Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của dân
tộc Việt Nam
Sau nhiều cố gắng, nỗ lực của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi giải pháp thương lượng cho hòa bình của Việt Nam đều không thực hiện được. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần nữa, nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác, buộc phải cầm súng đứng lên bảo vệ đất nước. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!” Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc Việt Nam đồng sức, đồng lòng vùng dậy đấu tranh bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, cuộc chiến đấu giữa vòng vây, nhưng vẫn giữ vững niềm tin chính nghĩa chiến thắng. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ra đời trong bối cảnh Trung ương Đảng và Chính phủ cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực thực thi các chủ trương, biện pháp để tránh chiến tranh, đặc biệt là nhân nhượng những lợi ích của Pháp ở Việt Nam. Nhưng trước những hành động gây hấn ngày càng trắng trợn, “ngày càng lấn tới”, vì “quyết tâm cướp nước ta lần nữa” của thực dân Pháp, đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trên toàn quốc. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chứa đựng những giá trị hết sức to lớn, thể hiện những tư tưởng lớn của dân tộc và thời đại, là sự kết tinh, tiếp nối mạch nguồn tư tưởng hết sức quý giá và đầy tính nhân văn của dân tộc; là tiếng gọi của “hồn thiêng sông núi”, lời hịch cứu nước hào hùng vang vọng, thúc giục muôn triệu người dân yêu nước Việt Nam đứng lên quyết kháng chiến chống quân xâm lược, để bảo vệ hòa bình, độc lập, thống nhất của đất nước và tự do, ấm no, hạnh phúc của mọi nhà. Đó là tiếng nói của ý chí kiên cường, bất khuất, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” ; của quyết tâm cao độ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của nhân dân ta. Đồng thời, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” còn khẳng định niềm tin tất thắng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại kẻ địch hung bạo, dù phải trải qua nhiều gian lao, vất vả, khó khăn. Phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân để thực hiện kháng chiến kiến quốc thắng lợi, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” nêu rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là sự kế thừa, tiếp nối chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, ý chí bất khuất trước các thế lực ngoại xâm dù chúng đông đảo, hùng mạnh như thế nào và tư tưởng “cả nước đánh giặc”, “trăm họ là binh” trong truyền thống lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một trong những truyền thống quý báu hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, góp phần lý giải vì sao trong điều kiện thường xuyên phải đối mặt với thiên tai khắc nghiệt và các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn và phát triển. Ý chí của toàn dân tộc sẽ phát huy đầy đủ giá trị khi được lan tỏa, nhân rộng, trở thành ý chí, sức mạnh của toàn dân với tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tìm ra điểm tương đồng, mẫu số chung để gắn kết muôn triệu người con yêu nước Việt Nam ở các thành phần, giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Đó là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân; là nguyện vọng, giá trị chung của toàn dân tộc; là điều hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam; đã thực sự khai đường, mở lối cho việc tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của người dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong dựng nước và giữ nước. Với Hồ Chí Minh, phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân để kháng chiến là một trong những biện pháp chủ yếu để quân dân ta có thể đương đầu và đánh bại những đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp. Người chỉ ra rằng thực hiện được kháng chiến toàn dân, quy tụ và phát huy ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc thì nhất định sẽ đưa đến kết quả: “kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công” ; “thắng lợi nhất định về dân tộc ta” . 75 năm đã qua, nhưng tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị. Là một văn kiện lịch sử hết sức quý giá, kết tinh những giá trị của dân tộc và thời đại, góp phần dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược của Người trong việc đoàn kết, tập hợp và phát huy ý chí, sức mạnh của cả dân tộc để đánh bại kẻ địch có sức mạnh gấp nhiều lần. Di chúc Giá trị tư tưởng của tác phẩm chính là sự tổng kết toàn bộ tinh thần, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm nền tảng, kim chỉ nam cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúc thư của một lãnh tụ thiên tài, một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa, trông rộng, một chiến sĩ cộng sản suốt đời yêu thương, trân trọng con người, phấn đấu hy sinh vì tự do, hạnh phúc của con người. Những tư tưởng lớn, những phẩm chất đạo đức trong sáng tuyệt vời và chủ nghĩa nhân văn cộng sản toả sáng từ Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là nguồn sức mạnh tinh thần dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con đường xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 2. Giá trị thực tiễn Tác phẩm định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng, phát triển đất nước trong tương lai. Khẳng định tầm quan trọng của nhân tố đạo đức đối với đảng cầm quyền, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Đối với công tác quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh, nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cán bộ, đảng viên tự giác tham gia tự phê bình và phê bình, nêu cao ý thức trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của mình trước Đảng, trước nhân dân. Trong số rất nhiều tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì điều đặc biệt là Di chúc được Người viết lâu nhất. Trong 4 năm, khởi thảo ngày 10-5-1965, khi Người tròn 75 tuổi và Người xem lại lần cuối vào lúc 9 giờ đến 10 giờ, ngày 20- 5-1969, đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 79 ngày sinh của Người. Quá trình đó thể hiện tâm nguyện, tình cảm, cẩn trọng, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn mang nét độc đáo riêng, cho dù bút tích Người ghi rõ “Tuyệt đối bí mật”, nhưng đây là tài liệu được công bố rộng rãi nhất ngay từ lần đầu tiên trong dịp Lễ Quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả ở trong nước và nước ngoài. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời và kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, Bộ Chính trị đã cho phép công bố toàn văn. Mặc dù, Người khiêm nhường viết: “Tôi để lại mấy lời này cho đồng bào, đồng chí”, nhưng Di chúc là văn kiện lịch sử đặc biệt. Tư tưởng chủ đạo và bao trùm trong Di chúc là: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hòa bình, thống nhất, dân chủ và dân giàu, nước mạnh; tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, vì hạnh phúc của con người. Di chúc của Người dù chỉ vỏn vẹn 1000 từ, nhưng chứa đựng nội dung của một đại tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, về Đảng, về dân, về nước, về quốc tế, về việc riêng của Người. Đồng thời, là một thiết kế lý luận về đổi mới và phát triển, định hướng cho bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong tương lai, mà mục tiêu cao nhất là hướng tới quyền làm chủ và hạnh phúc của nhân dân.