You are on page 1of 16

Đề bài : NHẬN THỨC CỦA ANH CHỊ VỀ LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC

KHÁNG CHIẾN – HCM


Phần I : MỞ ĐẦU

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một sự kiện quan
trọng trong lịch sử Việt Nam đồng thời cũng là một sự kiện có ảnh hưởng lớn tới suy
nghĩ và nhận thức về tình yêu quê hương và những giá trị cốt lõi của dân tộc.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam). Đó là một cột mốc sáng chói trong lịch sử dân tộc Việt Nam.Bản Tuyên ngôn
ấy đã thể hiện sâu sắc ý chí, nỗi niềm khát vọng của nhân dân ta về độc lập tự do.
Đảng ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, giữ nước của cả dân tộc với tinh
thần “Quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh”, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để
giữ gìn đất nước”. Những Điều đó dần khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân giành
thắng lợi.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng tạo
được sự đồng lòng và nhận thức mạnh mẽ từ các tầng lớp nhân dân. Với thông điệp
vững chắc này, đồng bào Việt Nam đã tụ họp, đoàn kết và cùng nhau xây dựng một
phong trào to lớn, hoà giải những biến cố của lịch sử và đưa quyền lợi dân tộc lên
hàng đầu, cùng với nhận thức sâu sắc hơn về anh chị về lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với ánh mắt sáng rõ, vẻ mặt tự tin và tâm hồn tràn
đầy ý chí quyết tâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ về sự
đoàn kết, quyết tâm và lòng yêu nước.Từ nông dân đến công nhân, từ sinh viên đến
cán bộ đảng viên, ảnh chị về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã gắn kết và tạo ra
một sức mạnh vô cùng khó có thể định lượng. Đó là sự thức tỉnh, khích lệ và tạo
động lực mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống lại đế quốc Pháp
và sau này là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

1
Phần II: NHẬN THỨC VỀ LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

Lời kêu gọi viết: “Hỡi đồng bào toàn quốc!Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước,nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta
phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái,dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp Cứu nước…
Giờ Cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước.Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!...”.

2.1 “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ”như một lời hịch cứu nước

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã gợi lên trong lòng mọi người niềm tự hào về Tổ
quốc và sự hội tụ dưới tên gọi "người Việt Nam".

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong lịch sử Việt Nam đã gợi lên nhiều cảm xúc
và lý luận quan trọng về danh dự và tự hào dân tộc là một phần quan trọng trong việc
thể hiện tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước của người Việt Nam.

Kháng chiến toàn dân là cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, toàn dân cùng đứng lên kháng chiến, đánh giặc theo khẩu hiệu: mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Trung thành và vận dụng
sáng tạo tư tưởng của V.I. Lê-nin, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, với tinh thần độc lập, tự
chủ, phát huy sức mạnh của quần chúng, tiến hành thắng lợi của cuộc chiến tranh
nhân dân giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế đang chống phá các nước xã hội

2
chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ trên thế giới hết sức quyết liệt với những thủ đoạn
mới rất tinh vi, thâm độc, trong đó, Việt Nam là một trọng điểm.

Cuộc kháng chiến toàn dân bùng nổ sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã tác động, cỗ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc
và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, chúng tìm mọi cách chống phá phòng thủ
tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến kêu gọi mọi người Việt Nam từ mọi tầng lớp xã
hội, vượt qua mọi định kiến và chính kiến cá nhân, để tụ họp lại dưới cái tên chung
"người Việt Nam" là một hành động tuyệt vời để phát hiện và chứng tỏ một tinh thần
đoàn kết mạnh mẽ và lòng tự hào về quê hương, kích thích niềm tự hào dân tộc, đặc
biệt là trong bối cảnh tổ quốc đang chịu sự xâm lược hoặc đối mặt với những vấn đề
liên quan đến chủ quyền và tự do.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như một lời hịch cứu nước, như tiếng gọi của non
sông.

Lời kêu gọi ấy đã thôi thúc cả nước sục sôi đứng lên chiến đấu, vì độc lập, tự do
thiêng liêng của Tổ Quốc.Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân cả
nước ta với ý chí“quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh” đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đường lối kháng chiến của Đảng ta xác
định ngay từ đầu là chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.

Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất.

Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, có phát huy sức mạnh toàn dân thì chúng ta
mới có thể đánh địch toàn diện và lâu dài. Hơn nữa, lực lượng giữa ta và thực dân
Pháp lúc này quá chênh lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ thù, đang
đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, trong đó có ba thứ giặc phải đối phó: giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Còn quân thù thì không ngừng tăng cường lực lượng

3
bao vây nhằm chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng lợi chúng ta nhất
thiết phải kháng chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân thì mới có khả năng
đánh tan thực dân Pháp xâm lược. Xuất phát từ lợi ích của mối người dân, vai trò bổn
phận của một người dân đối với đất nước, cho nên mọi người dân phải đứng lên
chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì tất cả sẽ được độc lập và tự
do.Ta chủ trương kháng chiến toàn diện, lâu dài, nên phải kháng chiến toàn dân để
mọi người dân đều được đóng góp khả năng của mình vào sự nghiệp chung của cả
nước.

2.2. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do
của dân tộc Việt Nam

Sau nhiều cố gắng, nỗ lực của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi giải pháp thương
lượng cho hòa bình của Việt Nam đều không thực hiện được. Thực dân Pháp nổ súng
xâm lược Việt Nam lần nữa, nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác,
buộc phải cầm súng đứng lên bảo vệ đất nước. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta
phải đứng lên!”

Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc Việt Nam đồng sức, đồng lòng
vùng dậy đấu tranh bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, cuộc chiến
đấu giữa vòng vây, nhưng vẫn giữ vững niềm tin chính nghĩa chiến thắng.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ra đời trong bối cảnh Trung ương Đảng và Chính
phủ cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực thực thi các chủ trương,
biện pháp để tránh chiến tranh, đặc biệt là nhân nhượng những lợi ích của Pháp ở
Việt Nam. Nhưng trước những hành động gây hấn ngày càng trắng trợn, “ngày càng
lấn tới”, vì “quyết tâm cướp nước ta lần nữa” của thực dân Pháp, đêm 19-12-1946,
4
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trên toàn quốc. Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến chứa đựng những giá trị hết sức to lớn, thể hiện những tư tưởng lớn
của dân tộc và thời đại, là sự kết tinh, tiếp nối mạch nguồn tư tưởng hết sức quý giá
và đầy tính nhân văn của dân tộc; là tiếng gọi của “hồn thiêng sông núi”, lời hịch cứu
nước hào hùng vang vọng, thúc giục muôn triệu người dân yêu nước Việt Nam đứng
lên quyết kháng chiến chống quân xâm lược, để bảo vệ hòa bình, độc lập, thống nhất
của đất nước và tự do, ấm no, hạnh phúc của mọi nhà. Đó là tiếng nói của ý chí kiên
cường, bất khuất, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” ;
của quyết tâm cao độ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của nhân dân ta. Đồng thời, “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến” còn khẳng định niềm tin tất thắng của toàn thể nhân dân Việt Nam
trong cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại kẻ địch hung bạo, dù phải trải qua nhiều
gian lao, vất vả, khó khăn.

Phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân để thực hiện kháng chiến kiến quốc thắng lợi,
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” nêu rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước”. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến là sự kế thừa, tiếp nối chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam, ý chí bất khuất trước các thế lực ngoại xâm dù chúng đông đảo,
hùng mạnh như thế nào và tư tưởng “cả nước đánh giặc”, “trăm họ là binh” trong
truyền thống lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Đây là một trong những
truyền thống quý báu hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, góp phần lý giải vì sao
trong điều kiện thường xuyên phải đối mặt với thiên tai khắc nghiệt và các thế lực
ngoại xâm hùng mạnh, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn và phát triển. Ý chí
của toàn dân tộc sẽ phát huy đầy đủ giá trị khi được lan tỏa, nhân rộng, trở thành ý
chí, sức mạnh của toàn dân với tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi tìm ra điểm tương đồng, mẫu số chung để gắn kết muôn triệu
người con yêu nước Việt Nam ở các thành phần, giai cấp, tầng lớp khác nhau trong
5
xã hội. Đó là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân; là
nguyện vọng, giá trị chung của toàn dân tộc; là điều hoàn toàn phù hợp với thực tiễn
Việt Nam; đã thực sự khai đường, mở lối cho việc tiếp tục kế thừa và phát huy truyền
thống yêu nước, đoàn kết của người dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong dựng
nước và giữ nước. Với Hồ Chí Minh, phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân để kháng
chiến là một trong những biện pháp chủ yếu để quân dân ta có thể đương đầu và đánh
bại những đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp. Người chỉ ra rằng thực
hiện được kháng chiến toàn dân, quy tụ và phát huy ý chí, sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc thì nhất định sẽ đưa đến kết quả: “kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành
công” ; “thắng lợi nhất định về dân tộc ta” .

75 năm đã qua, nhưng tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị. Là một văn kiện lịch sử hết
sức quý giá, kết tinh những giá trị của dân tộc và thời đại, góp phần dẫn dắt dân tộc
Việt Nam vượt qua những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp; thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược của Người trong việc đoàn
kết, tập hợp và phát huy ý chí, sức mạnh của cả dân tộc để đánh bại kẻ địch có sức
mạnh gấp nhiều lần.

2.3Thể hiện tinh thần kháng chiến của toàn dân tộc

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến không chỉ là một lời kêu gọi mang tính chất tham
gia chiến đấu vũ trang, mà còn là một tư duy đổi mới và sáng tạo.

Lời kêu gọi đã khuyến khích sự tự tin của người dân, khẳng định quyền tự do, công
bằng và chính nghĩa.

Thứ nhất, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” kết tinh thiện chí, khao khát hòa bình
của một dân tộc có truyền thống quật cường, bất khuất.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, khát vọng và mong ước hòa bình
để xây dựng đất nước luôn là khát khao cháy bỏng. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” cũng bắt đầu bằng niềm mong ước ấy: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta

6
phải nhân nhượng”. Chúng ta đã kiên trì, không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để
thương lượng, đàm phán, kể cả việc cố gắng nhân nhượng đến mức có thể, nhằm
tránh khỏi một cuộc chiến tranh. Hòa bình, hòa hiếu, hòa hợp, hòa đồng là những tố
chất văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh trân
trọng, nâng niu. Khi buộc phải kêu gọi đồng bào toàn quốc cầm súng đứng dậy bảo
vệ nền độc lập dân tộc, Người vẫn khởi xướng đối thoại thay cho đối đầu, vẫn nuôi
dưỡng một nền hòa bình bền vững. Nhưng, muốn có hòa bình thì cả dân tộc phải
bước vào một cuộc kháng chiến chính nghĩa ba ngàn ngày không nghỉ - nghịch lý
nhưng hợp lý, bởi vì “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Đó là một sự thật - một nền hòa bình đã
được toàn dân ta cố công tìm kiếm, gìn giữ ngay từ những ngày đầu giành, giữ chính
quyền, cho đến khi buộc phải bước vào một cuộc chiến tranh không mong muốn -
chiến tranh để hòa bình.

Thứ hai, thể hiện ý chí và quyết tâm sắt đá giành và giữ hòa bình, bảo vệ nền độc lập,
tự do của dân tộc. “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
Để có hòa bình, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là đứng lên
kháng chiến. Khát vọng giành độc lập dân tộc, hòa bình đất nước là cái đích đến của
các cuộc đấu tranh giải phóng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là đỉnh cao của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. “Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến” đã khái quát đầy đủ, sinh động đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp - toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính: “Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Đối
với lực lượng vũ trang thể hiện tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “Hỡi anh
em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối
cùng, để giữ gìn đất nước”. Đây chính là Lời hịch cứu nước, tiếng gọi thiêng liêng

7
của non sông, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu để giành độc lập, gìn giữ,
bảo vệ hòa bình.

Thứ ba, khẳng định niềm tin tất thắng của dân tộc, hướng tới một nền hòa bình bền
vững và phồn vinh, hạnh phúc.

“Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta. Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi
muôn năm!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải
trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng khẳng định thắng lợi cuối cùng chắc chắn thuộc về
dân tộc Việt Nam - đó là một tất yếu của lịch sử. Niềm tin của Người dựa vào sức
mạnh của chiến tranh nhân dân; quy luật vận động, phát triển biện chứng của chiến
tranh cách mạng theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; kinh nghiệm, truyền thống đấu
tranh chống xâm lược của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử. Đây cũng chính là
niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, hướng tiến lên của lịch sử nhân loại tiến bộ. Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đã kết thúc bằng Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc chính
quyền Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam, để rồi sau đó là đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam
30/4/1975, non sông thu về một mối - Việt Nam độc lập, thống nhất. Đó là thắng lợi
của sức mạnh, niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, của khát vọng hòa bình, hòa hiếu,
hòa hợp, hòa đồng.

Có thể khẳng định rằng: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ là biểu
tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần
đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc
ta. Đây còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân
tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

8
2.4Nhận thức về ý nghĩa của sự đoàn kết

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tạo ra sự đoàn kết và hiểu biết giữa các tầng
lớp của xã hội Việt Nam.

Thứ nhất, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và
quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khát vọng hòa bình và mong muốn hòa bình để
xây dựng đất nước là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm
cướp nước ta lần nữa”

Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm
xâm lược nước ta. Nên Người xác định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, trong khi, thành quả
Cách mạng Tháng Tám vừa mới giành được. Người khẳng định: “Không! Chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”

Lời khẳng định đó là sự kết tinh của truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta; là sự tiếp nối ý chí và quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập” đã được Người khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập.

Thứ hai, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, là lời hịch cứu nước, có tác dụng cổ vũ,
thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh giặc.

Để huy động sức mạnh, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kêu gọi “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc” . Lời hiệu triệu của Người là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất
nước, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới để giành độc lập dân tộc.
9
Đáp lại Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc đã nhất tề đứng lên
kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Tại Hà Nội, sau hiệu lệnh
nổ súng, Vệ quốc đoàn và Tự vệ đồng loạt tiến công các mục tiêu trong trung tâm
Thành phố. Phối hợp với bộ đội, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia chiến đấu
và phục vụ chiến đấu, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chặn địch. Cùng
với quân, dân Thủ đô, quân và dân các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, như: Đà
Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang,... cũng nổ súng tiến
công giam chân địch trong các thành phố, thị xã, giành được thắng lợi bước đầu. Ở
Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, lực lượng vũ trang và nhân dân đẩy mạnh
chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực
lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ. Cuộc chiến đấu quyết liệt, anh dũng của
quân và dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã giành được những
thắng lợi quan trọng, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
Pháp. Như vậy, Lời kêu gọi đã hiệu triệu, động viên và khơi dậy tinh thần yêu nước,
ý chí kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc để chúng ta làm nên những thắng lợi
bước đầu, tạo nền tảng cho những chiến công oanh liệt về sau, đi đến kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.

Thứ ba, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã phác họa những nét cơ bản về đường
lối chống thực dân Pháp, góp phần chỉ đạo, định hướng cho cuộc kháng chiến giành
thắng lợi.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trong tương quan lực
lượng có lợi cho địch. Để giành thắng lợi, chúng ta phải lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch
nhiều. Nắm chắc vấn đề đó, với tầm nhìn thấu suốt, nên trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Người đã vạch rõ những nét cơ bản của đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp đó là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Người chỉ rõ
lực lượng tham gia kháng chiến là toàn dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi,
không phân biệt tôn giáo, đảng phái; đánh Pháp bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể;
đồng thời, Người cũng chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian

10
khổ, hy sinh, nhưng thắng lợi cuối cùng “nhất định về dân tộc ta” đó là một tất yếu
của lịch sử.

Thứ tư, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã để lại những bài bài học sâu sắc cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “…tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân
dân và Đảng, Nhà nước tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” . Theo
đó, để thực hiện thành công mục tiêu trên, tạo sức mạnh to lớn cho công cuộc đổi
mới, chúng ta cần quán triệt và từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, coi đó là điểm tương đồng để thống nhất về
chính trị, tư tưởng trong toàn xã hội. Đồng thời, thực hiện đoàn kết mọi tầng lớp, lực
lượng trong xã hội, trên nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức; giải quyết hài hòa các lợi ích làm cơ sở cho sự ổn định, đoàn
kết và thống nhất. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quan trọng là phải xây dựng
bộ máy Nhà nước trong sạch, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả bệnh quan liêu, tham
nhũng, tạo lòng tin trong nhân dân vững chắc.

Trong điều kiện hiện nay, cần nêu cao tinh thần chủ động, cảnh giác cách mạng, kiên
quyết giữ vững hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát
triển đất nước. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc
tế hiện nay chịu tác động sâu sắc từ những biến động mạnh mẽ và phức tạp của tình
hình khu vực và quốc tế, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên
nhiều lĩnh vực, lại được che dấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, v.v.
Do đó, yêu cầu đặt ra đối với chúng ta là phải luôn chủ động, tỉnh táo, cảnh giác, kết
hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa hợp tác với đấu tranh vì lợi ích cao nhất của đất nước.
Phải phát huy sức mạnh tổng hợp, thế và lực để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột
chiến tranh, kịp thời đối phó với những tình huống gây “đột biến”, cần có kế sách bảo
vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân
tố bất lợi. Có như vậy mới giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, góp phần

11
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
bối cảnh hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ năm, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn là bài học sâu sắc đối với việc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nền quốc phòng toàn dân trước hết được xây dựng vì mục đích hòa bình, giữ gìn sự
ổn định để phát triển đất nước. Tư tưởng đó được kế thừa trong lịch sử dân tộc và
được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Để có được hòa bình, “chúng
ta phải nhân nhượng” và quyết “hy sinh tất cả” để bảo vệ độc lập khi Tổ quốc lâm
nguy. Trong giai đoạn hiện nay, tinh thần đó tiếp tục gợi mở về những biện pháp linh
hoạt, mềm dẻo trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cần phải biết giữ
vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời linh hoạt về sách lược nhằm “thêm bạn, bớt
thù”, tránh được các xung đột và chiến tranh, thực hiện hòa nhập nhưng không “hòa
tan” trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong điều
kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận; trong
đó, chú trọng xây dựng tiềm lực về chính trị, tinh thần, phát huy nhân tố con người là
yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến tuy rất ngắn gọn, nhưng là văn kiện quan trọng,
mang tính chỉ đạo không chỉ trong những ngày đầu, mà còn có tác dụng định hướng
cho sự phát triển của cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như sau này.
Trên cơ sở tư tưởng đó, kết hợp với hoạt động thực tiễn, Đảng ta từng bước hoàn
chỉnh thành đường lối, chỉ đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi
hoàn toàn và luôn có ý nghĩa giá trị lịch sử to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay và mai sau.

2.5Liên hệ trách nhiệm bản thân

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, toàn thể
quốc dân đồng bào đã nhất tề đứng dậy chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi đất nước
trước lời hiệu triệu sục sôi hào khí, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập,
thống nhất Tổ quốc với chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kế thừa hào khí
12
chống giặc, giữ nước trong lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt chèo
lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh “nghìn cân treo sợi tóc” bằng một
quyết định quan trọng, một quyết định thể hiện sự lựa chọn của lịch sử vào ngày
19/12/1946 - Ngày toàn quốc kháng chiến.

Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, nhưng hơn tất cả, sứ
mệnh chung của chúng ta đặc biệt là giới trẻ thì trách nhiệm đối với đất nước là một
sứ mệnh vô cùng quan trọng. Vậy trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương đất
nước là gì? Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước là trách nhiệm giữ
gìn nền độc lập, tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh.

Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính
vì vậy bản thân em cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh,
có thể chống lại mọi kẻ thù. Khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một cuộc sống
tốt đẹp cũng chính là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, bản thân cần phải yêu
thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết với mọi người vì điều đó không chỉ giúp cho
chúng ta được yêu thương, trân trọng mà còn thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Là một sinh viên trước hết cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với
thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu
thương và giúp đỡ những người xung quanh,… cần phải cố gắng không chỉ vì tương
lai của mình mà còn để xây dựng đất nước giàu đẹp xứng đáng với những gì được
hưởng

13
Phần III: KẾT LUẬN

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã có sự thành công đáng kể trong lịch sử Việt
Nam, là một mốc son quan trọng, đánh dấu sự đoàn kết, quyết tâm và lòng yêu nước
của toàn dân trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp và sau đó là Mỹ, là lời kêu gọi
biểu tượng và đầy cảm hứng, tuyên bố quyết tâm không chịu bất kỳ sự cưỡng chế nào
từ phía đế quốc, sẵn sàng chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.Dân tộc chúng ta
đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc gìn giữ độc lập, chủ quyền và tương lai phát triển
của đất nước. Từ miền Bắc đến miền Nam, từ mọi tầng lớp xã hội, dân chúng đã trở
thành một thể thống nhất, chính thống, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tổ quốc. Qua nhiều
trận đánh lớn nhỏ, quân và dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần dũng cảm và sự kiên
nhẫn.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến không chỉ là một trang sử vĩ đại trong quá khứ mà
còn là nguồn cảm hứng cho những thế hệ sau này, chứng minh sức mạnh của sự đoàn
kết, tương thân tương ái và ý chí kiên cường của dân tộc. Tinh thần này vẫn tiếp tục
sống mãi trong lòng người Việt và trở thành nền tảng cho sự đấu tranh và phát triển
của đất nước chúng ta. Chúng ta đã chứng minh được rằng không có gì là không thể
khi chúng ta đoàn kết với nhau.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

(3) . Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2000, tr. 160.

(4). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr. 159.

15

You might also like