Professional Documents
Culture Documents
Luận Văn Thạc Sĩ Văn Học - Truyện Ngắn Thạch Lam - Truyện Ngắn Pauxtốpxki - Sự Gặp Gỡ Của Phong Cách Nghệ Thuật - 1047440
Luận Văn Thạc Sĩ Văn Học - Truyện Ngắn Thạch Lam - Truyện Ngắn Pauxtốpxki - Sự Gặp Gỡ Của Phong Cách Nghệ Thuật - 1047440
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Phương,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
thực hiện và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn
Nam Phong, người đã dịch và cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi
có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ
Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng Quản lí sau
đại học – trường Sư phạm TP. HCM, Ban giám hiệu nhà trường –
trường Dự bị đại học TP. HCM, tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.
TP. HCM, ngày 02 tháng 12 năm 2010
Trần Thị Thắm
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra từ cuối thế kỉ XX, đồng đều ở mọi lĩnh vực, hầu như đã
xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nước, làm cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau
hơn. Trong bối cảnh ấy, văn học so sánh ra đời nhằm khám phá mối liên hệ văn học giữa
các quốc gia, bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học dân tộc biệt lập từ trước
đến nay.
Quả thật, ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc trên thế giới là khác nhau, nhưng tư
duy, tình cảm, tâm lí, thẩm mĩ lại có nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu văn học Việt
Nam trong mối tương quan với văn học thế giới giúp chúng ta ý thức về vị thế, thân phận,
tư cách của văn học dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó còn là con đường khám
phá bản sắc dân tộc.
Một điều không thể phủ nhận là mặc dù cách xa nhau hơn “nửa vòng trái đất” nhưng
Việt – Nga có quan hệ “thâm tình”, gắn bó. Văn hóa của hai nước phương Đông –
phương Tây này có nhiều điểm tương đồng. Hơn nữa, cả hai dân tộc đều có số phận lịch
sử thật lắm thăng trầm: từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, từng trải qua nhiều cuộc chiến
tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và cũng từng lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, ghi
dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của mỗi dân tộc. Vì thế mà mặc dù đến Việt
Nam muộn hơn văn học Trung Quốc và văn học Pháp, song văn học Nga vừa gặp đã trở
nên gắn bó, thân quen.
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam đóng góp ở
nhiều thể loại. Mặc dù ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, với một số lượng tác phẩm chưa đạt
đến mức “đồ sộ”, nhưng nhà văn đã sớm xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi
có tầm vóc, một người viết truyện ngắn xuất sắc, không thể thay thế. Nhìn sang văn học
Nga, ta thấy có sự “hội ngộ bất ngờ” giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong địa hạt văn
xuôi trữ tình, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nổi
tiếng với những truyện ngắn “không có chuyện”.
Tác phẩm của Pauxtốpxki được đón nhận một cách nồng nhiệt ở Việt Nam. Bình minh
mưa và Bông hồng vàng trở thành tập sách gối đầu giường của độc giả yêu văn học, nhất
là giới trẻ. Truyện ngắn của ông đã đi vào thơ của nhiều cây bút người Việt, những tâm
hồn đã tìm thấy ở đây sự đồng cảm, chia sẻ, những rung động mãnh liệt, chẳng hạn Bằng
Việt, Thúy Toàn, Phạm Ngọc Lan… Với bản thân người viết, những trang sách của
Pauxtốpxki luôn là “áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu” 1, là người bạn trong hành trình
tuổi trẻ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ viết về tình yêu và cuộc
sống.
Trong cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp hôm nay, những truyện ngắn của Thạch Lam –
Pauxtốpxki vẫn luôn là những món ăn tinh thần quý giá, là bến nước trong êm ả, an lành
cho tâm hồn mỗi chúng ta tìm về neo đậu.
Đặt truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki bên cạnh nhau trong thế đối
sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về hai tác giả, đồng thời vẻ đẹp văn hóa của
mỗi dân tộc cũng được phát hiện, tôn tạo thêm.
Trên đây là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn “Truyện ngắn Thạch
Lam – truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật” làm đề tài
nghiên cứu cho bản luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam và Pauxtốpxki lâu nay đã chiếm lĩnh được nhiều tình cảm của độc giả
Việt Nam. Từ những năm 30 trở đi, xuất hiện với 3 tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937),
Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Thạch Lam được coi như một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ thập niên 50, qua các
bản dịch của Vũ Minh Thiều, Bửu Kế, Cẩm Tâm, Kim Ân, Mộng Quỳnh, Phan Hồng
Giang…, bạn đọc Việt Nam biết đến Pauxtốpxki như một tài năng đoản thiên tự sự, làm
không ít người bất giác liên tưởng đến Thạch Lam.
Một thực tế rằng ở Việt Nam, từ trước 1945 đến nay, các công trình, bài nghiên cứu về
Thạch Lam khá đồ sộ. Khoảng mười năm trở lại đây, có nhiều công trình có quy mô, tầm cỡ
nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam. Truyện ngắn của ông đã được khám
phá từ mọi giác độ, mọi bình diện: tư tưởng, quan điểm của tác giả, nội dung phản ánh, nghệ
thuật thể hiện, phong cách văn xuôi nghệ thuật… Số lượng công trình, bài viết về
Pauxtốpxki, so với Thạch Lam, “mỏng” hơn nhiều. Những vấn đề liên quan đến đặc trưng
phong cách nghệ thuật Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ, ở những bài giới thiệu khái
quát, hầu hết các dịch giả trên đều đề cập đến. Riêng việc nghiên cứu truyện ngắn Thạch
1
Thơ Bằng Việt
Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn Pauxtốpxki thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi xem vấn
đề này là một mảnh đất trống đầy hấp lực và thách thức trong việc tìm hiểu, khám phá nó.
Vì tránh sự trùng lặp không cần thiết với công việc nhiều nhà nghiên cứu đã làm, ở
đây chúng tôi xin phép không bàn đến những công trình nghiên cứu về truyện ngắn ở mỗi tác
giả (Thạch Lam hoặc Pauxtốpxki) mà chỉ quan tâm đến các tài liệu trực tiếp đề cập đến đề
tài.
Phan Hồng Giang, một trong những dịch giả có đóng góp rất lớn với việc đưa tác
phẩm của Pauxtốpxki đến với người đọc Việt Nam, trong bản dịch của tập tiểu luận Một
mình với mùa thu, đã có những nhận xét rất xác đáng về Pauxtốpxki: “Có thể coi là một tấm
gương cùng soi chung của tâm hồn hai dân tộc Nga – Việt. Ông đã là biểu hiện cụ thể cho
cái đồng cảm, đồng điệu giữa tâm hồn hai dân tộc vốn có rất nhiều điểm chung trong số
phận lịch sử hình thành và phát triển” (Chúng tôi nhấn mạnh) [64, tr. 325]. Bùi Việt Thắng
trong cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cho rằng: “Đọc văn
Thạch Lam chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà sinh thành. Nhân vật của
ông nhận biết hết thế giới xung quanh và giao hòa được với người khác cũng chủ yếu nhờ
vào cảm giác. Đọc Thạch Lam ta nhớ tới A. Đôđê (Pháp), Pauxtốpxki (Nga), A. Môroa
(Pháp) – những nhà văn có sức mạnh của trực giác trong văn” (Chúng tôi nhấn mạnh) [
80, tr. 187]. Đó là những nhận xét mang tính mở đường, gợi dẫn mà chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu trong bản luận văn.
Tóm lại, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu truyện ngắn Thạch Lam trong
thế đối sánh với truyện ngắn của Pauxtốpxki. Tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi
trước, vừa nỗ lực tìm kiếm một hướng khám phá mới, chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn
Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật với hi vọng
bổ sung vào phần khiếm khuyết, góp thêm một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên
cứu truyện ngắn của hai tác giả này, tuy chắc chắn không thể toàn diện.
Ý nghĩa thực tiễn: Thêm một tiếng nói khiêm nhường đưa truyện ngắn của hai nhà
văn đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy truyện ngắn
Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trong trường phổ thông và đại học.
– Phương pháp so sánh: đặt truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trong cái
nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy mối quan hệ trực
tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh loại hình, lí giải các
tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường
văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với
một số nhà văn xuất hiện cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền
chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.
– Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi tiết nghệ
thuật, biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong truyện ngắn Thạch Lam và
Pauxtốpxki, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
– Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm
kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần.
1.3. Thạch Lam – Pauxtốpxki: nhà văn của thể loại truyện ngắn
1.3.1. Sự gặp gỡ trong sở trường truyện ngắn
Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cầm bút ở nhiều thể loại: tiểu luận phê bình, chân
dung văn học, bút kí, tiểu thuyết, truyện dài… nhưng có thể nói truyện ngắn mới là thể loại
“đo ni đóng giày” của hai nhà văn này, làm nên tên tuổi và thành công cho họ. Ngày nay,
nhắc đến Thạch Lam là người ta nghĩ ngay đến những truyện ngắn nhẹ nhàng mà ám ảnh,
chẳng hạn như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa… Một số
truyện ngắn của ông được xem là mẫu mực của thể loại này. Tương tự, ở Nga, Pauxtốpxki
được xưng tụng là bậc thầy về truyện ngắn, những đồng nghiệp đương thời và lớp nhà văn
hậu thế luôn xem ông là tấm gương để học hỏi, noi theo. Thế giới biết đến tên tuổi của
Pauxtốpxki cũng do bởi những câu chuyện ngọt ngào của ông trong tập Bông hồng vàng,
Bình minh mưa, Truyện ngắn chọn lọc Pauxtốpxki.
Để chuyển tải đến người đọc cái đẹp – những mảy bụi quý được chắt lọc từ những sự
vật bình dị, nhỏ bé của đời thường hay của tâm hồn con người, Thạch Lam và Pauxtốpxki
đều tâm đắc với hình thức tự sự cỡ ngắn. Gọn, cơ động, nhanh nhạy, cập nhật – những đặc
trưng và cũng là “lợi thế” của truyện ngắn – đã được hai nhà văn khai thác tối đa để khai sinh
những đứa con tinh thần, cho chúng đạt đến tầm cao và chiều sâu ý tưởng mà vẫn sống động,
tự nhiên.
Tìm tòi một đường hướng sáng tạo phù hợp với “điệu tâm hồn mình”, cả Thạch Lam
và Pauxtốpxki đều lấy thế giới tâm trạng của con người làm hướng khai thác chủ đạo,
quan tâm tới những cảm xúc đột biến, tức thì, thoáng qua, cỏn con. Truyện ngắn Thạch
Lam, Pauxtốpxki được khơi nguồn từ dòng chảy của văn xuôi trữ tình, xác lập một diện mạo
độc đáo: truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện.
“Trữ tình” là một trong dãy khái niệm về “loại” trong văn học, gồm trữ tình, tự sự,
kịch. Đây là quan niệm của Châu Âu, nguồn gốc từ Aristote, du nhập vào phương Đông
(Đông Á) và vào Việt Nam thời hiện đại, ngày nay trở thành “chuẩn” của lí thuyết văn học
thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Nhắc đến thuật ngữ này, người ta thường nghĩ ngay
đến một thể loại của “loại trữ tình” là thơ. Truyện ngắn trữ tình là thuật ngữ chỉ một thể loại
của “loại tự sự” (văn xuôi) có sự kết hợp hài hòa giữa tố chất “tự sự” và “trữ tình”. Theo
M.Khrapchencô, dấu ấn chủ quan và chất trữ tình đậm đặc là hai đặc điểm nổi bật của truyện
ngắn trữ tình. G.N.Pospelov chỉ ra bản chất của văn xuôi trữ tình (cũng là của truyện ngắn
trữ tình) là “tự sự một cách trữ tình” [69, tr. 100]. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng một trong
những đặc điểm quan trọng của truyện ngắn hiện đại là “gần với thơ” [30, tr. 113]. Phan
Quốc Lữ khẳng định sự ảnh hưởng của thơ với văn xuôi: “Tiến trình văn học hiện đại đã ghi
nhận sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ca và phá phách lãnh địa độc quyền của thơ ca.
Nhưng sự thâm nhập theo chiều ngược lại – tức là sự trộn hòa trở lại của thơ vào văn xuôi
cũng không phải là hiếm và điều này được xem như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của
truyện ngắn hiện đại” [46, tr. 51].
Mặt khác, tính chất “phi cốt truyện” ở truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki quy định
sự thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện của câu chuyện. Mỗi truyện là một tâm tình, gây ấn tượng
mạnh bởi phong vị trữ tình và chất thơ bàng bạc, man mác tỏa ra từ những trang văn.
Khám phá truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, người đọc như bước vào địa hạt
của chất thực và chất thơ, giữa tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Việc phân định rạch
ròi đường biên của các trào lưu, phương pháp, thể loại là không đơn giản bởi chúng có sự
trộn lẫn, chuyển hóa và xuyên thấm vào nhau.
Con người xuất hiện trong cõi đời và trở thành chứng nhân của thời đại, mỗi số phận
đều chứa một phần lịch sử. Cùng sống trong giai đoạn mà đất nước diễn ra nhiều sự đổi thay
mới mẻ, những vấn đề trọng yếu của thời đại như đói nghèo, chiến tranh, hạnh phúc và bất
hạnh, đổi thay và tha hóa… ít nhiều vang vọng vào các truyện ngắn của Thạch Lam,
Pauxtốpxki. Thế nhưng, chúng chưa đủ điều kiện để trở thành nội dung tự sự. Chúng tôi
đồng tình với quan điểm cho rằng nội dung tự sự phải là “những nội dung đã thực sự trở
thành cảm hứng nghệ thuật và chịu sự chi phối của đặc trưng thể loại” [93, tr. 49].
Trong hầu hết truyện ngắn của mình, Thạch Lam và Pauxtốpxki thường kể với người
đọc những câu chuyện về các cảnh đời, số phận trong xã hội, những buồn vui thế sự mà bề
mặt chúng dường như vặt vãnh, cỏn con nhưng ẩn sâu trong đó là vẻ đẹp của cuộc sống và
con người. Hai nhà văn đều không cốt tả chân các biến cố, sự kiện mà chỉ cốt diễn tả cho
chân xác tâm trạng, tình cảm con người. Nhiều khi đó chỉ là những cảm xúc bất chợt, thoáng
qua nhưng nếu tập hợp lại, chúng trở thành chiếc kính vạn hoa của tâm hồn.
1
Thơ Êxênin, sách Ngữ Văn 12, tập 2, chỉnh lí hợp nhất 2000.
Cùng với tuyết, hình ảnh của biển và những cánh rừng bạch dương cũng xuất hiện với
tần số cao trong các truyện ngắn của Pauxtốpxki. Biển xuất hiện trong 11 truyện ngắn với
nhiều dạng vẻ: “Biển xám, lạnh và yên tĩnh. Bờ biển ngập trong bóng tối màu tro” [65, tr.
40]; “Nước biển bao la đang dần xanh lên màu da trời nhợt nhạt” [65, tr. 44]; “Đại dương
đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại sóng ầm ĩ không mỏi” [65, tr. 60];
“Hắc Hải lấp lánh bốc khói. Biển đuổi vào bờ hàng ngàn con sóng bạc đầu nho nhỏ” [65, tr.
70 ]… Ở mọi góc nhìn, mọi thời điểm trong ngày, biển đều có nét đẹp riêng: “Bình minh
mang đến màu đồng ảm đạm cho sóng” [65, tr. 368]; “trên vùng biển trời lặng gió, sương
chiều tỏa mờ” [65, tr. 239]; chân trời biển cả tuy đã về đêm vẫn sáng đến hàng chục hải lí
như hoàng hôn vừa đổ xuống” [65, tr. 245]. Biển là một sinh thể có hồn được con người kí
thác bao niềm nỗi: “Biển Bantich mùa đông hoang vắng và sầu tư [65, tr. 200]; “Hắc Hải
ầm ì một cách buồn thảm”[65, tr. 250]; “Bantich gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt
sóng lạnh giá như trong vạc dầu của quỷ sứ” [65, tr. 23] , “đại dương nổ tung và lay chuyển
mọi bến bờ” [65, tr. 358]… Khám phá vẻ đẹp của biển, Pauxtốpxki đã có dịp bày tỏ tình yêu
lớn của mình với một “người bạn” mà ông yêu thích từ thủa bé. Trong một chuyến theo cha
đến Nôvôrôsiích vào mùa xuân, cậu bé Pauxtốpxki đã bị biển mê hoặc: “Từ xa tôi có cảm
giác biển giống như một bức tường màu xanh lơ. Hồi lâu tôi không đoán ra đó là cái gì. Lát
sau, tôi thấy một cái vịnh màu lục, một ngọn đèn biển, tôi nghe thấy tiếng ầm ầm của một
con đập chắn sóng và biển cả đi vào tâm hồn tôi như một giấc mơ kì diệu, rất đẹp nhưng
huyền ảo” [66, tr. 47]. Mặt khác, biển đã gắn liền với tâm thức của người Nga. Với diện tích
lớn nhất thế giới, Nga có 2/3 đường biên giới là hải giới, phía Bắc và Đông tiếp giáp với hai
đại dương là Bắc Băng dương và Thái Bình Dương, tiếp giáp với nhiều biển trong đó có hai
biển nội địa là Hắc Hải và Lí Hải. Tâm hồn Nga luôn hướng đến cái rộng lớn, khoáng đạt.
Thiên nhiên trong truyện ngắn Thạch Lam là những bức tranh của làng cảnh Việt
Nam. Theo thống kê, có 18/33 truyện ngắn của Thạch Lam có sự xuất hiện của hình ảnh
đồng ruộng. Đây là nét nổi bật của một đất nước nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cảnh:
“ruộng mạ non phớt theo chiều gió” [44, tr. 114]; “Cánh đồng lúa xanh rờn hiện ra trước
mắt” [44, tr. 137]; “Cánh đồng lúa chín vàng dưới mặt trời buổi trưa. Từng chỗ, ở thửa
ruộng nào đã gặt rồi, gốc rạ lấp lánh như giọt bạc” [44, tr. 98]; “Trên quãng đồng rộng,
cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng hương thơm ngát” [44, tr. 196]… Gương
mặt mùa đông Việt Nam với đầy đủ dáng nét khắc khổ (mưa phùn, gió bấc, cái rét cắt da…),
khi bước vào trang văn Thạch Lam, nó lấp lánh vẻ đẹp của chất thực hòa quyện trong chất
thơ.
Ngoài ra, bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn của Thạch Lam tăng thêm nét duyên
dáng bởi sự góp mặt của cây tre Việt Nam. Nếu như người Nga có niềm kiêu hãnh về xứ sở
bạch dương của mình thì người Việt cũng tự hào về cây tre, loài cây tượng trưng cho cốt
cách dân tộc. Trong trang viết của Thạch Lam, tre là một nét chấm phá cho khung cảnh làng
phố, gợi vẻ đẹp gần gũi, thân quen: “Một cái cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai: Tâm
ngẩng đầu lên nhìn; chàng vừa đi vào dưới vòm tre xanh trong ngõ” [44, tr. 22]; “Dãy tre
làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” [44, tr. 149]; “Chàng nhìn trăng qua
cành lá tre, cành lá sắc và đen như mực vắt qua mặt trăng, như một bức tranh Tàu” [44, tr.
196]. “Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và cô
nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két” [44, tr. 210], “Cái vòng đen của rặng tre
làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc” [44, tr. 225]…
Với nhãn quan của một họa sĩ, nhạc sĩ bậc thầy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đã phát
hiện ở phố huyện, tỉnh lị đìu hiu vẻ thi vị, quyến rũ và chuyển tải vẻ đẹp đó vào trang văn
của mình với những bức tranh thiên nhiên chân thực, sống động bằng ngôn từ, có sự hòa
phối nhuần nhụy giữa thanh âm và hương sắc. Cảnh sống động, quyến rũ, có hồn bởi nó
được kí thác tâm hồn con người.
Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, không gian tĩnh mịch của tỉnh lị vào thời khắc “nửa
đêm” với bến vắng, mưa bụi, sương mù đã khơi gợi ở Kuzmin cảm giác cô đơn, lẻ loi xen
lẫn niềm yêu mến. Đặc biệt, đêm tối và tiếng mưa rơi trong những bụi cây đã trở thành
“người đệm đàn” cho những cung bậc tình cảm xôn xao trong lòng chàng và người thiếu phụ
Onga. Mưa trong bình minh, “bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông”, “mùi cát ướt,
hơi lạnh của đêm khuya” (Bình minh mưa) [65, tr. 321], khu vườn xao động khi gió kéo
qua… tất cả đã dệt nên một bầu không khí lãng mạn và dịu êm bao bọc lấy Kuzmin và Onga
trong cuộc chia tay đầy nuối tiếc. Một bức tranh giao thoa tối, sáng với cảnh vật thơ mộng,
nhuốm màu kì ảo và tiếng mưa rơi tựa bản nhạc không lời đã làm nổi bật một tình yêu lặng
lẽ mà dư ba. Cũng vào ban đêm, sương mù, không khí tươi mát với mùi lá liễu dịu ngọt đã
khơi gợi những xúc cảm mới mẻ ở cô sinh viên vừa tốt nghiệp: “Masa có cảm tưởng như
con tàu không rõ vì sao bỗng dưng mọc lên giữa mặt đất, giữa những bụi cây rậm rạp” (Cây
tường vi) [65, tr. 247]. Bản hợp xướng của tiếng hót chim họa mi, tiếng cá quẫy, tiếng tù và
mục đồng là khúc nhạc nền cho cảnh gặp gỡ tình cờ, thú vị giữa Masa và anh phi công. Bức
tranh cánh đồng quê rực rỡ, sống động thật hòa hợp với tâm trạng vui tươi, háo hức khám
phá điều mới mẻ ở họ. Những màu sắc được hòa phối khéo léo, tạo thành một bức tranh
tuyệt mĩ của vùng thảo nguyên. Ở đó, Pauxtốpxki như nhà họa sĩ tài hoa đã nắm bắt được cái
hồn của hoa cỏ và tạo nên những tuyệt tác của thiên nhiên:
“Hai bên đường, những cây tường vi mọc cao lút thành một bức tường dựng đứng. Hoa
tường vi nở còn ướt át, đỏ rực như những ngọn lửa, đến nỗi những tia nắng nằm trên vùng lá
bên những bông hoa tường vi cũng trở nên lạnh lẽo và nhợt nhạt hơn. Tưởng như những đóa
hoa tường vi đó đã vĩnh viễn đứt lìa khỏi những cành đầy gai góc và lơ lửng trên không như
những ngọn lửa nhỏ rực rỡ.
[…] Từng quãng một, những bụi tường vi lại cắt quãng bằng những bụi hoa cựa gà nở
rộ chĩa lên những bông hoa hình nến màu xanh sẫm gần như màu đen. Phía sau, cỏ và hoa
đủ các loại, quấn quýt vào nhau, lấp lánh gờn gợn như những làn sóng đầy nắng, cả một khu
vườn um tùm trăm hồng nghìn tía: xa trục thảo đỏ và trắng, hoa hồng tử thái, hoa cẩm quỳ
dại, ánh sáng rọi vào cánh hoa trong suốt hồng lên, hoa cúc trắng như tuyết và hàng trăm
thứ hoa khác mà cả hai đều không biết gọi chúng là gì” [65, tr. 254].
Bức tranh hoa đồng cỏ nội có thêm nét duyên dáng, sinh động bởi sự góp mặt của các
loài vật vùng thảo nguyên:
“Trong rặng tường vi, những con ong vàng vành đen cần mẫn bay vo vo.Thực vậy,
trong bầy ong giống như những dải băng ngắn của những chiếc mề đay Xanh Gioóc ngày
xưa. Và bọn ong này cũng dũng cảm như những chiến sĩ dạn dày chiến trận, chúng chẳng sợ
người, lại còn sẵn sàng gây gổ với người nữa.
[...] Những con cun cút phành phạch vụt bay lên từ mặt đất. Một con gà nước núp dưới
cái hốc ẩm ướt của một thân cây đã chết, cất tiếng kêu cùng cục, nhạo bác tất cả mọi chuyện
trên đời. Đàn sơn ca run rẩy bay lên không, nhưng tiếng hót của chúng lại không từ nơi
chúng đang bay lên mà như từ phía sông đưa lại” [65, tr. 254].
Quả thật, sự phối hợp, đan cài giữa chúng đã tạo nên bức tranh toàn cảnh tựa như một
kì quan của tạo hóa.
Ở Gió biển, trong phút giây bối rối vì hạnh phúc, ngỡ ngàng, cảnh được khúc xạ qua
tâm trạng của anh lính thủy thật lãng mạn:
“Sương mù đẫm nắng nằm trên Maxcơva. Mọi cửa sổ đều mở toang. Cái tươi mát của
ban đêm ùa vào những khung cửa sổ ấy. Buổi sáng ra đời trong ánh lấp loáng ẩm ướt của
trận mưa vừa qua. Trong buổi sáng này người ta đã cảm thấy trước một mùa hè dài, những
cơn mưa rào ấm áp, những buổi hoàng hôn trong suốt, những cánh hoa đoạn bay dưới
chân” [65, tr. 289].
Trong Cầu vồng trắng, lúc Pêtrốp cô đơn, cảnh thật ảm đạm, đìu hiu: “Dãy núi Alatao
đứng sững ở phía nam thành phố như một bức trường thành màu xám. Tuyết đã rắc lên các
đỉnh núi. Buổi tối trong những căn nhà đều giá lạnh, im lìm và tối tăm”, “ban đêm vừng
trăng nhô lên trên những rặng thùy dương trơ trụi và trong ánh sáng chói chang, thành phố
có một vẻ gì dữ dội” [65, tr. 324]. Còn trong niềm hạnh phúc vô biên khi chạm tay đến tình
yêu, cảnh bỗng chuyển đổi đầy thơ mộng: “Và vùng sáng xanh biếc của những vì sao mọc
trên đỉnh núi nối đuôi nhau thành chuỗi dài lấp lánh” [65, tr. 331]. Ở Bình nguyên tuyết phủ,
ngay từ những dòng đầu của truyện, cảnh vắng lặng, rợn ngợp bởi tuyết trắng, báo hiệu một
cuộc đời cô đơn, u buồn: “Đại dương đẩy những bọt sóng dài lên bãi cát. Năm qua tháng lại
sóng ầm ĩ không mỏi và Alan đã quen với tiếng sóng đến nỗi chàng không còn để ý đến nó
nữa. Ngược lại, sự yên lặng ở chung quanh đã làm chàng ngạc nhiên. Chàng có cảm giác
cùng với tuyết, yên lặng đang từ trên trời rơi xuống” [65, tr. 355]. Bóng tối và sắc trắng của
bình nguyên tuyết phủ đan dệt thành một khung cảnh kì ảo, êm đềm, làm dậy lên trong Alan
dòng tâm tư như những đợt sóng cồn
Cũng theo cơ chế ấy, truyện của Thạch Lam là những bức tranh xoay theo cái trục tâm
trạng của nhân vật. Đó là cảnh đẹp thần tiên của một đêm trăng vùng hạ du ở Nắng trong
vườn: “Trên mặt sông, một cơn gió mát hiu hiu thổi, tiếng sông róc rách vỗ vào mạn thuyền
như một thứ nhạc vui (…) Hai bên bờ sông, ruộng mạ non phớt theo chiều gió, nương chè
sắn thắm ở ven đồi, mờ dần đằng xa sau một làn sương nhẹ” [44, tr. 69]. Bức họa vùng quê
có sự đan cài giữa các điệu xanh của cây cối thể hiện một sức sống tràn trề và những thanh
âm trong trẻo, mộc mạc từ thiên nhiên. Cảnh làm nổi bật “cái tình yêu đang réo rắt trong
lòng nàng (nhân vật Hậu – người viết chú thích)” [44, tr.69] và cả nhân vật tôi. Hai đứa trẻ
mở đầu với bức tranh phố huyện chiều tối. Bức tranh ấy mở ra khung cảnh yên ả, thanh
bình:“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào” [44, tr. 149].
Tóm lại, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của tạo
hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái tạo
nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.
Ở phương diện nội dung tự sự, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc
lựa chọn hiện thực phản ánh là những cảm xúc mới mẻ, bất chợt của con người và cái đẹp
tiềm tàng, khuất lấp. Bằng sự nhạy cảm bản năng của người nghệ sĩ đích thực, Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã lắng nghe những vang động trong tâm hồn nhân vật và khắc họa một thế
giới nội cảm đa dạng, phong phú mà hết sức vi tế của con người.
Bên cạnh đó, ngòi bút của Thạch Lam và Pauxtốpxki hướng đến những con người dung
dị bình thường trong cuộc sống, khai quật vỉa quặng tâm hồn, lối sống của họ và trải lên
trang văn những nét đẹp sống động, bất ngờ. Pauxtốpxki đã phát hiện trong những con
người Nga chân chất, bình dị một tâm hồn đa cảm, thánh thiện, yêu cái đẹp, luôn hướng đến
những điều cao cả. Họ đại diện tiêu biểu cho tính cách Nga: nhân hậu, bộc trực, bao dung,
cao thượng. Thạch Lam phơi bày lên trang văn của mình vẻ đẹp kín đáo của tâm hồn Việt,
(nhất là vẻ đẹp của người phụ nữ): danh dự, nghĩa tình, triết lí sống dung hòa, cởi mở.
Sự giao thoa giữa văn hóa Việt và Nga đậm nhất ở lĩnh vực lối sống là cách ứng xử
đậm đà tình nghĩa của họ. Tình người được thăng hoa. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa
Việt Nam, văn hóa ứng xử của người Việt là trọng tình: “Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn
gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn đến người Việt Nam lấy tình cảm,
lấy sự yêu, sự ghét làm nguyên tắc ứng xử. Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài
hòa âm dương làm nguyên lý chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính thì trong cuộc sống, người
Việt Nam sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì
tình được đặt cao hơn lí” [90, tr. 181]. Trong ứng xử hàng ngày với nhau, người Việt luôn
tâm niệm: “Một trăm cái lí không bằng một tí cái tình”, “Chín bỏ làm mười”, “Giơ cao
đánh khẽ”... Mặc dù chuộng sự bình đẳng, rành mạch, rõ ràng, trong ứng xử và quan hệ
giữa người và người, ta vẫn cảm nhận được ở con người Nga tấm lòng hào hiệp, đôi mắt hiền
từ, nhân hậu và trái tim đằm thắm yêu thương.
Mặt khác, chính tình yêu nước thiết tha và niềm rung cảm mãnh liệt trước cái đẹp của
tạo hóa là “nội lực” để Thạch Lam và Pauxtốpxki, qua những truyện ngắn của mình, đã tái
tạo nên gương mặt thiên nhiên mang đậm phong vị, “hồn cốt” dân tộc.
Chương 3
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM VÀ
PAUXTỐPXKI
Lí thuyết tự sự học hiện đại thường quan tâm, xem xét đến năm bình diện cơ bản của
nghệ thuật tự sự: Phương thức trần thuật (Chủ thể kể), Điểm nhìn trần thuật, Tổ chức cốt
truyện và tình huống, Ngôn ngữ trần thuật, Giọng điệu trần thuật. Chúng tôi sẽ lần lượt mô
tả, đối chiếu truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki theo mô hình trên nhằm tìm
ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự của hai nhà văn.
3.1. Phương thức và điểm nhìn trần thuật
Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành với một chủ thể kể nhất định. Đó là người
đứng ra kể lại câu chuyện và tổ chức các yếu tố khác loại vào trong chỉnh thể của cái nhìn và
sự thụ cảm. Vì vậy, đặc điểm tư duy, cá tính, cái nhìn, quan niệm của người trần thuật được
khắc ghi trong mỗi văn bản nghệ thuật.
Sử dụng một cách nghệ thuật hai phương thức trần thuật cơ bản 1, kết hợp với sự lựa
chọn điểm nhìn linh hoạt, Thạch Lam – Pauxtốpxki đã tạo ra cái “duyên” của lời kể, cách kể,
“thổi hồn” cho những truyện ngắn vốn không có chuyện.
(Bảng thống kê các phương thức trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki)
1
Lí thuyết tự sự học ghi nhận có hai hình thức trần thuật cơ bản từ trước đến nay: trần thuật theo ngôi thứ nhất (phương thức chủ
quan) và trần thuật theo ngôi thứ hai (phương thức khách quan).
Cùng sử dụng hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, ở truyện ngắn Thạch
Lam, Pauxtốpxki, sự tương đồng và khác biệt vẫn rõ nét. Chủ thể kể trong truyện ngắn
Thạch Lam, Pauxtốpxki trước hết là “tôi” – nhân vật trong câu chuyện kể. Đây là người tham
gia vào các sự kiện, biến cố của chuyện và kể lại một sự việc nào đó đã xảy ra trong quá khứ
với trường nhìn của chính mình. Độ lùi không lớn lắm về mặt thời gian tạo nên tính thời sự
cho câu chuyện. Dạng thức này ở Thạch Lam đã tìm được một lối biểu hiện chân thực dưới
lời của nhân vật (Một cơn giận, Sợi tóc). Ở đây, lối kể “chuyện trong truyện” (kể chuyện
kép) thường được bắt nguồn từ một cuộc chuyện trò, hàn huyên tâm tình như một duyên cớ
khơi gợi câu chuyện. Chẳng hạn, truyện Một cơn giận mở đầu với lời giới thiệu của người kể
chuyện giấu mình: “Một buổi tối mùa đông, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, trong một căn
buồng ấm áp. Tự nhiên trong câu chuyện, một người nói đến những cơn giận tự nhiên đến
tràn ngập cả tâm hồn ta và có khi gây nên cái kết quả không hay. Rồi mỗi người đều bày tỏ ý
kiến riêng của mình. Anh Thanh từ nãy đến giờ vẫn lặng yên, có vẻ trầm ngâm, cất tiếng
nói” [44, tr. 28]. Thế là từ đó, vai người kể chuyện được chuyển giao cho Thanh. Anh ta đảm
đương vai trò tường thuật câu chuyện từ đầu đến cuối với trường nhìn của chính mình.
Tương tự, ở Sợi tóc, sau lời mào đầu ngắn gọn: “Anh Thành nhỏm dậy, nghiêng mình chống
khuỷu tay xuống giường rồi bắt đầu nói với một giọng trầm và thong thả khiến người nghe
hiểu được hết các ý tứ của câu chuyện” [44, tr. 240], nhân vật Thành xuất hiện, trực tiếp kể
lại câu chuyện mà bản thân mình vừa trải qua. Nhân vật với điểm nhìn bên trong đã nghiêm
khắc mổ xẻ, phanh phui những mặt trái của tính cách, phẩm chất dưới sự phán xét của tòa án
lương tâm. Qua lời tự thú của nhân vật Thanh (Một cơn giận), Thành (Sợi tóc), người đọc
được chứng kiến sự vận động, va đập trong cõi sâu thẳm tâm hồn họ. Việc đặt điểm nhìn trần
thuật nơi nhân vật thường hình thành một phạm vi chủ quan cho tự sự, tạo nên tính tự nhiên,
chân thực cho việc bộc lộ những cảm giác ngỡ ngàng, sửng sốt cũng như những trạng thái
tâm lí phức tạp.
Hơn nữa, tư thế dẫn truyện này đã đem lại cho người đọc cảm giác tin cậy. Bởi chủ thể
kể là người am tường mọi hành vi của bản thân, anh ta kể về mình không phải với một nhân
cách toàn vẹn, tròn trĩnh mà bằng cả sự đớn hèn, ti tiện, nhỏ nhen. Vì vậy, việc kể chuyện
theo ngôi thứ nhất xưng tôi với điểm nhìn hướng nội là sự lựa chọn phù hợp nhất cho sự
phản tỉnh của nhân vật.
Hình thức này ở truyện ngắn Pauxtốpxki được thể hiện chủ yếu dưới dạng chủ thể kể
bộc bạch, giãi bày, chia sẻ những trải nghiệm thiết thực của bản thân về hoạt động sáng tạo
nghệ thuật. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, thành thật và giàu tâm huyết với văn chương.
Nếu người kể chuyện ở trang viết của Thạch Lam mang độ căng của những thao thức, dằn
vặt, những tấn kịch nội tâm sâu sắc qua những lời tự thú thì ở truyện ngắn của Pauxtốpxki,
chủ thể kể mang trong mình bầu nhiệt huyết sôi nổi, nhiệt thành với lời “tự bạch” chân tình.
Những đam mê, bốc đồng tuổi trẻ; những sở trường, sở đoản; thành công hay thất bại trong
hành trình nghệ thuật... tất cả đều được kể lại với trái tim trong sáng, hồn hậu. Điểm nhìn của
người trần thuật và nhân vật “tôi” “chập” làm một. Điều đó đã làm cho những truyện ngắn
này thoát khỏi nguy cơ giáo huấn một cách hời hợt, khô khan. Chẳng hạn, trong Những bông
hoa làm bằng vỏ bào, nhân vật “tôi” chia sẻ về những kỉ niệm khi mới bén duyên với văn
chương. Trong đó có niềm đam mê mãnh liệt với cái đẹp và cả “tính chuộng lạ”, ưa cái hào
nhoáng, hoa mĩ bề ngoài: “Phần lớn tuổi trẻ nghèo túng và thực ra rất cay đắng của tôi đã
qua đi trong những vần thơ và trong niềm xao xuyến mơ hồ. Sau đó tôi bỏ không làm thơ
nữa. Tôi hiểu rằng đó chỉ là cái hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm bằng vỏ bào
nhuộm khéo, một thứ vàng mạ” [65, tr. 35]. Ở Những vết khắc trong tim, người kể chuyện
bày tỏ những chiêm nghiệm về thời thơ ấu. Dẫu có cay cực, gian khổ, nó đã góp phần dưỡng
nuôi tâm hồn của mỗi người: “Cùng với năm tháng những ấn tượng lúc thiếu thời tưởng đã
quên đi. Nhưng, tất nhiên, nó vẫn tiếp tục sống trong đáy sâu của kí ức tôi và thỉnh thoảng
lại trôi ra ngoài. Nhất là trong những lúc hạn hán. Chúng bao giờ cũng dấy lên trong lòng
tôi một nỗi lo lắng khó hiểu” [65, tr. 66].
Mặt khác, nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki còn là một
chứng nhân trong câu chuyện được kể. Nhân vật xưng tôi xuất hiện với tư cách là hình tượng
người trần thuật và có thể nhận xét, đánh giá, đối thoại trực tiếp với nhân vật, sự kiện trong
câu chuyện. Dạng thức này cho phép nhà văn tự biểu hiện bản thân một cách đầy đặn trong
tác phẩm. Anh ta sẽ kể lại câu chuyện theo trường nhìn của chính mình. Hình tượng người
trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam dù với nhiều dạng thức hóa thân: một công chức an
nhàn, trưởng giả (Người bạn cũ), một tri thức về thăm quê (Người lính cũ), anh học trò trọ
học (Tình xưa), một người có học (Người bạn trẻ)... thì họ vẫn luôn mang cốt cách của một
tri thức nhạy cảm, tự trọng, nhân hậu và giàu tình thương.
Ở truyện ngắn của Pauxtốpxki, hình tượng người trần thuật là một con người lãng du,
mải miết với cuộc hành trình khám phá cái đẹp. Con người ấy nhạy cảm, tinh tế, bằng những
trải nghiệm của bản thân đã trao truyền lại những kinh nghiệm quý báu cho thế hệ sau. Qua
hầu hết những truyện ngắn trong tập Bông hồng vàng (Chữ đề trên tảng phiêu nham, Hỏa
tinh, Trên thùng xe tải...), Pauxtốpxki đã định hình cho mình một chân dung tinh thần một trí
thức ham học hỏi, tìm tòi và có tinh thần nghiêm túc trong nghề nghiệp..
Lựa chọn lối kể chủ quan với phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, tác giả đã tạo
nên tính chất tâm tình, tri âm cho câu chuyện. Chuyện thường được kể dưới dạng những hồi
ức, kỉ niệm, vì vậy nó thấm đẫm chất thơ, đầy dư vị.
1
Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120
2
Theo http:// thuvien.maivoo.com/Truyendai/Nhung–ngay–tho–au/ Chuong8–d23120
lũy vốn kiến thức cho bản thân. Thế giới trẻ thơ trong truyện ngắn của Mácxim Gorki cũng
đầy ắp bao cảnh đời, số phận đáng thương. Người đọc bắt gặp ở đó những giọt nước mắt tủi
hờn của con trẻ, những ước mơ giản dị mà cháy bỏng đến se lòng. Chú bé ăn mày Liônka có
một cái chết thật bi thảm: “Trên một cái hố ngoài thảo nguyên, cách làng không xa mấy, thấy
có đàn quạ lượn vòng, và khi đến xem, người ta thấy thằng bé nằm sấp dưới hố, hai tay dang
rộng, mặt úp vào lớp bùn sền sệt đọng lại dưới đáy hố sau trận mưa” (Lão Arkhíp và bé
Liônka) [54, tr. 1893]. Còn Lenka, cậu bé tật nguyền sống dưới cái hầm đen ngòm và dơ bẩn,
hầu như không được thấy ánh sáng mặt trời. Cậu chỉ biết làm bạn với cái “sở thú” ngộ
nghĩnh của mình: những con nhện, con ruồi, lũ gián ... Trong cuộc sống cô độc và nhàm
chán, Lenka đã quen giao tiếp bằng tiếng chửi: chửi những con côn trùng, chửi cả mẹ mình.
Lời tâm sự của cậu bé với người khách lạ tốt hé lộ một niềm khát khao cháy bỏng: “Cháu sẽ
lớn lên. Mẹ sẽ làm cho cháu một chiếc xe lết, cháu sẽ lết qua các phố để ăn xin. Xin xong
cháu sẽ lết ra đồng thoáng” [54, tr. 526].
Viết về trẻ thơ, Pauxtốpxki và Thạch Lam không cần đến những kĩ thuật phức tạp
mà đã dùng cả tấm lòng để lắng nghe, thấu hiểu và diễn tả chân xác thế giới thần tiên
trong trẻo trong tâm hồn các em bằng một trái tim không hề già cỗi. Nhân vật trẻ thơ của
Thạch Lam và Pauxtốpxki thường là “trẻ ngoan”. Chúng hành xử nhẹ nhàng, tinh tế, đặc biệt
là không dùng ngôn ngữ đường phố. Các ông đã đặt vào những mầm non cuộc sống ấy lòng
tin tưởng, sự trân trọng, nâng niu và đặc biệt là lòng yêu thương vô bờ.
Ngoài nhân vật trẻ em, người phụ nữ cũng được Pauxtốpxki và Thạch Lam dành nhiều
bút lực để miêu tả, khắc họa. Khi miêu tả, Pauxtốpxki thường xuyên sử dụng những tiểu tiết.
Việc đi vào chi tiết một cách tỉ mỉ chứng tỏ sự quan sát tinh tế của tác giả. Trong các nhân
vật phụ nữ, hầu như người nào cũng để lại ấn tượng với những nét chấm phá mang dấu ấn
riêng biệt. Maria Tsernưi nổi bật với vẻ kiều diễm: “Nếu bạn cũng như tôi, cùng thời với
nàng, thì chắc hẳn phải nghe nói đến cái sắc đẹp thanh tú của người phụ nữ này, nghe nói
đến cái dáng đi thanh thoát, tính tình kiêu kì nhưng đầy quyến rũ của nàng” (Suối cá hương)
[65, tr. 408]. Chỉ với một phép so sánh, người đọc cảm nhận được nhan sắc tuyệt mĩ của
nàng: “Không một người đàn ông nào dám hi vọng ở tình yêu của Maria Tsernưi. Họa
chăng có những người như Sile mới xứng đáng tình yêu của nàng” [65, tr. 408]. Tachiana
thu hút với “khuôn mặt xanh xao và nghiêm trang”,“đôi mắt sâu thẳm và chăm chú” [65, tr.
281]. Người thiếu phụ trong Gió biển lại có vẻ đẹp ẩn giấu với “những ngón tay dịu dàng và
nhỏ nhắn” [65, tr. 291]. Onga (Suối cá hương) có vẻ quyến rũ kì lạ với: “dáng trẻ trung và
đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ”, “khuôn mặt trầm tư”,“vầng trán thanh sạch” [65, tr.
317]. Êlêna Pêtrốpna (Cầu vồng trắng) lại nổi bật với một giọng nói truyền cảm, “nghe như
lới hứa hẹn của hạnh phúc”. Giọng hát lanh lảnh, trong và cao vút của Xônxeva (Âm nhạc
Vécđi) đã biểu lộ ở cô gái một sức sống dạt dào của tuổi trẻ. Thế nhưng, với Pauxtốpxki, việc
khắc họa ngoại diện là để làm nổi bật tính cách, tài năng. Với ông, vẻ đẹp tâm hồn mới có
sức sống bền lâu. Các nhân vật nữ của ông để lại ấn tượng cho người đọc bởi vẻ đẹp vĩnh
cửu – vẻ đẹp của nhân cách, tấm lòng. Bằng sự dịu dàng và tấm lòng nhân ái, Tachiana đã
làm những việc tuy bình thường, thầm lặng nhưng chúng lại mang đến hạnh phúc ấm áp cho
Nikôlai. Người thiếu phụ từng làm y tá ở Xêvaxtôpôn đã cứu anh lính thủy và có một việc
làm tốt đẹp để đem lại sự an ủi cho anh trong những ngày dưỡng thương. Thiếu phụ Onga đã
đón tiếp thiếu tá Kuzmin chân tình như với một người bạn thân thiết và chu đáo tiễn anh ra
bến tàu, thận trọng dẫn anh qua những bậc thang mục. Êlêna đã nỗ lực đáp lại tấm tình của
một người bạn chưa từng quen biết và chị đã tìm thấy hạnh phúc của cả cuộc đời mình…
Những người phụ nữ đã lớn tuổi như người phụ nữ gốc Pháp trong Lời cầu nguyện của
Mađam Bôvê, người mẹ già trong Bức điện, người bà trong Vườn nhà bà cũng hiện lên rõ nét
với tấm lòng nhân hậu, dạt dào tình yêu thương. Chỉ với chi tiết nhỏ: “Đôi mắt sáng long
lanh, nụ cười, dáng điệu thoải mái khi bà ta gập chiếc quạt lại!” [65, tr. 304] tác giả đã khắc
họa cốt cách quý tộc của người đàn bà Pháp chân chính.
Nhân vật nữ trong sáng tác của Thạch Lam trước hết là những thiếu nữ trẻ trung, xinh
tươi. Miêu tả hình thức bề ngoài, Thạch Lam không miêu tả nhân vật theo kiểu cơ thể học
với đầy đủ mắt mũi, chân tay mà với những nét chấm phá độc đáo. Ông chủ yếu đi vào một
vài nét ngoại diện tiêu biểu, sống động để thể hiện tâm hồn nhân vật. Nga mang vẻ đẹp
của những bông hoa đồng nội, mơn mởn, xinh tươi với “tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông
trên cổ nhỏ”, bàn tay “trắng hồng nhỏ nhắn” [44, tr. 182], mái tóc thoang thoảng hương
thơm như giắt hoàng lan. Ở Hậu là một sức trẻ dẻo dai: “Người cô nổi trên nền lá xanh như
một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió bay phất phới, và tất cả
ánh nắng, lá cây, bóng mát cũng hình như đang tưng bừng giỡn múa chung quanh người
thiếu nữ tươi tắn ấy” [44, tr. 109]. Còn Lan lại nổi bật với vẻ duyên dáng, nữ tính: “Thân thể
trẻ tươi và dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây và tấm áo mảnh căng sát để phô
hẳn những đường mềm mại” [44, tr. 231]. Mai mang vẻ đẹp của “một bông hoa quý”: “mặt
nàng đều đặn, cái cằm nhỏ, cái cổ tròn và trắng như sữa” [44, tr. 197]. Hầu hết các nhân vật
nữ trong trang viết của Thạch Lam mang vẻ đẹp trong sạch, thanh cao, không có dấu vết của
nhục thể.
Cũng như Pauxtốpxki, Thạch Lam đã dành nhiều chi tiết đặc tả tấm lòng nhân hậu,
đức hi sinh cao cả, sự tần tảo chịu thương chịu khó của những người phụ nữ Việt Nam. Họ
để lại ấn tượng sâu sắc bởi vẻ đẹp nhân cách và sự tận tụy với nghĩa vụ làm người. Cuộc đời
của Tâm (Cô hàng xén), Mai (Bóng người xưa), Tâm (Một đời người), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê)...
luôn gắn liền với những bổn phận, trách nhiệm và họ đẹp trong những bổn phận đời thường
đó. Viết về người phụ nữ, nếu như Nhất Linh, Khái Hưng (những cây bút cùng nhóm “Tự
lực văn đoàn” với Thạch Lam) nỗ lực xây dựng hình tượng con người mới, dũng cảm đấu
tranh chống lại tư tưởng lỗi thời, cổ hủ để đòi quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho bản
thân 1 , thì Thạch Lam vẫn kiên trì với hình ảnh người phụ nữ truyền thống hiền lành, chân
chất. Do vậy, nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam là những con người nhỏ bé, phần
lớn họ an phận trong hoàn cảnh hiện tại. Chính sự nhẫn nại, cam chịu làm cho họ có phần
cao quý hơn nhưng mặt khác cũng làm cho họ bé nhỏ đi.
Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn của hai nhà văn là những thiếu nữ, thiếu phụ
trẻ trung, xinh đẹp, dịu dàng nữ tính hay những phụ nữ luống tuổi, nhưng tất cả đều gặp nhau
ở nhân cách cao đẹp. Cái thế giới ấy khác với thế giới các bà, các cô trong truyện ngắn của
Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Mácxim Gorki bởi nó hoàn toàn vắng bóng những
người phụ nữ méo mó về nhân hình, nhân tính. Là nhà văn của lớp người dưới đáy, Mácxim
Gorki đã dành nhiều sự ưu ái cho những người phụ nữ cùng khổ, kể cả con người có vẻ bề
ngoài tàn tạ như nhân vật Maska: “Chị ta cũng nói năng như con nít, câu kéo như của một cô
bé mới lớn. Mà đôi mắt của chị cũng trong trẻo như mắt trẻ thơ, khiến cho cái mặt không có
mũi, cái môi trên nhếch lên và hàm răng cửa để hở, trông lại càng quái gở hơn nữa. Một cơn
ác mộng biết đi, nhưng cũng là một trò đùa biết đi, và là một trò đùa vui vẻ” [54, tr. 528].
Nguyên Hồng cố gắng tìm tòi chút nhân cách còn le lói trong những người đàn bà tội lỗi,
phạm pháp như nhân vật Bảy Hựu, Chín Huyền trong truyện ngắn cùng tên của ông. Còn
Nguyễn Công Hoan phơi trần bộ mặt dối trá của những kẻ ra dáng đạo đức, chính chuyên:
một bà quả phụ quan tuần phủ kia kiếm được bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” bằng cách vứt
1
Nhân vật Mai trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân (Khái Hưng), nhân vật Loan trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt (Nhất Linh) là những
người phụ nữ mạnh mẽ, có tư tưởng mới mẻ, tiến bộ.
bỏ chính cái tiết hạnh của mình (Một tấm gương sáng), một bà tham đã đền ơn chồng bằng
cách Thế rồi mợ nó đi Tây. Nhìn chung, các nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam và
Pauxtốpxki được chấm phá bởi những nét vẽ tinh tế về ngoại hình và họ nổi bật bởi sự
toàn vẹn, đầy đặn về nhân cách. Cả hai nhà văn đều ưa chuộng vẻ đẹp cổ điển với dáng nét
thanh sạch, tinh khiết, đặc biệt là sự cao quý về mặt tâm hồn.
Các nhân vật nam trong truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki thường ít ỏi hoặc
thiếu vắng đặc điểm về ngoại hình nhưng ngồn ngộn những chi tiết đặc tả tính cách, tâm
tư, tình cảm. Pauxtốpxki đã xây dựng thành công chân dung người lính với vẻ đẹp nội tâm
sâu sắc. Đó là những người con trai mang trong mình bầu nhiệt huyết cống hiến cho đất
nước, đặc biệt ở họ có sự kết hợp hài hòa giữa một tinh thần “thép” và một tâm hồn giàu cảm
xúc, giữa trái tim quả cảm và lòng nhân hậu cao cả. Kuzmin (Bình minh mưa), Pêtrốp (Cầu
vồng trắng), anh lính thủy (Gió biển), Vania (Trái tim nhút nhát), Nikôlai (Tuyết), vị tư lệnh
(Âm nhạc Vécđi) là những con người mang vẻ đẹp anh hùng chan hòa với vẻ đẹp dung dị đời
thường. Ngoài ra, nét riêng trong thế giới nhân vật của Pauxtốpxki là sự xuất hiện của những
con người nghệ sĩ. Họ là chủ thể sáng tạo nên cái đẹp ở đời với một tâm hồn tinh tế và tài
năng thiên bẩm. Tuy vậy, họ lại gần gũi và giản dị biết bao, dường như không có một ranh
giới nào giữa những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ với những con người bình thường trong cuộc
sống. Nhà soạn nhạc nổi tiếng Êđua Grigơ (Lẵng quả thông) lại có một vẻ chất phác, nhân
hậu chẳng khác gì lão Êgo (Trái tim nhút nhát), cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép). Vì vậy
mà cô bé Đanhi cứ thao thao bất tuyệt kể chuyện, “tranh cãi” với Êđua và mời ông về nhà.
Nhạc sĩ thiên tài Môda, người có tài năng làm xiếc với những giai điệu bổng trầm, tạo ra
những bản nhạc tuyệt vời, lại là “một người lạ mặt” rất mực thân thiện, tốt bụng, hào phóng
với cha con người đầu bếp già. Người kể chuyện cổ tích Anđécxen (Chuyến xe đêm) hay nhà
văn Alan (Bình nguyên tuyết phủ) đều mang dáng nét bình dị, mộc mạc, thậm chí cả những
khiếm khuyết rất đời thường. Những nhân vật nghệ sĩ xuất hiện với số lượng đáng kể trong
trang viết của Pauxtốpxki cũng bởi họ gần gũi quá với tâm hồn đa cảm và đắm say cái đẹp
của ông. Bên cạnh đó, Pauxtốpxki còn miêu tả những con người xấu xí với đường nét ngoại
hình “méo mó” và đây chính là “thủ pháp đòn bẩy” để làm nổi bật vẻ đẹp nhân ái tiềm ẩn
trong tâm hồn họ. Anh thợ hốt rác thành Pari Giăng Samét (Bông hồng vàng) với vẻ ngoài dị
dạng “thân hình gớm ghiếc lê lết trên đôi chân tế thấp khập khiễng” – nhưng lại mang trong
mình một đức hy sinh lớn lao vô bờ. Anh sẵn sàng làm tất cả để mang lại hạnh phúc cho
người mình yêu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp (Âm nhạc Vécđi) “nhỏ bé, chắc nịch” mà hành
động thì dứt khoát, kiên quyết vì hạnh phúc của người ca sĩ đang chịu áp lực vì khổ đau.
Những ông lão như cụ Kudơma (Chiếc nhẫn bằng thép), lão Tikhôn (Bức điện), ông Êgo
(Trái tim nhút nhát) lại là hiện thân của sự cứng cỏi, mạnh mẽ, nhân hậu như cây sồi cổ thụ
đã kinh qua bao biến thiên thời tiết, là chỗ dựa vững chắc cho những người thân.
Các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam đa phần là những trí thức bình dân. Tân
(Đứa con đầu lòng) không rõ về ngoại hình, tuổi tác nhưng qua những biểu hiện: “tò mò
ngắm cái đầu bé phủ tóc đen và mượt”, “không thấy cảm động như chàng tưởng, và cũng
không thấy có một tình cảm gì đối với đứa con mới đẻ” [44, tr. 8] người đọc thấu hiểu tâm
trạng của một người đàn ông còn rất trẻ, rất lạ lẫm với vai trò lần đầu làm cha. Diên (Trong
bóng tối buổi chiều) hiện ra với cảm giác u uất, tủi buồn vì sự thay đổi đến quay quắt, chóng
mặt của cô bạn gái, vì sự lạc lõng bơ vơ ở chốn thị thành và sự vỡ tan của những mộng đẹp
ngày trước. Thanh (Dưới bóng hoàng lan) tuy đã trưởng thành nhưng khi trở về bên bà,
chàng lại có biểu hiện rất...trẻ con: “Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ” [44,
tr. 182]. Phần lớn, các nhân vật nam trong truyện Thạch Lam khi bị cuộc đời “dồn đẩy”, “xô
ngã”, họ đành bất lực, buông xuôi với cái nhìn tiếc hận thấm thía, như trường hợp của Minh
(Cái chân què), Bào (Người bạn trẻ), người lính (Người lính cũ). Một số là nhân vật chưa
hoàn kết về tính cách, chẳng hạn như Sinh (Đói), Tiến (Tiếng sáo), Bính (Buổi sớm), thật
khó để xếp anh ta vào người tốt hay kẻ xấu mà đòi hỏi người đọc phải có cái nhìn toàn diện,
soi ngắm nhiều chiều.
Nét riêng trong việc xây dựng nhân vật của Thạch Lam là tác giả đã tạo ra những con
người mang dấu ấn tự thuật của bản thân ông nhà khá rõ nét (nhân vật mang tính tự thuật ở
truyện của Thạch Lam “đậm đặc” và “sắc nét” hơn ở truyện của Pauxtốpxki). “Chất tiểu sử
trong văn xuôi Thạch Lam, bộc lộ ra trước tiên là ở nhân vật” [56]. Người ta có thể tìm thấy
bóng dáng của Thạch Lam qua mỗi truyện ngắn của ông, chẳng hạn qua chú bé Sơn (Gió
lạnh đầu mùa), An (Hai đứa trẻ), nhân vật xưng “tôi” (Người lính cũ, Người đầm, Người
bạn cũ, Người bạn trẻ), qua hàng loạt nhân vật người trí thức bình dân... Do bởi dù kể
chuyện mình hay chuyện người thì “ở đó hiện lên hình ảnh một con người thống nhất” – con
người tác giả. Trong Thạch Lam hay trong các nhân vật của ông, sự buồn chán không bao
giờ dẫn đến sự buông tuồng hay lối sống tùy tiện, mất hết nhân cách. Vì vậy thế giới nhân
vật của Thạch Lam hoàn toàn xa lạ với những con người bị lưu manh hóa, những “thằng
người” trong xã hội. Chính điều này làm nên nét riêng giữa Thạch Lam và các cây bút đồng
thời với ông như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan (Các nhà văn hiện thực này đã phơi
bày mặt trái của xã hội Việt Nam trước năm 1945 với những nhân vật bị “méo mó” về nhân
tính, mà tính cách phổ biến nhất là lưu manh). Nhân vật của Thạch Lam cũng bị ám ảnh với
cái đói (Đói, Nhà mẹ Lê) nhưng chưa bao giờ họ để miếng ăn làm mình biến chất như nhân
vật của Nam Cao. Dù ở vị trí nào, cảnh huống nào, các nhân vật trong trang viết của Thạch
Lam tuy nhỏ bé nhưng không thấp hèn, trước sau họ vẫn giữ được cốt cách cao quý của con
người được giáo dục chu đáo trên nền tảng đạo đức truyền thống.
(Sơ đồ khảo sát ý nghĩa bóng tối trong 14 truyện ngắn của Pauxtốpxki và 14 truyện ngắn Thạch Lam)
Nghĩa (1): Bóng tối biểu trưng cho tình cảnh bế tắc, cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người
(tập trung ở những tác phẩm Hai đứa trẻ, Một cơn giận, Người lính cũ, Tối ba mươi, Cô
hàng xén, Người bạn cũ, Trong bóng tối buổi chiều, Buổi sớm )
Nghĩa (2): Bóng tối là thời khắc vật lí, mang lại cho con người cảm giác bình yên, dễ chịu
(Nắng trong vườn, Tiếng chim kêu, Người đầm, Bóng người xưa; Chuyến xe đêm, Cội nguồn
sáng tạo, Đêm trắng, Binh minh mưa, Cầu vồng trắng, Người đầu bếp già, Chú bé chăn bò,
Suối cá hương, Truyện ngắn đầu tiên, Bức điện, Bình nguyên tuyết phủ, Lẵng quả thông)
Nghĩa (3): Bóng tối là không gian “an toàn”, giúp con người che giấu những bí mật (tập
trung ở các tác phẩm Bắt đầu, Đêm sáng trăng ; Gió biển, , Cây tường vi).
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, trong tương quan giữa ánh sáng và bóng tối, ở
truyện ngắn Thạch Lam, bóng tối luôn chiếm ưu thế. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ, bức tranh
cuộc sống sinh hoạt của con người đậm đặc bóng tối, tưởng như có thể xắn nó ra thành từng
miếng: “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”[44, tr. 153], “Vũ trụ thăm
thẳm bao la”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các
ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa” [44, tr. 154], “Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh,
đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 157]. Đối lập
với bóng tối là hình ảnh ánh sáng với đủ loại kích cỡ: “một khe ánh sáng” [44, tr. 153], “vệt
sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào cành cây” [44, tr. 153], “một
chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra”[44, tr. 153],
“ngọn đèn con của chị Tý”, “bếp lửa của bác Siêu”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ,
thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa” [44, tr.154], “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như
ma trơi”, “những đốm than đỏ bay tung trên mặt đất” [44, tr. 156]. Dường như ánh sáng
nhỏ nhoi ấy đã bị bóng tối “thôn tính” và “nuốt chửng”. Ở một số truyện ngắn khác của ông
như Đêm sáng trăng, Cô hàng xén, Người lính cũ, Người bạn cũ, Bóng người xưa, Tối ba
mươi, bóng tối vẫn là gam màu chủ đạo. Có những truyện mở đầu là buổi chiều tối và kết
thúc bằng buổi tối với bóng đêm bao bọc lấy nhân vật như Hai đứa trẻ, Trong bóng tối buổi
chiều, Cô hàng xén. Lại có những truyện, bóng tối vừa là điểm xuất phát và cũng là điểm kết
thúc của câu chuyện như Người lính cũ, Người bạn cũ, Tối ba mươi. Bóng tối đeo đẳng, theo
bám lấy con người như cái vòng đời luẩn quẩn, tăm tối, đầy lo sợ mà họ không cách gì thoát
ra được: “chung quanh chúng tôi, cái đen tối của đêm khuya dày đặc” [44, tr. 73]; “Nhưng
Liên không nghỉ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng
yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối” [44, tr. 157]; “Tâm dấn bước. Cái
vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc.[…] Nàng
cúi đầu đi mau vào ngõ tối” [44, tr. 225]… Bóng tối trong truyện ngắn Thạch Lam là hình
ảnh ẩn dụ. Phần lớn nó biểu trưng cho cuộc sống tối tăm, trì trệ của con người. (Một phần nó
đem lại cho con người cảm giác dễ chịu hay đồng lõa với bí mật của con người). Nó phản
ánh chân thật bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, trước cách mạnh
tháng Tám. Các nhà văn cùng thời với Thạch Lam như Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh,
Nam Cao cũng phản ánh hiện thực xã hội ấy thông qua những trang viết in dấu nỗi buồn cả
thế hệ.
Trong truyện ngắn của Pauxtốpxki, tỉ lệ giữa bóng tối và bình minh xấp xỉ nhau, có
phần nghiêng về phía bình minh. Bình minh – những tia nắng tinh khôi, trong trẻo của một
ngày mới – là biểu trưng cho niềm vui, hạnh phúc và hi vọng, đem lại cho con người sự
ngưỡng vọng và tôn thờ. Họ canh bình minh, chờ đợi bình minh và say sưa đứng ngắm bình
minh (Cây tường vi, Đêm trắng, Cội nguồn sáng tạo). Cùng với bình minh là nguồn sáng rực
rỡ: ngọn nến, ánh đèn điện, mặt trăng, các vì sao, ánh sáng của tuyết trắng, mặt trời, đêm
trắng… Có những tác phẩm mở đầu là hình ảnh bóng tối và thời khắc ban đêm nhưng kết
thúc là hình ảnh của bình minh như Bình minh mưa, Người đầu bếp già. Phần lớn trong các
truyện ngắn của mình, Pauxtốpxki chọn bình minh là thời điểm kết thúc truyện, gieo vào
lòng người đọc niềm tin bất diệt ở tương lai, như ở các truyện Trái tim nhút nhát, Gió biển,
Lời cầu nguyện của Mađam Bôvê, Gió Xôrănggiơ, Đám đông trên đại lộ bờ biển. Có những
truyện kết thúc vào thời điểm cuối ngày hoặc ban đêm nhưng các nhân vật được bao bọc
trong nguồn sáng có cường độ mạnh, chói lòa: “Bên ngoài cửa sổ, hoàng hôn mờ mờ vẫn
còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được” [65, tr. 284] (Tuyết), “Và vừng sáng xanh biếc của
những ngôi sao mọc trên đỉnh núi nối đuôi nhau lấp lánh” [65, tr. 331] (Cầu vồng trắng),
“Bầu trời chan hòa ánh sáng đến nỗi mắt cụ Kudơma thu hẹp lại và cụ luôn cười vui vẻ [65,
tr. 354] (Chiếc nhẫn bằng thép). Nhìn chung, bức tranh phong cảnh trong truyện ngắn
Pauxtốpxki luôn có sự vận động từ đêm tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn sang niềm vui, từ lạnh
giá, cô đơn sang hạnh phúc. Dường như các nhân vật của Pauxtốpxki luôn hướng đến nguồn
ánh sáng với niềm hi vọng mãnh liệt vào ngày mai. Bóng tối trong truyện ngắn Pauxtốpxki
cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể nhưng nó lại góp phần mang đến cho nhân vật và cả người đọc
cảm giác dễ chịu, yên bình.
Các dạng thức không gian và thời gian ở trên được các nhà văn thể hiện trong tác
phẩm không như các phần tử tách rời, rạch ròi mà chúng xâm nhập vào nhau, chuyển hóa
trong nhau, tạo nên bối cảnh và không khí trữ tình, làm “giá đỡ” cho câu chuyện vốn ít ỏi sự
kiện, biến cố nhưng giàu sự tình.
1
Thơ Hàn Mặc Tử
đau đớn làm cho chúng ta đột nhiên hiểu ra cái ý nghĩa chua chát và sâu xa. Tôi sẽ kể câu
chuyện dưới đây làm chứng cho sự ấy” [ 44, tr. 47].
Cũng chất giọng ấy, khi kể về những số phận đáng thương, mòn mỏi, bế tắc, giọng kể
của Thạch Lam có pha nỗi xót xa, thương cảm, trìu mến. Tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác
giả lan tỏa, thấm đẫm từng trang viết, in dấu lên từng kiếp người, quy định chất giọng trầm
lắng nhưng có sức khơi gợi sâu xa. Chẳng hạn, ở Hai đứa trẻ: “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà
Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi
qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vùng sáng ngọn đèn của chị Tý và
ánh lửa bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng
ruộng mênh mang và yên lặng” [44, tr. 158] hay:“trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung
ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng mới là chết đuối, chết không
bấu vào đâu được, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa [44, tr. 87].
Cùng lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu trần thuật, ở Xuân Diệu là
giọng trữ tình nồng nàn, mãnh liệt, ở Hồ Dzếnh là trữ tình thống thiết. Còn Thạch Lam, văn
ông luôn nhất quán chất giọng nhỏ nhẹ, từ tốn, chừng mực, thể hiện cái nhìn trìu mến thiết
tha trước vẻ đẹp bình dị, nên thơ của cuộc sống con người.
Văn Pauxtốpxki là những rung cảm thiết tha trước cái đẹp của cuộc sống và tình
người. Giọng văn của Pauxtốpxki thường mang một sắc điệu đằm thắm, dịu ngọt, phảng phất
nỗi buồn êm dịu. Chất trữ tình trong giọng văn ông được bộc lộ một cách nồng nàn trong
tình yêu đối với thiên nhiên tươi đẹp, với những tỉnh lị xa xôi, những miền quê yêu dấu.
Chẳng hạn:
“Sau khi phải thở hít cái không khí ngột ngạt của cánh rừng non mà được nằm nghỉ
ngay dưới cây thông đầu tiên cành lá lòa xòa thì thật là thú vị. Ta nằm ngửa ra, cảm thấy
đất mát rượi dưới lần áo mỏng và nhìn lên trời. Rồi có thể, thậm chí ta thiếp đi vì những đám
mây trắng với những viền chói lọi làm cho ta buồn ngủ” [65, tr. 120]
Trong bè chủ trữ tình ấy vang ngân những hợp âm trong trẻo, vui tươi, hóm hỉnh khi
ông viết về những con vật nhỏ bé trong Vườn nhà bà:
“Những con sáo thường đánh nhau với các con quạ con và khi đã bình tĩnh lại chúng
ngồi rải ra trên các cành cây đoạn bách niên hót ríu rít ấy không chỉ làm cho con ếch vốn
quen với yên tĩnh mà cả bà cũng phải thấy đau đầu. Bà ra tam cấp mắng lũ sáo, lấy khăn
mặt xua chúng. Khi đó những con sáo nhảy lên cành cao hơn, im hơi một lúc, rồi lại bắt
chước những người tiều phu cưa gỗ. Như thế lại còn tệ hơn cả những tràng liên thanh.
Con ếch sợ con ễnh ương – thứ ếch nhỏ chuyên sống bám vào gỗ, đùi to. Nó ngồi trên
cành cây giương mắt nhìn và im lặng. Ít khi nó kêu lắm, chỉ họa lúc trời sắp mưa. Lúc đó
trong rừng im phăng phắc và nghe thấy tiếng sấm từ bầu trời xa vang lại” [65, tr. 440].
Hay:
“Con sẻ già Xiđơrơ đang đậu trên chiếc sào ngủ, mình tròn như một quả bóng nhỏ.
Suốt mùa đông Xiđơrơ sống trong nhà ông Kudơma, đàng hoàng như chủ nhân. Nó không
những bắt Varusa phải vì nể nó mà cả ông Kudơma nữa” [65, tr. 351].
Những truyện viết về vẻ đẹp của tình người, của lòng nhân ái cũng cùng chất giọng ấy.
Những rung cảm tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, dạt dào tình thương đã tạo
nên thi hứng nồng nàn và phong vị trữ tình, đằm thắm cho văn ông. Những truyện ngắn ở tập
Bông hồng vàng giọng văn ông thủ thỉ, tâm tình, không lên gân, không khoa trương, ông từ
tốn, chân thành chia sẻ những kinh nghiệm, đúc kết về “nghề văn và kinh nghiệm viết văn”.
Vì thế nó mang đến cho người đọc ấn tượng về sự chân thực cho những trang viết.
Kể về một cuộc chia tay đầy luyến tiếc của một mối tình vừa chớm (Bình minh mưa),
cuộc đời nhiều đau buồn của một nhà văn có tài (Bình nguyên tuyết phủ), nỗi mất mát trong
chiến tranh (Trái tim nhút nhát), giọng văn ông phảng phất nỗi buồn, thoáng ngậm ngùi
nhưng vẫn nồng nàn, tha thiết, nhẹ nhàng thấm vào hồn người như những giọt sương sớm
mai.
Như vậy, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lựa chọn chất giọng trữ tình làm bè chủ
cho giọng điệu nghệ thuật. Văn các ông mềm mại, uyển chuyển, giàu chất thơ mà vẫn tinh
gọn, giản dị như những bài thơ văn xuôi.
- “Trời rét như cắt ruột, mà gió lại thổi - “Gió, giống như những bím tóc thiếu
mạnh” [44, tr. 69]. nữ xổ tung, thơm mát mơn man trên
mặt tôi” [65, tr. 80].
- “Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng - “Lúa chín rực chạy như sóng trên
kia đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ thảo nguyên” [65, tr. 383].
cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi - “Trên chân trời vàng ánh, ngôi sao
dao sắc khía vào da” [44, tr. 14]. cuối cùng lấp lánh như một giọt bạc”
[65, tr. 252]
- “Những cuộc chơi bời của anh kịch - “Trong nhà vui hẳn lên như thể
liệt như một sự phản động mà chán người ta mở thêm nhiều cửa sổ nhỏ và
nản như một vụ tự tử” [44, tr. 51]. bên ngoài cửa sổ ấy lại xanh lên một
- “Quả tim buốt như có kim đâm” [44, mảng trời và có gió ấm thổi” [65, tr.
tr. 58]. 265].
- “Nàng yêu Minh như đứa trẻ mới bắt - “Tình yêu giống như gió thoảng” [65,
đầu yêu say sưa và lóa mắt vì chính cái tr. 285].
tình yêu của mình” [44, tr. 137]. - “Chỉ có con đường nhựa là bóng
- “Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, loáng như một dòng sông đen” [65, tr.
một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy 285].
ruột gan” [44, tr. 61]. - “Lá tùng nhỏ như những sợi tóc ngắn
- “Cơn đói lại nổi dậy như cào ruột, xé vàng óng rụng xuống không ngừng,
gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn” mặc dầu trời lặng gió”[65, tr. 292].
[44, tr. 61]. - “Trong giọng nói của Êlêna Pêtrốpna
- “Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, có cả sự dịu dàng và sự lo âu như đêm
nàng đau đớn, uất ức như đứt từng tháng chạp” [65, tr. 330].
khúc ruột” [44, tr. 66]. - “Sau bức điện tất cả chuyển động
- “Nàng mắt đỏ lên như mới khóc, tha như một cơn lốc tuyết, làm lóa mắt,
thiết nhìn tôi, như muốn cùng tôi khoác ngạt thở, biến thế giới thành chiếc cầu
tay âu yếm” [44, tr. 118]. vồng trắng” [65, tr. 330].
- “Thoạt nhìn đôi mắt cô ta, tôi choáng - “Mùa xuân lướt trên đồng cỏ như một
váng như người nhắp cốc rượu mạnh” nữ chủ nhân trẻ tuổi” [65, tr. 352].
[44, tr. 122]. - “Có cái gì ngân vang trong rừng như
- “Một cảm giác đê mê dâng lên ngập có ai đang lắc những quả chuông nhỏ”
cả người nàng vào trong đó, như lúc [65, tr. 354].
tắm bể” [44, tr. 138]. - “Những bông hoa điểm tuyết trắng
- “Tâm hồn Thành trơ trọi như một rung rinh chào đón bình minh, mỗi
cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi” [44, bông hoa đều ngân nga như trong đó
tr. 173]. có một con bọ dừa đánh chuông và
- “Tôi sung sướng như một người sắp đang đập chân vào những sợi mạng
được đi phiêu lưu mạo hiểm” [44, tr. nhện bằng bạc” [65, tr. 354]
191]. - “Chàng nói lớn một lần thứ ba và bất
- “Bính tưởng mùi hương dịu dàng và thần một âm thanh lanh lảnh vang dội
cao quý cũng như tình yêu của mẹ khắp lều như thể có hàng trăm viên
chàng đối với chàng” [44, tr. 253]. pha lê rơi xuống sàn” [65, tr.375].
- “Lòng chàng đau đớn như chảy - “Rêu từ trên cành cây xõa dài trên
máu” [44, tr. 260]. mặt đất như những mớ tóc xanh” [65,
- “Vân thấy khổ sở như chính chàng bị tr. 386].
hành hạ” [44, tr. 260]. - “Đôi khi cuộc sống bỗng nhiên trở
(...) nên giống như âm nhạc trong phút
chốc” [65, tr. 409].
- “Những cây bạch dương đã điểm
những dải lá vàng giống như những
đốm tóc bạc đầu tiên của một người
chưa đến tuổi già” [65, tr. 411]…v.v
Ở truyện ngắn Thạch Lam, phần lớn các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn trong
so sánh đều dựa vào cảm giác của thân thể và tâm hồn. Còn Pauxtốpxki thường chọn
những hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ, âm nhạc và vẻ đẹp của người con gái, đặc biệt là
hình ảnh mái tóc để làm “khuôn” để so sánh.
Tóm lại. từ việc so sánh, đối chiếu những phương diện chủ yếu của một tác phẩm tự
sự, chúng tôi nhận thấy giữa truyện ngắn và truyện ngắn có sự gặp gỡ về phong cách nghệ
thuật.
Kế thừa quan niệm của các nhà lí luận và nghiên cứu văn học, chúng tôi cho rằng
phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm. “Phong cách nghệ thuật
của một nhà văn, suy cho cùng là vấn đề cái nhìn, nhưng cái nhìn ấy phải toát lên từ tất cả
các yếu tố hình thức và nội dung của tác phẩm… Tuy vậy, các yếu tố này không đồng đẳng
với nhau mà có quan hệ thứ bậc tạo thành một cấu trúc mà ở đó có những yếu tố biểu hiện
trên bề mặt và những yếu tố tiềm ẩn ở những tầng sâu, chìm khuất của nó” [93, tr. 17].
Nói đến phong cách nghệ thuật của một nhà văn người ta nghĩ đến cái riêng, cái độc
đáo và dấu ấn cá nhân của nhà văn ấy. Thực tế cho thấy mặc dù phong cách mang đậm dấu
ấn cá nhân nhưng chúng cũng có những điểm giống nhau. Ngày nay trong điều kiện giao lưu
rộng rãi của thế giới hiện đại, khoảng cách giữa các nền văn học dân tộc, khoảng cách của
các nhà văn đã được rút ngắn lại, cho nên mặc dù có sự đa dạng hóa về phong cách nhưng
chúng tôi cho rằng có sự “gặp gỡ” giữa các phong cách, và chính sự “gặp gỡ” ấy (bao gồm
trong nó cái riêng và cái chung, dấu ấn cá nhân và xu hướng cộng đồng) đã tạo nên những
dòng, những xu hướng phong cách nhất định.
Thạch Lam cùng với Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh đã có những đóng góp đáng
kể trong trên hành trình canh tân và hiện đại hóa văn học dân tộc. Truyện ngắn của ông góp
phần làm nên diện mạo của văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, phản ánh việc xây dựng và
phát triển văn xuôi dân tộc theo quỹ đạo hiện đại ở Việt Nam. Tương tự, thế kỷ XX có thể
nói là thời kì rực rỡ của văn học hiện đại Nga với nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong
lĩnh vực văn xuôi. Kế tục và phát huy chất thơ trong văn xuôi vốn đã có trong truyền thống
văn học Nga với các cây bút tên tuổi như Tuôcghênhép, Bunhin, Prisvin… Pauxtốpxki đã
biến phương tiện chuyển tải ý tưởng của văn học thành nghệ thuật, tạo ra những truyện ngắn
trữ tình với phong cách độc đáo. Thạch Lam, Pauxtốpxki, mỗi nhà văn một cội nguồn văn
hóa dân tộc nhưng lại có sự gặp gỡ bất ngờ, thú vị về phong cách nghệ thuật. Đó là quan
niệm về cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp; sự chú trọng khai thác thế giới nội cảm của nhân vật,
cách viết truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện. Đặt ra những tình huống tâm lí bất ngờ, những
khuất khúc ở tâm hồn con người và tìm cách lí giải chúng, truyện ngắn Thạch Lam –
Pauxtốpxki lần lượt mở các cánh cửa để bước vào thế giới nhân học. Dấu ấn văn hóa, thời
đại của mỗi quốc gia, dân tộc được khúc xạ qua lăng kính nhân học ấy.
KẾT LUẬN
Việc đặt truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki trong thế so sánh đã mở ra cho người
nghiên cứu văn học và độc giả quan tâm nhiều vấn đề mới mẻ và thú vị.
1. Như người lữ khách rong ruổi trên con đường kiếm tìm cái đẹp, Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã có cuộc hội ngộ bất ngờ. Đây là sự gặp gỡ giữa hai con người có cái nhìn
chuyên chú phát hiện chất thơ trong cuộc sống bình dị hằng ngày, biết chi chút cái đẹp
đời thường, gom nhặt từng hạt bụi quý, mang đến cho tác phẩm văn chương vẻ đẹp chân
thật, giản dị, sống động và tươi mới. Từ sự tương đồng về quan niệm nghệ thuật, Thạch
Lam và Pauxtốpxki đã có sự gặp gỡ trong việc lựa chọn thể loại truyện ngắn trữ tình “phi
cốt truyện” để biểu đạt cái đẹp dung dị, đời thường trong những cái tưởng chừng như vặt
vãnh, xoàng xĩnh. Việc dung nạp một trữ lượng chất thơ dồi dào vào văn xuôi và kĩ thuật
hòa phối nhuần nhụy giữa chất thực và chất thơ đã đem lại cho truyện ngắn của Thạch Lam
và Pauxtốpxki vẻ sâu lắng, mượt mà. Chất thực được khúc xạ qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế
của tác giả, của nhân vật đã trở thành cái neo níu giữ cho con diều chất thơ, cảm xúc trữ tình
bay bổng, lan tỏa.
2. Lựa chọn và xem thế giới tâm trạng, cảm xúc của con người như một hiện thực
phong phú để đặt những “đường cày”; khám phá cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp từ thiên
nhiên tỉnh lị và con người dung dị, đời thường, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã tạo ra trong
truyện ngắn của mình những nội dung tự sự phong phú, hấp dẫn, có sức lay động sâu xa.
Điều đó đã đưa lại cách lí giải, cắt nghĩa mới mẻ về cái đẹp bằng nghệ thuật, đồng thời biểu
lộ cách tiếp cản, lối nhìn đời đầy trân trọng, nâng niu, phù hợp với xu hướng của thời đại.
Mặt khác, đặt nhân vật trong các giềng mối, quan hệ để tình cảm, tâm trạng của họ được
phơi bày, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra một diện rộng để tìm hiểu về con người và văn
hóa mỗi dân tộc. Ở đây ta bắt gặp lối sống trọng nghĩa tình, nếp nghĩ duy cảm người Việt
thấm sâu vào từng mảnh đời, từng số phận nhân vật. Bên cạnh đó, ta cũng bắt gặp tâm hồn,
tính cách Nga vừa rất riêng lại vừa gần gụi, thân quen. Đó là con người Nga hăng hái, nhiệt
tình, hồn nhiên hòa quyện với tính chất thông minh, năng động, con người hiền hòa, đôn hậu
hòa quyện với sự từng trải, uyên thâm.
3. Có thể nói truyện ngắn Thạch Lam – Pauxtốpxki ít “sự kiện” nhưng giàu “sự
tình”. Chúng hấp dẫn người đọc không phải bởi cốt truyện li kì, những xung đột, tình tiết
gay cấn mà ở tài dựng truyện phi cốt truyện, cách kể chuyện đầy lôi cuốn của tác giả. Việc
kiến tạo bối cảnh, không khí trữ tình đã bồi đắp sức sống cho câu chuyện vốn được tinh giản
các sự kiện, hành động. Với cảm quan của một thi sĩ, họa sĩ, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã
chắt gợn vẻ đẹp từ thiên nhiên và làng quê, tỉnh lẻ, hòa phối nhuần nhụy giữa màu sắc,
đường nét, ánh sáng để tạo nên những bức tranh đặc sắc, mang dấu ấn của dân tộc mình.
Việc lấy chất giọng trữ tình làm bè chủ cho giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam và
Pauxtốpxki đã tạo một ấn tượng đầy chất thơ cho những trang văn. Cũng chất giọng thủ thỉ,
tâm tình, trữ tình đằm thắm, giọng điệu nghệ thuật của Thạch Lam còn vang vọng âm hưởng
man mác, buồn thương, in dấu cái buồn chung của cả thế hệ. Ở Pauxtốpxki, sự chi phối của
cảm hứng lạc quan cách mạng đã mang lại cho giọng điệu nghệ thuật của ông những tiết tấu
trong trẻo, vui tươi, tràn đầy hi vọng. Tựa con tằm rút ruột ra tơ, con trai chắt chiu giọt máu
để kết thành ngọc sáng, mỗi nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách tinh tế, phát
huy tối đa vẻ đẹp và sự trong sáng nó để dệt nên những trang văn mượt mà, sâu lắng
4. Hành trình nghệ thuật là hành trình bản ngã. Vì rằng, những sự khai phá trong
sáng tác cũng chính là do nhu cầu thể hiện ý thức cá nhân mãnh liệt nơi tác giả. Thạch Lam
và Pauxtốpxki là những nhà văn tài năng, có sự đóng góp đáng kể ở thể loại truyện ngắn trữ
tình “phi cốt truyện” – một hướng tìm tòi, thể nghiệm trong lịch sử tiến hóa của thể loại
truyện ngắn. Truyện ngắn của các ông luôn đứng trên các cung bậc của sự thách thức và trên
bậc cao nhất của nhu cầu nội cảm cá nhân. Chừng nào cái đẹp còn được tôn thờ, chừng nào
nhân loại còn hướng đến những lí tưởng cơ bản nhất thì truyện ngắn của Thạch Lam –
Pauxtốpxki vẫn còn làm say đắm lòng người. Sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật giữa
truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trước hết là sự gặp gỡ của hai cá tính
sáng tạo, hai “tạng người” nghệ sĩ, đằng sau đó là mạch nguồn văn hóa dân tộc. Hai
gương mặt văn hóa Việt – Nga, Đông – Tây có sự gần gũi, giao thoa bên cạnh bản sắc riêng
của mỗi dân tộc.
5. Mặc dù không cưỡng lại được hấp lực mà truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki
mang lại, chúng tôi đành tự bằng lòng với công việc đã làm. Nhiều tầng ý nghĩa ẩn chứa sau
lớp ngôn từ, yếu tố hư và thực trong truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki...
vẫn còn là những vỉa đá ngầm tiềm ẩn bao lớp quặng quý, chờ người đi sau đặt những mũi
khoan.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Nguyên An (1999), Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) (1995), Thạch Lam – Văn chương và cái đẹp, (Kỉ yếu hội thảo
khoa học về Thạch Lam nhân 50 năm ngày mất của Thạch Lam), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2007), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, tái bản lần 2, Nxb
Giáo dục, Đà Nẵng.
4. Lê Bảo (1999), Thạch Lam – Hồ Dzếnh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn – Lí luận tác gia và tác phẩm (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Đi tìm cái “bí quyết” của nghệ thuật viết truyện ngắn”, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội số (1), Hà Nội.
7. Bunhin, I (2002), Tuyển tập tác phẩm, (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Lao động, Hà
Nội.
8. Nguyễn Minh Châu (1994), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
9. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”, Tạp chí Văn
học số (6), Hà Nội.
10. Phạm Vĩnh Cư (1996), “Đọc lại mấy bậc thầy truyện ngắn Nga – Xô viết”, Tạp chí Văn
học nước ngoài số (3), Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời kì đầu
những năm 1930-1945: Nguyễn Công Hoan – Thạch Lam – Nam Cao, Luận án phó
tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội I.
13. Nguyễn Nhật Duật (1971), “Thạch Lam – hương thơm và nỗi u hoài”, Tạp chí Giao
Điểm, Sài Gòn.
14. Hoàng Xuân Dũng (2007), Giáo trình địa lí kinh tế thế giới (tập 2), Đại học Sư phạm
TP.HCM.
15. Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá (1988), Tổng tập văn học Việt Nam
tập 29A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ chủ biên (2007), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử – Thi pháp – Chân dung,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (2001), Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), tái bản lần hai, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
21. Vu Gia (1994), Thạch Lam – Thân thế và sự nghiệp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
22. Ngô Văn Giá (1994), “Trong bóng tối mênh mông và hiu quạnh”, Tiếng nói tri âm, tập I,
Nxb Trẻ, TP. HCM.
23. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà (1987 – 1988), Văn học Xô viết (tập 1, 2), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
24. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga – Sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
26. Lê Thị Đức Hạnh (1983), “Gió đầu mùa”, Tạp chí Văn học, số (5).
27. Lê Thị Đức Hạnh (1993), “Mấy nét về màu sắc dân tộc trong sáng tác của Thạch Lam”,
Tạp chí Sông Hương, số (5).
28. Lê Thị Đức Hạnh (2001), Nguyễn Công Hoan về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
29. Vũ Thư Hiên (1961), Bông hồng vàng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Hoàng Ngọc Hiến (1985), Văn học Xô Viết những năm gần đây, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
31. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Khái Hưng – Thạch Lam, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
33. Vũ Thị Hồng (1994), “Những giấc mơ có thực” (Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
34. Phạm Thị Thu Hương (1993), “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số (6).
35. Phạm Thị Thu Hương (1995), Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945, nhìn từ
ba tác giả tiêu biểu: Thạch Lam- Hồ Dzếnh- Thanh Tịnh, Luận án tiến sĩ, Đại học
sư phạm I Hà Nội.
36. Đỗ Đức Hiểu, Trần Hữu Tá (2003), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
37. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
38. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn
học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Thạch Lam”, Từ điển văn học, tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
40. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
Hà Nội.
41. Huyền Kiêu (1965), “Thạch Lam - Một người Việt Nam thành thực”, Tạp chí Văn, Sài
Gòn số (36).
42. Thạch Lam (1998), Tuyển tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
43. Thạch Lam (2007), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Thạch Lam (2009), 33 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
45. Phong Lê (2009), “Phác thảo mối quan hệ văn học Xô viết và văn học Việt Nam thế kỉ
XX”, Nghiên cứu Văn học số (6), Hà Nội.
46. Phan Quốc Lữ (2003), Văn xuôi trữ tình thời kì 1930 – 1945, Mấy vấn đề về đặc điểm
thi pháp, Luận án tiến sĩ văn học, Đại học Sư phạm.Tp. HCM.
47. Thế Lữ (1943), “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”, Báo Thanh Nghị, số (9).
48. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Đăng Mạnh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 –
1945 (tập IV), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An (1987), Tác gia văn học Việt Nam
(tập I và II), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
52. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và phong cách,
Nxb Tác phẩm Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Marx, Engels, Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
54. Macxim Gorki, A.M (2004), Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
55. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí văn học, số
(5).
56. Vương Trí Nhàn (1992), “Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, Tạp chí văn học, số (6).
57. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.
58. Nhiều tác giả (1977), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
59. Nhiều tác giả (1983), Chân dung văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam, Đà
Nẵng.
61. Nhiều tác giả (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
62. Hoàng Kim Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm. Tp. HCM.
63. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Tập I, II, Nxb. KHXH, Hà Nội.
64. Pauxtôpxki, K (1984), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang dịch và giới thiệu), Tác
phẩm mới, Hà Nội.
65. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng Quỳnh
dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Pauxtôpxki, K (2002), Kônxtantin Pauxtôpxki – Tự truyện, (Tạ Hồng Trung dịch), Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
67. Phạm Phú Phong (1992), “Mấy vấn đề thi pháp truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí sông
Hương, số (5).
68. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập truyện ngắn, (tập 1), Nxb Văn học.
69. Pospelov, G.N chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb
Giáo dục.
70. Ngô Văn Phú, Vũ Đình Bình (tuyển chọn) (1998), 100 truyện ngắn hay Nga (tập 1, 2, 3,
4), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
71. Đào Trường Phúc (1971), “Thạch Lam những lời thủ thỉ của truyện ngắn”, Tạp chí Giao
điểm, Sài Gòn.
72. Phạm Văn Phúc (1989), “Nghĩ về Thạch Lam”, Báo Giáo viên nhân dân, (Số đặc biệt
7/1989).
73. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn, Tp. HCM.
74. Nguyễn Thu Phương (1997), “Dư vị truyện ngắn Thạch Lam”, Tạp chí Văn học và tuổi
trẻ, số (24).
75. Sêkhôp, A. P (2001), Tuyển tập truyện ngắn, (Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch),
Nxb Thông tin, Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77. Trần Đình Sử (1997), Lý luận và Phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
78. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
79. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (2005), Văn học so sánh nghiên cứu và
triển vọng, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
80. Thúy Toàn biên soạn (1982), Các nhà văn Xô viết – Tập chân dung văn học, Nxb Tác
phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
81. Thúy Toàn tuyển chọn và giới thiệu (1997), Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt, Nxb
Văn học, Hà Nội.
82. Thanh Tịnh (1994), Quê mẹ, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.
83. Thanh Tịnh (1998), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội
84. Nguyễn Tuân (1982), “Thạch Lam”, (viết 1957, in lại trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập
(2)), Nxb Văn học, Hà Nội.
85. Xuân Tùng (2000), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng.
86. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp
chí Văn học, số (2).
87. Bùi Việt Thắng (1992), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học Hà Nội.
88. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn, tháng 1.
89. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
90. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Trường Đại học Tổng hợp TP.
HCM.
91. Nguyễn Thành Thi (1994), “Tối ba mươi và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài”,
Báo Lao động và xã hội.
92. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Nguyễn Thành Thi (2001), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
94. Nguyễn Thành Thi (2001), Thạch Lam văn và người, Nxb Trẻ – Hội nghiên cứu và giảng
dạy văn học, Tp. HCM.
95. Nguyễn Huy Thiệp (1994), Những ngọn gió Hua tát, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Đỗ Đức Thu (1965), “Thạch Lam”, tạp chí Văn, (36), Sài Gòn.
97. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
98. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của văn hoá – Thách thức của sáng tạo, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
99. Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh (1989), Về Tự lực văn đoàn, Nxb Tp. HCM.
100. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập kỉ 90,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP. Tp.HCM.
Началась первая мировая война, но его как младшего сына в семье (по тогдашним
законам) в армию не взяли. Еще в последнем классе гимназии, напечатав свой
первый рассказ, Паустовский решает стать писателем, но считает, что для этого
надо "уйти в жизнь", чтобы "все знать, все почувствовать и все понять" - "без
этого жизненного опыта пути к писательству не было". Поступает вожатым на
московский трамвай, затем санитаром на тыловой санитарный поезд. Тогда он
узнал и навсегда полюбил среднюю полосу России, ее города.
К.Паустовский умер 14 июля 1968 в Тарусе, где и похоронен. {От редакции сайта
- ошибка в словаре ! Правильно: умер в Москве, похоронен в Тарусе}.
С тех пор писателя не покидало желание снова побывать на севере, ближе познать
его. «С давних пор, - признается он в «Книге скитаний», - Олонецкий край привлекал
меня. Мне давно хотелось попасть туда. Почему-то мне всегда казалось, что именно
там со мной случиться что-то очень хорошее». И такая возможность вскоре
представилась.
Северный цикл повестей создавался писателем в 30-е годы. Это были годы
творческого становления Паустовского, когда он уходит от писания «туманных и
надуманных» рассказов раннего периода, когда экзотика, к которой он был так
привержен в 20-е годы, начинает тяготить писателя и сковывать его творческие
возможности. Этот перелом в творчестве художника происходит не сразу.
Bản dịch:
1. HOÀI NIỆM
ĐINH HÙNG
(Trích)
Những vì sao sáng đến tận cùng đêm khi em mười tám tuổi
Trang sách Pauxtốpxki giấu ánh mắt thật hiền
Ngọn nến lung linh cạn mình để cháy
Có thể nào là cuộc sống của em?
7. CHIỀU MƯA
( Trích http://123.30.128.11/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/Tho-va-tuoi-
tre/105185/Thanh-pho-khong-mua-dong.html)