm nghệ thuật, họ đã có sự gặp gỡ ở hình thức thể loại, cụ thể là loại truyện ngắn trữ tình
“phi cốt truyện”. Đây là tiền đề quan trọng của sự “giao thoa” về phong cách truyện ngắn
đặc sắc giữa họ.
Chương 2: Nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
Từ những tiền đề của chương trước, chương này nhằm cụ thể hóa những vấn đề về nội
dung tác phẩm
Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
Tiếp theo chương 2, chương này chỉ ra sự giống và khác nhau ở những đặc điểm về
hình thức và kĩ thuật kiến tạo truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.
Chương 1:
THẠCH LAM – PAUXTỐPXKI: CON NGƯỜI VÀ QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT

1.1. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Con người


Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường
Lân. Ông sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức quê gốc ở Quảng Nam. Còn
Kônxtantin Pauxtôpxki (1892 – 1968) sinh ra tại Mátxcơva, trong một gia đình gốc Côdắc
miền Dapôrôgiê. Giữa hai nhà văn thuộc hai quốc gia, hai nền văn hóa khác nhau lại có
những điểm gặp gỡ tình cờ trên những chặng đường đời.
1.1.1. Hoài niệm tuổi thơ
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng sinh trưởng trong gia đình yêu thích văn chương
nghệ thuật. Cả hai trải qua những năm tháng tuổi thơ khá êm đềm bên những người thân yêu
trong gia đình, nơi đã vun trồng nên nhân cách và tài năng cho họ. Thủa nhỏ, cậu bé Nguyễn
Tường Vinh (tên thật của Thạch Lam), chịu ảnh hưởng tích cực từ hai người anh trai học
giỏi, ngoan ngoãn (sau này là hai nhà văn nổi tiếng Nhất Linh, Hoàng Đạo). Khi lên bảy,
Tường Vinh mất cha nên cậu bé lớn lên hầu như trong sự yêu thương, chăm lo của bà nội và
mẹ. Hình ảnh người bà hiền từ, rất mực yêu thương con cháu và người mẹ đảm đang, tháo
vát với nghề buôn gạo nuôi con đã chạm khắc vào trái tim nhà văn từ tấm bé. Còn
Pauxtốpxki lại chịu ảnh hưởng nhiều từ người cha lãng mạn và vui tính, vốn là một người
thích “xê dịch” và giàu mơ ước. Cụ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Sau khi làm việc ở
Matxcơva, cụ xin đổi đi Vinnô, rồi Pơxcốp và cuối cùng mới định cư tương đối lâu dài ở
Kiép. Nhà cậu bé Kôchia đông người, đủ mọi tính nết khác nhau nhưng đều là những người
yêu nghệ thuật. Cậu lớn lên trong những tiếng hát, những bản dương cầm, các cuộc tranh
luận về âm nhạc, hội họa, văn chương.
Cả hai nhà văn đều thông minh, nhạy cảm, có bản lĩnh độc lập và sớm phát lộ tài
năng bẩm sinh. Theo các tư liệu tiểu sử và hồi kí của những người thân trong dòng họ
Nguyễn Tường, tuổi thơ của Thạch Lam gắn với Cẩm Giàng quê ngoại – một phố huyện
nghèo đã in đậm bóng dáng trong những trang văn của ông. Khi lên sáu tuổi, Thạch Lam
theo gia đình rời Hàng Bạc (Hà Nội) về đây. Cũng từ đó, phố thị đông vui, huyên náo và đầy
ánh sáng chỉ còn là một nơi xa xăm trong miền kí ức đẹp đẽ mà tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm
như Thạch Lam đôi lúc vẫn khao khát tìm về.
Thủa nhỏ, “người em thứ sáu” vốn là một đứa trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, dạn dĩ, “thông
minh và lãng mạn nhất nhà” [3, tr. 342]. Cậu bé có đôi mắt sâu trên gương mặt khôi ngô ấy
lại có một tâm hồn rất nhạy cảm, biết thương yêu, sẻ chia với những người nghèo khổ quanh
mình. Ngoài ra cậu còn học rất giỏi, từng khai tăng tuổi để học Ban thành chung. Tuy còn
nhỏ, Tường Vinh sớm có ý thức phụ giúp gia đình. Công việc trông coi cửa hàng tạp hóa
(cùng người chị gái) ngày ấy đã để lại những kỉ niệm khó phai mờ trong kí ức của nhà văn
Thạch Lam về sau.
Các tư liệu viết về Pauxtốpxki cho biết thủa nhỏ, cậu là đứa trẻ bản lĩnh, hoạt bát. Khi
đang học lớp 6, gia đình cậu bị khánh kiệt. Đó cũng là thời điểm mở đầu cho cuộc sống tự
lập của Pauxtốpxki. Việc làm nghề gia sư để tiếp tục con đường học vấn dang dở đã chứng
tỏ nghị lực và ý chí phi thường đang sục sôi trong trái tim non trẻ của cậu thiếu niên ham học
hỏi này.
Ngoài ra, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng ước mơ về những chuyến đi xa, khát
khao khám phá những chân trời mới mẻ. Ngoài thú vui “đi chơi chân không quanh quẩn
chỗ mẹ và bà ngồi” [3, tr. 342] trong những đêm sáng trăng hay “đi chơi quanh quẩn nơi
xóm chợ” [3, tr. 344], cậu bé Tường Vinh còn có một sở thích đặc biệt là “xem tàu hỏa, ngày
nào cũng ra đợi ngắm chuyến tàu kéo gạo hai giờ trưa” [3, tr. 344]. Với tính bạo dạn và hiếu
kì, cậu đã chui cả vào gầm toa, sờ tay vào những vành bánh sáng loáng mặc dù mọi người ở
ngoài được một phen thót tim. Còn cậu bé Kôchia vốn là một đứa trẻ ưa khám phá. Cậu say
mê bản đồ địa lí đến mức có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ liền với chúng. Chính Pauxtốpxki
từng bộc bạch:“Tôi nghiên cứu dòng chảy của những con sông chưa bao giờ biết tới, những
bờ biển kì cục, đi sâu vào rừng Taiga, nơi những trạm không tên tuổi chuyên mua da, lông
thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc
lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu Iugor, quần đảo Ebriđơ, Guađagama và
Invécnetxơ, Onhêga và Koócđie. Dần dần tất cả những vùng đất đó sống dậy trong trí tưởng
tượng của tôi rõ rệt đến nỗi tôi tưởng có thể viết nổi những cuốn nhật kí hành trình bịa đặt
qua các lục địa và các xứ sở khác nhau.” [65, tr. 81].

1.1.2. Biến động cuộc đời


Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều là chứng nhân của một thời đại bão táp gắn với
những sự kiện trọng đại của lịch sử, bao đổi thay lớn lao của dân tộc. Mà ta biết, mọi ba
động của đời tất thảy đều vang lên khác lạ trong tâm hồn nhạy cảm của người trí thức, nhất
là những trí thức nghệ sĩ như họ.
Thạch Lam sinh ra và lớn lên trong tình cảnh “sự đã rồi” của đất nước. Sau khi tạm
“bình định” Việt Nam về mặt quân sự, từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Xã hội Việt Nam mặc nhiên phải chấp nhận
bao sự đổi thay, mà đổi thay lớn nhất là cuộc sống “buổi giao thời” dưới chế độ thực dân
thuộc địa. Bao làng quê yên ả, thanh bình với cốt cách “dĩ nông vi dân” nay bỗng chốc “làng
xoay ra phố”, dung nạp thêm lối sống thị thành. Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại
ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Được đào
tạo bài bản như một trí thức Tây học, nhưng trước sau Thạch Lam vẫn là “một người Việt
Nam sâu xa, một người Việt Nam thành thực” [3, tr. 357]. Còn Pauxtốpxki đến với cuộc đời
giữa lúc xã hội Nga đang trong bầu không khí sục sôi của đêm trước Cách mạng tháng Mười.
Ông là người đã kinh qua hai cuộc Thế chiến chấn động cả địa cầu, sống trong đói rách, giặc
giã, cách mạng, nội chiến, hòa bình.
Hai nhà văn có cách “ứng xử” khác nhau trước thời cuộc. Khi chiến tranh Thế giới
thứ nhất nổ ra, Pauxtốpxki rời ghế nhà trường và lao vào các công việc: làm nhân viên
đường sắt, phụ lái tàu điện, bán vé tàu điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương. Cuộc
cách mạng tháng Hai bùng nổ khi Pauxtốpxki đang ở Matxcơva, ông bước vào ngành báo.
Cũng ở đây, ông hạnh phúc được tham dự Cách mạng tháng Mười, nghe Lênin nói chuyện
và tiếp tục chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Trong cuộc nội chiến,
Pauxtốpxki gia nhập Hồng quân, nguyện hiến thân mình cho Tổ quốc. Chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra, một lần nữa, hiện thực bề bộn ấy đã cuốn theo nhà văn trong vai trò phóng viên
mặt trận phía Nam. Nếu như Pauxtốpxki tích cực với các hoạt động chính trị, xã hội thì
Thạch Lam dường như không tham gia một tổ chức chính trị nào. Cuộc đời ngắn ngủi của
ông trôi qua trong bầu không khí tù đọng, bức bối của xã hội Việt Nam thời kì đêm trước
cuộc cách mạng tháng Tám. Bao cuộc khởi nghĩa chống Pháp diễn ra sôi nổi, tuy có thất bại
nhưng ngọn lửa đấu tranh vẫn âm ỉ cháy và được nhen nhóm để chờ thời cơ là bùng lên
mạnh mẽ. Hầu hết giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đều mang tâm trạng cô đơn, bất lực trước thời
thế bởi họ chưa tìm thấy lối đi hay còn đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” 1. Có người cho
rằng tuổi đời Thạch Lam quá ngắn nên ông chỉ kịp sống trọn vẹn cuộc đời của một nghệ sĩ
chân chính. Lại có ý kiến nhận xét Thạch Lam đã chịu ảnh hưởng của nhà văn A. Gide với
một quan niệm tự do gần như tuyệt đối. Nếu Pauxtốpxki giống như cây kim bé nhỏ trước
thỏi nam châm cuộc đời thì Thạch Lam tựa sợi tơ giăng ngang giữa một trời bão táp.
Cả hai nhà văn đều có cuộc đời gắn với những chuyến đi. Trong cuộc đời “ở trọ trần
gian” thoáng chốc, Thạch Lam cũng nhiều lần “xê dịch” trong phạm vi của đất nước: từ Hà
Nội về Cẩm Giàng (Hải Dương), Tân Đệ (Thái Bình). Sau khi về lại Hà thành, Thạch Lam
sống ở phố Hàng Bún, phố cầu Gỗ, rồi lần lượt chuyển đến Giám, Đỗ Hữu Vị, Hàng Bè,
Quán Thánh… Ông cũng có vài năm theo Hoàng Đạo vào sống ở Sài Gòn. Thế nhưng ông
sống và sáng tác chủ yếu ở một lớp nhà gỗ nhỏ ven Hồ Tây, có cây liễu rủ bóng thướt tha
ngoài cửa sổ và khóm tre xanh mát đầu nhà, mộc mạc như ở chốn quê. Còn dấu chân
Pauxtốpxki đã in khắp mọi miền Tổ quốc Nga, từ bán đảo Cônxki đến những sa mạc miền
Trung Á, từ các thành phố băng tuyết miền cực Bắc đến bờ biển ấm áp vùng Krưm và những
khu rừng Taiga rậm rạp của Xibêri... Ông đã nghe giọng nói âm vang và du dương của người
Ôđétxa, ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Karêli, uống nước của những hồ trong đầm lầy
đen kịt ở vùng Mêsora, rảo chân lang thang trên những nẻo đường vùng Mikhailốp… Giữa
những năm 50 của thế kỷ XX, Pauxtốpxki đã mở rộng biên độ xê dịch ra nước ngoài như đến
thăm Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari, đi du lịch vòng quanh Châu Âu.

1.1.3. Sáng tạo nghệ thuật


Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn đồng đại. Cùng được nuôi dưỡng với nguồn
sữa nghệ thuật từ gia đình và mạch nguồn văn hóa dân tộc, các ông đã đến với văn chương
như quy luật tất yếu của tình yêu và đam mê. Năm 21 tuổi, sau khi đỗ tú tài I, Thạch Lam
thôi học, bắt đầu làm báo, viết truyện ngắn, luận thuyết văn học, thời đàm. Khi Nhất Linh
sáng lập nhóm “Tự lực văn đoàn”, một tổ chức văn học nổi tiếng thời bấy giờ, Thạch Lam
nhanh chóng trở thành một cây bút chủ chốt của báo Phong hóa, rồi Ngày nay (cơ quan ngôn
luận của nhóm). Tuy cầm bút sáng tác theo tuyên ngôn của “Tự lực văn đoàn”, ông vẫn lặng
lẽ kiếm tìm cho mình một lối đi riêng. Kết quả là sách của ông bán ế nhất bởi nó luôn đi bên
lề của “mốt thời thượng”. Tuy vậy, thời gian – thước đo công bằng, khách quan nhất – đã trả
lại cho văn chương ông giá trị đích thực vốn có. Ngày nay, những truyện ngắn của Thạch
1
Thơ Tố Hữu
Lam vẫn là một thứ rượu quý, nhẹ nhàng thấm vào hồn người, ngọt ngào và say sưa. Bạn bè
của Thạch Lam còn nhớ như in một con người khiêm nhường, nhỏ nhẹ, ít nói ở ngoài đời
nhưng lại sâu sắc trong văn chương và rất nghiêm túc trong nghề nghiệp. Thạch Lam viết
một cách thận trọng, khó khăn bởi mỗi trang văn được viết ra đều “có rất nhiều Thạch Lam ở
trong đó” [3, tr. 148]. Năm 1940, khi đang ở vào thời kì sung sức nhất trong sáng tác, Thạch
Lam phát hiện mình mang trong người căn bệnh lao phổi quái ác. Nhà văn đã bình tĩnh đón
nhận điều không may và sống, làm việc như ngọn nến trong đêm cạn mình để cháy.
Còn Pauxtốpxki sớm bộc lộ lòng đam mê văn chương với những truyện ngắn được
đăng trong tạp chí Những ngọn lửa ở Kiép khi ông còn là học sinh năm cuối trung học, tuy
nhiên nó chẳng để lại tiếng vang gì đáng kể. Với mục đích “đặt cuộc đời lên trên trang viết”,
từ năm 1913 Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc sống lang thang gần như khắp nước Nga.
Những chuyến đi khắp các vùng miền Tổ quốc trong bối cảnh đất nước trải qua những biến
cố lớn đã cho Pauxtốpxki vốn sống phong phú, nguồn tư liệu đầy đặn, chân thực, đồng thời
cũng bồi đắp cho quan điểm nghệ thuật tiến bộ ở ông. Ngoài ra, Pauxtốpxki còn là tấm
gương tích cực học hỏi kinh nghiệm của thế hệ nhà văn tiền bối và các đồng nghiệp đương
thời.
Với tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy như dây đàn, luôn sẵn sàng rung lên trước những xung
động của cuộc sống, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dệt nên những trang văn nồng ấm hơi
thở đời thường. Tất nhiên, với tuổi đời, tuổi nghề lớn hơn, Pauxtốpxki đã mở rộng độ xê
dịch và để lại cho hậu thế khối lượng tác phẩm đồ sộ hơn. Với non mười năm cầm bút,
Thạch Lam đã xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi có tầm vóc, một phong cách
truyện ngắn đặc sắc dù khối lượng tác phẩm chưa nhiều. Ông để lại các tập truyện ngắn: Gió
đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết: Ngày mới (1939), tập
tiểu luận phê bình: Theo dòng (1941); Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra
còn có hai cuốn truyện viết cho thiếu nhi là Quyển sách, Hạt ngọc (1940), và một số truyện
dài còn đang ở dạng bản thảo như Thập niên đăng hỏa, Huyền… Đó là kết quả của một hành
trình miệt mài, cần mẫn chắt chiu cái đẹp bằng tất cả tấm lòng.
Cuộc hành trình chắt chiu từng mảy bụi vàng của Pauxtốpxki đã kết thành “trái ngọt
hoa thơm” – những tiểu thuyết, truyện dài, chân dung văn học, bút kí, tiểu luận, đặc biệt là
truyện ngắn. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ: Những phác thảo biển khơi
(1925), Những đám mây lấp lánh (1929), Vịnh Kara – Bunga (1932), Số phận Sáclơ
Longxêvin (1933), Miền Cônkhiđa (1934), Hắc Hải (1936), Những ngày hè (1937), Ôrext
Kiprenxki (1937), Câu chuyện phương Bắc (1938), Miền rừng Mêsora (1939), Bông hồng
vàng (1955), Truyện cuộc đời (1967). Ở Việt Nam, những tác phẩm của Pauxtốpxki được
đông đảo bạn đọc biết đến qua các bản dịch: Bông hồng vàng (in 1961, tái bản 1982), tập
Truyện ngắn Pauxtốpxki (1962), Vịnh Mõm Đen (1978), Bình minh mưa (1982).
Những nét tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki ngoài đời là tiền đề cho cuộc
gặp gỡ thú vị trong nghệ thuật giữa họ mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần tiếp theo của
luận văn.

1.2. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Quan niệm nghệ thuật


Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo phương thức “cá
thể”. Vì vậy, mỗi tác phẩm là một “chứng minh thư” tâm hồn của nhà văn, nó chịu sự chi
phối sâu sắc của quan niệm nghệ thuật của ông ta. Thuật ngữ quan niệm nghệ thuật có nội
hàm rộng, là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật,
đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, tr.229]. Quan
niệm nghệ thuật của một nhà văn là một phương diện quan trọng góp phần định dạng phong
cách nghệ thuật của nhà văn ấy.
Ở Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ trong quan niệm nghệ thuật về tác phẩm
văn chương, về cái đẹp và vai trò của người nghệ sĩ. Những quan niệm ấy hé mở với người
đọc cái nhìn độc đáo của các ông về thế giới và con người.
1.2.1. Văn chương đòi hỏi “sự thật và giản dị”
Giá trị và ý nghĩa của nội dung tác phẩm văn học được đánh giá theo mức độ phản ánh
chân thật và sâu sắc hiện thực đời sống. Do vậy, tính chân thật, giản dị là những phẩm chất
không thể thiếu của một tác phẩm đích thực. Theo Thạch Lam, để có được điều đó, người
nghệ sĩ phải “bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp
đẽ, tìm cái giản dị, sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng” (Chúng tôi
nhấn mạnh) [43, tr. 322]. Thạch Lam từng nhắc lại câu nói của André Bellesort với sự chia
sẻ sâu sắc: “Không gì bằng sự thực; sự sống là cái chuẩn đích, là mực thước của mọi vật”
[43, tr. 328]. Quan niệm về tác phẩm văn học của Thạch Lam trực tiếp hé lộ mĩ cảm của nhà
văn: cái đẹp là sự sống được cảm thấy. Nhà văn đã đề cao tính chủ thể trong việc phát hiện,
thụ hưởng và miêu tả cái đẹp, cái thẩm mĩ. “Cái đẹp được cảm thấy” nghĩa là nó phải sống
động, tự nhiên, giản dị và chân thật. Nó hoàn toàn xa lạ với cái trơ cũ, đoán định, sáo mòn.
Nó là cái cốt lõi làm nên tác phẩm văn học. (Đành rằng văn chương không chỉ nói đến cái
đẹp). Điều đó có nghĩa là phẩm chất chân thật, giản dị của tác phẩm văn học chỉ có thể được
dưỡng nuôi từ tình cảm, sự rung động thành thực trong con tim tác giả. Đó là vì “cái gì nhà
văn không cảm thấy mà bịa ra, nó vẫn có vẻ một vật thừa, một vật vô ích” [43, tr. 311].
Thạch Lam lưu ý“sự rung động thật với sự văn chương”. Khi được khơi nguồn, hoài thai từ
cái đẹp được cảm thấy bởi tâm hồn nhà văn, tác phẩm tự bản thân nó đã mang một vẻ đẹp vô
cùng – vẻ đẹp của sự sống xanh non.
Thạch Lam thú nhận bản thân ông từng ca tụng hoa liễu, bắt chước những câu văn sáo
rỗng “như người ta thường vẫn làm” nhưng rồi nhà văn sớm nhận ra sự tẻ nhạt, giả dối trong
hành động đó. Không né tránh những mặt trái kém phần thi vị của cuộc đời, những góc khuất
tăm tối trong hồn người, nhưng Thạch Lam cũng không tô đậm hay bôi đen chúng mà
chuyển tải hiện thực đó lên trang văn của mình với thái độ chia sẻ, cảm thương. Cái đói khổ,
túng quẫn của kẻ làm thuê; sự cay cực vì miếng ăn của người trí thức; việc mưu sinh khó
khăn của người lao động nghèo… Tất cả hiện lên sống động, xác thực qua những truyện
ngắn như Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn cũ, Đói, Người bạn trẻ… Không chỉ miêu tả
hiện thực đời sống con người, Thạch Lam còn đi sâu vào cái chân thật trong cảm xúc, tâm
trạng của họ. Đó là những tình cảm “phiền phức” nhưng hiện hữu ở con người: nỗi băn
khoăn khó hiểu khi lần đầu làm cha (Đứa con đầu lòng); niềm hạnh phúc say sưa của cô gái
lần đầu biết đến men say tình yêu (Tình xưa); cảm giác ngỡ ngàng khi suýt nữa chạm tay vào
việc xấu (Sợi tóc), hay ân hận, dày vò vì đã trót làm điều ác (Một cơn giận)…
Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki cho rằng tác phẩm văn học nói chung,
truyện ngắn nói riêng cần phải có “sự thật và giản dị” [65, tr. 45]. Ông chia sẻ kinh nghiệm
viết truyện ngắn đầu tiên của mình: “Tôi vật lộn mãi với truyện ngắn này và không hiểu
được vì sao khi viết ra nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt mặc dầu nội dung câu chuyện thật thê
thảm” [65, tr. 44]. Để có một truyện ngắn đích thực, tác giả đã viết lại “và ngạc nhiên vì
không sao đặt được vào trong truyện những từ cầu kì và đẹp” [65, tr. 45]. Pauxtốpxki nhấn
mạnh: “Tôi viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì tâm hồn, trái tim,
khối óc tôi đòi hỏi phải làm như vậy” [65, tr. 47]. Do vậy, ông đã mạnh dạn đưa “những cái
tưởng chừng như vặt vãnh” vào truyện ngắn của mình và chúng đã phát huy hết nội lực. Một
món quà, một cuộc gặp gỡ tình cờ, thoáng qua mà đầy dư âm dư vị… đã được diễn tả chân
thực, cảm động qua các truyện ngắn Lẵng quả thông, Gió biển, Tuyết, Cây tường vi…
Mặt khác, cái đẹp được cảm thấy theo Thạch Lam và Pauxtốpxki là cái đẹp mới mẻ,
trong trẻo, thuần khiết như lần đầu được biết đến. Trong bài tiểu luận Chất thơ của văn xuôi,
Pauxtốpxki cho rằng người nghệ sĩ phát hiện ra cái đẹp ấy nhờ “khả năng nhìn cuộc sống lúc
nào cũng như mới, như lần đầu được thấy, trong tất cả dáng vẻ tươi nguyên và đầy ý nghĩa”
[64, tr. 10]. Trong truyện ngắn Thạch Lam, vẻ đẹp thanh tân, tràn đầy sức sống của các thiếu
nữ như Lan (Tình xưa), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Trăng sáng)… luôn được tác giả miêu
tả qua sự rung cảm của các chàng trai trẻ – những thanh niên đang sống trong men say của
mối tình đầu. Thạch Lam cũng nhiều lần nói đến cái sự sống bí ẩn mà thiêng liêng trong bản
thân mỗi sự vật: “Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét” [44, tr.
88]; “Trong cái giờ khắc này, Tân như thấy cảnh vật đều có một tâm hồn, mà lớp sương mù
kia là tâm hồn của đất màu đã nuôi hạt thóc cần cho sự sống của loài người” [44, tr. 100];
“Bông hoa vừa hé nở, cánh nhỏ còn khép giữ một giọt sương long lanh trong như ngọc. Từ
đóa hoa bốc lên một mùi hương quen mến, mùi hương mộc mạc và đầm ấm của hồng nhà”
[44, tr. 250]. Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki tập trung mô tả những tình cảm
đột khởi trong tâm hồn con người: cái mới mẻ của tình yêu chợt đến (Tuyết, Suối cá hương,
Cầu vồng trắng…), sự rung cảm kì lạ trước sức lay gọi mãnh liệt của âm nhạc (Lẵng quả
thông, Người đầu bếp già)…v.v

1.2.2. Đi tìm cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp


Có thể nói người nghệ sĩ là tín đồ của cái Đẹp. Cái đẹp, cái thẩm mĩ là đích đến trong
hành trình nghệ thuật của họ. Thế nhưng, quan niệm về cái đẹp của họ cũng muôn màu vạn
vẻ như chiếc kính vạn hoa. Có người say đắm với cái đẹp của những giá trị văn hóa tinh thần
một thời quá khứ huy hoàng đã qua, lại có kẻ thích cái đẹp ước lệ kiểu phong, hoa, tuyết,
nguyệt… hay đi tìm cái đẹp kì bí, siêu phàm. Với Thạch Lam, “nhưng cái đẹp chỉ cứ ở hoa,
ở liễu thôi đâu mà? Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật tầm thường” (chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 326]. Quan niệm về cái đẹp của
Thạch Lam tương đồng với quan niệm của Pauxtốpxki. Nhà văn xứ bạch dương cho rằng
trong mọi sự vật bình thường đều tiềm ẩn bụi quý:“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và
mỗi cái nhìn tình cờ ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng
của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao
trong một vũng nước đêm – tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng” [65,
tr. 20]. Đó chính là cái đẹp khuất lấp, tiềm tàng trong đời sống hằng ngày.
Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra nguồn “chất liệu” phong phú
và vô tận của tác phẩm văn chương. Quả thật, cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm
mĩ phong phú nhất và phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Có cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp của
những sản phẩm do con người tạo ra, cái đẹp trong hoạt động của con người, cái đẹp của con
người và cái đẹp trong nghệ thuật. Những “mảy bụi vàng” ấy hiện diện quanh ta, kể cả
những nơi tưởng chừng khó tìm thấy nhất nhưng chúng vốn khuất lấp, ẩn chìm. Chúng đòi
hỏi người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, sự dấn thân để khám phá và tâm hồn tinh tế,
nhạy cảm để phát hiện, lĩnh hội. Thạch Lam và Pauxtốpxki đã đề cao việc phát hiện nhân tố
mới của cái đẹp, cái thẩm mĩ. Ngược lại, chúng cũng xác lập vị trí, yêu cầu đối với nghề văn
– một hình thái lao động đặc thù – là “phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái
đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn, thưởng thức”
(chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 26], hay: “Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng
không phải là một thứ công việc”, đó chính là “cái lao động tuyệt mĩ nhưng cay cực” [65, tr.
24]. Quan niệm về nghề văn của Thạch Lam và Pauxtốpxki gần gũi với quan niệm của Nam
Cao. Cây bút truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam cho
rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. 1
Thạch Lam đã phát hiện cái đẹp trong cái nên thơ, bình dị, yên ả của những làng quê,
phố huyện nghèo ở Việt Nam (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Tình xưa, Nắng trong
vườn), còn Pauxtốpxki thiết tha với vẻ đơn sơ, trong lành mà đầy quyến rũ của các làng mạc,
tỉnh lị xa xôi trên đất Nga (Tuyết, Bình minh mưa, Cây tường vi, Bình nguyên tuyết phủ).
Một buổi sớm mai tươi mát, trong lành, một con đường làng mấp mô bước chân trâu, cánh
đồng lúa rập rờn theo làn gió, khu rừng bạch dương màu trắng bạc, ngọn núi phủ tuyết khi
đông về… tất cả đều được các nhà văn khơi dậy cái chất sống tươi mới bên trong. “Bóng tối”
thường tạo ra một ấn tượng kinh hoàng, lo sợ cho con người, nhưng Thạch Lam tìm thấy vẻ
đẹp bí ẩn, mê hoặc của nó: “Trời đã bắt đều đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng
qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 149]. Dưới
cái nhìn của Pauxtốpxki, bóng tối trở nên thân quen như một người bạn. Bóng tối trộn hòa
với mưa bụi, tạo ra một không gian êm dịu, những giọt âm thanh khẽ khàng, xôn xao (Bình
minh mưa). Bóng tối bao bọc và làm thăng hoa tình cảm thiêng liêng của con người (Suối cá
hương). Nếu như Thạch Lam phát hiện ra cái đẹp ở những đối tượng mà khi nhắc đến họ,
người ta nghĩ ngay đến cái xấu, cái ác như Huệ và Liên (Tối ba mươi), bà cả (Đứa con), bà
1
Theo sách Văn học 11, tập 2, Sách chỉnh lí hợp nhất 2000, trang 198.
đầm (Bà đầm), thì trong con người đại diện cho quyền lực quân đội, Pauxtốpxki tìm thấy
một tâm hồn nhạy cảm, khát khao tình yêu (Suối cá hương). Với Thạch Lam và Pauxtốpxki,
cái đẹp không chỉ toát ra ở những cô gái đôi mươi, trẻ trung, ngời ngời xuân sắc như Nga
(Dưới bóng hoàng lan), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Đêm sáng trăng), Đanhi (Lẵng quả
thông), Masa (Cây tường vi), Maria Tsernưi (Suối cá hương) mà ngay cả những phụ nữ đứng
tuổi, có vẻ ngoài thô kệch như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Mađam Bôvê (Lời cầu nguyện của
Mađam Bôvê) cũng nổi bật với nét mặn mà, đằm thắm, đặc biệt là vẻ đẹp của lòng nhân hậu,
vị tha.
Quả thật, trong bất cứ hoạt động nào con người cũng đều sáng tạo “theo quy luật của
cái đẹp”,1 nhưng không ở đâu quy luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc tìm tòi và phát
hiện ra những nhân tố mới của cái đẹp lại chiếm một vị trí quan trọng đến như vậy trong
nghề văn. Những nhà văn tận tụy, tâm huyết với nghề sẽ biết cách chọn cho mình một đường
hướng phù hợp, tránh sa vào lối mòn và tạo ra “những đứa con tinh thần” xơ cứng, yểu
mệnh. Và nghề văn sẽ dẫn dắt người nghệ sĩ đến với chân trời vô tận của cái đẹp nếu họ có
năng lực nhìn cuộc sống bằng cặp mắt “xanh non”.

1.2.3. Chắt chiu “bụi quý”, đúc “bông hồng vàng”


Sứ mệnh cao cả của nhà văn là nghệ thuật hóa cái đẹp mà mình đã khổ công chắt chiu,
gom góp trong đời sống thường nhật, biến chúng thành những “bông hồng vàng” (theo cách
nói hình tượng của Pauxtốpxki). Một khi đã “tìm được hạt nhân tiêu biểu chứa đựng trong
từng điều vặt vãnh” [64, tr. 19], nhà văn làm đầy vốn sống của mình bằng sự cần mẫn chắt
chiu từng mảy “bụi vàng”. Với hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chính họ đã làm cho cái đẹp
thăng hoa, bất tử. Bởi “nghệ thuật không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng
nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm
nặng nề nhất trong việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của xã hội” [48, tr. 155], nên vai trò, vị
trí và tư chất của người nghệ sĩ luôn được đưa lên hàng đầu.
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nêu cao vai trò của nhà văn trong hành trình chiếm
lĩnh và sáng tạo cái đẹp. Dù Thạch Lam nêu ra trực tiếp: “Chúng ta không cần bắt chước ai
(mà công việc bắt chước không phải là công việc sáng tác). Chúng ta cứ việc diễn tả tâm
hồn (An Nam) của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm
tâm” [43, tr. 318] hay Pauxtốpxki phát biểu gián tiếp bằng hình tượng: “Chúng ta, những
1
Chữ dùng của Mác, dẫn theo Lê Ngọc Trà [ 48, tr. 155]
nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng (bụi vàng) trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát
đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh
‘bông hồng vàng’ của ta, truyện, tiểu thuyết hay là thơ” [65, tr. 20], thì sự sáng tạo của
người nghệ sĩ luôn được các ông đặt lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là từ vô vàn hạt bụi
vàng quý hiếm – nguồn chất liệu sống, cái “vốn” của nhà văn – sẽ có những “bông hồng
vàng” được khai sinh bằng tài năng và cảm xúc của họ. Mỗi nhà văn có những “bông hồng
vàng” – tác phẩm – của riêng mình. Chúng có số phận hoàn toàn khác nhau nhưng cái thành
quả ấy một mặt chứng tỏ nhà văn đã chạm đến “đích” của hành trình nghệ thuật, mặt khác
xác lập vị trí và sự đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà (và cả trên thế giới). Vì
vậy, sự sáng tạo là điều kiện tiên quyết để nhà văn sản sinh ra cái đẹp trong nghệ thuật. Ở bài
tiểu luận Niềm vui sáng tạo, Pauxtốpxki đã chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao của nhà văn khi
dấn thân trên hành trình nghệ thuật: “Nhà văn đi rất sâu vào mỗi cuốn sách của mình, như
các nhà thám hiểm và chinh phục đi đến miền đất bao la của xứ sở xa lạ. Nhà văn nhiều khi
không biết cái gì đang đợi anh, dòng sông, cánh rừng, dãy núi nào anh sẽ ghi lại trên bản
đồ, những con người bất ngờ nào anh sẽ gặp, những sự kiện nào anh sẽ may mắn chứng
kiến” [64, tr. 54]. Còn Thạch Lam chỉ rõ hậu quả của việc chạy theo lối mòn: “Những nhà
văn nào ồ ạt theo thời chỉ tạo ra được những số phận mỏng manh. Bởi họ chỉ nghe theo
tiếng gọi của sự háo hức, lòng hám danh, sự chiều lòng công chúng” [43, tr. 313].
Ngoài sự sáng tạo, bản lĩnh, cá tính là nhân tố không thể thiếu trong lao động nghệ
thuật của một nhà văn. Đó là “cái can đảm mình dám là mình” như Thạch Lam chia sẻ [43,
tr. 319] hay việc “thể hiện mình một cách đầy đủ nhất và rộng rãi nhất trong bất cứ tác
phẩm nào, dù chỉ ở một truyện ngắn nhỏ” [65, tr. 45] mà Pauxtốpxki tâm đắc tỏ bày. Nếu cá
tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì đó là một sự tự
sát trong văn học. Bởi văn học làm giàu cho xã hội không phải ở số lượng của cải như sản
xuất vật chất mà ở những giá trị về mặt tinh thần. Nếu như chân lí mà khoa học mang lại chỉ
mang tính khách quan, duy nhất thì chân lí của văn học còn xuyên thấm những sắc thái chủ
quan. Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ với quan niệm L. Tônxtôi.
Đại văn hào Nga vĩ đại này từng cho rằng: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ
thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là
như sau: nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ. Anh ta có gì khác với tất cả những người
mà tôi biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc
sống chúng ta như thế nào” (dẫn theo Lê Ngọc Trà [48, tr. 204]).
Bên cạnh đó, hai nhà văn còn cho rằng sự sáng tạo trong nghệ thuật luôn song hành
với “tiếng gọi trái tim”. Bởi chỉ có dấn bước trên hành trình sáng tạo, trái tim người nghệ sĩ
mới đột khởi những tình cảm “phức tạp” trước những điều mới mẻ, kì lạ. Thạch Lam thường
lưu ý người cầm bút nên có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của
mình. Còn Pauxtốpxki lí giải cụ thể “niềm xúc động” của nhà văn: “Lo âu và mừng vui – hai
tình cảm mạnh mẽ nhất ấy đã đi theo nhà văn trên suốt chặng đường” [64, tr. 54]. Nhà văn
lo âu “liệu có tìm ra được những từ ngữ rõ ràng, đầy sức thuyết phục để kể lại tất cả những
gì đã nhìn thấy, đã suy nghĩ, kể lại tất cả cho người dân, mà với nhà văn, thì anh luôn cảm
thấy nhân dân là bạn”, hay “cảm thấy niềm vui từ sự quan sát cuộc sống, từ những điều
nghiền ngẫm, từ tâm trạng căng thẳng và lặng lẽ đặc biệt bên trong vẫn thường thấy trước
khi cuốn sách ra đời” [64, tr. 55].
Với tư chất nghệ sĩ sẵn có, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mang đến cho người đọc cái
đẹp của sự sáng tạo từ quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc. Với 32 năm
ngắn ngủi ở cõi đời, Thạch Lam đã khẳng định vị trí không thể thay thế của mình trong dòng
chảy của văn xuôi hiện đại Việt Nam, còn Pauxtốpxki cũng xác lập tên tuổi trên văn đàn bên
cạnh những trụ cột của dòng văn học Nga đương thời như M. Gorki, A. Tônxtôi, A. Fađêep,
M. Sôlôkhôp… Cuộc đời và hành trình nghệ thuật của hai nhà văn đã trở thành tấm gương
của người nghệ sĩ chân chính.
Cái đẹp của “sự thật và giản dị”, cái đẹp tiềm tàng khuất lấp, cái đẹp của sự sáng tạo
là những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtốpxki, hé lộ
cái nhìn độc đáo, tiến bộ của họ về thế giới và con người.

1.3. Thạch Lam – Pauxtốpxki: nhà văn của thể loại truyện ngắn
1.3.1. Sự gặp gỡ trong sở trường truyện ngắn
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cầm bút ở nhiều thể loại: tiểu luận phê bình, chân
dung văn học, bút kí, tiểu thuyết, truyện dài… nhưng có thể nói truyện ngắn mới là thể loại
“đo ni đóng giày” của hai nhà văn này, làm nên tên tuổi và thành công cho họ. Ngày nay,
nhắc đến Thạch Lam là người ta nghĩ ngay đến những truyện ngắn nhẹ nhàng mà ám ảnh,
chẳng hạn như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa… Một số
truyện ngắn của ông được xem là mẫu mực của thể loại này. Tương tự, ở Nga, Pauxtốpxki
được xưng tụng là bậc thầy về truyện ngắn, những đồng nghiệp đương thời và lớp nhà văn
hậu thế luôn xem ông là tấm gương để học hỏi, noi theo. Thế giới biết đến tên tuổi của
Pauxtốpxki cũng do bởi những câu chuyện ngọt ngào của ông trong tập Bông hồng vàng,
Bình minh mưa, Truyện ngắn chọn lọc Pauxtốpxki.
Để chuyển tải đến người đọc cái đẹp – những mảy bụi quý được chắt lọc từ những sự
vật bình dị, nhỏ bé của đời thường hay của tâm hồn con người, Thạch Lam và Pauxtốpxki
đều tâm đắc với hình thức tự sự cỡ ngắn. Gọn, cơ động, nhanh nhạy, cập nhật – những đặc
trưng và cũng là “lợi thế” của truyện ngắn – đã được hai nhà văn khai thác tối đa để khai sinh
những đứa con tinh thần, cho chúng đạt đến tầm cao và chiều sâu ý tưởng mà vẫn sống động,
tự nhiên.
Tìm tòi một đường hướng sáng tạo phù hợp với “điệu tâm hồn mình”, cả Thạch Lam
và Pauxtốpxki đều lấy thế giới tâm trạng của con người làm hướng khai thác chủ đạo,
quan tâm tới những cảm xúc đột biến, tức thì, thoáng qua, cỏn con. Truyện ngắn Thạch
Lam, Pauxtốpxki được khơi nguồn từ dòng chảy của văn xuôi trữ tình, xác lập một diện mạo
độc đáo: truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện.
“Trữ tình” là một trong dãy khái niệm về “loại” trong văn học, gồm trữ tình, tự sự,
kịch. Đây là quan niệm của Châu Âu, nguồn gốc từ Aristote, du nhập vào phương Đông
(Đông Á) và vào Việt Nam thời hiện đại, ngày nay trở thành “chuẩn” của lí thuyết văn học
thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Nhắc đến thuật ngữ này, người ta thường nghĩ ngay
đến một thể loại của “loại trữ tình” là thơ. Truyện ngắn trữ tình là thuật ngữ chỉ một thể loại
của “loại tự sự” (văn xuôi) có sự kết hợp hài hòa giữa tố chất “tự sự” và “trữ tình”. Theo
M.Khrapchencô, dấu ấn chủ quan và chất trữ tình đậm đặc là hai đặc điểm nổi bật của truyện
ngắn trữ tình. G.N.Pospelov chỉ ra bản chất của văn xuôi trữ tình (cũng là của truyện ngắn
trữ tình) là “tự sự một cách trữ tình” [69, tr. 100]. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng một trong
những đặc điểm quan trọng của truyện ngắn hiện đại là “gần với thơ” [30, tr. 113]. Phan
Quốc Lữ khẳng định sự ảnh hưởng của thơ với văn xuôi: “Tiến trình văn học hiện đại đã ghi
nhận sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ca và phá phách lãnh địa độc quyền của thơ ca.
Nhưng sự thâm nhập theo chiều ngược lại – tức là sự trộn hòa trở lại của thơ vào văn xuôi
cũng không phải là hiếm và điều này được xem như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của
truyện ngắn hiện đại” [46, tr. 51].
Mặt khác, tính chất “phi cốt truyện” ở truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki quy định
sự thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện của câu chuyện. Mỗi truyện là một tâm tình, gây ấn tượng
mạnh bởi phong vị trữ tình và chất thơ bàng bạc, man mác tỏa ra từ những trang văn.
Khám phá truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, người đọc như bước vào địa hạt
của chất thực và chất thơ, giữa tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Việc phân định rạch
ròi đường biên của các trào lưu, phương pháp, thể loại là không đơn giản bởi chúng có sự
trộn lẫn, chuyển hóa và xuyên thấm vào nhau.

1.3.2. Khái quát về truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki


1.3.2.1. Về chất thực
Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki tuy chưa phải là bức
tranh toàn cảnh nhưng đó là những mảnh ghép của cuộc đời thực và chúng đủ sức tái tạo
hình ảnh một xã hội khá đầy đủ.
Chất thực trong truyện ngắn Thạch Lam bắt nguồn từ cuộc sống khổ cực của bao cảnh
đời, bao số phận trong cái “ao đời” phẳng lặng, mòn mỏi, đơn điệu. Thạch Lam thường đặt
các nhân vật trong không gian hiu hắt và ngập đầy bóng tối để cuộc sống tù túng, tẻ nhạt và
tình cảnh bế tắc, cùng quẫn của họ đồng hiện. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, mỗi con
người một duyên phận, nhưng mẫu số chung của cuộc đời họ là sự đói nghèo, bất hạnh. Mẹ
con bác Lê (Nhà mẹ Lê) phải đối diện với cảnh đói rét và chạy ăn hàng ngày như đó là một
phần định sẵn của cuộc đời họ. Mai, Sinh (Đói) vì cái đói hành hạ mà phải hành động theo
bản năng để rồi phải “hy sinh” cả nhân phẩm như một nỗi cùng đường tuyệt vọng. Bác Dư
phu xe và cái gia đình khốn khổ của mình sống trong “một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè,
xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà” (Một cơn
giận) [44, tr. 32]. Vì vợ đau, con ốm, bác phải chạy một cuốc xe lậu và bị bắt, bị hành hạ,
thật là thân phận con ong cái kiến.
Không chỉ cái đói nghèo, thiếu thốn mà chính cái chất tù đọng, mỏi mòn trong cuộc đời
của những dân nghèo thành thị hay dân quê tỉnh lẻ này đã làm nên “hạt nhân” của chất thực.
Trong cái kiếp sống nhỏ nhoi giữa dòng đời xám nhờ, nhạt nhẽo, các nhân vật là nạn nhân
của thất nghiệp, của túng nghèo và hàng trăm thứ tai họa bỗng nhiên ập đến. Họ sống lay lắt
trong cái vòng đời luẩn quẩn, kéo lê từ ngày này sang tháng nọ cho hết kiếp người. Điều đó
còn nặng nề và cay cực hơn cả cái đói dày vò. Cuộc đời Tâm (Cô hàng xén) gắn liền với
chiếc đòn gánh trên vai – gánh hàng xén và cũng là gánh nặng cơm áo gia đình. Từ khi là
thiếu nữ cho đến lúc trở thành thiếu phụ, gánh hàng ấy vẫn đeo đẳng lấy Tâm và dường như
theo thời gian, nó càng oằn nặng trên vai nàng. Cuộc đời của những cô gái như Dung (Hai
lần chết), Liên (Một đời người) lại là những bức tranh sẫm màu hơn bởi họ không chỉ chịu
cảnh khổ về thân xác mà còn phải chịu sự đọa đày về tinh thần ở nhà chồng. Trong Hai đứa
trẻ, những mảnh đời lầm lụi như mẹ con chị Tý, chị em Liên, An, bác Siêu bán phở, bà cụ
Thi nghiện rượu hơi điên, gia đình bác xẩm… như ngọn đèn con trước cái tối tăm, mênh
mông của đất trời. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, người ta không khỏi rùng mình, ám ảnh
trước cái đói nghèo và thực trạng trì trệ, tối tăm của xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki không né tránh thực tại mờ xám, đói nghèo của bao
cảnh đời trong xã hội. Sự tàn tạ, túng thiếu của ông lão (Ông lão trong quán điểm tâm ngoài
ga); cảnh sống và chết trong đơn chiếc, tủi buồn của bà cụ Katêrina (Bức điện); cuộc đời cô
đơn, thiếu thốn, u buồn của Alan – một văn sĩ có tài (Bình nguyên tuyết phủ)… đã đi vào
trang văn của Pauxtốpxki thật chân thực, cảm động.(Trong văn học Xô Viết thời bấy giờ ít ai
đưa ra bức tranh hiện thực này). Thế nhưng, về nỗi khổ, niềm đau và sự bất hạnh của phận
người, Pauxtốpxki chỉ đề cập thưa thoáng, mờ nhạt trong một vài tác phẩm chứ không dành
nhiều bút lực như Thạch Lam. Có thể nói gương mặt chiến tranh là một hiện thực rộng lớn,
bao trùm lên không khí thời đại trong những truyện ngắn của Pauxtốpxki. Ở Trái tim nhút
nhát, chiến tranh hiện ra với những mảng màu đậm đặc khói súng. Chiến tranh mở đầu với
việc ngụy trang: “lấy bùn nâu màu đất chung quanh nhà để quét lên tường” [65, tr. 266];
tiếp diễn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ của người dân: “lạnh toát người khi nhìn thấy
những con chim sắt khổng lồ gầm thét, lượn đi lượn lại trên thành phố và ở dưới chân
chúng, trên mặt đất bùng lên những cột lửa vàng” [65, tr. 268]. Bức tranh chiến sự có đầy đủ
cái ác liệt trong một trận đối đầu đầy căng thẳng giữa những chiếc phi cơ Xô Viết và trọng
pháo của quân Đức: “Đất rung chuyển theo mỗi tiếng nổ. Ngói rơi lả tả. Bụi bốc lên thành
những đám mây lớn bên trên thành phố. Súng cao xạ gầm thét hết giọng. Những cành da hợp
gẫy văng vào tường. Bọn lính mặc áo choàng xám xịt và chạy đi chạy lại, những mảnh bom
rú rít, những ngọn lửa của trận bom nhấp nhoáng liên hồi trong những đám mây đen. Còn ở
ngoài cảng, lửa đã cháy phần phật trong những kho hàng, làm bung những tấm mái kẽm”
[65, tr. 267]. Chiến tranh bộc lộ tính hai mặt, có sự mất mát, hy sinh: “một thiếu phụ còn trẻ
và ông lão chủ hiệu thuốc đang ốm bị chết bom” [65, tr. 268], anh phi công dũng cảm Ivan
Gêraximốp bị bắt và xử tử; có chiến công vang dội “Trọng pháo của Đức bị đánh tan tác,
đất cát phủ đầy. Ngôi nhà cổ có những cửa cuốn tò vò ngoài phố chính, nơi Bộ chỉ huy Đức
đóng, cháy rừng rực. Ngoài bến, chiếc tàu vận tải Rumani xanh lốm đốm như một con ếch,
bốc khói, chìm dần. Xác lính Đức ngổn ngang khắp phố” [65, tr. 268]. Bóng dáng chiến
tranh còn hiện ra ở các chi tiết rải rác trong phần lớn truyện ngắn của Pauxtốpxki: cuộc sống
tản cư của mẹ con ca sĩ Tachianna, công việc biểu diễn trong “các trạm quân y lưu động”
của cô, bức thư anh lính thủy Nicôlai Pôtapôp gửi cho người cha kính yêu (Tuyết); một
chuyến đi trên chiếc xe tải quân sự đầy bất trắc vì máy bay địch xả liên thanh, “đạn cày lên
từng cột bụi” (Trên thùng xe tải); anh thiếu tá Kuzmin chuyển giùm người bạn nằm cùng
quân y viện một bức thư cho người vợ anh ta nhân chuyến nghỉ phép (Bình minh mưa); anh
sĩ quan “bị thương vào đầu” được gửi đến một nhà nghỉ để hồi sức sau vết thương nặng nề
(Cầu vồng trắng); chú bé bỏ bức thư vào chai để gửi cho người cha ngoài mặt trận (Chú bé
chăn bò)… Hiện thực chiến tranh hiện lên qua trang viết của Pauxtốpxki mang màu sắc bi
tráng, trong đó chất “tráng” bao giờ cũng lấn lướt, nổi bật hơn “bi”.
Dù luôn nỗ lực chắt lọc lấy phần thi vị trong cuộc sống nghèo nàn, tối tăm nhưng ngòi
bút Thạch Lam, Pauxtốpxki không vì thế mà lãng quên những vấn đề có phần bi thảm, dữ
dội của hiện thực. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều sống ở thời đại đất nước trải qua nhiều
biến cố lịch sử, bao cuộc “chuyển dạ” đớn đau. Hiện thực phản ánh của hai nhà văn khác
nhau vì họ có xu hướng phản ánh chính cái đời sống xã hội đã và đang diễn ra xung quanh
mình. Xã hội Việt Nam thời kì này đã bị Pháp “bình định”, mối xung đột giữa nông dân và
thực dân nằm ở bề sâu chứ không nổi lên ở bề mặt như giai đoạn trước đó. Bóng dáng thực
dân không hiện lên trực diện trong trang viết của Thạch Lam. Dưới sự khai thác bóc lột của
Pháp, xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc, cuộc sống người dân rơi vào thảm họa đói
nghèo, nhất là ở làng quê, tỉnh lẻ. Thực tại ấy đã phả vào truyện ngắn Thạch Lam tính chất
“âm âm, u u” của những số phận, kiếp người. Còn hiện thực mà Pauxtốpxki đắm mình trong
đó là những sự kiện long trời lở đất: chiến tranh thế giới, cách mạng, nội chiến, chiến tranh
vệ quốc. Đề tài chiến tranh trở thành đề tài quán xuyến toàn bộ văn học Xô Viết thời bấy giờ.
Do vậy, những trang viết của ông, dù ít dù nhiều, không thể thiếu mùi “khói súng”.
Tuy nhiên, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều không chiếm lĩnh và đồng hóa hiện thực với
cái nhìn nghiêm nhặt, tỉnh táo như các cây bút của chủ nghĩa hiện thực cùng thời. Viết về
chiến tranh, Sôlôkhốp đã đào sâu tận cùng nỗi đau, sự mất mát của những con người chịu
nạn. Chất thực trong truyện ngắn Số phận con người của ông thật đậm đặc, xù xì với bi kịch
của người lính Anđrây Xôcôlốp và cậu bé Vanhia. Chiến tranh đã cướp đi của họ mái ấm gia
đình và tất cả những người thân, để lại cho họ sự cô đơn, trơ trọi với khoảng trống hun hút
trong tâm hồn. Còn chất thực trong truyện ngắn của Pauxtốpxki đã được giảm bớt chất “thô
mộc” của nó. Cùng viết về cuộc sống bế tắc của người dân nghèo trong xã hội thực dân bán
phong kiến, nếu Thạch Lam có phần “nâng đỡ” các nhân vật về đạo đức, phẩm chất thì Nam
Cao lạnh lùng phanh phui, mổ xẻ tính cách lưu manh hóa ở họ. Nhân vật Chí Phèo trong
truyện ngắn cùng tên của ông là một điển hình cho lớp người nông dân bị dồn đến bước
đường cùng, bị biến dạng về nhân hình (quỷ dữ), méo mó về nhân tính (lưu manh), rơi vào bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người và phải tìm đến cái chết như một hướng giải thoát duy
nhất. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lấy cuộc đời thường nhật làm điểm xuất phát để
vươn tỏa đến những ước mơ, khát vọng tươi sáng, điểm tô thêm cho những tin yêu, mong
mỏi ở lòng tốt, điều thiện của con người. Đó là cái nhìn hiện thực theo phương thức nội
cảm hóa. Tố chất hiện thực trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki có màu sắc riêng bởi
nó được khúc xạ qua tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của tác giả với cái nhìn thương yêu, trìu
mến. Tuy chiều rộng của hiện thực có phần co lại nhưng chiều sâu và sức gợi của nó thì
thăm thẳm khôn cùng.

1.3.2.2. Về chất thơ


Với cái nhìn chuyên chú phát hiện cái đẹp, vẻ nên thơ giữa bộn bề cuộc sống, cả
Thạch Lam và Pauxtốpxki đều tạo nên những áng văn xuôi mượt mà, truyền cảm. Không
thiếu chất thực để neo giữ câu chuyện ở cõi đời, tránh sa vào “ánh trăng lừa dối” nhưng có
thể nói, mức độ, liều lượng dồi dào của chất thơ mới là phần nổi trội trong truyện ngắn
Thạch Lam, Pauxtốpxki, hình thành nên một phương thức chiếm lĩnh cuộc sống độc đáo.
Chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki, trước hết được chắt lọc từ cuộc
đời thường nhật. Dường như cả hai nhà văn đã gạn lọc đi nhiều “lớp váng” vẩn đục của cuộc
sống hàng ngày và phủ lên bao thứ vụn vặt, bình thường một chất thơ bàng bạc, một cảm xúc
trữ tình dồi dào, khiến nó có sức lay động mạnh mẽ, sâu xa. Điều này thì Thạch Lam và
Pauxtốpxki giống cách nhìn của Mácxim Gorki.
Dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống hiu hắt, quẩn quanh vẫn toát lên vẻ lãng
mạn, thi vị từ những cảnh đời lam lũ, nhỏ nhoi. Đó là niềm hạnh phúc nguyên sơ được cất
lên từ những căn lều lụp xụp của một phố chợ tồi tàn.“Những ngày nắng ấm quanh năm”,
“những buổi chiều mùa hạ”, “những đêm sáng trăng” là thời khắc nhàn hạ, vui vẻ:“Dưới
bóng trăng, những đá rải đường trông đẹp và lấp lánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi
trưa và bốc lên một cái mùi riêng lẫn mùi rác bẩn và mùi cát. Mọi người họp nhau nói
chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ. Hình như quên cái khổ sở, hèn mọn, ai ai
cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài của người lớn xen lẫn tiếng khúc khích của các
cô gái chúm chụm sát nhau trong bóng tối”[44. tr. 16] (Nhà mẹ Lê). Đó còn là một thiên
đường giữa cõi nhân gian xô bồ – ngôi nhà tuổi thơ thân quen với con đường gạch Bát Tràng
rêu phủ, bể nước giếng ngọt lành, giàn thiên lí tỏa bóng mát, hương thơm hoàng lan quyến
rũ… và nhất là người bà hiền từ và cô bạn gái xinh đẹp luôn chờ đợi, thương yêu (Dưới bóng
hoàng lan). Ở các truyện ngắn như Hai lần chết, Một đời người, Người bạn cũ, Người lính
cũ… Thạch Lam đã đánh thức ở người đọc nỗi niềm xao xác, da diết trước những số phận
mờ xám, tối mịt như bóng đêm.
Cùng lối khám phá đầy rung cảm, xôn xao trước thực tại, Pauxtốpxki đã tìm thấy chất
thơ từ những cuộc gặp gỡ vô tình mà như định mệnh giữa cõi đời. Mặc dù họ gặp nhau rồi
chia xa mãi mãi hay hứa hẹn cuộc hội ngộ đầy hạnh phúc về sau, thì cuộc đời của mỗi người
dường như đẹp hơn, có ý nghĩa hơn từ lần gặp ấy. Cuộc hội ngộ trong Bình minh mưa, Tuyết,
Gió biển, Chú bé chăn bò, Suối cá hương tựa như luồng gió lạ, làm dịu đi cái ác liệt, căng
thẳng của chiến tranh, thổi vào tâm hồn con người niềm tin yêu mãnh liệt vào ngày mai.
Chiến tranh dữ dội, mất mát là thế, nhưng Pauxtốpxki đã khéo léo khơi cái phần thi vị, nồng
ấm bị nhòe lẫn, khuất lấp trong đó, mang đến chất “tráng” cho những trang văn.
Một trong những ưu thế nổi trội, làm nên thế mạnh của ngòi bút Thạch Lam,
Pauxtốpxki chính là việc khám phá chất thơ của tâm hồn con người với tất cả chiều sâu, sự
tinh tế, vẻ phong phú vô tận của nó. Trước hết, đó là thái độ, cách nhìn đời đầy trân trọng,
nâng niu, soi chiếu tâm hồn giàu cảm xúc, nhân hậu của nhà văn. Các ông như trải lòng mình
lên những trang văn, những gì viết ra đều thấm đượm cái nhìn, nếp nghĩ và không ít máu thịt
của nhà văn trong đó. Ngoài ra, chất thơ còn được lắng lọc qua tâm hồn của nhân vật. Thạch
Lam bước vào tâm hồn trẻ thơ để khám phá lòng tốt thuần khiết, vô tư (Gió lạnh đầu mùa);
nỗi buồn thơ ngây (Hai đứa trẻ). Ông phát hiện những rung động khẽ khàng, tế vi trong tâm
hồn người con gái đang yêu (Bắt đầu, Tình xưa, Nắng trong vườn), hay vẻ đẹp ngời sáng của
đức hi sinh, lòng nhân hậu, vị tha của người phụ nữ Việt Nam (Nhà mẹ Lê, Hai lần chết, Một
đời người)…
Vẻ đẹp của lòng nhân ái là ngọn nguồn trong lành làm tuôn chảy chất thơ ngọt ngào,
tươi mát cho những trang viết của Pauxtốpxki. Qua những truyện ngắn như Lẵng quả thông,
Âm nhạc Vécđi, Bông hồng vàng, Người đầu bếp già, Chiếc nhẫn bằng thép… người đọc bắt
gặp vẻ đẹp của lòng tốt vô biên; nét trong trẻo của tâm hồn trẻ thơ hay xúc cảm mãnh liệt,
dạt dào của con người trước âm nhạc.
Mặt khác, thiên nhiên với gương mặt muôn màu muôn vẻ cũng là những nguồn thơ
phong phú, tạo cảm hứng cho Thạch Lam và Pauxtốpxki trong phần lớn truyện ngắn của các
ông. Thiên nhiên trong truyện của Thạch Lam là những bức tranh có hồn về cảnh sắc bình dị
của làng quê Việt Nam. Cảnh chiều tà ở một phố huyện nghèo gợi nhiều thi hứng, nhạc cảm
cho tâm trạng: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra
để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” (Hai đứa trẻ) [44, tr.
149]. Đêm sáng trăng đẹp, yên ả, sắc sảo từng đường nét, chẳng khác gì một bức danh họa
chốn đồng nội: “Ngày chưa tắt hẳn, mặt trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở
chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh
dần, rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng
hương thơm ngát. Sau tiếng chuông của ngôi chùa độ một giờ, thì thật là trăng sáng hẳn:
trời bấy giờ trong thăm thẳm và cao; mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng vặc, du như sáo diều;
ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa”
[44, tr. 196]. Cánh đồng quê, con đường làng mấp mô, mùi của cỏ, ao, bèo, rơm rạ, đất
ẩm…, tất cả quyện hòa vào nhau, khơi gợi cảm giác bình yên, ấm áp, thoảng chút hiu hắt,
man mác buồn nhưng rất nên thơ.
Nếu như hình ảnh, màu sắc, hương vị của làng quê Việt Nam đem lại cho văn Thạch
Lam vẻ thi vị, quyến rũ thì những tỉnh lị xa xôi hay các miền thảo mộc của Nga đã làm nên
khí sắc mượt mà cho trang viết của Pauxtốpxki. Đó là cảnh “khi đông về và tuyết rơi phủ đầy
[…] sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói” (Tuyết) [65, tr. 275];
“Trời mưa phùn […] tiếng mưa rơi tí tách trong những bụi cây, mùi thìa là, mùi hàng rào
ướt và hơi ẩm của sông bốc lên” (Bình minh mưa) [65, tr. 308]. Theo mỗi bước chân, cảnh
hiện ra “thêm vẻ bí ẩn và nên thơ”: “Lúc thì có những cánh rừng nhỏ toàn liễu hoàn diệp
làm thành một bức ường màu xám trên bờ sông dựng đứng và những dây hốt bố vàng treo lơ
lửng trên từng khóm liễu những chiếc chiếu gai mới. Lúc thì một cây liễu thủng lỗ chỗ nằm
vắt ngang sông như một cái cầu, và bên cầu, những con cá tung mình lên trên mặt nước. Lúc
thì dòng sông oai vệ uốn khúc đi vào những cánh rừng vàng óng và xanh biếc mùa thu” (Chú
bé chăn bò) [65, tr. 295]. Ngắm bức tranh bình minh ở vùng thảo nguyên, người thưởng thức
như đi lạc vào xứ sở thần tiên, tâm hồn trở nên tươi mát, thanh thản lạ thường: “Trời nổi gió.
Màn sương mù lay động và gió cuốn trôi đi từng mảng trên mặt sông. Những bờ bụi hiện ra,
ướt đẫm sương đêm và ở giữa nhô lên một túp lều mái lợp bằng những cành liễu kết lại với
nhau. Bên vạnh là một đống lửa bập bùng. […] Ngay lúc đó mặt trời đã nhô lên khỏi đám
sương mù. Cỏ mọc xung quanh xanh thẫm như mặt nước lặng lờ và sâu thẳm. Giá lạnh buổi
đêm toát ra từ đám cỏ” (Cây tường vi) [65, tr. 253]. Không chỉ ghi lại dáng vẻ, hương sắc
của thiên nhiên mà Pauxtốpxki còn gợi ra cái thần thái riêng của chúng.
Chính cái khí sắc lãng mạn kết hợp với bút pháp trữ tình đã tạo nên chất thơ mượt
mà cho từng truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Đây cũng là điểm “giao thoa” giữa
hai nhà văn với các cây bút xuôi tự sự của văn học Nga và Việt Nam như Tuôcghênhep,
Sêkhôp, Bunhin, Prisvin, Đỗ Chu, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Tuân…
Không hẹn mà gặp, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lựa chọn thể loại truyện ngắn
trữ tình để dệt nên những trang đời từ nguồn chất liệu dung dị, nhỏ bé, bình thường của cuộc
sống hàng ngày. Cả hai nhà văn đều bước lên văn đàn dân tộc khi khuynh hướng văn học
hiện thực và lãng mạn đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việc xác lập cho mình một
“chỗ đứng” đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi, dấn bước. Nét đặc sắc ở truyện ngắn Thạch Lam,
Pauxtốpxki là tính chất “trữ tình”, “phi cốt truyện”, biểu lộ không phải ở chất thực hay chất
thơ mà là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhụy giữa chúng.
Sự dung nạp chất thơ vào văn xuôi, sự hòa quyện, thẩm thấu lẫn nhau giữa tố chất
“hiện thực” và “trữ tình” đã mang lại cho truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki vẻ mềm mại,
tinh tế, có khả năng biểu hiện những rung cảm tinh tế, khẽ khàng của tâm hồn con người.
Bởi vì chất thực khi đi vào văn xuôi thường giảm đi cái xô bồ, xù xì của “chất liệu đời sống”.
Ngược lại, chất thơ dựa trên nền tảng vững chãi của chất thực thường có sức ngân vang, lan
tỏa khôn cùng nhưng vẫn bám rễ vào cuộc sống thực tại.
Việc gặp gỡ về hình thức thể loại giữa Thạch Lam – Pauxtốpxki, rõ ràng chịu sự chi
phối mạnh mẽ bởi quan niệm nghệ thuật của hai nhà văn. Mặt khác, đó còn là sự gặp gỡ của
“tạng riêng” người nghệ sĩ. Rõ ràng, cách cảm, nếp nghĩ, giọng điệu thiên bẩm … của tác giả
có sự tham gia rất quan trọng của cá tính sáng tạo. Chúng tôi hiểu tạng riêng của chủ thể
sáng tạo ở đây tuy có một quan hệ nhất định với con người tác giả ngoài đời (theo phương
diện tiểu sử) nhưng không hoàn toàn trùng khít. Đó là bản sắc tinh thần bên trong của tác giả
– những dấu ấn riêng được hiện diện và khắc ghi ở văn bản. Do vậy “tạng riêng” của Thạch
Lam, Pauxtốpxki là yếu tố góp phần định dạng phong cách nghệ thuật của hai nhà văn này.
Tóm lại, Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn có những gặp gỡ tình cờ về cuộc
đời, về phương diện con người tiểu sử cũng như con người tác giả trong văn học. Từ sự
tương đồng về quan niệm nghệ thuật, họ còn “gặp nhau” ở việc lựa chọn loại truyện ngắn trữ
tình phi cốt truyện trong sáng tạo nghệ thuật. Những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật
của hai nhà văn sẽ chi phối sâu sắc và có hiệu lực đến cách lựa chọn nội dung và nghệ thuật
tự sự của họ mà chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét ở các chương tiếp theo của luận văn.
Chương 2:
NỘI DUNG TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM VÀ
PAUXTỐPXKI

Con người xuất hiện trong cõi đời và trở thành chứng nhân của thời đại, mỗi số phận
đều chứa một phần lịch sử. Cùng sống trong giai đoạn mà đất nước diễn ra nhiều sự đổi thay
mới mẻ, những vấn đề trọng yếu của thời đại như đói nghèo, chiến tranh, hạnh phúc và bất
hạnh, đổi thay và tha hóa… ít nhiều vang vọng vào các truyện ngắn của Thạch Lam,
Pauxtốpxki. Thế nhưng, chúng chưa đủ điều kiện để trở thành nội dung tự sự. Chúng tôi
đồng tình với quan điểm cho rằng nội dung tự sự phải là “những nội dung đã thực sự trở
thành cảm hứng nghệ thuật và chịu sự chi phối của đặc trưng thể loại” [93, tr. 49].
Trong hầu hết truyện ngắn của mình, Thạch Lam và Pauxtốpxki thường kể với người
đọc những câu chuyện về các cảnh đời, số phận trong xã hội, những buồn vui thế sự mà bề
mặt chúng dường như vặt vãnh, cỏn con nhưng ẩn sâu trong đó là vẻ đẹp của cuộc sống và
con người. Hai nhà văn đều không cốt tả chân các biến cố, sự kiện mà chỉ cốt diễn tả cho
chân xác tâm trạng, tình cảm con người. Nhiều khi đó chỉ là những cảm xúc bất chợt, thoáng
qua nhưng nếu tập hợp lại, chúng trở thành chiếc kính vạn hoa của tâm hồn.

2.1. Cảm xúc mới mẻ, bất chợt…


2.1.1. …Trong tình yêu lứa đôi
Tình yêu lứa đôi là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ
thuật, đồng thời cũng là một cánh cửa hé mở thế giới tâm hồn con người. Viết về tình yêu,
Thạch Lam và Pauxtốpxki không “gia công”, sắp đặt mà để cho nhân vật lắng nghe và cảm
nhận những biến thái, rung động tế vi diễn ra trong hồn mình.
Khác với các các nhà “tiểu thuyết luân lí” hay “tiểu thuyết sầu thảm” đương thời,
Thạch Lam không mượn tình yêu phát ngôn cho tư tưởng hay phủ lên chúng màu sắc lâm li.
Tình yêu trong truyện ngắn của ông mang màu sắc tươi tắn, lãng mạn và dù kết thúc không
trọn vẹn, nó vẫn rất đẹp và đầy dư âm dư vị. Tình yêu, trước hết là những cảm giác chân
thực, sống động mà nhân vật “nghe thấy”, “cảm thấy”: cảm giác “dịu ngọt chăng tơ” (Dưới
bóng hoàng lan) hay “tâm hồn say sưa như nhấp rượu” (Cô hàng xén) của tình yêu mới
chớm; “một cảm giác êm dịu tràn lấn vào người” và “tim đập mạnh” khi bồi hồi thương
nhớ người yêu (Bắt đầu); lòng “chán nản”, “khó thở”, “đau đớn nghẹn ngào” lúc tình yêu
đứng bên bờ vực tan vỡ (Trong bóng tối buổi chiều)… Bước vào thế giới của tình yêu, nhân
vật phơi trải tâm hồn với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Có cảm xúc hồn nhiên thơ trẻ
của một cậu bé với một người đẹp lớn tuổi hơn: “Khi Thúy để tay lên vai tôi, tôi cảm thấy
rung động cả người. Tôi cảm thấy tôi bắt đầu yêu nàng” [44, tr. 192] (Bên kia sông) (Chúng
tôi nhấn mạnh). Chẳng hạn, trong Tình xưa, tâm hồn Bình đã có một quá trình tiếp diễn
“phiền phức” (từ dùng của Thạch Lam), từ một khởi đầu êm đềm:“Đôi mắt nàng nhìn tôi,
tôi bỗng rung động cả người; đôi mắt nàng phản chiếu một tình yêu mãnh liệt và tha thiết
quá. Tôi hiểu ngay rằng nàng yêu tôi. Tự nhiên, một sự cảm động tràn lấn vào người.[…]
Tôi còn trẻ và tình yêu của một cô gái khiến tôi tự đắc” [44, tr. 232]; đến lúc sóng gió: “tôi
thấy lòng nao nao vừa bực vừa buồn như thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không còn
can đảm giữ lại được nữa”, “thấy lòng dửng dưng” [44, tr. 237]; và một kết thúc buồn trong
xa cách: “một sự bâng khuâng nhẹ nhàng dìu tâm hồn người đến những tình cảm man mác,
tôi bỗng thấy cả người xúc động vì nhận ra trong bọn người lác đác ở bến một cái xe đỗ vội,
và trên xe bước xuống một người con gái ngơ ngác nhìn về phía tôi” [44, tr. 239]. Trong tình
yêu, cảm xúc mới mẻ, bất chợt thường đi cùng trạng thái tâm lí khác lạ, kì quặc, tưởng chừng
vô lí nhưng lại rất phù hợp với quy luật riêng của nó – quy luật dành cho những người lần
đầu bước vào thế giới của ái tình. Chàng trai và cô gái (Cô áo lụa hồng) cùng “bịa” ra cái tên
(Tân và Lan) và mối quan hệ quen biết để “tiếp cận” nhau, rồi họ cùng vui vẻ tha thứ cho
nhau vì những cái cớ dễ thương đó. Lan (Tình xưa) vốn là một cô gái hiền lành, nhu mì, ít
nói mà nay “tính nết nàng hình như đổi hẳn, hay bây giờ nàng mới biểu lộ hết cái tính nết
thực của nàng ra. Nàng không còn là cô gái lặng lẽ và kín đáo như trước kia nữa. Lan nói
năng luôn miệng và tiếng cười của nàng vang lên trong nhà, mắt nàng sáng lên, và hơi một
chút việc cũng làm cho nàng vui sướng [44, tr. 233]. Còn Hậu (Nắng trong vườn) cũng trở
thành một con người mới: “Hậu thành điềm đạm băn khoăn hơn trước, với những lúc bồng
bột, những lúc tin yêu, càng ngày càng trở nên kì dị” [44, tr. 113]. Nếu như ngày trước cụ
Nguyễn Du – bậc thầy miêu tả tâm lý con người – đã để cho Thúy Kiều “Xăm xăm băng lối
vườn khuya một mình” đến nơi hẹn hò với Kim Trọng thì các nhân vật của Thạch Lam, các
cô gái vốn là “gái quê” như Mai (Đêm sáng trăng), Lan (Tình xưa), Loan (Bắt đầu), Hậu
(Nắng trong vườn) cũng bạo dạn, mạnh mẽ hành động theo tiếng gọi của trái tim.
Tình yêu còn có một sức hút ma mị không cưỡng nổi. Chuyện của Thân và Tiến trong
Tiếng sáo là một trường hợp điển hình. Mặc dù biết Tiến là một gã đàn ông vũ phu, “tính rất
cộc, hàng xóm ai cũng chê anh chàng lười và bất hiếu”, lại nổi tiếng là “con người lừa lọc,
tệ bạc” mà Thân, “cô thiếu nữ xinh đẹp, người rất có duyên và biết chữ nghĩa” lại mê mẩn
tiếng sáo tài hoa của Tiến và bỏ nhà đi theo cậu ta. Dường như Thạch Lam đã gửi gắm vào
câu chuyện trên một thông điệp thú vị: Tình yêu chân thực vốn không có “bài học”. Những
người đi sau cứ phải dẫm lên bước chân của người đi trước, dẫu đó là bi kịch, thì mới chắt
chiu, gom góp được cho mình chút buồn vui cùng vài ba sự nhận biết về lẽ đời từ những trải
nghiệm thiết thực của bản thân.
Phần lớn các câu chuyện tình trong truyện ngắn Thạch Lam được xây dựng theo
môtíp: chàng là học sinh, sinh viên hoặc công chức từ chốn thị thành về thăm quê, hoặc trọ
học; nàng là cô bạn thủa thiếu thời hoặc con gái gia chủ; họ gặp nhau, nảy sinh tình yêu
nhưng rồi phải xa cách nhau vì nhiều nguyên do. Có nguyên do khách quan (Đêm sáng
trăng). Nhưng phần lớn là nguyên nhân chủ quan, do người trong cuộc cảm thấy sự cách biệt
về mặt tâm hồn, nếp sống (Tình xưa, Nắng trong vườn, Trở về). Chàng trai chia tay với cô
gái cũng là chia tay với chính mình, với những tình cảm hồn nhiên thơ trẻ. Cùng với sự ra đi
để tiếp nhận cái mới mẻ, để nhận biết cuộc sống toàn diện hơn, họ không còn cách nào khác
là giã từ dĩ vãng và những xúc cảm bồng bột vừa trải qua. Ở đây, dấu ấn của buổi giao thời
đã thấp thoáng qua mỗi câu chuyện, bởi con người được đặt giữa điểm giao tranh văn hóa,
nếp sống cũ – mới, việc lựa chọn một hướng đi phù hợp là không dễ dàng, có khi phải kèm
theo cả sự đánh đổi.
Với cảm quan của một bậc thầy tâm lý, Thạch Lam đã thấu hiểu và miêu tả chân thực
tâm trạng, cảm xúc của những đôi lứa đang yêu.
Trong các truyện ngắn của Pauxtốpxk, “tình yêu giống như gió thoảng” [65, tr. 287] –
những cơn gió mát lành thổi vào hồn người, chữa lành những vết nứt đau, làm tươi lại con
tim cằn héo, đem lại chút ấm êm cho những chiếc đời vắng lạnh… Để rồi, cõi “kì bí, huyền
diệu” của tâm hồn lại đột khởi những cảm xúc mới mẻ, trong trẻo từ sự rung động của con
tim. Cuộc đời của Nikôlai – Tachiana (Tuyết), Onga – Kuzmin (Bình minh mưa), vị thống
chế quân đội Napôlêông – Maria Tsernưi (Suối cá hương), Pêtrốp – Êlêna Pêtrốpna (Cầu
vồng trắng), anh lính thủy – người thiếu phụ (Gió biển) đã được sưởi ấm bởi những cơn gió
kì diệu ấy. Trong truyện Tuyết, Tachiana tình cờ biết được nỗi khát khao về hạnh phúc bình
dị của Nikôlai qua nội dung bức thư anh gửi cho người cha. Chính sự đồng cảm sâu sắc với
người con trai chưa một lần gặp mặt đã khiến nàng nỗ lực làm tất cả đúng như ước nguyện
của anh. Khi Nikôlai trở về thăm nhà, anh “không sao xua đuổi được cái cảm giác kì lạ là
mình đang ở trong một giấc mộng nhẹ nhàng nhưng vững chắc” [65, tr. 277]. Bất chợt ở anh
một sợi dây cảm xúc nối liền giữa quá khứ và hiện tại, anh có linh cảm nàng là người con gái
mình đã thầm yêu và chờ đợi cả quãng đời. Tình yêu của Maria đã mang đến cho vị thống
chế, vốn là “người nhà binh”, “chẳng hề biết gì gia đình, lễ tết và yên vui cả” niềm xúc
động lớn lao: “những giọt lệ của đàn ông về điều mà trái tim không bao giờ ngờ trước, về sự
dịu hiền, sự âu yếm, về tiếng thì thầm không dây mối giữa đêm rừng tịch mịch” (Suối cá
hương) [65, tr. 407]. Khi hai tâm hồn giá lạnh, hai nỗi cô đơn tìm thấy và hòa vào nhau, nó
sẽ biến thành một niềm vui chất ngất – “cảm giác của một niềm hạnh phúc hư ảo gần như
không thể chịu đựng nổi” [65, tr. 330]. Đó là chuyện tình giữa Êlêna Pêtrốpna, cô gái có
giọng nói “nghe như một lời hứa hẹn của hạnh phúc”, và anh sĩ quan Pêtrốp (Cầu vồng
trắng). Vì muốn mang lại sự ấm áp, an ủi dành cho người con trai cô đơn “đang bị thương ở
đầu”, Êlêna đã không quản ngại bao khó khăn, nguy hiểm để tìm đến với anh vào thời khắc
nửa đêm, và cô đã tìm thấy tình yêu đích thực mà mình chờ đợi cả cuộc đời. Ở Bông hồng
vàng, tình yêu với “tất cả sự trìu mến” mà Giăng Samet dành cho Xuyzan đã cho anh được
nếm trải sự loạn nhịp của con tim: “Ai chưa từng được xúc động với hơi thở nhè nhẹ của
thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa hiểu thế nào là dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả
những cánh hoa ẩm ướt và đôi hàng mi nàng lấp lánh những giọt lệ đêm” [65, tr. 16], và cả
nỗi đắng cay tuyệt vọng: “Thoạt đầu, Samet thậm chí còn thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi tất
cả sự chờ đợi cuộc gặp gỡ đầm ấm với Xuyzan, không hiểu sao, đã biến thành một mảnh sắt
gỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc trong lồng ngực anh, ngay ở bên tim và Samet cầu trời cho nó
mau mau đâm thẳng vào trái tim ốm yếu ấy đi, cho tim anh vĩnh viễn ngừng đập” [65, tr.
18]. Tình yêu, đôi khi chỉ là dự cảm mơ hồ nhưng dư âm của nó hẳn còn vang vọng mãi
trong lòng những con người có duyên hạnh ngộ. Tình yêu của Onga – Kumin (Bình minh
mưa) là một trường hợp như thế. Với việc chuyển giúp cho người bạn nằm cùng quân y viện
một bức thư cho vợ cậu ta, Kumin đã gặp Onga trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Tình yêu
của họ, hay chính xác – những xúc cảm dường như là…tình yêu – tựa một bản nhạc không
lời giữa đêm tối, nơi “mưa vẫn đều đều xào xạc” [65, tr. 317]. Tình yêu ấy sưởi ấm hai tâm
hồn buồn bã, cô đơn để giờ phút li biệt, họ cảm thấy “tim se lại”, lưu luyến, bùi ngùi.
Hầu hết các câu chuyện tình trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thật bất ngờ và lãng
mạn, giữa một bên là “người nhà binh”, một bên là người phụ nữ nhạy cảm và đầy nữ tính.
Những người lính vốn là những tấm gương về lòng gan dạ, quả cảm, phi thường, hình ảnh
của họ thường được bao bọc trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca. Ở họ, phần “riêng tư”
dường như là một khoảng trống bị lãng quên. Đồng cảm sâu sắc với nỗi niềm của người lính,
và trên hết là mong muốn tạo ra những nhân vật văn học mang dáng dấp của con người đời
thường, Pauxtốpxki đã đi vào thế giới tâm hồn họ: nỗi cô đơn, sự mong chờ, khao khát hạnh
phúc, niềm vui khi tìm thấy tình yêu... Với tấm lòng ấm áp thương yêu, Pauxtốpxki “mang
lại” cho người lính những cuộc gặp gỡ bất ngờ, thoáng qua nhưng hứa hẹn hạnh phúc, bởi
ông hiểu rằng họ cũng cần lắm một điểm tựa tinh thần, một “hậu phương” vững chắc. Tất cả
dịu ngọt như “chăng tơ” trong tâm hồn người lính, khiến chân dung họ hiện ra chân thực
hơn.
Không phải là kiểu tình yêu sét đánh, không có sự hiện diện của dối trá, phụ bạc, lọc
lừa, tình yêu trong truyện ngắn của Pauxtốpxki mang vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết, lấp lánh
ánh sáng của lòng bao dung, vị tha.
Cùng viết về đề tài tình yêu, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cố gắng diễn tả sâu sắc
đời sống nội tâm phiền phức của những người đang yêu. Đó là một “dải quang phổ” tình cảm
cực kì tinh tế, phức tạp của những cảm xúc, cảm giác mới mẻ đột khởi từ tâm hồn, sự rung
động của con tim. Bởi lẽ, bản chất của tình yêu là luôn tươi mới, nhất là với những ai lần đầu
bước vào thế giới đầy bí ẩn, mê hoặc của nó. Những câu chuyện tình trong truyện ngắn của
Thạch Lam có màu hồng của hạnh phúc, đam mê; vị chát của lãng quên và duyên nợ không
thành; chút bâng khuâng, ngậm ngùi tiếc nhớ… Dấu ấn của xã hội buổi giao thời hiện lên
qua khoảng cách giữa chốn thị thành và thôn quê. Tình yêu tan vỡ vì sự xa cách về tâm hồn,
lối sống nhưng ý thức cá nhân của nhân vật được khẳng định. Còn tình yêu trong trang viết
của Pauxtốpxki là những chuyện tình đẹp như cổ tích, dù chỉ mới những dự cảm ban đầu thì
nó cũng đầy ám ảnh. Nó phảng phất tính chất hồi sinh và khả năng cứu rỗi của tình yêu cá
nhân – một mô típ tình yêu phổ biến trong văn học Nga trung đại1. Mặt khác, phải chăng âm
hưởng của thời đại đã chi phối cách xây dựng những con người lí tưởng với tình yêu lí tưởng
qua cái nhìn lãng mạn, bay bổng ở Pauxtốpxki.

2.1.2. …Trong khoảng tối tâm hồn


Tâm hồn con người là một thế giới phong phú, huyền bí với bộn bề cảm xúc. Có
những trạng thái vui buồn, hờn giận, yêu thương… người ta có thể đoán định qua các hành
vi, cử chỉ của nhân vật. Nhưng cũng có các cảm giác, cảm xúc mới mẻ nảy sinh trong vùng
khuất lấp, nó là cả một kho bí mật, “thách thức” sự khám phá của con người.
1
Tình yêu của Onhêghin – Tachianna ( Épghênhi Ônhêghin), Anđrây – Natasa (Chiến tranh và hòa bình), Rakônikốp – Sonya
(Tội ác và trừng phạt)
Tìm vào nội tâm, đào sâu cảm giác, Thạch Lam nhẹ nhàng xâm nhập lãnh địa tâm hồn
con người, bóc tách các vỉa tầng sâu thẳm của nó và trải lên trang viết những trạng thái cảm
xúc phức tạp, sống động, bất ngờ. Thạch Lam đã chạm đến “khoảng tối” của tâm hồn: một
cơn giận vô cớ xui khiến người ta hành động nhẫn tâm với người phu xe khốn khổ (Một cơn
giận); một ý định muốn lấy cắp tiền của bạn vốn được “xếp đặt đâu vào đấy rất chu đáo,
phòng ngừa đủ mọi việc xảy ra” (Sợi tóc); một ý nghĩ vô tâm, tàn nhẫn với người yêu (Tình
xưa, Nắng trong vườn); cơn tự ái nhỏ nhen khiến người chồng mặc dù biết lỗi vẫn “giận dữ
thêm lên để lấy phần phải về mình” [44, tr. 11]... Đó là những điều người ta không hề chờ
đợi bởi chúng phô ra cái xấu xa, đớn hèn trong mỗi cá nhân. Thế mà, chúng ào đến, không
hề báo trước. Mặt khác, Thạch Lam còn cho ta thấy tâm hồn con người vốn đa đoan, phức
tạp, day trở nhiều chiều. Trong Một cơn giận, khi nỗi bực tức đi qua, nhân vật Thanh không
thể nguôi yên với sự dày vò diễn ra trong trí: “Sự hối hận dần thấm thía vào lòng tôi; tôi
thấy một cái chán nản, bực tức rung động trong người. […] Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu lại
càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu” [44, tr. 31]. Tâm trạng của Thành lúc thức tỉnh ở truyện Sợi tóc
lại càng “phúc tạp” hơn : “Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kì dị, khe khẽ và thầm lặng
rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi
không tự thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm
hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc” [44, tr. 248]. Tân sau khi ân hận đã “nhận thấy
chính những cái bé nhỏ, hèn mọn hằng ngày nó phá hoại cuộc đời” (Đứa con đầu lòng) [44,
tr. 8]. Bình từng đến với tình yêu bằng cả con tim thiết tha, say đắm: “Hậu chiếm đoạt hết cả
ý nghĩ của tôi. Tình yêu của nàng vừa làm tôi say sưa vừa làm tôi kì dị, như người đầu tiên
bước vào một mảnh vườn đầy hoa cỏ lạ” (Nắng trong vườn) [44, tr. 113] . Thế mà chẳng bao
lâu sau, ở Bình lại xuất hiện những ý nghĩ tàn nhẫn đến không ngờ: “Tôi nghĩ đến những cô
gái lộng lẫy và đài các ở Hà thành, những bông hoa quý. Trong tâm can tôi đầy những ham
muốn, nhớ tiếc, và tôi bắt đầu thấy hận mình vì một cô gái còn non mà những lời âu yếm đối
với tôi bỗng trở nên xa lạ” [44, tr. 116]. Tương tự, nhân vật Bình trong Tình xưa cũng có lúc
thật vô tâm: “Tôi không kịp có thì giờ hối hận cho sự tàn ác vô tình có thể thấy trong câu
đùa cợt. Tôi cũng không muốn nghĩ rằng Lan lúc đó lại có thể đau lòng vì tôi. Lan không còn
liên lạc với tôi nữa” [44, tr. 239]. Những nét tính cách trên tưởng chừng mâu thuẫn, loại trừ
nhau nhưng chúng lại “chung sống hòa bình” trong cấu trúc tâm lí nhân vật, tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, hài hòa. Bởi tâm trạng, cảm giác của con người vốn là một chuỗi phức
hợp, tập hợp cả những phần khuất lấp, tiềm tàng.
Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, các nhân vật hầu hết là người tốt, có nhân cách cao
đẹp. Naxtia – cô thư ký xinh đẹp, giỏi giang trong Hội nghệ sĩ Mỹ thuật – là trường hợp
hiếm hoi mà Pauxtốpxki soi ngắm cả những ý nghĩ khuất tối của tâm hồn. Naxtia là người có
công đưa một họa sĩ tài năng ra ánh sáng nhưng cô lại lãng quên người mẹ già ở chốn quê.
Người con gái vốn bận rộn này ngại về thăm nhà với những lý do:“Nàng nghĩ đến những
chuyến tàu chật ních, đến việc phải chuyển từ xe hỏa sang tàu thoi, đến chiếc xe ngựa xóc
nảy người, khu vườn khô héo, những giọt nước mắt không thể nào tránh được của mẹ, về cái
buồn dai dẳng không có gì tô điểm được của những ngày sống ở làng quê” (Bức điện) [65,
tr. 342]. Trong buổi triển lãm, mặc dù “cảm động, lúng túng” và chìm vào niềm hân hoan
được ngợi ca, Naxtia “lúc nào cũng cảm thấy có một đôi mắt nặng nề nhìn mình, thấu suốt
tâm can và nàng không dám ngẩng đầu lên”, “cảm thấy như Gôgôn nói khẽ qua hàm răng
nghiến chặt: Ồ, mày !” [65, tr. 342].
Quả thật, những cảm xúc mới lạ đột khởi từ “khoảng tối” của tâm hồn đã góp phần
làm cho tính cách nhân vật trở nên “đầy đặn”, chân thực hơn. Tuy vậy Thạch Lam và
Pauxtốpxki không để nhân vật đi đến tận cùng chiều dài và chiều sâu vùng khuất tối đó. Bao
giờ họ cũng “phanh” lại kịp thời. Bên cạnh những “bí mật”, vùng khuất lấp của tâm hồn còn
lấp lánh điểm sáng của những tình cảm cao đẹp chợt đến, đánh dấu sự thức tỉnh của lương
tri. Thạch Lam, Pauxtốpxki đã nắm bắt rất “nhạy” những vang động tinh tế đó. Vân, người
chồng từng hành hạ, ngược đãi vợ, bất chợt thấy “rùng mình cho sự tàn ác ấy, tự giận mình
đã ích kỉ và tự ái nhiều” (Bóng người xưa) [44, tr. 260]. Bính, người con từng ăn chơi trụy
lạc khiến người mẹ già nhiều lần khóc vì con, nay lại thấy “lòng thương mẹ rung động khẽ
trong tâm” (Một buổi sớm) [44, tr. 253]. Tân lần đầu nhận ra sợi dây tình cảm thiêng liêng
vô hình nối chàng với đứa con: “lòng rung động khẽ như cánh bướm non, một tình cảm sâu
xa và mới mẻ chàng chưa từng thấy” (Đứa con đầu lòng) [44, tr. 12]. Bà cả, người đàn bà
nổi tiếng “kiệt ác” bất chợt nảy nở tình thương : “Tôi thấy người bà rung động, một tiếng thở
dài sẽ thoát ra môi rồi đôi mắt ráo của bà bỗng mờ đi như ướt lệ. Bà lặng nhìn đứa bé đang
rúc bú đôi vú căng sữa trong yếm mẹ” (Đứa con) [44, tr. 165]. Khi cơn giận vô cớ “bốc
hơi”, Thanh bất ngờ với cảm xúc: “Sự hối hận dần thấm vào lòng tôi, tôi thấy một cái chán
nản, bực bức rung động trong người” (Một cơn giận) [65, tr. 31]. Naxtia bừng tỉnh khi tình
yêu thương mẹ trong cô đột nhiên trỗi dậy: “Naxtia rùng mình vì lạnh và bất thần, nàng chợt
hiểu rằng không có ai yêu nàng như cái bà lão bé nhỏ, già yếu và bị hết thảy mọi người quên
lãng kia, trong cái làng Zabôriê đáng ngán ấy” (Bức điện) [65, tr. 343].
Chính tình cảm cao đẹp bất chợt nảy sinh là sợi dây bảo hiểm cao đẹp giúp các nhân
vật được bảo toàn về nhân cách. Vì vậy, tuy có những lúc chòng chành, chông chênh giữa
lằn ranh thiện – ác, tốt – xấu nhưng hầu hết các nhân vật đều kịp thời điều chỉnh để luôn
sống đúng với nghĩa vụ làm người. Khác với việc miêu tả tính cách, tâm trạng nhân vật một
cách nghiêm ngặt, tỉnh táo của các nhà văn hiện thực, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dành cho
nhân vật sự trân trọng, nâng niu, dường như là sự nâng đỡ về mặt tâm hồn.

2.1.3. …Trong sự “giải mã” bản thân


Không tìm hiểu, nắm bắt hiện thực khách quan, con người còn tìm vào cõi nội tâm
nhằm thỏa mãn nhu cầu tri giác của mình. Tuy nhiên, thế giới nội cảm của con người vô
cùng phong phú đa dạng với bao chuyện bất ngờ, bí mật, chẳng phải điều gì cũng nói cho
rành rọt, tường minh. Vì vậy, khát vọng “giải mã” chính bản thân mình là biểu hiện cao nhất
của ý thức cá nhân ở nhân vật.
Các nhân vật chính trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thường có nỗi băn khoăn về
những trạng thái cảm xúc bất chợt hiện hữu trong tâm hồn mình. Masa, một cô gái vừa tốt
nghiệp đại học lâm nghiệp và đang đi về hạ lưu sông Vônga để trồng rừng cho một công
trường, tự vấn bản thân: “Không hiểu tại sao mình lại buồn thế này nhỉ ? […] Có lẽ tại mình
đang chờ đợi một cái gì chăng? Mà chờ gì, chính mình cũng không biết nữa” (Cây tường vi)
[65, tr. 248]. Tuy tự trấn an mình bằng câu trả lời có vẻ logic: “Cuộc sống tự lập của mình
đang bắt đầu, và vì thế mình mới có vẻ lo sợ ít nhiều đấy thôi” [65,tr. 249] nhưng nỗi buồn
của cô vẫn không dứt. Êlêna trăn trở với hàng loạt suy tư khi trở lại Maxcơva: “Lại về với
công việc quen thuộc, với bạn bè. Mọi chuyện lại như cũ. Còn muốn gì hơn nữa? Vậy mình
còn mong muốn điều gì hơn nữa. […] Giá mà biết được hạnh phúc bí ẩn là gì? Nó ở đâu?”
(Cầu vồng trắng) [65, tr. 326]. Và dường như cô đã giải đáp được ngọn nguồn của cảm xúc
bí ẩn len lỏi trong lòng – nỗi cô đơn: “Khó mà sống thui thủi mãi một mình và nhìn thấy tất
cả, dù chỉ là đêm nay, và suy nghĩ về mọi điều, không mỉm cười với ai, không đặt tay lên vai
ai và không bảo: Anh xem, tuyết đang rơi kìa” [65, tr. 327]. Tương tự, chàng sĩ quan Pêtrốp
vô cùng ngạc nhiên trước sự đổi thay diễn ra trong tâm hồn mình: “Pêtrốp ngạc nhiên nghĩ
rằng thành phố này một năm trước đây tưởng chừng như ảm đạm và dữ dội, giờ đây kí ức
khô cứng của anh lại hé ra trong quá khứ những ngày tươi sáng, bầu trời trong trẻo, mùi lá
mục và vẻ yên tĩnh của những khu vườn xưa, trước đây, anh không nhận ra điều đó. Vì
sao?” [65, tr. 330]. Và trái tim anh tìm được sự lí giải: “Có thể vì anh chỉ một mình và nhìn
tất cả chỉ có một mình. Vì bên anh không có bàn tay ấm áp, không có đôi mắt tươi cười và
giọng nói trầm ấm” [65, tr. 330]. Còn thiếu tá Kuzmin lại bất ngờ với cảm xúc chợt đến
trong đêm mưa bụi: “Ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất
của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỉ này qua thế kỉ khác, đã đến với chàng
chính lúc này, ban đêm, trong ngôi nhà xa lạ, và từ ngôi nhà ấy, mấy phút nữa thôi, chàng sẽ
ra đi và không bao giờ trở lại” (Bình minh mưa) [65, tr. 316]. Kuzmin phân vân đưa ra lời
giải cho tâm trạng: “Do tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao?” [65, tr. 316].
Nếu như các nhân vật của Pauxtốpxki băn khoăn với các trạng thái cảm xúc bất chợt
xâm chiếm tâm hồn mình và nỗ lực giải đáp chúng (và họ đã tìm thấy lời giải) thì những
nhân vật của Thạch Lam lại day dứt với các trạng thái nhân cách của bản thân. Hàng tá câu
hỏi chất chứa trong tâm họ: Tôi là ai mà bất chợt biến đổi thành con người khác: kẻ có ý
muốn ăn cắp (Sợi tóc), kẻ độc ác nhẫn tâm (Một cơn giận), người chồng và người cha tử tế
(Đứa con đầu lòng), kẻ bạc tình (Tình xưa, Nắng trong vườn), kẻ an phận (Người bạn cũ)…
Họ không dễ gì tìm được lời lý giải thấu đáo. Khi kể những câu chuyện như thế, điều tác giả
quan tâm không phải ở câu trả lời hợp lí của nhân vật mà chủ yếu là khơi gợi được một suy
tư chân thật, tâm đắc với người đọc. Vấn đề này không chỉ khiến nhân vật trong truyện riết
róng với việc “giải mã” mình mà còn khiến độc giả suy tư về những thói tật vốn hiện hữu ở
bản thân: Đôi khi ta cũng vô tâm, tàn nhẫn, hèn yếu, an phận, thỉnh thoảng những thói tật lại
trỗi dậy theo bản năng. Bên cạnh nỗi băn khoăn rất lành mạnh về nhân cách, các nhân vật
của Thạch Lam còn nỗ lực khám phá nguyên do chi phối, quy định mọi ứng xử khác thường
ở họ. Không cố gắng đưa ra câu trả lời duy lí như các nhà tâm lý học xã hội, Thạch Lam dẫn
dắt, khơi gợi vấn đề bằng hình tượng “sợi tóc”: “Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết... Có lẽ
chỉ một lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía kia, đã khiến tôi có ăn
cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới của hai bên… Tôi
có tiếc đã không lấy hay không, hay bằng lòng mình vì đã chống giữ lại cái ý xấu? Tôi cũng
không tìm biết rõ hơn. Hình như ý nghĩ ham muốn hay trù trừ tối ấy không phải là của tôi,
hình như của ai ấy, của một người nào khác lạ, khác với cái người thường của tôi bây giờ”
[44, tr. 248]. Những suy tư về trạng thái, tình cảm bất chợt của nhân vật đã đem đến cho
người đọc một thoáng “giật mình”: ranh giới giữa cái Thiện và cái Ác rất mong manh. Con
người lương thiện vẫn có thể bị xui khiến làm điều ác một cách dễ dàng. Lý giải rành rọt cái
bản năng xui khiến con người làm điều ác (cũng như đột nhiên kéo họ trở về với điều thiện)
là không dễ dàng. Câu trả lời là vấn đề của triết học và tâm lí học với sự hiện diện của cái vô
giác, vô thức trong tầng sâu tâm hồn con người.
Mang trong mình khát vọng giải mã bản thân, các vai chính trong truyện ngắn của
Thạch Lam và Pauxtốpxki đã thể hiện đầy đặn ý thức cao độ về bản ngã, về quá trình tự hoàn
thiện mình để phần “người” trong mỗi con người luôn thắng thế.
Những khám phá của Thạch Lam và Pauxtốpxki về cảm xúc mới mẻ, bất chợt trong
tâm hồn con người đã mở ra một diện rộng cho sự phản ánh của văn học, đồng thời xác lập
một kiểu con người trong văn chương – con người tâm lý với cõi nội tâm thầm kín.
Lựa chọn và xem thế giới nội tâm của con người như một hiện thực phong phú để đặt
những “đường cày”, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tạo ra một nội dung tự sự mới mẻ trong
truyện ngắn của mình. Sự lựa chọn ấy là phù hợp với quy luật vận động và phát triển của văn
học Việt Nam và văn học Nga (không ít thời kì phát triển của văn học ở hai quốc gia có sự
tương ứng). Trước thời Thạch Lam và Pauxtốpxki, trong các loại hình tự sự dân gian, nhân
vật chỉ khóc, cười, buồn, vui đúng theo “chức năng” đã định vị. Trong văn xuôi trung đại,
các tác giả đã chú ý miêu tả các trạng thái cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Sự đóng góp của
nhà văn thể hiện ở chỗ họ đã xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật về con
người với những nét tính cách khó lẫn. Thế nhưng miêu tả nội tâm suy cho cùng vẫn chỉ
được coi như một yếu tố thuộc về kĩ thuật của truyện ngắn, tiểu thuyết. Đến với văn học hiện
đại, nhiều tác giả đã chú trọng đến gương mặt tinh thần, đời sống bên trong của con người và
có sự “đột phá” về kĩ thuật miêu tả nội tâm của nhân vật. Một số cây bút hiện thực bậc thầy ở
Việt Nam và Nga, chẳng hạn như Nam Cao, Sôlôkhốp đã gửi gắm vào tác phẩm của mình
nhiều trang phân tích nội tâm đặc sắc với sự khám phá hay diễn tả thành công những xung
đột hay quá trình biện chứng tâm hồn của nhân vật. Tuy vậy, với nhiều lí do, không phải bao
giờ mô tả nội tâm cũng trở thành một nội dung tự sự chủ yếu.
Mặt khác, việc lựa chọn nội dung tự sự trên ở Thạch Lam và Pauxtốpxki còn có sự chi
phối bởi xu hướng của thời đại. Triết học thế kỉ XX đã trôi qua dưới khẩu hiệu “Sự phồn
vinh của nhân học”. Mọi vấn đề đều xoay quanh cái trục là con người. Con người trở thành
trung tâm của vũ trụ, là chiếc chìa khóa để mở ra mọi vấn đề. Hơn nữa, những thành tựu của
khoa tâm lý học thế kỉ XX mà tiêu biểu là học thuyết tâm lý học vực thẳm (phân tâm học)
của Sigmund Freud đã gián tiếp trở thành chiếc cầu nối cho người nghệ sĩ, trong đó có Thạch
Lam tìm đến được với bờ cõi vừa huyền bí, sâu thẳm vừa kì diệu của tâm hồn con người.
2.2. Cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp…
Cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp cũng là một nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam
và Pauxtốpxki, một “kênh” thể hiện chân xác những tìm tòi của hai nhà văn về cuộc sống và
con người. Đồng thời, đó cũng là một hướng tiếp cận giúp họ thể hiện bản thân mình đầy đặn
nhất trong văn chương.
2.2.1. …Trong những con người dung dị, đời thường
Thạch Lam và Pauxtốpxki hiếm khi kể chuyện về các “đại nhân”. Các nhà văn thường
đi sâu vào những mảnh đời, số phận của bao con người nhỏ bé, bình thường trong xã hội để
lắng nghe “tiếng lòng”, những xao động trong tâm tư nhân vật và trên hết là phát hiện ra
những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn họ.
Con người từ khi sinh ra đã được đặt trong vô vàn giềng mối phức tạp. Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã khai thác văn hóa ứng xử, giao tiếp của con người, thể hiện trong mối quan hệ
giữa con người với quê hương, đất nước, nguồn cội, với đồng loại, gia đình và bản thân. Do
vậy những vẻ đẹp của họ lần lượt được khơi mở, bóc tách và trải lên trang văn Thạch Lam và
Pauxtốpxki thật sống động, bất ngờ.
2.2.1.1. Tấm tình gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở
Tình yêu quê hương đất nước vốn là “mẫu số” chung của con người ở mỗi quốc gia,
mọi thời đại. Tuy vậy, cách biểu lộ tình cảm thiêng liêng ấy lại in dấu cách nhìn, cách nghĩ,
hướng tiếp cảm của mỗi dân tộc. Theo quan niệm của Thạch Lam và Pauxtốpxki, trước hết
đó là tình cảm thiết tha với những sự vật bình dị, thân quen trong cuộc sống hằng ngày. Đây
cũng là cảm xúc thường trực trong mỗi con người. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, ta bắt gặp
ở người lao động chân chất hay người trí thức bình dân sự gắn bó thiết thân với đồng đất quê
hương. Chẳng hạn, ở Cô hàng xén tần tảo tên Tâm, dù trên vai trĩu nặng gánh hàng mưu sinh
nhưng cô “bớt mệt hẳn đi khi thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù” [44, tr.
210]. Tâm thuộc cả con đường “mấp mô vì trâu bước”; quen với tiếng lá tre khô “xao xác”;
dễ dàng nhận ra “mùi bèo dưới ao và mùi rạ đưa lên ẩm ướt”, “mùi phân trâu nồng ấm sặc
ngay vào cổ” [44, tr. 211]. Cả “cái cổng gạch cũ”,“con cá sấu phục ngay trên bệ” ngoài
đình cũng quá gần gũi với cô. Với Tân, con người mà cuộc đời vốn gắn chặt lối sống ở chốn
đô thành lại tiềm ẩn một tình yêu sâu đậm với hương đồng gió nội chốn quê. Sau quãng thời
gian bươn bả ở phố thị, Tân chợt nhận ra quê nhà mới là nơi đem lại cho chàng niềm hạnh
phúc thực sự. Hòa mình vào “cái đời giản dị của người làm ruộng”, sống chân thành, gắn
bó với những người nông dân chất phác, thật thà, Tân đã tìm thấy cảm giác bình yên, thanh
thản:“Mùi lúa chín thơm lại phảng phất lẫn với mùi rạ ướt mới cắt” đã “làm chàng say sưa
như men rượu” [44, tr. 95]. Khi không còn “dửng dưng với những cái chung quanh mình”,
Tân thụ cảm được cái đẹp của đời và cái đẹp trong tâm chàng nảy nở thật diệu kì: “Tân có
cảm giác rằng mình sống” [44, tr. 100]. Tương tự, tình cảm cao đẹp ấy cũng chất chứa trong
tâm hồn anh thanh niên trẻ trai hay những đứa trẻ thơ dại. Sự trìu mến, yêu thương với
những cảnh vật thân thuộc chốn quê đã khiến Thanh “vẫn có cảm giác như ở nhà” dù chàng
xa nhà đã gần hai năm. Cái trường kỉ, ngọn đèn con và cái điếu cũ kĩ, con mèo già mắt lim
dim… cảnh tượng cũ mà có một sức hút mạnh mẽ đối với chàng: “Lần nào trở về với bà
chàng, Thanh cũng thấy thong thả và bình yên như thế” (Dưới bóng hoàng lan) [44, tr. 181].
Chàng đón cảm giác thanh lọc tâm hồn với mùi hoàng lan thoảng trong gió ngát: “Thanh
thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi
mát này” [44, tr. 182]. “Ngôi nhà và thửa vườn”, người bà nhân hậu, cô bạn láng giềng xinh
xắn…, tất cả trở thành “máu thịt” của Thanh, quyến luyến bước chân ra đi, chắp cánh niềm
vui mỗi lần trở về. Khi mở rộng các giác quan để thu nhận mọi cảnh vật của miền hạ du quê
mình, cậu bé thiếu niên trong Bên kia sông đã khám phá bao điều mới mẻ: “Tôi qua ở đấy
tất cả cái tuổi niên thiếu của tôi, sung sướng và nhảy nhót như một con chim giữa cuộc sống
hoạt động kia bao bọc lấy tôi, để hết cả mắt mà trông, cả tai mà nghe, cả mũi mà ngửi cái
mùi cát, mùi đất lẫn mùi khói rác người ta đốt ở đầu làng buổi chiều, theo gió với sương mà
tràn vào trong phố” [44, tr. 188]. Vì thế sự gắn bó đến thật tự nhiên như hơi thở: “Tất cả
chợ huyện, những kẽ ngách bãi không đối với tôi đều quen thuộc, thân mật như một vật cũ
trong nhà” [44, tr. 189]. Trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ cũng vang động những tình
cảm mến yêu đối với phố huyện nghèo: “một mùi âm ấm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn
mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này” [44, tr. 150]. Ở Bính, con người mà cuộc sống chỉ đo đếm bằng những cuộc truy hoan,
vẫn le lói ngọn lửa yêu đời, yêu sống, chờ những cơn gió khơi nguồn là bùng lên mạnh mẽ.
Chính không khí mát mẻ, trong lành của buổi sớm mai với “tiếng gà gáy” báo hiệu ngày
mới, vẻ quen thuộc của “thềm gạch”, “gốc cau”, “mảnh vườn nhỏ” đã đánh thức những
tình cảm trong trẻo, tốt đẹp ở chàng, người con từng lầm lạc, chìm đắm trong bao cuộc truy
hoan: “Nhưng hôm nay, cái mát của buổi mai làm tươi lại những cảm giác trong sạch, thanh
cao ngày nhỏ. Tiếng gù gù của chim bồ câu bên hàng xóm không còn nữa, nhưng tiếng cười
nói của những người đi chợ sớm vẫn vang lên bên giậu thưa. Nước mưa bên bể vẫn mát như
ngày còn trẻ; trên cao, trời xanh thẳm không một gợn mây, trời lát nữa sẽ rực rỡ những ánh
hồng của nắng” (Buổi sớm) [44, tr. 252]. Chắc rằng cuộc đời của Bính sẽ sang trang khi cái
đẹp của cuộc đời thường nhật đã trở lại trong chàng. Thậm chí cả những cô gái vốn thuộc
tầng lớp dưới đáy xã hội như Huệ, Liên (Tối ba mươi), qua ngòi bút của Thạch Lam, ở họ
vẫn toát lên vẻ đẹp của một tâm hồn thanh sạch. Tuy ở trong nhà săm, họ vẫn cố gắng bày
biện lễ cúng giao thừa và tấm lòng thành kính hướng về tổ tiên,
Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki đã phát hiện ở những con người tuy khác nhau về
lứa tuổi, nghề nghiệp nhưng có sự gặp gỡ ở nét đẹp tâm hồn - tấm tình sâu nặng với quê
hương xứ sở. Anh lính thủy Nikôlai (Tuyết) yêu thiết tha cái tỉnh lị quê hương, tình yêu ấy
tiếp thêm sức mạnh cho anh để chiến đấu chống lại kẻ thù. Trong một bức thư gửi cha,
Nikôlai chân thành bộc bạch: “Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì tất cả đất nước
mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả
những em bé đầu bù tóc rối trong làng ta, cả những cánh rừng bạch dương bên kia sông và
cả con mèo Ackhíp nữa” [65, tr. 277]. Trong trái tim thơ trẻ của cô bé Varusa chất chứa tình
cảm mãnh liệt và niềm tự hào về vẻ đẹp của ngôi làng thân yêu:“Không ở đâu trên thế gian
này đẹp bằng làng Mokhova, làng mình. Không phải vô cớ ông Kudơma bảo rằng quê mình
là thiên đường và thực sự chẳng đâu có được mảnh đất tuyệt vời như vậy trên khắp đất nước
này” [65, tr. 354]. Tình yêu quê hương đất nước trải dài theo những vùng đất xa xôi của Tổ
quốc, nơi con người đặt chân đến. Thiếu tá Kuzmin khát khao được ở lại cái tỉnh Navôlôki
xa lạ cũng bởi: “Chàng yêu những tỉnh lị Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy
những cánh đồng cỏ bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở
rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên” (Bình
minh mưa) [65, tr. 312]. Chàng còn muốn nhảy ngay ra khỏi toa tàu khi nó đang chạy để
được ở lại với “một cánh rừng bạch dương thưa thớt và một lưới mạng nhện mùa thu ánh
lên trong nắng” [65, tr. 319], thu vào tầm mắt “những cánh rừng, những bãi cỏ, những con
ngựa, những nẻo đường đang vùn vụt chạy về phía sau” [65, tr. 319] và biết rằng đó là điều
mà bản thân chàng “chờ mãi suốt đời”. Những cô gái đôi mươi vốn là “liễu yếu đào tơ”
mang trong mình bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, vẻ đẹp của họ toát ra từ sự cứng cỏi, mạnh mẽ,
khát vọng cống hiến cho quê hương. Masa tình cờ ghé thăm cánh đồng quê, nơi con tàu dừng
lại dọc đường, và cô thật khó khăn khi phải chia tay với nó: “Masa cảm thấy bịn rịn phải xa
bờ sông này, với cánh đồng hoa, với mái lều và ông già đan lát nọ. Tất cả cảnh vật chợt đã
trở nên thân thuộc đối với cô hệt như cô đã lớn lên ở đây, và ông lão kia là người đã nuôi
nấng, dạy dỗ cô” (Cây tường vi) [65, tr. 254]. Sau đó, cô sinh viên mới tốt nghiệp này đã trải
qua tháng ngày tuổi trẻ ở một vùng đất mới; tâm huyết với việc trồng rừng và chăm chút,
nâng niu từng cây con. Tương tự, cô gái trong truyện Hạt cát cảm thấy ngày càng gắn bó với
những vùng đất trồng nho miền Krưm, cả cái khắc nghiệt ở đây cũng trở nên đáng yêu lạ
lùng. Cô sung sướng chia sẻ với một nhà văn:
“Đất chẳng khác gì đá, rễ nho cũng rắn như đá, chung quanh, đá bị mặt trời hun đốt,
phả hơi nóng hầm hập. Lúc đầu cháu khổ vì nóng, thậm chí phát khóc lên. Ấy thế mà bây giờ
cháu lại đâm ra yêu cái nóng ấy, giò đây cháu có cảm giác nó làm cho đất đai đẹp thêm.
Nhưng khoảng thời gian thú nhất là lúc cái nóng dừng lại lúc gần tối, nó bắt đầu giảm dần
đi một cách khó nhận thấy và không khí trở nên yên lặng, có thể nói là dịu dàng, đến nỗi
cháu cảm thấy cháu thực hạnh phúc” [65, tr. 418].
Với tâm trạng “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương” 1, các nhân vật trên cùng
chuyến tàu tốc hành Ximfêrôpôn (nhà thổ nhưỡng học, nhà văn, cô bé Naxtia) có chung lòng
say mê với những làng mạc đã đi qua. Thậm chí, nhân vật “tôi” còn nảy sinh ý định: “bỗng
muốn bỏ con tàu ở ngay ga sau để quay lại làng đó, đến ở ngay ngôi nhà gỗ bé nhỏ với
những cây cẩm quỳ giữa đồng cỏ kia, dưới những đám mây lười biếng, trong đại dương vô
tận của lúa mì” [65, tr. 385]. Tình yêu quê hương xứ sở còn được bồi đắp thêm lòng tự hào,
tự tôn dân tộc khi con người đặt chân đến một vùng đất nằm ngoài đường biên của đất
nước:“Chỉ có qua nước ngoài ta mới biết được đến đầu đũa hai chữ ‘của mình’. Mùi cây
dâu, những sườn đồi đất sét hung đỏ, tiếng vó ngựa trên những đường qua đầm lát gỗ trong
rừng, tiếng cà cưỡng hót, tất cả những cái đó là ‘của mình’. Cái ‘của mình’ khi nào cũng
làm lòng ta tĩnh lại và làm tim ta tràn ngập sự dịu dàng” (Pari chốc lát) [65, tr. 471].
Chính tình yêu Tổ quốc làm cho những con người bình thường trong truyện ngắn
Pauxtốpxki bỗng trở nên lớn lao. Vania, một thanh niên hiền lành, tính tình vốn nhút nhát lại
sở hữu một lòng dũng cảm phi thường. Anh lái máy bay tiêu diệt trọng pháo Đức, dọn đường
cho “quân ta” tiến vào thành phố. Khi sa vào tay giặc, đối mặt với cái chết, Vania vẫn thể
hiện rõ bản lĩnh mạnh mẽ, gan góc của một đấng anh hùng. Trong Lời cầu nguyện của
Mađam Bôvê, có ai ngờ ở người đàn bà giúp việc nhà lớn tuổi bỗng bừng lên vẻ đẹp của lòng
yêu nước nồng nàn, của cốt cách một quý tộc chân chính. Dù sinh sống trên đất Nga, trái tim
bà vẫn đau đáu hướng về Tổ quốc Pháp thân yêu. Giọt nước mắt của Mađam đã nhỏ xuống
cho niềm hạnh phúc vô bờ khi hay tin quân phát xít bị đẩy lùi khỏi quê hương. Bà đã mở tiệc
ăn mừng, chơi những bản đàn hay nhất, gửi gắm khát vọng trong những lời cầu nguyện chân
1
Thơ Chế Lan Viên
thành: “Lạy Đức mẹ Maria Đồng trinh! Hãy cho con lại được trông thấy nước Pháp, được
hôn ngưỡng cửa nhà con và lấy hoa tô điểm nấm mồ anh Sáclơ yêu dấu của con ! ” [65, tr.
306]
Với lòng trân trọng mến yêu, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã phát hiện ở những con
người vốn bình dị, mộc mạc tấm tình thiết tha với quê hương xứ sở – một vẻ đẹp tinh túy của
tâm hồn. Chính lòng yêu nước kín đáo, thâm trầm ở Thạch Lam hay sôi nổi, bộc trực ở
Pauxtốpxki và cả yếu tố thời thế ở hai quốc gia Việt – Nga lúc bấy giờ, đã khúc xạ lên cái
nhìn và suy nghĩ của các nhân vật trong trang viết của hai ông. Nếu như các nhân vật của
Thạch Lam thường có sự gắn bó, gần gũi, yêu thương với cảnh sắc quê hương, nơi mình sinh
ra và lớn lên thì trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, con người lại có mối ràng buộc về mặt
tình cảm với những vùng đất khác lạ trên mọi nẻo đường của Tổ quốc, nơi mà mình vừa đặt
chân đến hay đi ngang qua. (Có lẽ Pauxtốpxki đã truyền “cảm hứng xê dịch” sang nhân vật
chăng ?!). Mặt khác, với các nhân vật của Pauxtốpxki, yêu nước còn đồng nghĩa với dấn
thân, chiến đấu với quân phát xít để bảo vệ từng tấc đất cho quê hương.

2.2.1.2. Tình cảm tránh nhiệm với gia đình


Tình cảm, trách nhiệm với gia đình là một trong những “hệ quy chiếu” nhân cách con
người. Cả Pauxtốpxki và Thạch Lam đều đặt con người vào “tọa độ gia đình” để soi rọi vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách của họ. Đây là những mối quan hệ phổ biến mà mỗi dân tộc trên thế
giới đều giữ gìn, vun đắp và phát huy.
Bức tranh gia đình trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki tuy phần lớn có tính chất
“neo người” nhưng chúng luôn toát lên bầu không khí hòa thuận, yêu thương. Ở người mẹ
già nua, cô đơn làng Zaboriê chất chứa một tình thương con bao la, vị tha mặc dù cô con gái
của bà đã ba năm không trở về nhà: “Ngày nào bà cũng ngồi trên mép chiếc đi văng đã võng
xuống mà nghĩ đến nàng” (Bức điện) [65, tr. 335]. Khi bác Piốt ra trận, cậu con trai của bác
đã tiếp thêm sức mạnh cho cha bằng một món quà dễ thương – con bọ sừng. Trong cuộc
chiến khốc liệt, bác vẫn cố gắng nâng niu gìn giữ “báu vật nhỏ đó” như một biểu hiện tình
yêu dành cho đứa con trai. Từ mặt trận xa xôi, trung úy Nikôlai bày tỏ lòng kính yêu, quan
tâm, lo lắng cho cha qua bức thư dạt dào cảm xúc:“Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh
viện được một tháng. Vết thương của con không nặng lắm. Nó đang lên da non. Xin cha
đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy! Con luôn
nhớ đến cha, đến ngôi nhà của cha con ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu
mãi chân trời...” (Chú bọ sừng già) [65, tr. 277]. Người đầu bếp già Iôhan đến phút cuối
cuộc đời vẫn khắc khoải với mong muốn có người sẽ săn sóc cho cô con gái.
Qua những bức thư của người con viết cho cha hay cuộc đối thoại giữa các thành viên
trong gia đình, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảm, trách nhiệm của con người Nga. Chẳng
hạn, bức thư của chú bé chăn bò gửi cho cha thật thắm thiết:
“Cha ạ! Đây là thư của con trai Alếchxây Kuđưsin gửi cho cha. Trong khi cha đang
đánh nhau ngoài mặt trận, ở nhà ta vẫn bình thường và đang đợi cha về. Mẹ đi chăn bò và
con thì giúp mẹ. Nhưng con lại muốn làm người chăn ngựa. Bởi vì chăn bò thì cứ phải loay
hoay với nó, không được nhìn thấy gì hết. Chăn ngựa thì còn có thể có công việc đi nơi này
nơi khác, còn chăn mấy con bò sữa thì chỉ biết độc mấy con đường, quanh đi quẩn lại hết
cánh đồng cỏ Gôrêlưi lại cánh rừng Litin. Ở đó chẳng có gì mà xem cho đã mắt. Mà con thì
lại muốn xem, muốn biết tất cả mọi thứ. Nếu mẹ mà cho đi thì con xuống ngay bè, bỏ làng ra
tận Xtalingrat với cha, nhưng mẹ lại không cho. Người ta bảo không có giấy thông hành thì
không được ra mặt trận. Ở đó, cha có thể nhận con vào, đi theo cha, để mang đạn hoặc làm
một việc gì khác trong đơn vị. Con có thể làm được những việc ấy lắm ...” [65, tr. 297].
Và đây là cuộc đối thoại giữa Tachiana và cô con gái Varia trong truyện Tuyết:
– Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác? Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng
vào đủ mọi thứ: nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại đặt những bản nhạc của người
ta lên trên dương cầm nữa.
– Bởi vì mẹ là người lớn [65, tr. 279].
Hay cuộc đối thoại giữa cụ Kudơma cô cháu gái Varusa:
– “Này cháu ơi – ông già nói – cháu cứ như cái chong chóng, ra khỏi nhà quên
cả đóng cửa và gió nhẹ thổi ùa vào phòng. Thế là ông hết cả bệnh. Giờ ông ngồi hút
thuốc một lát, rồi cháu lấy cái rìu để ông chẻ ít củi, ta nhóm lò làm một mẻ bánh ăn
chơi
Varusa cười phá lên, vuốt mớ tóc bạc bù xù của ông và bảo:
– Cảm ơn chiếc nhẫn! Nó đã làm cho ông khỏe đấy ông ạ (Chiếc nhẫn bằng
thép) [65, tr. 353].
Quả thật, các thành viên trong gia đình gắn kết với nhau dựa trên tình cảm yêu
thương, gần gũi và thân mật. Bức tranh gia đình thường có “khoảng trống” của người
chồng, người cha, người con trai ra trận nhưng hình ảnh của họ vẫn hiện ra đậm nét qua tình
cảm của người ở lại.
Cũng như Pauxtốpxki, Thạch Lam cũng xây dựng các nhân vật trong mối quan hệ gia
đình với tình cảm nồng thắm yêu thương. Tình yêu thương của mẹ Lê dành cho mười một
đứa con thật cảm động. Trong tình cảm ưu ái người con thứ chín của mẹ có sự yêu thương
dành cho người chồng quá cố: “Bác thường bế nó lên lòng, hôn hít, rồi khoe với hàng xóm:
nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác ôm con ngồi lặng yên một lát, như
để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm” (Nhà mẹ Lê) [44, tr. 16]. Dưới bóng hoàng lan mang đến
cho người đọc niềm xúc động với tình bà cháu ấm áp. Người bà “gầy còng” lại là điểm tựa
cho đứa cháu trẻ trai và chính lòng yêu kính bà khiến Thanh thêm gắn bó và mến yêu ngôi
nhà ở chốn quê. Bóng người xưa là tình cảm vợ chồng keo sơn nồng thắm giữa Vân và người
vợ hiền sau những va chạm, lầm lẫn...
Nét riêng giữa không khí gia đình trong truyện Thạch Lam (so với truyện của
Pauxtốpxki) là lối xưng hô trang trọng, mực thước, đúng nghi lễ của nhân vật, phản ánh đúng
phận vị của họ trong gia đình. Chẳng hạn, cuộc đối thoại giữa Tâm và mẹ cô trong truyện
Cô hàng xén:
– “Tâm, con đã về đấy ư?
– Thưa u, vâng ạ!
– Sao về muộn thế, con?
– Thưa u, hôm nay con ngồi chợ Son ạ” [44, tr. 212].
Hay cuộc đối thoại giữa anh con trai và bà cụ ở truyện Trở về:
– “Con đã về đấy ư?
– Vâng, chính tôi đây; bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ?
– Bà ở đây có một mình thôi à?
– Vẫn có con Trinh ở đây với tôi.
[...] Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác cả không? [44, tr. 23]
Lối xưng hô ấy cho thấy người Việt rất chú trọng nghi lễ, đặc biệt là thứ bậc, vai vế
trong các mối quan hệ xã hội, kể cả mối quan hệ trong gia đình.
Trong mối quan hệ với gia đình, bên cạnh khía cạnh tình cảm, các nhân vật trong
truyện Thạch Lam, điển hình là người phụ nữ, còn được xã hội đặt trong những bổn phận,
trách nhiệm và chính điều ấy làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là những con người
chịu thương chịu khó, tần tảo, giàu đức hi sinh với vẻ đẹp truyền thống tồn tại từ ngàn đời.
Họ là mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Tâm (Cô hàng xén), Mai (Bóng người xưa), Liên (Một đời người),
chị Tý (Hai đứa trẻ)... Những người phụ nữ này tuy khác nhau về cảnh ngộ nhưng đều gặp
nhau ở vẻ đẹp tâm hồn và đặc biệt là sự ý thức về bổn phận, trách nhiệm của mình. Mẹ Lê
đầu tắt mặt tối, quanh năm làm thuê làm mướn để nuôi mười một người con. Không đành
lòng để con nhịn đói, mẹ đành liều vào nhà lão phú hộ trong làng xin gạo và bị chó cắn dẫn
đến cái chết thảm thương. Cô Tâm lúc ở nhà chăm chỉ buôn bán để phụng dưỡng cha mẹ,
chăm sóc các em, khi lấy chồng cô vẫn tần tảo với gánh hàng xén để vừa đảm đương công
việc nhà chồng, vừa có đồng “để ra” phụ nuôi các em ăn học. Mai luôn chu toàn bổn phận
người vợ hiền mặc dầu không ít lần nàng bị chồng đối xử tệ bạc. Tuy bị mẹ chồng và cả
người chồng vũ phu ngược đãi, Liên vẫn cam chịu ở lại ngôi nhà tựa “ngục thất chốn trần
gian” để làm tròn bổn phận, trách nhiệm của người vợ, người mẹ, bởi vì nàng không đành
lòng bỏ chồng con để “được sung sướng riêng lấy mình nàng” [44, tr. 66]. Chị Tý chịu
thương chịu khó, chắt chiu từng đồng một để nuôi con. Ban ngày chị lặn lội mò cua bắt tép,
tối đến chị lại dọn hàng nước, dù “chẳng kiếm được bao nhiêu” nhưng “chiều nào chị cũng
dọn hàng từ chập tối cho đến đêm” [44, tr. 151]... Những người phụ nữ chân chất, giản dị ấy
là nguồn sáng cho bức tranh gia đình. Đẹp trong những lo toan, bận bịu hằng ngày. Như cây
tre đã qua nhiều phong ba bão táp, những người phụ nữ này luôn nhẫn nại, bền bỉ để đương
đầu với giông gió cuộc đời.

2.2.1.3.Tình người cao cả nồng đượm


“Tình người” mà chúng tôi đề cập ở đây là cái tình của con người đối với tha nhân,
với đồng loại. Có thể nói, truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki là mảnh đất màu mỡ,
nơi những hạt giống tâm hồn được ươm gieo và nảy nở đóa hoa của lòng tốt vô biên.
Ở truyện ngắn của Thạch Lam, người đọc bắt gặp tình cảm ấm áp giữa những người
lao động nghèo. Chính tình cảm mộc mạc mà đáng quý vô ngần ấy tựa như những ngọn nến
trong đêm thắp sáng hay chí ít cũng góp phần soi rọi cho những cảnh đời, số phận tăm tối
vốn buồn nhiều hơn vui. Đó là sự san sẻ giúp đỡ nhau trong cơn túng quẫn theo tinh thần “lá
rách gói lá rách hơn” bởi họ cùng phận nghèo như nhau. Thật cảm động biết bao trước nghĩa
cử của người nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ Lê: “Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho
bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ ở đầu làng”
(Nhà mẹ Lê) [44, tr. 19]. Hành động ấy tương phản hoàn toàn với thái độ độc ác, ghẻ lạnh
của “nhà ông Bá” giàu có bậc nhất trong xóm. Đôi khi cái tình người biểu hiện đơn thuần là
những câu hỏi han, chào thăm thông thường mà nồng ấm, thân thương. Chẳng hạn cuộc trò
chuyện giữa Liên và chị Tý:
– “Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
– Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.
– Còn cô chưa dọn hàng à?” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 150]
Hay câu nói đùa hóm hỉnh của bác Đối về đàn con đông đúc mười một đứa của nhà mẹ Lê:
– “Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất”. (Nhà mẹ Lê) ( [44,
tr. 15]
Bên cạnh đó, sự cảm thông, chia sẻ giữa những người trí thức nghèo cũng thật sâu sắc.
Trước hoàn cảnh bất hạnh của người bạn học, Bình cảm thấy đồng cảm, xót xa. Anh quan
tâm, lo lắng, san sẻ cho Bào dù chỉ là vài hào vì khả năng tài chính của anh rất hạn chế. Bình
cũng đau đớn, xót xa, “nghẹn ngào như muốn khóc” khi hồi tưởng anh bạn trẻ nay đã thành
“người quá cố” (Người bạn trẻ). Nhân vật tôi xót thương cho Minh, một người bạn gặp tai
nạn, bị què chân, phải chịu đựng “vết thương ngoài hình thể và trong tâm hồn” (Cái chân
què) [44, tr. 51]. Hơn nữa, tình người trong truyện ngắn của Thạch Lam được mở rộng biên
độ về mọi phía. Nó gắn liền với sự đồng cảm, yêu thương nhân loại. Người lính cũ bệnh tật
với cuộc đời lắm thăng trầm đã nhận được sự chia sẻ, cảm thông: “Chúng tôi đi yên lặng
nghĩ đến người lính khốn nạn kia, bây giờ lại đắp manh chiếu rách không đủ che thân, nằm
nhớ lại những lúc khoác tay vợ đầm bước vào tiệm nhiều ánh sáng, tận bên kia Trái Đất.
Những kỉ niệm sung sướng ấy đối với anh ta chua xót biết bao” (Người lính cũ) [44, tr. 73].
Ngay cả người đầm, người đàn bà phương Tây cũng được đón nhận với cái nhìn khách quan
trìu mến. Cảm phục trước thái độ cư xử lịch thiệp của bà, nhân vật “tôi” đã: “tự nhiên đem
lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn
lây” [44, tr. 148]. Điều đáng quý nữa trong tình người mà Thạch Lam khai thác là tấm lòng
thơm thảo của con trẻ. Đó là những tình cảm trong trẻo, hồn nhiên mà đáng quý vô ngần.
Tấm lòng nhân ái đột khởi từ tâm hồn thơ trẻ được dưỡng nuôi, vun đắp từ truyền thống gia
đình và cội nguồn văn hóa dân tộc. Trong Hai đứa trẻ, cảnh ngộ của những đứa trẻ ở xóm
chợ lay động lòng trắc ẩn ở Liên: “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên
mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất kì cái gì có thể dùng
được của các người bán hàng để lại. Liên trông thấy động lòng hơn nhưng chính chị lại
không có tiền mà cho chúng nó” [44, tr. 150]. Ánh mắt dõi theo, cảm xúc dâng lên trong
lòng nén tiếng thở dài bất lực đã phác họa một người con gái nhân hậu và nhạy cảm. Ở Tiếng
chim kêu, vào một đêm mưa bão, hai anh em cậu bé được ở trong căn nhà gạch yên ấm lại
đem lòng ái ngại cho những người nhà nghèo bên hàng xóm hay người lữ khách đêm khuya.
Trong Gió lạnh đầu mùa, lòng người chợt ấm lại trước tình cảm của chị em Sơn dành cho
những đứa trẻ nghèo xóm chợ, đặc biệt là với Hiên – một cô bé “co ro”, “chỉ mặc có manh
áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay” [44, tr. 92]. Với tất cả sự hồn nhiên trẻ thơ, Sơn đã đề nghị
chị Lan chạy về lấy áo cho Liên. Tất cả xuất phát từ lòng thương người thơm thảo: “Sơn
thấy động lòng thương cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn
chơi cũng với Hiên, đùa nghịch ở vườn nhà” [44, tr. 92]. Và chính lòng tốt ấy đã đem lại cho
Sơn phần thưởng xứng đáng: “Trong lòng thấy ấm áp, vui vui” [44, tr. 92]. Lòng tốt của đứa
trẻ ấy đã “lây lan” sang người lớn, mẹ Sơn sau khi biết chuyện đã cho mẹ Hiên mượn tiền
mua áo và ngợi khen hai con.
Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki đã đưa vào truyện ngắn của mình khúc ca về tình
người cao cả. Dù chưa một lần gặp gỡ hoặc chỉ gặp nhau trong khoảnh khắc thì trong giây
phút hạnh ngộ, những nhân vật của Pauxtốpxki vẫn đối đãi với nhau bằng tất cả tấm lòng.
Bởi vậy, tình người đã trở thành điểm khởi đầu của nhiều mối quan hệ, đặc biệt là tình yêu.
Ở chuyện Tuyết, Tachiana đã đón Nikôlai trong bầu không khí gia đình ấm cúng, hạnh phúc,
một món quà ý nghĩa bất ngờ mà nàng nỗ lực tạo dựng theo ước nguyện của anh. Khi nhận
được bức thư Nikôlai viết dọc đường, nàng lựa chọn cách ứng xử vì hạnh phúc của anh và
cũng là của chính bản thân mình: “Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ!
Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì? Và cả mình
nữa...” [65, tr. 284]. Gió biển cũng là một câu chuyện ấm áp về tình người. Người thiếu phụ
từng làm y tá ở Xêvaxtôpôn đã dựa vào địa chỉ mà anh lính thủy ghi trong vỏ bao thuốc lá để
viết thư cho người con gái anh quen, báo tin anh bị thương. Có lẽ vì muốn anh có sự quan
tâm, an ủi, sự nâng đỡ về mặt tinh thần mà cô đã mạnh dạn làm một việc mạo muội như
vậy!? Dù kết quả ngoài ý muốn nhưng anh lính thủy cảm thấy: “tất cả những cái đó thật kì
lạ. Và thật là tốt đẹp...” [65, tr. 291]. Nghĩa cử của chị đã cho cả hai một cơ hội để sau bao
nhiêu năm gặp lại, anh nhận ra chị, cảm phục và mến yêu.
Với trái tim nhân hậu, bao dung, với phương châm sống là để yêu thương, các nhân
vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki không kể tuổi tác, nghề nghiệp, luôn nỗ lực mang đến
niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Và trong niềm vui của tha nhân, họ cảm thấy dường
như đã được an ủi, thỏa mãn. Thấu hiểu tình thế khó khăn, khổ tâm của ca sĩ Xônxeva, anh
thợ lò Vaxia Tsukhốp đã tự ý hạ màn trong khi buổi biễu diễn mới bắt đầu, “bất chấp tiếng
kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo” và “người phụ trách nhà hát mặt tái đi vì tức giận” (Âm
nhạc Vécđi) [65, tr. 242]. Giọt nước mắt và tiếng hát run run của Xônxeva đã lay động
Vaxia, khiến anh hành động theo lí lẽ của lòng nhân ái. Anh báo cáo việc này với chỉ huy tàu
và nhận được sự đồng thuận từ ông. Viên chỉ huy – vị tư lệnh trưởng – đã kiên quyết hủy
buổi biểu diễn và thu xếp chuyến đi cho Xônxeva để cô có thể ở bên cậu em trai trước giờ
chú bé bước vào cuộc phẫu thuật quan trọng. Lòng nhân ái của vị tư lệnh đã lan truyền sang
các chiến sĩ hải quân đỏ và họ đã hành động vì tình người: “Mọi người đứng cả dậy. Vị tư
lệnh không kịp nói vở kịch sẽ hoãn lại đến một thời gian tốt đẹp hơn. Điều đó các chiến sĩ
đều hiểu, không cần lời giải thích của chỉ huy” [65, tr. 243]. Đúng như ý nghĩ của vị tư lệnh
hải quân nhân hậu: “Không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm
giản dị của những người đồng chí” [65, tr. 245], tiếng hát của Xônxeva trong lần biểu diễn
sau đó như được chắp thêm đôi cánh, bay bổng trên vùng biển bao la.
Ở Bức điện, những việc ông lão Tikhôn làm cho bà Katêrina thật cảm động. Lão “săn
sóc bà một cách vô tư”, giúp bà những công việc vặt trong nhà và hỏi thăm về cô con gái xa
nhà. Vì mong mỏi bà Katêrina được gặp cô con gái duy nhất trong giờ phút lâm chung, lão
đã gửi điện báo tin cho cô gái, thậm chí lão còn “bịa chuyện” để an ủi bà. Chắc rằng trong
quãng đời cô đơn về già của bà Katêrina sẽ bớt đi phần nào hiu quạnh khi có người hàng
xóm tốt bụng như lão Tikhôn. Tương tự, ông lão Êgô trong Trái tim nhút nhát cũng là một
người bạn rất mực tốt bụng. Ông cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ bà Vacvara, nhất là thời
điểm bà phải chứng kiến cái chết của đứa cháu trai, người thân duy nhất và cũng là điểm tựa
của đời bà.
Xem việc mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác là nguyên tắc sống, các
nhân vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki sẵn sàng “sống là cho” bởi họ luôn ý thức “cho”
tức là đang “nhận”. Tựa như khi trao cho người khác một một đóa hoa mà hương thơm của
nó còn đọng lại mãi trong tâm hồn người đem cho, các nhân vật của Pauxtốpxki vui sướng
dành cho nhau những món quà – tặng phẩm của tình yêu thương. Có những món quà hữu
hình như bông hồng vàng mà Samét chắt chiu dành cho Xuyzan; con matriôska mà người
ngoại quốc trao cho cô bé người Ý (Đám đông trên đại lộ bờ biển); chú bọ sừng cậu bé
Xtêpa tặng cho người bố khi ông ra trận (Cuộc phiêu lưu của bọ sừng); Chiếc nhẫn bằng
thép Varusa được nhận từ người lính thủy (Chiếc nhẫn bằng thép)... Bên cạnh đó, có những
món quà vô hình mà người nhận phải dùng cả trái tim, tâm hồn để thụ cảm: bản nhạc Môda
tặng người đầu bếp Iôhan Mâye trước lúc ông qua đời (Người đầu bếp già), bản tình ca mà
nhạc sĩ Êđua Griđơ dành riêng cho Đanhi năm cô mười tám tuổi (Lẵng quả thông); cảm giác
bình yên ấm cúng mà Tachiana mang lại cho Nikôlai (Tuyết). Với mô típ những món quà,
truyện của Pauxtốpxki đã mở ra một bầu không khí cổ tích nhiệm màu. Ở đó, con người
được trân trọng, nâng niu, yêu quý, đặc biệt là trẻ thơ – những mầm non cuộc sống. Các tặng
vật trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, vì thế nó vượt lên trên ý nghĩa vật chất thông thường,
nó là biểu tượng của tình người. Nó được kết tinh từ tình cảm hồn hậu, trong sáng, cao quý
vô ngần mà con người hào phóng dành cho nhau. Rõ ràng, cuộc sống của mỗi người đẹp và
có ý nghĩa hơn sau khi nhận được quà tặng. Chẳng hạn, Nikôlai cảm thấy ấm lòng biết bao
khi trở về thăm nhà dù người cha của anh không còn nữa. Chính “cô tiên” Tachiana đã mang
đến cho anh những khoảnh khắc như mơ giữa cuộc đời thực. Cả Tachiana cũng ngập tràn
niềm vui khi bắt tay làm việc tốt: “Má ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng tâm vì xúc động”
[65, tr. 278], “Mặt nàng tươi hẳn lên vì nom nàng giống cái cô thiếu nữ tóc vàng đã đánh rơi
chiếc hài pha lê trong cung vua nhiều hơn” [65, tr. 279]. Trong Chiếc nhẫn bằng thép, cô bé
Varusa tin vào điều kì diệu của chiếc nhẫn và điều đó đã mang lại cho em niềm vui lớn:
“Varusa cười rộ vang cả khu rừng và chạy về nhà. Và một niềm vui lớn – lớn đến không thể
ôm xuể được – rộn ràng reo vui trong ngực em” [65, tr. 354]. Món quà bằng âm nhạc mà
nhạc sĩ vĩ đại Êđua Grigơ dành tặng Đanhi đã khiến em bật khóc, nhưng đó là những giọt
nước mắt biết ơn, là cảm giác hạnh phúc tột cùng khi “thấy cái tuyệt mỹ”. Và cuộc đời của
cô gái với niềm hạnh phúc vô biên sẽ “không qua đi vô ích”.
Không chỉ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người nhận, món quà còn có quyền
năng vĩ đại, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Cụ Iôhan Mâye đã ra đi thanh thản,
sung sướng bởi tiếng đàn của nhạc sĩ thiên tài Môza đã đưa cụ về với một chân trời hoài
niệm, sống với những kỉ niệm tươi đẹp tuổi đôi mươi, gặp lại người yêu dấu. Tiếng đàn có
một sức mạnh phi thường: “đêm đang đen bỗng thành màu lam nhạt, rồi lại thành màu da
trời và ánh sáng ấm áp đã từ một nơi nào trên cao kia chiếu xuống. Trên những cành khô
của cây cối vườn cội, những bông hoa trắng đang nở [...] tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức
tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó, hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ẩm ướt
nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi và
từng đàn chim đang bay trên thành Viên cổ kính của chúng ta về phương bắc” [65, tr. 376].
Quả thật, những món quà đã làm cho tâm hồn con người rộng mở, ngập tràn niềm vui
bởi nó được bao bọc trong bầu khí quyển của lòng nhân ái.
Tóm lại, con người trong các mối quan hệ với đất nước, gia đình, cộng đồng là những
“kênh” chân xác để nhìn nhận về vẻ đẹp của con người thời hiện đại. Từng mô thức ứng xử
cuả họ trong các mối quan hệ cụ thể trên không phải là con đẻ cuả kinh nghiệm cá nhân, hay
kinh nghiệm của riêng một thế hệ. Nó được truyền đạt từ thế hệ trước sang thế hệ sau, cứ thế
mà được giữ gìn qua thời gian lâu dài theo cơ chế tinh lọc. Vì vậy nó mở ra cánh cửa để
khám phá con người và nền văn hóa ở từng vùng, miền, quốc gia, sắc tộc khác nhau.
Văn hóa vốn là một hiện tượng vừa phổ biến vừa mang tính cá biệt. Nó phổ biến với
tính chất ở đâu, con người cũng được xem xét trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, cách
ứng xử của anh ta “xuất phát từ một hệ thống những nguyên lý trừu tượng của cái thế giới ý
niệm mà anh ta tiếp nhận một cách gần như tự nhiên” [90, tr. 97]. Tuy vậy, “cá biệt” vẫn là
một thuộc tính đậm nét. Mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc có sự lựa chọn riêng, biểu hiện
thành lối sống, khí chất riêng làm nên cái “bản sắc” của mình. Nước Nga và Việt Nam có
khoảng cách xa về mặt địa lý, hai gương mặt văn hóa phương Tây – phương Đông, có dáng
vẻ, hình hài riêng nhưng giữa chúng lại có nhiều nét gần gũi, tương đồng. Văn hóa Việt Nam
chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông còn văn hóa Nga có nền tảng là tư
tưởng triết học phương Tây. Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông Tây là tĩnh, ổn định
đối nghịch với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết
học chặt chẽ thống nhất thành hệ thống của Tây. Theo thống kê, triết học phương Tây thiên
về hướng ngoại, chủ động, tư duy lí luận, đấu tranh sống còn, cạnh tranh, chú ý nhiều đến
thực thể... Trong khi đó khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động,
trực giác huyền bí, hòa hợp, chú ý nhiều tới quan hệ... Trong quá trình tiếp nhận văn hóa, có
thể nói nguồn mạch linh hồn của Việt Nam chính là gốc rễ văn hóa bản địa kết hợp với văn
hóa Trung Quốc và Ấn Độ, tiếp thu có chọn lọc tinh duy linh của Ấn Độ, tính duy lý của
Trung Quốc nhưng văn hóa Việt Nam lại thiên về duy tình. Quả thật cái tinh hoa trong cốt
cách của người Việt chính là tấm lòng nhân ái, vị tha. Vốn bắt rễ từ mạch nguồn văn hóa dân
tộc Việt, những truyện ngắn của Thạch Lam nồng đượm hương vị tình người. Đây cũng là
chỗ gặp gỡ thú vị về vẻ đẹp tâm hồn con người giữa truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn
Pauxtốpxki. Người đọc bắt gặp ở trang viết của Pauxtốpxki những tâm hồn Nga đồng điệu,
những con người vừa khác lạ, mới mẻ, lại vừa rất quen thuộc như chính mình vậy. Là nước
có diện tích lớn nhất thế giới, trải dài từ Âu sang Á, với tôn giáo chính là Nga chính thống
nên nền văn hóa Nga có nhiều điểm giao thoa với văn hóa phương Đông, trong đó có Việt
Nam. Đi tìm nét đẹp tâm hồn ẩn giấu trong những con người dung dị, đời thường, Thạch
Lam và Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc hành trình “về nguồn”, chắt chiu từng mảy bụi
vàng để gặt hái những vụ mùa trĩu hạt.
2.2. ... Trong thiên nhiên làng quê, tỉnh lị
Truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tái hiện chân thực gương mặt thiên
nhiên với nét “duyên” riêng của cảnh sắc làng quê, tỉnh lẻ. Người đọc bắt gặp trong văn
Thạch Lam những bức tranh làng cảnh Việt Nam: cảnh phố huyện miền hạ du, cảnh vùng
đồi trung du…; tập hợp những mùi vị quen thuộc của nông thôn Việt Nam: mùi rác bẩn, mùi
cát, mùi đất, mùi ẩm, mùi rác đốt, mùi lá tươi non phảng phất trong không khí, mùi bèo dưới
ao, mùi rạ ướt…; “những mảnh ruộng mạ non như nhung”, “những thửa ruộng nước sáng
lên như tấm gương”, những sân sắn, vườn chè, thềm gạch, gốc cau, sân đình, cây đa…
Trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, người đọc bắt gặp những mùi vị rất đặc trưng của thiên
nhiên, làng mạc Nga: mùi thìa là, mùi cát ướt, hơi lạnh của đêm khuya, mùi vỏ cây, mùi hắc
ín, hương những cây keo khô bị bắn gãy, mùi mái sắt ướt, mùi khói bạch dương thoang
thoảng, mùi bánh mì, mùi thuốc và ngải cứu, mùi hoa đoạn ngọt ngào… Khung cảnh vùng
thảo nguyên, bình nguyên, vùng biển với những tỉnh lị Nga xa xôi, những cánh đồng, bến
phà, khu rừng bạch dương trắng bạc… tất cả hiện lên sống động, xôn xao trên trang viết của
Pauxtốpxki.
Mặt khác, Pauxtốpxki đã nắm bắt và tạo dựng đúng cái “thần thái” của tỉnh lị Nga với
nét đìu hiu, tĩnh lặng, đẹp mà buồn. Nơi đó, “từ sáng sớm đến lặn mặt trời, lũ quạ kêu quàng
quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi, báo hiệu trời xấu” [65, tr.
275], hay “ngày trắng ra và bầu trời khô khan, sáng nhưng xám, như có ai căng ở trên đầu
một mảnh vải gai giặt sạch, cứng đơ vì băng giá” [65, tr. 346]. Bức tranh tỉnh lị có nét dịu
dàng tiết trời vào thu, cái khắc nghiệt của mùa đông tuyết trắng, cái dữ dội của những cơn
gió nóng vùng Trung Nga. Những ngôi nhà bé nhỏ, những cánh cửa hàng rào kêu ken két,
những buổi tối vắng lặng, những đêm mưa bụi, con đường rộng bò lên núi, chiếc xe chở rơm
trên những chuyến phà, cánh đồng quê bát ngát hương hoa, một đại dương vô tận lúa mì…
Những nét chấm phá đó đã tái tạo nên gương mặt thiên nhiên làng mạc Nga thật nên thơ,
quyến rũ. Riêng cái chất u buồn, trầm lắng của các tỉnh lị, tự thân nó đã mang một vẻ đẹp rất
Nga. Thơ Êxênin từng nhắc đến vẻ đẹp trong sáng mà đượm buồn đó:
“Ôi nước Nga, cánh đồng màu thắm đỏ
Và màu xanh ngả xuống những dòng sông
Tôi yêu đến sướng vui và đau khổ
Nỗi buồn thương hồ nước trải mênh mông” 1
Bước vào những trang văn của Pauxtốpxki, người đọc bắt gặp một thế giới của tuyết
trắng. Có thể nói, Pauxtốpxki đã mở ra trong truyện ngắn của mình cả một bảo tàng về tuyết.
Tuyết có mặt ở khắp mọi nơi: tuyết trên nóc toa chở hàng (Âm nhạc Vécđi), tuyết chảy trên
mõm ngựa nóng hổi (Suối cá hương), tuyết rắc trên các đỉnh núi (Cầu vồng trắng), tuyết tan
trên mặt người hòa lẫn với nước mắt (Bức điện), tuyết thành những giải trắng rũ rượi sà
xuống trên mặt biển (Chữ đề trên tảng phiêu nham)… Tuyết tồn tại dưới nhiều trạng thái:
tuyết ướt, tuyết già, tuyết khô, tuyết tan thành giọt…; màu sắc: “tuyết trắng xóa cả bình
nguyên” (Bình nguyên tuyết phủ), “tuyết trên núi Kalimangiarô cũng nhuốm màu xanh chàm
của nó (Nghiên cứu bản đồ địa lí), “tuyết giống như bạc xỉn trải dài trên những cánh đồng
bên ngoài thành phố” (Gió Xôrănggiơ), “tuyết trong rừng đen lại” (Chiếc nhẫn bằng
thép)…; kích thước: “những đám tuyết dày”, “đêm Châu Á vun tuyết thành đống giữa các
toa xe”, “những bãi tuyết và những khu vườn cứng lạnh” (Cầu vồng trắng), “mưa tuyết rơi
chậm rãi” (Suối cá hương), “bụi tuyết còn quay cuồng trong không khí”, “gió tuyết rơi mù
mịt”, “bão tuyết quay cuồng trên những mái nhà” (Chiếc nhẫn bằng thép), “qua bức màn
tuyết còn nghe tiếng sóng ầm ầm” (Ông lão trong quán điểm tâm ngoài ga)…Tuyết xuất
hiện với dáng vẻ, tư thế thật đa dạng: “từ những ngọn thông vòi vọi, tuyết không ngừng bay
xuống như những món tóc dài và tan ra thành bụi” (Chữ đề trên tảng phiêu nham), “tuyết
phủ đầy trên các cành cây cổ thụ, trên hàng rào và cả đường dây điện thoại” (Cầu vồng
trắng), “tuyết rơi lao xao trượt từ trên mái nhà xuống” (Chiếc nhẫn bằng thép), “những
bông tuyết bay chênh chếch cố bám lấy ngọn cây” (Lẵng quả thông); lúc dữ dội: “bay tung
làm mờ cả mắt”, “quay cuồng trên các mái nhà”; lúc u buồn: “hương tuyết buồn thảm, thứ
không khí buồn và nhẹ như hương mộc lan”; lúc huyền ảo: “tuyết bồng bềnh”, “tuyết rơi
êm ả”, “tuyết lấp lánh một cách huyền ảo trong ánh sáng của những vì sao lung linh”; lúc
đẹp rực rỡ: “những bông hoa điểm tuyết trắng rung rinh chào đón bình minh”, “đường phố
to rộng sáng chói như được xé từ những đống tuyết lấp lánh muôn vàn hình sao tuyết”… Cái
lạnh giá, khắc nghiệt của tuyết không thể làm đông cứng tình yêu của con người dành cho
nó, cho vẻ đẹp của sự thanh sạch, tinh khôi (Thậm chí họ còn “thèm được người ta vùi vào
tuyết” (Gió biển) [65, tr. 286]). Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Nga, được chuyển tải vào trang
văn của Pauxtốpxki với một sự đam mê xen lẫn tự hào.

1
Thơ Êxênin, sách Ngữ Văn 12, tập 2, chỉnh lí hợp nhất 2000.
Cùng với tuyết, hình ảnh của biển và những cánh rừng bạch dương cũng xuất hiện với
tần số cao trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki. Biển xuất hiện trong 11 truyện ngắn với
nhiều dạng vẻ: “Biển xám, lạnh và yên tĩnh. Bờ biển ngập trong bóng tối màu tro” [65, tr.
40]; “Nước biển bao la đang dần xanh lên màu da trời nhợt nhạt” [65, tr. 44]; “Đại dương
đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại sóng ầm ĩ không mỏi” [65, tr. 60];
“Hắc Hải lấp lánh bốc khói. Biển đuổi vào bờ hàng ngàn con sóng bạc đầu nho nhỏ” [65, tr.
70 ]… Ở mọi góc nhìn, mọi thời điểm trong ngày, biển đều có nét đẹp riêng: “Bình minh
mang đến màu đồng ảm đạm cho sóng” [65, tr. 368]; “trên vùng biển trời lặng gió, sương
chiều tỏa mờ” [65, tr. 239]; chân trời biển cả tuy đã về đêm vẫn sáng đến hàng chục hải lí
như hoàng hôn vừa đổ xuống” [65, tr. 245]. Biển là một sinh thể có hồn được con người kí
thác bao niềm nỗi: “Biển Bantich mùa đông hoang vắng và sầu tư [65, tr. 200]; “Hắc Hải
ầm ì một cách buồn thảm”[65, tr. 250]; “Bantich gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt
sóng lạnh giá như trong vạc dầu của quỷ sứ” [65, tr. 23] , “đại dương nổ tung và lay chuyển
mọi bến bờ” [65, tr. 358]… Khám phá vẻ đẹp của biển, Pauxtốpxki đã có dịp bày tỏ tình yêu
lớn của mình với một “người bạn” mà ông yêu thích từ thủa bé. Trong một chuyến theo cha
đến Nôvôrôsiích vào mùa xuân, cậu bé Pauxtốpxki đã bị biển mê hoặc: “Từ xa tôi có cảm
giác biển giống như một bức tường màu xanh lơ. Hồi lâu tôi không đoán ra đó là cái gì. Lát
sau, tôi thấy một cái vịnh màu lục, một ngọn đèn biển, tôi nghe thấy tiếng ầm ầm của một
con đập chắn sóng và biển cả đi vào tâm hồn tôi như một giấc mơ kì diệu, rất đẹp nhưng
huyền ảo” [66, tr. 47]. Mặt khác, biển đã gắn liền với tâm thức của người Nga. Với diện tích
lớn nhất thế giới, Nga có 2/3 đường biên giới là hải giới, phía Bắc và Đông tiếp giáp với hai
đại dương là Bắc Băng dương và Thái Bình Dương, tiếp giáp với nhiều biển trong đó có hai
biển nội địa là Hắc Hải và Lí Hải. Tâm hồn Nga luôn hướng đến cái rộng lớn, khoáng đạt.
Thiên nhiên trong truyện ngắn Thạch Lam là những bức tranh của làng cảnh Việt
Nam. Theo thống kê, có 18/33 truyện ngắn của Thạch Lam có sự xuất hiện của hình ảnh
đồng ruộng. Đây là nét nổi bật của một đất nước nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cảnh:
“ruộng mạ non phớt theo chiều gió” [44, tr. 114]; “Cánh đồng lúa xanh rờn hiện ra trước
mắt” [44, tr. 137]; “Cánh đồng lúa chín vàng dưới mặt trời buổi trưa. Từng chỗ, ở thửa
ruộng nào đã gặt rồi, gốc rạ lấp lánh như giọt bạc” [44, tr. 98]; “Trên quãng đồng rộng,
cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng hương thơm ngát” [44, tr. 196]… Gương
mặt mùa đông Việt Nam với đầy đủ dáng nét khắc khổ (mưa phùn, gió bấc, cái rét cắt da…),
khi bước vào trang văn Thạch Lam, nó lấp lánh vẻ đẹp của chất thực hòa quyện trong chất
thơ.
Ngoài ra, bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn của Thạch Lam tăng thêm nét duyên
dáng bởi sự góp mặt của cây tre Việt Nam. Nếu như người Nga có niềm kiêu hãnh về xứ sở
bạch dương của mình thì người Việt cũng tự hào về cây tre, loài cây tượng trưng cho cốt
cách dân tộc. Trong trang viết của Thạch Lam, tre là một nét chấm phá cho khung cảnh làng
phố, gợi vẻ đẹp gần gũi, thân quen: “Một cái cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai: Tâm
ngẩng đầu lên nhìn; chàng vừa đi vào dưới vòm tre xanh trong ngõ” [44, tr. 22]; “Dãy tre
làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” [44, tr. 149]; “Chàng nhìn trăng qua
cành lá tre, cành lá sắc và đen như mực vắt qua mặt trăng, như một bức tranh Tàu” [44, tr.
196]. “Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và cô
nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két” [44, tr. 210], “Cái vòng đen của rặng tre
làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc” [44, tr. 225]…
Với nhãn quan của một họa sĩ, nhạc sĩ bậc thầy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đã phát
hiện ở phố huyện, tỉnh lị đìu hiu vẻ thi vị, quyến rũ và chuyển tải vẻ đẹp đó vào trang văn
của mình với những bức tranh thiên nhiên chân thực, sống động bằng ngôn từ, có sự hòa
phối nhuần nhụy giữa thanh âm và hương sắc. Cảnh sống động, quyến rũ, có hồn bởi nó
được kí thác tâm hồn con người.
Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, không gian tĩnh mịch của tỉnh lị vào thời khắc “nửa
đêm” với bến vắng, mưa bụi, sương mù đã khơi gợi ở Kuzmin cảm giác cô đơn, lẻ loi xen
lẫn niềm yêu mến. Đặc biệt, đêm tối và tiếng mưa rơi trong những bụi cây đã trở thành
“người đệm đàn” cho những cung bậc tình cảm xôn xao trong lòng chàng và người thiếu phụ
Onga. Mưa trong bình minh, “bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông”, “mùi cát ướt,
hơi lạnh của đêm khuya” (Bình minh mưa) [65, tr. 321], khu vườn xao động khi gió kéo
qua… tất cả đã dệt nên một bầu không khí lãng mạn và dịu êm bao bọc lấy Kuzmin và Onga
trong cuộc chia tay đầy nuối tiếc. Một bức tranh giao thoa tối, sáng với cảnh vật thơ mộng,
nhuốm màu kì ảo và tiếng mưa rơi tựa bản nhạc không lời đã làm nổi bật một tình yêu lặng
lẽ mà dư ba. Cũng vào ban đêm, sương mù, không khí tươi mát với mùi lá liễu dịu ngọt đã
khơi gợi những xúc cảm mới mẻ ở cô sinh viên vừa tốt nghiệp: “Masa có cảm tưởng như
con tàu không rõ vì sao bỗng dưng mọc lên giữa mặt đất, giữa những bụi cây rậm rạp” (Cây
tường vi) [65, tr. 247]. Bản hợp xướng của tiếng hót chim họa mi, tiếng cá quẫy, tiếng tù và
mục đồng là khúc nhạc nền cho cảnh gặp gỡ tình cờ, thú vị giữa Masa và anh phi công. Bức
tranh cánh đồng quê rực rỡ, sống động thật hòa hợp với tâm trạng vui tươi, háo hức khám
phá điều mới mẻ ở họ. Những màu sắc được hòa phối khéo léo, tạo thành một bức tranh
tuyệt mĩ của vùng thảo nguyên. Ở đó, Pauxtốpxki như nhà họa sĩ tài hoa đã nắm bắt được cái
hồn của hoa cỏ và tạo nên những tuyệt tác của thiên nhiên:
“Hai bên đường, những cây tường vi mọc cao lút thành một bức tường dựng đứng. Hoa
tường vi nở còn ướt át, đỏ rực như những ngọn lửa, đến nỗi những tia nắng nằm trên vùng lá
bên những bông hoa tường vi cũng trở nên lạnh lẽo và nhợt nhạt hơn. Tưởng như những đóa
hoa tường vi đó đã vĩnh viễn đứt lìa khỏi những cành đầy gai góc và lơ lửng trên không như
những ngọn lửa nhỏ rực rỡ.
[…] Từng quãng một, những bụi tường vi lại cắt quãng bằng những bụi hoa cựa gà nở
rộ chĩa lên những bông hoa hình nến màu xanh sẫm gần như màu đen. Phía sau, cỏ và hoa
đủ các loại, quấn quýt vào nhau, lấp lánh gờn gợn như những làn sóng đầy nắng, cả một khu
vườn um tùm trăm hồng nghìn tía: xa trục thảo đỏ và trắng, hoa hồng tử thái, hoa cẩm quỳ
dại, ánh sáng rọi vào cánh hoa trong suốt hồng lên, hoa cúc trắng như tuyết và hàng trăm
thứ hoa khác mà cả hai đều không biết gọi chúng là gì” [65, tr. 254].
Bức tranh hoa đồng cỏ nội có thêm nét duyên dáng, sinh động bởi sự góp mặt của các
loài vật vùng thảo nguyên:
“Trong rặng tường vi, những con ong vàng vành đen cần mẫn bay vo vo.Thực vậy,
trong bầy ong giống như những dải băng ngắn của những chiếc mề đay Xanh Gioóc ngày
xưa. Và bọn ong này cũng dũng cảm như những chiến sĩ dạn dày chiến trận, chúng chẳng sợ
người, lại còn sẵn sàng gây gổ với người nữa.
[...] Những con cun cút phành phạch vụt bay lên từ mặt đất. Một con gà nước núp dưới
cái hốc ẩm ướt của một thân cây đã chết, cất tiếng kêu cùng cục, nhạo bác tất cả mọi chuyện
trên đời. Đàn sơn ca run rẩy bay lên không, nhưng tiếng hót của chúng lại không từ nơi
chúng đang bay lên mà như từ phía sông đưa lại” [65, tr. 254].
Quả thật, sự phối hợp, đan cài giữa chúng đã tạo nên bức tranh toàn cảnh tựa như một
kì quan của tạo hóa.
Ở Gió biển, trong phút giây bối rối vì hạnh phúc, ngỡ ngàng, cảnh được khúc xạ qua
tâm trạng của anh lính thủy thật lãng mạn:
“Sương mù đẫm nắng nằm trên Maxcơva. Mọi cửa sổ đều mở toang. Cái tươi mát của
ban đêm ùa vào những khung cửa sổ ấy. Buổi sáng ra đời trong ánh lấp loáng ẩm ướt của
trận mưa vừa qua. Trong buổi sáng này người ta đã cảm thấy trước một mùa hè dài, những
cơn mưa rào ấm áp, những buổi hoàng hôn trong suốt, những cánh hoa đoạn bay dưới
chân” [65, tr. 289].
Trong Cầu vồng trắng, lúc Pêtrốp cô đơn, cảnh thật ảm đạm, đìu hiu: “Dãy núi Alatao
đứng sững ở phía nam thành phố như một bức trường thành màu xám. Tuyết đã rắc lên các
đỉnh núi. Buổi tối trong những căn nhà đều giá lạnh, im lìm và tối tăm”, “ban đêm vừng
trăng nhô lên trên những rặng thùy dương trơ trụi và trong ánh sáng chói chang, thành phố
có một vẻ gì dữ dội” [65, tr. 324]. Còn trong niềm hạnh phúc vô biên khi chạm tay đến tình
yêu, cảnh bỗng chuyển đổi đầy thơ mộng: “Và vùng sáng xanh biếc của những vì sao mọc
trên đỉnh núi nối đuôi nhau thành chuỗi dài lấp lánh” [65, tr. 331]. Ở Bình nguyên tuyết phủ,
ngay từ những dòng đầu của truyện, cảnh vắng lặng, rợn ngợp bởi tuyết trắng, báo hiệu một
cuộc đời cô đơn, u buồn: “Đại dương đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại
sóng ầm ĩ không mỏi và Alan đã quen với tiếng sóng đến nỗi chàng không còn để ý đến nó
nữa. Ngược lại, sự yên lặng ở chung quanh đã làm chàng ngạc nhiên. Chàng có cảm giác
cùng với tuyết, yên lặng đang từ trên trời rơi xuống” [65, tr. 355]. Bóng tối và sắc trắng của
bình nguyên tuyết phủ đan dệt thành một khung cảnh kì ảo, êm đềm, làm dậy lên trong Alan
dòng tâm tư như những đợt sóng cồn
Cũng theo cơ chế ấy, truyện của Thạch Lam là những bức tranh xoay theo cái trục tâm
trạng của nhân vật. Đó là cảnh đẹp thần tiên của một đêm trăng vùng hạ du ở Nắng trong
vườn: “Trên mặt sông, một cơn gió mát hiu hiu thổi, tiếng sông róc rách vỗ vào mạn thuyền
như một thứ nhạc vui (…) Hai bên bờ sông, ruộng mạ non phớt theo chiều gió, nương chè
sắn thắm ở ven đồi, mờ dần đằng xa sau một làn sương nhẹ” [44, tr. 69]. Bức họa vùng quê
có sự đan cài giữa các điệu xanh của cây cối thể hiện một sức sống tràn trề và những thanh
âm trong trẻo, mộc mạc từ thiên nhiên. Cảnh làm nổi bật “cái tình yêu đang réo rắt trong
lòng nàng (nhân vật Hậu – người viết chú thích)” [44, tr.69] và cả nhân vật tôi. Hai đứa trẻ
mở đầu với bức tranh phố huyện chiều tối. Bức tranh ấy mở ra khung cảnh yên ả, thanh
bình:“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào” [44, tr. 149].
Tóm lại, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của tạo
hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái tạo
nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.
Ở phương diện nội dung tự sự, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc
lựa chọn hiện thực phản ánh là những cảm xúc mới mẻ, bất chợt của con người và cái đẹp
tiềm tàng, khuất lấp. Bằng sự nhạy cảm bản năng của người nghệ sĩ đích thực, Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã lắng nghe những vang động trong tâm hồn nhân vật và khắc họa một thế
giới nội cảm đa dạng, phong phú mà hết sức vi tế của con người.
Bên cạnh đó, ngòi bút của Thạch Lam và Pauxtốpxki hướng đến những con người dung
dị bình thường trong cuộc sống, khai quật vỉa quặng tâm hồn, lối sống của họ và trải lên
trang văn những nét đẹp sống động, bất ngờ. Pauxtốpxki đã phát hiện trong những con
người Nga chân chất, bình dị một tâm hồn đa cảm, thánh thiện, yêu cái đẹp, luôn hướng đến
những điều cao cả. Họ đại diện tiêu biểu cho tính cách Nga: nhân hậu, bộc trực, bao dung,
cao thượng. Thạch Lam phơi bày lên trang văn của mình vẻ đẹp kín đáo của tâm hồn Việt,
(nhất là vẻ đẹp của người phụ nữ): danh dự, nghĩa tình, triết lí sống dung hòa, cởi mở.
Sự giao thoa giữa văn hóa Việt và Nga đậm nhất ở lĩnh vực lối sống là cách ứng xử
đậm đà tình nghĩa của họ. Tình người được thăng hoa. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa
Việt Nam, văn hóa ứng xử của người Việt là trọng tình: “Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn
gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn đến người Việt Nam lấy tình cảm,
lấy sự yêu, sự ghét làm nguyên tắc ứng xử. Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài
hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính thì trong cuộc sống, người
Việt Nam sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì
tình được đặt cao hơn lí” [90, tr. 181]. Trong ứng xử hàng ngày với nhau, người Việt luôn
tâm niệm: “Một trăm cái lí không bằng một tí cái tình”, “Chín bỏ làm mười”, “Giơ cao
đánh khẽ”... Mặc dù chuộng sự bình đẳng, rành mạch, rõ ràng, trong ứng xử và quan hệ
giữa người và người, ta vẫn cảm nhận được ở con người Nga tấm lòng hào hiệp, đôi mắt hiền
từ, nhân hậu và trái tim đằm thắm yêu thương.
Mặt khác, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của
tạo hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái
tạo nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.
Chương 3
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ
PAUXTỐPXKI

Lí thuyết tự sự học hiện đại thường quan tâm, xem xét đến năm bình diện cơ bản của
nghệ thuật tự sự: Phương thức trần thuật (Chủ thể kể), Điểm nhìn trần thuật, Tổ chức cốt
truyện và tình huống, Ngôn ngữ trần thuật, Giọng điệu trần thuật. Chúng tôi sẽ lần lượt mô
tả, đối chiếu truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki theo mô hình trên nhằm tìm
ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự của hai nhà văn.
3.1. Phương thức và điểm nhìn trần thuật
Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành với một chủ thể kể nhất định. Đó là người
đứng ra kể lại câu chuyện và tổ chức các yếu tố khác loại vào trong chỉnh thể của cái nhìn và
sự thụ cảm. Vì vậy, đặc điểm tư duy, cá tính, cái nhìn, quan niệm của người trần thuật được
khắc ghi trong mỗi văn bản nghệ thuật.
Sử dụng một cách nghệ thuật hai phương thức trần thuật cơ bản 1, kết hợp với sự lựa
chọn điểm nhìn linh hoạt, Thạch Lam – Pauxtốpxki đã tạo ra cái “duyên” của lời kể, cách kể,
“thổi hồn” cho những truyện ngắn vốn không có chuyện.

3.1.1. Lối kể chủ quan


Theo thống kê, Trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, phương thức trần thuật
chủ quan chiếm một tỉ lệ đáng kể.
Phương thức trần thuật Phương thức chủ Phương thức
quan khách quan
Truyện Tần số Tỉ suất Tần số Tỉ suất
(truyện) (%) (truyện) (%)
Truyện ngắn Thạch Lam 13 39 20 61
Truyện ngắn Pauxtốpxki 14 35 26 65

(Bảng thống kê các phương thức trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki)

1
Lí thuyết tự sự học ghi nhận có hai hình thức trần thuật cơ bản từ trước đến nay: trần thuật theo ngôi thứ nhất (phương thức chủ
quan) và trần thuật theo ngôi thứ hai (phương thức khách quan).
Cùng sử dụng hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, ở truyện ngắn Thạch
Lam, Pauxtốpxki, sự tương đồng và khác biệt vẫn rõ nét. Chủ thể kể trong truyện ngắn
Thạch Lam, Pauxtốpxki trước hết là “tôi” – nhân vật trong câu chuyện kể. Đây là người tham
gia vào các sự kiện, biến cố của chuyện và kể lại một sự việc nào đó đã xảy ra trong quá khứ
với trường nhìn của chính mình. Độ lùi không lớn lắm về mặt thời gian tạo nên tính thời sự
cho câu chuyện. Dạng thức này ở Thạch Lam đã tìm được một lối biểu hiện chân thực dưới
lời của nhân vật (Một cơn giận, Sợi tóc). Ở đây, lối kể “chuyện trong truyện” (kể chuyện
kép) thường được bắt nguồn từ một cuộc chuyện trò, hàn huyên tâm tình như một duyên cớ
khơi gợi câu chuyện. Chẳng hạn, truyện Một cơn giận mở đầu với lời giới thiệu của người kể
chuyện giấu mình: “Một buổi tối mùa đông, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, trong một căn
buồng ấm áp. Tự nhiên trong câu chuyện, một người nói đến những cơn giận tự nhiên đến
tràn ngập cả tâm hồn ta và có khi gây nên cái kết quả không hay. Rồi mỗi người đều bày tỏ ý
kiến riêng của mình. Anh Thanh từ nãy đến giờ vẫn lặng yên, có vẻ trầm ngâm, cất tiếng
nói” [44, tr. 28]. Thế là từ đó, vai người kể chuyện được chuyển giao cho Thanh. Anh ta đảm
đương vai trò tường thuật câu chuyện từ đầu đến cuối với trường nhìn của chính mình.
Tương tự, ở Sợi tóc, sau lời mào đầu ngắn gọn: “Anh Thành nhỏm dậy, nghiêng mình chống
khuỷu tay xuống giường rồi bắt đầu nói với một giọng trầm và thong thả khiến người nghe
hiểu được hết các ý tứ của câu chuyện” [44, tr. 240], nhân vật Thành xuất hiện, trực tiếp kể
lại câu chuyện mà bản thân mình vừa trải qua. Nhân vật với điểm nhìn bên trong đã nghiêm
khắc mổ xẻ, phanh phui những mặt trái của tính cách, phẩm chất dưới sự phán xét của tòa án
lương tâm. Qua lời tự thú của nhân vật Thanh (Một cơn giận), Thành (Sợi tóc), người đọc
được chứng kiến sự vận động, va đập trong cõi sâu thẳm tâm hồn họ. Việc đặt điểm nhìn trần
thuật nơi nhân vật thường hình thành một phạm vi chủ quan cho tự sự, tạo nên tính tự nhiên,
chân thực cho việc bộc lộ những cảm giác ngỡ ngàng, sửng sốt cũng như những trạng thái
tâm lí phức tạp.
Hơn nữa, tư thế dẫn truyện này đã đem lại cho người đọc cảm giác tin cậy. Bởi chủ thể
kể là người am tường mọi hành vi của bản thân, anh ta kể về mình không phải với một nhân
cách toàn vẹn, tròn trĩnh mà bằng cả sự đớn hèn, ti tiện, nhỏ nhen. Vì vậy, việc kể chuyện
theo ngôi thứ nhất xưng tôi với điểm nhìn hướng nội là sự lựa chọn phù hợp nhất cho sự
phản tỉnh của nhân vật.
Hình thức này ở truyện ngắn Pauxtốpxki được thể hiện chủ yếu dưới dạng chủ thể kể
bộc bạch, giãi bày, chia sẻ những trải nghiệm thiết thực của bản thân về hoạt động sáng tạo
nghệ thuật. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, thành thật và giàu tâm huyết với văn chương.
Nếu người kể chuyện ở trang viết của Thạch Lam mang độ căng của những thao thức, dằn
vặt, những tấn kịch nội tâm sâu sắc qua những lời tự thú thì ở truyện ngắn của Pauxtốpxki,
chủ thể kể mang trong mình bầu nhiệt huyết sôi nổi, nhiệt thành với lời “tự bạch” chân tình.
Những đam mê, bốc đồng tuổi trẻ; những sở trường, sở đoản; thành công hay thất bại trong
hành trình nghệ thuật... tất cả đều được kể lại với trái tim trong sáng, hồn hậu. Điểm nhìn của
người trần thuật và nhân vật “tôi” “chập” làm một. Điều đó đã làm cho những truyện ngắn
này thoát khỏi nguy cơ giáo huấn một cách hời hợt, khô khan. Chẳng hạn, trong Những bông
hoa làm bằng vỏ bào, nhân vật “tôi” chia sẻ về những kỉ niệm khi mới bén duyên với văn
chương. Trong đó có niềm đam mê mãnh liệt với cái đẹp và cả “tính chuộng lạ”, ưa cái hào
nhoáng, hoa mĩ bề ngoài: “Phần lớn tuổi trẻ nghèo túng và thực ra rất cay đắng của tôi đã
qua đi trong những vần thơ và trong niềm xao xuyến mơ hồ. Sau đó tôi bỏ không làm thơ
nữa. Tôi hiểu rằng đó chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm bằng vỏ bào
nhuộm khéo, một thứ vàng mạ” [65, tr. 35]. Ở Những vết khắc trong tim, người kể chuyện
bày tỏ những chiêm nghiệm về thời thơ ấu. Dẫu có cay cực, gian khổ, nó đã góp phần dưỡng
nuôi tâm hồn của mỗi người: “Cùng với năm tháng những ấn tượng lúc thiếu thời tưởng đã
quên đi. Nhưng, tất nhiên, nó vẫn tiếp tục sống trong đáy sâu của kí ức tôi và thỉnh thoảng
lại trôi ra ngoài. Nhất là trong những lúc hạn hán. Chúng bao giờ cũng dấy lên trong lòng
tôi một nỗi lo lắng khó hiểu” [65, tr. 66].
Mặt khác, nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki còn là một
chứng nhân trong câu chuyện được kể. Nhân vật xưng tôi xuất hiện với tư cách là hình tượng
người trần thuật và có thể nhận xét, đánh giá, đối thoại trực tiếp với nhân vật, sự kiện trong
câu chuyện. Dạng thức này cho phép nhà văn tự biểu hiện bản thân một cách đầy đặn trong
tác phẩm. Anh ta sẽ kể lại câu chuyện theo trường nhìn của chính mình. Hình tượng người
trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam dù với nhiều dạng thức hóa thân: một công chức an
nhàn, trưởng giả (Người bạn cũ), một tri thức về thăm quê (Người lính cũ), anh học trò trọ
học (Tình xưa), một người có học (Người bạn trẻ)... thì họ vẫn luôn mang cốt cách của một
tri thức nhạy cảm, tự trọng, nhân hậu và giàu tình thương.
Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, hình tượng người trần thuật là một con người lãng du,
mải miết với cuộc hành trình khám phá cái đẹp. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, bằng những
trải nghiệm của bản thân đã trao truyền lại những kinh nghiệm quý báu cho thế hệ sau. Qua
hầu hết những truyện ngắn trong tập Bông hồng vàng (Chữ đề trên tảng phiêu nham, Hỏa
tinh, Trên thùng xe tải...), Pauxtốpxki đã định hình cho mình một chân dung tinh thần một trí
thức ham học hỏi, tìm tòi và có tinh thần nghiêm túc trong nghề nghiệp..
Lựa chọn lối kể chủ quan với phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, tác giả đã tạo
nên tính chất tâm tình, tri âm cho câu chuyện. Chuyện thường được kể dưới dạng những hồi
ức, kỉ niệm, vì vậy nó thấm đẫm chất thơ, đầy dư vị.

3.1.2. Lối kể khách quan


Đây là một phương thức trần thuật phổ biến, quen thuộc trong văn xuôi nghệ thuật. Ở
đây, người kể chuyện là “một người lạ” biết tuốt, am hiểu mọi việc và lường đoán được tất
cả. Điểm nhìn trần thuật được trao cho anh ta. Phương thức này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện
ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki. Nhà văn hóa thân, đặt mình vào vị trí người tham gia hoặc
chứng kiến sự việc trên cơ sở những ấn tượng, kỉ niệm đã đi qua trong cuộc đời. Vì vậy, dù
sử dụng lối kể khách quan, truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki vẫn mang dấu ấn tự thuật
đậm nét.
Dù nhà văn không trực tiếp, công khai đưa các yếu tố tự truyện vào truyện ngắn của
mình, người đọc vẫn có thể tìm thấy sự tương ứng nhất định giữa những trải nghiệm của nhà
văn và thế giới mà anh ta miêu tả. Những truyện ngắn của Thạch Lam như Gió lạnh đầu
mùa, Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa... được viết trên cơ sở kí ức và ấn tượng của
năm tháng ấu thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Bà Nguyễn Thị Thế (chị ruột của Thạch Lam) kể
lại rằng: “Vinh ưa cái áo đó lắm (cái áo dệt bằng tóc – chúng tôi chú thích) vì mặc ấm mà
không bẩn vì bụi đất dính vào chỉ đập mấy cái là sạch. Tuy quý cái áo như thế mà đến mùa
đông mặc nó, thấy con chị Lê bên hàng xóm rét run, cả ngáy không dám ra đường chơi, cứ
chúi vào ổ rơm nên Vinh đã cởi ra cho nó mặc” [3, tr. 343]. Thì ra chú bé Sơn với tấm lòng
trắc ẩn, thơm thảo là hình bóng của tác giả, và để xây dựng tác phẩm thì những kỉ niệm tuổi
thơ đã đóng vai trò quan trọng biết nhường nào. Trong Hai đứa trẻ, hình bóng tác giả lại là
chú bé An ngây thơ, nhạy cảm. Cái bối cảnh nửa làng nửa phố nhiều lần trở đi trở lại trong
văn Thạch Lam chính là cái mảng sống ông từng trải và gắn bó máu thịt, am hiểu kĩ lưỡng.
Vì vậy, nguyên tắc giấu mình trong trần thuật khách quan thường được Thạch Lam ít coi
trọng. Nhà văn luôn tìm cách để bày tỏ thái độ, cảm xúc của mình.
Những truyện ngắn trong tập Bình minh mưa, theo sự tiết lộ của Pauxtốpxki trong tập
Bông hồng vàng, được ông “thai nghén” từ những người thật việc thật mà ông đã gặp gỡ trên
đường đời. Ở đây những ấn tượng về đời sống hay các biến cố mà nhà văn đã kinh qua đã trở
thành căn rễ và ngọn nguồn của những sáng tạo nghệ thuật. Chẳng hạn, truyện ngắn Bức
điện đã được hình thành từ quãng thời gian nhà văn sống ở làng quê Riazan. Những nhân
vật, tình tiết chính trong truyện đều có nguồn gốc từ những điều nhà văn đã chứng nghiệm:
“Tôi (Pauxtốpxki) (chúng tôi chú thích) ở trong nhà của một nghệ sĩ khắc gỗ nổi danh một
thời là Pôgialôxtin. Ở đó còn bà lão già yếu và hiền hậu Katêrina Ivanốpna, con gái nhà
điêu khắc. Bà lão đã gần đất xa trời. Người con gái của bà là Naxchia ở Lêningrát đã quên
hẳn mẹ. Nàng chỉ gửi tiền về cho bà lão, hai tháng một lần” [65, tr. 90]. Tuy vậy, nội dung
tự truyện không trùng khít với những chi tiết, biến cố trong cuộc đời nhà văn mà nó rộng
hơn, bao gồm cả những kinh nghiệm sống, tư tưởng, tình cảm, cá tính… của bản thân tác
giả. Chính Pauxtốpxki cũng “thú nhận”: “Không phải những gì tôi đã thấy và đã suy nghĩ lại
lúc ấy đều được đưa vào ‘Bức điện’. Chuyện đó thường xảy ra” [65, tr. 96]. Vận dụng sáng
tạo hình thức kể chuyện theo phương thức khách quan, gửi gắm vào đó ít nhiều những yếu tố
có tính chất tự truyện, Pauxtốpxki (cũng như Thạch Lam) muốn giãi bày, giao tiếp với người
đọc những vấn đề trong cuộc sống thông qua những trải nghiệm thiết thực của bản thân. Dù
đã tránh “xuất đầu lộ diện” thì hình bóng, tâm hồn của tác giả vẫn đầy ắp sau mỗi trang văn.
Trong lối kể khách quan, Thạch Lam, Pauxtốpxki thường gửi điểm nhìn sang nhân vật.
Trong đa số trường hợp, chủ thể kể vô hình làm công việc giới thiệu bao quát và nhân vật
làm tiếp công việc còn lại. Do vậy, từ hướng ngoại, điểm nhìn dần di động vào thế giới nội
cảm của nhân vật, khơi mở những tầng sâu của tâm trạng. Chẳng hạn, ở truyện Hai đứa trẻ,
phần đầu được kể theo quan điểm người trần thuật, phần sau được nhìn theo cái nhìn của hai
đứa trẻ, cái nhìn ngây thơ, vô tư của tâm hồn trẻ thơ trước một vũ trụ già. Chuyến tàu đêm đi
qua phố huyện đã đánh thức những khao khát, ước vọng ở chị em Liên: “Chuyến tàu đêm
nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà
Nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” [44, tr. 156]. Trong Cô hàng
xén, chủ thể kể giới thiệu lai lịch, gia cảnh của Tâm, sau đó điểm nhìn được chuyển sang cho
cô. Người con gái đảm đang này nhìn thấu cả cuộc đời mình – một sự tự ý thức và xót xa cho
thân phận: “Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến
tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ” [44, tr. 225].
Truyện của Pauxtốpxki thường bắt đầu với cái nhìn của chủ thể (tác giả), sau đó là cái
nhìn của trẻ thơ (Chiếc nhẫn bằng thép, Vườn nhà bà), của cô gái đang hạnh phúc (Lẵng quả
thông, Âm nhạc Vécđi), của chàng trai hay cô gái đang yêu (Cầu vồng trắng, Tuyết)... Với cái
nhìn của Xônxeva, cô gái đang “được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự” từ tình cảm nồng
hậu của những chiến sĩ trẻ, khung cảnh chung quanh trở nên đẹp lạ thường: “Ánh đèn lung
linh tỏa tới tận đáy vịnh. Nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những dòng nước
nóng không nhìn thấy. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lí
như hoàng hôn mới vừa đổ xuống” [65, tr. 245]. Cái nhìn lạc quan, yêu đời của anh sĩ quan
Pêtrốp đã phủ lên cảnh vật mùa đông vẻ thơ mộng: “Dãy núi Alatao tỏa sáng về thành phố
qua lớp băng xanh lam tinh khiết. Đôi khi đất lở trên triền núi và bụi trắng bốc mù
lên.những con la đủng đỉnh trên phố lắc lư đôi ta cứng lạnh. Nước óc ách trong các hố băng
và những bông hoa đại cúc phủ đầy tuyết mịn xòe nở trong các thửa vườn nhỏ như những
bông hồng mùa đông khổng lồ” [65, tr. 330]. Ở Pauxtốpxki, yếu tố trữ tình ngoại đề được sử
dụng một cách đắc địa, hài hòa. Những lời bình luận trực tiếp, những đánh giá khoa học
nhưng thấm đượm cảm xúc đã tạo nên màu sắc trữ tình đậm đà, sâu lắng cho trang văn của
ông. Chẳng hạn, cuối truyện Hạt cát là lời bình của tác giả: “Vâng, truyện ngắn này chỉ có
thế. Trong đó không có ý nghĩa giáo dục gì, nhưng có lẽ nó có cái “hạt cát” duy nhất có
thể đem lại cho con người dù chỉ chút ít niềm vui và buộc họ phải mỉm cười, mà lần này
không phải tìm trong câu chuyện ngắn củn ấy một ý nghĩa sâu xa” [65, tr. 420].
Tóm lại, dù trần thuật theo phương thức khách quan hay chủ quan thì dấu ấn cá nhân,
diện mạo tinh thần, tâm hồn, máu thịt của nhà văn vẫn in đậm trong từng trang văn. Mỗi tác
phẩm là một sự hóa thân đầy tâm huyết. Từ bỏ lối kể chuyện mang màu sắc trung tính, chung
chung, dung nạp thêm các yếu tố cảm xúc, tình cảm, trải nghiệm cá nhân mang tình chủ quan
đã tạo cho chủ thể trần thuật một diện mạo và cá tính riêng. Việc chuyển đổi linh hoạt các
điểm nhìn hợp lí với mạch truyện. Ở truyện ngắn của Thạch Lam, điểm nhìn của tác giả
thường được chuyển sang điểm nhìn của các bà, các cô, những người phụ nữ có hoàn cảnh
bất hạnh nên trong giọng văn có âm điệu bi ai, xót xa. Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki là cái
nhìn của trẻ thơ, của các chàng trai, cô gái thanh niên trẻ trung nên giọng văn thường mang
âm điệu lạc quan, tin tưởng.
3.2. Tự sự phi cốt truyện
3.2.1. “Giải phóng” cốt truyện
Một trong những yếu tố làm nên nét riêng của truyện ngắn so với các thể loại văn xuôi
tự sự khác là ở sự đa dạng của cốt truyện. Cốt truyện của truyện ngắn có khi li kì, gay cấn, rõ
nét với đầy đủ các phần theo truyền thống như: trình bày, khai đoan (thắt nút), phát triển,
đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút); có khi mờ nhạt hoặc thậm chí không có.
Sự kiện, biến cố vốn là chất liệu chính để tổ chức cốt truyện ở tác phẩm tự sự truyền
thống. Chúng thường được liên kết theo quan hệ nhân – quả, tập trung vào xung đột trọng
tâm, vươn đến đỉnh điểm, hướng tới kết thúc, nhằm bộc lộ tính “cố sự”. Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã có sự đổi mới về cách thức tổ chức, sắp xếp các sự kiện, biến cố nhằm “giải
phóng” cốt truyện kể việc bằng cốt truyện tâm lí.
Việc “mã hóa” cốt truyện theo cơ chế “phi cốt truyện” không chỉ đòi hỏi yếu tố kĩ
thuật mà còn có cả sự nhạy cảm, tinh tế của nhà văn. Ở đây, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã
chọn giải pháp “hòa giải” các mâu thuẫn, xung đột bằng đời sống nội tâm phong phú, phức
tạp của nhân vật. Thế giới đời sống hiện thực vào tác phẩm ở đây đã được nội cảm hóa.
Chức năng chủ yếu của cốt truyện là bộc lộ trạng thái tâm tưởng. Bởi một khi trung tâm
hứng thú của câu chuyện là thế giới cõi lòng của con người thì cốt truyện chỉ có vai trò mờ
nhạt, là tiền đề khiêu khích các sự kiện nội tâm xuất hiện. Các trạng thái tâm tưởng trong
truyện của Thạch Lam thường là sự bừng thức của lương tri (Một cơn giận, Sợi tóc), sự phản
tỉnh (Những ngày mới, Dưới bóng hoàng lan, Buổi sớm), sự thanh lọc tâm hồn khi trở về
làng quê (Cô hàng xén, Dưới bóng hoàng lan, Trở về, Tối ba mươi), suy tư về hạnh phúc
đích thực: tiền bạc hay con cái, tinh thần (Cái chân què, Đứa con)... Còn ở truyện ngắn của
Pauxtốpxki , đó là sự suy tư về lẽ sống, về tình yêu, về nghệ thuật (Bông hồng vàng, Hạt cát,
Âm nhạc Vécđi, Một món quà, Tuyết, Bình minh mưa, Cầu vồng trắng…), niềm vui (Lẵng
quả thông, Đám đông trên đại lộ bờ biển, Gió biển, Cuộc phiêu lưu của bọ sừng…).
Truyện ngắn Thạch Lam không cần đến những sự kiện lớn lao, những kịch tính hay
tình huống khác thường. Tất cả được dệt nên từ những việc thông thường, nhỏ nhặt, cỏn con
từ chất liệu dung dị của đời sống hàng ngày. Thạch Lam đã khéo léo lựa chọn những thời
khắc lóe sáng, làm bùng lên ngòi nổ của tâm tư: một buổi sớm mai mát mẻ, trong lành
(Buổi sớm); một đêm giao thừa ở căn nhà xăm lạnh lẽo (Tối ba mươi); một cơn gió đầu mùa
se lạnh, rét mướt (Gió đầu mùa); một chuyến tàu đêm đi qua phố huyện (Hai đứa trẻ); một
lần gặp lại người bạn tâm giao (Người bạn cũ)… Ông tìm thấy ở những sự vật đời thường
tưởng chừng như vặt vãnh ấy một thế giới muôn màu những cảm xúc, những khát vọng,
những buồn vui, những mơ ước…
Buổi sớm là câu chuyện ít ỏi “sự kiện”, cốt truyện mờ nhạt và khó mà kể lại cho rành
rọt. Bối cảnh của buổi sớm mai với không khí trong lành và âm thanh quen thuộc của cuộc
sống sinh hoạt thường nhật ở một chốn quê đã đánh thức ở Bính, con người một thời lầm lạc,
những xúc cảm tươi đẹp và rung cảm tinh tế trước cuộc đời. Chàng ý thức được trách nhiệm
của mình trước cuộc sống và cảm thấy thương mẹ – người mẹ già đã nhiều lần khóc vì con.
Chuyện xoay quanh hai “sự kiện”: thức dậy sớm, suy tư về quãng đời lầm lạc, cảm thấy
thương mẹ; bày thức dâng buổi sớm lên bàn thờ gia tiên.
Dưới bóng hoàng lan là chuyện của tâm trạng. Khung cảnh bề ngoài với ngôi nhà tuổi
thơ rợp bóng mát, mùi hoàng lan thoang thoảng… là “chất xúc tác” làm dấy lên những tình
cảm phong phú bên trong của nhân vật Thanh, đặc biệt là lòng kính yêu người bà tổ mẫu và
tình yêu mới chớm với cô bạn láng giềng. Tóm lại, truyện xoay quanh ba “sự kiện”: trở về,
cảm giác mát mẻ; gặp lại, ngọt ngào, đầm ấm; ra đi, lưu luyến, vấn vương.
Hai đứa trẻ cũng là một truyện ngắn “phi cốt truyện”. Chuyện kể về chị em Liên, tuy
buồn ngủ ríu cả mắt nhưng đêm nào cũng cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.
Cùng với nỗi chờ đợi, thao thức là những hoài vọng về quá vãng, những khao khát thay đổi ở
tương lai. Câu chuyện bình thường nhưng gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi tính chất tù
đọng, mòn mỏi, tối tăm trong cuộc sống của người dân nghèo. Có ba “sự kiện” được huy
động trong truyện: buồn trước giờ khắc của ngày tàn; buồn trong đợi chờ, hoài niệm; buồn
sau khi ngắm chuyến tàu đêm đi qua.
Ở những truyện ngắn kể về một việc có đầu có cuối (Một cơn giận, Sợi tóc) hay có
dung lượng bao trùm cả đời người (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn trẻ, Một đời
người…), sức hấp dẫn của câu chuyện không nằm ở cốt truyện mà là thế giới nội tâm phức
tạp, đa dạng của nhân vật và năng lực thẩm mĩ tinh tế của nhà văn.
Cũng theo xu hướng sáng tạo trên, truyện của Pauxtốpxki thường gọn nhẹ, thưa
thoáng các “sự kiện”, thậm chí vắng mặt các xung đột, mâu thuẫn. Ông viết về những
chuyện cỏn con mà ý nghĩa, sức lay gợi của chúng rộng lớn vô cùng. Phần lớn những chuyện
viết về hoạt động lao động của nhà văn, cốt truyện dường như là cái cớ để Pauxtốpxki có thể
liên hệ, lồng ghép một cách thoải mái những suy tưởng, chiêm nghiệm bất ngờ, đa chiều ở
những đoạn trữ tình ngoại đề. Chẳng hạn, câu chuyện anh thợ hốt rác thành Pari gom nhặt
bụi vàng để đúc cho người con gái anh yêu một bông hồng đã gợi cho Pauxtốpxki những liên
tưởng thú vị:
“[…] Bông hồng vàng của Samét! Đối với tôi có phần nào là hình tượng tương lai của
hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật là lạ lùng khi chẳng có ai chịu bỏ sức lao động của
mình ra nghiên cứu xem từ những hạt bụi quý ấy đã phát sinh ra nguồn văn học sinh động
như thế nào
Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ hót rác già kia làm ra là để cho
Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu
gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh
trí tuệ chiến thắng bóng tối cho chúng rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt” [65, tr.
20]. Quả là, đóng vai trò quan trọng trong truyện ngắn của Pauxtốpxki không phải là bản
thân cốt truyện mà thường là các nhân tố ở ngoài nó.
Mặt khác, trong các truyện ngắn của mình, cái mà Pauxtốpxki tìm tòi không phải là
cốt truyện mà chính là sự tự biểu hiện của bản thân. Ông đã mở rộng khả năng của truyện
ngắn trữ tình bằng việc phá bỏ cái khung chật hẹp của thể loại, dung nạp vào đó cái kích
thước tối ưu của sự tự biểu hiện. Vì vậy, truyện của ông rất gần với thơ, không cốt truyện li
kì, không nhân vật có tính cách độc đáo.Và trong nhiều trường hợp, chúng có sai số không
nhiều so với tùy bút, tiểu luận. Chẳng hạn, Pari chốc lát có hơi hướng của một tùy bút – thơ.
Truyện kể cuộc dạo chơi Pari của tác giả, mỗi bước chân ông đi qua, một thế giới những điều
mới mẻ, tươi đẹp hiện ra. Ông đã thoải mái bày tỏ tình cảm với Pari và lòng yêu Tổ quốc dào
dạt trong lòng mình. Tương tự, Đám đông trên đại lộ bờ biển lại kể về chuyến đi đến nước
Ý. Cuộc hành trình này đã được nhân vật “tôi” ghi lại bằng cảm xúc phấn khởi, vui tươi và
niềm xúc động sâu sắc khi bản thân ông đã đem lại niềm vui to lớn cho một đứa trẻ và những
người dân nơi đây. Ông đã trao con búp bê matơriôska cho một bé gái người Ý và nhận được
lòng biết ơn vô bờ của cô bé cùng những người dân bản địa nơi đây, những người có dịp
chứng kiến một nghĩa cử cao đẹp. Những truyện ngắn khác của Pauxtốpxki cũng hấp dẫn bởi
những dòng cảm xúc bề bộn, ngồn ngộn ấy.

3.2.2. Dựng tình huống truyện


Tình huống (còn được gọi là tình thế) là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra với
nhân vật, đặt trong cảnh huống đó nhân vật buộc phải thể hiện thái độ, hành động và có giải
pháp cụ thể. Nguyễn Minh Châu, một bậc thầy về truyện ngắn đã có những kiến giải sâu sắc
về vấn đề này: “Tình thế không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái
cớ chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương dựa vào
nhan đề, thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho
cây bí leo lên mà ra hoa trái” (dẫn theo [89, tr. 115])
Ở truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki, một khi cốt truyện bị đẩy xuống hàng thứ yếu
thì vai trò “chỗ dựa” của câu chuyện được chuyển sang cho tình huống truyện. Ở đây, tình
huống không nhằm thúc đẩy, phát triển hành động của nhân vật mà thường đóng vai trò khơi
nguồn, dẫn dắt cũng như việc lí giải nguồn cơn của tâm trạng, những chuyển biến phức tạp
của cảm xúc, cảm giác ở nhân vật.
Điểm tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong tạo dựng tình huống truyện là
việc sử dụng thật đắc địa tình huống khơi mở tâm lí. Điều cốt yếu của tình huống này là tạo
được một bối cảnh, một không khí, một duyên cớ phù hợp bao quanh nhân vật nhằm khơi
gợi mạch nguồn tự sự, để tâm trạng, xúc cảm của nhân vật được bộc lộ, phơi bày. Dạng thức
phổ biến nhất là những khoảnh khắc, nhát cắt dồn nén chất nổ của bao cảm xúc, suy tư hay
tiềm ẩn những khả năng tâm lí bất ngờ.
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều chọn khoảnh khắc “gặp gỡ” để thâu thái bao xung
động tâm lí căng, “nhạy”, gửi gắm bao ý tình. Với Thạch Lam, đó là những cuộc gặp gỡ
thoáng qua nhưng lại là “chất xúc tác” cho việc biểu lộ những chiêm nghiệm, suy tư ở nhân
vật. Chẳng hạn, cuộc gặp gỡ trên tàu giữa Thành và một cô gái xa lạ là điểm khởi đầu cho
bao trăn trở ở anh chàng văn sĩ đa cảm (Cuốn sách bị bỏ quên). Bất chợt chứng kiến thái độ,
hành động đúng mực, lịch sự của người phụ nữ phương Tây, nhân vật “tôi” xúc động, cảm
thương rồi suy nghĩ về cách đối xử phù hợp với những người ngoại quốc chân chính (Người
đầm). Tình cờ gặp lại người bạn cũ (Người bạn cũ) hay bỗng chốc với mảnh đời xa lạ
(Người lính cũ) cũng là tiền đề để nhân vật “tôi” phơi bày trạng thái nội tâm tiềm ẩn của
mình…
Với Pauxtốpxki, giây phút hội ngộ bất ngờ giữa hai nhân vật đã trở thành một môtíp
phổ biến trong hầu hết các truyện ngắn của ông. Khoảnh khắc gặp gỡ bất ngờ giữa anh chàng
phi công và cô gái trẻ Masa trong Cây tường vi đã để lại thật nhiều dư vị, để rồi nó vẫn đồng
hành với những giấc mơ của cô gái:“Những bụi cây tường vi sum suê ướt đẫm sương đêm.
Trời hoàng hôn. Trăng non dịu dàng giống như chiếc lưỡi liềm bạc của một cô thợ gặt nào
đó bỏ quên trên nền bức rèm xanh biếc nhạt của đêm khuya. Cảnh vật tĩnh mịch và lòng nhẹ
lâng lâng đến nỗi Masa cười thành tiếng ngay trong giấc ngủ” [65, tr. 260]. Những xúc cảm
của buổi ban đầu đầy lưu luyến ấy đã dẫn đường cho họ gặp lại nhau. Cuộc trùng phùng tựa
như một bản tình ca lãng mạn, đánh dấu sự nảy mầm của hạt giống tình yêu đã được ươm
gieo. Ở Gió biển, sự vô tình hay lối dẫn dắt của định mệnh đã khiến người thiếu phụ bước
lên tầng tám xem bắn pháo hoa. Tại đây, cô nghe được câu chuyện kì lạ của anh lính thủy
năm xưa. Họ có một cuộc gặp lại thật ngọt ngào. Trong Lẵng quả thông, thời khắc mà nhà
soạn nhạc nổi tiếng Êđua Grigơ gặp Đanhi, con gái ông gác rừng, đã trở thành nốt nhạc xao
xuyến mở đầu bản hòa âm tuyệt mĩ mà Đanhi được nhận năm mười tám tuổi. Còn biết bao
cuộc gặp gỡ bất ngờ khác là khởi đầu cho các mối quan hệ tình cảm như trong Bông hồng
vàng, Suối cá hương, Chú bé chăn bò, Cầu vồng trắng… Những khoảnh khắc bất chợt ở đây
như những tia chớp lóe sáng trong cuộc đời nhân vật, chúng làm đổi thay hay chí ít cũng
tăng thêm hương sắc cho cuộc sống của họ. Chúng có tính chất ngẫu nhiên, trùng hợp đến lạ
kì như có sự sắp đặt của bàn tay số phận. Xây những những khoảnh khắc gặp gỡ bất ngờ, thú
vị này, Pauxtốpxki đã gieo vào lòng người đọc niềm tin bất diệt vào cuộc đời, rằng nó vẫn
luôn tiềm tàng những điều bí ẩn diệu kì.
Nếu như Pauxtốpxki thường sử dụng những khoảnh khắc như tiêu điểm thu gọn để
khơi mở cảm xúc, cảm giác thì ở một dạng thức phức tạp hơn, Thạch Lam lại sử dụng những
tình huống tâm lí. Các quá trình và trạng thái tâm lí ở đây được thể hiện như một thực thể
sống động, biến thiên đa chiều, mong manh khó lường. Chẳng hạn, ở Cuốn sách bị bỏ quên,
tâm trạng của Thành thật phức tạp, có những chuyển biến mau lẹ khiến người đọc phải sửng
sốt, ngỡ ngàng. Đang đặt nhiều hi vọng vào cuốn sách mới xuất bản, Thành nhận được phản
hồi nó ế ẩm. Chàng buồn rầu chán nản rồi nhanh chóng vui tươi trở lại với ý nghĩ: “Sự lãnh
đạm của công chúng nhiều khi là cái dấu hiệu của một tài năng xuất chúng, không được
người ta hiểu, vì vượt ra ngoài khuôn sáo thường” [44, tr. 174]. Ở trên tàu, khi người thiếu
nữ lạ mặt lấy sách ra đọc, nhận ra sách của mình, lòng Thành phơi phới hi vọng. Chàng bàng
hoàng, sung sướng, hồi hộp, tưởng tượng ra sự ngưỡng mộ của cô gái nếu biết chàng là tác
giả. Sự đau khổ, ngờ vực trở lại với Thành khi chàng nhận ra người thiếu nữ kia đã để lại
cuốn sách trên ghế lúc rời tàu. Trong Đói, tâm hồn của Sinh cũng đầy biến động, day trở, bất
ngờ. Sinh đùng đùng nổi giận khi phát hiện ra những đồ ăn mà Mai đem về là do nàng bán
mình mà có. Chàng hất đổ chúng xuống sàn, đuổi vợ đi trong nỗi uất hận đỉnh điểm. Rồi cơn
giận dữ tan đi, chàng “thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột
gan” rồi “gục xuống bàn” [44, tr. 61]. Lúc tỉnh dậy, Sinh ăn ngấu nghiến những thức ăn
tung tóe dưới bàn theo bản năng bị cái đói dày vò. Sau đó chàng dần nhớ lại những gì đã xảy
ra, “một cái chán nản mênh mông ngập cả người” [44. tr. 62]. Tương tự, ở Một cơn giận,
Sợi tóc, Tình xưa… đều xuất hiện những động thái tâm lí nhiều mặt, biến chuyển nhanh
chóng đến không ngờ.
Mặt khác, nếu Pauxtốpxki tâm đắc với tình huống “ra đi” thì ở Thạch Lam, đó là
tình huống “trở về”. Sự trở về là kiểu tình huống đặt nhân vật sống lại với một quãng đời
đã qua với bao kỉ niệm, mộng ước. Trở về còn là sự đi tìm hoặc tìm lại một thế giới trong
lành, thanh sạch của tuổi thơ, của gốc gác cội nguồn. Vì vậy, có khi trở về con người được
“hồi sinh”, được tận hưởng cuộc sống hạnh phúc. Tân (Những ngày mới) sau khi từ bỏ thành
thị về chốn quê, đã tìm thấy niềm vui say trong cuộc sống và ý nghĩa của đời mình. Chàng
yêu công việc đồng áng, sống chan hòa với người dân quê, cùng gặt lúa, cùng uống bát nước
vối đượm hương. Tình yêu đời nảy nở mãnh liệt trong tâm hồn chàng. Thanh (Dưới bóng
hoàng lan) trở về với căn nhà tuổi thơ, với những cảnh vật đã quen thuộc nhưng biết bao yêu
mến...để được chìm đắm trong một thế giới đằm thắm tình người và đẹp như cổ tích và trên
hết là được hồi sinh.
Đôi khi, trở về lại gắn với cảm giác hụt hẫng, tiếc nuối vì thực tại đã đổi thay đến
chóng mặt so với quá vãng, chỉ còn nỗi than tiếc xót xa. Sau mười lăm năm trở lại chốn xưa,
nhân vật “tôi” trong Bên kia sông đã bàng hoàng với cảnh đổi thay dâu bể. Nơi xưa kia là
mảnh đất trù phú nay chỉ còn “một cảnh hoang tàn”. Cảnh khác xưa đến nỗi nhân vật “tôi”
đã “không dám đi xa nữa” vì mỗi bước chân qua là chạm đến những mất mát, đổ vỡ bởi một
thiên đường tuổi thơ đã không còn. Ở Đêm sáng trăng, Bóng người xưa, Trong bóng tối buổi
chiều, Tình xưa, tác giả đã đặt nhân vật trong những khoảnh khắc trở về để làm nổi bật sự
tương phản giữa thực tại và quá khứ, hôm qua và hôm nay. Đôi khi sự trở về khiến con
người thảng thốt tìm lại con người thật của mình (Người bạn cũ) hay đã thực sự đánh mất
chính mình (Trở về). Tuy vậy, tìm về với nguồn cội tinh thần trong sạch, con người có dịp
soi ngắm bản thân, phô bày cảm xúc, cảm hứng chung bao bọc nhân vật vẫn là vẻ đẹp của
tình người, tình đời. Trở về cũng là kiểu tình huống phổ biến trong văn học đổi mới sau 1986
ở Việt Nam. Nếu Thạch Lam là người khơi nguồn thì Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh
Châu, Vũ Thị Hồng, Hoàng Dân… tiếp tục và khơi sâu hơn dòng chảy “trở về” trong tâm tư
nhân vật. Chiến tranh đã đi qua nhưng con người vẫn tìm về với hồi ức một thời gian khổ và
hào hùng đó để tìm một điểm tựa trong cuộc sống thực tại. Sau chiến tranh, ông Thuấn trong
Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp trở về và đối diện với nỗi cô đơn ngay trong chính
ngôi nhà của mình. Trong cuộc sống thường nhật, vị tướng từng dọc ngang chinh chiến, chỉ
huy cả một đội quân vào sinh ra tử không thể nào chấp nhận được vị thế và những gì diễn ra
trong ngôi nhà, nơi người con dâu của ông mới đích thực là “tướng”. Ông lại khoác ba lô lên
đường, trở về với môi trường thân quen và chết oanh liệt nơi chiến trường. Tương tự, Lực
(Cỏ lau) của Nguyễn Minh Châu cũng là người lính trở về khi những trận đánh kết thúc và
đối diện với những mất mát, đổ vỡ không thể nào cứu vãn được. Người vợ hiền hết lòng yêu
anh đã có một gia đình yên ấm bởi chị đinh ninh chính tay mình đã chôn cất xác của người
chồng cũ (thực ra là một đồng đội của Lực). Còn nhiều cuộc đời tê tái như thế. Mấy chục
năm sau chiến tranh, Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) của Nguyễn Minh Châu
vẫn chìm trong cơn mộng du, lang thang trong những chuyến tàu tốc hành trong tâm tưởng
để trở về chiến trường xưa, gặp lại đồng đội và tìm lại trái tim mình. Tuân (Những giấc mơ
có thật) của Vũ Thị Hồng, cô thanh niên xung phong từng nổi tiếng là hoa khôi, cũng luôn bị
ám ảnh bởi tiếng gọi của một thời tuổi trẻ đã qua nơi chiến trường ác liệt. Những tác giả
truyện ngắn thời văn học sau đổi mới 1986 dường như thiên về lối viết theo sự gợi ý của trực
giác, linh cảm. Nhà văn cảm nhận cuộc sống không phải theo sự điều khiển của lí trí mà theo
tiếng gọi của trái tim.
Với tình huống ra đi, Pauxtốpxki thường đặt nhân vật trong những trạng huống: từ bỏ
hoàn cảnh sống hiện tại, dấn thân vào cuộc hành trình hay giã từ cuộc sống trần thế.
Anđécxen (Chuyến xe đêm) đã nén lòng dứt áo ra đi, chối bỏ tình yêu hiện tại để chung thủy
với “nàng Thơ” và “truyện cổ tích”. Tuy thành công trong sự nghiệp nhưng đến phút giã từ
cuộc sống trần thế, ông không khỏi xót xa, nuối tiếc. Người đầu bếp già đến cuối cuộc đời đã
chuẩn bị cho mình một cuộc “ra đi” thanh thản. Với mong muốn được một người lạ mặt rửa
tội cho mình, ông may mắn gặp nhạc sĩ thiên tài Môza, được hưởng niềm hạnh phúc bất tận
mà món quà âm nhạc mang lại. Alan (Bình nguyên tuyết phủ) chia tay cõi đời với niềm hạnh
phúc vì trí tưởng tượng của chàng đã chiến thắng lòng nghi ngờ, đố kị, cái nhỏ nhen tầm
thường.
Trong Pari chốc lát, nhân vật “tôi” lần đầu đến Pari đã háo hức, chờ đợi từng phút
giây: “Suốt đêm tôi cứ nằm trong một cảm giác đê mê kéo dài và khoan khoái, không đủ sức
cử động cánh tay” [65, tr. 445]. Mỗi bước chân qua, những điều mới lạ hiện ra cuốn lấy
nhân vật với sức hút của một nam châm có từ trường mạnh, đến nỗi “mỗi giờ của giấc mơ
thảng thốt, nói cho đúng hơn, của một cơn thiêm thiếp, đối với tôi là một tổn thất nặng nề.
Và thực quả là như vậy đấy [65, tr. 451]. Tuy vậy, “ra đi” trong truyện ngắn của Pauxtốpxki
không đồng nghĩa với quay lưng, lãng quên quá khứ. Dường như có một sợi dây bảo hiểm vô
hình mà vững chắc neo giữ nhân vật với nguồn cội, gốc gác tổ tiên: “Trên những bờ sông
Xen, tôi nhớ đến tổ quốc Xô viết của tôi. Trước mắt tôi, cảm xúc về đất nước đã bất thần
hiện ra trong một tính chất mới mẻ. Cảm xúc đó lớn hơn và phức tạp hơn một cách không tài
nào lường được với điều chúng ta nghĩ. Nó làm cho ta tức thở như là khi trống ngực đập
thình thình” [65, tr. 471]. Ở Đám đông trên đại lộ bờ biển, chuyến đi đến Ý đã đem đến cho
nhân vật “tôi” những cảm nhận thú vị về đất nước và con người nơi đây, đặc biệt là niềm
hạnh phúc khi mang lại cho trẻ thơ nỗi vui sướng lớn lao từ một món quà. Trong Cuộc phiêu
lưu của bọ sừng, thời điểm bác Piốt “từ giã xóm làng lên đường ra trận” cũng là lúc cậu con
trai nhỏ của bác có dịp bày tỏ tình cảm với cha bằng một món quà “đặc biệt” – một con bọ
sừng. Khát vọng ra đi, khám phá điều mới mẻ đã đem đến cho nhà thổ nhưỡng, anh thanh
niên và cô gái một cuộc gặp gỡ vui vẻ trên chuyến tàu tốc hành Ximfêrôpôn sự gặp gỡ về ý
tưởng: trở lại và góp sức dựng xây ngôi làng xa lạ mà con tàu đã đi qua. Nhìn chung sự ra đi
thường gắn với cái mới mẻ, kì lạ và tâm trạng hân hoan, thích thú của nhân vật.
Tóm lại, tình huống trở về của Thạch Lam hay ra đi của Pauxtốpxki tuy trái ngược
nhau nhưng chúng đều là những tình cảnh đặc biệt nhằm khơi gợi thế giới nội cảm phong
phú, đa dạng của nhân vật. Đó cũng là trạng huống phù hợp giúp nhà văn xây dựng tính cách
của con người thời hiện đại.
Mặt khác, trong kĩ thuật xây dựng tình huống, hai nhà văn rất chú ý tạo ra các chi tiết
giàu sức gợi. Pauxtốpxki từng đề cao vai trò của chi tiết: “Một chi tiết tốt còn gợi lên cho
người đọc biểu tượng trực giác và đúng đắn về toàn cục – hoặc về con người với tâm tình
của anh ta, hoặc về một sự kiện, hoặc hơn thế nữa, về cả một thời đại” [65, tr. 132]. Những
chi tiết dẫn đến tình huống của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường là những “sự kiện” hay sự
vật nhỏ: chờ tàu, cơn gió lạnh đầu mùa, tiếng chim kêu trong đêm, bức thư, hộp thuốc lá,
chiếc nhẫn bằng thép… So với những “sự kiện” có tính chất lớn lao (lần đầu được làm cha,
tai nạn phải cưa chân, đêm giao thừa, ra trận, cái chết của người anh hùng), những chi tiết có
tính “vặt vãnh” luôn chiếm ưu thế. Chẳng hạn, chỉ với cơn gió mùa đông đến sớm mà
Thạch Lam đã dựng nên cả một câu chuyện cảm động về tình người, tình đời. (Gió lạnh đầu
mùa). Một bức thư bỏ ngỏ trên bàn, với tài năng của Pauxtốpxki, nó đã bắt đầu một chuyện
tình lãng mạn, ấm áp (Tuyết)… Những truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường
được xây dựng như thế. Khi nhà văn đã có trữ lượng dồi dào về vốn sống, kinh nghiệm và sự
tinh tế nhạy cảm thì chỉ cần một chi tiết vặt vãnh cũng đủ sức làm bùng lên “ngòi nổ” cảm
xúc, tâm tư.

3.2.3. Xây dựng nhân vật


Việc xây dựng bối cảnh, không khí cho câu chuyện gắn liền với việc tổ chức nhân vật,
bởi nhân vật là trung tâm điểm của bức tranh mà người nghệ sĩ đã dày công dàn dựng. Có thể
nói nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sức sống của một tác phẩm.
Nhân vật văn học trong tác phẩm, dù ít dù nhiều, đều thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí
tưởng của nhà văn về con người cũng như tình cảm thái độ của anh ta đối với thế giới hiện
thực. Như một số nhà văn khác, tác phẩm của Pauxtốpxki cũng có nhân vật là con vật (Cuộc
phiêu lưu của chú bọ sừng, Vườn nhà bà, Chiếc nhẫn bằng thép). Tuy nhiên, khi tìm hiểu
nhân vật dưới góc độ biểu hiện nghệ thuật kể chuyện trong cách dựng, kể, tả, bình… chúng
tôi chỉ đề cập tới những nhân vật là con người trong tác phẩm, trực tiếp xuất hiện, được kể
về, tự kể về mình hoặc kể về một ai đó trong tác phẩm.
Truyện của Thạch Lam và Pauxtốpxki hầu như không có nhân vật phản diện, khoảng
cách giữa nhân vật chính và nhân vật phụ dường như bị xóa nhòa. Cả Thạch Lam và
Pauxtốpxki đều không chú trọng miêu tả ngoại hình nhân vật mà tập trung khắc họa thế giới
nội tâm phong phú, những nét tính cách đặc trưng và đặc biệt là những biểu hiện cao đẹp của
nhân cách con người.

3.2.3.1. Con người bình dị của đời thường


Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki là những con
người bình dị, thân thuộc trong cuộc sống hằng ngày, dường như ở bất kì đâu trên đất nước
Việt Nam, đất nước Nga ta đều có thể gặp họ. Đó là những người lao động bình thường như
nông dân, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, công nhân, người thợ hót rác, kẻ giúp việc
nhà, người lính… Thạch Lam và Pauxtốpxki cũng viết về tầng lớp trí thức nhưng những học
sinh, sinh viên, trí thức thất nghiệp trong truyện ngắn của Thạch Lam hay những nghệ sĩ
trong trang viết của Pauxtốpxki đều toát lên vẻ giản dị, bình dân. Một điều dễ nhận thấy là
Thạch Lam và Pauxtốpxki dành nhiều trang viết của mình cho trẻ thơ và người phụ nữ.
Thế giới trẻ thơ trong truyện ngắn của Pauxtốpxki trong trẻo, thuần khiết như giọt
sương mai. Đó là thế giới của lòng tin vào phép màu cổ tích, của những câu nói, những nghĩ
suy ngây ngô con trẻ. Trong truyện Tuyết, cô bé Varia có những cử chỉ thật dễ thương: “Một
cô bé bím tóc đứng bên đi văng và nhìn anh (Nikôlai) bằng cặp mắt sung sướng. Nhưng nó
không nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh” [65, tr. 281]. Cuộc đối thoại
giữa cô bé và Nikôlai cho thấy tính cách hồn nhiên của em:
– Mẹ cháu cứ tưởng mẹ cháu là người lớn. – Con bé thì thầm với một vẻ bí mật. –
Thế nhưng mà mẹ cháu chẳng phải là người lớn tí nào. Mẹ cháu chỉ là một cô bé nhóc
còn xoàng hơn cả cháu nữa kia.
– Tại sao – Anh hỏi?
Nhưng con bé không trả lời, nó nhoẻn miệng cười và chạy ra ngoài [65, tr. 282].
Chú bé chăn bò Alếchxây được miêu tả với những dáng nét bề ngoài cụ thể: “Chú
người nhỏ nhắn, tóc vàng hoe, đội mũ lưỡi trai rộng, mặc áo bông rách, tay cầm chiếc roi
dài. Chú kéo lê chiếc roi trên cỏ ướt” [65, tr. 293]. Nhưng điều khiến người đọc ấn tượng ở
chú là điệu bộ trẻ con: “Chú chăn bò hỉ mũi, đưa ống tay áo dài sát đất lên quệt ngang, nhìn
tôi và nói bằng một giọng rin rít: Chào bác! Sương xuống cứ như mưa ấy. Chịu hết nổi, bác
ơi!” [65, tr. 293]. Ở chú có một niềm tin mãnh liệt vào những điều kì diệu trong những câu
chuyện phiêu lưu kì thú của người lớn. Bằng niềm tin thành thực trẻ thơ ấy, chú đã bắt chước
những vị khách du lịch lạc trên hoang đảo, viết bức thư và bỏ trong cái chai để nhờ sóng biển
mang đến cho người cha thân yêu ngoài mặt trận xa xôi. Tương tự, cô bé Varusa, “cây hoa
tử la tết đuôi xam” với cặp mắt xanh biếc đã ngây thơ tin vào điều kì diệu mà chiếc nhẫn
bằng thép sẽ mang lại. Khi vô tình đánh rơi chiếc nhẫn, cô bé buồn khổ và có những biểu
hiện thật ngộ nghĩnh:
“Nó thường cứ chúi vào sau bếp lò và khóc khe khẽ vì thương ông và trách mình.
Thật là đồ ăn hại! Cứ mải chơi mãi đến nỗi đánh rơi mất chiếc nhẫn. Thật đáng đánh
lắm. Đáng lắm!
Nó đấm vào mình để tự phạt mình. Cụ Kudơma hỏi:
– Cháu đang cãi nhau với ai đấy?
– Dạ, với Xiđơrơ. – Varusa trả lời. – Nó không nghe lời. Chỉ muốn gây sự thôi” [65,
tr. 352].
Cô bé Đanhi trong Lẵng quả thông được miêu tả với một vẻ đáng yêu: “Nó từ từ nhắm
mắt lại. Khi nó mở mắt, Grigơ nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh lá cây nhạt và vòm
lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ” [65, tr. 387]. Trong cách Đanhi
thuyết phục Grigơ cho cô xem trước món quà hay mời nhà soạn nhạc này ghé nhà chơi,
người đọc nhận thấy sự nũng nịu dễ thương của trẻ thơ. Tương tự, cô bé Masa cũng có một
cuộc sống vô tư, vui vẻ bên những người bạn nhỏ – những loài vật ngộ nghĩnh trong vườn
nhà bà. Masa có những thắc mắc hồn nhiên trong sáng về cái cách anh bộ đội đếm lá cây cho
dễ ngủ: “Masa bước ra vườn và nhìn lên cây đoạn, bật cười. Ôi làm sao mà đếm hết những
chiếc lá đoạn được, chúng nhiều đến hàng nghìn, đến nỗi nắng cũng không thể xuyên qua
được. Chú bộ đội này ngộ thật” (Vườn nhà bà) [65, tr. 443].
Nhân vật trẻ thơ trong trang viết Thạch Lam thường là những đứa trẻ ở độ tuổi “ăn
chưa no lo chưa tới” nhưng ở chúng đã xuất hiện sự ý thức và lòng tốt trinh bạch đáng quý.
Lan và Sơn trong Gió lạnh đầu mùa bất chợt nảy ra ý định về lấy áo cho Hiên, đứa trẻ nghèo
ở xóm chợ. Khi chuyện bị phát hiện, chúng sợ mẹ mắng. Thạch Lam miêu tả ngắn gọn cuộc
đối thoại giữa hai chị em Lan, Sơn mà người đọc thấy được nét ngây thơ, hồn nhiên trong
tâm hồn chúng. Chẳng hạn:
“ Gần đến chiều, Sơn và chị chưa đòi được áo. Lan trách em:
– Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ mợ mắng chết không?
– Ai biểu chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu?
Chị Lan đấu dịu:
– Thôi bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào?
– Nhưng mà em sợ lắm.” [65, tr. 93]
Hai anh em trong Tiếng chim kêu cũng là những đứa trẻ sớm có lòng trắc ẩn. Trong
một đêm mưa gió bão bùng, chúng cảm thương con chim bị nạn sau hè, muốn trở dậy cứu
con vật đáng thương ấy nhưng lại đùn đẩy nhau vì trời rét quá. Thạch Lam đã miêu tả rất thật
chất trẻ con ở chúng qua sự đùn đẩy nhau mở cửa hay nỗi vui sướng tột cùng của chúng khi
phát hiện ra chẳng có con chim nào bị nạn trong đêm hôm ấy. Ngoài ra, truyện của Thạch
Lam còn có những nhân vật trẻ thơ nhưng vì hoàn cảnh cuộc sống, chúng đã già trước tuổi.
Tâm hồn non nớt ngây thơ của chúng sớm bị “nhiễu” bởi những lo toan cơm áo hằng ngày.
Đó là mấy đứa trẻ nhà nghèo ở xóm chợ phải lom khom nhặt nhạnh kiếm tìm những thứ còn
dùng được trong đống rác rưởi mà người ta để lại; chị em Liên An còn nhỏ nhưng đã biết
trông coi cửa hàng tạp hóa, biết tính toán để buôn bán, nhất là Liên, cô bé đã ra dáng một
người chủ cửa hàng (Hai đứa trẻ). Đó còn là mấy đứa trẻ ở xóm ngụ cư, bươn chải cùng mẹ
để có miếng ăn (Nhà mẹ Lê). Chúng không chỉ chịu cảnh đói ăn mà còn khổ sở, tê tái vì rét
mướt (Gió lạnh đầu mùa).
Cùng dành nhiều trang viết cho trẻ thơ, Nguyên Hồng, Mácxim Gorki đã đưa cả
những đứa trẻ sớm bị dòng đời quăng quật vào những truyện ngắn, hồi kí của mình. Trong
tập hồi kí Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng đã mô tả chân thực cuộc sống tủi cực, cù bơ cù
bất của nhân vật “tôi” (cậu bé tên Hồng) và những “bạn bè” của cậu. Sống xa mẹ từ nhỏ, lớn
lên trong cảnh ghẻ lạnh của họ hàng bên nội, từ rất sớm Hồng đã trải qua cảnh lêu lổng đầu
đường xó chợ, học nhiều mánh khóe để có tiền. Với tài đánh đáo hạng “siêu”, cậu bé biết
“ăn cánh với những đứa gian ngoan, ngạo ngược”, “bóc lột những đứa khờ khạo”. “Bằng
hữu” và cũng là nạn nhân của cậu là “mọi hạng trẻ hư hỏng của các lớp cặn bã”: “Tụi trẻ
này tuy sống bằng những nghề nhỏ mọn như bán báo, bán xôi chè, bánh kẹo, hoa quả, bán
các đồ chơi lặt vặt, đi ở bế em hay đi nhặt bóng quần, hoặc ăn mày, ăn cắp từ con cá lá rau;
tụi trẻ này tuy rách rưới, bẩn thỉu, nhịn đói, mặc rét luôn, nhưng hễ kiếm được tiền là phung
phí. Quà gì chúng cũng ăn. Thua bạc bao nhiêu cũng không tiếc. Cảnh đời đày đọa chúng
như phải có cái say sưa trong sự bê tha kia để mà an ủi” 1. Hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng
nói của chúng nhuốm màu sắc “bụi đời”. Chẳng hạn, chỉ qua mẩu đối thoại nhỏ, đứa trẻ lang
thang đã bộc lộ tính thất học:
“Một lần, tôi vỗ vai thằng bạn nằm duỗi dài trên bãi cỏ, phì phèo hút thuốc lá:
– Thôi mày ạ, trả nó mấy xu đi.
[…] Nó bĩu dài môi trả lời tôi:
– Kệ mẹ nó, dại thì chết. Có thế mới mở mắt ra” 2.
Tương tự, bộ tự truyện Thời thơ ấu của Mácxim Gorki đã tái hiện cuộc sống cay đắng,
thiệt thòi của cậu bé Aliôsa. Cha mẹ mất sớm, cậu lớn lên trong những trận đòn của người
ông vốn khắc nghiệt, khó tính. Cậu sớm tự lập, bươn chải giữa dòng đời để kiếm sống và tích

1
Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120
2
Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120
lũy vốn kiến thức cho bản thân. Thế giới trẻ thơ trong truyện ngắn của Mácxim Gorki cũng
đầy ắp bao cảnh đời, số phận đáng thương. Người đọc bắt gặp ở đó những giọt nước mắt tủi
hờn của con trẻ, những ước mơ giản dị mà cháy bỏng đến se lòng. Chú bé ăn mày Liônka có
một cái chết thật bi thảm: “Trên một cái hố ngoài thảo nguyên, cách làng không xa mấy, thấy
có đàn quạ lượn vòng, và khi đến xem, người ta thấy thằng bé nằm sấp dưới hố, hai tay dang
rộng, mặt úp vào lớp bùn sền sệt đọng lại dưới đáy hố sau trận mưa” (Lão Arkhíp và bé
Liônka) [54, tr. 1893]. Còn Lenka, cậu bé tật nguyền sống dưới cái hầm đen ngòm và dơ bẩn,
hầu như không được thấy ánh sáng mặt trời. Cậu chỉ biết làm bạn với cái “sở thú” ngộ
nghĩnh của mình: những con nhện, con ruồi, lũ gián ... Trong cuộc sống cô độc và nhàm
chán, Lenka đã quen giao tiếp bằng tiếng chửi: chửi những con côn trùng, chửi cả mẹ mình.
Lời tâm sự của cậu bé với người khách lạ tốt hé lộ một niềm khát khao cháy bỏng: “Cháu sẽ
lớn lên. Mẹ sẽ làm cho cháu một chiếc xe lết, cháu sẽ lết qua các phố để ăn xin. Xin xong
cháu sẽ lết ra đồng thoáng” [54, tr. 526].
Viết về trẻ thơ, Pauxtốpxki và Thạch Lam không cần đến những kĩ thuật phức tạp
mà đã dùng cả tấm lòng để lắng nghe, thấu hiểu và diễn tả chân xác thế giới thần tiên
trong trẻo trong tâm hồn các em bằng một trái tim không hề già cỗi. Nhân vật trẻ thơ của
Thạch Lam và Pauxtốpxki thường là “trẻ ngoan”. Chúng hành xử nhẹ nhàng, tinh tế, đặc biệt
là không dùng ngôn ngữ đường phố. Các ông đã đặt vào những mầm non cuộc sống ấy lòng
tin tưởng, sự trân trọng, nâng niu và đặc biệt là lòng yêu thương vô bờ.
Ngoài nhân vật trẻ em, người phụ nữ cũng được Pauxtốpxki và Thạch Lam dành nhiều
bút lực để miêu tả, khắc họa. Khi miêu tả, Pauxtốpxki thường xuyên sử dụng những tiểu tiết.
Việc đi vào chi tiết một cách tỉ mỉ chứng tỏ sự quan sát tinh tế của tác giả. Trong các nhân
vật phụ nữ, hầu như người nào cũng để lại ấn tượng với những nét chấm phá mang dấu ấn
riêng biệt. Maria Tsernưi nổi bật với vẻ kiều diễm: “Nếu bạn cũng như tôi, cùng thời với
nàng, thì chắc hẳn phải nghe nói đến cái sắc đẹp thanh tú của người phụ nữ này, nghe nói
đến cái dáng đi thanh thoát, tính tình kiêu kì nhưng đầy quyến rũ của nàng” (Suối cá hương)
[65, tr. 408]. Chỉ với một phép so sánh, người đọc cảm nhận được nhan sắc tuyệt mĩ của
nàng: “Không một người đàn ông nào dám hi vọng ở tình yêu của Maria Tsernưi. Họa
chăng có những người như Sile mới xứng đáng tình yêu của nàng” [65, tr. 408]. Tachiana
thu hút với “khuôn mặt xanh xao và nghiêm trang”,“đôi mắt sâu thẳm và chăm chú” [65, tr.
281]. Người thiếu phụ trong Gió biển lại có vẻ đẹp ẩn giấu với “những ngón tay dịu dàng và
nhỏ nhắn” [65, tr. 291]. Onga (Suối cá hương) có vẻ quyến rũ kì lạ với: “dáng trẻ trung và
đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ”, “khuôn mặt trầm tư”,“vầng trán thanh sạch” [65, tr.
317]. Êlêna Pêtrốpna (Cầu vồng trắng) lại nổi bật với một giọng nói truyền cảm, “nghe như
lới hứa hẹn của hạnh phúc”. Giọng hát lanh lảnh, trong và cao vút của Xônxeva (Âm nhạc
Vécđi) đã biểu lộ ở cô gái một sức sống dạt dào của tuổi trẻ. Thế nhưng, với Pauxtốpxki, việc
khắc họa ngoại diện là để làm nổi bật tính cách, tài năng. Với ông, vẻ đẹp tâm hồn mới có
sức sống bền lâu. Các nhân vật nữ của ông để lại ấn tượng cho người đọc bởi vẻ đẹp vĩnh
cửu – vẻ đẹp của nhân cách, tấm lòng. Bằng sự dịu dàng và tấm lòng nhân ái, Tachiana đã
làm những việc tuy bình thường, thầm lặng nhưng chúng lại mang đến hạnh phúc ấm áp cho
Nikôlai. Người thiếu phụ từng làm y tá ở Xêvaxtôpôn đã cứu anh lính thủy và có một việc
làm tốt đẹp để đem lại sự an ủi cho anh trong những ngày dưỡng thương. Thiếu phụ Onga đã
đón tiếp thiếu tá Kuzmin chân tình như với một người bạn thân thiết và chu đáo tiễn anh ra
bến tàu, thận trọng dẫn anh qua những bậc thang mục. Êlêna đã nỗ lực đáp lại tấm tình của
một người bạn chưa từng quen biết và chị đã tìm thấy hạnh phúc của cả cuộc đời mình…
Những người phụ nữ đã lớn tuổi như người phụ nữ gốc Pháp trong Lời cầu nguyện của
Mađam Bôvê, người mẹ già trong Bức điện, người bà trong Vườn nhà bà cũng hiện lên rõ nét
với tấm lòng nhân hậu, dạt dào tình yêu thương. Chỉ với chi tiết nhỏ: “Đôi mắt sáng long
lanh, nụ cười, dáng điệu thoải mái khi bà ta gập chiếc quạt lại!” [65, tr. 304] tác giả đã khắc
họa cốt cách quý tộc của người đàn bà Pháp chân chính.
Nhân vật nữ trong sáng tác của Thạch Lam trước hết là những thiếu nữ trẻ trung, xinh
tươi. Miêu tả hình thức bề ngoài, Thạch Lam không miêu tả nhân vật theo kiểu cơ thể học
với đầy đủ mắt mũi, chân tay mà với những nét chấm phá độc đáo. Ông chủ yếu đi vào một
vài nét ngoại diện tiêu biểu, sống động để thể hiện tâm hồn nhân vật. Nga mang vẻ đẹp
của những bông hoa đồng nội, mơn mởn, xinh tươi với “tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông
trên cổ nhỏ”, bàn tay “trắng hồng nhỏ nhắn” [44, tr. 182], mái tóc thoang thoảng hương
thơm như giắt hoàng lan. Ở Hậu là một sức trẻ dẻo dai: “Người cô nổi trên nền lá xanh như
một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió bay phất phới, và tất cả
ánh nắng, lá cây, bóng mát cũng hình như đang tưng bừng giỡn múa chung quanh người
thiếu nữ tươi tắn ấy” [44, tr. 109]. Còn Lan lại nổi bật với vẻ duyên dáng, nữ tính: “Thân thể
trẻ tươi và dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây và tấm áo mảnh căng sát để phô
hẳn những đường mềm mại” [44, tr. 231]. Mai mang vẻ đẹp của “một bông hoa quý”: “mặt
nàng đều đặn, cái cằm nhỏ, cái cổ tròn và trắng như sữa” [44, tr. 197]. Hầu hết các nhân vật
nữ trong trang viết của Thạch Lam mang vẻ đẹp trong sạch, thanh cao, không có dấu vết của
nhục thể.
Cũng như Pauxtốpxki, Thạch Lam đã dành nhiều chi tiết đặc tả tấm lòng nhân hậu,
đức hi sinh cao cả, sự tần tảo chịu thương chịu khó của những người phụ nữ Việt Nam. Họ
để lại ấn tượng sâu sắc bởi vẻ đẹp nhân cách và sự tận tụy với nghĩa vụ làm người. Cuộc đời
của Tâm (Cô hàng xén), Mai (Bóng người xưa), Tâm (Một đời người), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê)...
luôn gắn liền với những bổn phận, trách nhiệm và họ đẹp trong những bổn phận đời thường
đó. Viết về người phụ nữ, nếu như Nhất Linh, Khái Hưng (những cây bút cùng nhóm “Tự
lực văn đoàn” với Thạch Lam) nỗ lực xây dựng hình tượng con người mới, dũng cảm đấu
tranh chống lại tư tưởng lỗi thời, cổ hủ để đòi quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho bản
thân 1 , thì Thạch Lam vẫn kiên trì với hình ảnh người phụ nữ truyền thống hiền lành, chân
chất. Do vậy, nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam là những con người nhỏ bé, phần
lớn họ an phận trong hoàn cảnh hiện tại. Chính sự nhẫn nại, cam chịu làm cho họ có phần
cao quý hơn nhưng mặt khác cũng làm cho họ bé nhỏ đi.
Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của hai nhà văn là những thiếu nữ, thiếu phụ
trẻ trung, xinh đẹp, dịu dàng nữ tính hay những phụ nữ luống tuổi, nhưng tất cả đều gặp nhau
ở nhân cách cao đẹp. Cái thế giới ấy khác với thế giới các bà, các cô trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Mácxim Gorki bởi nó hoàn toàn vắng bóng những
người phụ nữ méo mó về nhân hình, nhân tính. Là nhà văn của lớp người dưới đáy, Mácxim
Gorki đã dành nhiều sự ưu ái cho những người phụ nữ cùng khổ, kể cả con người có vẻ bề
ngoài tàn tạ như nhân vật Maska: “Chị ta cũng nói năng như con nít, câu kéo như của một cô
bé mới lớn. Mà đôi mắt của chị cũng trong trẻo như mắt trẻ thơ, khiến cho cái mặt không có
mũi, cái môi trên nhếch lên và hàm răng cửa để hở, trông lại càng quái gở hơn nữa. Một cơn
ác mộng biết đi, nhưng cũng là một trò đùa biết đi, và là một trò đùa vui vẻ” [54, tr. 528].
Nguyên Hồng cố gắng tìm tòi chút nhân cách còn le lói trong những người đàn bà tội lỗi,
phạm pháp như nhân vật Bảy Hựu, Chín Huyền trong truyện ngắn cùng tên của ông. Còn
Nguyễn Công Hoan phơi trần bộ mặt dối trá của những kẻ ra dáng đạo đức, chính chuyên:
một bà quả phụ quan tuần phủ kia kiếm được bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” bằng cách vứt

1
Nhân vật Mai trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân (Khái Hưng), nhân vật Loan trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt (Nhất Linh) là những
người phụ nữ mạnh mẽ, có tư tưởng mới mẻ, tiến bộ.
bỏ chính cái tiết hạnh của mình (Một tấm gương sáng), một bà tham đã đền ơn chồng bằng
cách Thế rồi mợ nó đi Tây. Nhìn chung, các nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam và
Pauxtốpxki được chấm phá bởi những nét vẽ tinh tế về ngoại hình và họ nổi bật bởi sự
toàn vẹn, đầy đặn về nhân cách. Cả hai nhà văn đều ưa chuộng vẻ đẹp cổ điển với dáng nét
thanh sạch, tinh khiết, đặc biệt là sự cao quý về mặt tâm hồn.
Các nhân vật nam trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường ít ỏi hoặc
thiếu vắng đặc điểm về ngoại hình nhưng ngồn ngộn những chi tiết đặc tả tính cách, tâm
tư, tình cảm. Pauxtốpxki đã xây dựng thành công chân dung người lính với vẻ đẹp nội tâm
sâu sắc. Đó là những người con trai mang trong mình bầu nhiệt huyết cống hiến cho đất
nước, đặc biệt ở họ có sự kết hợp hài hòa giữa một tinh thần “thép” và một tâm hồn giàu cảm
xúc, giữa trái tim quả cảm và lòng nhân hậu cao cả. Kuzmin (Bình minh mưa), Pêtrốp (Cầu
vồng trắng), anh lính thủy (Gió biển), Vania (Trái tim nhút nhát), Nikôlai (Tuyết), vị tư lệnh
(Âm nhạc Vécđi) là những con người mang vẻ đẹp anh hùng chan hòa với vẻ đẹp dung dị đời
thường. Ngoài ra, nét riêng trong thế giới nhân vật của Pauxtốpxki là sự xuất hiện của những
con người nghệ sĩ. Họ là chủ thể sáng tạo nên cái đẹp ở đời với một tâm hồn tinh tế và tài
năng thiên bẩm. Tuy vậy, họ lại gần gũi và giản dị biết bao, dường như không có một ranh
giới nào giữa những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ với những con người bình thường trong cuộc
sống. Nhà soạn nhạc nổi tiếng Êđua Grigơ (Lẵng quả thông) lại có một vẻ chất phác, nhân
hậu chẳng khác gì lão Êgo (Trái tim nhút nhát), cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép). Vì vậy
mà cô bé Đanhi cứ thao thao bất tuyệt kể chuyện, “tranh cãi” với Êđua và mời ông về nhà.
Nhạc sĩ thiên tài Môda, người có tài năng làm xiếc với những giai điệu bổng trầm, tạo ra
những bản nhạc tuyệt vời, lại là “một người lạ mặt” rất mực thân thiện, tốt bụng, hào phóng
với cha con người đầu bếp già. Người kể chuyện cổ tích Anđécxen (Chuyến xe đêm) hay nhà
văn Alan (Bình nguyên tuyết phủ) đều mang dáng nét bình dị, mộc mạc, thậm chí cả những
khiếm khuyết rất đời thường. Những nhân vật nghệ sĩ xuất hiện với số lượng đáng kể trong
trang viết của Pauxtốpxki cũng bởi họ gần gũi quá với tâm hồn đa cảm và đắm say cái đẹp
của ông. Bên cạnh đó, Pauxtốpxki còn miêu tả những con người xấu xí với đường nét ngoại
hình “méo mó” và đây chính là “thủ pháp đòn bẩy” để làm nổi bật vẻ đẹp nhân ái tiềm ẩn
trong tâm hồn họ. Anh thợ hốt rác thành Pari Giăng Samét (Bông hồng vàng) với vẻ ngoài dị
dạng “thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tế thấp khập khiễng” – nhưng lại mang trong
mình một đức hy sinh lớn lao vô bờ. Anh sẵn sàng làm tất cả để mang lại hạnh phúc cho
người mình yêu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp (Âm nhạc Vécđi) “nhỏ bé, chắc nịch” mà hành
động thì dứt khoát, kiên quyết vì hạnh phúc của người ca sĩ đang chịu áp lực vì khổ đau.
Những ông lão như cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép), lão Tikhôn (Bức điện), ông Êgo
(Trái tim nhút nhát) lại là hiện thân của sự cứng cỏi, mạnh mẽ, nhân hậu như cây sồi cổ thụ
đã kinh qua bao biến thiên thời tiết, là chỗ dựa vững chắc cho những người thân.
Các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam đa phần là những trí thức bình dân. Tân
(Đứa con đầu lòng) không rõ về ngoại hình, tuổi tác nhưng qua những biểu hiện: “tò mò
ngắm cái đầu bé phủ tóc đen và mượt”, “không thấy cảm động như chàng tưởng, và cũng
không thấy có một tình cảm gì đối với đứa con mới đẻ” [44, tr. 8] người đọc thấu hiểu tâm
trạng của một người đàn ông còn rất trẻ, rất lạ lẫm với vai trò lần đầu làm cha. Diên (Trong
bóng tối buổi chiều) hiện ra với cảm giác u uất, tủi buồn vì sự thay đổi đến quay quắt, chóng
mặt của cô bạn gái, vì sự lạc lõng bơ vơ ở chốn thị thành và sự vỡ tan của những mộng đẹp
ngày trước. Thanh (Dưới bóng hoàng lan) tuy đã trưởng thành nhưng khi trở về bên bà,
chàng lại có biểu hiện rất...trẻ con: “Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ” [44,
tr. 182]. Phần lớn, các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam khi bị cuộc đời “dồn đẩy”, “xô
ngã”, họ đành bất lực, buông xuôi với cái nhìn tiếc hận thấm thía, như trường hợp của Minh
(Cái chân què), Bào (Người bạn trẻ), người lính (Người lính cũ). Một số là nhân vật chưa
hoàn kết về tính cách, chẳng hạn như Sinh (Đói), Tiến (Tiếng sáo), Bính (Buổi sớm), thật
khó để xếp anh ta vào người tốt hay kẻ xấu mà đòi hỏi người đọc phải có cái nhìn toàn diện,
soi ngắm nhiều chiều.
Nét riêng trong việc xây dựng nhân vật của Thạch Lam là tác giả đã tạo ra những con
người mang dấu ấn tự thuật của bản thân ông nhà khá rõ nét (nhân vật mang tính tự thuật ở
truyện của Thạch Lam “đậm đặc” và “sắc nét” hơn ở truyện của Pauxtốpxki). “Chất tiểu sử
trong văn xuôi Thạch Lam, bộc lộ ra trước tiên là ở nhân vật” [56]. Người ta có thể tìm thấy
bóng dáng của Thạch Lam qua mỗi truyện ngắn của ông, chẳng hạn qua chú bé Sơn (Gió
lạnh đầu mùa), An (Hai đứa trẻ), nhân vật xưng “tôi” (Người lính cũ, Người đầm, Người
bạn cũ, Người bạn trẻ), qua hàng loạt nhân vật người trí thức bình dân... Do bởi dù kể
chuyện mình hay chuyện người thì “ở đó hiện lên hình ảnh một con người thống nhất” – con
người tác giả. Trong Thạch Lam hay trong các nhân vật của ông, sự buồn chán không bao
giờ dẫn đến sự buông tuồng hay lối sống tùy tiện, mất hết nhân cách. Vì vậy thế giới nhân
vật của Thạch Lam hoàn toàn xa lạ với những con người bị lưu manh hóa, những “thằng
người” trong xã hội. Chính điều này làm nên nét riêng giữa Thạch Lam và các cây bút đồng
thời với ông như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan (Các nhà văn hiện thực này đã phơi
bày mặt trái của xã hội Việt Nam trước năm 1945 với những nhân vật bị “méo mó” về nhân
tính, mà tính cách phổ biến nhất là lưu manh). Nhân vật của Thạch Lam cũng bị ám ảnh với
cái đói (Đói, Nhà mẹ Lê) nhưng chưa bao giờ họ để miếng ăn làm mình biến chất như nhân
vật của Nam Cao. Dù ở vị trí nào, cảnh huống nào, các nhân vật trong trang viết của Thạch
Lam tuy nhỏ bé nhưng không thấp hèn, trước sau họ vẫn giữ được cốt cách cao quý của con
người được giáo dục chu đáo trên nền tảng đạo đức truyền thống.

3.2.3.2. Con người của những cảm xúc vi tế


Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki tuy là những con
người bình thường, giản dị nhưng tâm hồn họ rất phong phú, nhạy cảm và tinh tế. Các nhân
vật trong trang viết của Pauxtốpxki đặc biệt “nhạy” với âm thanh. Tâm hồn họ sẵn sàng rung
lên với những xao động dù rất khẽ khàng của vạn vật. Trong một đêm không ngủ, trên boong
tàu, Masa “lắng tai nghe những tiếng động ban đêm”, cô nắm bắt được một bản hòa tấu của
thiên nhiên: “Một tiếng ầm ĩ xa xa vẳng lên trên bầu trời, rồi từ từ tắt dần. Có lẽ một chiếc
máy bay vừa lao qua. Một con cá quẫy mạnh ở gần bờ, rồi xa xa, tiếng tù và mục đồng nổi
lên, xa đến nỗi đầu tiên Masa không hiểu những tiếng ngân dài du dương đó là tiếng gì”
(Cây tường vi) [65, tr. 251]. Thiếu tá Kuzmin say sưa với “một tiếng reng reng mơ hồ”, “có
thể là rừng, hay không khí, hay là tiếng rít của những dây điện thoại. Mà cũng có thể là
tiếng reo khi tàu chạy” (Bình minh mưa) [65, tr. 319]. Pêtrốp nghe được trong giọng nói của
người con gái mình yêu cả dư vị của hạnh phúc: “Trong giọng nói của Elêna Pêtrốpna có cả
sự dịu dàng và sự lo âu như đêm tháng Chạp” (Cầu vồng trắng) [65, tr. 330]. Cô bé Varusa
cảm nhận rất rõ bước đi của mùa xuân: “Mùa xuân lướt trên đồng ruộng như một nữ chủ
nhân trẻ tuổi. Mùa xuân bước đi và mỗi bước đi các con suối reo ca càng nhộn nhịp tưng
bừng hơn” (Chiếc nhẫn bằng thép) [65, tr. 353]; và cả những thanh âm trong trẻo, mỏng
manh như “một con bọ dừa đánh chuông và đang đập chân vào những sợi mạnh nhện bằng
bạc” trong mỗi bông hoa. Tương tự, Alan trong đêm tối đã bắt nhịp với những vang động
tinh tế : “từ những đóa hoa phát ra một âm thanh mảnh dẻ, tưởng chừng trong mỗi bông hoa
có một sợi dây đàn nhỏ bé” (Bình minh tuyết phủ) [65, tr. 369].
Ngoài ra, con người trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki có một tình yêu sôi nổi với
âm nhạc và tâm hồn họ trở nên “mềm mại”, tinh tế lạ thường trước những giai điệu được cất
lên từ phím đàn. Cụ Iôhan (Người đầu bếp già) đã gặp gỡ giấc mơ hạnh phúc của đời mình
từ bản nhạc của nghệ sĩ thiên tài Môza. Cô bé Đanhi cảm nhận được cái tuyệt mĩ của cuộc
đời với món quà âm nhạc của nhà soạn nhạc Êđua Grigơ: “bản nhạc đã không còn ca hát.
Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi con người đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có
thể làm nguội lạnh tình yêu, nơi không có ai giành giật hạnh phúc kẻ khác, nơi mặt trời sáng
chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích” (Lẵng quả thông) [65, tr.
396]. Quả thật điều này chẳng hề xa lạ với những con người vốn được dưỡng nuôi từ chiếc
nôi âm nhạc
Cũng hướng vào thế giới nội cảm muôn màu muôn vẻ của con người, Thạch Lam
miêu tả họ trong những mảng màu xung đột sáng – tối. Trong bóng tối, thế giới nội tâm của
con người được phơi bày rõ rệt: những cảm xúc tốt đẹp nảy nở (Bóng người xưa, Bắt đầu,
Tiếng chim kêu); sự ngậm ngùi cho cảnh ngộ trớ trêu, (Tối ba mươi, Người lính cũ); ý thức
về thân phận (Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê). Vì cuộc đời bị bao quanh bởi bóng tối đậm đặc nên
nhân vật luôn hướng đến ánh sáng với bao ước vọng, khát khao. Chẳng hạn, trong Hai đứa
trẻ, những con người ở phố huyện nghèo mỗi ngày đều chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua bởi
nó dường như mang theo cả một thế giới thu nhỏ đầy ánh sáng. Mặt khác, trong trang viết
của Thạch Lam người đọc còn bắt gặp những con người rất “mẫn cảm” với mùi vị của đồng
đất quê hương. Cô hàng xén Tâm nhận ra mùi của ao bèo, bùn đất khi về đến đầu làng và
điều đó đem lại cho cô cảm giác thư thái. Tân (Những ngày mới) hạnh phúc với hương lúa
chín và mùi rơm rạ. Cô bé Liên (Hai đứa trẻ) nhận thấy trong mùi rác rưởi ở phố chợ “mùi
riêng của đất, của quê hương này”. Thanh (Dưới bóng hoàng lan), Bính (Buổi sớm) cũng rất
“nhạy” với mùi vị của chốn quê nhà...
Tóm lại, yếu tố kĩ thuật trong xây dựng nhân vật cho câu chuyện ở Thạch Lam và
Pauxtốpxki là việc chấm phá về ngoại hình, phô bày nội tâm nhân vật. Cả hai nhà văn đều
có xu hướng “khuynh nữ”, và “ưu ái” trẻ thơ. Thế giới nhân vật trong trang viết của Thạch
Lam và Pauxtốpxki là những con người bình dị, đời thường. Phải chăng họ là hiện thân của
cái đẹp mà các ông đang kiếm tìm hay là một ẩn ức chìm sâu trong vô thức của những nhà
văn có trái tim đa cảm này?! Với Thạch Lam, chắc hẳn tuổi thơ sống với bà nội và mẹ ở
chốn quê đã ít nhiều quy định cách tạo dựng nhân vật phụ nữ chiếm ưu thế ở ông.
Nếu như nhân vật của Pauxtốpxki luôn mang trong mình lòng yêu đời và tinh thần lạc
quan phơi phới thì hầu hết nhân vật của Thạch Lam không có xu hướng chống trả quyết liệt
lại hoàn cảnh. Điều này khúc xạ cái nhìn của tác giả về hiện thực khách quan trong hoàn
cảnh lúc bấy giờ. Trong cuộc sống đương thời, Pauxtốpxki đã tìm thấy cho mình hướng đi
với niềm tin, ước mơ được chắp cánh. Còn Thạch Lam sống trọn cuộc đời trong xã hội Việt
Nam đêm trước cách mạng tháng Tám, bản thân ông và một số nghệ sĩ cùng thời dường như
mất phương hướng, cái nhìn đời không khỏi mang màu sắc bi quan. Nếu như các nhân vật
của Pauxtốpxki nhạy bén với tình yêu và hạnh phúc thì hầu hết “những người con tinh thần”
của Thạch Lam tuy chưa đủ dũng cảm vượt lên hoàn cảnh thực tại để chạm tay vào cuộc
sống hằng mơ ước nhưng họ luôn biết quý trọng, nâng niu những niềm vui nho nhỏ hay
những điều tốt đẹp trong đời.

3.2.4. Tạo bối cảnh, không khí trữ tình


Có thể nói sức cuốn hút của truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki có sự đóng góp
không nhỏ của bối cảnh, không khí trữ tình. Chúng là cái khung, đường viền cho tâm trạng,
cảm xúc của nhân vật, tạo nên nguồn chất thơ dồi dào cho những trang văn.
Không gian và thời gian trong tác phẩm văn học vừa là một cảm thức nghệ thuật của
người nghệ sĩ, vừa là phương thức xây dựng tác phẩm nhằm tạo dựng một thế giới nghệ
thuật sống động. Vì vậy, xây dựng cái trục không – thời gian nghệ thuật chính là việc làm
nòng cốt trong kiến tạo bối cảnh, không khí cho câu chuyện.
3.2.4.1. Không gian nghệ thuật
@ Không gian phố huyện và không gian tỉnh lị
Nếu như truyện ngắn Thạch Lam mở ra không gian phố huyện thì ở truyện ngắn của
Pauxtốpxki là không gian tỉnh lị bao trùm nhân vật. Chúng tuy khác nhau về “dung nhan”
nhưng lại giống nhau về “chất”. Đó là vùng quê, cách trung tâm thành phố, gần với thiên
nhiên. Nơi đây thưa vắng tiếng ồn ào và sự bon chen, cuộc sống diễn ra gần như tẻ nhạt
nhưng tiềm ẩn những thú vị và thi vị. Nó mang hơi thở của hương đồng gió nội với gió mát,
trăng thanh, sắc lúa chín vàng, sương mù huyền ảo, sao trời lấp lánh…
Không gian phố huyện trong truyện Thạch Lam mang gương mặt riêng với mô hình
làng – phố, một nét đặc trưng của xã hội Việt Nam buổi giao thời. Tiêu biểu cho mô hình
này là cảnh sống: “Chúng tôi ở một căn nhà nhỏ ba gian ở giữa phố, mặt trước nhìn ra
đường xe hỏa, mặt sau trông ra cảnh đồng ruộng” (Bên kia sông) [44, tr. 188]. Người đọc có
thể quay về phía làng để chiêm ngưỡng “hai bên cánh đồng lúa xanh gió đưa như nổi sóng”
(Trở về) [44, tr. 22], rồi lại hướng ra phố để chứng kiến nhà ga, tàu hỏa, tiệm ăn, cao lâu.
Không gian này của Thạch Lam không thuần nhất như làng Vũ Đại của Nam Cao, mà cũng
khác xa với mô hình thành thị ở truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng. Nó là hệ quả tất yếu của
công cuộc “đô thị hóa” mà thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam. Nó vọng về âm thanh náo
nhiệt chốn thị thành nhưng cũng đủ yên tĩnh, lặng lẽ để con người suy ngẫm về cuộc sống và
cảnh ngộ của bản thân. Đây là kiểu mô hình cấu trúc không gian phù hợp để nhà văn chiêm
nghiệm cuộc đời, phơi bày thế giới nội cảm “phức tạp” của nhân vật và khám phá những vẻ
đẹp còn khuất lấp, đọng chìm trong tạo vật và con người.
Không gian huyện lị trong truyện ngắn Pauxtốpxki mang chất đìu hiu, lặng lẽ mà mơ
màng rất Nga. Đó là những vùng đất xa xôi, cách xa thủ đô, thành phố. Nó có đủ hấp lực để
“níu giữ” những con người tình cờ ghé qua hay lần đầu tiên đến “chung sống”. Không gian
như thực như mơ với cảnh sương mù đẫm nắng hay tuyết rơi trắng xóa, thảo nguyên rực rỡ
sắc hoa… thật phù hợp để Pauxtốpxki tạo ra một khung trời mơ mộng, nơi nhân vật thả hồn
cho bao suy tư hay mở lòng với những cảm xúc mới mẻ chợt đến…

@ Không gian đời tư, cá thể và không gian hành trình


Một kiểu không gian chiếm ưu thế trong truyện ngắn Thạch Lam là không gian đời
tư, cá thể. Dạng thức không gian này xuất hiện trong 20/33 truyện ngắn của Thạch Lam. Đó
là không gian sinh hoạt thường ngày của nhân vật: một căn phòng ấm cúng, một chỗ trọ, một
túp lều lụp xụp, một căn nhà tranh xơ xác, cái quán chơ vơ đầu làng, gian hàng tạp hóa nhỏ,
căn phòng nhà săm lạnh lẽo… Nó có tính chất tiếp nối, bắc cầu cái không gian bao quát của
phố huyện để “hiển thị” rõ hơn từng cảnh đời của nhân vật. Từ không gian phố huyện đến
không gian đời tư, cá thể, môi trường bao quanh con người càng lúc càng “co lại”, thu hẹp
đến mức bức bối, ngột ngạt. Nhân vật hiện ra trong bối cảnh ấy với bộn bề tâm trạng: nỗi lo
toan cơm áo, hạnh phúc gia đình, đau khổ và vui sướng, ấm êm và buồn tủi… Trong cái
quán nước chơ vơ đầu làng, người lính cảm thấy trơ trọi và hoài tiếc những mộng đẹp đã trôi
qua trong đời (Người lính cũ). Cô bé Liên (Hai đứa trẻ) thấm thía cái buồn man mác của
chiều quê khi ngồi trong gian hàng tạp hóa tối om và chứng kiến những liếp nhà xung quanh
chỉ hắt ra vài “hột sáng”. Cuộc đời cô hàng xén là cái vòng luẩn quẩn từ chợ trở về nhà mẹ,
rồi nhà chồng. Đây là kiểu không gian thể hiện rõ nhất chất tù đọng, mỏi mòn, âm u trong
cuộc sống các nhân vật ở trang viết của Thạch Lam.
Nếu như Thạch Lam tâm đắc với kiểu không gian sinh hoạt thì với Pauxtốpxki là
không gian hành trình. Không gian này trở lại trong nhiều truyện ngắn của Pauxtốpxki
(15/40 truyện), cho thấy dường như trong vô thức, tác giả đã lặp lại chính mình. Đây là kiểu
không gian “động”, “mở” với sự chuyển cảnh nhanh. Chuyến tàu thủy đưa Masa đi qua
những làng mạc, ruộng đồng, đặc biệt là vùng thảo nguyên rực rỡ sắc hoa và không gian của
chuyến đi đã cho cô những phát hiện thú vị: “mọi vật quanh cô quả thật rất bình thường,
nhưng cũng rất kì lạ” [65, tr. 257]. Cuộc hành trình từ nhà ga ở Matxcơva đến Ximfêrôpôn
trên một chuyến tàu đã mở ra một không gian rộng lớn với chuỗi khung cảnh phong phú mà
“lát cắt” của nó là những bức tranh tỉnh lị tuyệt đẹp: “Những cánh rừng bạch dương ẩm ướt,
những bãi lầy nhỏ và ánh sao mờ, những nhà ga lát đá được một ngọn đèn hộp cô độc chiếu
sáng, ánh lửa trong các làng, những cánh đồng cỏ vương vấn khói sương và rồi lại những
cánh rừng bạch dương xào xạc chạy trong bóng tối” [65, tr. 380]. Chiều dài của không gian
hành trình như “giãn nở” tối đa với các làng mạc nối tiếp nhau hiện ra trong tầm ngắm của
nhân vật. “Cánh đồng lúa chín vàng óng và thảo nguyên bát ngát xanh lại trải dài trước
mắt” [65, tr. 385]. Quả thật, không gian hành trình là sự “kéo giãn”, “nới rộng” không gian
tỉnh lị. Điểm đầu và điểm cuối trong không gian ấy thường là nhà ga, bến tàu – nơi diễn ra
những cuộc hội ngộ hay chia ly thú vị… Sân ga là nơi chàng sĩ quan Pêtrốp có cuộc gặp gỡ
Êlêna, người con gái có tâm hồn đồng điệu với anh (Cầu vồng trắng); nơi cô gái Naxtia thức
tỉnh và sống thật với cảm xúc đang trào dâng trong lòng. Cuộc chia tay bùi ngùi, lưu luyến
trong tình yêu giữa Masa và anh phi công (Cây tường vi); Onga – Kuzmin (Bình minh mưa)
đã diễn ra ở bến tàu thủy. Trên thùng xe tải, một chuyến xe đêm, hay tàu tốc hành, các nhân
vật có cuộc hội ngộ đầy bất ngờ, những cuộc chuyện thân tình, ấm cúng. Do vậy, không gian
hành trình còn là nơi gặp gỡ của tình yêu, của cái đẹp, là môi trường thích hợp để chủ thể
nhận thức khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của tạo vật và cảm xúc mới mẻ trong lòng mình. Việc
lựa chọn kiểu không gian này có sự chi phối của sở thích “xê dịch” mà ông đã thực hiện nó
trong hầu hết cuộc đời.

@ Không gian tâm tưởng


Không gian tâm tưởng là dạng thức không gian phổ biến trong cả truyện ngắn Thạch
Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki. Không gian này rất đa chiều, giàu sức biểu hiện, phụ thuộc
vào sự vận động tư tưởng, tình cảm, thế giới tinh thần của nhân vật, của tác giả. Nó có sự
trộn hòa giữa hiện thực và ước mộng. Pauxtốpxki đã sử dụng không gian tâm tưởng để biểu
đạt sự tưởng tượng phong phú của con người. Trên thùng xe tải, nhân vật “tôi” thả hồn phiêu
du vào miền thảo mộc thơ mộng: “Khu rừng kéo thành một dải hẹp (chỉ độ hai cây số, không
hơn), còn sau rừng là cả một bình nguyên cát, nơi những cánh đồng lúa mì đang chín, lấp
lánh và lay động theo chiều gió. Đằng sau bình nguyên là một rừng tùng bách hoang dại
thẳng cánh chim bay” [65, tr. 230]. Trí tưởng tượng tiếp tục dẫn dắt nhân vật xâm nhập sâu
hơn vào thế giới của rừng: “Nếu anh bước vào trong, anh sẽ cảm thấy như mình bước vào
một giáo đường to lớn, hùng vĩ, tràn đầy bóng mát. Thoạt đầu, anh phải theo con đường tắt
hẹp đi ngang một cái ao phủ đầy bèo tấm giống như một chiếc thảm cứng màu xanh lá mạ.
Nếu anh đứng lại bên ao, anh sẽ nghe thấy lép bép: đó là những con cá chép tìm ăn rong
nước” [65, tr. 231]. Không gian tâm tưởng của nhân vật mở rộng cả ba chiều theo dòng ý
nghĩ miên man của nhân vật “tôi”. Tương tự, Alan đã “đi” lạc vào cõi mộng, liều thuốc độc
không ngăn được đôi cánh của tâm hồn ông: “Trời trở nên tối và ngột ngạt hẳn, nhưng trong
bóng đêm Alan vẫn nhìn thấy bình nguyên nở đầy hoa tím” (Bình nguyên tuyết phủ) [65, tr.
371]. Một không gian của hoài niệm và mộng ước đã đồng hiện trong tâm trí của ông lão
Iôhan qua tiếng đàn diệu kì của nhạc sĩ thiên tài Môza: “Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và
nàng, vì xúc động đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, và Mácta cười. Nàng cười”
(Người bếp già) [65, tr. 375]. Trong dòng chảy âm nhạc của Êđua Grigơ, cô bé Đanhi nhận
ra “đó đúng là cánh rừng của nàng, quê hương nàng”, “những ngọn núi của nàng, những bài
hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê” (Lẵng quả thông) [65, tr. 395]. Không
gian tâm tưởng trong truyện ngắn của Pauxtốpxki thường sống động, tươi tắn, êm đềm như
một khung trời cổ tích để nhân vật tìm thấy sự chở che, nâng đỡ cho tâm hồn mình.
Không gian tâm tưởng trong truyện ngắn của Thạch Lam chủ yếu thể hiện qua dòng
hồi ức, sự cắt dán không gian quá khứ vào không gian hiện tại. Khung cảnh của những “hàng
cà phê”, “tiệm khiêu vũ”, “cánh đồng nho”, “giếng rượu nho giữa làng”, những tỉnh lị xa xôi
của nước Pháp được tái hiện qua sự hồi tưởng của người lính cũ với một niềm tiếc nhớ xót
xa. Khung cảnh của miền quê thân thương hiện lên trong trí Diên với bao hoài tiếc: “Diên lại
nghĩ đến cánh đồng ruộng ở quê hương, đến những rặng cây mà ánh sáng buổi ban mai làm
rung động đến cái hình dáng đáng yêu của Mai khi đi bên mình chàng” (Trong ánh sáng
buổi chiều) [65, tr. 169]. Không gian bao quanh chàng văn sĩ Thành nhuốm màu hiu hắt của
một tâm hồn hụt hẫng, chơi vơi: “Mưa bụi đã tạnh từ lâu và nền mây xám tách ra, để lọt một
tia nắng vàng dịu lướt nhẹ trên ruộng mạ xanh non, trong trẻo và mong manh quá như sắp
tắt” (Cuốn sách bỏ quên) [65, tr. 178]. Khung cảnh lạnh lẽo của Hà Nội đêm ba mươi dù
hiện lên qua sự miêu tả của người kể chuyện nhưng người đọc vẫn thấy rõ ràng nó thấm
đượm tâm tư của hai cô gái sống đời trụy lạc: “Mưa bụi vẫn bay tơi tả, hình như bóng tối
khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp bùn, không một bóng
người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu khắp cả các phố Hà Nội đêm
nay” (Tối ba mươi) [65, tr. 205]. Không gian tâm tưởng trong truyện Thạch Lam thường
được tái tạo bởi nỗi niềm hoài tiếc quá vãng của nhân vật nên nó mang dư vị xót xa, thể hiện
sự xung đột giữa quá khứ và hiện tại trong cuộc đời nhân vật.

3.2.4.2. Thời gian nghệ thuật


Con người tồn tại trong không gian và suy ngẫm bằng thời gian. Thời gian nghệ thuật
bao giờ cũng là thời gian được quan niệm, thời gian cảm nhận, lí giải theo một ý tưởng nghệ
thuật của người nghệ sĩ. Vì vậy, thời gian nghệ thuật mang tính cá nhân của chủ thể sáng tạo.
Hai dạng thức thời gian chủ yếu trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn
Pauxtốpxki là thời gian vật lí và thời gian tâm trạng
@ Thời gian vật lí
Thời gian vật lí được hai nhà văn lựa chọn trên cơ sở thời gian thời lịch. Đó là dạng
thời gian đơn giản, có tính chất ổn định, trực tiếp gắn liền với việc miêu tả các hành động,
các sự kiện và biến cố trong tác phẩm. Thời gian vật lí xuất hiện trong sáng tác của Thạch
Lam và Pauxtốpxki với sắc thái nhạt nắng. Với thời gian trong ngày, phần lớn các nhà văn
ưa thích thời gian không chói sáng nắng, thường là từ chiều tà, đêm tối, rạng sáng, buổi sớm.
Với thời gian trong năm, phần lớn họ chọn thu và đông, xuân ít hơn và hè rất hiếm hoi.
Gương mặt bốn mùa xuất hiện cụ thể (trong 33 truyện ngắn Thạch Lam và 40 truyện ngắn
Pauxtốpxki) với tần số như sau:
Truyện Truyện ngắn Truyện ngắn
Thạch Lam Pauxtốpxki
Gương Số lượng tác Số lượng tác
Mặt các mùa phẩm phẩm
Xuân 0 2
Hè 3 1
Thu 1 2
Đông 11 19
(Bảng khảo số tần số xuất hiện của các mùa trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn
Pauxtốpxki)
Qua khảo sát chúng tôi thấy mặc dù hai nhà văn tập hợp trong trang viết của mình
hương sắc bốn mùa thì gương mặt mùa đông vẫn chiếm vị trí chủ đạo.
Mùa đông trong trang viết của Pauxtốpxki nổi bật bởi sắc trắng của tuyết. Trong 40
truyện ngắn mà chúng tôi khảo sát, có 19 truyện có sự xuất hiện của tuyết. Ở một số truyện,
mật độ xuất hiện của nó thật dày đặc. Chẳng hạn:

Số lượng trang Tần số xuất


Tác phẩm của truyện hiện của từ Tỉ
“tuyết” (lần) suất
Tuyết 10 13 1.30
Chiếc nhẫn bằng thép 6 19 3.16
Cầu vồng trắng 7 15 2.14
Suối cá hương 6 8 1.33
(Bảng khảo sát tần số xuất hiện của từ “tuyết” trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki )
Do nằm ở vĩ độ cao nên khí hậu Nga thuộc loại hàn đới và ôn đới – mùa đông kéo dài
rất lạnh, mùa hè ngắn. Hơn nữa, “những vùng gần cực thì hầu như không có mùa hè, đất đai
quanh năm bị cứng lạnh do các dãy núi bao bọc phía Tây Nam và Đông đã ngăn chặn ảnh
hưởng của các đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương cũng như khối khí vùng
Nam Á. Riêng vùng băng giá và vùng đài nguyên, nhiệt độ rất lạnh, băng tuyết phủ kín chín
tháng liền” [90, tr. 32].
Nếu như mùa đông ở Nga ngập tràn tuyết trắng thì ở Việt Nam là cảnh mưa phùn, gió
bấc và cái rét cắt da. Dù chỉ xuất hiện trong 8/33 truyện ngắn nhưng gương mặt mùa đông
đồng bằng Bắc Bộ đã được Thạch Lam khắc họa rõ nét. Nó có đầy đủ những đường nét khắc
khổ, dữ dội: “gió lạnh rít qua mái tranh, giá lạnh và gió mưa lầy lội” [44, tr. 17], “mưa
phùn ẩm ướt và tối tăm” [44, tr. 35], “trời rét như cắt ruột mà gió lại thổi mạnh” [44, tr.
69], “mặt đất rắn lại và nứt nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên tanh tách dưới nhịp
guốc hai chị em” [44, tr. 91], “gió bấc vi vút từng cơn” [44, tr. 210], “sương trắng còn đầy
ở các ngõ trong làng” [44, tr. 216]… Đây là vùng đồng bằng duy nhất ở Việt Nam có một
mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18 Co. Hơn nữa, khó khăn trở
ngại của khí hậu vùng này là tính chất thất thường của nó. Tuy nhiên, nó trở thành nét đặc
trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ, bước vào trang văn Thạch Lam, nó lấp lánh vẻ đẹp của
chất thực hòa quyện trong chất thơ.
Cố nhiên, gắn liền với thời gian của giá lạnh, buồn bã ấy là một không gian thưa vắng
tiếng ồn ào, có nhiều khoảng tối. Bối cảnh ấy tương hợp với cái “gu” ưa sự nhẹ nhàng, sự
xao động không phải ở cảnh vật mà ở tâm tư con người của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Mặt
khác cái giờ khắc cuối ngày, cuối năm ấy kết hợp với không gian phố huyện tạo thành cái
trục không – thời gian thích hợp, hiển thị rõ chất tù đọng, bế tắc, mỏi mòn để cảnh đời các
nhân vật của Thạch Lam được phơi bày. Cũng trong bối cảnh ấy, một cuộc gặp gỡ tình cờ,
một cảm xúc mới mẻ chợt đến bỗng nhiên trở thành điều huyền diệu mà có lẽ nó “đi theo”
nhân vật của Pauxtốpxki suốt cả cuộc đời.
Phương thức thể hiện thời gian trong tác phẩm thường là tuyến tính, vận động xuôi, từ
buổi chiều đến đêm tối (thường gặp ở truyện ngắn Thạch Lam) hay từ đêm tối đến rạng sáng
(thường gặp ở truyện ngắn Pauxtốpxki). Tiết tấu của thời gian chậm, nhịp nhàng, không dồn
dập mà trầm lắng, hòa vào dòng chảy tâm trạng nhân vật.

@ Thời gian tâm trạng


Truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki đa phần được triển khai theo “hành trình”
tâm trạng của nhân vật. Đồng hiện với không gian tâm tưởng, thời gian tâm trạng đánh dấu
các cung bậc xúc cảm của con người trong sự nhận biết, thụ cảm về cuộc sống.
Thời gian tâm trạng trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trước hết là thời
gian hồi cố. Ở thời điểm hiện tại, con người tìm về quá khứ với bao niềm nỗi. Thời gian hoài
niệm trong truyện ngắn Thạch Lam thường chùng xuống trước những giằng xé, thao thức khi
nhân vật nhớ lại những ý định hay hành động tội lỗi (Một cơn giận, Sợi tóc). Thời gian kéo
giãn, dài lê thê trong sự hồi tưởng về quãng đời từ lúc đi lấy chồng của Tâm: “Bảy tám năm
qua mà Liên tưởng đã lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người” [44, tr. 65]. Thời gian như
một cỗ máy với những vòng quay đều đều, rệu rã trong cái nhìn “tổng kết” cuộc đời của cô
hàng xén: “ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ” [44, tr. 225]. Trong trang viết của
Pauxtốpxki, thời gian của dòng hồi tưởng thường ánh lên những khoảnh khắc của niềm vui
và hạnh phúc. Masa “nghĩ luôn đến chuyến đi vừa qua của cô, đến nỗi có lần nằm mê thấy
chuyến đi ấy trở lại”[65, tr. 259]. Alan cảm thấy trong quãng đời đã qua của chàng “nếu như
bỏ đi những năm đói khổ, mất mát và lầm lạc, xuất hiện trong bất cứ lần nào chàng chung
đụng với mọi người thì cũng vẫn cứ còn lại vài chục ngày dịu dàng và êm ả như cái êm ả của
tuyết đang rơi này” [65, tr. 360]. Người đầu bếp già thấy được ngày đầu tiên ông gặp người
vợ hiền yêu dấu với bao bối rối, mê say…
Mặt khác, nếu thời gian tâm trạng trong truyện của Pauxtốpxki thường hướng đến
tương lai với niềm tin, hi vọng với thời khắc bắt đầu một ngày mới thì ở truyện ngắn Thạch
Lam, nó dường như “đóng khung”, ngưng lại trong hiện tại với đêm tối bao bọc. Biểu trưng
cho những thời khắc trên là hình ảnh“Bóng tối” và “ánh sáng”, hai đại lượng nghịch biến
đồng xuất hiện, tạo thành điểm nhấn đầy ấn tượng cho bức tranh phông nền trong truyện
ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.

Truyện ngắn Thạch Lam Truyện ngắn Pauxtốpxki


Số lượng Số lần Số lượng Số lần
tác phẩm tác phẩm
Từ chỉ “bóng 14 50 14 24
tối”
Bình minh 3 3 8 28
(Bảng thống kê tần số xuất hiện của từ chỉ “bóng tối” và từ “bình minh” trong truyện ngắn Thạch
Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki)
Ý nghĩa bóng tối
Nghĩa (1) Nghĩa (2) Nghĩa (3)
Truyện ngắn Thạch Lam 57,1% 28,6% 14,3%
Truyện ngắn Pauxtốpxki 0% 85,7% 14,3%

(Sơ đồ khảo sát ý nghĩa bóng tối trong 14 truyện ngắn của Pauxtốpxki và 14 truyện ngắn Thạch Lam)
Nghĩa (1): Bóng tối biểu trưng cho tình cảnh bế tắc, cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người
(tập trung ở những tác phẩm Hai đứa trẻ, Một cơn giận, Người lính cũ, Tối ba mươi, Cô
hàng xén, Người bạn cũ, Trong bóng tối buổi chiều, Buổi sớm )
Nghĩa (2): Bóng tối là thời khắc vật lí, mang lại cho con người cảm giác bình yên, dễ chịu
(Nắng trong vườn, Tiếng chim kêu, Người đầm, Bóng người xưa; Chuyến xe đêm, Cội nguồn
sáng tạo, Đêm trắng, Binh minh mưa, Cầu vồng trắng, Người đầu bếp già, Chú bé chăn bò,
Suối cá hương, Truyện ngắn đầu tiên, Bức điện, Bình nguyên tuyết phủ, Lẵng quả thông)
Nghĩa (3): Bóng tối là không gian “an toàn”, giúp con người che giấu những bí mật (tập
trung ở các tác phẩm Bắt đầu, Đêm sáng trăng ; Gió biển, , Cây tường vi).
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, trong tương quan giữa ánh sáng và bóng tối, ở
truyện ngắn Thạch Lam, bóng tối luôn chiếm ưu thế. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ, bức tranh
cuộc sống sinh hoạt của con người đậm đặc bóng tối, tưởng như có thể xắn nó ra thành từng
miếng: “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”[44, tr. 153], “Vũ trụ thăm
thẳm bao la”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các
ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa” [44, tr. 154], “Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh,
đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 157]. Đối lập
với bóng tối là hình ảnh ánh sáng với đủ loại kích cỡ: “một khe ánh sáng” [44, tr. 153], “vệt
sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào cành cây” [44, tr. 153], “một
chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra”[44, tr. 153],
“ngọn đèn con của chị Tý”, “bếp lửa của bác Siêu”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ,
thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa” [44, tr.154], “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như
ma trơi”, “những đốm than đỏ bay tung trên mặt đất” [44, tr. 156]. Dường như ánh sáng
nhỏ nhoi ấy đã bị bóng tối “thôn tính” và “nuốt chửng”. Ở một số truyện ngắn khác của ông
như Đêm sáng trăng, Cô hàng xén, Người lính cũ, Người bạn cũ, Bóng người xưa, Tối ba
mươi, bóng tối vẫn là gam màu chủ đạo. Có những truyện mở đầu là buổi chiều tối và kết
thúc bằng buổi tối với bóng đêm bao bọc lấy nhân vật như Hai đứa trẻ, Trong bóng tối buổi
chiều, Cô hàng xén. Lại có những truyện, bóng tối vừa là điểm xuất phát và cũng là điểm kết
thúc của câu chuyện như Người lính cũ, Người bạn cũ, Tối ba mươi. Bóng tối đeo đẳng, theo
bám lấy con người như cái vòng đời luẩn quẩn, tăm tối, đầy lo sợ mà họ không cách gì thoát
ra được: “chung quanh chúng tôi, cái đen tối của đêm khuya dày đặc” [44, tr. 73]; “Nhưng
Liên không nghỉ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng
yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối” [44, tr. 157]; “Tâm dấn bước. Cái
vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc.[…] Nàng
cúi đầu đi mau vào ngõ tối” [44, tr. 225]… Bóng tối trong truyện ngắn Thạch Lam là hình
ảnh ẩn dụ. Phần lớn nó biểu trưng cho cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người. (Một phần nó
đem lại cho con người cảm giác dễ chịu hay đồng lõa với bí mật của con người). Nó phản
ánh chân thật bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, trước cách mạnh
tháng Tám. Các nhà văn cùng thời với Thạch Lam như Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh,
Nam Cao cũng phản ánh hiện thực xã hội ấy thông qua những trang viết in dấu nỗi buồn cả
thế hệ.
Trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, tỉ lệ giữa bóng tối và bình minh xấp xỉ nhau, có
phần nghiêng về phía bình minh. Bình minh – những tia nắng tinh khôi, trong trẻo của một
ngày mới – là biểu trưng cho niềm vui, hạnh phúc và hi vọng, đem lại cho con người sự
ngưỡng vọng và tôn thờ. Họ canh bình minh, chờ đợi bình minh và say sưa đứng ngắm bình
minh (Cây tường vi, Đêm trắng, Cội nguồn sáng tạo). Cùng với bình minh là nguồn sáng rực
rỡ: ngọn nến, ánh đèn điện, mặt trăng, các vì sao, ánh sáng của tuyết trắng, mặt trời, đêm
trắng… Có những tác phẩm mở đầu là hình ảnh bóng tối và thời khắc ban đêm nhưng kết
thúc là hình ảnh của bình minh như Bình minh mưa, Người đầu bếp già. Phần lớn trong các
truyện ngắn của mình, Pauxtốpxki chọn bình minh là thời điểm kết thúc truyện, gieo vào
lòng người đọc niềm tin bất diệt ở tương lai, như ở các truyện Trái tim nhút nhát, Gió biển,
Lời cầu nguyện của Mađam Bôvê, Gió Xôrănggiơ, Đám đông trên đại lộ bờ biển. Có những
truyện kết thúc vào thời điểm cuối ngày hoặc ban đêm nhưng các nhân vật được bao bọc
trong nguồn sáng có cường độ mạnh, chói lòa: “Bên ngoài cửa sổ, hoàng hôn mờ mờ vẫn
còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được” [65, tr. 284] (Tuyết), “Và vừng sáng xanh biếc của
những ngôi sao mọc trên đỉnh núi nối đuôi nhau lấp lánh” [65, tr. 331] (Cầu vồng trắng),
“Bầu trời chan hòa ánh sáng đến nỗi mắt cụ Kudơma thu hẹp lại và cụ luôn cười vui vẻ [65,
tr. 354] (Chiếc nhẫn bằng thép). Nhìn chung, bức tranh phong cảnh trong truyện ngắn
Pauxtốpxki luôn có sự vận động từ đêm tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn sang niềm vui, từ lạnh
giá, cô đơn sang hạnh phúc. Dường như các nhân vật của Pauxtốpxki luôn hướng đến nguồn
ánh sáng với niềm hi vọng mãnh liệt vào ngày mai. Bóng tối trong truyện ngắn Pauxtốpxki
cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể nhưng nó lại góp phần mang đến cho nhân vật và cả người đọc
cảm giác dễ chịu, yên bình.
Các dạng thức không gian và thời gian ở trên được các nhà văn thể hiện trong tác
phẩm không như các phần tử tách rời, rạch ròi mà chúng xâm nhập vào nhau, chuyển hóa
trong nhau, tạo nên bối cảnh và không khí trữ tình, làm “giá đỡ” cho câu chuyện vốn ít ỏi sự
kiện, biến cố nhưng giàu sự tình.

3.3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật


3.3.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình, thương mến
Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm văn học,
mang đầy đủ bản sắc, dấu ấn của cá tính sáng tạo. Vì vậy, giọng điệu thể hiện tài năng,
phong cách của nhà văn. Giọng điệu chịu sự quy định không chỉ của cá tính sáng tạo mà còn
cả ở phía loại hình. Truyện ngắn trữ tình thuộc loại hình văn xuôi trữ tình, nghiêng về phía
biểu cảm nên chất giọng thường đằm thắm, trữ tình sâu lắng, thấm đượm một nỗi buồn. Đây
cũng chính là nét tương đồng tạo thành bè chủ cho giọng điệu trần thuật của truyện ngắn
Thạch Lam, Pauxtốpxki.
Dấu ấn riêng trong giọng điệu Thạch Lam là chất giọng thuộc gam trầm, điềm tĩnh,
khoan hòa, đượm một nỗi buồn thương. “Người thơ phong vận như thơ ấy”1, đọc văn ông ta
hình dung một con người nhỏ nhẹ, khiêm nhường, từ tốn, dù ông kể chuyện vui hay chuyện
buồn.
Chất giọng thủ thỉ, tâm tình một cách nhỏ nhẹ, kín đáo của Thạch Lam thật phù hợp
với những câu chuyện mang dáng dấp một lời tự thú, sám hối. Ngay từ phần mở đầu, nó đã
tạo được không khí thân mật, tự nhiên, sự đồng vọng, chia sẻ từ phía người nghe. Chẳng hạn:
“Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết,
vì chính tôi đã trải qua sự đó. Tôi sẽ kể cho các anh nghe một câu chuyện mà cái kỉ niệm
còn in sâu trong trí nhớ tôi” [44, tr. 28]; hoặc “Cuộc đời có nhiều cái chế giễu đắng cay và

1
Thơ Hàn Mặc Tử
đau đớn làm cho chúng ta đột nhiên hiểu ra cái ý nghĩa chua chát và sâu xa. Tôi sẽ kể câu
chuyện dưới đây làm chứng cho sự ấy” [ 44, tr. 47].
Cũng chất giọng ấy, khi kể về những số phận đáng thương, mòn mỏi, bế tắc, giọng kể
của Thạch Lam có pha nỗi xót xa, thương cảm, trìu mến. Tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác
giả lan tỏa, thấm đẫm từng trang viết, in dấu lên từng kiếp người, quy định chất giọng trầm
lắng nhưng có sức khơi gợi sâu xa. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ: “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà
Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi
qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vùng sáng ngọn đèn của chị Tý và
ánh lửa bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng
ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 158] hay:“trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung
ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng mới là chết đuối, chết không
bấu vào đâu được, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa [44, tr. 87].
Cùng lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu trần thuật, ở Xuân Diệu là
giọng trữ tình nồng nàn, mãnh liệt, ở Hồ Dzếnh là trữ tình thống thiết. Còn Thạch Lam, văn
ông luôn nhất quán chất giọng nhỏ nhẹ, từ tốn, chừng mực, thể hiện cái nhìn trìu mến thiết
tha trước vẻ đẹp bình dị, nên thơ của cuộc sống con người.
Văn Pauxtốpxki là những rung cảm thiết tha trước cái đẹp của cuộc sống và tình
người. Giọng văn của Pauxtốpxki thường mang một sắc điệu đằm thắm, dịu ngọt, phảng phất
nỗi buồn êm dịu. Chất trữ tình trong giọng văn ông được bộc lộ một cách nồng nàn trong
tình yêu đối với thiên nhiên tươi đẹp, với những tỉnh lị xa xôi, những miền quê yêu dấu.
Chẳng hạn:
“Sau khi phải thở hít cái không khí ngột ngạt của cánh rừng non mà được nằm nghỉ
ngay dưới cây thông đầu tiên cành lá lòa xòa thì thật là thú vị. Ta nằm ngửa ra, cảm thấy
đất mát rượi dưới lần áo mỏng và nhìn lên trời. Rồi có thể, thậm chí ta thiếp đi vì những đám
mây trắng với những viền chói lọi làm cho ta buồn ngủ” [65, tr. 120]
Trong bè chủ trữ tình ấy vang ngân những hợp âm trong trẻo, vui tươi, hóm hỉnh khi
ông viết về những con vật nhỏ bé trong Vườn nhà bà:
“Những con sáo thường đánh nhau với các con quạ con và khi đã bình tĩnh lại chúng
ngồi rải ra trên các cành cây đoạn bách niên hót ríu rít ấy không chỉ làm cho con ếch vốn
quen với yên tĩnh mà cả bà cũng phải thấy đau đầu. Bà ra tam cấp mắng lũ sáo, lấy khăn
mặt xua chúng. Khi đó những con sáo nhảy lên cành cao hơn, im hơi một lúc, rồi lại bắt
chước những người tiều phu cưa gỗ. Như thế lại còn tệ hơn cả những tràng liên thanh.
Con ếch sợ con ễnh ương – thứ ếch nhỏ chuyên sống bám vào gỗ, đùi to. Nó ngồi trên
cành cây giương mắt nhìn và im lặng. Ít khi nó kêu lắm, chỉ họa lúc trời sắp mưa. Lúc đó
trong rừng im phăng phắc và nghe thấy tiếng sấm từ bầu trời xa vang lại” [65, tr. 440].
Hay:
“Con sẻ già Xiđơrơ đang đậu trên chiếc sào ngủ, mình tròn như một quả bóng nhỏ.
Suốt mùa đông Xiđơrơ sống trong nhà ông Kudơma, đàng hoàng như chủ nhân. Nó không
những bắt Varusa phải vì nể nó mà cả ông Kudơma nữa” [65, tr. 351].
Những truyện viết về vẻ đẹp của tình người, của lòng nhân ái cũng cùng chất giọng ấy.
Những rung cảm tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, dạt dào tình thương đã tạo
nên thi hứng nồng nàn và phong vị trữ tình, đằm thắm cho văn ông. Những truyện ngắn ở tập
Bông hồng vàng giọng văn ông thủ thỉ, tâm tình, không lên gân, không khoa trương, ông từ
tốn, chân thành chia sẻ những kinh nghiệm, đúc kết về “nghề văn và kinh nghiệm viết văn”.
Vì thế nó mang đến cho người đọc ấn tượng về sự chân thực cho những trang viết.
Kể về một cuộc chia tay đầy luyến tiếc của một mối tình vừa chớm (Bình minh mưa),
cuộc đời nhiều đau buồn của một nhà văn có tài (Bình nguyên tuyết phủ), nỗi mất mát trong
chiến tranh (Trái tim nhút nhát), giọng văn ông phảng phất nỗi buồn, thoáng ngậm ngùi
nhưng vẫn nồng nàn, tha thiết, nhẹ nhàng thấm vào hồn người như những giọt sương sớm
mai.
Như vậy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lựa chọn chất giọng trữ tình làm bè chủ
cho giọng điệu nghệ thuật. Văn các ông mềm mại, uyển chuyển, giàu chất thơ mà vẫn tinh
gọn, giản dị như những bài thơ văn xuôi.

3.3.2. Ngôn ngữ của đời sống và của tâm hồn


Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam, truyện ngắnn Pauxtốpxki là
ngôn ngữ của đời sống hằng ngày đã được tinh lọc. Nó mang vẻ đẹp trong sáng, hiện đại,
giản dị mà tinh tế. Ấn tượng chung nhất khi đọc những câu văn của Thạch Lam và
Pauxtốpxki là tính nhạc cảm và hình tượng toát ra từ hệ thống ngôn từ. Sự huy động các
động từ chỉ hoạt động tâm lí, các tính từ; sự dung nạp các yếu tố ngôn ngữ thơ vào ngôn ngữ
văn xuôi đã mang lại cho truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki vẻ đẹp mượt mà sâu lắng. Ở
đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu sự giống và khác nhau của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện
ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki ở những khía cạnh sau:
3.3.2.1. Sự xuất hiện với tần số cao các động từ chỉ hoạt động tâm lí và các tính từ
Là những bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, Thạch Lam, Pauxtốpxki đã huy động vào
truyện ngắn của mình một loạt các động từ chỉ hoạt động tâm lí nhằm biểu lộ một cách sâu
sắc thế giới nội cảm của nhân vật: cảm thấy, cảm giác, suy nghĩ, lo lắng, hờn giận, yêu mến,
tưởng tượng, băn khoăn, ngờ vực, bối rối, sung sướng, cảm động, hạnh phúc...
Trong truyện ngắn Thạch Lam, động từ cảm thấy, thấy (với nghĩa là cảm thấy) xuất
hiện với mật độ dày đặc, tạo thành một “mã” nghệ thuật của văn phong Thạch Lam. Theo
thống kê, từ cảm thấy xuất hiện trong truyện ngắn Thạch Lam 90 lần. Riêng Pauxtốpxki ,
ông chọn mã nghệ thuật là : Có + cảm giác...; cảm giác.... Ví dụ:
Cử chỉ đó làm tôi có cảm giác cô là một cô bé... [65, tr. 79].
Tôi luôn cảm giác rằng sở dĩ có được những đêm như thế là nhờ ở lòng hào hiệp vô
cùng rộng rãi của thiên nhiên [65, tr. 133].
Nhưng tôi có cảm giác như vậy...cảm giác cô đơn, chán ngấy [65, tr. 320].
Nàng có cảm giác như người đàn ông gầy gò, mặc áo đuôi tôm đang tuyên bố chương
trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng [65, tr. 394].
Tôi có cảm giác rằng chỉ vì nàng mà những biển phương Nam đã đổ lên bãi cát những
tấm gương nước [65, tr. 458].
Tôi có cảm giác rằng trong tiếng kêu quốc tế ấy, ở đây, ở Pari, chúng mang một phong
cách tao nhã đặc biệt [65, tr. 460] ...v.v
Bên cạnh đó, lớp tính từ cũng xuất hiện với một mật độ dày đặc trong truyện ngắn
Thạch Lam – Pauxtốpxki. Khảo sát trong một số đoạn văn ngắn ta bắt gặp sự xuất hiện đông
đảo của chúng. Chẳng hạn trong truyện ngắn của Thạch Lam, với một đoạn văn 3 câu mà có
8 tính từ xuất hiện:
“Buổi chiều rất êm ả. Về phía tây, mây trời rực rỡ những mầu sáng lạn và ánh nắng
chiều loang một khúc sông, trông như một giải vàng nổi lên giữa đồi ruộng đã bắt đầu tím
lại. Một đàn chim đi ăn về vút bay ngang đầu, tiếng cánh vỗ rào rào như trận mưa; tôi
ngửng lên nhìn theo đến khi cái vết đen linh động của đàn chim lặn hẳn với chân mây” [44,
tr. 103].
Hay ở một đoạn văn khác, tính từ cũng được huy động với mật độ dày đặc:
“Thành khẽ thở dài. Những ý nghĩ ngờ vực đó xôn xao trong óc chàng. Thành mân mê
cuốn sách tựa như có thể tìm được trong ấy câu trả lời. Rồi thẫn thờ, chàng để sách xuống
lòng, áp trán vào cửa kính nhìn ra ngoài. Mưa bụi đã tạnh từ lâu và nền mây xám tách ra, để
lọt một tia nắng vàng dịu lướt nhẹ trên ruộng mạ xanh non, trong trẻo và mong manh quá
như sắp tắt, Thành thấy cái vui trong lòng chàng cũng trong sáng và mong manh như thế,
chỉ một chút nghi ngờ, một chút lạnh lẽo cũng đủ làm cho tan đi. Thành không nói gì nữa,
chàng khe khẽ khép cuốn sách lại, và ngồi yên lặng như mơ màng” [44, tr. 178].
Cả một đoạn văn dài êm mượt và trôi đi trong dòng cảm xúc miên man nhờ những tính
từ giàu sức gợi cảm giác:
“Vùng Sen cứ luôn luôn ám ảnh trí tưởng tượng non nớt của tôi. Nhiều lần, tôi lẻn ra
đằng sau nhà, đứng lên một mô đất nhìn sang bên kia sông, nhìn khu nhà nấp bên cây cối,
cái quán trơ vơ và rặng cây trên bờ đê, bên con đường đi không biết về đâu, về những chốn
xa xăm nào tận bên kia dải đồi núi lờ mờ xanh ở chân trời; với tôi, sinh trưởng ở chốn đồng
bằng bùn lầy nước đọng, đồi núi quyến rũ như một tiếng gọi lạ lùng. Trong dải núi ấy, có
một quả đồi mà những buổi chiều nắng trong, tôi thấy nổi đỏ lên trời xanh. Trên đỉnh đồi,
người ta thấy rõ một chùm cây, mẹ tôi bảo đó là chùa Thiên Thai. Thiên Thai! Cái tên huyền
ảo thần tiên ấy khiến tôi nghĩ đến những chốn bồng lai xinh đẹp, chốn vui chơi của những
tiên ông mà thầy tôi vẫn đọc đến tên trong các truyện và kể cho tôi nghe. Rôi tôi thơ thẩn
cho đến buổi chiều, đến lúc mặt trời thấp xuống, để được trông cả vùng bên kia sông chói
lòa, rực rỡ tia ánh nắng; rồi tối hơn nữa, lúc chỉ còn ráng chiều chiếu các nền mây, được
trông dãy nhà mờ đi và thấp xuống, lẫn vào mặt đất, và hai gốc thông cao lên, nổi đen trên
da trời [44, tr. 190].
Cũng như Thạch Lam, Pauxtốpxki sử dụng tính từ với một số lượng lớn. Dù chỉ tiếp
xúc với những bản dịch nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được sự êm mượt, uyển chuyển sắc
thái biểu cảm cao của trang văn Pauxtốpxki do lớp tính từ mang lại. Chỉ xét một vài đoạn
văn ta thấy rõ điều đó:
“Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lị tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh
cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người
đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại
sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. Ta đang ở đâu
đây? – chàng nghĩ - Cái tỉnh lị Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra
những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng,
giữa đêm hôm khuya khoắt thế này, một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một
bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Ba Lan, con sông Vixoa êm đềm và
rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!” [65, tr. 313]
Hay:
“Ở bục gỗ cuối cùng, họ dừng lại. Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con
tàu. Hơi nước xả rít lên. Tim Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng, ngay bây giờ thôi, chàng sẽ
phải chia tay với một thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với
nàng mà không nói được gì; không nói gì hết. Cũng chẳng cảm ơn nàng đã gặp chàng trên
đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn
chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rủ xuống phía
trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ: “Anh cúi xuống”. Và chàng
ngoan ngoãn vâng theo [65, tr. 323].
Và ở một đoạn văn khác, các tính từ chỉ hình dáng, kích thước, màu sắc cũng được
huy động với tần số cao:
“Những con đường ngoằn ngoèo và hoang vắng từ thung lũng bị hạn hán thiêu đốt
chạy lên trên những thành phố ấy, và trên đường, những chú lừa lon ton chạy. Ta trông rõ
hơn và cả những đôi tai sẫm màu của chúng. Chân lừa khẳng khiu lẫn vào trong màu bụi đá
đen và vì thế không thể nào trông thấy. Tôi ngắm mãi những thành phố ấy, những thành phố
hẹp bên những mặt nhà héo khô vì già lão, những biển quảng cáo chiếu bóng sặc sỡ và đá
cẩm thạch nứt nẻ trong những bồn phun nước vỡ, những cây ôliu xù xì như đúc bằng thiếc
xốp trong các vườn, và nghĩ rằng có thể, trong thành phố kia tôi đã có một trái tim gần gụi –
trái tim kia cũng êm dịu như hơi ấm của bên má nhỏ bé và rực đỏ của cô thôn nữ nọ. Và nếu
như trong cuộc sống có lúc nào lòng tôi trĩu nặng thì trái tim hồn nhiên kia sẽ chẳng khi nào
từ chối giúp đỡ và an ủi tôi” [65, tr. 432].
Việc sử dụng các động từ chỉ hoạt động tâm lí và tính từ với tần số cao, có hiệu quả đã
khiến chúng phát huy hết “nội lực”, đem lại cho trang văn Thạch Lam và Pauxtốpxki vẻ đẹp
trong sáng, truyền cảm, hấp dẫn lạ thường.

3.3.2.2. Sự “gia nhập”, tăng cường các biện pháp tu từ


Thạch Lam, Pauxtốpxki đã tạo nên những trang văn giàu hình tượng và biểu cảm nhờ
sự “gia nhập”, tăng cường các biện pháp tu từ ẩn dụ và so sánh. Pauxtốpxki đã xây dựng
thành công những biểu tượng của văn chương như bụi quý, bông hồng vàng, “bòn đãi bụi
quý”, “đánh bông hồng vàng” (Bụi quý), hạt cát biểu trưng cho ý nghĩa giáo dục dù ít ỏi
nhưng đầy ý nghĩa (Hạt cát), tia chớp là hiện thân của “ý sáng tác” (Tia chớp) ...Chúng hiện
lên sống động trong tác phẩm, khiến những khái niệm tưởng như trừu tượng, vô hình trở nên
gần gũi, thân quen. Còn Thạch Lam thường tạo ra những biểu tượng như là kết tinh của sự
hòa hợp tuyệt vời giữa nội tâm và ngoại giới: bóng tối, ngọn đèn của chị Tý (Hai đứa trẻ);
sợi tóc phân chia lằn ranh thiện ác (Sợi tóc); tấm vải thô cuộc đời được dệt từ những nhọc
nhằn, lo toan (Cô hàng xén); những rung động “khẽ như cánh bướm non” (Đứa con đầu
lòng), cái “dịu ngọt chăng tơ” (Dưới bóng hoàng lan), “những vật tốt đẹp bày trong tủ kính
của cửa hàng” (Một cuộc đời)... Việc tạo ra những biểu tượng độc đáo đã mang lại cho
truyện ngắn Thạch Lam sức ám ảnh và dư âm.
Bên cạnh biện pháp ẩn dụ, biện pháp so sánh cũng được sử dụng với tỉ suất cao. Đây
là phép tu từ phổ biến, in đậm dấu vết thẩm mĩ thời đại hay phong cách ngôn ngữ cá nhân.
Trong 33 truyện ngắn của mình, Thạch Lam sử dụng 147 câu có chi tiết so sánh. Còn trong
40 truyện ngắn Pauxtốpxki mà chúng tôi khảo sát có 132 câu có chi tiết so sánh.

Truyện ngắn Thạch Lam Truyện ngắn Pauxtốpxki

- “Trời rét như cắt ruột, mà gió lại thổi - “Gió, giống như những bím tóc thiếu
mạnh” [44, tr. 69]. nữ xổ tung, thơm mát mơn man trên
mặt tôi” [65, tr. 80].
- “Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng - “Lúa chín rực chạy như sóng trên
kia đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ thảo nguyên” [65, tr. 383].
cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi - “Trên chân trời vàng ánh, ngôi sao
dao sắc khía vào da” [44, tr. 14]. cuối cùng lấp lánh như một giọt bạc”
[65, tr. 252]
- “Những cuộc chơi bời của anh kịch - “Trong nhà vui hẳn lên như thể
liệt như một sự phản động mà chán người ta mở thêm nhiều cửa sổ nhỏ và
nản như một vụ tự tử” [44, tr. 51]. bên ngoài cửa sổ ấy lại xanh lên một
- “Quả tim buốt như có kim đâm” [44, mảng trời và có gió ấm thổi” [65, tr.
tr. 58]. 265].
- “Nàng yêu Minh như đứa trẻ mới bắt - “Tình yêu giống như gió thoảng” [65,
đầu yêu say sưa và lóa mắt vì chính cái tr. 285].
tình yêu của mình” [44, tr. 137]. - “Chỉ có con đường nhựa là bóng
- “Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, loáng như một dòng sông đen” [65, tr.
một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy 285].
ruột gan” [44, tr. 61]. - “Lá tùng nhỏ như những sợi tóc ngắn
- “Cơn đói lại nổi dậy như cào ruột, xé vàng óng rụng xuống không ngừng,
gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn” mặc dầu trời lặng gió”[65, tr. 292].
[44, tr. 61]. - “Trong giọng nói của Êlêna Pêtrốpna
- “Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, có cả sự dịu dàng và sự lo âu như đêm
nàng đau đớn, uất ức như đứt từng tháng chạp” [65, tr. 330].
khúc ruột” [44, tr. 66]. - “Sau bức điện tất cả chuyển động
- “Nàng mắt đỏ lên như mới khóc, tha như một cơn lốc tuyết, làm lóa mắt,
thiết nhìn tôi, như muốn cùng tôi khoác ngạt thở, biến thế giới thành chiếc cầu
tay âu yếm” [44, tr. 118]. vồng trắng” [65, tr. 330].
- “Thoạt nhìn đôi mắt cô ta, tôi choáng - “Mùa xuân lướt trên đồng cỏ như một
váng như người nhắp cốc rượu mạnh” nữ chủ nhân trẻ tuổi” [65, tr. 352].
[44, tr. 122]. - “Có cái gì ngân vang trong rừng như
- “Một cảm giác đê mê dâng lên ngập có ai đang lắc những quả chuông nhỏ”
cả người nàng vào trong đó, như lúc [65, tr. 354].
tắm bể” [44, tr. 138]. - “Những bông hoa điểm tuyết trắng
- “Tâm hồn Thành trơ trọi như một rung rinh chào đón bình minh, mỗi
cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi” [44, bông hoa đều ngân nga như trong đó
tr. 173]. có một con bọ dừa đánh chuông và
- “Tôi sung sướng như một người sắp đang đập chân vào những sợi mạng
được đi phiêu lưu mạo hiểm” [44, tr. nhện bằng bạc” [65, tr. 354]
191]. - “Chàng nói lớn một lần thứ ba và bất
- “Bính tưởng mùi hương dịu dàng và thần một âm thanh lanh lảnh vang dội
cao quý cũng như tình yêu của mẹ khắp lều như thể có hàng trăm viên
chàng đối với chàng” [44, tr. 253]. pha lê rơi xuống sàn” [65, tr.375].
- “Lòng chàng đau đớn như chảy - “Rêu từ trên cành cây xõa dài trên
máu” [44, tr. 260]. mặt đất như những mớ tóc xanh” [65,
- “Vân thấy khổ sở như chính chàng bị tr. 386].
hành hạ” [44, tr. 260]. - “Đôi khi cuộc sống bỗng nhiên trở
(...) nên giống như âm nhạc trong phút
chốc” [65, tr. 409].
- “Những cây bạch dương đã điểm
những dải lá vàng giống như những
đốm tóc bạc đầu tiên của một người
chưa đến tuổi già” [65, tr. 411]…v.v

Ở truyện ngắn Thạch Lam, phần lớn các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn trong
so sánh đều dựa vào cảm giác của thân thể và tâm hồn. Còn Pauxtốpxki thường chọn
những hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ, âm nhạc và vẻ đẹp của người con gái, đặc biệt là
hình ảnh mái tóc để làm “khuôn” để so sánh.

Tóm lại. từ việc so sánh, đối chiếu những phương diện chủ yếu của một tác phẩm tự
sự, chúng tôi nhận thấy giữa truyện ngắn và truyện ngắn có sự gặp gỡ về phong cách nghệ
thuật.
Kế thừa quan niệm của các nhà lí luận và nghiên cứu văn học, chúng tôi cho rằng
phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm. “Phong cách nghệ thuật
của một nhà văn, suy cho cùng là vấn đề cái nhìn, nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả
các yếu tố hình thức và nội dung của tác phẩm… Tuy vậy, các yếu tố này không đồng đẳng
với nhau mà có quan hệ thứ bậc tạo thành một cấu trúc mà ở đó có những yếu tố biểu hiện
trên bề mặt và những yếu tố tiềm ẩn ở những tầng sâu, chìm khuất của nó” [93, tr. 17].
Nói đến phong cách nghệ thuật của một nhà văn người ta nghĩ đến cái riêng, cái độc
đáo và dấu ấn cá nhân của nhà văn ấy. Thực tế cho thấy mặc dù phong cách mang đậm dấu
ấn cá nhân nhưng chúng cũng có những điểm giống nhau. Ngày nay trong điều kiện giao lưu
rộng rãi của thế giới hiện đại, khoảng cách giữa các nền văn học dân tộc, khoảng cách của
các nhà văn đã được rút ngắn lại, cho nên mặc dù có sự đa dạng hóa về phong cách nhưng
chúng tôi cho rằng có sự “gặp gỡ” giữa các phong cách, và chính sự “gặp gỡ” ấy (bao gồm
trong nó cái riêng và cái chung, dấu ấn cá nhân và xu hướng cộng đồng) đã tạo nên những
dòng, những xu hướng phong cách nhất định.
Thạch Lam cùng với Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh đã có những đóng góp đáng
kể trong trên hành trình canh tân và hiện đại hóa văn học dân tộc. Truyện ngắn của ông góp
phần làm nên diện mạo của văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, phản ánh việc xây dựng và
phát triển văn xuôi dân tộc theo quỹ đạo hiện đại ở Việt Nam. Tương tự, thế kỷ XX có thể
nói là thời kì rực rỡ của văn học hiện đại Nga với nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong
lĩnh vực văn xuôi. Kế tục và phát huy chất thơ trong văn xuôi vốn đã có trong truyền thống
văn học Nga với các cây bút tên tuổi như Tuôcghênhép, Bunhin, Prisvin… Pauxtốpxki đã
biến phương tiện chuyển tải ý tưởng của văn học thành nghệ thuật, tạo ra những truyện ngắn
trữ tình với phong cách độc đáo. Thạch Lam, Pauxtốpxki, mỗi nhà văn một cội nguồn văn
hóa dân tộc nhưng lại có sự gặp gỡ bất ngờ, thú vị về phong cách nghệ thuật. Đó là quan
niệm về cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp; sự chú trọng khai thác thế giới nội cảm của nhân vật,
cách viết truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện. Đặt ra những tình huống tâm lí bất ngờ, những
khuất khúc ở tâm hồn con người và tìm cách lí giải chúng, truyện ngắn Thạch Lam –
Pauxtốpxki lần lượt mở các cánh cửa để bước vào thế giới nhân học. Dấu ấn văn hóa, thời
đại của mỗi quốc gia, dân tộc được khúc xạ qua lăng kính nhân học ấy.
KẾT LUẬN

Việc đặt truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki trong thế so sánh đã mở ra cho người
nghiên cứu văn học và độc giả quan tâm nhiều vấn đề mới mẻ và thú vị.
1. Như người lữ khách rong ruổi trên con đường kiếm tìm cái đẹp, Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã có cuộc hội ngộ bất ngờ. Đây là sự gặp gỡ giữa hai con người có cái nhìn
chuyên chú phát hiện chất thơ trong cuộc sống bình dị hằng ngày, biết chi chút cái đẹp
đời thường, gom nhặt từng hạt bụi quý, mang đến cho tác phẩm văn chương vẻ đẹp chân
thật, giản dị, sống động và tươi mới. Từ sự tương đồng về quan niệm nghệ thuật, Thạch
Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc lựa chọn thể loại truyện ngắn trữ tình “phi
cốt truyện” để biểu đạt cái đẹp dung dị, đời thường trong những cái tưởng chừng như vặt
vãnh, xoàng xĩnh. Việc dung nạp một trữ lượng chất thơ dồi dào vào văn xuôi và kĩ thuật
hòa phối nhuần nhụy giữa chất thực và chất thơ đã đem lại cho truyện ngắn của Thạch Lam
và Pauxtốpxki vẻ sâu lắng, mượt mà. Chất thực được khúc xạ qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế
của tác giả, của nhân vật đã trở thành cái neo níu giữ cho con diều chất thơ, cảm xúc trữ tình
bay bổng, lan tỏa.
2. Lựa chọn và xem thế giới tâm trạng, cảm xúc của con người như một hiện thực
phong phú để đặt những “đường cày”; khám phá cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp từ thiên
nhiên tỉnh lị và con người dung dị, đời thường, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tạo ra trong
truyện ngắn của mình những nội dung tự sự phong phú, hấp dẫn, có sức lay động sâu xa.
Điều đó đã đưa lại cách lí giải, cắt nghĩa mới mẻ về cái đẹp bằng nghệ thuật, đồng thời biểu
lộ cách tiếp cản, lối nhìn đời đầy trân trọng, nâng niu, phù hợp với xu hướng của thời đại.
Mặt khác, đặt nhân vật trong các giềng mối, quan hệ để tình cảm, tâm trạng của họ được
phơi bày, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra một diện rộng để tìm hiểu về con người và văn
hóa mỗi dân tộc. Ở đây ta bắt gặp lối sống trọng nghĩa tình, nếp nghĩ duy cảm người Việt
thấm sâu vào từng mảnh đời, từng số phận nhân vật. Bên cạnh đó, ta cũng bắt gặp tâm hồn,
tính cách Nga vừa rất riêng lại vừa gần gụi, thân quen. Đó là con người Nga hăng hái, nhiệt
tình, hồn nhiên hòa quyện với tính chất thông minh, năng động, con người hiền hòa, đôn hậu
hòa quyện với sự từng trải, uyên thâm.
3. Có thể nói truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki ít “sự kiện” nhưng giàu “sự
tình”. Chúng hấp dẫn người đọc không phải bởi cốt truyện li kì, những xung đột, tình tiết
gay cấn mà ở tài dựng truyện phi cốt truyện, cách kể chuyện đầy lôi cuốn của tác giả. Việc
kiến tạo bối cảnh, không khí trữ tình đã bồi đắp sức sống cho câu chuyện vốn được tinh giản
các sự kiện, hành động. Với cảm quan của một thi sĩ, họa sĩ, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã
chắt gợn vẻ đẹp từ thiên nhiên và làng quê, tỉnh lẻ, hòa phối nhuần nhụy giữa màu sắc,
đường nét, ánh sáng để tạo nên những bức tranh đặc sắc, mang dấu ấn của dân tộc mình.
Việc lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã tạo một ấn tượng đầy chất thơ cho những trang văn. Cũng chất giọng thủ thỉ,
tâm tình, trữ tình đằm thắm, giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam còn vang vọng âm hưởng
man mác, buồn thương, in dấu cái buồn chung của cả thế hệ. Ở Pauxtốpxki, sự chi phối của
cảm hứng lạc quan cách mạng đã mang lại cho giọng điệu nghệ thuật của ông những tiết tấu
trong trẻo, vui tươi, tràn đầy hi vọng. Tựa con tằm rút ruột ra tơ, con trai chắt chiu giọt máu
để kết thành ngọc sáng, mỗi nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách tinh tế, phát
huy tối đa vẻ đẹp và sự trong sáng nó để dệt nên những trang văn mượt mà, sâu lắng
4. Hành trình nghệ thuật là hành trình bản ngã. Vì rằng, những sự khai phá trong
sáng tác cũng chính là do nhu cầu thể hiện ý thức cá nhân mãnh liệt nơi tác giả. Thạch Lam
và Pauxtốpxki là những nhà văn tài năng, có sự đóng góp đáng kể ở thể loại truyện ngắn trữ
tình “phi cốt truyện” – một hướng tìm tòi, thể nghiệm trong lịch sử tiến hóa của thể loại
truyện ngắn. Truyện ngắn của các ông luôn đứng trên các cung bậc của sự thách thức và trên
bậc cao nhất của nhu cầu nội cảm cá nhân. Chừng nào cái đẹp còn được tôn thờ, chừng nào
nhân loại còn hướng đến những lí tưởng cơ bản nhất thì truyện ngắn của Thạch Lam –
Pauxtốpxki vẫn còn làm say đắm lòng người. Sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật giữa
truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trước hết là sự gặp gỡ của hai cá tính
sáng tạo, hai “tạng người” nghệ sĩ, đằng sau đó là mạch nguồn văn hóa dân tộc. Hai
gương mặt văn hóa Việt – Nga, Đông – Tây có sự gần gũi, giao thoa bên cạnh bản sắc riêng
của mỗi dân tộc.
5. Mặc dù không cưỡng lại được hấp lực mà truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
mang lại, chúng tôi đành tự bằng lòng với công việc đã làm. Nhiều tầng ý nghĩa ẩn chứa sau
lớp ngôn từ, yếu tố hư và thực trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki...
vẫn còn là những vỉa đá ngầm tiềm ẩn bao lớp quặng quý, chờ người đi sau đặt những mũi
khoan.
THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Nguyên An (1999), Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1995), Thạch Lam – Văn chương và cái đẹp, (Kỉ yếu hội thảo
khoa học về Thạch Lam nhân 50 năm ngày mất của Thạch Lam), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2007), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, tái bản lần 2, Nxb
Giáo dục, Đà Nẵng.
4. Lê Bảo (1999), Thạch Lam – Hồ Dzếnh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn – Lí luận tác gia và tác phẩm (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Đi tìm cái “bí quyết” của nghệ thuật viết truyện ngắn”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội số (1), Hà Nội.
7. Bunhin, I (2002), Tuyển tập tác phẩm, (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Lao động, Hà
Nội.
8. Nguyễn Minh Châu (1994), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
9. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”, Tạp chí Văn
học số (6), Hà Nội.
10. Phạm Vĩnh Cư (1996), “Đọc lại mấy bậc thầy truyện ngắn Nga – Xô viết”, Tạp chí Văn
học nước ngoài số (3), Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời kì đầu
những năm 1930-1945: Nguyễn Công Hoan – Thạch Lam – Nam Cao, Luận án phó
tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội I.
13. Nguyễn Nhật Duật (1971), “Thạch Lam – hương thơm và nỗi u hoài”, Tạp chí Giao
Điểm, Sài Gòn.
14. Hoàng Xuân Dũng (2007), Giáo trình địa lí kinh tế thế giới (tập 2), Đại học Sư phạm
TP.HCM.
15. Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá (1988), Tổng tập văn học Việt Nam
tập 29A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ chủ biên (2007), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử – Thi pháp – Chân dung,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (2001), Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), tái bản lần hai, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
21. Vu Gia (1994), Thạch Lam – Thân thế và sự nghiệp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
22. Ngô Văn Giá (1994), “Trong bóng tối mênh mông và hiu quạnh”, Tiếng nói tri âm, tập I,
Nxb Trẻ, TP. HCM.
23. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà (1987 – 1988), Văn học Xô viết (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
24. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga – Sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
26. Lê Thị Đức Hạnh (1983), “Gió đầu mùa”, Tạp chí Văn học, số (5).
27. Lê Thị Đức Hạnh (1993), “Mấy nét về màu sắc dân tộc trong sáng tác của Thạch Lam”,
Tạp chí Sông Hương, số (5).
28. Lê Thị Đức Hạnh (2001), Nguyễn Công Hoan về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
29. Vũ Thư Hiên (1961), Bông hồng vàng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Hoàng Ngọc Hiến (1985), Văn học Xô Viết những năm gần đây, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
31. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Khái Hưng – Thạch Lam, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
33. Vũ Thị Hồng (1994), “Những giấc mơ có thực” (Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
34. Phạm Thị Thu Hương (1993), “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số (6).
35. Phạm Thị Thu Hương (1995), Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945, nhìn từ
ba tác giả tiêu biểu: Thạch Lam- Hồ Dzếnh- Thanh Tịnh, Luận án tiến sĩ, Đại học
sư phạm I Hà Nội.
36. Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá (2003), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
37. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
38. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn
học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Thạch Lam”, Từ điển văn học, tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
40. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
Hà Nội.
41. Huyền Kiêu (1965), “Thạch Lam - Một người Việt Nam thành thực”, Tạp chí Văn, Sài
Gòn số (36).
42. Thạch Lam (1998), Tuyển tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
43. Thạch Lam (2007), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Thạch Lam (2009), 33 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
45. Phong Lê (2009), “Phác thảo mối quan hệ văn học Xô viết và văn học Việt Nam thế kỉ
XX”, Nghiên cứu Văn học số (6), Hà Nội.
46. Phan Quốc Lữ (2003), Văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, Mấy vấn đề về đặc điểm
thi pháp, Luận án tiến sĩ văn học, Đại học Sư phạm.Tp. HCM.
47. Thế Lữ (1943), “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”, Báo Thanh Nghị, số (9).
48. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Đăng Mạnh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 –
1945 (tập IV), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An (1987), Tác gia văn học Việt Nam
(tập I và II), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
52. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và phong cách,
Nxb Tác phẩm Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Marx, Engels, Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
54. Macxim Gorki, A.M (2004), Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
55. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số
(5).
56. Vương Trí Nhàn (1992), “Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, Tạp chí văn học, số (6).
57. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
58. Nhiều tác giả (1977), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
59. Nhiều tác giả (1983), Chân dung văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam, Đà
Nẵng.
61. Nhiều tác giả (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
62. Hoàng Kim Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm. Tp. HCM.
63. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Tập I, II, Nxb. KHXH, Hà Nội.
64. Pauxtôpxki, K (1984), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang dịch và giới thiệu), Tác
phẩm mới, Hà Nội.
65. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng Quỳnh
dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Pauxtôpxki, K (2002), Kônxtantin Pauxtôpxki – Tự truyện, (Tạ Hồng Trung dịch), Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
67. Phạm Phú Phong (1992), “Mấy vấn đề thi pháp truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí sông
Hương, số (5).
68. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập truyện ngắn, (tập 1), Nxb Văn học.
69. Pospelov, G.N chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb
Giáo dục.
70. Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình (tuyển chọn) (1998), 100 truyện ngắn hay Nga (tập 1, 2, 3,
4), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
71. Đào Trường Phúc (1971), “Thạch Lam những lời thủ thỉ của truyện ngắn”, Tạp chí Giao
điểm, Sài Gòn.
72. Phạm Văn Phúc (1989), “Nghĩ về Thạch Lam”, Báo Giáo viên nhân dân, (Số đặc biệt
7/1989).
73. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn, Tp. HCM.
74. Nguyễn Thu Phương (1997), “Dư vị truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí Văn học và tuổi
trẻ, số (24).
75. Sêkhôp, A. P (2001), Tuyển tập truyện ngắn, (Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch),
Nxb Thông tin, Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77. Trần Đình Sử (1997), Lý luận và Phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
78. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
79. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (2005), Văn học so sánh nghiên cứu và
triển vọng, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
80. Thúy Toàn biên soạn (1982), Các nhà văn Xô viết – Tập chân dung văn học, Nxb Tác
phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
81. Thúy Toàn tuyển chọn và giới thiệu (1997), Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt, Nxb
Văn học, Hà Nội.
82. Thanh Tịnh (1994), Quê mẹ, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.
83. Thanh Tịnh (1998), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội
84. Nguyễn Tuân (1982), “Thạch Lam”, (viết 1957, in lại trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập
(2)), Nxb Văn học, Hà Nội.
85. Xuân Tùng (2000), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng.
86. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp
chí Văn học, số (2).
87. Bùi Việt Thắng (1992), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học Hà Nội.
88. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn, tháng 1.
89. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
90. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Trường Đại học Tổng hợp TP.
HCM.
91. Nguyễn Thành Thi (1994), “Tối ba mươi và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài”,
Báo Lao động và xã hội.
92. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Nguyễn Thành Thi (2001), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
94. Nguyễn Thành Thi (2001), Thạch Lam văn và người, Nxb Trẻ – Hội nghiên cứu và giảng
dạy văn học, Tp. HCM.
95. Nguyễn Huy Thiệp (1994), Những ngọn gió Hua tát, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Đỗ Đức Thu (1965), “Thạch Lam”, tạp chí Văn, (36), Sài Gòn.
97. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
98. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của văn hoá – Thách thức của sáng tạo, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
99. Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh (1989), Về Tự lực văn đoàn, Nxb Tp. HCM.
100. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập kỉ 90,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP. Tp.HCM.

TÀI LIỆU TỪ INTERNET


101. www.nuocnga.net
102. http://en.wikipedia.org/wiki/Konstantin_Paustovsky
103.http://www.flipkart.com/selected-stories-konstantin-paustovsky/1410104575-
4nx3f91yic
104.http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237
nvnvntnqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn
PHỤ LỤC

1. Một số tài liệu về Pauxtốpxki

1.1 Паустовский Константин Георгиевич (1892 - 1968), прозаик.


Родился 19 мая (31 н.с.) в Москве в Гранатном переулке, в семье
железнодорожного статистика, но, несмотря на профессию, неисправимого
мечтателя. В семье любили театр, много пели, играли на рояле.

Учился в Киеве в классической гимназии, где были хорошие учителя русской


словесности, истории, психологии. Много читал, писал стихи. После развода
родителей должен был сам зарабатывать себе на жизнь и ученье, перебивался
репетиторством. В 1912 закончил гимназию и поступил на естественно-
исторический факультет Киевского университета. Через два года перевелся в
Московский на юридический факультет.

Началась первая мировая война, но его как младшего сына в семье (по тогдашним
законам) в армию не взяли. Еще в последнем классе гимназии, напечатав свой
первый рассказ, Паустовский решает стать писателем, но считает, что для этого
надо "уйти в жизнь", чтобы "все знать, все почувствовать и все понять" - "без
этого жизненного опыта пути к писательству не было". Поступает вожатым на
московский трамвай, затем санитаром на тыловой санитарный поезд. Тогда он
узнал и навсегда полюбил среднюю полосу России, ее города.

Паустовский работал на металлургическом Брянском заводе, на котельном заводе


в Таганроге и даже в рыбачьей артели на Азовском море. В свободное время
начал писать свою первую повесть "Романтики", которая вышла в свет только в
1930-х в Москве. После начала Февральской революции уехал в Москву, стал
работать репортером в газетах, оказавшись свидетелем всех событий в Москве в
дни Октябрьской революции.

После революции много ездил по стране, бывал в Киеве, служил в Красной


Армии, сражаясь "со всякими отпетыми атаманами", уехал в Одессу, где работал
в газете "Моряк". Здесь попал в среду молодых писателей, среди которых были
Катаев, Ильф, Бабель, Багрицкий и др. Вскоре им снова овладела "муза дальних
странствий": живет в Сухуми, Тбилиси, Ереване, пока наконец не возвращается в
Москву. Несколько лет работает редактором РОСТА и начинает печататься.
Первой книгой был сборник рассказов "Встречные корабли", затем повесть
"Кара-Бугаз". После выхода в свет этой повести навсегда оставляет службу, и
писательство становится его единственной любимой работой.

Паустовский открывает для себя заповедную землю - Мещеру, которой обязан


многими своими рассказами. Он по-прежнему много ездит, и каждая поездка - это
книга. За годы своей писательской жизни он объездил весь Советский Союз.

Во время Великой Отечественной войны был военным корреспондентом и тоже


изъездил много мест. После войны впервые был на Западе: Чехословакия, Италия,
Турция, Греция, Швеция и т.д. Встреча с Парижем была для него особенно
дорогой и близкой.

Паустовский написал серию книг о творчестве и о людях искусства: "Орест


Кипренский", "Исаак Левитан" (1937), "Тарас Шевченко" (1939), "Повесть о
лесах" (1949), "Золотая роза" (1956) - повесть о литературе, о "прекрасной
сущности писательского труда".

В последние годы жизни работал над большой автобиографической эпопеей


"Повесть о жизни".

К.Паустовский умер 14 июля 1968 в Тарусе, где и похоронен. {От редакции сайта
- ошибка в словаре ! Правильно: умер в Москве, похоронен в Тарусе}.

Русские писатели и поэты.


Краткий биографический словарь.
Москва, 2000.

1.2 Nguyên văn:

Родился и умер К. Паустовский в Москве.

Его отец, потомок запорожских казаков, был железнодорожным статистиком, мать


происходила из интеллигентной польской семьи среднего достатка.

Детство и отрочество его прошли в Киеве. Окончив первую киевскую гимназию


(1912), поступил на естественное отделение физико-математического факультета
Киевского университета. Проучившись первый курс, перешел на философское
отделение историко-филологического факультета. В 1914 году перевелся в
Московский университет.

К. Паустовский был неутомимым путешественником.

Он жил в шумной Москве и зеленом Киеве, слышал сочную и живописную речь


одесситов, был в Прибалтике и в Сибири, восхищался белыми ночами Карелии, пил
воду из черных болотных озер Мещорского края, благоговейно ходил по
Михайловскому.

Бывал он и за границей: посетил Чехословакию, Болгарию, Польшу, совершил


путешествие вокруг Европы, в 1965 году жил на острове Капри.

Его путешествия не проходили даром. Он возвращал их людям щедро и неутомимо


– новым рассказом, повестью, новой книгой.

В первые месяцы первой мировой войны работал кондуктором и вожатым


московского трамвая, а затем – санитаром на тыловом и полевом санитарных поездах.
Писать начал в последних классах гимназии. Это были стихи, часто
подражательные. Сочинив целый ворох стихов, Паустовский почувствовал искушение
попытать свои силы в прозе. Первые его рассказы «На воде» (1912), «Четверо». Затем
он вновь вернулся к поэзии.

Житейские обстоятельства – необходимость зарабатывать на хлеб – обратили


К.Паустовского к журналистике. Он перепробовал почти все газетные специальности.
Паустовский писал о самых разнообразных событиях и людях. Писал рассказы,
повести, романы.

В литературу Паустовский пришел в 20-е годы. Произведения Паустовского этого


периода отмечены абстрактностью; это объясняется мироощущением писателя.

Во второй половине 30-х годов взгляд Паустовского-художника обращен на


пленительную в своей скромной красоте природу. В восприятии и изображении
природы К.Г. Паустовский родственен И. Бунину и М. Пришвину.

Природа притягивала Паустовского как умиротворяющая, прекрасная в


неистощимом разнообразии среда, где человек освобождается от всего мелкого и
суетного и обретает душевное равновесие.

С севером К. Паустовский впервые встретился в 1925 году, когда он, сотрудник


газеты «На вахте», был командирован в Ленинград на проводы в кругосветное
путешествие первого советского парусного корабля.

Первая поездка писателя на север просто ошеломила его, здесь он узнал


пленительную власть севера. Первая белая ночь над Невой дала ему больше для
познания русской поэзии, чем десятки книг и многие часы размышлений над ними.

С тех пор писателя не покидало желание снова побывать на севере, ближе познать
его. «С давних пор, - признается он в «Книге скитаний», - Олонецкий край привлекал
меня. Мне давно хотелось попасть туда. Почему-то мне всегда казалось, что именно
там со мной случиться что-то очень хорошее». И такая возможность вскоре
представилась.

В 1931 году по предложению А.М. Горького в нашей стране создается «История


фабрик и заводов». Из множества предложенных заводов Паустовский выбирает
старинный завод в Петрозаводске. Весной 1932 года он отправляется на север.

Свою поездку Паустовский начинает с Мурманска, куда заехал по простому


любопытству. Прожив в Мурманске несколько дней, Паустовский уехал в
Петрозаводск. О том, что случилось с ним в этом городе, писатель рассказал в
«Золотой розе».

Сначала Паустовский жил в доме колхозника (теперь в этом здании находится


филармония), а затем снял комнату у бывшей учительницы Серафимы Ионовны.
У него долго не получалось работа по книге о заводе, что он даже хотел покинуть
город. Но старушка-учительница попросила его не горячиться и просто погулять по
городу.

В Петрозаводске в те годы было два так называемых «немецких кладбища». Одно


из них находилось на Зареке, через дорогу от церкви. Там были похоронены многие
иностранные специалисты, некогда служившие на Александровском заводе. Среди
всех могил выделялась одна надгробная плита. Она была обнесена чугунной оградой
великолепного тяжелого литья. К этому памятнику и пришел однажды Паустовский.
Надпись на памятнике заинтересовала его, и он стал собирать сведения об этом
человеке. Все это описано автором в его книге «Золотая роза» (гл. «Белая ночь»). Так
родилась его повесть «Судьба Шарля Лонсевиля», которую он начал писать в
Петрозаводске, а закончил в Мещорских лесах.

История Онежского, бывшего Александровского завода нашла отражение не только


в повести «Судьба Шарля Лонсевиля», но еще и в очерках «Онежский завод».

Несомненной заслугой Паустовского является то, что он по существу первым


обратился к истории одного из крупнейших в России «чугунопушечных и
железоделательных» заводов. Он собрал богатый, в том числе и архивный материал по
истории завода, использовал многие подлинные имена и события. Но до 1932 года,
когда писатель работал над этой темой, систематизированных исследований по
истории завода не имелось. По этой причине у автора имеются некоторые неточности.

Жанр повести, в отличие от очерка, дает писателю возможность творческого


вымысла и выхода за рамки фактографии события, и К. Паустовский использовал это
право.

Внимание автора к Карелии не ограничилось его интересом к Онежскому заводу. В


1933 году выходит в свет его историко-революционная повесть «Озерный фронт»
(впервые была опубликована в журнале «30 дней» под названием «Озерная война»). В
книге под пером художника оживают события гражданской войны в Карелии, «смелая
и блестящая Видлицкая операция» 1919 года.

Находясь в Карелии, Паустовский посетил водопад Кивач, Кижи, Пудож и


Заонежье, побывал на Ладожском и Онежском озерах.

В своих заонежских встречах писатель повествует в рассказе очеркового типа


«страна за Онегой» (1932).

Интерес Паустовского к Заонежью не случаен. Оно населено «потомками


новгородцев. Они сохранили чистый новгородский язык, сохранили старые сказания,
песни, былины». Также Заонежье привлекло его и народным искусством северного
старинного зодчества. Паустовский видит истоки богатств русского языка в народной
поэзии. Вот почему с такой теплотой рассказывает он о своих встречах с народными
сказителями, вспоминает имена многих удивительных собирателей и исполнителей
народных песен. В своих произведениях о Карелии писатель создал целую галерею их
портретов.

Очень часто в произведениях Паустовского можно встретить обращение к имени


русского поэта А.С. Пушкина, и это не случайно. «Первая половина 19 века… ближе
мне, чем любая другая историческая эпоха. Это начало золотого века русской
культуры. Это время Пушкина…».

В повести «Судьба Шарля Лонсевиля» тоже присутствует ссылка на Пушкина.

Северный цикл повестей создавался писателем в 30-е годы. Это были годы
творческого становления Паустовского, когда он уходит от писания «туманных и
надуманных» рассказов раннего периода, когда экзотика, к которой он был так
привержен в 20-е годы, начинает тяготить писателя и сковывать его творческие
возможности. Этот перелом в творчестве художника происходит не сразу.

Север явился непродолжительным, но интересным этапом в творческой биографии


писателя. Впечатления, полученные на Севере, сыграли определенную роль в
становлении его мировоззрения и мастерства.

В последние 15 лет жизни Паустовский активно выступал как публицист. Он


призывал оградить природу от варварских покушений на нее, заступался за гонимых и
преследуемых, отстаивал свободу и независимость человеческой личности, осуждал
жестокость и насилие, угодничество и бесчеловечность, поддерживал талантливых
молодых писателей.

Его творчество и совестливая позиция, которую он неизменно занимал, создали ему


высокий нравственный авторитет в России и за рубежом. Книги Паустовского
переведены на большинство языков мира и изданы на всех 5 континентах.

Bản dịch:

K. Pauxtốpki sinh ra và qua đời ở Mátxcơva


Bố của ông là dòng dõi của những người Côdắc vùng Dapa-rô-de làm nghề thống kê
đường sắt, còn mẹ xuất thân từ một gia đình trí thức Ba-lan bậc trung.
Thời thơ ấu và niên thiếu của ông trôi qua ở Ki-ép.Tốt nghiệp trường phổ thông (năm
1912), ông vào học ở phân ban tự nhiên thuộc khoa toán lí trường Tổng hợp Ki-ép. Học hết
năm thứ nhất, ông chuyển sang phân ban triết học của khoa sử-ngữ văn. Vào năm 1914, ông
chuyển tới Trường Đại học tổng hợp Mát-xcơ-va.
K. Pauxtốpxki là một người đi du lịch không biết mệt mỏi. Ông đã nghe giọng nói âm
vang và du dương của những người Ô-đéc-xa, ông đã đến vùng Ban tích, đã đến Xi-bi-ri, đã
ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Ka-re-li, đã uống nước của những hồ trong đầm lầy đen
kịt ở vùng Me-sor, đã rảo chân thong dong trên những nẻo đường ở vùng Mi-khai-lốp. Ông
cũng đi ra nước ngoài: ông đã đến thăm Tiệp khắc, Bun-ga-ri, Ba-lan, đã đi du lịch vòng
quanh châu Âu. Vào năm 1965 ông đã sống ở đảo Ca-pri. Những chuyến đi của ông không
phải là vô ích. Từ những chuyến đi, ông mang về cho mọi người những truyện ngắn, truyện
vừa, cuốn sách mới.
Vào những tháng đầu tiên của chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ông làm người bán vé
và lái tàu điện ở Mát-xcơ-va, rồi sau đó làm y tá trên những con tàu cứu thương ở hậu
phương và ở tiến tuyến.
Ông bắt đầu viết vào những năm cuối của trường phổ thông. Những bài thơ đó thường
là những bài bắt chước. Khi đã viết một loạt các bài thơ, Pauxtốpxki muốn thử sức mình
trong văn xuôi. Những truyện ngắn đầu tay của ông là “Dưới nước” (1912), “Bốn người”.
Sau đó ông lại quay lại với thơ ca.
Nhưng hoàn cảnh sống – sự cần thiết phải kiếm cơm đã làm cho Pauxtốpxki đến với
nghề làm báo. Ông hầu như đã làm hết những công việc của nghề báo. Ông viết đa dạng về
những sự kiện và những con người. Ông đã viết truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết.
Pauxtốpxki đến với văn học vào những năm 20. Những tác phẩm của Pauxtốpxki thời
kì này được đánh dấu bằng tính trừu tượng. Điều này được giải thích là do cách thụ cảm thế
giới của nhà văn.
Vào cuối những năm 30, Pauxtốpxki nhà nghệ sĩ chú ý đến thiên nhiên quyến rũ với
cái vẻ đẹp đơn sơ của nó.Trong sự cảm nhận và miêu tả thiên nhiên, Pauxtốpxki giống như I.
Bu-nhin và M. Pri-svin. Thiên nhiên tuyệt vời, với cái đa dạng của nó, nơi mà con người
được giải phóng khỏi cái nhỏ nhen, cái bận rộn đã lôi cuốn Pauxtốpxki, trấn tĩnh ông, làm
cho ông có được sự cân bằng về tinh thần
Lần đầu tiên Pauxtốpxki đến với miền Bắc nước Nga là vào năm 1925 khi đó ông là
cộng tác viên của tờ báo “Bảo vệ” đi công tác đến Lê-nin-grát để tiễn chiếc tàu buồm đầu
tiên của Liên xô chạy vòng quanh thế giới.
Chuyến đi phương Bắc thực sự đã làm cho ông ngạc nhiên. Ở đây ông đã cảm nhận
được sức quyến rũ của phương Bắc. Đêm trắng đầu tiên trên sông Nê-va đã cho ông nhận
thức nhiều hơn về thơ Nga hơn là đọc hàng chục cuốn sách và suy ngẩm về chúng.
Kể từ đó, nhà văn mong muốn được đến phương Bắc lần nữa, để nhận biết nó sâu hơn.
Nhà văn đã thú nhận trong cuốn “Phiêu bạt” : “Đã từ lâu vùng Olen-nhi-xki đã quyến rũ tôi.
Đã từ lâu tôi muốn tới đó. Không hiểu vì sao tôi luôn cảm giác rằng chính ở đó có điều gì đó
rất tốt đẹp sẽ đến vối tôi.” Và mong ước này chẳng bao lâu nũa đã thành hiện thực.
Vào năm 1931 theo đề nghị của Gorki trong đất nước của chúng ta thành lập “Lịch sử
các nhà máy và công xưởng”. Trong hang loạt các nhà máy được giới thiệu, Pauxtốpxki chọn
một nhà máy cũ ở Pe-trô-da-vốt-xcơ. Mùa xuân 1932 ông lên phương Bắc.
Pauxtốpxki bắt đầu chuyến đi từ Mur-man-xcơ, nơi mà ông ghé lại là do tò mò.
Pauxtốpxki sống một vài ngày ở Mur-man-xcơ rồi ông đến Pe-trô-da-vốt-xcơ. Chuyện gì
xảy ra với nhà văn ở thành phố này, ông đã kể trong Bông hồng vàng.
Đầu tiên, Pauxtốpki sống trong nhà của một người nông trường viên (bây giờ trong
ngôi nhà này là nhà khuyến nhạc), sau đó ông thuê một phòng ở nhà bà Xe-ra-phima Iô-nốp-
na, một cựu giáo viên. Pauxtốpxki mãi không viết được cuốn sách về nhà máy, thậm chí ông
còn muốn rời thành phố. Nhưng bà giáo già nói ông đừng tức giận và nên đi dạo phố.
Ở Pe-trô-da-vốt-xcơ vào những năm đó có hai nghĩa địa được gọi là “nghĩa địa Đức”.
Một nghĩa địa nằm ở Da-re-ka, hướng từ nhà thờ sang bên kia đường. Ở đó chôn cất nhiều
những chuyên gia nước ngoài đã làm việc tại nhà máy A-lếch-xăng đờ -rốp-xcơ. Trong
những ngôi mộ đó nổi hẳn lên một tấm bia mộ. Tấm bia được viền bằng gang đúc trông nặng
nề nhưng tuyệt đẹp. Một lần Pauxtốpxki đã đến ngôi mộ này. Những dòng chữ trên tấm bia
đã làm ông chú ý và ông bắt đầu thu tập tư liệu về con người này. Tất cả những tư liệu này
đã được tác giả miêu tả trong cuốn Bông hồng vàng (chương “Đêm trắng”). Và như vậy
truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil “đã được ra đời. Cuốn này ông bắt đầu viết ở
Pe-trô-da-vốt-xcơ và kết thức ở vùng rừng núi Me-sô-xki..
Lịch sử của nhà máy Ô-nhét-xki , trước đây là nhà máy A-lếch –xăng đờ-rốp-xcơ đã
được phản ánh không những trong truyện “Số phận của Sác-lơ Lông-xe-vil” mà còn trong
bút ký “Nhà máy Ô-nhét-xki”.
Không còn nghi ngờ gì nữa, công lao của Pauxtốpxki là ở chỗ, thực chất ông là người
đầu tiên đề cập đến lịch sử của một trong những nhà máy luyện gang thép lớn nhất nước
Nga. Ông đã thu tập được một kho tài liệu phong phú, trong đó có cả tài liệu lưu trữ về lịch
sử của nhà máy, ông đã sử dụng nhiều những tên tuổi và sự kiện có thực. Nhưng cho đến
trước năm 1932, khi nhà văn bắt đầu viết về chủ đề này, những nghiên cứu có hệ thống về
lịch sử nhà máy vẫn chưa có. Do vậy, ở tác giả đã có những chi tiết thiếu chính xác. Thể loại
truyện vừa, khác với thể loại bút ký, cho phép nhà văn khả năng hư cấu sáng tạo và vượt qua
khuôn khổ của việc ghi chép sự kiện. Pauxtốpxki đã sử dụng cái quyền này.
Sự chú ý của Pauxtốpxki tới vùng Ka-re-li không làm hạn chế sự hứng thú của ông đối
với nhà máy Ô-nhét-xki. Vào năm 1933 cuốn truyện vừa lịch sử – cách mạng “Mặt trận vùng
hồ” được xuất bản (lần đầu tiên truyện này đăng trong tạp chí “30 ngày “ dưới nhan đề
“Chiến tranh vùng hồ”. Trong cuốn sách, dưới ngòi bút của nhà văn những sự kiện của cuộc
nội chiến, “chiến dịch Vit-đờ-lit-xki quả cảm tuyệt vời “ của năm 1919 được sống lại.
Khi ở Ka-re-li, Pauxtốpxki đã đến thăm thác Ki-vat, Ki-di, Pu-đóc và Da-ô-nhe-de, đã
đến hồ La-đô-ga và Ô-nhe-ga. Về những cuộc gặp gỡ ở Da-ô-nhe-de, nhà văn đã thuật lại
trong truyện ngắn dạng bút ký “Xứ sở Da-ô-nhe-de” (1932). Sự chú ý của Pauxtốpxki đến
Da-ô-nhe-de không phải là sự tình cờ. Vùng này có nhiều “dòng dõi của những người ở
thành phố Nôv-gô-rốt. Họ giữ giọng nói của Nôv-gô-rốt, giữ lại những chuyện cổ tích,
những bài hát, cách làm bánh xèo”. Da-ô-nhe-de còn quyến rũ ông bởi nghệ thuật dân gian
kiến trúc cổ ở phương Bắc. Pauxtốpxki đã nhìn thấy sự phong phú của tiếng Nga trong thơ
dân gian. Vì vậy mà tại sao với lòng nhiệt thành, ông kể về những cuộc gặp gỡ với những
người kể chuyện dân gian, ông nhớ lại tên tuổi của nhiều người sưu tầm và những người hát
dân ca tuyệt vời. Trong những tác phẩm về Ka-re-li, ông đã tạo nên một loạt những chân
dung của họ.
Trong những tác phẩm của Pauxtốpxki thường thấy ông chú ý đế tên tuổi của nhà thơ
Nga Pus-kin và điều này không phải là sự tình cờ. “Nửa đầu thế kỷ 19 gần gũi với tôi hơn
bất kỳ thời đại nào khác. Đó là sự bắt đầu của thế kỷ vàng của nền văn hóa Nga. Đó là thời
đại Pus-kin…”
Trong truyện vừa “Số phận của Sác-lơ Lô-xe-vil” cũng có lời viện dẫn ca ngợi Puskin.
Hàng loạt các truyện về phương Bắc được nhà văn viết vào những năm 30. Đó là
những năm hình thành sáng tác của Pauxtốpxki, khi mà ông thoát khỏi việc viết những
truyện ngắn “Mơ hồ và giả tạo” của thời kì đầu, khi mà những chuyện kì lạ mà ông gắn bó
trong những năm 20 bắt đầu đè nặng nhà văn, kìm hãm những khả năng sáng tạo của ông.
Phương Bắc không phải là giai đoạn dài nhưng là giai đoạn thú vị trong quá trình sáng
tạo của nhà văn. Những ấn tượng mà nhà văn nhận được ở phương Bắc đã có một vai trò
nhất định trong việc hình thành thế giới quan và nghệ thuật của nhà văn.
Trong 15 năm cuối đời, Pauxtốpxki hoạt động tích cực như một nhà chính luận. Ông
kêu gọi bảo vệ thiên nhiên khỏi những cuộc tàn phá dã man, ông bênh vực những người bị
truy bức, bị theo dõi, bảo vệ tự do và tính độc lập của cá nhân, lên án bạo lực và sự tàn bạo,
ủng hộ những nhà văn trẻ có tài.
Sáng tác và lập trường có lương tâm mà Pauxtốpxki đã kiên trì đã làm cho ông có uy
tín cao về đạo đức ở nước Nga và ở nước ngoài. Sách của Pauxtốpxki đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới và được phát hành trên khắp năm châu.
(Tiến sĩ Nguyễn Nam Phong dịch)

2. Thạch Lam – Pauxtốpxki và những trang thơ


Thạch Lam và Pauxtốpxki – người đan dệt những sợi tơ cảm giác, nhà văn của thể loại
truyện ngắn trữ tình với những trang văn mượt mà chất thơ. Cuộc đời, con người và những
tác phẩm của hai nhà văn cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho những tâm hồn yêu thơ. Bản
thân người viết cũng tìm thấy ở những truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki những
điều thật gần gũi với điệu tâm hồn mình.

1. HOÀI NIỆM
ĐINH HÙNG
(Trích)

Chiều mùa đông,


Đốt ngọn lửa hồng,
Ta đọc tập thơ sầu, cười với bóng
Khói thuốc xanh bay về hư không.
Trăng lên đầu phố vắng,
Ồ bóng ta say !
Nhớ cố nhân tình sâu nặng,
Cốc rượu ngọt uống cay nồng.
*
* *
Bạn là người bạn chung tình,
Đôi hồn lữ thứ
Bốn phương lỡ gót đăng trình.
Trời giăng sao tỏ,
Bao mùa thu
Cửa phòng ta để ngỏ ?
Giấc mộng ta hững hờ ?
Bạn với tôi xưa
Đứng bên hồ
Nằm chung mộng
Ân ái cùng thơ.
*
* *
Đêm hoa, cành nguyệt,
Gió giăng xao động ngoài màn
Bạn hát bài ca phóng đãng,
Cười lên trăng xanh, tôi dạo đàn,
Xuân đến giấc mơ đầy thiếu nữ,
Ta nằm ta ngủ,
Lệ đa tình chưa chan.
Ôi thời gian ! Thời gian tình tự !
Mặc nỗi lòng người thở than
Mộng cung tần
Xoay nghiêng mặt gối.
Ai cười ? Ai nói ? Ai xênh ca ?
Lênh đênh nước biển trăng nhòa,
Những vì sao lạ đã sa xuống gần.
Trời buồn dáng điệu giai nhân...

2. BAO GIỜ LẠI GIÓ ĐẦU MÙA?


NGUYỄN VŨ TIỀM

Trăm đường phố chọc trời xa khuất mấy


Dễ quên sao ba mươi sáu phố phường
Một thoáng gió đầu mùa sâu thẳm ấy
Sợi tóc mềm trên ngưỡng cửa tha hương...

3. NHỮNG NGÔI SAO MƯỜI TÁM


PHẠM NGỌC LAN

“Chưa bao giờ anh ước đâu em


Một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa.”
(Bằng Việt)

Những vì sao sáng đến tận cùng đêm khi em mười tám tuổi
Trang sách Pauxtốpxki giấu ánh mắt thật hiền
Ngọn nến lung linh cạn mình để cháy
Có thể nào là cuộc sống của em?

Anh chúc gì cho em những ngày em mười tám tuổi


Bản sonat quê hương mang khát vọng dâng triều
Những bông tuyết tan dần trong lòng tay ấm nóng
Hay bông hồng vàng... những mảy bụi tình yêu

Cho em khóc cùng Đanhi niềm vui mười tám tuổi


Lãng quả thông thêm giấc mộng êm đềm
Cho em mở những lá thư phập phồng hy vọng
Để trao đi một tấm lòng và nhận lại một trái tim

Cuộc sống sẽ là gì từ trang sách của em?

Nghe bàng hoàng ngày sóng xô biển động


Nghe rừng thu xao xác lá muôn chiều
Bao nỗi đau đi qua mới cháy thành hạnh phúc
Trăm niềm thương lắng lại một niềm yêu.

Anh có kết giùm em bông hồng từ gió bụi


Mỗi nẻo em qua... vàng trong cát thầm thì
Một thoáng ngậm ngùi len trong lòng hạnh phúc
Để ta nhắc lại Pauxtốpxki

Gửi lại Pauxtốpxki nỗi buồn mười tám tuổi


Nhật ký tuổi thơ khép lại... Nhớ thương nhiều
Lật trang sách từ một thời bão nổi
Em soi cuộc đời minh trong đáy mắt tình yêu.

Anh chúc gì cho em


khi bầu trời
tím đến tận cùng đêm.

4. LẠI NGHĨ VỀ PAUXTỐXKI


BẰNG VIỆT

Đồi trung du phơ phất bóng thông già


Rừng thông đứng. Hồn trong chiều lặng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu

"Lẵng quả thông " trong suối nhạc nhiệm màu


Hay "Chuyến xe đêm" thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trong cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa.

– "Có thể ngày mai ta cũng sẽ đi qua


Một cánh cửa nao lòng trong truyện "Tuyết"?
Có tiếng chuông rung và con mèo "Áckhíp"
Ánh nến mơ hồ như hạnh phúc từng mong..."
Xa xôi sao!... Thời thơ ấu sau lưng

Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu!


Cuộc đời không phải thế!
Giọt nước trên tay không cùng mầu sóng bể
Bể mặn mòi sôi sục biết bao nhiêu
Khi em đến bên anh, trước biển cả dâng triều
Ta thu hết xa khơi vào lòng ngực trẻ
Dám thử mọi lo toan để vạch dấu chân trời
Dấu xanh thẳm khi bình minh vụt tới
Dấu đen sầm khi đáy bóng đêm trôi

Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng


Nốt cao quá trong đời xao động quá!
Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả
Lại ngọt ngào kì lạ lớn lao hơn.

Anh đã đi qua bão lốc từng cơn


Cây rụng lá trong chiều thanh thản nhất
Anh qua cả màu không gian ngây ngất
Một tiếng thầm trong nắng mới lao xao
Em đến rồi đi như một giấc chiêm bao...!

Còn bây giờ anh biết nói gì hơn


Có thể, ngày mai thôi...Có thể..
"Hoa tóc tiên ơi! Sớm mai và tuổi trẻ"
Lật trang nhật ký nào cũng chỉ xót lòng thêm...

Pauxtốpki là dĩ vãng trong em


Thành dĩ vãng hai ta bây giờ anh ngoảnh lại
Nhưng không phải thế đâu, không phải thế đâu,
Anh hiểu rằng không phải...
Như tuổi thơ, vừa đó đã xa vời...!

Đưa em đi.Tất cả thế xong rồi,


Ta đã lớn. Và Pauxtốpxki đã chết !
...Anh vẫn khóc khi nghĩ về chuyện "Tuyết"
Dẫu chẳng bao giờ mong đợi nữa đâu em!

5. THƠ TÌNH NGÀY BIỂN ĐỘNG


BẰNG VIỆT

Chưa bao giờ anh ước đâu em


Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa…

Trời ơi! Buổi sớm quá chừng thơm


Anh gặp lại hương sen, năm anh mười tám tuổi,
Một ánh vui táo tợn của mùa hè,
Khi những vệt ong hôn vào nhuỵ hoa cháy bừng như vệt lửa,
Những trận lốc, những cơn mưa trước hồn anh bỏ ngỏ…
Và ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa
Có thể nào anh ước đâu em?…

Rất nhiều chuyện qua rồi.


Rất nhiều chuyện giống như quên
Sau tuổi hai mươi, ngỡ không cần đến nữa:
Chút xôn xao trong hàng cây nắng nhỏ,
Giọt nước tròn rung rinh trong lá sen,
Cả gợn sóng mơ hồ trong ánh mắt riêng em,
Màu trời xám mênh mông ngày động biển,
Cánh bướm mai hồng, cơn mưa chiều tím,
Một cửa sổ lặng thầm chi chút những sao rơi…
Hạnh phúc ta cần, thực cũng giản đơn thôi
Như chỉ ở trước ta trên một tầm tay với,
Ngỡ rảo bước là sớm chiều đã tới
Suốt cuộc đời, sao vẫn giục mình đi?
Em có thể là gì sau trang sách Pauxtốpxki
Là một ánh bình minh xanh mờ không thể tắt?
Hay hương mát rừng thông cao ẩm ướt?
Một bóng mây khắc khoải cả mùa hè?
Anh không biết dãy phố ta đi hôm ấy gọi là gì?
Không biết lá cây trên đầu sao buổi chiều phát sáng?
Giọt nước mắt long lanh giữa tình yêu, tình bạn,
Những kỷ niệm nơi này xáo trộn với nơi kia

Anh và em (chỉ thế thôi).


Và không có Pauxtốpxki
“Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!”
Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết
Của tất cả những gì vừa có lại vừa không…
Tất cả có thế thôi!
Em – Màu trong suốt của trời xanh trên phố thợ,
Chỗ mặn nhất của đầu bọt sóng tự khơi xa,
Lại cũng là vết thương của anh, tuổi thơ của anh, nơi ẩn kín của hồn anh
bão tố,
Lá cỏ bồng gió ru trên bãi cát khô cằn,
Đốm lửa nhỏ bất ngờ trong một đêm ngủ rừng,
hai bàn tay lạnh cóng,
Hay màu ngói đỏ đầu tiên,
sau cả cuộc chiến tranh dài!
Em thao thức trong anh lòng yêu lớn – Con Người!
Yêu những thứ bị tàn phá đi, bây giờ cần dựng lại
Yêu một cái cây tự lúc phải gây mầm cho đến khi ra trái,
Yêu cái đẹp của cuộc đời, để buộc nó sản sinh thêm…

Chưa bao giờ anh ước đâu em


Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa!

6. HOÀI NIỆM NƯỚC NGA


(Cho Matx 1)
TRẦN THỊ THẮM

“Anh và em (chỉ thế thôi).


Và không có Pauxtốpxki
“Ta đã lớn. Mà Pauxtốpxki đã chết!”
Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết
Của tất cả những gì vừa có lại vừa không…”
(Bằng Việt)

Những trang sách bên em từ thủa bé


Như con thuyền chở ước mộng tuổi thơ
Mãi trong em một nước Nga huyền thọai
Xa xôi sao, xanh ngát một khoảng trời

Mùa xuân đến dạo bản nhạc không lời


Đường bạch dương thênh thang tràn nắng ấm
Thảo nguyên xanh và con đường xa thẳm
Một cánh đồng rực rỡ ngát hương hoa

Thật diệu kì khi đàn sếu bay qua


Mang sắc đỏ rải xuống nghìn mắt lá
Thu quyến rũ dịu dàng đến kì lạ
Cả không gian miên man nét thu vàng

Em mơ về rừng thông mỗi chiều sang


Cái rét ngọt giữa mùa đông tuyết trắng
Cỗ xe ngựa trôi về miền xa vắng
Ánh sao xanh trên nóc mỗi ngôi nhà…

Cho em khóc cùng cô bé Đa–nhi


Niềm vui sướng vỡ òa tuổi mười tám
Pauxtốpki giấu tình thương sâu thẳm
Trái tim Người ấm áp mỗi trang văn

Hạnh phúc gần sao quá đỗi khó khăn


Bông hồng vàng kết từ nghìn tim vỡ
Trong bình yên lòng dâng lên nỗi sợ
Cả niềm tin cũng có lúc mong manh…

Anh kể em nghe về một nước Nga


Của riêng anh. Của một thời trai trẻ
1
Chúng tôi thường gọi Mátxcơva bằng cái tên thân mật là Matx
Rất đời thường mà bao điều mới mẻ
Chín năm rồi thành máu thịt trong anh

Giảng đường xa rộn rã bước chân


Bao mùa dài lòng cồn cào cơn đói
Bóng quê nhà chìm vào sương khói
Những chiếc lá mang khuôn mặt người say

Không giản đơn những phép cộng nồng, cay…


Hạnh phúc còn rộng dài hơn thế
Triết lí đời rồi chìm vào dâu bể
Điều giản dị sẽ ở lại bên anh

Vẫn trong anh tình yêu – Matx nguyên lành


Dẫu bão thổi bốn bề miền đất hứa
Bao khát vọng tuổi xanh thành điểm tựa
Đã đẩy lùi những cay cực ngày qua

Anh để lại gì cho Matxcơva?


Mùa lá rụng khẽ chạm vào nỗi nhớ
Bông tuyết tan trong lòng tay nóng bỏng
Phải anh về Matx lạnh hơn không?!

Từ bao giờ em nhớ những mùa đông


Dẫu bên em đang giữa mùa nắng ấm
Và thương cả cô gái Nga mắt biếc
Tha thiết trong anh một mối duyên đầu

Mãi trong em trong trẻo một tình yêu


Lật trang sách về nước Nga –xứ tuyết
Còn anh sẽ nói Matx lời từ biệt
Nhưng trong lòng nào có dễ nguôi quên.

VN, Tp.HCM, cuối tháng 10/2008.

7. CHIỀU MƯA

(Nhân đọc truyện ngắn Tình xưa của Thạch Lam)


TRẦN THỊ THẮM

Ngày anh trở lại – một chiều mưa


Con đường xưa hàng cây run rẩy
Quán cóc trầm tư tiếng cười ấy
Kỷ niệm gọi về hơi ấm bàn tay
Trắng xóa trời thành phố mưa bay
Những luồng xe trôi đi vội vã
Lướt qua nhau dòng người xa lạ
Còn mình anh với biển hoàng hôn
Sóng nghĩ gì mà lặng lẽ hơn
Gió trở mình hàng dương xào xạc
Nghe đâu đây vọng về tiếng hát
Bản tình ca sôi nổi đầu tiên
Nghe xa xôi từng bước chân quen
Ánh mắt ai buổi đầu hò hẹn
Phía trời xa cánh chim lẻ bạn
Trong tiếng kêu thảng thốt giật mình

( Trích http://123.30.128.11/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/Tho-va-tuoi-
tre/105185/Thanh-pho-khong-mua-dong.html)

You might also like