You are on page 1of 107

CHƯƠNG I: THẾ BÀI BỐN LÁ

TÍNH THỐNG NHẤT VÀ TÍNH HAI MẶT

Trải qua một lịch sử dài, bộ Ẩn chính đã thu hút rất nhiều bài giải nghĩa. Ngày nay, ta
thường nhìn các lá bài chính như một quá trình tâm lý thông qua nhiều giai đoạn tồn tại để
đạt đến sự phát triển toàn diện; chúng ta có thể mô tả trạng thái này như sự hòa nhập với
thế giới xung quanh vào từng thời điểm cụ thể, hay có lẽ là sự giải phóng khỏi những yếu
đuối, bối rối và hãi sợ. Toàn bộ bộ Ẩn Chính mô tả kỹ lưỡng quá trình này, nhưng để có thể
hiểu rõ hoàn toàn thì ta chỉ phải xem xét 4 lá bài; 4 nguyên mẫu cơ bản được sắp xếp theo
một sơ đồ hình học thể hiện sự tiến hóa và nhận thức tâm linh.
Nếu bạn có bộ Rider Waite Tarot (*) thì hãy lấy ra lá The Fool, The Magician, The High
Priestess và The World, xếp chúng thành hình thoi như sau. Nhìn chúng một lát xem. Hãy
để ý rằng cả The Fool và The World đều có hình người đang vui tươi nhảy múa
còn The Magician và The High Priestess thì đứng yên không di chuyển trong vị trí của mình.
Nếu xem qua những lá Ẩn Chính còn lại, bạn sẽ thấy rằng tất cả những lá chính đều được
vẽ như một bức ảnh tĩnh (still photograph) hơn là một bức tranh động (motion picture) trừ lá
số 0 và lá số 21. Chúng tự thể hiện mình trong những trạng thái sống phù hợp.

Nhưng có những điểm khác biệt giữa hai người nhảy múa này. The Fool bước nhanh về
phía trước trong trạng thái áo quần đầy đủ còn hình người trong The World thì
không. The Fool trông như sắp nhảy vào thế giới bên dưới từ một vùng đất cách đó thật
cao; The World ngược lại xuất hiện bên ngoài thế giới vật chất, nhân vật nhảy múa lơ lửng
trong một vòng chiến thắng nhiệm màu.
* Trong những bộ bài khác, đặc biệt là những bộ cổ xưa hơn Waite thì The Fool xuất hiện rất
khác với lá bài được trình bày ở đây. Chương sau về biểu tượng của lá The Fool sẽ nói về
sự kế thừa có tính thay thế này.

1
Cũng nên lưu ý đến những con số của bốn lá bài này. Số 0 không hoàn toàn là một chữ số,
hơn thế, nó thể hiện sự vắng mặt của các con số cụ thể khác, và do đó chúng ta có thể nói
rằng nó bao hàm tất cả các con số bên trong nó. Nó biểu trưng cho tiềm năng vô tận. Tất cả
mọi thứ đều có khả năng xảy ra vì không một định dạng cụ thể nào có thể được đưa ra cả.
Số 1 và 2 là những số thực đầu tiên, là thực tại đầu tiên; một lần nữa là một trạng thái đã
được ấn định. Chúng hình thành các số nguyên “lẻ” và “chẵn”, và do đó miêu tả tất cả các
cặp đối lập, nam và nữ, ánh sáng và bóng tối, thụ động và chủ động, vân vân… Nhưng số
21 kết hợp hai con số này là một hình ảnh.
Hãy nhìn vào dáng điệu của chúng. Lá The Magician nâng cao một gậy phép lên trời. Bên
cạnh ý nghĩa về tinh thần và sự thống nhất, gậy dương vật còn biểu trưng cho nam tính. Lá
The High Priestess ngồi giữa hai chiếc cột xuất hiện liên tục trong bộ Ẩn Chính, ở những nơi
hiển nhiên như đền thờ trong lá The Hierophant, và theo một cách khéo léo hơn như hai
người tình trong lá số 6, hay hai con nhân sư thắng vào lá Chariot. Người nhảy múa, hình
người phụ nữ (cũng có một vài bộ vẽ cô nàng dưới dạng lưỡng tính) mỗi tay cầm một gậy
phép. Nam và nữ đã thống nhất, và hơn thế nữa, những phẩm chất độc lập của họ gắn kết
vào một sự tự do cao hơn và niềm vui thích bừng lên trong cách người vũ công cầm những
biểu tượng sức mạnh đó một cách thanh thoát.
Vậy rõ ràng là trong khi theo phương ngang, lá The Magician và The High Priestess thể hiện
tính đối lập của những thứ trái ngược nhau, còn theo phương dọc, lá 0 và 21 thể hiện một
sự thống nhất, lá The Fool là một dạng trạng thái hoàn hảo trước sự đối lập và lá
The World cho chúng ta một ý niệm về một cảm giác hồ hởi của tự do có được chỉ khi ta
điều hòa những mặt đối lập chôn giấu trong tâm thức.
Tarot, cũng như nhiều hệ thống tư duy, chắc chắn cũng giống những câu chuyện thần thoại,
biểu trưng sự đối lập là sự phân tách của nam giới và nữ giới. Những người
theo Qabalah tin rằng Adam gốc là một người lưỡng tính, và do đó Eve chỉ trở nên phân
tách khỏi anh ta như kết quả của một Sự Sa ngã (Fall). Trong hầu hết các nền văn hóa, ở
những cấp cao hoặc thấp hơn, đàn ông và đàn bà nhìn nhau theo cách rất khác biệt, hầu
như là một xã hội riêng biệt. Ngày nay, nhiều người đã nghĩ rằng mỗi người sẽ có cả tính
chất của cả nam và nữ, nhưng trước đây thì suy nghĩ như vậy chỉ được tìm thấy trong
những học thuyết bí truyền của sự thống nhất.
Nếu mô tả sự đối lập một cách rạch ròi thành nam giới và nữ giới, hoặc đen và trắng, chúng
ta cũng trải nghiệm những phân tách tinh vi hơn trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt là
giữa hi vọng của chúng ra, những cái mà ta tưởng tượng là ta có thể đạt được với thực tế
những thứ ta đạt được. Rất thường xuyên rằng những hành động mà chúng ta làm hóa ra
lại không đáp ứng được hi vọng dành cho chúng. Cuộc hôn nhân mang đến ít hạnh phúc
hơn mong đợi, công việc và sự nghiệp mang lại ức chế nhiều hơn là thỏa mãn. Nhiều nghệ
sĩ từng nói rằng bức tranh được vẽ trên khung vải không bao giờ giống bức tranh mà họ

2
mường tượng; rằng họ không thể nào thể hiện được những gì họ thực sự muốn nói. Kiểu
nào thì thực tế cuộc sống bao giờ cũng luôn không bằng tiềm năng của nó. Nhận thức sâu
sắc về điều này, nhiều người quay cuồng với mọi quyết định, bất kể lớn nhỏ, bởi vì họ
không thể chấp nhận rằng một khi họ đã làm theo hướng này thì họ sẽ mất cơ hội đến với
những hướng khác đã mở ra cho họ trước đó. Họ không thể chấp nhận sự giới hạn khi
hành động trong thế giới thực.
Sự phân tách giữa tính tiềm năng và thực tế đôi khi được xem như sự tách biệt giữa tinh
thần và thể xác. Chúng ta cảm được rằng suy nghĩ và cảm xúc là một cái gì đó khác với
hiện diện vật chất của ta trên thế giới. Tinh thần không có giới hạn, nó có thể đi bất cứ đâu
trong vũ trụ, ngược về quá khứ hay tiến tới tương lai. Thể xác thì lại yếu đuối, là chủ thể của
sự đói khát, sự mệt mỏi và đau ốm. Để cố gắng giải quyết sự tách biệt này người ta tìm đến
những trường phái triết học. Những người theo chủ nghĩa hành vi khẳng định rằng “tinh
thần” không hề tồn tại; chỉ có thể xác và thói quen mà nó phát triển là có thật. Ở một cực
khác, nhiều nhà huyền học đã trải nghiệm thể xác như một ảo ảnh được tạo bởi sự hiểu biết
giới hạn của chúng ta. Truyền thống Thiên chúa giáo định nghĩa “linh hồn” như bản thể
“thật” bất tử, tồn tại trước và sau cơ thể chứa nó. Và nhiều tôn giáo, giáo phái khác, như
những người theo thuyết ngộ đạo (Gnostic) và một vài người theo Qabalah chẳng hạn, cho
rằng cơ thể là một nhà tù được tạo bởi những tội lỗi và sai lầm của tổ tiên sa ngã của chúng
ta.
Ở khởi nguồn của tất cả những mặt đối lập này, chúng ta cảm thấy như không thể nào hiểu
được chính mình. Chúng ta cảm nhận rằng tận sâu bên trong bản chất thật sự của mình là
cái gì đó mạnh mẽ hơn, tự do hơn, với một sự thông tuệ vĩ đại và quyền năng lớn lao; hoặc
là một thứ thiên về những đam mê bạo lực và ham muốn mãnh liệt của phần “con”. Theo
một cách khác, chúng ta biết rằng bản chất thật đó đã giấu bên trong, hoặc có lẽ là nằm sâu
bên dưới tính cách thông thường bị khống chế theo xã hội của mình. Nhưng làm thế nào để
chạm vào nó được? Cứ giả sử các bản chất tiềm năng kia là cái gì đó đẹp đẽ và mạnh mẽ,
làm sao ta phóng thích được nó?
Những bộ môn mà ta gọi là “khoa học huyền bí” bắt đầu với một sự nhận thức mạnh mẽ về
mọi phân tách và giới hạn này. Tuy nhiên, sau đó chúng tiến tới một quan điểm khác, rằng
có tồn tại một chiếc chìa khóa, hoặc một kế hoạch, để mang mọi thứ đến với nhau, để thống
nhất cuộc đời và hi vọng của chúng ta làm một khi ta đã giải phóng sự thông thái và sức
mạnh tiềm tàng của mình. Người ta thường nhầm lẫn mục đích của các bộ môn tâm linh.
Nhiều người nghĩ Tarot là để tiên đoán, rằng các nhà giả kim muốn trở nên giàu có bằng
cách biến chì thành vàng, rằng những người theo Qabalah dùng bùa chú bằng cách đọc
những từ bí mật, vân vân. Thực tế thì những bộ môn này hướng tới một sự thống nhất tâm
lý. “Kim loại cơ bản” mà những nhà giả kim mong có thể biến đổi thành vàng chính là bản
thân người đó. Chấp nhận học thuyết rằng chúng ta đã rơi khỏi trạng thái hoàn hảo để rớt

3
vào một trạng thái giới hạn, những nhà huyền học không tin chúng ta phải đợi chờ một sự
cứu chuộc tương lai nào đó từ một thế lực bên ngoài một cách thụ động. Trái lại, ông ấy
hoặc bà ấy tin rằng mang lại một sự cứu chuộc bằng cách tìm ra chìa khóa để thống nhất là
trách nhiệm của chúng ta.
Tarot miêu tả một phiên bản của “chiếc chìa khóa” đó. Nó không phải là chìa khóa, cũng
như nó thực sự không phải là một học thuyết bí ẩn. Nó biểu diễn một quá trình, và một trong
những thứ nó dạy chúng ta là ta đã phạm sai lầm khi giả sử sự thống nhất đến qua một
chiếc chìa đơn giản hoặc một công thức nào đó. Đúng hơn, sự thống nhất đến qua những
trưởng thành và mở rộng nhận thức khi ta đi từng bước qua hết hai mươi mốt trạng thái của
bộ Ẩn Chính.
Lá The Fool đại diện cho sự thuần khiết thực sự, một kiểu trạng thái hoàn hảo của niềm vui
và tự do, một cảm giác được hòa làm một với hồn của cuộc sống vào mọi lúc; hay nói cách
khác, cái tôi “bất tử” chúng ta cảm thấy đã bị sập bẫy trong những hỗn độn và thỏa hiệp của
cuộc sống đời thường. Có lẽ cái tôi tỏa sáng rực rỡ kia thực ra chẳng bao giờ tồn tại. Bằng
cách nào đó ta cảm nhận được trực giác của mình về cái tôi ấy như một thứ gì đó đã mất
mát. Hầu như mọi nền văn hóa đều phát triển những thần thoại về việc rơi khỏi (Fall) một
thiên đường sơ khai.
“Sự thuần khiết” (innocence) là một từ thường bị hiểu nhầm. Nó không có nghĩa là “không
có tội” mà là một sự tự do và hoàn toàn cởi mở đối với cuộc sống, hoàn toàn không có sợ
hãi thoát ra từ niềm tin tuyệt đối vào cuộc sống và cái tôi bản năng của bạn. Thuần khiết
không có nghĩa “vô tính” (asexual) như người ta thường nghĩ. Nó là bản năng giới tính biểu
lộ với không một sự sợ hãi, tội lỗi, thờ ơ hay không trung thực nào. Nó là bản năng giới tính
biểu hiện một cách tự nhiên và tự do, giống như biểu hiện của tình yêu và sự ngất ngây của
cuộc sống.
Lá The Fool mang số 0 bởi vì mọi thứ đều có thể đối với một người luôn sẵn sàng dấn bước
vào mọi hướng. Anh ta không thuộc về một nơi cụ thể nào; anh ta không được ấn định như
những lá bài khác. Sự thuần khiết khiến anh ta là một người không quá khứ, và do đó có
một tương lai vô hạn. Mỗi khoảnh khắc đều là một điểm bắt đầu. Trong chữ số Ả Rập, số 0
mang hình dạng của một quả trứng để ra hiệu rằng vạn vật đều xuất phát từ nó. Nguyên
thủy số không được viết như một dấu chấm; theo truyền thống giả kim (Hermetic)
và Qabalah vũ trụ bắt nguồn từ một điểm ánh sáng. Và chư thần trong Qabalah thường
được mô tả như “hư vô” (nothingness) vì mô tả thần thánh giống với bất cứ thứ gì thì đều
giới hạn Ngài vào một trạng thái hữu hạn được ấn định. Những người dẫn giải Tarot đã
tranh luận về việc liệu lá The Fool có thuộc về trước, sau, hay đâu đó khoảng giữa những lá
bài khác hay không có vẻ đều quên mất điểm này. Lá The Fool là sự chuyển động, sự thay
đổi, là hằng số xuyên suốt cuộc sống.

4
Đối với lá The Fool thì không có sự khác biệt nào tồn tại giữa triển vọng và thực tế. 0 có
nghĩa là sự trống rỗng tuyệt đối những hy vọng và sợ hãi, và lá The Fool không mong chờ
điều gì, không lập nên một kế hoạch nào cả. Anh ta phản ứng với những trạng thái nhất thời
ngay lập tức.
Những người khác sẽ nhận được tính tự nhiên hoàn toàn của anh ta. Không một tính toán,
không một kiềm hãm. Anh ta không làm những thứ này một cách chủ tâm, kiểu như ai đó
quyết định thành thật hoàn toàn với bằng hữu hay với người yêu một cách có ý thức.
Lá The Fool trao đi sự thành thật và tình yêu của mình một cách tự nhiên, cho tất cả mọi
người, thậm chí còn không mảy may suy nghĩ về điều đó.
Chúng tôi gọi lá The Fool là “anh ấy” và lá The World (Dancer) là “cô ấy” là do ngoại hình
của họ trong các bức vẽ, cả hai lá này là nữ hay nam thì đều không có gì thay đổi cả.
Vì The Fool không trải nghiệm sự chia tách khỏi thế giới vật chất nên anh ta hay cô ta cũng
không trải nghiệm bất kỳ sự tách biệt nào khỏi “phái kia”. Lá The Fool và lá The Dancer là
lưỡng tính về tinh thần, biểu lộ tính người hoàn thiện của họ ở mọi lúc, qua những trạng thái
tự nhiên nhất của họ.
Giờ hãy nhìn thế bốn lá một lần nữa. Hãy xem cách lá The Fool phân
chia The Magician và The High Priestess, những lá phải được ghép lại với nhau để tạo ra
lá The World. Hai lá bài này đại diện cho sự chia tách tính thuần khiết của lá The Fool khỏi
những đánh lừa của các mặt đối lập. Lá The World cho ta thấy một sự thống nhất lần hai,
nhưng là một sự thống nhất cao hơn và sâu hơn đạt được thông qua sự trưởng thành đã
phác thảo trong mười tám lá bài kia. Lá The Fool là sự thuần khiết, còn lá The World là sự
minh triết.

SỰ THUẦN KHIẾT VÀ SỰ TỰ DO

Lá The Fool dạy chúng ta rằng cuộc sống đơn giản chỉ là những vũ điệu liên tục của trải
nghiệm. Nhưng hầu hết chúng ta thậm chí không thể duy trì dù chỉ một khoảnh khắc nhỏ
nhoi của sự tự nhiên và tự do ấy. Căn cứ vào sự sợ hãi, những điều kiện và đơn giản là
những vấn đề rất thực tế của cuộc sống thường nhật, chúng ta cần thiết phải cho phép bản
ngã tách chúng ta khỏi trải nghiệm. Tuy nhiên sâu bên trong chúng ta có thể cảm nhận, mờ
nhạt thôi, triển vọng của sự tự do, và do đó ta có thể coi cảm giác mơ hồ này là sự mất mát,
một cú “rơi” khỏi sự thuần khiết. Tuy nhiên, một khi đã mất sự thuần khiết này, chúng ta
không thể chỉ đơn giản là trèo lên lại cấp độ của lá The Fool. Thay vào đó, ta phải đấu tranh
và học hỏi, thông qua sự trưởng thành, tự khám phá và nhận thức tinh thần, cho đến khi
chúng ta chạm được đến cái tự do vĩ đại của lá The World.
Lá The Magician đại diện cho chủ động, lá The High Priestess đại diện cho bị động,
lá The Magician là tính nam, lá The High Priestess là tính nữ, lá The Magician là sự ý thức,
lá The High Prietess là sự vô thức.

5
Chúng ta không nên hiểu “ý thức” là sự nhận thức cao của lá The World, mà là ý thức mạnh
mẽ nhưng giới hạn của bản ngã khi nó tạo nên một vũ trụ bên ngoài những đường biên và
thể thức. Sự mô tả này không có ý chê bai hay giảm nhẹ sức mạnh sáng tạo của
lá The Magician. Có sự sáng tạo nào vĩ đại hơn để có thể tạo hình dáng cho sự hỗn độn của
trải nghiệm? Đó là The Magician, người mang cho cuộc sống ý nghĩa và mục đích của nó.
Những người chữa trị, những nghệ sĩ và những nhà huyền học đều tập trung vào
lá The Magician như người bảo trợ cho họ. Do đó, quyền năng của anh ta đại diện cho một
sự chia tách khỏi sự tự do của lá The Foo lhoặc sự thấu hiểu của của lá The World.
Cũng theo cách đó, lá The High Priestess thể hiện, trong sự vô thức của nàng, một trạng
thái sâu thẳm của nhận thức trực giác. Tuy nhiên, những kiến thức bên trong của nàng
không thuộc về trung tâm chói sáng của hư vô, cái trung tâm cho phép lá The Fool hành
động tự do như thế.
Lá The High Priestess đại diện cho nguyên mẫu của chân lý bên trong, nhưng vì chân lý là
vô thức, không thể diễn đạt được, nàng chỉ có thể duy trì nó thông qua sự bị động tuyệt đối.
Trạng thái này tự thể hiện chính nó trong cuộc sống theo vô vàn cách thức. Tất cả chúng ta
đều mang trong mình một cảm giác mơ hồ về việc ta là ai, về một cái tôi xác thực mà người
khác không bao giờ thấy và không thể giải thích. Nhưng những người phụ nữ và đàn ông
quăng mình vào những cạnh tranh, công danh, trách nhiệm mà không dành thời gian tương
đương để phát triển sự tự thấu hiểu thì thường một lúc nào đó sẽ phát hiện ra rằng họ đã
đánh mất cảm giác họ là ai và họ từng muốn gì trong đời. Và nay, trái ngược trực tiếp với
những người này là những người tu hành rút mình khỏi thế giới bởi một sự dính dáng nhỏ
nhất cũng sẽ khiến họ mất tập trung thiền định.
Cả hai lá The Magician và The High Priestess đều mang tính thuần khiết nguyên mẫu. Theo
một hướng, chúng không đánh mất sự tỏa sáng của lá The Fool mà chỉ đơn giản là phân
chia thành ánh sáng và bóng tối. Trong sự phân chia truyền thống của tôn giáo phương Tây
và phương Đông thì lá The Magician đại diện cho phương Tây với sự nhấn mạnh của nó lên
hành động và sự bảo vệ mang tính lịch sử, lá The High Priestess đại diện phương Đông,
cách thức phân tách khỏi thế giới và thời gian. Tuy nhiên những ai đào sâu và cả hai truyền
thống này sẽ kết hợp những yếu tố lại với nhau.
The High Priestess ngồi giữa hai cây cột ánh sáng và bóng tối. Mặc dù chính nàng đã là
biểu tượng của phần bóng tối thụ động nhưng trực giác của nàng có thể tìm thấy sự cân
bằng giữa hai bên. Việc này không mâu thuẫn như nó có vẻ. Nếu chúng ta cảm nhận cuộc
đời mình được lấp đầy bởi những mặt đối lập mà ta vốn không thể giải quyết, chúng ta có
thể phản ứng theo một trong hai cách. Chúng ta có thể lùi lại hoặc tiến lên, đi từ cực này
sang cực khác, hoặc có thể hoàn toàn chẳng làm gì cả. Hãy ngồi ở giữa, không bị cám dỗ
theo hướng nào, nhưng hãy thụ động, cho phép những mặt đối lập đi quanh bạn. Tất nhiên,

6
trừ phi đây cũng là một lựa chọn nếu không cuối cùng ta cũng đơn giản là đánh mất sự cân
bằng cùng những hiểu biết bên trong ấy bởi vì cuộc sống vẫn tiếp tục quay quanh chúng ta.
Trong biểu tượng Qabalah, lá The High Priestess đại diện cho Trục Hài Hòa (Piller of
Harmony), một sức mạnh điều hòa sự đối lập của Những Trục Cảm Thông (Pillars of Mercy)
và Sự Phán Xét (Judgement). Do đó nàng ngồi giữa hai cây cột của đền thờ. Nhưng nếu
không có khả năng hòa hợp với sức mạng chủ động của lá The Magician, cảm giác
của High Priestess về sự hòa hợp sẽ bị quét đi.  
Là những nguyên mẫu, lá The Magician và The High Priestess không thể tồn tại trong cuộc
sống của chúng ta thêm nữa, cũng như lá The Fool. Hiển nhiên, chúng ta trộn lẫn những
yếu tố này (hơn là hòa hợp chúng) và từ đó trải nghiệm dạng thấp hơn của chúng, kiểu như
những hành động lộn xộn, hoặc là sự bất an và tội lỗi làm tăng tính thụ động. Nói một cách
khác, sự thuần khiết của hai cực đã mất bởi cuộc sống đã xáo trộn chúng với nhau.  
Mục đích của bộ Ẩn Chính có hai phần. Trước nhất, bằng cách phân tách các yếu tố của
cuộc sống chúng ta thành các nguyên mẫu, nó khiến ta có thể nhìn chúng ở dạng thuần
nhất, như những khía cạnh của chân lý tinh thần. Thứ hai, nó giúp chúng ta thực sự giải
quyết các yếu tố khác nhau, dẫn ta đi từng bước qua những tầng nấc khác nhau của cuộc
sống cho đến khi mang chúng ta đến sự thống nhất. Trong thực tế, có lẽ sự thuần khiết biểu
hiện bởi lá The Fool không bao giờ tồn tại. Bằng cách nào đó ta trải nghiệm được cái gì đấy
đã mất đi. Bộ Ẩn Chính nói cho ta biết làm thế nào để mang nó quay trở lại.

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN

CÁC LÁ BÀI LÀ MỘT CHUỖI LIÊN TIẾP

7
Hầu hết các nhà giải nghĩa bộ Ẩn Chính dùng một trong hai cách tiếp cận: hoặc họ xem các
lá bài là một thực thể riêng biệt hoặc xem xét chúng như một chuỗi liên tiếp. Cách tiếp cận
thứ nhất xem mỗi lá bài như đại diện những tính chất khác nhau hoặc những vị thế của tính
trọng yếu đối với sự phát triển tinh thần của một con người. Lá The Empress đại diện cho
tâm hồn được ngợi ca trong tự nhiên, lá The Emperor đại diện sự làm chủ bản ngã, vân
vân. Hệ thống này xem các chữ số trên các lá bài là một phần trong ngôn ngữ biểu tượng
của chúng. Chữ số 1 thuộc về lá The Magician không phải bởi vì anh ta đứng đầu mà là vì
con số này thể hiện những ý niệm – sự thống nhất, sức mạnh hoang dã – thích hợp cho
hình tượng của lá The Magician.
Cách tiếp cận thứ hai nhìn nhận các lá bài chính như một quá trình. Lá The Magician là 1
bởi những tính chất của anh ta tạo nên điểm khởi đầu của hình đồ trưởng thành được biểu
hiện trong những lá bài khác. Lá bài số 13, nói rằng chỉ thuộc về điểm giữa lá The Hanged
Man và Temperence chứ không thuộc về điểm nào khác. Mỗi lá chính mới được xây dựng
trên nền của lá cũ và dẫn đường đến lá tiếp theo.  
Nhìn chung, tôi đi theo phương pháp thứ hai. Trong khi biểu tượng số học không nên bị xem
nhẹ thì việc xem xem mỗi lá bài khớp vào đâu trong tổng hình đồ cũng quan trọng tương
đương. Sự so sánh với các chữ số khác cũng giúp chúng ta nhìn thấy các hạn chế cũng
như các ưu điểm của mỗi lá bài. Ví dụ như số 7, lá The Chariot, thường được nói về “chiến
thắng”. Nhưng là loại chiến thắng nào đây? Đó là sự tự do tuyệt đối của lá The World, hay
cái gì đó hạn hẹp hơn nhưng vẫn mang một giá trị lớn lao chăng? Nhìn vào vị trí của lá bài
thì sẽ có thể trả lời những câu hỏi ấy.  
Những nhà giải nghĩa Tarot dùng cách tiếp cận này thường tìm kiếm vài chỗ có thể chia
tách các lá chính để lĩnh hội dễ hơn. Sự lựa chọn thường thấy nhất là lá The Wheel of
Fortune. Cũng như chữ số 10, lá này biểu hiện cho sự hoàn tất một chu trình và sự bắt đầu
một chu trình khác. Tương tự, nếu bạn đặt lá The Fool vào vị trí đầu, nó sẽ chia các lá ra
thành hai nhóm mười một lá một cách gọn gàng. Quan trọng hơn hết, ý niệm về một bánh
xe quay tròn thể hiện một sự thay đổi của cách nhìn nhận, từ việc chú tâm vào những thứ
bề ngoài, như là thành công hay lãng mạn, đến cách tiếp cận nội tâm hơn được mô tả trong
các lá như The Death và The Star.
Ngoài tác dụng của việc xem bộ Ẩn Chính như hai nửa, tôi thấy các lá chính phân chia chặt
chẽ hơn thành ba phần. Đặt lá The Fool sang một bên như tự nó là một phần riêng biệt (và
việc đặt nó sang bên cho phép chúng ta thấy rằng nó thuộc về mọi nơi và mọi chỗ) cho ta
hai mươi mốt lá (21) – ba nhóm bảy lá (7).
Chữ số bảy (7) có một lịch sử dài trong biểu tượng học: bảy hành tinh của chiêm tinh cổ
điển, số bảy là sự kết hợp của ba và bốn, tự thân chúng là những chữ số nguyên mẫu, bảy
trụ cột của trí tuệ, bảy vị trí thấp hơn của Cây Sự Sống (Tree of Life), bảy khướu trên đầu
người, bảy chakra, và tất nhiên, bảy ngày trong tuần.

8
Một khía cạnh đặc biệt của số bảy liên kết nó trực tiếp với Tarot. Mẫu tự Hy Lạp π là một tỷ
số tồn tại giữa chu vi và đường kính trong tất cả các đường tròn. Dù đường tròn to hay nhỏ,
cả hai sẽ luôn có cùng một tỷ số: 22/7. Và bộ Ẩn chính với lá The Fool sẽ thành hai mươi
hai (22), không có lá The Fool thì giảm xuống thành bảy. Tương tự, hai mươi hai lần bảy
tương đương với một trăm năm mươi bốn (154 cộng lại là mười, liên kết với lá The Wheel
of Fortune), và một trăm năm mươi bốn chia thành hai, cho hai bộ Ẩn, thành bảy mươi bảy
(77), cả bộ Tarot với lá The Fool một lần nữa được bỏ ra.
Giống như quan niệm của Qabalah về thần linh, tâm điểm chẳng có gì nhưng cả chu trình
lại tỏa ra từ đó. Và chữ số của lá The Fool, chữ số 0, đại diện cho một chu trình cũng như
một tâm điểm.  
Những lý do hay nhất để chia thành ba nhóm lại nằm trong bộ Ẩn Chính. Đầu tiên, hãy xem
xét biểu tượng học hình ảnh. Hãy nhìn lá đầu tiên của mỗi dòng.
Lá The Magician và Strength rõ ràng đều là các lá về sức mạnh, nhưng cả lá The Devil cũng
vậy. Lá The Magician và Strength được nối bởi dấu vô cực trên đầu của họ, trong khi
lá The Devil mang một ngôi sao năm cánh ngược. Nếu nhìn tư thế của The Devil, một tay
chỉ lên, một tay chỉ xuống, bạn sẽ thấy bức ảnh đã nhái lại lá The Magician theo một kiểu
nào đó, với ngọn đuốc chỉ xuống thay vì gậy phép chỉ lên. Trong vài bộ bài Tarot, lá số 15
mang tên “Black Magician”. (Trong nhiều bộ lá Justice chứ không phải lá Strength là lá số 8.
Nếu bạn quan sát tư thế của hình người trong lá Justice, bạn sẽ thấy một sự tương đồng
gần gũi hơn với cả hai lá The Magician và lá The Devil). Những tương ứng theo chiều dọc
cùng kiểu ứng dụng cho tất cả các lá trong ba dòng.   

BA LĨNH VỰC CỦA TRẢI NGHIỆM

Việc chia làm ba phần cho phép chúng ta xem bộ Ẩn Chính trong mối quan hệ với các mức
trải nghiệm riêng biệt. Nói ngắn gọn, chúng ta có thể gọi chúng là: sự ý thức
(consciousness), những mối quan tâm bên ngoài về cuộc sống trong xã hội; tiềm thức
(subconscious), hoặc sự tìm kiếm bên trong để tìm ra chúng ta thực ra là ai và siêu thức
(superconscious), sự phát triển của nhận thức tinh thần và sự giải phóng năng lượng
nguyên mẫu. Ba cấp độ này không phải là các phạm trù miễn cưỡng. Chúng xuất phát từ
chính các lá bài.
Dòng đầu tiên, với sự tập trung của nó đối với các vấn đề như tình yêu, quyền lực xã hội, và
giáo dục, mô tả những mối quan tâm chính của xã hội. Theo nhiều cách thế giới chúng ta
thấy được phản ánh trong tiểu thuyết, phim ảnh và trường học đều được tổng kết trong bảy
lá bài đầu tiên của bộ Ẩn Chính. Một người có thể sống và chết và được tất cả mọi người
xung quanh đánh giá là một người thành công mà không phải vượt ra ngoài phạm vi của
lá The Chariot. Thực tế là nhiều người không hề chạm được đến mức đó.

9
Phân tâm học hiện đại tự liên kết nó với dòng thứ hai của các lá chính, với biểu tượng của
chúng về sự rút lui như một nhà ẩn dật (The Hermit) vào trong sự tự nhận thức được tiếp
bước bởi Cái Chết (The Death) mang tính biểu tượng và sự tái sinh. Thiên thần của
lá Temperance ở cuối dòng đại diện một phần của chúng ta, phần mà ta phát hiện ra cơ bản
sự thật sau khi những lớp ảo của cái tôi, của sự tự vệ và của những thói quen cứng nhắc
trong quá khứ đã được phép biến mất.
Cuối cùng, dòng cuối cùng có gì? Cái gì có thể cao hơn việc tìm ra bản ngã thực sự của
chúng ta? Để đề cập một cách đơn giản, bảy lá này mô tả một sự đương đầu và cuối cùng
là một sự thống nhất với những thế lực vĩ đại của chính cuộc sống. Những lá khác, vốn
được xem là rất quan trọng, lại trở thành sự chuẩn bị cho sự đổ dốc vĩ đại vào bóng tối, sự
phóng thích của ánh sáng, và sự quay lại của ánh sáng đó đến thế giới chan hòa ánh nắng
của ý thức.
Đối với hầu hết người đọc dòng bài cuối có vẻ mập mờ và vô thực. Chúng ta có thể gọi chủ
đề này mang tính “tôn giáo” hoặc “hoang đường” nhưng những từ này quá cứng nhắc để ta
dùng chúng.
Sự mập mờ trong tâm trí chúng ta có lẽ nói nhiều về chính chúng ta và thời đại của chúng ta
hơn là về vấn đề. Bất cứ xã hội nào cũng tự động dạy người của nó, chỉ bằng ngôn từ mà
nó dùng, rằng phải chắc chắn về những giả định về thế giới. Những hình mẫu trong nền văn
hóa của chúng ta có thể bao gồm cả giá trị và sự độc nhất của các cá nhân, sự thực tế và
tầm quan trọng áp đảo của tình yêu, sự cần thiết của tự do và công bằng xã hội, và, phức
tạp hơn nhưng mang sức mạnh tương tự là tính riêng biệt cơ bản của mỗi người. “Chúng ta
sinh ra chỉ một mình và cũng chết đi một mình”. Xã hội của chúng ta, nhờ những người theo
chủ nghĩa duy vật của thế kỷ mười tám và mười chín, không chỉ đào thải quan điểm về “siêu
thức” hoặc “thế lực vũ trụ” mà chúng ta còn không thực sự hiểu chúng nghĩa là gì.
Khi chúng ta giải quyết dòng cuối cùng của bộ Ẩn Chính, thì chúng ta cũng giải quyết một
lĩnh vực khó chịu đối với nhiều người. Nó sẽ khiến việc hiểu các lá bài trở nên khó khăn hơn
– và có thể được tưởng thưởng xứng đáng hơn. Làm việc với những bức tranh cổ này có
thể mang lại những kiến thức mà nền giáo dục của chúng ta đã để trôi vào quên lãng.

CHƯƠNG III: NHỮNG LÁ CHÍNH MỞ ĐẦU – BIỂU TƯỢNG VÀ NGUYÊN MẪU

THE FOOL

Chúng ta đã quan sát lá The Fool theo khía cạnh hình ảnh của một tinh thần hoàn toàn tự
do rồi, nhưng ta còn có thể quan sát lá The Fool theo những khía cạnh khác nữa – là sự
nhảy vào thế giới nguyên mẫu của những lá chính.

10
Hãy tưởng tượng bạn bước vào một thế giới xa lạ. Một thế giới của những pháp sư, của
những người treo ngược và của những vũ công nhảy múa trong không trung. Bạn có thể
vào đấy qua một cú nhảy từ trên cao, qua một hang động tăm tối, một mê cung hay thậm
chí bằng cách trèo xuống một hang thỏ đuổi theo một chú thỏ thuộc thời Nữ
hoàng Victoria đeo đồng hồ bỏ túi. Bạn chọn cách nào đi nữa thì bạn cũng là một kẻ khờ khi
làm như thế. Tại sao phải nhìn vào thế giới thẳm sâu của tâm trí khi bạn có thể sống an toàn
với thế giới bình thường của công việc, nhà cửa và gia đình? Herman Melville, trong
cuốn Moby Dick, đã cảnh báo người đọc của ông đừng bước ra khỏi con đường bình
thường mà xã hội đã vẽ ra cho bạn. Bạn có thể sẽ không thể quay lại được nữa đâu.
Tuy nhiên, đối với những kẻ sẵn sàng nắm lấy cơ hội, cú nhảy có thể mang đến niềm vui,
sự phiêu lưu, và cuối cùng, đối với những ai dũng cảm để bước tiếp khi thế giới thần kỳ trở
nên đáng sợ hơn là vui thích, cú nhảy có thể mang đến kiến thức, sự thanh thản và giải
phóng. Điều thú vị là lá The Fool nguyên mẫu xuất hiện nhiều trong thần thoại hơn là trong
những tôn giáo có hệ thống. Một Nhà thờ đã thể chế hóa hầu như không thể thôi thúc người
ta vượt ra khỏi những giới hạn của khuôn khổ. Thay vào đó, các nhà thờ cho ta nơi ẩn náu
an toàn khỏi những nỗi sợ hãi của cuộc đời. Thần thoại có thể trực tiếp dẫn đến tâm của
những nỗi sợ đó, và trong mọi nền văn hóa thế giới thần thoại chứa đựng hình ảnh của
những Kẻ lừa gạt (Trickster) – đẩy, thúc, thọc những vị vua và những anh hùng mỗi khi họ
ngoảnh mặt khỏi thế giới nội tại của sự thật.
Trong huyền thoại về vua Arthur, Merlin xuất hiện không chỉ là một phù thủy và một nhà
thông thái mà còn là một kẻ lừa gạt. Liên tục, ông ta xuất hiện trước Arthur dưới dạng ngụy
trang của một đứa trẻ, một gã ăn mày, một người nông dân già. Vị vua trẻ, đã bị dụ dỗ vào
sự hào nhoáng của vị trí xã hội cao ngất của mình, không hề nhận ra Merlin cho đến khi
những người bạn của ngài chỉ ra rằng ngài lại bị lừa thêm lần nữa. Quan trọng hơn cả luật
pháp hay chiến thuật quân sự là khả năng nhìn thấy những đánh lừa. Những đạo sĩ Đạo
giáo rất nổi tiếng với việc lừa lọc những môn đồ của họ.
Lá The Fool nguyên mẫu thậm chí tìm kiếm những biểu hiện mang tính xã hội, như những
anh hề trong cung vua. Chúng ta đều biết hình ảnh của “gã khờ” từ Vua Lear, gã được phép
nói với nhà vua những sự thật mà không ai khác dám để lộ. Ngày nay, những nhà hài kịch
và những nhà châm biếm của chúng ta tận hưởng một thứ tương đương với đặc quyền này.
Ở nhiều quốc gia những lễ hội hằng năm sẽ phóng thích tất cả những hoang dại bị trấn áp
suốt một năm trời. Tình dục thỏa mái hơn, các luật lệ bị hoãn lại, người ta hóa trang và Vua
Khờ (King of Fools) được chọn làm người chủ trì lễ hội. Ngày nay, ở châu Âu và Bắc Mỹ,
ngày một tháng Tư vẫn là “April Fool’s Day”, thời gian cho những trò lừa gạt và những trò
đùa thực sự.

11
Bức vẽ cạnh bức của bộ Rider thể hiện lá The Fool theo diễn tả của Oswald Wirth. Đây là
một truyền thống cũ xưa hơn Waite, nó vẽ một hình mẫu như một kẻ lang thang kệch cỡm.
Hình ảnh này đã được diễn giải theo nhiều kiểu, ví dụ như một linh hồn trước sự khai sáng,
một đứa trẻ sơ sinh bước vào thế giới những trải nghiệm và nguồn gốc của tình trạng rối
ren. Elizabeth Haich đã có một sự diễn giải thú vị về hình ảnh lá The Fool kỳ cục của Wirth.
Đặt nó giữa lá Judgement và lá The World, bà mô tả lá The Fool là thứ thế giới bên ngoài
thấy khi nhìn xuống những kẻ đã được khai sáng thực sự. Bởi vì lá The Fool không tuân
theo những luật lệ của thế giới bên ngoài hoặc chia sẻ những điểm yếu của nó nên anh ta
xuất hiện trước nó theo cái cách vặn vẹo xấu xí này. Haich diễn tả khuôn mặt
lá The Fool như một chiếc mặt nạ được đeo lên không phải bởi anh ta mà là bởi thế giới
bên ngoài. Lá bài cuối cùng, lá The World, cũng mô tả cùng một người đã được khai sáng
ấy nhưng được nhìn từ bên trong, tức là bởi chính anh ta.  
Trong một vài bộ bài Tarot, đầu tiên lá The Fool xuất hiện như một anh hề hoàng gia to lớn,
vượt lên hẳn những người xung quanh. Tên của anh ta là “Gã khờ của Chúa” (the Fool of
God). Từ này cũng được dùng cho những kẻ ngốc nghếch, những người điên vô hại, và
những người bị động kinh nặng, tất cả những kẻ được cho là được một sự thông thái vĩ đại
chạm đến một cách chính xác bởi vì họ nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.
Nguyên mẫu này vẫn còn tiếp tục trong những thần thoại hiện đại phổ biến. Nhờ tính chất
huyền ảo nguyên thủy của mình, những tác phẩm truyện tranh thường phản ánh các chủ đề
thần thoại tốt hơn tiểu thuyết. Trong Batman, kẻ thù lớn nhất của người anh hùng được gọi
là Joker, một hình tượng không có quá khứ và không ai thấy được khuôn mặt hắn khi nó
chưa được trang điểm thành lá joker trong cỗ bài Tây. Lá joker, tất nhiên, bắt nguồn trực
tiếp từ lá The Fool của tarocchi. Sự kình địch của Batman và Joker gửi một thông điệp rõ
ràng đến người đọc: đừng chống lại những giá trị của xã hội. Hãy ủng hộ luật pháp và trật
tự. Trong những năm gần đây tờ tạp chí đã mô tả Joker như một tên mất trí hơn và một tên
tội phạm. Đối với xã hội, phong cách của lá The Fool, tuân theo bản năng hơn là luật lệ, là
một bệnh tâm thần nguy hiểm.

12
Từ trước đến nay chúng ta đã xem lá The  Fool như một “người khác”, người chọc chúng ta
khỏi tính tự mãn bằng những trò đùa và sự giả trang của anh ta. Nếu xem như một “bản
ngã” thì anh ta đại diện cho những câu chuyện xưa về những người em thật thà bị anh chị
mình coi thường, nhưng cuối cùng lại cưới được công chúa hoặc hoàng tử nhờ sự thông
minh bản năng và lòng tử tế.
Lạ kỳ rằng hình ảnh lá The Fool là bản ngã thì xuất hiện nhiều trong truyện cổ tích hơn là
thần thoại. Chúng ta xem thần thoại như một sự đại diện cho những thế lực to lớn hơn bản
thân ta; những câu chuyện cổ tích đơn giản hơn cho phép ta thể hiện sự khờ khạo của
chính ta.
Giống như “Boots” và “Gluck” trong truyện cổ, luôn có những con thú đi cùng giúp đỡ,
lá The Fool trong hầu hết các bộ bài đều có một bạn đồng hành. Trong bộ Waite hình tượng
đó là một chú chó đang chạy nhảy, trong những bộ khác là mèo hoặc thậm chí là cá sấu.
Thú vật biểu trưng cho những thế lực tự nhiên và thú tính của con người, tất cả hài hòa
trong một linh hồn hành động từ bản năng. Những chú chó trong thần thoại thường đáng
sợ, ví dụ như con Chó săn Địa ngục (Hound of Hell) đuổi theo những hồn phách đi lạc.
Nhưng chỉ có một con thú thôi; chỉ có thái độ của chúng ta là thay đổi. Chối bỏ bản năng
bên trong của bạn và nó sẽ trở nên hung tợn. Tuân theo và nó sẽ trở nên ôn hòa.
Lá The Fool của Waite cầm một đóa hồng trắng. Hoa hồng biểu trưng cho sự đam mê, trong
khi màu trắng là màu truyền thống của sự trong trắng, cùng với mong manh của đóa hoa
kia, thể hiện niềm đam mê được nâng lên đến một cấp độ cao hơn. Người Hi Lạp
xem Eros – thần tình yêu – như một kẻ lừa đảo, khiến những kẻ đứng đắn nhất cũng hành
động lố lăng. Nhưng những người thể hiện sự điên rồ của họ thì sẽ không bị tình yêu chối
bỏ bao giờ. Người Hi Lạp cũng nói rằng Eros, trong những hình dạng khác, là thế lực đầy
náo nhiệt của vũ trụ.
Cái túi sau lưng anh ta mang theo những trải nghiệm. Anh ta không bỏ chúng, anh ta không
phải là người thiếu suy xét, chúng chỉ đơn giản là không điều khiển anh ta theo cách mà
những kỷ niệm và tổn thương thường điều khiển cuộc sống chúng ta. Cái túi mang hình đầu
đại bàng, biểu tượng của một tâm hồn bay bổng. Bản năng cao rộng của anh ta lấp đầy và
thay hình đổi dạng mọi trải nghiệm. Chim đại bàng cũng là biểu tượng của chòm Thiên Yết
đã được nâng lên một cấp độ cao hơn, tức là bản năng giới tính nâng lên thành tâm hồn. Ý
tưởng về sự kết nối giữa tình dục và tâm hồn sẽ xuất hiện lại lần nữa trong lá The Devil.
Trên vai lá The Fool mang một chiếc gậy như một kẻ lang thang. Nhưng cây gậy này thực
chất là một gập phép, biểu tượng của sức mạnh. Lá The Magician và người đánh xe trong
lá The Chariot cũng mang gậy phép, nhưng họ tự nhận thức được với một cái nắm tay
mạnh mẽ. Lá The Fool và lá The World Dancer cầm gậy của họ theo cách rất tùy tiện như
thể họ hầu như không chú ý đến chúng. Có gì ngốc nghếch hơn là đem một cái gậy phép đi
treo túi không kia chứ? Chúng ta có thể tưởng tượng một câu chuyện cổ tích trong đó người

13
em trai khờ khạo tìm thấy một cây gậy bên đường và cầm nó theo mà không nhận ra nó là
cây gậy phép đã thất lạc của một phù thủy, do đó không bị hủy hoại như hai người anh cố
dùng nó vì lợi riêng.   
Gậy phép của lá The Fool có màu đen; của những lá khác thì màu trắng. Vì sự vô thức của
lá The Fool và năng lượng tinh thần luôn ở trạng thái tiềm năng, luôn sẵn sàng, bởi vì anh ta
không hướng đến nó một cách cố ý. Chúng ta thường có xu hướng hiểu nhầm màu đen,
xem nó như điều xấu, như sự tiêu cực của cuộc sống. Thực ra màu đen có nghĩa rằng tất
cả mọi thứ đều có thể, là nguồn năng lượng vô tận của cuộc sống bởi sự ý thức đã dựng
lên mọi giới hạn. Khi ta sợ màu đen hay bóng tối, chúng ta đã sợ chính nguồn sống vô thức
sâu xa.
Giống như joker, lá The Fool thực sự thuộc về mọi vị trí trong cỗ bài, kết hợp và nằm giữa
bất kỳ những lá bài nào. Anh ta là nguồn năng lượng linh hoạt mang sự sống cho những
hình ảnh bất động. Trong bộ Ẩn Chính anh ta thuộc về bất cứ nơi nào gặp khó khăn về
chuyển tiếp. Do đó, vị trí của anh ta là ở nơi bắt đầu, nơi có sự chuyển tiếp từ thế giới
thường ngày của bộ Ẩn Phụ sang thế giới của những nguyên mẫu. Lá The Fool cũng giúp
ta nhảy qua khoảng cách từ dòng này đến dòng tiếp theo, tức là từ lá The Chariot đến
lá Strength, từ Temperance đến The Devil. Để chạm đến The Chariot hay Strength đòi hỏi
một nỗ lực rất lớn và lòng can đảm, và không có sự sẵn sàng nhảy vào một lãnh địa mới
của lá The Fool thì ta sẽ gần như là dừng lại với những thứ ta đã đạt được.   
Lá The Fool cũng thuộc về những lá bài mang những khó khăn trong di chuyển, ví dụ như
lá The Moon và lá The Death (hãy quan sát con đường quanh co trong hai lá này), ở đây
anh ta thôi thúc ta vượt qua nỗi sợ.  
Trong bộ Ẩn Pphụ, lá The Fool liên quan đầu tiên đến bộ Wand – hành động, niềm háo hức,
chuyển động mà không suy nghĩ. Nhưng nó còn kết nối với bộ Cup, với sự nhấn mạnh lên
trí tưởng tượng và bản năng. Lá The Fool thực tế là đã kết hợp hai bộ này. Về sau chúng ta
sẽ thấy sự kết hợp giữa lửa và nước này đại diện cho một sự biến đổi.  
Cuối cùng là câu hỏi về vị trí của lá The Fool trong giải nghĩa tiên tri. Tôi đã đề cập đến tầm
quan trọng của các giải nghĩa để hiểu được đầy đủ các lá. Hơn thế nữa, chúng giúp chúng
ta dùng sự thông thái của các lá vào vào cuộc sống thường nhật. Trong giải nghĩa,
lá The Fool nói về lòng dũng cảm và tính lạc quan, niềm tin tích cực vào bản thân và vào
cuộc sống. Vào những thời điểm khó khăn, khi chúng ta chịu áp lực từ những người xung
quanh buộc ta phải thực tế, lá The Fool nhắc nhở rằng bản chất bên trong của chính chúng
ta có thể cho ta biết những điều đúng đắn nhất phải làm.   
Lá The Fool thường biểu trưng cho sự bắt đầu, một cú nhảy đầy can đảm vào một giai đoạn
mới của cuộc sống, đặc biệt là khi cú nhảy này được thực hiện vì những cảm xúc sâu xa
hơn là đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng.

14
Những điều này thuộc về lá The Fool ở vị trí bình thường của nó. Chúng ta cũng phải xem
xét các nghĩa “ngược”, tức là khi các mà chúng ta xào bài khiến lá The Fool xuất hiện với
chân lộn lên đầu. Nghĩa ngược luôn được các nhà diễn giải bài Tarot tranh luận với nhau.
Những người áp những công thức vào các ý nghĩa thì thường chỉ xào đi nấu lại một công
thức, đây là một phương pháp quá đơn giản khiến vài nhà diễn giải đã bỏ đi ý nghĩa toàn
diện của nghĩa ngược. Nhưng chúng ta cũng có thể xem việc đảo ngược là sự đào sâu hơn
ý nghĩa của lá bài theo tổng thể. Nhìn chung, một lá bài ngược cho thấy rằng các tính chất
của lá bài bài đó đang bị phong tỏa, bị biến dạng hoặc chuyển sang một hướng khác.  
Đối với lá The Fool, nghĩa ngược đầu tiên là một sự thất bại trong việc tuân theo bản năng.
Nó có thể mang nghĩa là đã không tận dụng cơ hội trong vài thời điểm thiết yếu, bởi sợ hãi
hoặc dựa dẫm quá nhiều lên những kế hoạch và những lời khuyên thực tế của người khác.
Một nghĩa ngược khác của lá The Fool xuất hiện ban đầu là để đối lập với nghĩa đã đưa ra.
Sự thiếu thận trọng, sự man dã, những ý đồ điên khùng, tất cả dường như là đối nghịch với
cẩn trọng quá mức. Tuy nhiên, chúng bắt nguồn từ cùng một sự yếu đuối, một thất bại để
hành động từ bên trong. Một kẻ khinh suất thêm vào cuộc sống của hắn sự ý thức hoặc sự
ngốc nghếch giả tạo bởi vì hắn không tin vô thức có thể đóng vai trò chỉ dẫn và bởi vì hắn
cũng sợ mình chẳng có lấy một hành động nào.
Nghĩa ngược thứ hai này gợi ra một khía cạnh khác của lá The Fool – sự nhận thức rằng
những cơ hội to lớn phải được tận dụng trong một thời điểm nhất định. Rốt cuộc thì có rất
nhiều thời điểm cần phải cảnh giác và có những thời điểm không làm gì cả thì lại tốt hơn.
Điều cơ bản mà bất kỳ lời tiên tri nào dạy chúng ta là không có hành động hay thái độ nào là
đúng hay là sai, trừ phi nằm trong hoàn cảnh thích hợp của nó.
Khi đi sâu hơn vào Tarot, chúng ta sẽ thấy rằng ý nghĩa về thời điểm thích hợp này lan tỏa
khắp các lá bài và thực tế nó là chiếc chìa khóa thực sự để sử dụng chúng một cách đúng
đắn. Lá bài trong bộ Rider rơi chính xác vào giữa ba dòng là lá Justice, có nghĩa là một sự
phản ứng thích đáng cho từng trường hợp.

THE MAGICIAN

Lá The Magician xuất hiện rất trực tiếp từ lá The Fool trong hình ảnh của một pháp sư – kẻ
lừa gạt. Như đã đề cập ở trên, Merlin thỏa mãn cả hai vai trò (cũng như vai trò thầy giáo và
nhà thông thái), và nhiều thần thoại khác cũng có sự kết nối tương tự. Trước kia các bộ bài
tarot vẽ lá chính số một giống một thầy phù thủy hơn là một người triệu hồi, hay thậm chí là
người tung hứng những quả bóng đủ màu trong không trung. Charles Williams mô tả anh ta
như một người tung hứng những vì sao và những hành tinh.
Những hình ảnh hiện đại nhất của lá chính này thì phỏng theo anh pháp sư của Waite, giơ
cao một gậy phép để mang sức mạnh tinh thần đến cho hiện thực – sức mạnh ở dạng sáng
tạo nhất của sự sống. Anh ta cầm cây gậy một cách cẩn thận, nhận thức được sức mạnh

15
tâm linh mà lá The Fool vốn mang trên vai mình một cách thật nhẹ nhàng. Do đó, lá The
Magician, chính xác là sự bắt đầu của bộ Ẩn Chính, đại diện cho ý thức, hành động và phản
ứng. Anh ta biểu trưng cho khái niệm về sự hiện hữu, tức là khiến cái gì đó biến thành hiện
thực từ những khả năng của cuộc sống. Do vậy, chúng ta thấy bốn biểu tượng của bộ Ẩn
Chính – nằm trên bàn trước mặt anh ta. Anh ta không chỉ dùng thế giới vật chất để tạo ra
phép thuật (bốn biểu tượng là tất cả các vật được các pháp sư dùng trong những nghi thức
của họ), mà anh ta còn tạo ra thế giới, theo nghĩa trao cho cuộc sống một ý nghĩa và
phương hướng.

Lá The Magician đứng giữa đám hoa lá để nhắc nhở chúng ta rằng sức mạnh xúc cảm và
sáng tạo chúng ta cảm thấy trong cuộc sống cần được chăm dưỡng trong thế giới vật chất
để ta có thể gặt hái được gì đó từ chúng. Nếu chúng ta không tạo thứ gì đó từ tiềm năng
của mình thì thứ đó không thực sự tồn tại.
“Ngay từ khởi đầu, Chúa đã tạo ra thiên đường và trái đất”. Kinh Thánh bắt đầu bằng
khoảnh khắc tinh thần hạ xuống thành hiện thực vật chất. Đối với chúng ta, trong thế giới
vật chất, chúng ta không thể nói điều gì đã diễn ra trước khoảnh khắc này. Trong sự kết
nối Tarot với bảng chữ cái Hebrew, lá The Fool thường nhận chữ cái đầu tiên Aleph.
(Aleph không có âm, nó mang những nguyên âm câm nên nó biểu trưng cho hư vô. Nó là
chữ cái đầu tiên của Mười Điều Răn). Điều này gán ký tự Hebrew thứ hai, Beth, chữ cái đầu
tiên có âm, cho lá The Magician. Beth là chữ cái đầu tiên của Sách Sáng Thế.
Hãy nhìn vào bức tranh của Waite vẽ lá The Magician. Anh ta không tạo bùa phép hay triệu
hồi quái thú. Anh ta chỉ đơn giản là đứng đấy với một tay nâng lên thiên đường và một tay
chỉ xuống đất xanh. Anh ta là một cây gậy thu lôi. Bằng cách hiến mình cho sức mạnh tâm
linh anh ta kéo nó xuống bản thân và rồi truyền sức mạnh đó xuống tay, giống như một cột
thu lôi vùi trong đất, đưa năng lượng vào trái đất. Vào hiện thực.  
Chúng ta thấy nhiều cách lý giải cho “sự giáng hạ của tinh thần” trong Kinh Thánh, trong
những kinh sách tôn giáo khác và trong những trải nghiệm tôn giáo đương thời. Người ta

16
“nói bằng lưỡi” trong các Giáo Hội Ngũ Tuần (Pentecostal Church), họ la khóc lăn lộn trên
sàn ở các buổi nhóm Phúc Âm. Vị linh mục ban thánh thể tự xem mình là một “mạch dẫn”
hay một kênh truyền dẫn của Chúa Thánh Linh (Holy Ghost). Nhưng ta cũng có thể xem xét
trải nghiệm này theo những mức độ đơn giản, phi tôn giáo hơn. Người ta run rẩy vì phấn
khích ở các sự kiện thể thao. “Tôi phấn kích đến mức có thể nổ tung!” Khi mở đầu một
chuyện yêu đương hay khởi đầu sự nghiệp, chúng ta cảm thấy sức lực tràn trề. Đôi khi bạn
có thể thấy thiên hạ ở ngưỡng bước vào những giai đoạn quan trọng của cuộc đời, nhịp
chân lên xuống, nhấp nhổm trên ghế, tràn đầy những nguồn năng lượng mà họ dường như
không thể phát tiết ra được. Và những nhà văn, họa sĩ, khi việc sáng tác của họ suôn sẻ, sẽ
thấy chính bản thân họ như những kênh truyền dẫn thụ động cho một sức mạnh giống như
bắt nguồn từ các vị thần. Từ “cảm hứng” (inspiration) ban đầu có nghĩa là “tràn đầy hơi thở
thiêng liêng”, và có cùng một gốc rễ với từ “tinh thần” (spirit).
Hãy chú ý rằng trong tất cả những ví dụ này vị linh mục và họa sĩ bị bắt lấy bởi một sự mê
loạn. Những người đi lễ nhà thờ sùng đạo và cậu thiếu niên sắp vỡ tung ở trận bóng đá
cùng chia sẻ một cảm giác rằng cơ thể họ đang tràn ngập một sức mạnh quá lớn lao. Sự
trào dâng năng lượng này có vẻ lại gây đau đớn chứ không dễ chịu chút nào. Con người
trong cơn cuồng tín la hét và nhảy nhót là để giải phóng một nguồn năng lượng mà họ
không thể chịu đựng nổi.
Sức mạnh sự sống lấp đầy vũ trụ vốn không dịu dàng hay lành tính. Nó phải được tuôn trào,
được truyền cho một cái gì đó có thực thể, bởi vì cơ thể chúng ta, bản ngã chúng ta, không
thể chứa đựng nó mà chỉ chuyển tiếp nó. Do đó, các họa sĩ không phát điên vì người ấy đã
chuyển sức mạnh đó vào bức vẽ. Tương tự các linh mục chuyển sức mạnh vào bánh mì và
rượu.
Chúng ta làm rất tốt vai trò của một kênh năng lượng. Nếu chúng ta không theo con đường
của The High Priestess rút khỏi thế giới, ta sẽ sống một cuộc đời có ý nghĩa nhất khi sáng
tạo hoặc chủ động. “Sáng tạo” không chỉ mang nghĩa nghệ thuật, mà còn là bất kỳ hoạt
động nào sản xuất ra một cái gì đó có thực và có giá trị nằm ngoài bản thân chúng ta.
Nhiều người trải nghiệm cảm giác có sức mạnh nhiều đến mức họ hiếm khi cố gắng giữ lấy
những cảm giác đó. Họ hi vọng giữ được những phút giây thần kỳ đó bằng cách không làm
gì cả. Nhưng chúng ta thực ra có thể giữ được sức mạnh của cuộc sống bằng cách liên tục
giải phóng nó. Bằng cách phóng ra sức mạnh sáng tạo chúng ta mở rộng bản thân để nhận
lấy những dòng sức mạnh khác. Tuy nhiên, nếu cố gắng nắm giữ nó, chúng ta sẽ khóa lại
những kênh truyền dẫn và ý thức về sức mạnh, thứ vốn tự thân nó đã mang sự sống, sẽ tàn
lụi đi bên trong chúng ta. Khán giả xem một trận bóng đá, thậm chí cả những người sùng
đạo đi lễ nhà thờ, sẽ thấy sự hào hứng của họ tắt đi sau khi sự kiện khai mào cho nó kết
thúc. Nhưng những người thợ  thủ công, những nhà khoa học hoặc những người thầy –

17
hoặc, trong trường hợp này, những người đọc bài Tarot – sẽ thấy sức mạnh tăng lên theo
năm tháng khi họ giải phóng nó ngày càng nhiều vào hiện thực hữu hình.
Khi nhìn vào lá The Magician, một vài người trong chúng ta, những ai cảm thấy có một sự
thiếu hụt hoặc trống trải trong cuộc sống sẽ bị cây gậy phép chĩa lên thiên đàng kia lôi kéo.
Nhưng phép thuật thực sự lại nằm ở ngón tay chỉ xuống mặt đất. Khả năng sáng tạo đã
khiến anh ta mang danh hiệu này. Hình ảnh của anh ta không chỉ rút ra từ kẻ lừa gạt-thầy
phù thủy mà còn từ một anh hùng nguyên mẫu. Trong nền văn hóa của chúng ta thì đó sẽ
là Prometheus, người đã mang lửa thiên đàng xuống cho loài người yếu ớt và lạnh lẽo.
Ở phương Tây chúng ta có xu hướng xem các pháp sư là những kẻ thao túng. Họ học
những kỹ thuật bí mật hoặc giao ước với Satan để có được quyền lực cá nhân. Đây là
những hình ảnh thứ cấp bắt nguồn một phần từ chính các pháp sư, bởi vì họ thực hiện
những bùa chú để tìm những kho báu bị chôn lấp, ngoài ra còn từ Nhà thờ, nơi xem những
pháp sư, những người giao ước trực tiếp với linh hồn thay vì thông qua giới giáo, là những
đối thủ cạnh tranh. Bài Tarot và tất cả những môn khoa học huyền bí đều thuộc về một cuộc
nổi dậy ý thức, bởi vì chúng truyền dạy một sự cứu rỗi trực tiếp, trong cuộc đời này, thông
qua những nỗ lực của chính bạn.
Chúng ta có thể có một ý nghĩa khác về lá The Magician thông qua hình ảnh của
các shaman hoặc dược sư. Bởi vì không một Nhà thờ có phân cấp nào trục xuất
các shaman nên họ không bị tách biệt khỏi cộng đồng. Họ đóng vai trò như những người
chữa bệnh, thầy giáo, và người dẫn đường cho các linh hồn sau khi chết. Giống như những
pháp sư, các shaman nghiên cứu và học tập những kỹ thuật phức tạp. Vốn từ vựng ma
thuật của họ thường lớn hơn từ vựng thường ngày của những người xung quanh. Tuy
nhiên, không một phép thuật nào được dùng để thao túng tinh thần hoặc sử dụng cho mục
đích cá nhân. Hơn nữa, shaman chỉ tìm kiếm con đường để trở thành một kênh truyền dẫn
đích thực, cho chính bản thân ông ta để ông ta không bị quá tải và cho cả động đồng để ông
ta có thể phục vụ họ tốt hơn. Ông biết sức mạnh to lớn sẽ nhập vào mình trong những
khoảnh khắc ngất ngây và ông muốn đảm bảo nó sẽ không hủy hoại ông và khiến ông trở
nên vô dụng với những người xung quanh.
Giống như pháp sư, một shaman cũng phát triển ý chí của mình đến một mức mà ông ta có
thể chi phối ngọn lửa đã chiếm lấy mình. Cùng lúc ông cũng để mở bản thân, cho phép cái
tôi cá nhân tan ra dưới sự tấn công dữ dội của tinh thần, trong khi đó, có gì đó liên quan đến
văn hóa của chúng ta khiến các pháp sư phải đứng trong vòng tròn phép thuật để đảm bảo
quỷ dữ không thể chạm đến họ.
Chúng ta có thể gán quan điểm shaman vào cách dùng bộ Tarot của mình. Chúng ta nghiên
cứu các lá bài, học ngôn ngữ biểu tượng, thậm chí là các công thức đặc biệt, để điều khiển
những cảm giác khuấy động bên trong chúng ta. Lá bài này mang ý nghĩa đầu tiên về một
sự nhận thức đối với sức mạnh trong cuộc sống chúng ta, về tinh thần hoặc một nỗi kích

18
thích đơn giản ám ảnh mình. Tùy vào vị trí của lá bài và các phản ứng của bạn mà nó cũng
có thể có nghĩa rằng sức mạnh của ai đó đang ảnh hưởng lên bạn. Giống như lá The Fool,
lá bài nói đến sự bắt đầu, nhưng ở đây là những bước đầu tiên thực sự. Nó có thể vừa
mang nghĩa gợi cảm hứng để bắt đầu một dự án mới hay một giai đoạn cuộc đời, vừa mang
nghĩa sự hào hứng sẽ chống đỡ bạn qua những gian khó để đạt được mục tiêu. Đối với
nhiều người, lá The Magician có thể trở thành một biểu tượng cá nhân mạnh mẽ cho những
sức mạnh sáng tạo xuyên suốt cuộc đời họ.
Thứ hai, The Magician nghĩa là sức mạnh ý chí, cái ý chí thống nhất và hướng đến mục
tiêu. Nó nghĩa là có một sức mạnh to lớn bởi vì tất cả năng lượng của bạn được hướng
theo một hướng nhất định. Những người dường như luôn có được thứ mà họ muốn trong
đời thường là những người biết họ muốn gì và có thể định hướng được năng lượng của
họ. The Magician dạy chúng ta rằng cả sức mạnh ý chí lẫn những thành công đều bắt
nguồn từ việc nhận thức được sức mạnh có sẵn trong mỗi người. Hầu hết những người hay
phản ứng chứ hiếm khi hành động thì thường bị hạ gục bởi hết trải nghiệm này đến trải
nghiệm khác. Hành động tức là định hướng sức mạnh của bạn, thông qua ý chí, đến những
nơi mà bạn muốn nó đến.  
Lá The Magician ở vị trí ngược biểu hiện rằng trong một vài trường hợp dòng chảy năng
lượng thực sự đã bị gián đoạn hoặc ngăn trở. Nó có thể mang nghĩa một sự yếu đuối, một
sự thiếu ý chí hoặc một sự bối rối về mục đích dẫn đến việc chẳng làm gì cả. Sức mạnh vẫn
ở đó nhưng chúng ta không thể chạm vào nó được. Lá bài ngược có thể mang nghĩa sự
lãnh đạm thờ ơ biểu thị sự đình trệ.
Lá bài chính ngược cũng có thể nghĩa là sức mạnh bị lạm dụng, một người đã dùng tính
cách mạnh mẽ của anh ta hay cô ta để gây ảnh hưởng tiêu cực lên người khác. Ví dụ trực
tiếp nhất của trường hợp này tất nhiên là sự xâm chiếm về tâm linh của “ma thuật”.
Cuối cùng, lá Magician ngược biểu thị một sự bất an về tinh thần, các ảo giác, nỗi sợ và đặc
biệt là sự sợ hãi của chứng điên. Vấn đề này xảy ra khi năng lượng hay ngọn lửa thần
thánh nhập vào một người không biết cách hướng nó ra ngoài đời thực. Nếu chúng ta
không truyền được tia chớp này xuống đất, nó có thể bị mắc kẹt trong thân thể và cưỡng ép
nó vào nhận thức của chúng ta dưới dạng những bất an lo lắng hay những ảo giác. Bất cứ
ai đã từng trải qua những phút giây hoảng loạn hoàn toàn sẽ biết rằng một sự âu lo sâu sắc
về tinh thần thực sự là một trải nghiệm của cơ thể, cảm giác cơ thể trở nên hoang dại, như
một trận hỏa hoạn vượt tầm kiểm soát. Từ “hoảng loạn” có nghĩa “bị ám bởi thần Pan”, một
biểu tượng của sức mạnh đầy ma lực.
Hãy nghĩ về cây cột thu lôi một lần nữa. Nó không chỉ thu hút sét mà còn chạy vào lòng đất.
Không có sự kết nối này với trái đất thì sét sẽ thiêu rụi căn nhà.
Một vài tác giả từng nêu ý kiến về mối quan hệ giữ sharman giáo và cái mà người phương
Tây gọi là “bệnh tâm thần phân liệt” (schizophrenia). Các sharman thường được tìm thấy

19
hơn là được chọn lựa. Nếu, trong nền văn hóa của chúng ta, một người trẻ tuổi trải nhiệm
những ảo ảnh, những ảo giác đáng sợ, chúng ta sẽ không biết phải làm gì với những trải
nghiệm này ngoài việc cố gắng dừng chúng lại bằng thuốc và sự tự kiểm soát. Nhưng ở
những nền văn hóa khác, những người như vậy sẽ được bồi dưỡng. Điều này không nói lên
rằng chứng điên loạn không tồn tại hay không được nhận biết trong các nền văn hóa cổ
xưa. Đúng hơn, bồi dưỡng có nghĩa là để ngăn chứng điên bằng cách dẫn truyền những trải
nghiệm đó theo một hướng hữu ích.
Thông qua nghiên cứu với một sharman chính thức và thông qua những kỹ thuật thể chất
như nhịn ăn, những người đã được khai tâm học cách để hiểu, kiến tạo và cuối cùng là đưa
những trải nghiệm hư ảo đó theo hướng phục vụ cộng đồng. Lá The Magician ngược không
nên bị bỏ đi hay hạn chế, thay vào đó, chúng ta phải tìm cách để lật xuôi nó lại.

THE HIGH PRIESTESS

Bill Butler, trong cuốn The Definitive Tarot đã nêu ý kiến về các nguồn gốc huyền thoại-lịch
sử của nguyên mẫu nữ này. Suốt thời Trung cổ tương truyền rằng có một người phụ nữ
từng được bầu làm Giáo Hoàng. Sau nhiều năm cải trang làm nam giới, người được xem là
“Giáo hoàng Joan” này đã vượt qua hệ thống cấp bậc Nhà thờ để lên đến vị trí cao nhất, và
chỉ qua đời khi sinh một đứa trẻ trong lễ Phục Sinh.

Giáo Hoàng Joan gần như là một huyền thoại nhưng các nữ Giáo Hoàng Visconti thì là thật.
Vào cuối thế kỷ mười ba một nhóm người Ý được gọi là Guglielmite tin rằng người sáng lập
của họ, Guglielma của Bohemia, người đã chết năm 1281, sẽ sống lại vào năm 1300 và mở
ra một kỷ nguyên mới với phái nữ làm giáo hoàng. Họ đi tiên phong bằng cách bầu một
người phụ nữ tên Manfreda Visconti làm nữ giáo hoàng đầu tiên. Nhà thờ đã kiên quyết
chấm dứt dị giáo này bằng cách hỏa thiêu Sơ Manfreda vào năm 1300, năm được cho là
bắt đầu kỷ nguyên mới. Vài trăm năm sau cũng nhà Visconti ấy đã đặt làm bộ bài Tarot đầu
tiên như ta biết. Trong những lá chính không số và không tên đó xuất hiện một bức vẽ một
người phụ nữ mà những bộ bài sau đã đặt tên là “Nữ Giáo Hoàng”.

Cái tên giữ nguyên như vậy cho đến thế kỷ mười tám khi Bá tước Gebelin, người tin
rằng Tarot bắt nguồn từ tôn giáo thờ thần Isis của Ai Cập cổ, đã đổi nó thành The High
Priestess (Nữ Tư Tế). Ngày nay cả hai cái tên đều tồn tại (cũng như “Isis Che Mạng”), và
hình ảnh Waite của lá này bắt nguồn trực tiếp từ trang phục tượng trưng của nữ tư tế Isis,
đặc biệt là chiếc vương miện đại diện cho ba giai đoạn của mặt trăng.

20
Huyền thoại Giáo Hoàng Joan và Manfreda Visconti không đơn giản là những chuyện lạ
mang tính lịch sử. Chúng minh họa cho một sự phát triển xã hội lớn trong thời Trung cổ, sự
tái khởi đầu cho phái nữ và các nguyên tắc nữ giới trong tôn giáo và vũ trụ học. Những hình
ảnh và ý niệm đi kèm với vai trò của nam giới đã thống trị cả Nhà thờ lẫn Do Thái giáo hàng
thế kỷ. Kết quả là người bình thường nhìn nhận tôn giáo của các linh mục và các giáo sĩ là
những gì xa cách, khó khăn và không thể tiếp cận được, với sự nhấn mạnh của họ đối với
tội lỗi, sự phán xét và trừng phạt. Người bình thường muốn các phẩm chất về lòng trắc ẩn
và tình yêu. Và họ đồng nhất những phẩm chất này với phụ nữ. Như một người mẹ che chở
con của bà khỏi những thứ như sự nghiêm khắc lãnh đạm của người cha, một thánh nữ giả
sử sẽ xâm nhập để những kẻ tội lỗi đã cảm hóa có thể chống chọi được trước những phán
xét không khoan nhượng từ Đức Cha.
Thật thú vị khi nhận ra rằng theo nhiều phương diện Nhà thờ đã xem Christ, Đức Chúa Con,
chính xác với vai trò mang đến tình yêu và lòng từ bi này. Tuy nhiên, người ta đòi hỏi một
người phụ nữ thực sự. Thậm chí quan niệm về Nhà thờ như một “Nhà thờ Mẫu” (Mother
Church) cũng không đủ đáp ứng. Cuối cùng, Nhà thờ cũng đầu hàng bằng cách nâng Đức
Mẹ Đồng Trinh Mary lên một cấp gần như là ngang với chính bản thân Christ.
Nhiều tác giả và học giả tin rằng sự nâng cấp của Mary – cũng như trang phục váy dài của
các linh mục – bắt nguồn từ mong muốn đồng hóa tôn giáo thờ nữ thần đã bám rễ từ thời
tiền Thiên Chúa của Nhà thờ. Nếu thật như vậy thì điều này sẽ cho thấy chủ nghĩa bảo tồn
văn hóa không quyền lực bằng nguyên mẫu nữ để có thể duy trì một sự vững vàng và một
chiến thắng thiên vị trước những cấm đoán.
Trong Do Thái giáo, tôn giáo chính thống của các giáo sĩ xoay sở để chống lại bất kỳ một
phong trào nữ quyền nào trỗi dậy. Nhu cầu của người dân, tuy nhiên, lại vững bền ở một
lĩnh vực khác: truyền thống lâu dài của Qabalah. Những người theo Qabalah lấy một cụm từ
từ bộ luật của người Do Thái (Talmud), “Shekinah”, có nghĩa là tuyên ngôn vinh quang của
Chúa ở thế giới vật chất, và sửa nó thành bản ngã của Chúa, hay là phần nữ tính. Những
người theo Qabalah cũng sửa quan niệm về Adam, biến anh ta thành nguyên gốc là người

21
lưỡng tính. Sự phân tách Eve khỏi Adam, và cả sự phân tách Shekinah khỏi Chúa, trở
thành nguyên nhân của Sa Ngã (Fall); việc thiếu vắng tính nữ trong các tôn giáo chính
thống gần như trở thành vấn đề tội lỗi chứ không phải là trong trắng.
Xa hơn ta đã thấy phẩm chất người mẹ nhân từ của những hình tượng nữ giới thần thoại.
Tuy nhiên, về mặt lịch sử, các nữ thần cũng luôn thể hiện mặt tăm tối, bị che giấu. Giới thiệu
đến toàn bộ tính nữ là giới thiệu đến cả nguyên mẫu. Tarot chia nguyên mẫu nữ thành hai lá
chính và thực sự là đã ấn định các phẩm chất nhân hậu cho lá thứ hai (tức lá chính số 3),
lá The Empress. Tự thân lá The High Priestess đại diện cho một mặt sâu hơn, huyền ảo
hơn của nữ giới, là mặt thuộc về bóng tối, mặt huyền bí và mặt bị ẩn giấu. Bởi vậy, nàng kết
nối với mặt trinh trắng của Mary Đồng Trinh, mặt con gái trong trắng của Shekinah (người
đồng thời được mô tả là mẹ, vợ và con gái).
Chúng ta nên nhận ra rằng sự ấn định phẩm chất này cho phụ nữ phần lớn là từ phái nam
và các quan niệm nam giới. Những người theo Qabalah, những nhà huyền bí, và những
nhà thiết kếTarot, tất cả đều thương hại cho sự phân loại đàn ông và đàn bà và họ truyền
dạy sự thống nhất như một thành tựu cuối cùng. Điều này thể hiện trong lá The World
Dancer của bài Tarot. Họ đã vượt trội hơn các tôn giáo có hệ thống vốn còn đang tranh cãi
liệu rốt cuộc phụ nữ có linh hồn hay không. Tuy vậy, đàn ông vẫn thực hiện các phân loại.
Đối với đàn ông, phụ nữ luôn luôn xuất hiện một cách bí ẩn, kỳ lạ và, khi an toàn trong vai
trò người mẹ thì đầy tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Phụ nữ dường như rất lạ lùng đối với
đàn ông, huyền ảo hơn trong suy nghĩ của họ và phi lý trí. Trong thời đại của chúng ta, các
tiểu thuyết và phim ảnh nối tiếp nhau mô tả những người đàn ông đơn giản bị những người
phụ nữ gian xảo thao túng.
Việc chu kỳ kinh nguyệt kéo dài theo kỳ trăng kết nối phụ nữ với vật thể màu bạc xa xôi ấy.
Tự bản thân kinh nguyệt, tức sự chảy máu liên tục từ cơ quan sinh dục, không gây thiệt hại
về mạng sống, đơn giản đã dọa đàn ông sợ khiếp hàng thế kỷ. Thậm chí ngày nay những
người Do Thái mê tín còn tin rằng một giọt máu kinh có thể làm chết một cái cây. Xa hơn,
sự bí ẩn đáng sợ của việc sinh nở đã nối phụ nữ với quan niệm về bóng tối. Bào thai lớn lên
và linh hồn nhập vào nó trong bóng tối ấm áp ẩm ướt của tử cung. Tính mẫu nối phụ nữ với
đất đai, và ở đó bóng tối cũng thống trị. Hạt giống nằm trong đất qua mùa đông tối tăm chết
chóc, để vươn thành thực phẩm dưới những tia nắng ấm áp đầy an ủi của mặt trời, vốn,
trong nhiều nền văn hóa, được xem như nam giới.
Cũng như ánh mặt trời thâm nhập vào lòng đất, nam giới cũng thâm nhập vào nữ giới và để
lại một hạt giống trong tử cung thần bí của nàng. Chúng ta có thể dễ dàng thấy cách đàn
ông tự xem mình là chủ động và xem phụ nữ vừa là bị động vừa là bí ẩn. Người ta thường
nối bị động với “tiêu cực” hoặc bị động là hướng nội và yếu ớt. Nhưng bị động mang sức
mạnh riêng của nó. Nó cho tâm trí cơ hội để hoạt động. Những người chỉ biết đến hành
động không bao giờ có cơ hội để xem xem những hành động đó đã dạy họ những gì. Trong

22
một nghĩa sâu xa hơn, bị động cho phép tiềm thức phát triển. Chỉ bằng cách rút khỏi những
ảnh hưởng từ bên ngoài thì chúng ta mới có thể cho phép tiếng nói từ bên trong của sức
tưởng tượng và các sức mạnh tinh thần nói với mình. Chính xác là để tránh đi tiếng nói bên
trong này mà nhiều người đã không bao giờ ngừng hành động và vận động. Xã hội của
chúng ta, hoàn toàn lấy các thành tựu bên ngoài làm nền tảng, nuôi dưỡng một nỗi khiếp sợ
đối với tiềm thức, tuy nhiên nếu không có sự thông tuệ của tiềm thức ta sẽ không bao giờ
hoàn toàn hiểu bản thân hay thế giới.
Lá The High Priestess đại diện cho tất cả những phẩm chất này: bóng tối, sự bí ẩn, các sức
mạnh tinh thần, quyền năng của mặt trăng khuấy động tiềm thức, sự thụ động và những tri
thức nhận được từ nó. Tri thức này không thể diễn tả bằng lời lẽ lý trí; cố gắng làm thế sẽ
ngay lập tức giới hạn, thu hẹp và làm nó méo mó đi. Hầu hết mọi người đôi lúc sẽ thấy như
họ đã hiểu ra một điều gì đó theo một cách thức sâu xa mà họ không thể nào giải thích
được. Thần thoại giống như các phép ẩn dụ của các cảm giác tinh thần sâu sắc. Tuy nhiên
bản thân thần thoại, giống như những giải nghĩa do các nhà thần học và các nhà nhân loại
học đưa ra, chỉ là các biểu tượng. The High Priestess biểu thị cho tri thức bên trong ở mức
độ sâu nhất của nó.
Nàng ngồi giữa hai cây cột, đại diện cho cả đền thờ Isis lẫn đền thờ Hebrew cổ
ở Jerusalem, nơi trú ngụ của Chúa ở nhân gian, hay nói cách khác, là nhà của Shekinah.
Một tấm màn treo giữa hai cây cột, cho thấy nó ngăn ta đi vào địa phận của tri thức. Hình
ảnh đền thờ được phủ màn hoặc hình ảnh chốn tôn nghiêm đã xuất hiện trong nhiều tôn
giáo. Người ta bảo chắc chắn Shenikah ngụ trong rương chứa pháp điển được phủ màn
của đền thờ.
Ngày nay, hầu hết mọi người đều vờ rằng chúng ta bị cấm đi qua các cây cột của lá The
High Priestess. Thực tế đơn giản là ta không biết cách thôi. Bước vào sau tấm màn tức là
sẽ biết được một cách ý thức những tri thức phi lý tính của vô thức. Đây là mục đích của cả
bộ Ẩn Chính. Hãy quan sát cẩn thận bức vẽ của Smith. Bạn có thể thấy những gì nằm sau
tấm màn bằng cách nhìn vào khoảng giữa tấm màn và những cây cột. Và thứ nằm phía sau
đó là nước. Không phải là đền đài hùng vĩ hay những biểu tượng phức tạp mà chỉ đơn giản
là một hồ nước, một dãy những ngọn đồi và bầu trời. Hồ nước biểu trưng cho vô thức và sự
thật bị che dấu ở đó. Nước tĩnh lặng, những bí mật nằm trong lòng sâu thẳm tối tăm nhất
của nó, ẩn dưới bề mặt phẳng lặng. Đối với hầu hết chúng ta, vào hầu hết thời gian, tiềm
thức hỗn loạn vẫn nằm ẩn dưới lớp ý thức điềm tĩnh. Chúng ta không thể bước vào đền thờ
bởi vì chúng ta không biết cách làm sao để tự đi vào; do đó ta phải du hành qua các lá chính
cho tới khi ta chạm đến lá The Star và lá The Moon, đến nơi mà ta cuối cùng cũng có thể
khuấy động nước và quay về ánh sáng ý thức của lá The Sun cùng với tri thức (mà ta đã
nhận được – ND).

23
Đền thờ bắt đầu cho hình ảnh của hai cây cột, và chủ đề lưỡng phân và đối lập. Hình ảnh
này xuất hiện vài lần nữa suốt các lá chính ở những nơi rõ ràng như cột nhà thờ của lá The
Hierophant hay hai tòa tháp của lá The Moon (hai cây cột của lá The High Priestess nhìn từ
phía bên kia), nhưng cũng theo những cách mơ hồ hơn như hai con nhân sư của lá The
Chariot, hay người đàn ông và người phụ nữ của lá The Lovers. Cuối cùng, lá Judgement,
với đứa trẻ đứng giữa người đàn ông và người phụ nữ, và lá The World, cầm hai cây gậy,
giải quyết sự lưỡng phân bằng cách thống nhất những bí ẩn bên trong với sự nhận thức
bên ngoài.   
Các chữ cái “B” và “J” tượng trưng cho Boaz và Jakin, những cái tên được đặt cho hai cây
cột chính của đền thờ ở Jerusalem. Rõ ràng là cột Boaz đen tượng trưng cho sự thụ động
và những điều bí ẩn trong khi cột Jakin biểu trưng cho chủ động và sự ý thức. Mặc dù vậy,
hãy chú ý rằng các chữ cái mang dấu hiệu ngược lại, chữ B trắng và chữ J đen. Giống như
các chấm tròn trong biểu tượng âm-dương, các chữ cái biểu thị rằng sự phân cực là một ảo
ảnh, và cực này thì chứa cực kia ẩn bên trong nó.
Trong lòng nàng, nàng giữ một cuộn giấy có chữ “Tora”. Cái tên này quy chiếu đến bộ luật
Do Thái, bộ Ngũ Thư của Moses (the Five Books of Moses), vốn thường được đánh vần là
“Torah” trong tiếng Anh.  Cách đánh vần đặc thù cho phép từ này thực hiện đảo chữ thành
từ “Taro”. Như vấn đề cơ bản của cả phái thiền Qabalah (giống như sự đóng đinh
Chúa Jesus đối với những bí ẩn của Thiên Chúa giáo) kinh Torah liên quan lớn đến những ý
nghĩa mang tính bí truyền. Những người theo Qabalah tin rằng kinhTorah được đọc vào các
sáng thứ Bảy ở các giáo đường chỉ là một bản đại diện, một kiểu phần bóng của
bản Torah thật, của những lời sống động của Chúa tồn tại trước cả vũ trụ và chứa đựng bên
trong nó tất cả những tồn tại thực sự. Kinh Tora được The High Priestess giữ, cuộn lại và ẩn
một phần bên trong áo choàng của nàng, do vậy cho thấy một kiến thức cao hơn gần gũi
với chúng ta cùng sự hiểu biết thấp hơn của chúng ta. Ta cũng có thể mô tả nó như những
sự thật tâm linh hiển hiện cho chúng ta nhưng chỉ là dưới dạng đã bị méo mó đi của những
câu chuyện thần thoại và những giấc mơ.
Phần trước ta đã nói về việc lá The Fool đến vào những thời khắc quyết yếu của sự thay đổi
để thúc đẩy ta. Khoảng cách giữa lá The High Priestess và lá The Empress là một dạng thời
khắc như vậy. Chúng ta cũng dễ dàng bị sự trầm tĩnh tối tăm của lá chính thứ hai quyến rũ,
thậm chí là khi ta không bao giờ thực sự xâm nhập vào những bí mật của nó. Một người bắt
đầu sự kỷ luật về tâm linh thường thích ở một mức độ vô thực hơn là trải qua việc tập luyện
chậm chạp khó nhọc nhưng cần thiết để tiến bộ. Nhiều người ở những tình huống bình
thường hơn sẽ thấy cuộc sống quá nặng nề, quá rộng lớn và nhiều đòi hỏi, quá khó để họ
có thể tham gia vào. Ta có thể tốt nhất là dùng sự thụ động của The High Priestess như một
sự cân bằng với thái độ trưng ra cho thiên hạ thấy của lá The Magician, nhưng nhiều người
lại thấy phần thụ động cực kỳ thu hút. Nó đại diện cho một câu trả lời để cố gắng đạt tới,

24
một sự rút lui yên lặng thay vì ánh sáng gay gắt của việc tự phát giác bản thân khi ta chủ
động cởi mở hòa mình cùng những người khác.   
Nhưng tinh thần con người không hoạt động như thế. Nó yêu cầu những đam mê và nó cần
phải nối kết chính nó với thế giới. Ovid bèn kể câu chuyện về Actaeon, một thợ săn, và do
đó là một hình tượng của những kẻ chắc hẳn đã thuộc về thế giới của hành động. Một ngày
nọ anh ta bỗng thấy một dòng suối và quyết định men theo nó đến tận nguồn (một lần nữa,
nước là biểu tượng của vô thức). Bởi vậy anh ta bị tách khỏi bầy chó của mình và những
thợ săn khác, và khi anh đến được nguồn suối, cách xa khỏi thế giới náo nhiệt, anh thấy
những nàng trinh nữ. Giữa bọn họ, trần truồng đứng đó một vị nữ thần trinh trắng, Diana.
Lúc bấy giờ, nếu Actaeon lập tức quay lại thế giới bên ngoài anh sẽ thấy cuộc đời mình thật
phong phú. Thay vì vậy, anh lại để sắc đẹp của Diana mê hoặc; anh đã đứng đó quá lâu và
vị nữ thần, nhận thấy người đàn ông đã thấy sự trần trụi của nàng (hãy so sánh những lớp
áo của The High Priestess với sự khỏa thân của người con gái của lá The Star) liền
biến Actaeon thành một con hươu đực. Khi anh chạy trốn, khiếp hãi, bầy chó của anh đã xé
anh thành từng mảnh.
Ở đây lá The Fool tiến vào (và hãy nhớ lại chú chó của Fool, nhảy nhót bên cạnh anh), nhắc
chúng ta hãy nhảy múa khỏi cả hai ảo tượng này, lá The Magician cũng như lá The High
Priestess, cho đến khi ta thực sự sẵn sàng đồng hóa chúng.
Những ý nghĩa tiên đoán của The High Priestess liên quan đầu tiên đến cảm nhận về những
bí ẩn của cuộc sống, cả những thứ ta không biết và những thứ ta không thể biết. Nó cho
thấy một cảm nhận về bóng tối, đôi lúc giống như phần sợ hãi trong cuộc sống của chúng
ta, nhưng đôi lúc lại là phần xinh đẹp. Giai đoạn rút lui bị động có thể làm cuộc sống chúng
ta thêm giàu đẹp bằng cách cho phép những thứ bên trong thức tỉnh.
Như một tượng trưng cho những kiến thức bí mật, lá chính này biểu hiện cảm giác về một
sự thấu hiểu câu trả lời của một vấn đề vĩ đại nào đó bằng trực giác, chỉ khi ta diễn đạt câu
trả lời đó một cách có ý thức. Đặc biệt hơn, lá bài có thể quy chiếu đến những ảo ảnh và
đến những sức mạnh huyền bí hay tâm lý, như là sự tiên tri.
Trong khía cạnh động nhất của nó, lá The High Priestess biểu thị những tiềm năng trong
cuộc sống của chúng ta – những khả năng rất mạnh mẽ mà ta đã không nhận thấy, dù ta có
thể cảm nhận được chúng. Bước tiếp theo phải là hành động hoặc tiềm năng sẽ không bao
giờ được nhận ra.
Ngược với sự thông tuệ sâu sắc của mình, lá bài đôi lúc có thể mang nghĩa tiêu cực. Giống
như hầu hết các lá chính, giá trị của lá The High Priestess tùy thuộc vào nội dung của
những lá bài khác. Xét theo mặt tiêu cực, lá chính này cho thấy sự thụ động vào sai thời
điểm hoặc đã kéo dài quá lâu, dẫn đến sự yếu đuối, sợ hãi cuộc đời và những người khác.
Nó thể hiện một người có trực giác mạnh nhưng không thể biến cảm giác thành hành động,
hay một người sợ mở lòng với người khác. Dù là khía cạnh tốt hay xấu của lá bài xuất hiện

25
trong một thế bài đặc thù thì nó cũng tùy thuộc vào những lá xung quanh và tất nhiên là vào
trực giác của người đọc bài (chúng ta là một phần của lá The High Priestess mỗi khi ta đọc
các lá bài). Việc viện đến cả hai nghĩa thì rất thường thấy. Con người có nhiều hơn một mặt
mà.  
Lá The High Priestess là một nguyên mẫu, một bức tranh đơn lẻ mang nghĩa của một khía
cạnh của sự tồn tại. Khi lật ngược nó tức là ta đã mang đến những phẩm chất bị mất. Lá bài
ngược biểu thị một sự xoay chuyển hướng đến đam mê, hướng đến một sự tham gia sâu
rộng vào cuộc sống và với những người khác, trong tất cả mọi lĩnh vực từ cảm xúc, tình dục
đến cạnh tranh. Tuy nhiên, quả lắc có thể lắc quá xa, và rồi lá bài ngược có thể biểu trưng
cho sự mất mát hầu hết những kiến thức quý báu đó: sự cảm nhận bản ngã bên trong của
chúng ta. 

CHƯƠNG IV: CHUỖI VẬT CHẤT

BỘ ẤN CHÍNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN

Dòng đầu tiên của bộ Ẩn Chính đưa ta qua tiến trình trưởng thành. Nó cho thấy các giai
đoạn lớn lên của một người từ lúc là một đứa trẻ luôn được mẹ yêu thương và được cha
thể hiện quyền lực thông qua giáo dục đến khi trở thành một cá thể độc lập. Cùng lúc những
lá bài cũng liên quan đến một sự phát triển rộng hơn mà so với nó sự phát triển cá nhân chỉ
là vi mô. Chúng mô tả sự tạo lập xã hội loài người, bên ngoài cả những nguyên mẫu của tồn
tại và năng lượng hỗn độn của tự nhiên.
Khi chúng làm hình mẫu cho cả bộ bài, lá The Magician và lá The High Priestess tham gia
một cách rất đặc biệt vào dòng đầu tiên. Sự vận động giữa các mặt đối lập là nhịp điệu cơ
bản của thế giới vật chất. Không gì tồn tại độc lập một cách tự nhiên. Ursula Le Guin có nói,
“Ánh sáng là tay trái của bóng tối và bóng tối là tay phải của ánh sáng”. Khi chúng ta chuyển
từ hai mẫu này sang lá The Empress, ta thấy các mặt đối lập hòa quyện với nhau một cách
tự nhiên để tạo ra thực thể của vũ trụ vật chất.  
Ba lá bài ở giữa dòng là một nhóm. Chúng cho ta thấy một bộ ba gồm tự nhiên, xã hội và
giáo hội. Chúng cũng biểu thị cho người mẹ, người cha và giáo dục. Ở Ai Cập cổ thánh thần
thường được xem như một bộ ba. Bộ ba này thay đổi qua không gian và thời gian, nhưng
chúng thường là một nữ và hai nam, với người nữ được xem là quan trọng nhất.
Trong Tarot, tự nhiên, được biểu trưng bởi lá The Empress, là thực tế mang tính nền tảng,

26
trong khi những đồng hành của bà, biểu trưng bởi lá The Emperor và lá The Hierophant, là
những thiết chế con người.
Hai lá bài cuối của dòng này đại diện cho những vấn đề của một cá nhân, tình yêu và nỗi
đau buồn, đầu hàng và ý chí. Tại một vài thời điểm mỗi người chúng ta phải học cách ngụy
trang bản thân với thế giới bên ngoài. Trước thời điểm ấy, nhân cách vẫn là một tạo tác mơ
hồ chưa thành hình của cha mẹ và xã hội. Những người không bao giờ tách khỏi cha mẹ sẽ
trở nên xa rời cuộc sống. Đối với hầu hết mọi người mức trung bình mà nhờ nó họ tách khỏi
cha mẹ họ là những phát triển (những người theo học thuyết Freud và có lẽ cả những nhà
huyền học sẽ gọi là “tái phát triển” [re-emergence]) của xu hướng tình dục ở tuổi dậy thì.
Không hề tình cờ khi những đứa trẻ nổi loạn với cha mẹ trong suy nghĩ, thói quen và cách
ăn mặc cùng lúc với khi cơ thể chúng trưởng thành.
Sự phát triển nhân cách chỉ là một phần của việc lớn lên. Mỗi người phải tìm cho mình mục
đích và thành tựu riêng. Cùng lúc sớm hoặc muộn người đó sẽ đối mặt với những muộn
phiền, đau ốm và những yếu đuối chung chung của cuộc sống bị tuổi già và cái chết chi
phối. Chỉ khi ta thấu hiểu hoàn toàn cuộc sống bên ngoài của nhân loại thì ta mới có thể hi
vọng chạm được những phần bên trong để đến với một thực tế sâu xa hơn.

THE EMPRESS

Như đã nói ở chương trước, lá bài The Empress đại diện cho những khía cạnh dễ tiếp cận
hơn, nhân hậu hơn của nguyên mẫu nữ. Bà là tình mẫu tử, tình yêu, sự dịu dàng. Cùng lúc,
bà biểu thị cho tính dục, cảm xúc và tính làm chủ của nữ giới. Cả tính mẫu và tình dục đều
bắt nguồn từ những cảm giác phi lý tính và là điều cơ bản của cuộc sống. Là những đam
mê hơn là lý trí. Lá The High Priestess đại diện cho mặt tinh thần của nguyên mẫu nữ; sự
thấu hiểu bằng trực giác sâu thẳm của nàng. Lá The Empress thì thuần cảm xúc.

Giống như Người Đàn Bà Xảo Trá (Cunning Woman), chúng ta thấy hình ảnh nàng phản
ánh trong điện ảnh và tiểu thuyết như một người nữ luôn gây chuyện, một người vừa hay
thất vọng vừa nhiều ham thích, bởi vì suy nghĩ của nàng không theo phát triển lý tính. Nhiều
người phụ nữ thấy hình ảnh này là một sự xúc phạm, một phần bởi vì nó đại diện cho

27
những giá trị và cách tiếp cận bị xã hội gia trưởng của chúng ta đánh giá là tiêu cực, và một
phần vì người ta thường phạm lỗi khi cho rằng đàn ông và đàn bà nên thể hiện những quan
niệm nguyên mẫu này theo cá nhân. Nhưng những hình ảnh xã hội cũng đang lụn bại đi
theo một cách khác. Chúng thật tầm thường. Lá The Empress, cùng với những hình ảnh
thần thoại tương ứng như Aphrodite, Ishtar hoặc Erzulie, đại diện cho một cái gì đó cao quý
hơn nhiều. Họ biểu thị cho sự đam mê hướng tới cuộc sống. Họ cho đi và tiếp nhận trải
nghiệm với những cảm xúc không hề kiểm soát.
Cho đến khi ta học được cách trải nghiệm hoàn toàn cuộc sống bên ngoài thì ta mới có thể
hi vọng vượt qua được nó. Do đó bước đầu tiên đến sự khai sáng là cảm xúc khoái lạc. Chỉ
thông qua nỗi đam mê, ta mới có thể cảm nhận, từ tận sâu bên trong chứ không phải từ
những tranh luận trí óc, cái tinh thần lấp đầy mọi sự tồn tại.
Nhiều người xem tôn giáo như một sự thay thế cho thế giới tự nhiên, thế giới mà họ theo
cách nào đó lại thấy không trong sạch hoặc dơ bẩn. Dù những truyền thống văn hóa của
chúng ta vay mượn tính hai mặt này, đó thực sự là một ảo ảnh vô thực, và người hướng
đến sự duy linh bằng cách này để trốn chạy sẽ gần như không bao giờ đạt được một sự
giác ngộ. Cơ thể, và thế giới tự nhiên, là những thực thể phải được kết hợp với nhau hơn là
bị chối từ.
Trong thần thoại Phật giáo ta thấy rằng các vị thần đã thao túng cha của thái
tử Siddhartha để ông cho con trai mình, Gautama, mọi thỏa mãn xác thịt. Người cha tin rằng
những khoái lạc sẽ ngăn con trai ông từ bỏ thế giới và trở thành một vị Phật. Ý đồ này đã
phản tác dụng, vì ngay sau khi trải nghiệm hết những lạc thú thái tử đã có thể đặt chúng lại
phía sau. Sau khi từ bỏ thế giới,Gautama đã tu khổ hạnh, một thái cực khác (đối lập với
những hoan lạc – ND). Nhưng ngài chạm tới sự khai sáng chỉ khi ngài từ bỏ hai điều thái
quá để đến với Trung Đạo (Middle Way). Vì thế, ta có thể thấy Phật trong người vũ công
của lá The World, người nhẹ nhàng nắm giữ cả The Magician lẫn The High Priestess trong
tay nàng.
Như một sự kết hợp số 1 và 2, số 3 biểu thị sự tổng hợp và dung hòa. Thế giới tự nhiên kết
hợp The Magician và The High Priestess trong một thống nhất không thể chia tách của sự
sống và cái chết, của bóng tối và ánh sáng. Quan niệm về cảm xúc cũng mang nguyên
mẫu The Magician của chủ động đến với nguyên mẫu The High Priestess của bản năng.
Hãy đánh giá tiến trình sáng tạo mà xem. Lá The Magician biểu trưng cho năng lượng của
cuộc sống, lá The High Priestess là những khả năng phát triển tương lai. Cái thực tế của
lá The Empress là kết quả từ kết hợp của hai lá này. Gần đây, Carl Sagan chứng minh rằng
sự sống trên trái đất bắt đầu khi một tia sét đánh xuống biển nguyên thủy. Một lần nữa ta
thấy, từ tia sét của The Magician đánh xuống nước của The High Priestess đã xuất hiện thế
giới tự nhiên.

28
Hệ thống biểu tượng trong lá The Empress của Waite-Smith phản ánh quan niệm về tự
nhiên với tất cả những mạnh mẽ và vinh quang của nó. Tự thân lá The Empress, gợi cảm
và đầy khoái lạc, cho thấy những đam mê. Tấm khiên của nàng là một trái tim với dấu hiệu
của Venus, phiên bản La Mã của Nữ Thần Vĩ Đại (Great Goddess). Những nữ thần,
như Demeter, Astarte, Nut đã cai quản khắp thế giới cổ đại cho đến khi những kẻ xâm
chiếm gia trưởng giáng họ xuống làm vợ (và cuối cùng trục xuất họ hoàn toàn bằng một
nam thượng đế). Ở chân Empress là một đồng lúa mì; nữ thần cai quản nông nghiệp, và ở
Tây Bắc châu Âu thì được gọi là “Nữ thần Ngũ Cốc” (Corn Goddess). Bà đeo một chuỗi
vòng có chín hạt trai, đại diện chín hành tinh, vương miện của bà có mười hai ngôi sao cho
mười hai cung hoàng đạo. Nói ngắn gọn, bà dùng vũ trụ làm trang sức của mình. Người Mẹ
Vĩ Đại (Great Mother) không phải là các dạng thức của tự nhiên, mà là quy luật cơ bản của
cuộc sống. Những ngôi sao mang sáu cánh là một biểu tượng cổ xưa hơn nhiều so với vai
trò tượng trưng cho Do Thái của nó như hiện nay. Ngôi sao sáu cánh kết hợp hai hình tam
giác; một hướng lên tượng tương cho lửa, một hướng xuống tượng trưng cho nước. Một
lần nữa, lá The Empress kết hợp lá số 1 và 2 trong một thực thể mới.
Dòng sông biểu trưng cho sự thống nhất của thay đổi và ổn định. Nước trong dòng chảy
không bao giờ là một, nhưng nó vẫn luôn luôn là dòng sông đó, với những tính chất đặc
trưng của nó. Loài người thay đổi từng ngày, những tế bào của cơ thể chúng ta chết đi và
những tế bào mới lại thế chỗ nhưng ta vẫn là chính ta đấy thôi.
Việc số 3 được sinh ra từ sự kết hợp của số 1 và 2 cũng mang đến một ý khác. Cũng như
số 1 và 2 đặc biệt đại diện cho nam giới và nữ giới, nên số 3 thể hiện một đứa trẻ được sinh
ra khi họ kết hợp với nhau. Đứa trẻ sinh ra như một sinh vật của tự nhiên, không mang gánh
nặng của cái tôi và nhân cách, trải nghiệm vũ trụ một cách trực tiếp với không một kiểm soát
hay định kiến nào. Chỉ khi ta lớn hơn thì ta mới học cách đặt ra những hàng rào ngăn giữa
ta và cuộc đời. Một trong những mục tiêu của Tarot là mang lại cho chúng ta trạng thái tự
nhiên của việc trải nghiệm trực tiếp thế giới quanh ta.
Nhưng nếu lá Empress biểu trưng cho đứa trẻ thì bà cũng đại diện cho người mẹ. Tình mẫu
tử là cái nền cơ bản từ đó cuộc sống tiếp diễn khắp tự nhiên. Và bởi mối liên kết thể chất
của người mẹ và đứa trẻ thì rất trực tiếp, tình yêu của mẹ, trong dạng thức mạnh mẽ nhất
của nó, là một cảm giác thuần khiết, được trao đi mà không có một cân nhắc lý tính hay đạo
đức nào. (Đây, tất nhiên, là một lý tưởng, và trong thực tế thì tình yêu như vậy có thể được
trao đi từ người bố nhiều hơn người mẹ, hoặc đáng buồn hơn là, không có chút tình nào
cả). Xuyên suốt lịch sử, người ta đã nhận dạng tình mẹ với tự nhiên, thế nên cụm từ “Người
Mẹ Vĩ Đại” dùng chỉ chính trái đất xuất hiện trên khắp thế giới, và ngay cả ngày nay chúng
ta cũng tự động nói về Mẹ Tự Nhiên (Mother Nature).
Trong quẻ bài, lá The Empress đại diện cho khoảng thời gian đầy đam mê, một giai đoạn khi
ta hướng đến cuộc sống qua những cảm giác và niềm vui hơn là những nghĩ suy. Đam mê

29
này là tình dục hoặc tính mẫu; nói cách khác đó là trải nghiệm sâu sắc và trong bối cảnh
thích hợp thì lá bài có thể mang đế một sự thỏa mãn lớn. Khi sai bối cảnh, lúc phải cần đến
những phân tích, lá The Empress có thể mang nghĩa một cách tiếp cận thuần cảm xúc
ngoan cố, một lời từ chối cân nhắc sự tình. Bà cũng có thể thể hiện một vấn đề khác: niềm
đam mê lạc thú khi cần phải giữ chừng mực. Tuy nhiên, thường thì bà biểu hiện cho những
thỏa mãn và thậm chí là giác ngộ đạt được qua cảm xúc.
Nghĩa ngược của những lá bài cũng có bối cảnh tích cực và tiêu cực. Mặt khác nó cũng thể
hiện một sự thoái lui khỏi cảm giác, cũng là sự từ bỏ cảm xúc và cố gắng kiềm chế khao
khát của bạn, đặc biệt là những ham muốn tình dục. Tuy nhiên, cũng như lá The High
Priestess, lá bài ngược thêm vào những yếu tố bị thiếu của tình huống, nên
lá The Empress ngược có thể mang nghĩa một sự nhận thức mới đầy tri thức, đặc biệt là
cách giải quyết một vài vấn đề phức tạp mang tính cảm xúc bằng cách bình tĩnh suy xét nó.
Trong dạng nghĩa xuôi và ngược, hai lá chính 2 và 3 soi vào nhau. Đôi khi điều này xảy ra
khi một người bộc lộ cả những khía cạnh cảm xúc và khía cạnh tinh thần mang tính trực
giác, nhưng theo một cách tiêu cực. Tính hợp lý đến như một phản ứng với những tình
huống cảm xúc thừa thãi, trong khi một cảm giác cô lập hay lạnh lùng sẽ dẫn đến những
đam mê. Nếu hai khía cạnh của những nữ thần này có thể được trải nghiệm theo chiều xuôi
thì người đó sẽ đạt được sự một cân bằng vững vàng hơn và thỏa mãn hơn.

THE EMPEROR

Đối với mỗi đứa trẻ thì cha mẹ chúng chính là nguyên mẫu. Không chỉ người mẹ hay người
cha, mà là Mẹ và Cha. Bởi mẹ cho chúng ta cuộc sống, nuôi ta ăn và chở che ta, ta sẽ có xu
hướng xem bà như một hình tượng của tình yêu và lòng trắc ẩn (và rất buồn khổ nếu bà xử
sự cay nghiệt hay lạnh lùng). Song Người Cha, đặc biệt là vào thời xưa khi các vai trò về
giới chặt chẽ hơn thời nay, luôn xa cách hơn, và do đó là một hình tượng của sự nghiêm
khắc. Đó là người cha mang quyền lực và bởi vậy, trở thành người phán xét, là người cha
trừng phạt (còn người mẹ thì can thiệp), là người cha dạy chúng ta những quy tắc xã hội và
đòi hỏi sự phục tùng. Đối với đứa trẻ, người cha theo nhiều cách không thể tách biệt khỏi
toàn xã hội, cũng như bản thân người mẹ chính là tự nhiên. Một trong những khoảnh khắc
đau đớn nhất trên bước đường trưởng thành của nhiều người là khi họ khám phá ra những
hạn chế rất con người của cha mẹ mình.
Trong sơ đồ phát triển tinh thần của những cặp tương đồng của Freud, người cha và các
quy tắc xã hội trở nên liên kết trực tiếp với nhau. Tinh thần trẻ sơ sinh đòi hỏi sự thỏa mãn
không ngừng, đặc biệt là những ham muốn được ăn và những cưng nựng của mẹ. (Những
người theo học thuyết của Freud có thể cho rằng đứa trẻ mong mỏi sự giao tiếp thực sự với
người mẹ, nhưng tình huống vẫn thế thôi dù đứa trẻ chỉ tìm kiếm niềm vui thích được ôm
trong lòng mẹ.) Bằng cách quấy rầy mối quan hệ của đứa trẻ với mẹ của nó, người cha

30
khuấy động sự thù địch của đứa trẻ, và vì đứa bé sơ sinh không bị kiềm hãm điều gì, sự thù
địch này có nghĩa là mong muốn loại bỏ đi kẻ quấy rầy đó. Thôi thúc hủy đi người cha, tuy
nhiên, lại không thể trọn vẹn hay thậm chí không được nhận thấy, thế nên tinh thần, để làm
dịu đi tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, đồng nhất chính nó với hình ảnh Người Cha, tạo
ra một thứ “siêu kỷ” (super-ego) như một hướng dẫn mới cho bản thân [thay thế cho “xung
động bản năng” (id) – những thôi thúc và ham muốn dẫn đến khủng hoảng]. Nhưng cái siêu
kỷ này có dạng thức ra sao? Đó chính là dạng thức của những quy tắc xã hội, học được từ
những chỉ dẫn của người cha theo truyền thống.

Hai lá chính 3 và 4 của Tarot đại diện cho cha mẹ trong những vai trò nguyên mẫu của họ.
Nhưng cũng như lá The Empress biểu thị cho thế giới tự nhiên, lá The Emperor mang một ý
nghĩa rộng hơn về việc thế giới xã hội “kết hôn” với tự nhiên. Ông biểu trưng cho những luật
lệ của xã hội, cả điều tốt lẫn điều xấu, và quyền lực thi hành chúng.
Ở thời cổ đại, nơi vị nữ thần ngự trị, nhà vua có một chức năng đặc biệt. Cuộc sống mới chỉ
có thể đến từ cái chết; do đó, mỗi mùa đông, những đại diện của nữ thần lại hiến tế cựu
hoàng, họ thường xẻ ông ta ra và chôn các phần thân thể xuống đất, bằng cách đó làm đất
đai màu mỡ một cách kỳ diệu. Về sau, khi những tôn giáo do phái nam thống trị đến thay
thế, nhà vua đã trở thành biểu trưng cho sự cai trị của pháp luật kiểm soát những gì được
cho là khởi thủy của bóng tối man rợ và hỗn loại thuộc trật tự cũ. Chúng ta thấy kịch bản
này (rất giống phép thế xung độ bản năng bằng siêu kỷ của Freud) ở nhiều thần thoại; như
chuyện Marduk, một anh hùng dân tộc của Babylon, đã giết Tiamat, người mẹ nguyên thủy
của sự sáng tạo bởi vì bà đã sinh ra quái vật. Bất kể chúng ta có xem các cách thức cũ xưa
là tàn ác hay cách thức mới là văn minh hay không thì lá The Emperor cũng biểu trưng rằng
tính trừu tượng của xã hội đã thay thế sự trải nghiệm trực tiếp giới tự nhiên.
Ở La Mã, ý niệm luật pháp chống lại hỗn loạn được đưa đến nơi mà sự ổn định, hay “luật
pháp và trật tự” theo cách gọi hiện đại, trở thành bản thân những đức hạnh, tách rời khỏi
đạo đức vốn có của những luật lệ đó. Không một quy trình nào có thể thực hiện trong tình
trạng vô chính phủ (tạo nên những tranh cãi); những luật lệ tồi cần phải được thay đổi,
nhưng đầu tiên luật pháp phải được tuân thủ bằng bất cứ giá nào. Những cách tiếp cận

31
khác có thể phá hủy xã hội. Ngày nay, chúng ta xem xét góc nhìn này khi nó đã được gộp
trong một khái niệm trừu tượng mà ta gọi là “hệ thống”. Người La Mã nhìn nó một cách cụ
thể hơn bằng hình tượng The Emperor, người được mô tả là cha của tất cả con dân.
Trong khía cạnh tích cực nhất của ông, The Emperor cho thấy sự ổn định của một xã hội
đúng nghĩa cho phép thành viên của nó theo đuổi những nhu cầu cá nhân và sự phát triển.
Thế giới tự nhiên thì hỗn độn, nếu không có các kiểu cấu trúc xã hội, mỗi người chúng ta có
thể sẽ dành cả đời đấu tranh để sống sót. Xã hội cho phép ta vừa làm việc với nhau vừa
hưởng lợi từ những trải nghiệm của những người đi trước.
Sự ổn định cũng cho phép tinh thần phát triển. Ở nhiều quốc gia xã hội ủng hộ những nhà
thờ (mặc dù sự sắp xếp này có đẩy mạnh tinh thần hay không thì vẫn còn tranh cãi); ở một
vài quốc gia phương Đông các tu sĩ được tự do theo đuổi việc học hành nghiên cứu vì
những người thế tục sẽ cúng dường cho họ. Không có lề thói xã hội này họ sẽ phải dành
thời gian làm việc để có cái ăn.
Ở những khía cạnh tiêu cực hơn của The Emperor, ông biểu thị cho những luật lệ phi lý
trong một xã hội nơi sự ổn định tiên quyết hơn so với đạo đức. Một khi chúng ta lập luật
pháp và trật tự thành cái tối cao thì một kẻ cai trị thối nát sẽ là một thảm họa. Nhưng nếu cả
hệ thống đều thối nát thì chỉ sản sinh ra những kẻ cai trị tồi tệ, thì sự ổn định trở thành kẻ
thù của đạo đức. Giá trị biểu tượng của The Emperor phụ thuộc rất lớn vào thời gian và nơi
chốn. Ở một xã hội bất công, quyền lực của Emperor sẽ gây cản trở hơn là giúp đỡ sự phát
triển cá nhân. Rất nhiều người bị tống giam vì công kích những luật lệ phi lý.  
Tuy nhiên, thậm chí ở những mặt tích cực nhất của ông, The Emperor cũng còn những hạn
chế. Trên sự tự phát của The Empress, ông đặt một mạng lưới những áp đặt. Nếu chúng ta
không còn chạm vào những đam mê nữa thì cuộc sống sẽ trở nên lạnh lẽo và khô cằn.
Lá The Emperor của bộ Rider được vẽ vừa già vừa nghiêm nghị, mặc giáp sắt, biểu thị cho
sự cằn cỗi của cuộc sống bị cai trị hà khắc bởi các quy tắc. Dòng sông chảy mạnh mẽ qua
khu vườn của The Empress đã trở thành một dòng suối nhỏ, chỉ vừa đủ thâm nhập vào sa
mạc không sự sống.   
Những biểu tượng khác của lá bài phản ánh những khía cạnh kép của nó. Ông cầm một
cái ankh, một biểu tượng sự sống của Ai Cập, để ra hiệu rằng bên dưới pháp luật ông có
mang sức mạnh của sự sống và cái chết, và hi vọng sẽ dùng nó một cách đúng đắn. Bốn
con cừu đực, biểu tượng của cung Bạch Dương, trang trí trên ngai của ông trong khi ở đỉnh
vương miện ông cũng mang dấu hiệu của cung Bạch Dương (không may thay tương đồng
với một người thúc đẩy). Giờ thì, Bạch Dương biểu thị cho sức mạnh, xâm lược và chiến
tranh, nhưng vì là dấu hiệu hoàng đạo đầu tiên, nó cũng biểu thị sự sống mới của mùa
xuân, sự sống có thể xuất hiện từ tính ổn dịnh của một xã hội công bằng.
Là lá bài giữa của dòng Ẩn Chính đầu tiên, lá The Emperor biểu thị cho một bài kiểm tra cốt
yếu. Trong tiến trình lớn lên, nó chắc chắn là nhũng quy tắc xã hội mà nhiều người thấy thật

32
khó để vượt qua. Ta phải hấp thu những quy tắc này, cũng như những truyền thống và đức
tin của xã hội chúng ta, rồi vượt ra ngoài chúng để tìm một tập hợp đạo đức riêng. Đây
không có nghĩa là thái độ “quy tắc làm ra là để phá vỡ”. Những người cảm thấy bắt buộc
phải phá hủy mọi luật lệ sẽ bị buộc vào những luật lệ đó giống như những người tuân theo
chúng một cách mù quáng.
Bởi vai trò của người cha là dạy chúng ta cách cư xử được xã hội chấp nhận, những người
bị mắc kẹt trong tầm mức của The Emperor thường là những người chưa bao giờ chấp
nhận tính người tầm thường của cha họ. Họ có lẽ nhận ra nó một cách lý trí nhưng nó vẫn
quấy rầy và ám ảnh họ. Vấn đề tương tự cũng quấy phá những ai vẫn xem The Empress là
những đam mê và nhục dục của mẹ họ chứ không phải của họ.
Ý tưởng về lá The Emperor cũng nhưng ý tưởng và những giá trị hạn chế của cấu trúc xã
hội nổi lên chính từ Waite và những môn đệ của ông. Bức tranh bên phải ở đầu phần này,
lấy từ bộ Builders of the Adytum (BOTA) của Paul Fostr Case do Jessie Burns Parke vẽ,
minh họa một truyền thống khác. Ở đây The Emperor biểu trưng cho tổng toàn bộ những tri
thức tinh thần. Ông được vẽ nhìn nghiêng (thường thấy hơn so với hình vẽ mặt đầy đủ của
bộ Rider), liên kết với hình ảnh Qabalah về Chúa như một “Ancient of Days” (*), một vị vua
ngồi nhìn từ góc nghiêng. (Khuôn mặt của Ancient bao giờ cũng bị khuất, chỉ có vương miện
của ông với hào quang bên dưới là lộ ra.)  
Tay và chân của The Emperor hợp thành một tam giác đều trên một chữ thập, một dấu hiệu
giả kim của lửa. Hình tượng này về sau đảo ngược (trong cả của Waite lẫn của Case) trong
lá The Hanged Man. Như đã đề cập ở trên, đôi chân bắt chéo vuông góc nhau là một dấu
hiệu bí truyền, được tìm thấy cả ở lá The World. Lá bài The Emperor của BOTA ngồi trên
một khối lập phương chứ không phải là một ngai vàng. Cũng là một dấu hiệu bí truyền, khối
lập phương biểu trưng cho cả thế giới lẫn bản thân Tarot, cũng như bảng chữ
cái Hebrew và những con đường của Cây Sự Sống. Những biểu tượng xuất hiện từ việc
một khối lập phương có mười hai cạnh, sáu mặt, ba trục đối xứng và tất nhiên là một trung
tâm, đủ hai mươi hai, con số của các lá chính, của các ký tự Hebrew và của những con
đường. Và bởi vì Cây Sự Sống được giữ để biểu thị tất cả mọi sáng tạo nên khối lập
phương biểu trưng cho vũ trụ.
Trong giải bài lá The Emperor cho thấy (theo hình ảnh của bộ Waite) sức mạnh của xã hội,
những luật lệ của nó và đặc biệt là quyền lực để thực hiện các luật đó. Sự có mặt của lá
chính này cho thấy một sự dính dáng tới pháp luật. Một lần nữa, các giá trị tốt và xấu lại phụ
thuộc vào hoàn cảnh.
Một cách cá nhân hơn thì lá The Emperor có thể biểu thị một thời gian ổn định và trật tự
trong cuộc sống của một người, mở ra một năng lượng sáng tạo đầy hi vọng. Ông cũng có
thể biểu thị một người đặc biệt nắm giữ một quyền lực lớn, về cả vật chất lẫn cảm xúc, đối
với vấn đề gặp phải. Điều này rất thường chỉ người cha, cũng có thể là người chồng hoặc

33
người yêu, đặc biệt đối với những người đối xử với người yêu như một người cha thay thế
để họ giao việc kiểm soát cuộc sống của mình vào tay người đó. Tôi từng thấy những giải
bài bị The Emperor chế ngự đến mức tất cả những tiềm năng của cuộc sống đều trở nên bị
kìm hãm và không được thỏa mãn.
Cũng giống như lá The Empress ngược, lá The Emperor, khi đảo chiều lại, sẽ nhận những
yếu tố bổ sung cho những phẩm chất của ông khi ông ở chiều xuôi. Ông sẽ, theo cách nói
của Waite, “đầy nhân từ và trắc ẩn”; một cuộc sống mới trong sa mạc đầy sỏi đá. Nhưng
con lắc có thể lắc quá xa. Lá The Emperor ngược có thể biểu thị cho sự non nớt, sự bất lực
để cho ra những quyết định nhanh chóng và thực hiện chúng.  
(*) Ancient of Days là một danh hiệu của Chúa, là một trong những cái tên đầy lôi cuốn và
mạnh mẽ được gán cho Chúa trong Kinh Thánh. Đây là cái tên theo tiếng Xy-ri của Chúa
(Aramaic name), chuyển ngữ tiếng Anh là Atik Yomin. Cả nghệ thuật Thiên Chúa giáo và Do
Thái giáo đều mô tả Ancient of Days là một ông lão rất già, đại diện cho sự tồn tại trước khi
thời gian bắt đầu, hoặc một người rất trẻ, biểu thị rằng Chúa vượt cả thời gian.

 THE HIEROPHANT

Trong phần lớn các bộ bài Tarot lá chính 5 được gọi là Pope lẫn High Priest, cụm từ kết nối
nó với lá chính 2, nguyên mẫu của chân lý nội tại, qua tên gọi cũng như qua hình
ảnh. Waite đã viết rằng ông bài xích “Pope” vì danh hiệu này gợi lên một ví dụ rất đặc thù về
ý niệm chung của lá bài chính này. Cái tên “Hierophant” thuộc về đại tư tế của những nghi lễ
vùng Elefsina thuộc Hi Lạp (Greek Eleusinian mysteries). Ở đây, Waite mô tả lá bài của ông
như một biểu tượng cho “ngoại đạo” của các nhà thờ và giáo lý. Nhưng cách ông dùng một
cụm từ bí ẩn lại gợi lên một diễn nghĩa khác, một diễn nghĩa được những người
xem Tarot là một giáo lý bí mật của những cách tu tập huyền ảo hơn là một hiện thân tổng
quát của những hình mẫu về nhân loại yêu thích. Diễn nghĩa này được miêu tả cực kỳ sinh
động trong bức tranh vẽ The Hierophant lấy từ Cuốn sách của Thoth (Book of Thoth)
của Aleister Crowley, do Frieda Harris vẽ. Ở đây lá chính này mang ý nghĩa khởi đầu một
giáo lý bí mật, như những hội nhóm khác nhau và những điểm hội họp sinh sôi nảy nở trong
khoảng giai đoạn chuyển giao thế kỷ và những điểm hội họp đã kinh qua cuộc khôi phục
đức tin ở Anh và Mỹ. Hội Bình Minh Vàng (The Order of the Golden Dawn), một hội mà
cả Waite và Crowley đã từng là thành viên cùng lúc, có lẽ đã tạo ra cái tên “Hierophant” cho
lá chính số 5.

34
Cả hai nghĩa này, “ngoại đạo” và “giáo lý bí mật”, làm xuất hiện mâu thuẫn ở cấp bậc cơ bản
nhất. Trên thực tế chúng rất giống nhau. Cho dù hai tín đồ được kết nạp vào Giáo Hội hay
vào một nhóm huyền bí thì họ cũng sẽ tham gia vào một giáo lý, với một bộ các đức tin mà
họ phải học và chấp nhận trước khi họ được nhận vào. Tất nhiên là có một sự khác biệt cơ
bản giữa giáo lý trong sách và những nghi thức của Bình Minh Vàng. Tuy nhiên, đối với cả
hai thì lá chính này cho thấy một sự giáo dục và một truyền thống. Do đó, nếu ta xem dòng
đầu tiên mô tả sự phát triển cá nhân thì lá The Hierophant, đến sau thế giới tự nhiên và xã
hội, cho thấy truyền thống lý tính của xã hội đặc trưng của một người, và sự giáo dục của
người ấy trong truyền thống đó.
Theo diễn nghĩa của Waite (và đặc biệt suy ngẫm về vị giáo hoàng phương Tây) chúng ta
có thể thấy The Hierophant như một bạn đồng hành của Emperor. Từ “giáo hoàng” (pope)
có nghĩa là “cha” (father), và cũng giống Hoàng đế La Mã, Giáo Hoàng được xem là một
người cha thông thái dẫn dắt những đứa con của ngài. Cùng với nhau, họ chia sẻ trách
nhiệm đối với con người, một người cung cấp những nhu cầu vật chất, người kia dẫn dắt sự
phát triển tinh thần. Ở một trong những luận thuyết sớm nhất thúc đẩy sự chia tách Giáo Hội
và Nhà Nước, Dante đã tranh cãi rằng hai chức năng này không nên kết hợp lại vì sợ phạm
sai lầm. Tuy nhiên, ông không bao giờ nghi ngờ quan niệm rằng Giáo Hội chịu trách nhiệm
về linh hồn chúng ta.
Ngày nay, nhiều người không hiểu khái niệm căn bản của một tu sĩ. Thời đại dân chủ của
chúng ta đã loại bỏ những quan điểm về sự kết nối trung gian giữa một cá thể và Chúa. Tuy
nhiên, hãy chú ý rằng The Hierophant cũng có thể là biểu tượng của “nền chuyên chính vô
sản” hoặc bất cứ một thành phần ưu tú lãnh đạo quần chúng nào ở những nơi họ không thể
tự thân đến được. Ban đầu thì chức năng đặc biệt của những tu sĩ là rất rõ ràng; họ trò
chuyện với các vị thần thông qua các lời sấm, một cách tu tập thường đáng sợ, và hầu hết
mọi người đều khá vui vẻ để ai đó làm việc này cho họ. Khi đạo Cơ-đốc loại bỏ hình ảnh
này và sự kết nối tức thì với Chúa thì khái niệm về tu sĩ trở nên, cũng như The Emperor,

35
trừu tượng hơn. Về cơ bản nó dựa trên quan điểm rằng hầu hết mọi người không thực sự
quan tâm lắm đến Chúa. Một người bình thường thấy hạnh phúc nhất khi theo đuổi những
nhu cầu vật chất, tiền bạc, gia đình và chính trị. Tuy nhiên, cũng có những người, do khí
chất của họ nên cảm giác thấy trực tiếp sức mạnh tinh thần chảy qua khắp cuộc sống.
Được thụ phong bởi chính nhận thức nội tại của họ, những người này có thế nói chuyện với
Chúa giúp chúng ta. Quan trọng hơn, họ có thể nói chuyện với chúng ta, đại diện cho luật lệ
của Chúa để ta có thể sống một đời đứng đắn, và đôi khi, sau khi chết, nhận phần thường là
được quay trở về bên Chúa. Sau phục sinh chính chúng ta sẽ ngụ dưới mắt của Chúa. Tuy
nhiên, trong cuộc sống, chúng ta cần các tu sĩ hướng dẫn mình.  
Vậy hãy tranh luận. Thậm chí nếu ta đồng tình với quy tắc thì trong thực tế nó có xu hướng
sụp đổ. Người ta trở thành tu sĩ vì vô vàn lý do – tham vọng, áp lực gia đình, vân vân –
những người như vậy trong khi cảm thấy một tiếng gọi chân thật để giao tiếp với Chúa Trời
thì có thể thể hiện rất ít khả năng trong việc giao tiếp với nhân loại. Hơn nữa, cũng như
những thể chế xã hội của The Emperor, các thể chế tôn giáo của Hierophant có thể dễ dàng
bị sụp đổ bởi quyền hành được trao đến họ, thế nên những tu sĩ xem quyền năng của mình
như một cái kết chính bên trong nó, coi trọng sự phục tùng hơn là sự khai sáng. Rõ ràng
rằng, vị trí bảo vệ một giáo lý sẽ thu hút những kẻ giáo điều.
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta đã loại bỏ quan niệm về một giáo đoàn dẫn dắt vì một lý do tế nhị
hơn. Tuy từ phong trào Cải Cách Tôn Giáo ở châu Âu (the Reformation) có một quan niệm
đã được ủng hộ ngày càng nhiều ở phương Tây, đó là quan niệm về trách nhiệm cơ bản
của một cá nhân đối với chính người ấy. Toàn bộ quan niệm của một giáo lý bên ngoài, một
bộ những nguyên tắc và niềm tin được chấp nhận theo tín ngưỡng, phụ thuộc vào giả định
rằng hầu hết mọi người đều thích có ai đó bảo họ làm gì và nghĩ gì hơn. Điều này có thể sẽ
rất đúng. Để thực sự khám phá ra Chúa bên trong chính con người anh, anh phải trải qua
những thử thách không mấy dễ chịu với tinh thần của anh. Tương tự, để quyết định cho bản
thân cái gì là điều đúng đắn phải làm trong tất cả mọi tình huống có thể đòi hỏi một sự thống
khổ dai dẳng những chọn lựa. Thế nhưng, ngày ngay nhiều người đơn giản là không thể
chấp nhận việc xã hội hay Nhà thờ chịu trách nhiệm cơ bản đối với cuộc đời họ.
Có lẽ diễn giải lá The Hierophant như đại diện cho những giáo lý bí mật thì thích hợp với
thời đại chúng ta hơn. Như thế giáo lý sẽ không bảo chúng ta phải làm gì mà thay vào đó
đưa ra một phương hướng để chúng ta bắt đầu tự hành động. Và Tarot, như ta thấy trong
lá The Magician, bản thân nó đối chọi với tất cả những Giáo Hội bằng cách dẫn dắt ta đến
với sự cứu rỗi cá nhân trong cuộc đời này. Đối với Crowley, The Hierophant biểu trưng cho
sự khai tâm như những phương tiện qua đó một cá thể trở nên đồng nhất với vũ trụ. Hình
thái và giáo lý của sự khai tâm này thay đổi theo từng thời đại thế giới; đã kéo dài gần hai
ngàn năm, Kỷ nguyên Song Ngư hiện tại đang đi đến hồi kết, do đó The Hierophant phải
thay đổi, cũng như tất cả những mối quan hệ nghiêm ngặt của loài người. Crowley nhận xét

36
rằng chỉ có tương lai mới có thể nói cho chúng ta biết cái “dòng chảy của sự khai tâm” mới
sẽ là gì. Nhưng tính chất cơ bản của sự khai tâm là hòa hợp với vũ trụ thì luôn luôn giữ
nguyên như vậy.  
Trong lá The Hierophant của bộ BOTA (cũng như trong bộ Rider) đôi chìa khóa bắt chéo
nhau dưới chân The Hierophant làm bằng vàng và bạc, đại diện cho những cách thức bên
ngoài và bên trong, mặt trời và mặt trăng, The Magician và The High Priestess, những thứ
mà giáo lý dạy chúng ta kết hợp. Trong bộ Rider cả hai chiếc chìa khóa đều bằng vàng, cho
thấy mặt tăm tối bị che dấu khỏi những người theo giáo lý bên ngoài.   
Trong hình ảnh của Waite–Smith, không có tấm màn nào ngăn trở đường vào Nhà thờ như
trong đền thờ của The High Priestess. Nhưng những chiếc cột lại mang màu xám xịt. Những
ai đi vào đây có thể nhận được sự bảo vệ từ lựa chọn cá nhân, nhưng họ sẽ không xuyên
qua bí mật của tính nhị nguyên. Tiềm thức vẫn đóng cửa. Trong nhiều bộ Tarot, The
High Priestess không cầm một cuộn giấy mà là một cuốn sách nhỏ, bị khóa. Và chìa khóa
của The Hierophant không vừa với cái ổ khóa trên ngươi đó.
Vẫn vậy, ta không nên nghĩ rằng giáo lý bên ngoài một tôn giáo không phục vụ một mục
đích nào cho kẻ kiếm tìm. Giống như nền giáo dục chung, đây là một ví dụ đặc trưng, nó
cho một cá thể một truyền thống vững chắc để sự phát triển cá nhân của người ấy bắt rễ.
Hiện tượng phương Tây hiện đại về một loại thuyết thần bí chiết trung, một thứ lấy cảm
hứng từ tất cả mọi tôn giáo, là một sự phát triển cực kỳ khác thường. Điều này dựa trên, có
lẽ là, nhận thức toàn cầu cộng thêm cái nhìn tôn giáo như một giai đoạn tâm lý tách biệt
khỏi khoa học và lịch sử. Do đó chúng ta thấy tôn giáo như là một trải nghiệm hơn là một sự
giải thích về vũ trụ và chấp nhận rằng tất cả các trải nghiệm tôn giáo đều đáng giá, mặc cho
những mâu thuẫn chúng thể hiện trên bề mặt. Trong khi quan niệm này mở ra những khả
năng to lớn, nhiều người đã lưu ý đến tính nông cạn tiềm tàng của nó. Sự thật là, qua nhiều
thế kỷ, những điều huyền bí lớn vẫn luôn được kể từ tận sâu bên trong một truyền thống.
Những người theo Qabalah là người Do Thái chính cống, Thomas à Kempis hoàn toàn là
người theo đạo Thiên Chúa, còn những người theo đạo Xufi (Sufis – Hồi giáo mật tông) thì
cúi chào Mecca cùng với những người Hồi giáo chính thống khác. Trong những khía cạnh
tốt nhất, The Hierophant (như một giáo lý bên ngoài) có thể cho chúng ta một nơi để tạo ra
một sự nhận thức cá nhân về Chúa Trời.
Một khía cạnh xa hơn của những biểu tượng trên lá bài cũng đáng được chú ý. Vị trí của ba
nhân vật (đó là, một hình người lớn chủ trì cho hai hình người nhỏ hơn ở mỗi bên) giới thiệu
một mô-típ tự lặp lại, giống như hai cây cột của The High Priestess, xuyên suốt bộ Ẩn
Chính, và được giải quyết trong lá Judgement và lá The World. Hai lá ngay sau lá chính số 5
cũng lặp lại mô-típ này, với thiên thần trên The Lovers và người đánh xe của lá The
Chariot trên hai con nhân sư đen và trắng.  

37
Chúng ta có thể thấy nhóm ba nhân vật này biểu trưng cho quan niệm về bộ ba, như là
Chúa ba ngôi, hay ba hiện thân của tinh thần: bản năng/cái tôi/siêu kỷ (id / ego / super-ego)
của Freud, hay vô thức / ý thức / siêu thức (unconscious / conscious / superconscious) theo
ba dòng của bộ Ẩn Chính. Để hiểu ý nghĩa của hình ảnh này ta phải quay lại với The High
Priestess. Nàng ngồi giữa hai cây cột biểu hiện cho tính nhị nguyên của cuộc sống. Chính
nàng cũng tượng trưng cho một phía, The Magician là phía bên kia. The Hierophant kết nạp
hai thầy tăng vào nhà thờ của ông. Do đó, chúng ta thấy rằng The Hierophant và The
Lovers và The Chariot đều đại diện cho những nỗ lực trung hòa giữa các cực đối lập của
cuộc sống và tìm một cách nào đó, không phải để giải quyết chúng, mà đơn giản là để giữ
chúng cân bằng. Một học thuyết tôn giáo, với những giá trị đạo đức và giải thích của nó cho
những câu hỏi cơ bản nhất của cuộc sống, chỉ làm thế thôi. Nếu chúng ta giao phó bản thân
cho một Giáo Hội thì những mâu thuẫn của cuộc sống tất cả sẽ được trả lời, nhưng không
được giải quyết.   
Trong giải bài, lá bài này biểu thị cho Nhà thờ, các giáo lý và giáo dục nói chung. Về mặt
tâm lý nó có thể cho thấy tính chính thống, sự tuân theo những quan niệm của xã hội về
những giá trị hành vi, cũng như, ẩn sâu hơn, là một sự giao phó trách nhiệm. The
Emperor biểu trưng cho bản thân những quy tắc và quyền thực thi chính thức của
chúng; The Hierophant biểu thị trực giác bên trong của chính chúng ta về sự phục tùng.
Đảo lại, lá bài mang nghĩa bất chính thống, đặc biệt là về tâm lý – hình thành những quan
niệm riêng. Tuy nhiên, nó cũng có thể mang nghĩa sự cả tin và ý tưởng này làm gợi lên một
phẩm chất khác của lá bài khi nó ở chiều xuôi. Một xã hội xây dựng truyền thống lý tính của
nó qua hàng trăm năm. Những người chấp nhận truyền thống đó nhận từ nó một chuẩn
mực để dựa vào đó mà đánh giá những ý tưởng mới và thông tin nhận được. Những người
bài xích truyền thống phải tìm cho mình những hướng đi riêng và dễ bị lạc trong những
quan niệm nông cạn. Có nhiều người đã từ bỏ những giáo điều áp đặt lên họ từ lúc ấu thơ
và rơi vào một giáo điều mới, một giáo phái hay một nhóm chính trị cực đoan, cũng cứng
nhắc như thế hay có lẽ còn nông cạn hơn. Khi từ bỏ truyền thống thì họ không thực sự từ
bỏ The Hierophant. Họ đã không chấp nhận trách nhiệm của việc thực sự tìm kiếm con
đường cho riêng mình.  78 Độ Minh Triết – Lá Bài The Emperor.

THE LOVERS

Trong số rất nhiều những thay đổi mà Arthur Waite và Pamela Smith thực hiện so với bản
thảo Tarot truyền thống thì lá bài The Lovers là lá ấn tượng nhất. Ở nơi mà bộ Tarot de
Marseilles vẽ một chàng thanh niên bị mũi tên của Cupid nhắm phải và bị bắt phải chọn lựa
giữa hai người phụ nữ, bộ Rider vẽ một người đàn ông trưởng thành và chỉ một người phụ
nữ với một thiên thần chủ trì phía trên. Sâu xa hơn, trong khi hầu hết các bộ bài chỉ biểu thị
một tình huống xã hội; hình ảnh bộ Rider rõ ràng là đề xuất ý tưởng về Vườn Địa Đàng, hay

38
đúng hơn, một Vườn Địa Đàng Mới, với những cái cây mang đến sự khai sáng hơn là sự
Sa Ngã.
Phiên bản trước của lá chính số 6 đôi khi mang tên “Sự Chọn Lựa (The Choice), và trong
quẻ bài tiên tri nó có nghĩa là một lựa chọn quan trọng giữa hai niềm khao khát. Bởi vì một
người phụ nữ tóc vàng còn người kia tóc đen, một biểu tượng truyền thống ở châu Âu nơi
mà màu đen luôn luôn biểu thị cho những điều xấu xa và phụ nữ nói chung biểu thị cho sự
cám dỗ, đây được xem là lựa chọn giữa một thứ đáng tôn trọng nhưng có vẻ tẻ nhạt và một
thứ được khát khao tha thiết nhưng lại không đứng đắn về đạo đức. Lá bài cũng có thể ngụ
ý một lựa chọn nhỏ hơn hay thậm chí là một cuộc khủng hoảng lớn trong đời một người.
Ngày nay ta thấy biểu tượng cổ này trong nhiều tiểu thuyết và phim ảnh nói về những người
đàn ông trung niên, trung lưu cố gắng từ bỏ người vợ yêu quý nhưng chán ngắt của mình
để đến với những người phụ nữ trẻ hơn “cuồng nhiệt hơn”.

Thực sự thì lựa chọn này có thể mở rộng đến cả đời người. Ngay cả những người chưa
bao giờ nghi hoặc về những ranh giới đạo đức của địa vị trung lưu của họ cũng phải lựa
chọn như một tên tội phạm chung thân. Và có nhiều người bên ngoài sống một cuộc đời
được xã hội chấp nhận nhưng bên trong thì đấu tranh chống lại những dằn vặt khôn nguôi
của những ước ao, đấu tranh với những thôi thúc muốn ngoại tình, hay bạo lực, hay đơn
giản là một mong muốn rời nhà và trở thành một lữ khách lang thang vô định.
Ở cấp độ huyền bí, sự lựa chọn giữa hai người phụ nữ tóc vàng và tóc đen biểu thị cho sự
lựa chọn giữa con đường bên ngoài (biểu trưng trong bộ Rider bằng The Hierophant), nơi
cuộc sống nằm ngoài tầm của bạn, và con đường bên trong của những nhà huyền bí, con
đường có thể dẫn đến một cuộc chạm trán với những khao khát thầm kín của bạn. Nhà thờ
cho những pháp sư là những kẻ thờ phụng quỷ, và trong những phúng dụ Thiên Chúa giáo
thì người phụ nữ tóc đen thường đại diện cho Satan.
Những nghĩa này đều xem xét sự lựa chọn giữa ánh sáng và bóng tối trong những giới hạn
rộng nhất có thể. Trong bối cảnh của dòng đầu tiên của các lá chính ta có thể thấy điều này

39
trong một cách thức đặc biệt hơn, đó là sự lựa chọn thực sự đầu tiên mà một người thực
hiện một cách độc lập với cha mẹ anh ta hay cô ta. Đến khi những thôi thúc tình dục tự
khuấy động thì hầu hết mọi người đều hài lòng với việc hành động khác với những gì cha
mẹ trông mong ở họ. Thôi thúc tình dục, tuy nhiên, lại chỉ cho ta thấy nơi mà nó muốn đi.
Kết quả là ta cũng bắt đầu phá vỡ cả những lĩnh vực khác. Rất hiếm khi người bạn đời mà
cha mẹ chọn cho ta là người mà ta sẽ tự chọn cho mình. Nếu sự khác biệt quá lớn, hoặc
cha mẹ quản lý quá gắt gao, thì người ta có thể phải đối mặt với một lựa chọn đau đớn.
Paul Douglas từng nhận xét rằng người phụ nữ tóc đen, người có vẻ già hơn nhiều, là mẹ
của cậu bé, và sự lựa chọn là núp dưới sự che chở của bà hay tự xoay sở một mình.
Những người, gồm cả Freud, tin rằng khao khát đầu tiên của một cậu bé là hướng thẳng về
phía mẹ của cậu sẽ thấy ở đây một tình thế lưỡng nan dạng phức cảm Ơ-đíp cổ điển (a
classic Oedipal dilemma). Một phần con người ao ước duy trì cuộc sống kỳ ảo ẩn giấu của
sự thống nhất với người mẹ, trong khi phần kia ao ước tìm thấy một tình yêu đích thực trong
thực tế cùng thế hệ với mình. Nhưng chúng ta không phải chấp nhận thuyết của Freud để
thấy được một ngụ ý rộng hơn của lựa chọn này. Cho dù cậu bé có thầm khao khát mẹ
mình hay không, cuộc sống dưới sự bảo vệ của cha mẹ cũng an toàn và thoải mái. Nhưng
cậu ấy (hoặc cô ấy, vì những cô bé cơ bản đối mặt với cùng những câu hỏi, dù đôi lúc trong
những dạng thức khác) có thể không bao giờ trở thành một cá nhân độc lập thực sự nếu
không tách ra. Và không có gì biểu thị điều này mạnh mẽ hơn là tình dục.
Do đó, phiên bản truyền thống của lá chính 6 đại diện cho thời thanh niên. Không chỉ vấn đề
tình dục nổi lên trong thời này mà còn là sự độc lập lý trí và đạo đức. Lá bài 3, 4 và 5 đại
diện cho chúng ta khi được định hình bởi những sức mạnh lớn lao của tự nhiên, xã hội và
cha mẹ. Trong lá 6 tính cá nhân trỗi dậy, một cá thể thực sự với những quan niệm và mục
đích riêng, có khả năng đưa ra những lựa chọn quan trọng dựa trên, không chỉ những sắp
đặt của cha mẹ, mà còn những thẩm định riêng của khao khát và trách nhiệm.
Những ý nghĩa này thuộc về cấu trúc truyền thống của lá bài. Trong phác thảo phiên bản
riêng của mình cho lá Lovers, Waite nhắm đến một vấn đề khác. Rốt cuộc thì tình dục và
tình yêu có chức năng gì trong cuộc đời một con người? Và những ý nghĩa sâu xa nào ta có
thể tìm thấy trong tình huống hai người hòa chung con tim và cơ thể họ? Waite gọi bức hình
của ông là “lá bài tình yêu của nhân loại, ở đây được bày ra như một phần của con đường,
của chân lý, của cuộc sống”.
Xu hướng tình dục đưa ta thoát khỏi sự cô lập. Nó buộc ta lập những mối quan hệ sinh
động với người khác, rồi cuối cùng mở đường cho tình yêu. Thông qua tình yêu ta không
chỉ đạt được một sự thống nhất với ai đó khác mà ta còn được cho một gợi ý về những ý
nghĩa vĩ đại hơn và tầm quan trọng sâu xa hơn của cuộc sống. Trong tình yêu ta từ bỏ phần
cái tôi điều khiển đã cô lập ta không chỉ với người khác mà còn với bản thân cuộc sống. Do

40
đó thiên thần xuất hiện bên trên đầu người đàn ông và người phụ nữ, một hình ảnh không
thể đạt được của cá nhân mỗi người, nhưng cả hai  đều thoáng nhìn thấy.
Tôn giáo, triết học và nghệ thuật đã luôn chộp lấy biểu tượng nam giới và nữ giới như
những biểu trưng cho tính nhị nguyên. Chúng ta đã thấy quan niệm này phản ánh trong
lá The Magician và lá The High Priestess, cũng như lá The Empress và lá The Emperor.
Tính biểu tượng ở đây được củng cố bởi sự thật rằng Cây Sự Sống, thứ với nó The
Magician giống như những ngọn lửa, đứng phía sau người nam, trong khi Cây Trí Tuệ (Tree
of Knowledge), được rắn (biểu tượng không phải của sự xấu xa mà là của sự thông thái
tiềm ẩn) quấn quanh đứng sau người nữ. Thiên thần thống nhất hai nguyên lý này. Trong
những chủ trương truyền thống thì nam và nữ được giữ để chứa, bên trong cơ thể họ,
những nguyên lý sống tách biệt. Thông qua tình yêu của cơ thể những nguyên lý này nhập
lại với nhau.
Tuy nhiên, những nhà huyền học luôn nhận thấy những yếu tố này ngay bên trong bản thân
mỗi người. Ngày nay ta nghe nhiều người nói rằng tất cả mọi người chứa đựng cả những
phẩm chất nam và nữ; tuy nhiên, thường thì họ quy đến những quan niệm mập mờ của
hành vi xã hội, như tính nóng nảy và tính dịu dàng. Khi nam giới và nữ giới được xem như
đối lập tại những tính chất sâu thẳm nhất của họ thì quan điểm của những nhà huyền học
triệt để hơn nhiều. Một cách để mô tả mục tiêu của bộ Ẩn Chính là nói rằng nó gợi ra và
thống nhất các nguyên lý nam và nữ. Do đó, trong nhiều bộ bài, người nhảy múa trong
lá The World là một người lưỡng tính.
Theo những người theo Qabalah và các nhà triết học huyền bí (Hermetic philosopher) tất cả
nhân loại (và tất nhiên, cả Thượng Đế) gốc đều là lưỡng tính; nam giới và nữ giới bị tách
biệt chỉ là một hậu quả của sự Sa Ngã. Bởi vậy, ở mức xa hơn, mỗi người chúng ta đều chỉ
có một nửa con người và chỉ qua tình yêu ta mới cá thể tìm thấy cảm giác thống nhất.
Ta thấy quan niệm tương tự ở Plato, nhưng với một biến tấu thú vị. Một trong những thần
thoại Platon (Platonic myth) phát biểu rằng nhân loại gốc là những sinh vật đôi, nhưng có ba
loại: nam-nữ, nam-nam và nữ-nữ. Tin rằng nhân loại ấy chiếm quá nhiều quyền năng
nên Zeus liền tách họ ra với một lưỡi tầm sét, và nay mỗi người chúng ta đang tìm kiếm nửa
kia của mình. Đối lập với thần thoại của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo câu chuyện
của Plato đưa ra một thực tế công bằng cho người đồng tính. Điều này nhắc nhở chúng ta
sự nguy hiểm trong những diễn giải biểu tượng quá dễ dãi xem nam và nữ như những mặt
đối lập cơ bản. Magician và High Priestess được hòa vào nhau một cách tinh tế trong mỗi
chúng ta. Và thiên thần có thể được bất cứ hai kẻ yêu nhau nào triệu gọi. Vấn đề không
phải là vai trò mà là thực tế của sự thống nhất.
Trong những diễn giải thông thường của Thiên Chúa giáo thì Eve Sáng Thế (Genesis Eve)
chịu một tội lỗi nặng nề hơn, không chỉ vì bà là người đầu tiên mà còn vì khoái lạc của bà đã
quyến rũ Adam sa ngã. Đàn ông được cho là bị chế ngự bởi lý trí và phụ nữ là bởi những

41
khát khao. Sự phân chia này dẫn đến việc một vài người theo Thiên Chúa giáo tuyên bố
rằng phụ nữ không có linh hồn. Tuy nhiên, cả câu chuyện thần thoại về sự Sa Ngã, với
những nhấn mạnh lên sự bất tuân và trừng phạt, thực sự có ý phục vụ cho một giá trị đạo
đức có tính trấn áp. Những khoái cảm nhục dục được xem là nguy hiểm cho xã hội và do đó
phải kiểm soát chúng. Như Joseph Campbell đã chỉ ra trong Những tấm mặt nạ của Thượng
Đế (The Masks of God) rằng những tín ngưỡng sùng bái nữ thần cổ xưa của
người Palestine chứa một kịch bản tương tự về một chú rắn, một Cây Sự Sống và một quả
táo. Nhưng trong câu chuyện cổ này, người được khai tâm được một nữ thần ban cho một
quả táo cho phép anh ta đi vào thiên đàng, chứ không phải là nguyên nhân khiến anh ta bị
trục xuất. Người Hebrew cổ đã đảo ngược thần thoại, một phần như một cách quy kết các
tôn giáo cũ là xấu xa, nhưng cũng vì họ, như những người Babylon, xem những cách thức
cũ là “gớm ghiếc”.
Tarot, tuy nhiên, là con đường giải phóng. Nỗi sợ mà Jahweh biểu lộ, rằng nhân loại “sẽ trở
nên giống chúng ta”, chính là mục đích của Tarot – hoàn toàn làm bật ra tia sáng thần thánh
trong chúng ta và thống nhất nó với cái tôi nhận thức của ta, để chấm dứt tính hai mặt của
Thượng Đế và loài người và gộp chúng làm một. Do đó, dù nó chứa nhiều biểu tượng giống
như sách Sáng Thế, lá The Lovers của bộ Rider đảo ý nghĩa lại một cách triệt để.
Hãy chú ý rằng trong khi người đàn ông nhìn vào người phụ nữ, người phụ nữ lại nhìn về
phía thiên thần. Nếu nam giới chắc chắn là lý trí, thì sự hợp lý chỉ có thể vươn ra ngoài
những giới hạn của nó qua trung gian là những đam mê. Bởi những tính chất của nó, lý trí
điều khiển và chứa đựng trong khi đam mê có xu hướng phá vỡ mọi giới hạn. Truyền thống
của chúng ta đã khiến cơ thể và tư duy trở nên xa lạ với nhau. Tarot dạy chúng ta rằng ta
phải thống nhất chúng (một ngọn núi đơn độc mọc lên giữa hai kẻ yêu nhau) và rằng đó
không phải quyền lực kiểm soát của lý trí là thứ đẩy các giác quan lên một tầm mức cao
hơn, mà là thứ đối lập với nó.
Ta có thể thấy điều này trực tiếp trong các thuật ngữ tâm lý học. Hầu hết mọi người bị trói
buộc bên trong cái tôi của họ hoặc những tấm mặt nạ mà họ trưng ra cho thế giới thấy.
Nhưng nếu họ có thể giao phó cho đam mê tình dục, họ có thể, ít nhất trong một lúc, vượt
qua được sự cô lập của bản thân. Nhưng ai không thể thả lỏng cái tôi, thậm chí chỉ trong
một chốc lát, sẽ lạm dụng tình dục và bị nó lạm dụng. Tình dục trở thành một công cụ để
chiếm lấy quyền lực đối với ai đó, nhưng không bao giờ thỏa mãn. Khi một người từ bỏ ham
muốn thể xác để buông thả chính nó với một ai khác thì kết quả sẽ là những muộn phiền.
Thiên thần đã bị chối bỏ.
Cùng lúc, chỉ riêng những đam mê thì không thể mang ta đến với thiên thần. Chúng cần
được dẫn đường bởi lý trí cũng như lý trí cần đam mê để giải phóng. Những ai đơn giản là
đi đến bất cứ nơi nào những khao khát của họ đưa họ đến thì thường bị ném từ trải nghiệm
này đến trải nghiệm khác.

42
Paul Foster Case đặt tên cho thiên thần là Raphael, người làm chủ siêu thức. Điều này đưa
ta quay lại với tư duy ba ngôi một thể; ở đây ta học được rằng ba cấp độ của tâm trí không
bị chia tách hay cô lập như ba tầng của một ngôi nhà, mà rằng siêu thức thực ra là một sản
phẩm của ý thức và tiềm thức kết hợp với nhau. Con đường nhỏ nằm dọc theo tiềm thức vì
đó là nơi chúng ta tìm thấy nguồn sống thực sự. Một phần của sự chuyển hóa này nằm
trong ý thức, thứ cho nguồn năng lượng kia hình hài, phương hướng và ý nghĩa.
Nếu trong mô-típ ba bên hai hình ảnh bên dưới đại diện cho những mặt đối lập của cuộc
sống, trong khi hình ảnh lớn ở trên biểu trưng cho một sức mạnh trung hòa giữa chúng, thì
trong lá chính số 6, nhân tố trung hòa chính là tình yêu nhục dục. Khi ta giao phó cho nó ta
sẽ trải nghiệm một gợi ý về thứ còn vĩ đại hơn bản thân ta. Chỉ là một gợi ý lờ mờ, và chỉ
trong một khoảnh khắc; sự giải phóng thực sự đòi hỏi đến cuối cùng một giao kết to lớn hơn
là niềm đam mê. Nhưng tình yêu có thể giúp ta nhìn thấy con đường, và biết chút ít về niềm
vui sướng chờ ta ở cuối con đường đó. Một số những người thần bí, điển hình là
Thánh Teresa, đã mô tả sự thống nhất với Chúa trong những khoảnh khắc ngất ngây thể
xác.
Những ý nghĩa tiên tri của hình ảnh của Waite-Smith là hãy cởi mở. Chúng quy đến tầm
quan trọng của tình yêu trong đời người và đến một tình yêu đặc biệt; rất thường thấy là hôn
nhân hay một mối quan hệ dài lâu. Lá bài hàm ý rằng một mối quan hệ đặc biệt đã hoặc sẽ
chứng minh nó rất giá trị với một người, dẫn dắt người ấy đến một thấu hiểu mới về cuộc
đời. Nếu một vài vấn đề đặc biệt hiện lên trong quẻ bài thì lá The Lovers biểu thị sự giúp đỡ
theo một cách nào đó, cả kiểu đặc biệt thông qua trợ giúp của người yêu lẫn qua những ủng
hộ về mặt cảm xúc. Nhưng điều này không phải bao giờ cũng đúng. The Lovers, trong vị trí
của quá khứ, đặc biệt là trong quan hệ với những lá bài biểu thị một sự từ chối nhìn vào tình
thế thực tại, có thể biểu thị niềm luyến tiếc bất ổn đối với cuộc tình đã mất.
Những lá bài trước đều đại diện cho những nguyên mẫu. Khi ta đảo ngược chúng ta sẽ
thêm những yếu tố còn thiếu vào. Nhưng ở đây tính cá nhân đã trội hơn và giờ thì nghĩa
ngược thể hiện sự yếu đuối và trì trệ. Đầu tiên nó là một tình yêu tiêu cực, đặc biệt là trong
một cuộc hôn nhân tồi tệ. Nó có thể quy đến những vấn đề lãng mạn hay tình dục đã chi
phối cuộc đời một người, cả những khó khăn gặp phải với một người cụ thể lẫn bởi một
người thấy chuyện yêu đương đơn giản chỉ là một vấn đề lớn. Bởi vì bức tranh của Waite-
Smith biểu thị một tình yêu trưởng thành, và hình ảnh truyền thống thể hiện quá trình của
một chọn lựa thời son trẻ, nên cả hai phiên bản đảo ngược đều biểu thị một sự non nớt về
tình cảm; thời thanh niên kéo dài khiến vài người rơi vào những ảo tưởng ngây ngô một thời
gian dài sau khi cơ thể họ đã trưởng thành trọn vẹn.

THE CHARIOT

43
Những phiên bản cũ của lá này vẽ Chariot được kéo bởi hai con ngựa chứ không phải hai
con nhân sư từ một số những nguồn lịch sử và thần thoại. Căn bản nó ra đời từ đám rước
những người anh hùng chinh chiến tổ chức ở Rome và những nơi khác, khi cỗ xe ngựa chở
anh ta qua những con phố chật đầy dân chúng đang hò reo chào đón. Phong tục này rõ
ràng là câu trả lời cho nhu cầu tâm lý sâu xa của đám đông tham gia. Chúng ta vẫn tổ chức
hoạt động này ngày nay, như hai ngàn năm trước, trong những cuộc diễu hành cho tổng
thống, tướng tá và phi hành gia với xe hòm mui trần thay cho xe ngựa.
Lá The Chariot mang nhiều ý nghĩa hơn là một chiến thắng vĩ đại. Để lái được xe hai ngựa
với tốc độ cao đòi hỏi một sự kiểm soát hoàn toàn đối với hai con thú; hoạt động được dùng
như một phương tiện hoàn hảo cho ý chí mạnh mẽ. Plato, trong cuốn Phaedrus, cho rằng
tinh thần là một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa đen và trắng, một hình ảnh chính xác
của Tarot.

Một thần thoại Ấn Độ giáo kể chuyện thần Shiva phá hủy một thành phố ba phần của lũ quỷ.
Để làm vậy ngài đòi hỏi tất cả mọi sinh vật đều tuân phục ý chí của ngài. Những vị thần đã
chế tạo một cỗ xe cho Shiva, không chỉ dùng bản thân họ mà cả thiên giới và địa giới làm
vật liệu. Mặt trời và mặt trăng trở thành bánh xe và những ngọn gió trở thành ngựa. (Biểu
tượng ở trước cỗ xeTarot, trông giống một cái đai ốc và bu-lông, hoặc một bánh xe và trục
xe, được gọi là lingam và yoni, tượng trưng cho Shiva, nguyên tố nam tính, và Parvati,
nguyên tố nữ tính, thống nhất thành một thể). Thông qua các hình ảnh thần thoại chúng ta
học được rằng chiến thắng tinh thần trước những xấu xa sẽ đến khi ta có thể tập trung
được toàn bộ tự nhiên, cũng như sức mạnh vô thức biểu hiện trong chính Shiva, qua ý chí
chủ động.
Hai câu chuyện này thể hiện hai khía cạnh khác nhau trong quan niệm về ý chí. Câu chuyện
về Shiva nói về chiến thắng thực sự, ở đó tinh thần đã tìm được một điểm tụ để giải phóng
tất cả sức mạnh của nó. Nhưng cuốn Phaedrus cho chúng ta một hình ảnh về cái tôi chiến
thắng, thứ kiểm soát chứ không giải quyết những xung đột cơ bản của cuộc sống. Những

44
nhà diễn giải Tarot nào xem những lá bài là tập hợp những hình ảnh riêng biệt, mỗi lá góp
vài bài học quan trọng cho sự thấu hiểu tinh thần của chúng ta, có xu hướng xem
lá The Chariot với nghĩa rộng hơn của nó. Họ chỉ ra rằng tên gọi Qabalah dành cho số 7, với
tất cả những ý nghĩa huyền bí của nó, là “Chiến thắng” (Victory).
Ở nhiều nơi, đặc biệt là Ấn Độ, ngựa được gán với với cái chết và đám tang. Khi chế độ phụ
hệ bãi bỏ nghi thức hiến tế nhà vua, họ giết một con ngựa thay vào. Hiến tế ngựa trở thành
sự hiến tế linh thiêng nhất, được gán cho sự bất tử. Ngay cả ngày nay, ngựa vẫn dùng để
kéo quan tài của những lãnh đạo vĩ đại. (Người ta thấy có một điểm tiếp nối kỳ lạ giữa hai
khía cạnh của lá The Chariot trong cái chết của John Kennedy. Ông bị giết trên
chiếc limousine trong một cuộc diễu hành, và sau đó thì một con ngựa – đã chống lại lệnh
người huấn luyện – đã kéo chiếc quan tài của ông trong tang lễ). Những kết nối này cho
thấy quan niệm về sự chiến thắng của linh hồn vượt lên trên cái chết.
Khi ta nhìn vào những lá bài theo chuỗi, ta thấy rằng 7 chỉ là chiến thắng ở dòng đầu tiên
của bộ Ẩn Chính. Nó là phần thưởng cho quá trình trưởng thành của dòng đó, nhưng chỉ
bằng những tất yếu thì nó không thể nhắm đến những lĩnh vực vĩ đại của vô thức và siêu
thức. Thấy được con đường này, lá The Chariot chỉ cho chúng ta thấy cái tôi đã phát triển;
những bài học của các lá bài đầu tiên đã được tiếp thu, giai đoạn thời trẻ của những tìm
kiếm và kiến tạo bản thân đã qua, và giờ đây chúng ta thấy một người lớn trưởng thành,
thành công trong cuộc sống, được người khác ngưỡng mộ, tự tin và hài lòng với chính
mình, có thể điều khiển tình cảm, và trên hết, có thể định hướng ý chí.
Giống như The Magician, Người Đánh Xe cũng cầm một cây gậy phép. Không
như The Magician, anh ta không nâng nó lên trên đầu chỉ tới thiên đường. Sức mạnh của
anh tuân phục ý chí của anh. Hai tay anh không cầm sợi dây cương nào. Riêng tính cách
mạnh mẽ của anh đã kiểm soát những sức mạnh đối lập trong cuộc sống.
Lingam và yoni biểu thị cho tính dục trưởng thành nằm dưới sự kiểm soát của anh. Do đó
anh không phải là nạn nhân của những cảm xúc của mình và bản năng tình dục của anh
góp phần vào một cuộc sống đầy thỏa mãn. Hình vuông phát sáng trên ngực anh, một biểu
tượng của tự nhiên sôi động, nối anh với thế giới khoái lạc của The Empress, nhưng ngôi
sao tám cánh trên vương miện anh cho thấy năng lượng tinh thần của anh định hướng cho
những đam mê (những nhà biểu tượng học xem ngôi sao tám cánh là lưng chừng giữa hình
vuông của thế giới vật chất và vòng tròn của tinh thần. Hình khối cỗ xe lớn hơn thị trấn phía
sau biểu thị rằng ý chí của anh còn mạnh mẽ hơn cả những nguyên tắc của xã hội. Tuy
nhiên, việc chiếc xe của anh đang không chuyển động cho thấy rằng anh ta không phải là
một kẻ nổi loạn. Những chiếc bánh xe nằm trên nước, thể hiện rằng anh rút năng lượng từ
vô thức, dù bản thân cỗ xe lại nằm trên đất, tách anh ta khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với sức
mạnh vĩ đại.

45
Chúng ta đã đề cập đến biểu tượng tính dục lingam và yoni. Trong lúc thần thoại Ấn giáo kết
nối ngựa với cái chết, mộng tượng của Freud kết nối chúng với năng lượng tính dục của
dục tình. Bằng cách điều khiển những con ngựa (hoặc nhân sư) Người Đánh Xe điều khiển
những ham muốn bản năng của mình.
Nhiều dấu hiệu phép thuật tô điểm cho cơ thể anh ta. Váy anh mang những biểu tượng của
phép thuật nghi lễ, thắt lưng thể hiện các dấu hiệu và các hành tinh. Hai khuôn mặt hình mặt
trăng trên vai anh được đặt tên là “Urin và Thummim”, hai cầu vai được cho là của những
Tư Tế ở Jerusalem và do đó gợi hình ảnh The Hierophant. Cùng lúc mảnh trăng cũng quy
đến The High Priestess. Cũng chú ý rằng tấm vải phía sau cỗ xe gợi đến tấm màn
của The High Priestess; anh đã đặt bí ẩn của tiềm thức phía sau mình.  
Do đó, ta thấy trong biểu tượng của lá The Chariot tất cả những lá bài trước đó của dòng
đầu tiên. Gậy phép và những biểu tượng biểu thị The Magician, nước, nhân sư và tấm màn
biểu thị The High Priestess, hình vuông và đất xanh biểu trưng cho The Empress, thành phố
biểu tượng cho The Emperor, cầu vai biểu trưng cho The Hierophant, và lingamvà yoni biểu
trưng cho The Lovers. Tất cả những thế lực đó góp phần cho nhân cách bên ngoài.  
Tuy nhiên – hãy quan sát lá The Chariot với những tính chất giống như đá của nó. Hãy quan
sát bản thân người đánh xe hòa nhập vào cỗ xe đá của anh ta. Tinh thần dâng hiến mọi thứ
cho nhận thức sẽ phát sinh nguy cơ trở nên cứng nhắc, cắt đứt đi những thế lực nó đã học
cách kiểm soát. Cũng hãy quan sát rằng hai con nhân sư đen và trắng không hòa thuận với
nhau. Chúng nhìn theo hai hướng đối lập. Ý chí của người đánh xe giữ chúng trong thế cân
bằng căng thẳng. Nếu ý chí này sụp đổ, The Chariot và người lái nó sẽ bị xé ra.
Paul Douglas đã so sánh The Chariot với quan niệm của Jung về “diện mạo cá nhân”. Khi ta
lớn lên ta tạo ra một loại mặt nạ để đối phó với thế giới bên ngoài. Nếu ta đối phó thành
công với vô vàn những thử thách của cuộc sống, thì những khía cạnh khác nhau biểu trưng
bởi những lá bài khác sẽ trở nên hòa hợp với cái mặt nạ-cái tôi này. Nhưng ta cũng có thể
dễ dàng nhập nhằng phần thành công này với bản ngã thực sự, thậm chí đến mức nếu ta
cố loại bỏ chiếc mặt nạ này ta sẽ sợ hãi sự mất đi nó như một kiểu tử vong. Đây là lý do tại
sao dòng thứ hai của bộ Ẩn chính, dòng làm việc chủ yếu với sự giải phóng bản thân khỏi
những chiếc mặt nạ bên ngoài của nó, đặt lá The Death ngay cạnh lá cuối cùng.
Cho đến nay chúng ta đã xem The Chariot như một tượng trưng cho sự trưởng thành cá
nhân. Nhưng quan niệm về ý chí con người còn mở rộng ra bên ngoài cá nhân. Với những
hình ảnh tinh thần chinh phục và tận dụng những thế lực của cuộc sống, lá The Chariot là
một biểu tượng hoàn hảo cho nền văn minh, thứ tạo nên trật tự từ hỗn mang của tự nhiên
bằng cách sử dụng thế giới tự nhiên như một thứ nguyên liệu thô cho nền nông nghiệp và
những thành thị của nó. Một trong những ý nghĩa theo Qabalah trọng yếu dành cho lá bài
này đã mở rộng quan niệm ấy. Bằng sự kết nối của nó với ký tự Hebrew
“Ian”, lá The Chariot mang phẩm chất của “nói” (speech). Khả năng nói luôn có ý nghĩa với

46
loài người để thể hiện lý trí và sự thống trị của nó đối với tự nhiên. Cho đến khi ta biết chỉ
riêng loài người có ngôn từ (dù tinh tinh cho thấy chúng có khả năng học ngôn ngữ dấu hiệu
của loài người, và cá voi cùng cá heo có thể có những ngôn ngữ đã phát triển của riêng
giống loài chúng), ta có thể nói rằng khả năng nói tách chúng ta khỏi động vật. Adam chiếm
được quyền kiểm soát đối với các quái thú ở vườn địa đàng bằng cách nói lên tên chúng.
Quan trọng nhất, loài người dùng ngôn ngữ để truyền thông tin cho phép nền văn minh tiếp
tục.  
Tuy nhiên, cũng như cái tôi có giới hạn, khả năng nói cũng vậy. Trước nhất, khả năng nói
giới hạn trải nghiệm thực tế của chúng ta. Bằng cách lập một miêu tả về thế giới, bằng cách
dán nhãn mọi thứ, chúng ta dựng nên một rào chắn giữa chúng ta và trải nghiệm. Khi chúng
ta nhìn một cái cây, chúng ta không thể cảm thấy tác động của các cơ quan sống; đúng
hơn, ta chỉ nghĩ “cây” và đi tiếp. Cái nhãn đã thay thế bản thân vật thể. Cũng bởi phụ thuộc
quá nhiều lên tính chất lý tính này của ngôn ngữ chúng ta đã phớt lờ những trải nghiệm
không thể diễn tả bằng lời. Chúng ta đã thấy The High Priestess biểu thị sự minh triết thuộc
về trực giác bên ngoài ngôn ngữ như thế nào. Những trải nghiệm cụ thể, đặc biệt là sự
thống nhất kỳ diệu với tinh thần, không thể mô tả được. Ngôn ngữ chỉ có thể gợi ý về chúng
với những ẩn dụ và những câu chuyện kể. Những người dựa hoàn toàn vào ngôn từ thậm
chí đã đi quá xa khi khăng khăng rằng những trải nghiệm không nói nên lời, hoặc những trải
nghiệm không thể cân đo đong đếm bằng những kiểm tra tâm lý, thì không tồn tại. Đây đơn
giản là vì chúng không thể được miêu tả một cách khoa học. Những võ đoán như vậy nhận
biểu tượng hoàn hảo của nó trong sự gắn liền của người đánh xe với cỗ xe đá của anh ta.
Cho đến nay chúng ta đã xem xét mọi biểu tượng trong bức tranh ngoại trừ, có lẽ là, biểu
tượng rõ ràng nhất: hai con nhân sư. Waite mượn cách tân này từ Eliphas Lévi, người tiên
phong vĩ đại của Tarot theo Qabalah (Qabalistic Tarot). Giống nhưng hai cây cột
của The High Priestess, hoặc hai con ngựa đen và trắng mà chúng thay thế, các nhân sư
biểu thị tính nhị nguyên và những mặt đối lập của cuộc sống. Một lần nữa, ta thấy mô-típ ba
bên. Ở đây thế lực trung hòa là sức mạnh ý chí.
Việc dùng nhân sư thay vì ngựa cho thấy một vài ý nghĩa sâu xa hơn. Nhân sư trong huyền
thoại Hy Lạp là một người ra câu đố, đại diện điều bí ẩn của cuộc sống đối với con người
ở Thebes. Thần thoại kể với ta rằng con nhân sư bắt những thanh niên trong thành phố và
hỏi họ câu hỏi sau: “Sinh vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa đi hai chân và buổi tối đi
ba chân?” Những ai không thể trả lời sẽ bị xé xác. Lúc bấy giờ, câu trả lời là “con người” kẻ
bò khi còn còn thơ bé, đi thẳng khi là người lớn và dùng một cây gậy chống khi tuổi già. Ngụ
ý rất rõ ràng. Nếu anh không hiểu tính người cơ bản của anh, với những điểm mạnh và
điểm yếu của nó thì cuộc sống sẽ phá hủy anh. Lá The Chariot biểu trưng cho sự trưởng
thành, chấp nhận những giới hạn của cuộc sống, cộng thêm khả năng nói, đó là sự thấu
hiểu lý tính, thứ được dùng để định nghĩa sự tồn tại và do đó để kiểm soát nó.

47
Nhưng một ý nghĩa sâu xa hơn ẩn náu ở đây. Người đã trả lời câu đố của nhân sư
là Oedius, người đã đến Thebes sau khi giết cha mình. Sự nhấn mạnh của Freud lên sự
loạn luân làm tập trung chệch khỏi thông điệp sâu xa trong câu chuyện
về Oedipus. Oedius là hình ảnh hoàn hảo của một người thành công. Anh ta không chỉ
cứu Thebes khỏi một mối họa và trở thành vua của thành phố mà còn làm được vậy là nhờ
thấu hiểu của anh về cuộc sống. Anh biết con người là gì. Tuy nhiên anh không tự biết
chính mình. Thực thể bên trong của chính anh ta vẫn đóng cho đến khi những vị thần buộc
anh ta đối mặt với nó. Và các thầnt hực sự đã ép buộc anh. Nếu ban đầu lời sấm không
được nói với cha anh và rồi với anh thì Oedius có lẽ sẽ không bao giờ có những việc anh đã
làm. Do đó, dù anh có hiểu ý nghĩa bên ngoài về cuộc đời một người nhưng anh không hiểu
anh thực sự là ai lẫn mối liên hệ của anh với những vị thần đã kiểm soát đời anh. Và hai vấn
đề này chính xác là những mối quan tâm của dòng thứ hai và dòng thứ ba của bộ Ẩn Chính.
Ở dòng thứ hai chúng ta vượt ra ngoài cái tôi để tìm thấy bản chất thật. Ở dòng thứ ba
chúng ta công khai giải quyết những thế lực nguyên bản của sự tồn tại và cuối cùng chạm
đến sự hòa nhập hoàn toàn của những mặt lưỡng lập mà người đánh xe có thể thống trị
nhưng không bao giờ có thể hòa hợp.
Ý nghĩa tiên tri của lá The Chariot bắt nguồn từ ý chí mạnh mẽ của nó. Trong giải bài lá bài
này biểu thị một người kiểm soát thành công một vài tình huống qua sức mạnh tính cách
của người ấy. Lá bài ngụ ý rằng một tình huống chứa đựng những mặt đối lập và rằng
những mặt này không được mang đến với nhau mà chỉ đơn giản là được giữ dưới tầm kiểm
soát. Khi ở chiều thuận lá The Chariot cơ bản mang nghĩa thành công; tính cá nhân đảm
nhiệm thế giới quanh nó. Nếu nó xuất hiện ở kết quả của quẻ bài giải quyết những vấn đề
thì nó cho thấy chiến thắng.
Xoay ngược lại, những đối lập vốn có của lá bài nhận được một sức mạnh to lớn
hơn. The Chariot ngược ngụ ý rằng sự tiếp cận đến sức mạnh ý chí chứng tỏ là không
thành, và một tình huống đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Nếu người này không tìm được một
cách tiếp cận khác đến những khó khăn thì người ấy sẽ đối mặt với thảm kịch. Chỉ riêng sức
mạnh ý chí không thể lúc nào cũng chống đỡ chúng ta. Giống như Oedius chúng ta đôi lúc
phải học cách giao phó cho thần linh vậy.

48
CHƯƠNG V: QUAY VÀO BÊN TRONG

TÌM KIẾM SỰ TỰ TRI (Self-knowledge)

Ở dòng thứ hai của bộ Ẩn Chính chúng ta đi từ thế giới bên ngoài và những thử thách của
nó vào nội ngã. Những đối lập ẩn trong hình ảnh mạnh mẽ của lá The Chariot giờ đây phải
được đối mặt một cách công khai. Chiếc mặt nạ của cái tôi phải chết.

Nghe thì có vẻ kịch tính chứ tình huống này thực ra rất bình thường, nếu như không phải
trong thực tiễn thì cũng ít nhất là trong nhu cầu. Việc tự vấn và tìm kiếm bản thân lâu nay
được xem là những đặc trưng của tuổi trung niên. Khi người ta còn trẻ, họ quan tâm chủ
yếu đến chiến thắng đối với những thế lực của cuộc sống, tìm lấy một người bạn đồng hành
và đạt được thành công. Tuy nhiên, khi đã tìm được thành công, người ta có thể thắc mắc
về giá trị của nó. Câu hỏi “Tôi là ai bên dưới tất cả những gì tôi có, bên dưới tất cả những
hình ảnh mà tôi thể hiện cho người khác thấy?” ngày một trở nên quan trọng hơn. Ngày
nay, nhiều người trẻ không chờ đến tuổi trung niên thành đạt để hỏi những điều này. Một

49
đặc điểm của thời đại chúng ta là niềm khao khát một cuộc sống có ý nghĩa, có cốt lõi bên
trong. Và ngày càng nhiều người quyết định rằng nơi đầu tiên để tìm kiếm ý nghĩa này là
bên trong chính họ.

Quan niệm này, thực tế chỉ là một nửa chân lý. The Magician dạy chúng ta rằng, cũng như
các sinh vật sống khác, chúng ta chỉ tìm thấy thực tiễn trong mối liên kết với thế giới bên
ngoài; chân lý nội tại của The High Priestess là một tiềm năng và phải được biểu lộ thông
qua ý thức của The Magician. Nhưng chỉ cần chiếc mặt nạ, những thói quen và thành lũy
ngăn ta khỏi sự tự tri thì chúng ta sẽ không bao giờ biết tại sao mình hành động, rồi tất cả
mọi thứ ta làm vẫn là vô nghĩa. Dòng nước giữa The Magician và The High Priestess phải
được khơi thông để cuộc sống có giá trị.

Bởi vì dòng bài này về cơ bản đảo ngược lại trọng tâm của bảy lá bài đầu tiên nên nhiều lá
xuất hiện như những hình ảnh thứ yếu cho những lá của dòng trên chúng. Hai cực giới tính
của lá chính 1 và 2 quay trở lại trong Strength và The Hermit, trong khi các nguyên tố ánh
sáng và bóng tối, bên ngoài và bên trong, vẫn giữ vị trí cũ. Lá The Wheel of Fortune chuyển
hướng khỏi thế giới tự nhiên phi lý tính của The Empress để đến với tầm nhìn của những bí
ẩn nội tại. Ở cuối dòng lá Temperance cho ta thấy một loại chiến thắng mới. Sức mạnh của
lá The Chariot đã được thay thế bằng sự cân bằng và điềm tĩnh. Ở nơi cỗ xe đá của người
đánh xe tách anh ta ra khỏi sự tiếp xúc trực tiếp với mặt đất và dòng sông, thiên thần của
lá Temperance đứng đó với một chân đặt trên đất, một chân nhúng trong nước, cho thấy
tính cá nhân trong sự hài hòa giữa bản thân nó và cuộc sống.   

Một chủ đề khác cũng xuất hiện ở dòng thứ hai. Cho đến nay các lá bài đã thể hiện một loạt
bài học cho chúng ta, những thứ ta phải học về cuộc sống để trở nên trưởng thành và thành
công trong thế giới bên ngoài. Đó không phải là những thứ có thể nghiên cứu hay suy ngẫm
mà phải sống mới hiểu được. Loạt những bài học bên ngoài này đạt đến đỉnh cao trong
lá The Wheel of Fortune, lá cho ta thấy một cái nhìn về thế giới và về bản thân chúng ta,
những thứ cần phải được trả lời. Tuy nhiên, lá The Hanged Man cho thấy một thứ gì đó
hoàn toàn khác. Ở đây ta thấy, không phải một bài học mà là hình ảnh của chính sự khai
sáng, nhân cách bên ngoài lộn ngược lại bởi một trải nghiệm hết sức thật và đầy tính cá
nhân.

Giữa hai lá bài này, và tại ngay trung tâm của toàn bộ bộ Ẩn chính, lá Justice nằm đó, cẩn
thận cân bằng cán cân giữa bên trong và bên ngoài, quá khứ và tương lai, lý trí và trực giác,
kiến thức và kinh nghiệm.

STRENGTH

50
Thay đổi của Waite trong lá The Lovers là rõ ràng nhất trong số những sửa đổi Tarot của
ông; còn việc ông đổi chỗ lá Strength và lá Justice vẫn là điều gây tranh cãi nhất. Bản thân
ông không đưa ra một lý do thật sự cho sự thay đổi này. “Vì những lý do nhằm thỏa mãn
bản thân tôi, lá bài này đổi chỗ cho lá Justice vốn thường được đánh số tám. Vì sự biến đổi
này không mang những dấu hiệu gợi ý nào cho người đọc nên không có lý do gì để giải
thích hơn”. Các lý do chắc chắn nằm ngoài phạm vi cá nhân. Không chỉ Waite mà cả Paul
Foster Case và Aleister Crowley cũng đặt Strength là lá 8 và Justice là lá 11. Chắc hẳn tất
cả họ đều theo Hội Bình Minh Vàng, hội mà các bộ Tarot của họ cũng đổi chỗ hai lá bài này.

Sự kết nối đến một hội kín này cho thấy quan niệm về sự khai tâm. Ở đây, hội Bình Minh
Vàng chắc chắn không khởi xướng ra việc tu tập để khai tâm, mặc dù việc này yêu cầu phải
nhận những nghi lễ đặc biệt của nó một cách trực tiếp từ những người hướng dẫn thần
thánh. Sự khai tâm lui lại hàng ngàn năm và được thấy trên khắp thế giới, từ các đền thờ Ai
Cập cho đến hoang mạc ở Úc. Nó thể hiện một cách thức đặc biệt của sự biến đổi tâm lý –
chủ đề chính của dòng giữa của bài Tarot. Bằng cách quy chiếu Justice và những lá bài
xung quanh nó đến quan niệm cổ xưa này, chúng ta đạt được một sự thấu hiểu rộng hơn
về Tarot dưới dạng trải nghiệm.
Xem xét những ẩn ý trong cách sắp xếp cũ của các lá chính cũng đáng giá. Hình ảnh của
lá Justice khuyên rằng hãy cân đo cuộc sống của bạn trong sự cân bằng. Dòng thứ hai
mang ta ra xa khỏi những thành tựu bên ngoài của dòng đầu tiên và đi vào bản ngã. Do
đó, Justice ở vị trí ban đầu có nghĩa là một sự đánh giá ý nghĩa của cuộc sống đối với bạn,
được nối tiếp bởi một quyết định tìm kiếm bên trong một ý nghĩa vĩ đại hơn. Rõ ràng, ngụ ý
này rất hợp. Nhưng nếu Justice đến đầu tiên thì tất cả những thứ này sẽ xảy ra một cách lý
tính; sự đánh giá nổi lên như một phản ứng đầy ý thức đối với những bất mãn. Đánh giá
này sẽ còn xuất hiện mạnh mẽ đến thế nào khi nó nổi lên từ bên trong, thúc đẩy chúng ta
qua cái nhìn đầy mạnh mẽ của The Wheel of Fortune. Thanh gươm hai lưỡi của Justice ngụ

51
ý hành động, một đáp trả với kiến thức đạt được trong sự đánh giá này. Ý niệm về sự đáp
trả trực tiếp dẫn ta đến với The Hanged Man. Nếu Justice đến trước thì tiếp theo đó sẽ
là The Hermit. Vì là một kẻ tìm kiếm tri thức The Hermit cũng sẽ thể hiện một phản ứng hợp
lý với Justice. Nhưng một lần nữa, nếu chúng ta chấp nhận rằng tri thức đến trước Justice,
thì Hanged Man sẽ thể hiện một câu trả lời từ sâu thẳm bên trong.  
Giờ hãy xem xét lá Strength ở cả hai nơi. Bức tranh vẽ một người phụ nữ đang thuần hóa
một con sư tử. Nói ngắn gọn thì hình ảnh cho thấy năng lượng của vô thức đã được giải
phóng và bình ổn, “được thuần hóa” bởi đường hướng của sự thấu hiểu ý thức. Một quan
niệm như thế sẽ dễ thuộc về vị trí giữa. Chúng ta sẽ miêu tả lá bài như một bài kiểm tra chủ
yếu của cả dòng. Và chắc chắn rằng sự thanh thản và đảo ngược to lớn của The Hanged
Man sẽ theo sau Strength một cách hoàn hảo.
Nhưng chúng ta cũng có thể thấy Strength có những tính chất quan trọng cho vị trí đầu của
dòng. Sự tìm kiếm bên trong không thể được hoàn thành bởi cái tôi. Chúng ta cần chạm
trán với những cảm giác và những khát khao lâu nay đã giấu mình khỏi những suy nghĩ
mang tính ý thức của chúng ta. Nếu ta cố gắng biến đổi bản thân bằng một quá trình lý trí
hoàn toàn thì ta sẽ tạo nên một dạng cá tính khác. Sự thực là những thứ giống như vậy xảy
ra khá thường xuyên. Nhiều người cảm thấy cuộc đời họ thiếu tính tự phát. Họ nhìn xung
quanh mình hoặc đọc các sách tâm lý, và quan sát, với một chút ít ghen tị, hay thậm chí là
xấu hổ vì những ức chế của riêng mình, với những tính cách của những người có tính tự
phát cao. Và rồi, thay vì đi theo quá trình đầy đáng sợ của việc giải phóng những nỗi sợ và
khát khao thầm kín của mình, họ cẩn thận bắt chước tính tự phát. Họ đã mở
rộng The Chariot đến một phạm vi mới.
Bằng cách đặt lá Strength làm số 8 chúng ta đã để nó đối đầu với The Chariot, như một
dạng sức mạnh khác biệt, không phải là ý chí của cái tôi, mà là Sức Mạnh bên trong để
đương đầu với chính bản thân bạn một cách điềm tĩnh và không sợ hãi. Những bí ẩn có thể
được bóc trần bởi chúng ta đã tìm ra Sức Mạnh để đối mặt với chúng. Con sư tử hàm ý tất
cả những cảm nhận, sợ hãi, khát khao và bối rối bị cái tôi kiềm lại trong nỗ lực kiểm soát
cuộc sống của nó. Người đánh xe dùng những cảm nhận bên trong của anh như một nguồn
năng lượng, nhưng luôn cẩn thận định hướng năng lượng đó đến nơi mà anh ta quyết định
một cách ý thức rằng nó nên đến. Strength cho phép những đam mê bên trong nổi dậy, như
một bước tiến đầu tiên trong hành trình vượt ra khỏi cái tôi.
Ở một cấp độ hết sức đơn giản chúng ta có thể thấy sự nổi dậy của những cảm giác bị đè
nén này trong một người cho phép người ấy hành động “như trẻ con”, gào khóc hay la hét;
nói ngắn gọn là làm tất cả những gì có vẻ ngốc nghếch hay đáng xấu hổ. Ở một cấp độ sâu
hơn con sư tử biểu trưng cho toàn bộ sức mạnh của tính cá nhân, thường được mài nhẵn
bằng những đòi hỏi của cuộc sống văn minh. Strength giải phóng năng lượng này để sử
dụng nó như một loại nhiên liệu, thúc đẩy chúng ta trên con đường nội tại của The Hermit.

52
Mục tiêu này chỉ có thể hoàn thành bởi vì con sư tử được “thuần hóa” cùng lúc với khi nó
được thả ra. Strength mở ra tính cá nhân giống như Pandora mở ra chiếc hộ của nàng vậy.
Tuy nhiên, nó mở ra như vậy với một cảm giác bình lặng, một tình yêu bản thân cuộc sống,
và một sự tự tin to lớn vào kết quả cuối cùng. Nếu chúng ta không thực tâm tin tưởng rằng
quá trình khám phá bản thân là một quá trình đầy niềm vui thì chúng ta sẽ không bao giờ
theo nó đến tận cùng.
Tính biểu tượng của các bức tranh và chữ số củng cố thêm sự so sánh
giữa Strength và The Chariot. The Chariot thể hiện một người đàn ông và Strength thể hiện
một người phụ nữ. Theo truyền thống, tất nhiên, điều này đại diện cho lý trý và cảm xúc, tấn
công và từ bỏ. Cũng theo truyền thống, số 7 của lá The Chariot thuộc về phép thuật “nam
giới”, số 8 thuộc về “nữ giới”. Tính biểu tượng này nổi bật từ giải phẫu. Cơ thể nam mang
bảy khiếu (mũi được tính là một khiếu), cơ thể nữ mang tám. Cũng tương tự, cơ thể nam
giới có bảy điểm, hai cánh tay và hai chân, đầu, trung tâm và dương vật. Nữ giới có tám, với
hai ngực thay cho dương vật. 
Chúng ta có ý gì khi nói đến phép thuật nam và nữ? Thuyết bí truyền cho rằng năng lượng
giới tính là là một biểu hiện của các nguyên tố năng lượng nằm dưới toàn vũ trụ; nam giới
và nữ giới giống như hai cực dương và âm của điện từ học. Thông qua sự vận động của
năng lượng lưỡng cực này, “phép thuật” xảy ra. Các nhà huyền học cho rằng những nguyên
tố này là một môn khoa học, không hơn không kém, huyền bí hơn sự vận động năng lượng
nguyên tử của các nhà khoa học hiện đại. Chúng ta có thể mô tả lá The Lovers của
bộ Rider như một sơ đồ năng lượng giản lược. Do đó, The Chariot và Strength thuộc về
nhau một cách sâu sắc như sự vận động thực tiễn của các nguyên tố được biểu trưng
trong The Magician và The High Priestess.
Theo tâm lý thì chúng cũng bao gồm hai loại sức mạnh. Xã hội chúng ta nhấn mạnh đến
sức mạnh “nam tính” của kiểm soát; chinh phục, thống trị thế giới thông qua lý trí và ý chí.
Nhưng những phẩm chất “nữ tính” của trực giác và cảm xúc tự phát không hề yếu đuối chút
nào. Để giải phóng những xúc cảm sâu thẳm nhất của bạn với tình yêu và niềm tin phải đòi
hỏi một dũng khí cũng như một sức mạnh to lớn.
Ở đây lá The Fool bước đến. Chỉ bằng một cú nhảy tinh thần thì ta mới có thể di chuyển từ
ý thức sang vô thức. Và chỉ một kẻ khờ mới có thể thực hiện một cú nhảy như vậy, vì tại
sao phải từ bỏ thành công, kiểm soát? Các vị thần đã ép buộc Oedipus, vậy nhu cầu bên
trong nào sẽ ép buộc phần còn lại của chúng ta?
Vị trí của lá Strength, ở đầu dòng, kết nối lá này với The Magician, và cả dấu vô cực trên
đầu nàng, một ám chỉ đến số 8 cũng vậy. Việc đổi giới tính biểu hiện sự tham gia các các
khía cạnh của hai nguyên mẫu nam và nữ. Sự tham gia chủ động của The Magician vào
cuộc sống được sự tĩnh lặng nội tại ngụ trong The High Priestess giảm nhẹ đi.

53
Thân hình nở nang của người phụ nữ, mái tóc vàng của nàng cùng chiếc thắt lưng hoa nối
nàng với con sư tử cũng kết nối lá bài này với The Empress. The Empess đại diện cho
những bản năng và ham muốn tự nhiên; một lần nữa ta lại thấy hình ảnh của năng lượng
cảm xúc, “những khao khát thú tính” như một vài nhà diễn giải Tarot gọi nó, được giải phóng
và thuần hóa. Waite mô tả chiếc thắt lưng hoa như một dấu hiệu vô cực thứ hai, với một
vòng quanh eo người phụ nữ và một vòng quanh cổ con sư tử. Chúng ta có thể mô
tả Strength là The Magician hợp nhất với The Empress; tức là sức mạnh ý thức và định
hướng của  The Magician hòa trộn với nhục cảm của The Empress, cho lá bài này một tính
quả quyết và dẫn đường tới The Hermit. Hãy chú ý rằng với dòng đầu tiên thì 1 cộng 3 bằng
4, lá The Emperor. Đối với dòng thứ hai 1 cộng ba thành gấp đôi của 2, chân lý nội tại
của The High Priestess.
Một khía cạnh khác mang sự hợp nhất của 1 và 3 của lá chính này vẫn còn tiếp diễn. Ký
tự Hebrew được Case và những người khác gán
cho Strength là Teth. Teth theo Qabalah quy đến “rắn”; nhưng từ Hebrew để gọi rắn cũng
mang nghĩa “phép thuật”. Trên toàn thế giới người ta tạo nên mối liên kết này, từ những con
rắn trên gậy thần của Hermes đến sức mạnh kundalini của phép tu Đát-đặc-la (Tantra) ở Ấn
Độ và Tây Tạng. Và rắn, trong kundalini và những nơi khác, đại diện cho tình dục. Bài Tarot,
như ta biết từ chú rắn quấn quanh Cây Sự Sống phía sau người phụ nữ trong The Lovers,
xem tình dục là một sức mạnh hướng đến sự khai sáng. Nếu, theo mặt huyền
thuật, Strength đại diện cho việc thực hành thực sự phép thuật giới tính, thì theo tâm lý nó
lại lần nữa quy đến việc giải phóng năng lượng nằm trong những cảm giác mạnh mẽ nhất
của chúng ta. Khi ta so sánh Strength với The Devil ta sẽ thấy rằng sự giải phóng ở đây là
một sự giải phóng không triệt để. Con sư tử bị kiểm soát và định hướng chứ không phải là
được phép đưa bản thân nó đến nơi nó muốn.
Trong giả kim thuật sư tử tượng trưng cho vàng, mặt trời, và lưu huỳnh. Lưu huỳnh là một
nguyên tố bậc thấp và vàng (trong giả kim) là một nguyên tố ở bậc cao nhất. Quá trình biến
lưu huỳnh thành vàng chính xác là quá trình biến đổi bản ngã thấp hơn. Và bản vẽ
của Tenperance, lá bài cuối cùng của dòng này, với chất lỏng đổ từ cốc này sang cốc khác,
diễn tả mục tiêu giả kim của việc điều phối những mặt đối lập vào một phương thức tồn tại
mới mang nhiều ý nghĩa hơn.
Những ai thấy cuộc sống này kiểm soát quá chặt chẽ, những ai thấy vô thức giống như một
“cái rãnh đạo đức” của những kiềm nén (như Jung mô tả đặc điểm cái nhìn hạn hẹp của
những người theo Freud), và thấy rằng đam mê là những dày vò, sẽ thấy con sư tử là
những thế lực tự nhiên mà lý trí phải vượt qua. Một vài bản Tarot cũ, bao gồm cả
bộ Visconti, vẽ cảnh Heracles giết con sư tử vùng Nemea. Những đam mê đã bị lý trí chinh
phục. Nhưng sư tử cũng đại diện cho Chúa Giê-su, sức mạnh lý trí của Thượng Đế. Những
ai cho phép năng lượng vô thức bên trong họ trỗi lên, chỉ dẫn nó bằng tình yêu và niềm tin

54
trong cuộc sống, thì sẽ khám phá ra rằng năng lượng ấy không phải là một con quái thú phá
hoại mà là cùng một loại sức mạnh tinh thần được rút từ cột thu lôi của The Magician.
Trong giải bài lá Strength cho thấy khả năng đối mặt với cuộc sống, và đặc biệt là vài vấn đề
khó khăn hay đến lúc thay đổi, với hi vọng và háo hức. Nó thể hiện một người mạnh mẽ từ
bên trong, trải nghiệm cuộc sống một cách đầy đam mê nhưng bình tĩnh, không bị kiểm soát
hay cuốn đi bởi những đam mê đó. Lá bài đại diện cho sự tìm thấy sức mạnh để bắt đầu
hoặc tiếp tục một dự án khó khăn nào đó, cho dù có sợ hãi hay căng thẳng.
Nếu Strength xuất hiện trong thế kết nối với The Chariot nó có thể biểu thị một thay thế cho
sự thúc đẩy và sức mạnh ý chí, đặc biệt là, tất nhiên, nếu The Chariot đảo ngược. Hai lá bài
này cũng có thể biểu trưng cho các mặt bổ sung, thế bài tốt nhất là có Strength trong vị trí
của cái tôi bên trong, và có The Chariot trong vị trí của cái tôi bên ngoài (các đường ngang
và dọc của một chữ thập). Và ta sẽ thấy một người hành động mạnh mẽ nhưng luôn điềm
tĩnh.
Lá Strength đảo ngược trước hết cho thấy một sự yếu đuối. Dũng khí để đối mặt cuộc sống
không còn nên người này cảm thấy bị áp đảo và bi quan. Nó cũng biểu thị một sự dày vò từ
bên trong. Phần “con” của con sư tử vùng thoát khỏi sự thống nhất của tinh thần và nhục
cảm. Những đam mê trở thành kẻ thù, đe dọa sẽ phá hủy tính ý thức và cuộc sống ý thức
đã xây dựng cho bản thân.

THE HERMIT

Giống như ngôi sao sáu cánh trong chiếc đèn của The Hermit, quan niệm về Hermit đi theo
hai hướng; một hướng vào trong, một hướng ra ngoài. Về cơ bản lá bài này có nghĩa là một
sự rút lui khỏi thế giới bên ngoài vì mục tiêu kích hoạt tinh thần vô thức. Chúng ta thấy quá
trình này được biểu trưng trong tam giác ngược chỉ “nước”, như những nhà giả kim đã gọi.
Nhưng The Hermit cũng biểu thị cho một người thầy, người sẽ chỉ cho ta cách làm thế nào
để bắt đầu quá trình này, và sẽ giúp ta tìm ra con đường của mình. Tam giác xuôi chỉ “lửa”
biểu trưng cho sự dẫn dắt đặc biệt, đó có thể là một người thầy huyền bí, một nhà trị liệu,
những giấc mơ của chính chúng ta, hay thậm chí là một dẫn dắt tinh thần gợi lên từ bên
trong bản ngã.
Hình tượng lá The Hermit ngụ trong một nơi đặc biệt của những hư cấu thời Trung cổ. Sống
trong rừng hoặc trên hoang mạc, hoàn toàn rút mình khỏi những vấn đề thông thường của
con người, người ẩn sĩ thể hiện một thay thế cho Nhà thờ. Đây là một phiên bản châu Âu
của một nhà yoga khổ hạnh, người tượng trưng cho khả nặng tiếp cận Thượng Đế thông
qua trải nghiệm cá nhân của ông. Người ta thường kính trọng những ẩn sĩ như những vị
thánh sống, và quy những quyền năng mầu nhiệm cho họ, theo cách mà những người luyện
tập yoga kể những câu chuyện kỳ diệu về những người thầy của mình.

55
Dù ẩn sĩ rút mình khỏi thế gian nhưng người ấy không rút mình khỏi nhân loại. Bên cạnh
những chức năng khác, họ còn là người cho nơi trú ẩn và đôi khi ban phúc cho những
người lữ hành. Vô vàn những câu chuyện, đặc biệt là những truyền thuyết về Chén Thánh,
mô tả ẩn sĩ là một người trao sự thông thái cho người hiệp sĩ thực hiện một nhiệm vụ thiêng
liêng. Một lần nữa, ta thấy hình tượng kép của The Hermit: làm gương và hướng dẫn.
Hình tượng The Hermit vẫn bền vững một thời gian dài sau khi một cách tu tập đặc biệt đã
mất đi. Nhà triết học tiên nghiệm Ralph Waldo Emerson đã vượt nhiều ngày qua
vùng Scotland xa xôi để tìm căn nhà gỗ nhỏ của Thomas Carlyle. Bạn của Emerson, Henry
David Thoreau, đã tự mình sống trong một căn nhà gỗ ở hồ Walden để tìm kiếm cảm giác
về bản thân và về tự nhiên. Sau đó ông viết về điều này như một tấm gương cho người
khác. Cuốn Dus Sprach Zarathustra của Nietzsche ẩn chứa hình tượng của The Hermit;
cuốn sách bắt đầu với sự quay lại của Zarathustra sau khi đạt được những biến đổi cá
nhân. Và ngày nay, vô số người đã trao bản thân mình cho những vị guru ở phương Đông
với hi vọng những người thầy giống như ẩn sĩ này có thể biến đổi cuộc đời họ.  
Đối với những người không thể tìm thấy một dẫn dắt thực sự thì tinh thần thường sẽ mang
chỉ dẫn đến cho họ. Jung và những môn đệ của ông đã miêu tả nhiều giấc mơ của những
bệnh nhân của mình về một ông lão thông thái hướng dẫn họ trên những cuộc hành trình
huyền ảo đến với tinh thần. Trong nhiều trường hợp nhà phân tích mộng khám phá ra rằng
giấc mơ hướng dẫn thực sự giống một nhà trị liệu. Vô thức có thể nhận ra một người
thầy Hermit trước cả ý thức.
Nhà Quabalah vĩ đại vào thế kỷ mười ba, Abraham Abulafia đã mô tả ba mức độ
của Quabalah. Mức đầu tiên là giáo thuyết; là thứ có thể học từ các văn bản. Mức thứ hai
đến từ dẫn dắt trực tiếp của một người thầy riêng, trong khi mức độ thứ ba; mức phát triển
nhất, là trải nghiệm trực tiếp sự thống nhất đầy thăng hoa với Thượng Đế. Ba mức độ này
kết nối rất trực tiếp với Tarot, không chỉ trong ba dòng bài, mà còn trong ba lá chính đặc biệt
cùng nhau tạo nên một tam giác cân. Mức đầu tiên chúng ta thấy ở lá The Hierophant; mức
thứ ba ngay bên dưới The Hierophant, một mức đã được bỏ ra, xuất hiện trong đứa trẻ vui

56
tươi của lá 19, lá Sun. Mức thứ hai, tuy nhiên, lại không ở lá bài giữa chúng là
lá The Hanged Man, mà ở trong đỉnh khác của hình đồ, lá The Hermit.
Giáo thuyết và huyền thoại đều là đoạn kết của quá trình; giáo thuyết bởi vì bạn đầu tiên
phải sắp xếp đời bạn trước khi tiếp cận việc học tập một cách thức đặc biệt (các
nhà Quabalah thường giới hạn những văn bản đặc biệt quan trọng chỉ cho những người
trên ba lăm tuổi), và bí thuật bởi vì bạn đầu tiên phải vượt qua sự đương đầu mang tính
nguyên mẫu với bóng tối và bí ẩn. Tuy nhiên, một người hướng dẫn lại xuất hiện ở ngay
đầu cuộc hành trình, sau khi người lữ khách đã tìm thấy Sức Mạnh để bắt đầu.
Như một tượng trưng của sự phát triển cá nhân hơn là một người hướng
dẫn, The Hermit biểu thị quan niệm rằng chỉ bằng cách rút khỏi thế giới bên ngoài thì ta mới
có thể đánh thức nội ngã. Những ai xem Tarot là hai nửa. Với The Wheel of Fortune ở điểm
giữa, thì sẽ nhìn The Hermit như một quá trình chuẩn bị trước khi Bánh xe Cuộc đời xoay
đến nửa thứ hai. Khi ta xem Tarot theo các dòng bảy lá, ta thấy rằng sự rút lui này, và bản
thân góc nhìn của lá The Wheel, là những bước tiến tới một mục tiêu lớn hơn.  
Chúng ta thấy The Hermit đứng trên một đỉnh núi cô độc lạnh lẽo. Ông đã rời thế giới các
giác quan để đi vào tâm thức. Quan niệm tâm thức như một núi đá cao giá lạnh chỉ truyền
tải một phần sự thật, hay đúng hơn, là một ảo ảnh. Tâm thức phong phú vì những biểu
tượng, vì niềm vui, vì ánh sáng và tình yêu của tinh thần. Nhưng trước khi ta có thể nắm bắt
những điều này thì ta đầu tiên phải trải nghiệm tâm thức là một sự thay thế âm thầm đối với
thế giới ồn ã của các giác quan. Đối với những sharman, đỉnh núi khô cằn thường là thực tế
trực tiếp. Ở những nơi xa xôi như Siberia và Tây Nam Mỹ những ứng viên sharman một
mình đi vào những vùng hoang vu để tìm kiếm những chỉ dẫn tinh thần sẽ dạy họ cách thế
nào để chữa lành.
The Hermit biểu thị sự truyền tải. Thông qua thiền định, hoặc những tu tập tinh thần, hoặc
phân tích, chúng ta cho phép những phần còn ẩn dấu của tâm lý cất tiếng nói với mình. Về
sau ta sẽ trải nghiệm một cảm giác tái sinh, đầu tiên là giống như một thiên thần (phần bất
tử của bản ngã, vượt ra khỏi bên ngoài cái tôi), rồi sau đó, khi đã cảm nhận sâu hơn, là một
đứa trẻ tự do cưỡi ngựa phóng ra khỏi khu vườn của những trải nghiệm đã qua. Giờ đây,
con đường thuộc về hình tượng của một ông lão thông thái, cô độc, được sưởi ấm và động
viên bởi tấm áo choàng xám thô ráp của sự trầm tĩnh.
Biểu tượng đèn lồng đưa ta quay lại với hình tượng hướng dẫn và dạy dỗ của The Hermit.
Ông chỉ cho ta thấy ánh sáng, cho thấy ông sẵn lòng dẫn dắt chúng ta và khả năng của
chúng ta tìm một con đường nếu ta biết cách sử dụng Strength mà ta phải đi theo. Ở một
vài bộ bài, The Hermit giấu chiếc đèn của mình dưới tấm áo, và như thế nó biểu trưng cho
ánh sáng của vô thức bị dấu đi dưới chiếc áo choàng ý thức. Bằng cách để ánh sáng lộ ra
nhưng vẫn ở bên trong chiếc đèn, bộ Rider cho thấy rằng chúng ta giải phóng ánh sáng

57
thông qua một quá trình tự nhận thức xác định, và rằng ai cũng có thể thực hiện quá trình
này.  
Chúng ta đã thấy ngôi sao là biểu tượng người thầy của The Hermit cũng như là ánh sáng
của vô thức, ra hiệu cho ta khám phá những bí mật của nó. Nó còn biểu thị mục tiêu giải
quyết những mặt đối lập của cuộc sống. Hai tam giác nước và lửa đại diện không chỉ hai
yếu tố thường đối nghịch theo truyền thống mà còn là nam và nữ thống nhất thành một thể.
Cây gậy của The Hermit gợi lên cây gậy một pháp sư, và do đó gợi lên cây đũa phép
của The Magician. Không như The Fool dùng cây gậy đó theo bản năng, The Hermit xem nó
như một nguồn hỗ trợ mang tính ý thức. Do đó nó biểu trưng cho sự dạy bảo giúp mở ra
nhận thức bên trong.  
Nằm trực tiếp bên dưới The High Priestess, The Hermit liên quan đến nguyên tắc rút lui của
nàng, một lần nữa cho thấy rằng ta phải rời thế giới bên ngoài nếu ta muốn nghiên cứu bản
thân mình. Giống như với lá Strength, dòng thứ hai đã đảo nguyên mẫu giới tính. Vai trò của
tính biểu tượng ở đây dạy chúng ta rằng một nỗ lực tinh thần được tính toán, dựa trên
những kỹ thuật và bài học đặc biệt, đưa ta vượt qua trực giác bị khóa của ngôi đền kín
của The High Priestess. Những nguồn nước của ngôi đền đó không được giải phóng hết;
tấm màn vẫn ở nguyên chỗ cũ cho đến khi tia sét của The Tower, bên dưới The Hermit, xé
mở nó. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của lá chính số 9, vô thức nói với ta từ sau tấm màn,
thông qua các biểu tượng, mộng và ảo cảnh.   
Sự phân biệt giữa biểu tượng nam-nữ và thực tế của một cá nhân dẫn ta đến một vài nhận
thức quan trọng về các nguyên mẫu. Chúng ta có xu hướng xem những ẩn sĩ và những
người thầy là những người đàn ông lớn tuổi thông thái, thậm chí trong cả giấc mơ của
chúng ta vì chế độ phụ hệ hai nghìn năm đã làm hằn sâu hình ảnh này vào tâm thức chúng
ta. Những thời xưa, người hướng dẫn thường là phụ nữ, như một đại diện của Nữ thần Vĩ
đại, và ngay cả trong thời đại của chúng ta những người phụ nữ như bà Blavatsky cũng
đảm nhiệm chức năng cổ xưa này. Việc những giấc mơ của chúng ta thường chọn những
ông lão thông thái chứng tỏ một thực tế rất quan trọng, đó là vô thức cũng lấy nguyên liệu từ
cái nền văn hóa của cá nhân người nằm mộng. Nhiều người xem các nguyên mẫu là những
hình tượng đóng đinh cứng nhắc được mọi người chia sẻ qua thời gian. Đúng hơn, các
nguyên mẫu là các xu hướng để tâm thức lập nên một loạihình tượng cụ thể, chẳng hạn
như hình tượng của một người dẫn dắt, và dạng đặc biệt mà một hình tượng nhận lấy sẽ
tùy thuộc rất nhiều vào nền tảng văn hóa và trải nghiệm của một người. Những nghi lễ Chén
Thánh thời Trung cổ và các nghi thức ở hoang mạc châu Úc cùng theo cùng một mô hình
nguyên mẫu; nó nằm dưới chúng như một mạng lưới. Tuy nhiên, dạng thức bên ngoài của
mô hình này rất phong phú.
Ý nghĩa tiên tri của The Hermit bắt nguồn từ cả hai khía cạnh của lá bài. Một mặt nó biểu
trưng có một sự rút lui khỏi những mối quan tâm bên ngoài. Một người có thể loại bỏ chính

58
mình về thể chất, nhưng điều này không thật cần thiết. Điều quan trọng là sự chuyển đổi
chú ý bên trong từ “nhận và dùng”, như Wordsworth đã gọi những hoạt động của chúng ta,
đến những nhu cầu bên trong của một con người. Do đó nó đòi hỏi một sự rút lui cảm xúc
khỏi những người khác và khỏi những hoạt động đã từng được xem là tối quan trọng. Lá bài
này mang trong nó một cảm giác thận trọng về mục đích, một cảm giác rút lui để thực hiện
việc phát triển bản thân. Trong liên kết với cảm giác về mục đích và với bức tranh vẽ một
ông lão, lá bài biểu trưng cho sự trưởng thành, và một hiểu biết về những thứ thực sự quan
trọng trong một đời người.
Lá bài cũng biểu thị một sự trợ giúp từ một người hướng dẫn xác định, đôi khi, như đã chỉ ra
ở trên, là một sự dẫn dắt tinh thần từ bên trong, nhưng thường thấy hơn là một người thật,
người sẽ giúp bạn trong việc tự khám phá bản thân. Đôi khi tự thân chúng ta không nhận ra
rằng những hướng dẫn như vậy tồn tại là vì chúng ta. Nếu The Hermit xuất hiện trong giải
bài Tarot thì quan sát cẩn thận những người quanh bạn là một việc làm khôn ngoan. Nếu
bạn tham gia giúp người khác tìm sự thấu hiểu thì lá The Hermit có thể biểu trưng chính bạn
trong vai trò một người hướng dẫn và một người thầy.
Khi ta lật ngược lá bài, ta phá vỡ quan niệm về sự rút lui. Cũng giống như cách The High
Priestess đảo ngược có thể có nghĩa sợ hãi cuộc sống, The Hermit đảo ngược có thể cho
thấy một sự sợ hãi người khác. Nếu chúng ta rút mình khỏi xã hội như một cách trốn tránh
thì việc rút lui càng trở nên chi phối, dẫn đến những ám ảnh hoặc hoang tưởng. Đi cùng
những lá chính khác, các mặt tiêu cực và tích cực của The Hermit tùy thuộc vào hoàn
cảnh. The Hermit ngược đôi khi có thể chỉ đơn giản là lúc này đây người này cần phải hòa
hợp với người khác.  
Bởi vì lá bài, khi đặt xuôi chiều, tượng trưng cho sự trưởng thành, The Hermit ngược đôi khi
có thể biểu thị một thái độ rất Peter Pan đối với cuộc đời. Một người cứ bám lấy những hoạt
động vô nghĩa về cơ bản, hoặc bắt chước tính nhiệt tình trẻ con (giống như bắt chước tính
tự phát) theo cách để tránh trách nhiệm phải làm gì đó với cuộc đời mình. Lần đầu tiên tôi
gặp giải nghĩa này cho lá The Hermit ngược là trong một quẻ bài của một người đàn ông
ở New York đọc cho một người bạn của tôi; từ đó tôi nhận thấy nó rất hữu ích trong nhiều
trường hợp. Thú vị thay, tôi gặp anh đó qua một người bạn khác đang tìm một người đọc
bài để hướng dẫn riêng cho cô ấy phát triển về tinh thần.  

THE WHEEL OF FORTUNE

Giống như một vài lá chính khác trong Tarot (đáng kể nhất là lá The Death), lá The Wheel of
Fortune bắt nguồn từ một thuyết thời Trung cổ. Nhà thờ xem sự tự phụ là tội lỗi lớn nhất, vì
khi tự phụ bạn đã đặt bản thân mình trên Chúa Giê-su. Có một bài học cảnh cáo tính tự cao
mang quan niệm về một vị vua vĩ đại mất đi quyền lực. Trong nhiều phiên bản của huyền
thoại về vua Arthur, nhà vua mơ hoặc nhìn thấy đứng trước ngài trong đêm trước trận chiến

59
cuối cùng, hình ảnh một vị vua giàu có và hùng mạnh ngồi trên đỉnh một bánh xe. Bất thần
nữ thần May Mắn (Fortuna) quay vòng bánh xe và nhà vua bị nghiến nát bên dưới. Tỉnh
lại, Arthur nhận ra rằng quyền lực thế tục này dẫu có tích được bao nhiêu đi nữa thì số phận
của chúng ta luôn luôn nằm trong tay Chúa Trời. Những lá bài Visconti (hình bên phải) chứa
giáo lý thiết thực này.
Nay, ta có thể xem câu chuyện đạo đức súc tích này đã bị đặt xa khỏi những biểu tượng
quyền lực và bí ẩn đang nhìn vào mình trong lá bài của Waite-Smith (hình bên trái), và trong
phiên bản Oswald Wirth (hình ở giữa). Nhưng Fortuna và vòng quay tỏa sáng của bà có một
lịch sử kỳ lạ. Đầu tiên, hình ảnh thời Trung Cổ có nguồn gốc từ một thời đại trước đó,
khi Fortuna đại diện cho Nữ thần Vĩ đại, và vị vua bị nghiến nát là một sự kiện có thực. Mỗi
năm, vào giữa mùa đông, những nữ tư tế hiến tế nhà vua, bằng cách mô phỏng cái chết
của năm cũ họ hạ mình trước quyền năng của Nữ thần, và bằng cách chọn một nhà vua
mới họ tinh tế gợi ý rằng bà có thể một lần nữa tạo nên mùa xuân từ mùa đông lạnh giá –
một sự kiện hiển nhiên tất yếu đối với những người không tin vào “quy luật tự nhiên” như
trọng lực chẳng hạn. Do đó, lá The Wheel gốc biểu trưng cho cả bí ẩn của tự nhiên lẫn khả
năng con người tham gia vào những bí ẩn đó thông qua các nghi lễ hiến tế. Hãy chú ý rằng
lá này đến ngay bên dưới lá The Empress, chính là tượng trưng cho Người mẹ Vĩ đại.

Đến thời Trung Cổ lá The Wheel đã mất đi ý nghĩa gốc của nó; điều này không có nghĩa là
nó đã mất đi sức mạnh gợi đến những bí ẩn của cuộc sống. Trong phiên bản của Thomas
Malory về câu chuyện của vua Arthur chúng ta thấy gợi ý rằng lá The Wheel biểu trưng cho
những xoay chuyển ngẫu nhiên của “vận”. Tại sao người này thì giàu còn người kia thì
nghèo? Tại sao một ông vua hùng mạnh lại mất đi vương vị và một ông vua vốn yếu ớt lại
vươn lên đạt đến quyền lực? Ai, hay cái gì, đã điều khiển bánh xe cuộc sống? Malory gợi ý
rằng vận, những hồi lên và xuống có vẻ như vô nghĩa, nằm trong số phận thực tại; nghĩa là
vận mệnh Chúa đã chọn cho mỗi cá nhân, dựa trên những lý do mà chỉ Ngài mới hiểu. Vì

60
chúng ta không thể hiểu những lý do kia, ta nói rằng những sự kiện trong đời một người
phát sinh là nhờ may mắn, nhưng tất cả đều nằm trong kế hoạch của Chúa.  
Do đó, với lá The Wheel, chúng ta đến với câu hỏi lớn rằng như thế nào và tại sao mọi việc
lại xảy ra trong vũ trụ này. Cái gì khiến mặt trời mọc? Những nguyên tố cháy lên, phải,
nhưng cái gì khiến chúng cháy? Làm cách nào năng lượng tự động lại tồn tại? Rốt cuộc thì
tại sao mùa xuân lại theo sau mùa đông? Tại sao trọng lực hoạt động và hoạt động như thế
nào? Đi xa hơn, ta nhận ra rằng số phận cũng là một ảo ảnh, một mánh khóe trùm lên sự
thật rằng chúng ta, với tầm nhìn hạn hẹp của mình, không thể thấy sự kết nối bên trong giữa
tất cả mọi thứ. “Ờ thì,” chúng ta nói, “số nó thế”, một phát biểu vô nghĩa bởi vì chúng ta
không thể nào hiểu ra ý nghĩa. Mọi thứ không chỉ xảy ra, mà chúng được khiến cho phải xảy
ra. Thứ quyền năng để tạo nên sự kiện, để cho vũ trụ một cuộc sống, một hình dáng và một
mục đích, Malory nói với chúng ta rằng, thuộc về Chúa Thánh Linh (Holy Ghost), trú ngụ tại
nhân gian như một hiện thân bên trong Chén Thánh (lá Ace of Cups) giống như
cách Shekinah ngụ bên trong vùng thánh địa phủ màn của những điện thờ tại Jerusalem.
Sau đây, chúng ta đến với sự thật rằng cả những sự kiện ngẫu nhiên của cuộc sống lẫn cái
gọi là “quy luật” của vũ trụ vật chất và những điều bí ẩn đều dẫn dắt chúng ta đến với một
nhận thức về thế lực tinh thần được cánh tay nâng lên của The Magician truyền xuống và
hiển thị trong thế giới tự nhiên của The Empress. Rất nhiều nhà thần bí và pháp sư đã nói
rằng những ảo giác của họ cho họ thấy cách mọi vật kết nối với nhau, cách mọi thứ ăn khớp
với nhau như thế nào, bởi tinh thần thống nhất cả vũ trụ này. Có lẽ tất cả chúng ta cũng có
thể thấy và hiểu sự sắp xếp vĩ đại này của cuộc sống, nếu không vì chúng ta sống không đủ
lâu. Cuộc đời ngắn ngủi làm tầm nhìn của chúng ta hạn hẹp đi thành một phần rất nhỏ của
thế giới mà cuộc sống đối với nó có vẻ như là vô nghĩa.  
Giờ đây, quan niệm xem lá The Wheel là một điều bí ẩn của số mệnh này, với những nghĩa
ẩn của nó, rất khớp với phiên bản Waite-Smith hiện đại của lá bài, đặc biệt là khi chúng ta
xem nó đã là một nửa đường đến lá chính cuối cùng. Nếu chúng ta đặt lá The Wheel của
bộ Rider bên cạnh lá The World, chúng ta sẽ thấy ngay mối liên quan giữa chúng. Ở một lá
ta có một bánh xe đầy những biểu tượng, ở một lá khác ta thấy một vòng chiến thắng, và
bên trong là một người đang nhảy múa hiện thân cho toàn chân lý đằng sau những biểu
tượng. Thậm chí ấn tượng hơn, ta thấy cũng bốn con thú ấy trong mỗi lá ở các góc, trừ việc
các sinh vật thần thoại của lá 10 đã chuyển thành cái gì đó có thực và sống động hơn trong
lá The World. Do đó, ở điểm giữa con đường, chúng ta nhận được một cái nhìn về ý nghĩa
nội tại của cuộc sống; ở  cuối con đường cái nhìn đó trở nên thực, hiện thân trong chính bản
thể chúng ta.  
Ở Ấn Độ, nhà vua cũng mất mạng mỗi năm cho Nữ thần. Khi những người Arya theo chế
độ phụ hệ chấm dứt tập tục này thì hình ảnh bánh xe thời gian đã trở thành một biểu tượng
mạnh mẽ hơn của một tôn giáo mới. Bánh xe luân hồi đã trở thành biểu tượng của luật

61
nhân quả, dẫn bạn đầu thai vào hết thân xác này đến thân xác khác. Giờ đây, nghiệp, theo
một cách nào đó, đơn giản là một giải thích khác cho những bí ẩn của số phận. Bằng những
hành động bạn đã làm ở kiếp này, bạn dựng nên một định mệnh cho chính mình ở kiếp sau,
thế nên nếu bạn phạm phải nhiều việc xấu xa thì bạn sẽ tạo nên trong bản ngã bất tử của
mình một loại nhu cầu tâm linh về sự trừng phạt. Khi đến lúc đầu thai bạn không tránh được
việc phải chọn một cơ thể ở đẳng cấp thấp hoặc bị tàn tật. (Cách giải thích đơn giản mang
tính tâm lý cho nghiệp này có lẽ dựa trên Phật giáo nhiều hơn là Hindu giáo.)
Một lần nữa, những hiểu biết hạn chế của chúng ta ngăn ta trải nghiệm trực tiếp sự thật
đằng sau Bánh xe Định Mệnh, hoặc nghiệp. Khi Phật Tổ đạt được giác ngộ, ngài nhớ lại
từng khoảnh khắc của mỗi kiếp trước của mình. Chắc chắn, ký ức đó là sự giác ngộ. Bằng
cách đạt được toàn bộ hiểu biết ngài có thể lĩnh hội được rằng tất cả những kiếp đó đều là
những hình dáng tạo nên bởi những ham muốn của ngài. Khi ngài xả bỏ ham muốn là lúc
ngài “thoát khỏi luân hồi”. Ta có thể nói rằng giác ngộ nghĩa là (hoặc bao gồm, theo một
mức nào đó) xuyên qua những sự kiện bên ngoài để đến với tinh thần trú ngụ bên trong
chúng, tức là, tìm ra Chúa Thánh Linh bên trong Bánh xe Định mệnh.
Nó là dấu hiệu cho thấy vua Arthur đã trải nghiệm The Wheel of Fortune qua hình ảnh trong
mơ. Vì dù ta có xem nó là điểm giữa của bộ Ẩn chính hay đơn giản là những bước hoàn tất
dòng thứ hai thì lá Wheel chắc hắn là một cái nhìn do vô thức mang đến cho chúng
ta. The Hermit đã quay lưng với thế giới bên ngoài. Kết quả là vô thức cho ông thấy một cái
nhìn về cuộc sống giống như một bánh xe quay đầy những biểu tượng.  
Bánh xe Cuộc sống sẽ không thể nào thấy được cho đến khi ta bước ra khỏi nó. Khi ta ở
trong nó ta chỉ thấy những sự kiện ngay trước và sau chúng ta, những lo toan thường ngày
mà cái tôi của chúng ta cho là rất quan trọng. Khi ta rút mình đi ta có thể thấy toàn bộ mô
hình. Về mặt tâm lý chúng ta có thể thấy cái nhìn này như một người đang đánh giá xem
cuộc đời người ấy đã đi đến đâu và nó còn đi về đâu sau đó. Ở một mức độ sâu hơn, cái
nhìn vẫn bí ẩn và mang tính hình tượng. Chúng ta có thể thấy những gì chúng ta đã làm với
một kiếp đặc thù nào đó, nhưng số phận vẫn là một bí ẩn.
Tất cả những biểu tượng trên The Wheel đều có nghĩa; chúng giúp ta hiểu sự thật bên trong
những nhìn nhận. Tuy nhiên, chúng ta không trải nghiệm toàn bộ thế lực sống. Ánh sáng vô
thức vẫn còn bị che khuất đi.
Đó là dấu hiệu cho thấy Malory kết nối The Wheel of Fortune với Chén Thánh. Về các biểu
tượng Chén Thánh, vốn cũng là những biểu tượng của bộ Ẩn phụ, có lẽ cũng đã lùi xa như
những hiến tế vua chúa hằng năm. Khi một ứng viên gia nhập vào các hội kín châu Âu cổ
được ban cho “tầm nhìn” về những bí mật nội tại của giáo phái, thì đó hầu hết đều giống với
bốn biểu tượng tách, kiếm, giáo và đồng xu, những biểu tượng được cho anh ta thấy cùng
với một nghi lễ thần bí. Và những công cụ cơ bản của nghi thức làm phép, đặt trên bàn của
The Magician, cũng là bốn biểu tượng đó và là các bộ của bộ Ẩn phụ.

62
Mặc dù chúng ta không thấy trực tiếp bốn biểu tượng trên lá chính số 10, nhưng lại thấy hai
trong số rất nhiều những biểu tượng tương đương với chúng. Bốn sinh vật trên các góc lá
bài phát xuất từ một cảnh trong Ezekiel 1:10. Chúng cũng xuất hiện trong Khải Huyền 4:7.
Giờ đây, trải qua hàng thế kỷ bốn hình ảnh này, đôi lúc được gọi là “các hộ vệ của thiên
đường”, đã trở thành biểu tượng cho bốn nguyên tố cơ bản của khoa học cổ đại và Trung
cổ. Từ góc bên tay phải ngược chiều kim đồng hồ là lửa, nước, khí và đất, và những
nguyên tố này lần lượt thuộc về Wands, Cups, Swords và Pentacles. Bên cạnh việc đại diện
cho các nguyên tố, bốn con thú cũng tượng trưng cho dấu hiệu của  bốn cung hoàng đạo cố
định – Sư Tử, Bò Cạp, Bảo Bình và Kim Ngưu. Tất nhiên, hoàng đạo là Bánh Xe Vĩ Đại của
vũ trụ hữu hình. Do đó cả các nguyên tố lẫn các dấu hiệu đều biểu thị thế giới trần tục, một
lần nữa được xem là một điều bí ẩn, và là thế giới chỉ có thể được thấu hiểu thực sự bằng
cách học những sự thật bí mật.
Một liên hệ khác với bốn nguyên tố đến từ bốn ký tự tên của Chúa trên vành của Wheel. Bắt
đầu từ góc trên bên tay phải, và một lần nữa lại được đọc ngược chiều kim đồng hồ, các ký
tự đó là Yoh, Heh, Vav, Heh. Bởi vì cái tên này xuất hiện trong kinh Torah dưới dạng không
có nguyên âm (tất cả bốn ký tự đều là phụ âm) nên không thể phát âm được; do đó tên
“thật” của Chúa vẫn còn là bí mật. Ít nhất là hai nghìn năm, người Do Thái và người Cơ Đốc
đã xem cái tên này có mang phép màu. Những nhà thần bí thiền bằng nó (Abulafia chạm tới
sự xuất thần tầng Qabalah thứ ba bằng cách thiền với tên của Chúa) và những pháp sư sử
dụng nó. Đối với những nhà Qabalah thì bốn ký tự này là biểu tượng cơ bản nhất của
những điều bí ẩn của thế giới. Quá trình tạo nên vũ trụ được giữ để xảy ra ở bốn giai đoạn,
tương ứng với bốn ký tự. Và tất nhiên, các ký tự cũng kết nối với bốn nguyên tố, với các
biểu tượng Chén Thánh và bộ Ẩn phụ.
Các ký tự La Mã đặt rải rác giữa các ký tự Hebrew là một phép đảo chữ. Đọc theo chiều kim
đồng hồ từ bên trên, chúng thành từ “TARO”; đọc ngược chiều kim đồng hồ chúng tạo thành
“TORA” (hãy nhớ cuộn giấy của The High Priestess). Chúng ta cũng thấy các từ “ROTA”,
tiếng Latin của từ “bánh xe”, “ORAT”, tiếng Latin của “nói” (speaks) và “ATOR”, một nữ thần
Ai Cập (cũng đánh vần là “Hathor”). Paul Foster Case, học theo MacGregor Mathers, người
sáng lập nên hội Bình Minh Vàng, đã lập nên câu “ROTA TARO ORAT TORA ATOR”. Câu
này được dịch là, “Bánh xe Taro nói lên Luật của Ator” (The Wheel of Taro speaks the Law
of Ator). Case gọi đây là “luật của ký tự”; khi Ator trở nên nổi tiếng nhất ở Ai Cập với tư cách
là một nữ thần của cái chết, đó thực ra là “luật” của cuộc sống bất diệt, được giấu trong thế
giới tự nhiên. Cho dù cơ thể có chết đi, linh hồn vẫn còn sống mãi. Case cũng chỉ ra rằng
giá trị số Hebrew của các ký tự của từ “TARO” cộng lại bằng 691, và rằng tổng này, thêm
vào 26, tức giá trị số của bốn ký tự tên Chúa [gọi là “Tứ tự” (Tetragrammaton)], sẽ thành
697. Những con số này có tổng là 22, con số các ký tự bảng chữ cái Hebrew và của các lá
bài chính trong bộ Ẩn chính. Và tất nhiên 22 đưa chúng ta quay lại với 4.

63
Bốn biểu tượng trên nan hoa là của giả kim thuật. Từ bên trên đọc theo chiều kim đồng hồ,
chúng là thủy ngân, lưu huỳnh, nước và muối, và dựa theo mục tiêu giả kim ở dòng hai, thì
chúng tức là sự chuyển hóa. Nước là biểu tượng của hòa tan, tức là làm tan rã cái tôi để
giải phóng bản ngã thực vốn bị chôn vùi trong những thói quen, nỗi sợ và phòng vệ. Chúng
ta sẽ thấy điều này có nghĩa là gì khi xem xét lá The Death và Temperance.
Quan niệm về cái chết và sự tái sinh cũng được biểu trưng trong những sinh vật trang trí
cho The Wheel. Con rắn thể hiện Set, một vị thần Ai Cập của những điều xấu xa, và là
người mang đến cách chết cho vũ trụ theo truyền thuyết. Thần là người đã giết Orisis, vị
thần sự sống. Có vẻ rằng truyền thuyết này, cũng như bản thân The Wheel, nảy sinh từ tập
quán giết thần-vua thời sơ sử, đặc biệt là khi chúng ta xét rằng Set từng là một vị thần anh
hùng, và rằng rắn linh thiêng đối với Nữ thần nhận hiến tế này. Con rắn theo The Wheel đi
xuống; người đầu chó rừng đang đi lên là Anubis, người hướng dẫn những linh hồn người
chết, và do đó là người ban sự sống mới. Nay, theo một vài truyền thuyết Anubis là con trai
của Set, và vì thế chúng ta thấy chỉ có cái chết mới mang lại sự sống mới, và khi chúng ta
sợ hãi cái chết, chúng ta chỉ thấy một phần chân lý. Về mặt tâm lý, chỉ có cái chết của bản
ngã bên ngoài mới giải phóng được năng lượng sự sống bên trong.  
Con nhân sư trên đỉnh của The Wheel đại diện cho Horus, con trai của Orisis, và là vị thần
hồi sinh (vài thế kỷ sau thường được thay bằng Ator). Sự sống đã chiến thắng cái chết.
Nhưng con nhân sư, như chúng ta đã thấy trong lá The Chariot, cũng biểu thị cho bí ẩn của
cuộc sống. The Chariot kiểm soát cuộc sống với một cái tôi mạnh mẽ. Giờ đây con nhân sư
đã ở trên The Wheel. Nếu chúng ta cho phép vô thức nói với mình thì sẽ cảm nhận một vài
bí mật lớn của cuộc sống, quan trọng hơn cả vòng quay bất tận của những sự kiện vẻ như
là vô nghĩa.  
Set, con rắn, cũng được gọi là vị thần bóng tối. Một lần nữa, việc xem bóng tối là “xấu xa”
chỉ là một ảo giác, và chắc chắn, nỗi sợ bóng tối, cũng như nỗi sợ cái chết, thuộc về cái tôi.
Cái tôi yêu ánh sáng cũng như vô thức yêu bóng tối. Dưới ánh sáng mọi thức đều đơn giản
và minh bạch; cái tôi có thể chiếm lấy chính nó với những ấn tượng cảm giác đến từ thế giới
bên ngoài. Khi bóng tối đến, vô thức sẽ bắt đầu khuấy động. Đó là lý do vì sao trẻ em thấy
quái vật khi đêm xuống. Một lý do để chúng ta khiến bản ngã bên ngoài thật mạnh mẽ là
như vậy chúng ta sẽ không phải đối mặt với những thứ yêu ma mỗi khi ánh sáng tắt đi.
Tuy nhiên, những người ước có thể đi xa hơn The Chariot phải đối mặt với những thứ đáng
sợ đó. Rắn và nước, bóng tối và sự tan ra đều là những biểu tượng của cái chết, tức là, cái
chết của thể xác và cái chết của cái tôi. Nhưng sự sống tồn tại trước và sau tính cách cá
nhân, thứ, tất nhiên, chỉ là một bong bóng trên mặt nước của bản ngã chúng ta. Cuộc sống
rất mạnh mẽ, hỗn độn, trào dâng những luồng năng lượng. Giao phó cho cuộc sống
và Horus, thần hồi sinh, thì sẽ mang đến một sự sống mới từ hỗn loạn. The Wheel xoay lên
rồi lại xuống.

64
Phiên bản Wirth của lá The Wheel of Fortune thậm chí còn lộ quan điểm này một cách mạnh
mẽ hơn. The Wheel nằm trên một con thuyền trên nước. Tan rã, hỗn độn, nổi lên như thực
tại thiết yếu nằm bên dưới vũ trụ vật chất. Tất cả những dạng thức tồn tại, tính đa dạng vĩ
đại của sự vật và sự kiện, đều đơn giản là những tạo tác ngắn ngủi từ năng lượng hùng
mạnh lấp đầy vũ trụ kia. Trong thần thoại Hindu, Shiva cứ đến kỳ lại phá hủy toàn bộ vũ trụ,
khi các dạng thức bên ngoài, như là cái tôi, đã trở nên kiệt quệ và cằn cỗi, bằng cách giải
phóng năng lượng cơ bản mà từ đó vũ trụ khởi sinh.
Con số 10 gợi ý đến số 0. The Fool không là gì và không có tính cách. Nhưng The Fool,
giống như số 0, cũng là vạn vật, bởi vì anh ta trực tiếp cảm thấy năng lượng sống, rằng biển
cả đang cuộn dâng dưới lòng thuyền. Trên lá The Wheel of Fortune của bộ Rider, ở trung
tâm của The Wheel không có biểu tượng nào. Khi chúng ta đén với trung tâm tĩnh tại của sự
tồn tại, không có cái tôi hay sợ hãi, thì tất cả những dạng thức bên ngoài đều biến mất.
Chúng ta có thể hiểu điều này bằng trực giác, nhưng để thực sự trải nghiệm nó, ta phải cho
phép bản thân chìm vào lòng biển tối tăm, để cho cá tính chết đi, tan ra, và cho một sự sống
mới sinh ra từ bóng tối.  
Trong quẻ bài, lá The Wheel of Fortune biểu thị một vài thay đổi trong hoàn cảnh của một
đời người. Người này có vẻ như không hiểu cái gì đã gây nên thay đổi này; có thể cũng
không có lý do trực tiếp mà ai cũng có thể thấy, và thực tế là người này có vẻ không chịu
trách nhiệm cho bất kỳ tình huống nào xảy đến. Một tập đoàn lớn mua công ty mà người
này đang làm việc, thế là anh ta bị sa thải. Một chuyện tình chết yểu, không phải vì người ta
đã phạm phải “lỗi” nào đó trong cách đối xử với nhau, mà đơn giản vì đời là
thế. The Wheel vẫn xoay vòng.
Điều quan trọng về những đổi thay này là cách phản ứng. Chúng ta có chấp nhận hoàn
cảnh mới và thích nghi với nó không? Chúng ta có dùng nó như một cơ hội và tìm thấy ý
nghĩa và giá trị nào đó trong nó hay không? Nếu lá The Wheel xuất hiện theo chiều xuôi, nó
có nghĩa là thích nghi. Trong cảm nhận mạnh nhất của nó, lá bài có thể cho thấy khả năng
xuyên qua sự bí ẩn của các sự kiện để tìm thấy một sự thấu hiểu cuộc đời to lớn. Kết cuộc
của một chuyện tình, cho dù có đau đớn đi nữa, cũng có thể mang đến một sự tự tri lớn
hơn.
Đảo ngược lại, lá bài biểu thị một sự đấu tranh chống lại sự kiện, thường thất bại bởi thay
đổi đã xảy ra và cuộc đời sẽ luôn luôn thắng những tính cách cố chống lại nó. Tuy nhiên,
nếu người liên quan luôn phản ứng thụ động với bất cứ những gì cuộc đời làm với anh ta
hoặc cô ta, thì lá The Wheel ngược có thể biểu thị một thay đổi quan trọng hơn nhiều so với
chỉ đơn giản là một loạt tình huống mới. Nó có thể mở đường cho một nhận thức mới về
trách nhiệm với chính cuộc đời của bạn. 

JUSTICE

65
Hình ảnh của lá chính này bắt nguồn từ một Titan Hi Lạp là Themis, người xuất hiện với đôi
mắt che kín và chiếc cân trên những bức bích họa ở các tòa án trải khắp phương Tây. Vị
thần pháp luật Justitia, tên Latin của bà, che mắt lại mang nghĩa luật pháp không phân biệt
và áp dụng như nhau cho kẻ yếu cũng như kẻ mạnh. Tuy nhiên, nguyên tắc của công bằng
xã hội có lẽ thuộc về The Emperor ngay ở phía trên Justice. Lá số 11 biểu thị rằng các luật
lệ tinh thần của Justice, qua các luật đó ta tiến bộ theo khả năng của mình để hiểu quá khứ,
là phụ thuộc vào cách nhìn nhận sự thật về bản thân và về cuộc sống. Do
đó, Justitia của Tarot không mang bịt mắt.

Cho đến nay, chúng ta đã nói về dòng thứ hai như một quá trình rút lui khỏi những lo toan
bên ngoài để đánh thức tầm nhìn nội tại của chúng ta và của cuộc sống. Nhưng một cái
nhìn nằm bên dưới tính chất của sự vật sẽ là vô nghĩa nếu nó không cho ra một phản hồi
tích cực. Chúng ta phải luôn hoạt động (nguyên tắc của The Magician) với những tri thức
nhận được từ bản ngã bên trong (nguyên tắc của The High Priestess). Không chỉ chiếc cân
cân bằng hoàn hảo mà tất cả những hình ảnh trên lá bài chỉ ra một sự cân bằng giữa hiểu
biết và hành động. Hình ảnh người phụ nữ mang vẻ lưỡng lập; tuy bà ngồi vững trên chiếc
ghế đá nhưng trông bà như sắp sửa đứng lên; một bàn chân lộ ra khỏi áo choàng, bàn chân
kia vẫn bị che khuất. Thanh kiếm, biểu tượng của hành động, chỉ thẳng lên trên, biểu thị cả
sự quyết tâm lẫn quan niệm rằng sự thông thái cũng giống như một thanh kiếm đâm xuyên
qua ảo ảnh của những sự kiện để thấy được ý nghĩa nội tại. Được mài sắc hai lưỡi, thanh
kiếm biểu thị sự lựa chọn. Cuộc sống yêu cầu chúng ta ra quyết định; một khi ta đã ra một
quyết định thì không thể hồi lại được nữa. Nó trở thành một phần của chúng ta. Chúng ta
được tạo thành bằng những hành động ta thực hiện trong quá khứ; chúng ta tạo ra bản thể
tương lai của chúng ta bằng những hành động chúng ta thực hiện ngày hôm nay.
Cán cân cũng thể hiện sự cân bằng hoàn hảo của quá khứ và tương lai. Quá khứ và tương
lai cân bằng, không phải trong thời gian, mà là trong ánh mắt tinh tường của Justice đang
nhìn vào bạn từ ngay tại tâm của bộ Ẩn Chính.

66
Qua nửa đầu của bộ Ẩn Chính, khi một người dấn thân vào thế giới bên ngoài, anh ta chịu
một ảo ảnh rằng anh ta đang sống một cuộc đời sôi động theo các nguyên tắc chủ động.
Đây là vì chúng ta đã nhầm lẫn giữa việc làm việc này việc kia với hành động. Khi chúng ta
quay vào bên trong, ta cho rằng mình đã quay lưng với hành động; và chắc hẳn tiến trình
của dòng thứ hai không thể thực hiện được nếu không có một khoảng khắc ngưng lại trong
cuộc sống bên ngoài của chúng ta; hay ít nhất là trong sự chú tâm. Nhưng hành động thực
sự, trái với những chuyển động vô mục đích, luôn luôn mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc
đời chúng ta; những hành động như vậy đến từ sự thấu hiểu. Nếu không, chúng ta sẽ thụ
động một cách tẻ nhạt, là những cái máy bị đẩy từ sự kiện này sang sự kiện khác mà không
hiểu cái gì khiến ta làm những điều như vậy. Mục đích thực sự của dòng thứ hai không phải
là vứt bỏ nguyên tắc chủ động mà là đánh thức nó.
Hình ảnh của lá 11 kết hợp The Magician và The High Priestess còn trọn vẹn hơn cả trước
đó. Đầu tiên, các con số của chữ số 11 cộng lại bằng 2, nhưng chữ số này cũng biểu thị một
phiên bản cao cấp hơn của 1 (cũng như một phiên bản cấp thấp hơn của 21). Người phụ nữ
ngồi trước hai cây cột với một tấm màn giăng giữa chúng gợi đến The High Priestess,
nhưng chiếc áo choàng đỏ và tư thế của bà, một tay chỉ lên, một tay chỉ xuống, ám
chỉ The Magician. Hành động thực sự phát xuất từ sự tự tri; sự minh triết phát xuất từ hành
động. Trong cuộc sống, cũng như trong bức hình này, The Magician và The High
Priestess kết hợp với nhau chặt chẽ, như đôi rắn đực và cái quấn lấy nhau (biểu tượng
của kundalini cũng như y hiệu của Hermes), hay hai đường xoắn của DNA. Màu của tấm
màn là màu tím, tượng trưng cho sự thông thái nội tại; nền, vương miện, tóc và chiếc cân
tất cả đều màu vàng, biểu thị sức mạnh tinh thần. Minh triết không phát triển một cách tự
phát. Chúng ta phải suy nghĩ về cuộc đời mình nếu mong muốn hiểu được nó. Nhưng mọi
thứ sẽ chẳng đi đến đâu nếu không phát xuất từ một cái nhìn rõ ràng của sự thật.  
Ở tầm vi mô của tâm lý cá nhân, lá The Wheel of Fortune đại diện cho tầm nhìn của một đời
người; những sự kiện, bạn là ai, bạn biến bản thân thành cái gì. Justice biểu thị một sự thấu
hiểu tầm nhìn đó. Con đường để hiểu nằm trong trách nhiệm. Chỉ cần chúng ta tin rằng cuộc
sống quá khứ của ta vừa mới diễn ra, rằng ta không mang bản ngã của chính mình vào
trong sự tồn tại thông qua mọi thứ ta làm, thì quá khứ vẫn còn là một điều bí ẩn, và tương
lai là một bánh xe xoay chuyển không ngừng, vô nghĩa. Nhưng khi ta chấp nhận rằng mọi
sự kiện trong cuộc đời chúng ta giúp tạo nên tính cách của mình, và rằng trong tương lai ta
sẽ tiếp tục tạo nên bản thân thông qua hành động, thì thanh kiếm thông thái sẽ cắt xuyên
màn bí ẩn.
Hơn nữa, bằng cách chấp nhận trách nhiệm với chính bản thân mình, chúng ta ngược lại sẽ
giải phóng bản thân khỏi quá khứ. Như Phật Tổ nhớ lại tất cả các kiếp của người, chúng ta
chỉ có thể thả lỏng quá khứ bằng cách ý thức nó đầy đủ. Nếu không ta sẽ mãi lặp lại cách
xử sự cũ. Đây là lý do tại sao Justice thuộc về trung tâm cuộc đời chúng ta. Cái tôi có thể

67
chỉ là một nét tính cách, một loại mặt nạ, nhưng chiếc mặt nạ đó có thể điều khiển chúng ta
chỉ cần ta không thừa nhận là đã mạo nó làm bản thân mình.
Quan niệm chịu trách nhiệm đời mình không bao hàm bất kỳ thể loại kiểm soát vô hình nào
đối với thế giới bên ngoài. Nó không có nghĩa là, ví dụ nhé, nếu có một cơn động đất phá
hủy nhà bạn, bạn không hiểu sao đã muốn việc đó xảy ra, vì bất cứ lý do ẩn giấu nào đó
của riêng bạn. Sự thấu hiểu bao gồm cả chấp nhận những giới hạn của tồn tại trần tục của
bạn. Vũ trụ mênh mông và lạ lẫm, và không một cá nhân nào có thể kiểm soát được những
gì xảy ra bên trong nó.
Trách nhiệm cũng không bao hàm giá trị đạo đức nào. Nó đơn giản nghĩa là, dù có thích hay
không, bất cứ những gì bạn làm, bất cứ những gì bạn trải nghiệm, đều góp phần vào sự
phát triển tính cách của bạn. Cuộc sống đòi hỏi bạn phản ứng với tất cả mọi sự kiện. Không
phải là một yêu cầu mang tính đạo đức, mà là một thực tế của tồn tại.
Và tuy tất cả những trực giác, tâm lý và tôn giáo của chúng ta, cũng như bằng chứng của
những điều bí ẩn, nói với ta rằng cuộc sống chứa đựng nhiều hơn thế nữa, một tính độc lập
cốt lõi nội tại của cái bản ngã bên ngoài vẫn bị ném từ trải nghiệm này sang trải nghiệm
khác. Dòng thứ hai cho thấy tính cách bên ngoài đang dần chết đi và cái cốt lõi bên trong,
thiên thần của Temperance, được phép trỗi dậy. Trước khi một cuộc giải phóng như thế có
thể diễn ra, chúng ta phải chấp nhận “công lý” của cuộc đời chúng ta; của con người mà ta
đã trở thành.
Thời đại chúng ta xem qua trình nhận thức này là vấn đề tâm lý cơ bản, được minh họa rõ
ràng nhất trong quá trình khó khăn của phân tâm học. Những thời đại khác ngoại hiện quá
trình chuyển đổi trong các nghi thức khai tâm kịch tính. Tất cả những lễ khai tâm đều theo
một mẫu giống nhau. Tập hợp hết mọi dũng khí để trở thành một người mới nhập đạo, đầu
tiên ứng viên nhận hướng dẫn trong giáo huấn của giáo phái hoặc hội kín; trong suốt thời
gian đó phải tiến hành các bước, thông qua thiền, nghi lễ và ma túy, để mở các đường dẫn
đến sự vô thức và khiến người này có thể lĩnh hội được. Mức đầu tiên được biểu trưng
trong Strength và Hermit. Sau đó, trong một không khí tuyệt vời đầy bí ẩn và kịch tính, ứng
viên được thấy một cảnh tượng về những bí ẩn bí mật của giáo phái. (Chúng được giữ bí
mật một phần để bảo vệ chúng khỏi những kẻ hoài nghi, nhưng hơn thế là để gây ấn tượng
khi được tiết lộ). Trong những giáo phái Chén Thánh cảnh này là một cuộc đám rước Chén
Thánh và những biểu tượng kèm theo hoành tráng; được những người phụ nữ khóc cho vị
vua bị thương mang. Ta thấy một hình ảnh tương tự của cảnh này trong The Wheel of
Fortune.
Và rồi đến khoảnh khắc quan trọng. Ứng viên phải có phản ứng. Nếu anh ta hay cô ta chỉ
thụ động đứng đó chờ những sự kiện tiếp theo, thì buổi lễ không thể tiếp tục. Trong các giáo
phái Chén Thánh, phản ứng cần thiết gần giống như một câu hỏi, như “Những thứ này có ý
nghĩa gì?” hay tinh tế hơn, “Chén Thánh phục vụ cho ai?”. Bằng cách hỏi câu này, ứng viên

68
cho giáo phái một cơ hội để trả lời, tức là, để tiếp tục buổi lễ khai tâm thông qua nghi lễ cái
chết và sự tái sinh. Quan trọng là người ấy nhận ra mình là một phần của quá trình, chịu
trách nhiệm cho kết quả của nó. Điều này nghe thì có vẻ dễ dàng. Nghi lễ này biểu thị cho
sự sống, cái chết và sự tái sinh của tự nhiên, cũng như cơ thể chết đi để giải phóng linh hồn
bất diệt. Để lên tiếng tại một sự kiện tuyệt vời như vậy (và hãy nhớ rằng người được kết
nạp tin vào những vị thần và nữ thần của anh ta hay cô ta theo một cách rất khó hiểu cho đa
số chúng ta ngày nay) yêu cầu một dũng khí ít nhất ngang ngửa với dũng khí người này cần
để chấp nhận những sự thật được tiết lộ thông qua phân tích tâm lý và sự thức tỉnh.
Ở thời đại của chúng ta, sự nhấn mạnh đến chủ nghĩa cá nhân dẫn dắt ta chỉ nghĩ đến cái
chết và tái sinh của một cá nhân. Những nghi lễ khai tâm, trái lại, không chỉ dùng để biến đổi
một con người cụ thể, mà còn kết nối người ấy với những điều bí ẩn rộng lớn hơn của vũ
trụ. Theo sự dẫn dắt này chúng ta có thể thấy một lý do khác giải thích vì sao Justice thuộc
về chính giữa bộ Ẩn Chính. Chúng ta từng nói về thế giới như một mối tương hỗ vĩ đại của
những mặt đối lập, một bánh xe quay mãi không ngừng giữa sáng và tối, sống và chết.
Chúng ta cũng đã nói rằng ở trung tâm của bánh xe là điểm tĩnh tại mà quanh điểm đó
những mặt đối lập xoay vòng bất tận. Khi chúng ta tìm thấy trung tâm cuộc đời mình, mọi
thứ trở nên cân xứng. Khi tất cả các mặt đối lập, bao gồm cả quá khứ và tương lai, trở nên
cân bằng, chúng ta sẽ có thể được giải phóng khỏi bản thân mình.
Nhiều người tự hỏi Tarot, hoặc Dịch (I Ching), hoặc chiêm tinh nói gì với mình về ý chí tự
do. Nếu những lá bài có thể dự đoán những gì ta sẽ làm, liệu điều đó có nghĩa rằng ý chí tự
do không hề tồn tại không? Câu hỏi này xuất phát từ sự hiểu nhầm chính bản thân ý chí tự
do; chúng ta nghĩ về nó như một cái gì đó giản đơn và độc lập với quá khứ. Nhưng những
lựa chọn được xem là tự do của chúng ta bị những hành động trong quá khứ khống chế.
Nếu chúng ta không hiểu bản thân mình, làm sao chúng ta có thể mong thực hiện một lựa
chọn tự do? Chỉ bằng cách nhìn thấy và chấp nhận quá khứ thì ta mới có thể giải phóng bản
thân khỏi nó.
Một người có thể hỏi những lá bài về một vài tình huống nào đó. Những lá bài vạch lên rất
trực tiếp những kết quả của một vài quyết định, ví dụ như liệu có nên tiến tới chuyện tình
này hay không, hay có nên bắt đầu một dự án mới hay không. Chúng ta hãy nói rằng các lá
bài toàn chỉ ra những điều bất hạnh, và rằng một người thực sự có thể thấy những khả
năng của những điều mà lá bài tiên đoán. Lúc đó người này có thể nói, “Chà, có vẻ thế thật,
nhưng ý chí tự do của tôi cho phép tôi thay đổi tình thế”. Rồi anh ta hoặc cô ta cứ tiếp tục
làm như vậy và tình thế xảy ra chính xác như những gì lá bài đã đoán. Con người này đã
không thực sự sử dụng ý chí tự do; chính xác hơn, quan niệm về ý chí tự do đã bị dùng như
một chống chế để lờ đi dự đoán mà người ấy đã nhận ra là có khả năng xảy ra. Đây không
phải là một tình huống giả định; nó xảy ra liên tục trong các quẻ bài. Nó không đủ để tiên
đoán một kết quả có khả năng để chúng ta thay đổi hay ngăn chặn sự kiện đó. Chúng ta

69
phải hiểu tại sao sự kiện đó lại xảy đến, và chúng ta phải làm việc với những nguyên nhân
bên trong chính chúng ta của những gì ta làm và cách ta phản ứng. Ý chí tự do chắc chắn
có tồn tại. Chúng ta chỉ là không biết cách dùng nó. Điều quan trọng nhất chúng ta có thể
học từ các quẻ bài Tarot là chúng ta dùng tự do của mình ít ỏi đến thế nào.
Trong giải bài Tarot một người nên luôn luôn chú ý cẩn thận tới lá Justice. Lá này xuất hiện
trước nhất sẽ ngụ ý rằng tất cả các sự kiện đã diễn ra theo cách chúng “phải” diễn ra; tức là,
những gì đang xảy ra với bạn là do những tình huống và quyết định trong quá khứ. Bạn
nhận được những thứ bạn đáng được nhận. Thứ hai, nó ngụ ý một nhu cầu và một khả
năng thấy được sự thật của kết quả này. Lá bài biểu thị một sự thành thật thuần túy. Cùng
lúc nó cho thấy khả năng rằng những hành động của bạn trong tương lai có thể thay đổi
nhờ một bài học học được từ tình huống hiện tại.
Chúng ta không thể trở nên thành thật với chính mình mà không mở rộng sự thành thật đó
tới cách cư xử của ta với người khác. Theo hướng này, lá bài mang ý nghĩa rõ ràng của
Công Lý; thành thật, công bằng, những hành động đúng đắn, và tất nhiên, trong luật pháp
cũng như các vấn đề khác; một quyết định công bằng – dù không nhất thiết phải là quyết
định mà người này thích thú hơn.
Đảo ngược lại, lá bài biểu thị sự không thành thật với bản thân và với người khác. Nó cho
thấy một miễn cưỡng phải thấy ý nghĩa của các sự kiện và đặc biệt cho thấy bạn đang mất
cơ hội để thấu hiểu hơn nữa bản thân và cuộc sống của bạn. Ở mức độ bên ngoài nó ngụ ý
những dối trá và những hành động hay quyết định bất công. Đôi lúc là những người khác
bất công với bạn. Nghĩa ngược cũng có thể mang ý chỉ những quyết định không công bằng
theo luật pháp hoặc ai đó đang cư xử tồi tệ.
Mặt khác chúng ta không được chấp nhận những gợi ý không công bằng như một chống
chế để chối bỏ trách nhiệm của chính chúng ta về những gì xảy ra với mình. Justice ngược
đôi khi phản ánh cả thái độ, “Việc này không công bằng. Nhìn cách mọi người đối xử với tôi
mà xem”. Và còn nhiều nữa. Cho dù là hướng ngược hay xuôi, đôi mắt tinh tường
của Justice cũng gửi đến ta một thông điệp mang tính áp đảo. Theo những lời
của Emerson thì đó là “Không gì có thể cứu anh ngoài chính anh”.

THE HANGED MAN

Sau hồi khủng hoảng khi thấy những gì bạn đã làm với đời mình, sự bình thản chấp nhận sẽ
đến; sau Justice là The Hanged Man. Các họa sĩ, nhà văn và các nhà tâm lý đều bị lá bài
này cuốn hút với những gợi ý của nó về một sự thật vĩ đại trong một phác thảo giản đơn.
Chúng ta đã từng nhắc đến truyền thống bí truyền đằng sau tư thế lộn ngược và đôi chân
bắt chéo. Trong phần bàn về Strength chúng ta nói rằng các nhà huyền học tìm cách giải
phóng năng lượng của những ham mê và biến đổi nó thành năng lượng tinh thần. Nhiều
nhà huyền học, đặc biệt là những nhà giả kim, tin rằng một cách rất trực tiếp để làm điều

70
này là đứng bằng đầu đúng theo nghĩa đen, như vậy trọng lực sẽ kéo năng lượng từ cơ
quan sinh dục xuống não. Tất nhiên, chỉ những nhà giả kim ngây thơ và lạc quan nhất mới
mong chuyện đó thực sự xảy ra. Họ có thể tin rằng các nguồn nguyên tố tìm thấy trong
dòng sinh dục sẽ ngấm xuống và gây ảnh hưởng lên não; nói rõ hơn, tư thế lộn ngược cơ
thể giống như một biểu tượng rất trực tiếp của việc đảo lại những thái độ và trải nghiệm đến
với ta thông qua nhận thức tinh thần. Ở nơi những kẻ khác phát điên phát cuồng, bạn sẽ
thấy bình yên. Ở nơi những người khác tin họ tự do, nhưng thực ra là bị đẩy từ việc này
sang việc khác bởi những thế lực mà họ không hiểu được, bạn sẽ đạt được tự do đích thực
bằng cách hiểu và ôm lấy những thế lực đó.

The Hanged Man treo người trên cái cây có dáng dấp giống như chữ T. Ở đây, nó là nửa
dưới của ankh, một biểu tượng của Ai Cập về sự sống và đôi khi được gọi là chữ
thập Tau (Tau cross). Theo Case, ankh ở Ai Cập đại diện cho chữ Tau của Hebrew, là chữ
cái thuộc về The World. Do đó, The Hanged Man nằm giữa con đường dẫn đến The World.
Chúng ta cũ ng thấy điều này ở điểm 12 là 21 đọc ngược, The Hanged Man lại (làm cho
người đàn ông xoay lại đúng chiều) bạn sẽ có một hình và nếu bạn xoay ngược người gần
giống với The World Dancer. Do đó, khi chúng ta hỏi lá bài nào hợp với điểm giữa của bộ
Ẩn Chính, câu trả lời không phải một mà là ba – lá The Wheel, lá Justice và lá The Hanged
Man, biểu trưng cho một quá trình hơn là một khoảnh khắc.   
Hãy chú ý rằng khi The Dancer mở rộng vòng tay cầm hai gậy phép thì The Hanged Man lại
đặt chéo tay sau lưng. Cũng hãy nhớ rằng anh ta đang lộn ngược. Ở cấp độ này một nhận
thức tinh thần sâu sắc chỉ có thể duy trì bằng cách rút mình khỏi xã hội. Trong
lá The World chúng ta thấy sự nhận thức tương tự duy trì ngay giữa tất cả những hoạt động
bên ngoài của sự sống.
Anh ta treo người trên một ankh, khiến cái cây của anh ta là Cây Sự Sống. Nếu nhớ đến
việc Ordin đã hiến dâng mình ở Yggdrasil chúng ta cũng có thể gọi giá treo cổ là Cây Thế
Giới. Cái cây này bắt rễ trong thế giới ngầm (trong vô thức), và vươn lên qua thế giới vật
chất (ý thức) đến thiên đường (siêu thức). Những quan niệm đầu tiên biểu hiện qua biểu đồ

71
của lá The Lovers bắt đầu thực sự xảy ra. Những gì trước đây chúng ta xem là ý tưởng nay
đã trở thành, sau lá Justice, một trải nghiệm chân thực. Con số của lá The Hanged Man, 12
là 2 lần 6, tức là The High Priestess đang nâng The Lovers lên một tầm cao mới.
Vượt qua tất cả những biểu tượng của nó, The Hanged Man ảnh hưởng lên chúng ta bởi nó
thể hiện một hình ảnh trực tiếp của bình yên và thấu hiểu. Sự bình tĩnh thể hiện rất mạnh
trong lá bài bởi The Hanged Man đã phó mặc mà tham gia vào các nghi lễ thay vì chỉ quan
sát chúng. Đối với nhiều người hiện đại sự tham gia này giải phóng những cảm xúc họ đã
khóa kín nhiều năm liền. Hãy chú ý rằng cả hai việc đó đều là hành động; phó mặc cho Cây
Thế Giới thực sự là một bước tiến, không phải là một sự đợi chờ thụ động.  
Bài thơ The Wasteland của T.S Eliot nối với ý tưởng một cá nhân phó mặc cho cảm xúc với
sự cằn cỗi của cuộc sống ở châu Âu sau Thế Chiến thứ nhất lẫn những bí ẩn cổ xưa về
Chén thánh. Vết thương của Fisher King có thể được chữa lành bằng “phó mặc của một
khắc mà cả đời khôn ngoan không bao giờ rút lại được” (moment’s surrender which an age
of prudence can never retract). Trong đoạn thơ trước người anh hùng được bảo rằng “Sợ
hãi cái chết vì đuối nước” (Fear death by drowning). Cái tôi xem phó mặc là cái chết – tan ra
trong bể sống. Người đưa ra lời cảnh báo này là một Tarot reader. Bài thơ của Eliot đã giúp
phổ biến bài Tarot vào những năm 1920. Đặc biệt, nó khiến The Hanged Man trở nên nổi
tiếng. Sự thật là The Hanged Man không xuất hiện trong bài thơ mà lá bài này quan trọng
bởi anh ta vắng mặt.
Eliot tuyên bố thực ra ông không biết gì về Tarot, mà chỉ dùng vài hình ảnh từ bộ bài. Tuy
nhiên, rõ ràng là ông biết ít nhất một điều bí truyền mà không nhiều nhà diễn giải Tarot biết
– rằng, theo một vài tác giả bí mật lá The Hanged Man “gốc” mang tên là “Chàng thủy thủ
xứ Phoenice chết đuối” (The Drowned Phoecinian Sailor). BàSosostris phong danh hiệu này
cho người anh hùng. “Đấy là lá bài của bà”. Phó mặc là định mệnh của chàng, nhưng chàng
đã khước từ nó: “Tôi không tìm lá The Hanged Man”.
Đôi chân bắt chéo thể hiện con số 4 lộn ngược. 4 thể hiện trái đất với bốn phương. Bằng
cách đảo ngược cảm nhận giá trị của riêng mình, The Hanged Man đã đảo thế giới lên đầu
nó. Hai tay cùng với đầu tạo thành một tam giác nước chỉ xuống. Con đường đến với siêu
thức là thông qua vô thức. Lá bài của hội Bình Minh Vàng ở bên phải phiên bản Rider thể
hiện Hanged Man treo lơ lửng trên nước. Hầu hết các nhà Tarot theo Qabalah gán chữ
“Mem” cho lá này. Mem đại diện cho “biển” hoặc nguyên tố nước.
Chúng ta do đó thấy 4, thế giới, ý thức, và 3, ở đây thể hiện nước, hoặc vô thức, trong cơ
thể của The Hanged Man. Những con số này nhân lên thành 12. Trong phép nhân, những
con số gốc tan rã đi và tạo thành cái gì đó to lớn hơn của tổng của chúng.
Con số 12, cũng như 21, cho thấy cả 1 và 2. Lá bài phản ánh The Magician với cảm giác
rằng sức mạnh được gậy phép kéo xuống nay nhập vào The Hanged Man; chúng ta thấy nó
giống như vòng sáng trên đầu anh. Trải nghiệm của việc thực sự cảm nhận được sức mạnh

72
tinh thần trong cuộc sống là một trong những sức mạnh và sự phấn kích vĩ đại ở giữa bình
yên tuyệt đối. Số 2 ngụ ý chỉ The High Priestess; hình ảnh của nước cũng vậy. Cả hai lá bài
biểu thị một sự rút lui, nhưng ở nơi lá chính 2 biểu thị nguyên mẫu của tính tiếp thu, thì lá
chính 12 cho thấy một trải nghiệm về nó.  
1 cộng 2 bằng 3. The Empress trực tiếp cảm nhận cuộc sống thông qua những bao hàm
cảm xúc, The Hanged Man cảm thấy nó thông qua nhận thức bên trong.
Trong giải bài Tarot, lá The Hanged Man mang thông điệp về tính độc lập. Như The Fool, lá
bài hàm ý làm những gì bạn cho là tốt nhất, ngay cả khi những người khác xem đó là dở
hơi, The Hanged Man biểu thị hãy là chính bạn, ngay cả khi những người khác nghĩ bạn có
toàn những thứ lạc hâu. Nó biểu trưng cho cảm giác kết nối sâu sắc với cuộc sống và có thể
mang nghĩa một sự bình yên đến sau những gian nan.  
Lá chính này nếu đảo ngược biểu thị một sự bất lực để có thể thoát khỏi áp lực xã hội. Thay
vì lắng nghe bản ngã bên trong của chúng ta, chúng ta lại làm những gì người khác mong
chờ hoặc đòi hỏi. Sự nhận thức cuộc sống của chúng ta luôn đến sau, không bao giờ là một
trải nghiệm trực tiếp mà chỉ là một loạt những rập khuôn, giống như một người đúc nên
hành vi của anh ta hay cô ta dựa trên những mệnh lệnh của cha mẹ và những hành động
của các ngôi sao điện ảnh.
Lá bài đảo ngược cũng có nghĩa đấu tranh với bản ngã bên trong theo vài cách nào đó. Nó
có thể mang nghĩa một người cố gắng chối bỏ những phần cơ bản của chính anh ta hay
đơn giản là một người không thể chấp nhận thực tại và một người theo cách này hay cách
khác đấu tranh không ngừng với cuộc sống. Bằng cách để cái tôi của anh ta hay cô ta
chống lại thế giới, con người này cũng không bao giờ trải nghiệm hết cuộc sống. Không ai
trong chúng ta có thể biết đầy đủ ý nghĩa của việc sống cho đến khi, giống như Ordin, chúng
ta treo mình trên Cây Thế Giới, rễ của nó ăn sâu vượt khỏi những kiến thức trong biển trải
nghiệm, cành của nó biến mất giữa bất tận những vì sao.

THE DEATH

Cũng như lá Lovers (ở ngay bên trên lá Death) Arthur Waite phác thảo lá chính số 13 khác
hẳn với hình ảnh chuẩn của Tarot. Bức hình bên phải, phía trên, lấy từ bộ Tarot Golden
Dawn bí truyền, nhưng, thậm chí có vậy đi chăng nữa, nó cũng minh họa một thông điệp
mang tính bản chất xã hội xa xưa hơn của Death. Cái chết đến với tất cả mọi người, vua
chúa hay thường dân đều như nhau. Tính dân chủ cơ bản này của cái chết là một chủ đề
yêu thích của những giáo lý thời Trung cổ. Nó như một quan niệm trở đi trở lại ít nhất cho
đến khi người Do Thái vẫn còn dùng cùng một cách để chôn người chết, với một tấm vải
liệm trắng và một cái hộp gỗ thông trơn một màu, để với cái chết, người giàu cũng cùng
đẳng cấp với người nghèo.

73
Như ta có thể đoán, sức mạnh vĩ đại của cái chết dẫn ta vượt khỏi sự dân chủ để đến với
những ý nghĩa của cả triết học lẫn tâm lý học. Cái chết, cũng như sự sống, là bất diệt và
luôn hiện hữu. Những hình thái riêng biệt luôn chết đi trong khi những hình thái khác bắt
đầu tồn tại. Nếu không có cái chết dọn dẹp đi cái cũ thì không có thứ mới mẻ nào có thể tìm
thấy một chỗ đứng trong thế giới này. Nhiều tiểu thuyết khoa học giả tưởng đã cho thấy một
xã hội bạo ngược sẽ phát sinh nếu những nhà lãnh đạo của thế giới đó không chết đi. Tây
Ban Nha giành độc lập sau cái chết của Franco là một minh chứng thích đáng cho tầm quan
trọng của cái chết.

Khi chúng ta chết, da thịt sẽ mục rữa đi chỉ còn trơ lại khung xương. Bộ xương rốt cuộc rồi
cũng sẽ mất đi nhưng ít nhất nó tồn tại đủ dài để gợi đến sự vĩnh hằng. Do đó, bộ xương
trong lá bài của Golden Dawn ngụ ý rằng sự vĩnh hằng chiến thắng cái tạm thời. Ở đây, bộ
xương cũng có một ý nghĩa huyền bí. Trên khắp thế giới, việc huấn luyện cho các pháp sư
có bao gồm cả phương pháp tự nhìn thấy bộ xương của chính mình, qua việc dùng ma túy,
thiền, thậm chí cả cách lột da mặt. Bằng cách giải phóng xương khỏi da thịt, pháp sư sẽ kết
nối chính họ với sự vĩnh hằng.
Bởi vì sợ hãi cái chết nên người ta tìm kiếm nguyên do và giá trị nằm trong nó. Đạo Thiên
Chúa dạy chúng ta rằng cái chết giải phóng linh hồn chúng ta khỏi xác thịt tội lỗi để ta có thể
hợp cùng với Chúa trong một cuộc sống vĩ đại hơn sắp tới. Carl Jung đã viết về giá trị của
việc tin vào kiếp sau. Không có nó, cái chết dường như quá kinh khủng để người ta có thể
chấp nhận được.
Những người khác đã chỉ ra rằng cái chết hòa chúng ta với tự nhiên. Những ý thức tách ta
khỏi thế giới sẽ bị xóa đi; dù thể xác có phân hủy, thì điều đó cũng chỉ có nghĩa rằng nó
đang nuôi sống những sinh vật khác. Mỗi cái chết đều mang đến một sự sống mới. Nhiều
người lại thấy quan điểm mình bị ăn mất quá khủng khiếp để mà suy ngẫm. Việc tiến hành
ướp xác và sơn vẽ các xác chết theo cách hiện đại để chúng trông như vẫn còn sống, và rồi

74
chôn chúng trong các quan tài kim loại được niêm kín bắt nguồn từ mong muốn duy trì sự
tách biệt của cơ thể khỏi tự nhiên ngay cả khi đã chết.
Sự thật là, vì chúng ta sẽ không biết được chuyện gì sẽ xảy ra cho cơ thể chúng ta một khi
linh hồn đã rời đi mất, những gì chúng ta thực sự sợ hãi là tính cách bị tàn phá đi. Đó là khi
cái tôi tự thấy mình tách biệt với sự sống; bởi vì nó chỉ là chiếc mặt nạ cái tôi không muốn bị
chết đi. Nó ao ước bản thân có thể siêu việt hơn vũ trụ.
Nếu chúng ta có thể chấp nhận cái chết chúng ta sẽ có thể sống trọn vẹn hơn. Cái tôi không
bao giờ muốn giải phóng năng lượng; nó cố tích lũy năng lượng chống lại nỗi sợ hãi cái
chết. Kết quả là năng lượng mới không thể chảy vào. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong hô
hấp của con người khi họ hoảng loạn. Họ cố hít thật sâu không để không khí thoát ra và kết
quả là họ thở gấp gáp.
Trong tình dục cái tôi cũng tích lũy năng lượng. Nó chống lại việc lên đỉnh và phó mặc bởi
lúc đó cái tôi phần nào bị hòa tan. Ở nước Anh thời Elizabeth, việc giao cấu thường được
gọi là “chết”. Và Death trong Tarot nằm bên dưới Lovers.
Bởi cái tôi bài xích ý tưởng chết đi và do đó làm chúng ta không thể tận hưởng cuộc sống
nên đôi khi chúng ta phải bước những bước thật dài để vượt qua nó. Các nghi lễ kết nạp
luôn dẫn đến một cái chết và sự tái sinh giả tưởng. Người được kết nạp được dẫn dắt đến
tin tưởng rằng người ấy thực sự sắp chết rồi. Mọi thứ được sắp xếp để khiến cái chết này
càng thực càng tốt để cái tôi sẽ bị đánh lừa và từ đó nó trải nghiệm sự hòa tan đáng sợ kia.
Và rồi, khi người được kết nạp “tái sinh”, anh ta hoặc cô ta trải nghiệm một sự trưởng thành
mới và một sự tự do mới của dòng năng lượng. Trong những năm gần đây, nhiều người đã
trải nghiệm vài thứ rất giống những nghi lễ này bằng cách dùng ma túy. Họ tin rằng họ đang
chết và họ cảm thấy chính mình được tái sinh. Tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị được
biểu trưng trong lá The Hanged Man thì những trải nghiệm này có thể gây nên những xáo
trộn sâu sắc.
Trái với những gì nhiều người tin tưởng, lá bài The Death không thực sự ngụ ý việc thay
hình đổi dạng. Đúng hơn, nó cho ta thấy chính khoảnh khắc lúc chúng ta từ bỏ những chiếc
mặt nạ cũ và cho phép sự biến đổi xảy ra. Có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ điều này hơn nếu xem
xét tính tương đương của Tarot với phép chữa tâm lý. Bằng sức mạnh ý chí (Strength) của
một người, với sự giúp đỡ của nhà trị liệu (The Hermit), cho phép anh ta hoặc cô ta nhận
biết được mình thực sự là ai, và những tính khí hay nỗi sợ nào anh ta hoặc cô ta muốn bỏ đi
(The Wheel và Justice). Sự nhận biệt này mang lại sự điềm tĩnh và một mong muốn phải
thay đổi (The Hanged Man). Nhưng rồi một cơn sợ hãi bắt đầu. “Nếu ta từ bỏ thái độ của
ta”, người này nghĩ, “có lẽ sẽ chẳng còn lại gì cả. Ta sẽ chết”. Chúng ta sống dưới tầm kiểm
soát của cái tôi nhiều năm đến nỗi chúng ta tin rằng không còn gì khác ngoài nó tồn tại.
Những chiếc mặt nạ là tất cả những gì ta biết. Thường thì người ta sẽ mắc lại việc chữa trị
đến vài năm vì họ sợ phải buông bỏ. Sự hư vô của The Fool làm họ sợ chết khiếp.   

75
Những người đã béo nộn bao nhiêu năm ròng thường trải nghiệm một nỗi sợ tương tự nếu
họ cố gắng ăn kiêng. “Mình đã luôn béo thế này rồi”, họ nghĩ. “Mình là một người béo. Nếu
mình ốm đi mình sẽ không còn tồn tại nữa”. Sự thật là, thật như thế đấy. Cái “tôi” từng là
người béo ấy sẽ không còn tồn tại nữa. Nhưng một thứ gì đó khác đã nảy sinh.
Hình vẽ lá chính số 13 của Waite làm tăng ý nghĩa tâm lý của lá bài Tarot. Bốn người là bốn
hướng khác nhau để thay đổi. Nhà vua, gục xuống, thể hiện cái tôi cứng nhắc. Nếu cuộc
sống đến với chúng ta với đầy đủ sức mạnh, cái tôi có thể sẽ sụp đổ; bệnh điên có thể là kết
quả của sự bất lực, không thể thích nghi với những thay đổi lớn lao. Vị tu sĩ đứng thẳng và
đối mặt trực tiếp với The Death; ông có thể làm vậy là vì có tấm áo choàng thô kệch cùng
chiếc mũ bảo vệ và chống đỡ. Chúng ta thấy ở đây giá trị của một hệ thống niềm tin giúp
chúng ta vượt qua nỗi sợ cái chết. Cô trinh nữ biểu trưng cho một phần vô tội. Cái tôi không
cứng nhắc, nhưng vẫn nhận thức được bản thân, không sẵn lòng phó mặc đi. Do đó, nàng
quỳ gối nhưng quay đi chỗ khác. Chỉ có trẻ con, đại diện cho sự vô tội hoàn toàn, đối
mặt The Death đơn giản với những đóa hoa.
The Death mặc giáp đen. Chúng ta đã biết màu đen và bóng tối biểu trưng cho nguồn sống
cũng như sự kết thúc sự sống như thế nào. Màu đen hấp thụ tất cả những màu khác; cái
chết hấp thụ tất cả sự sống của mỗi cá nhân. Bộ xương cưỡi một con ngựa trắng. Màu
trắng khước từ mọi màu khác và do đó biểu trưng cho sự trong trắng, nhưng cũng biểu
trưng cho hư vô. Đóa hồng trắng đại diện cho những ham muốn đã được tẩy rửa, cho lúc
cái tôi chết đi tính ích kỷ và sự hà khắc cũng cần phải chết theo.
Ờ phía đằng xa của lá bài chúng ta thấy một mặt trời đang mọc giữa hai cây cột. Cái tôi
thuộc về thế giới bên ngoài của tính nhị nguyên, phân tách và phân loại kinh nghiệm. Qua
Cái chết chúng ta cảm nhận được quyền năng rực rỡ của Cuộc sống, thứ chỉ biết đến bản
thân nó. Phong cảnh trước hai cây cột nhắc chúng ta về “vùng đất của Người chết” được
mô tả trong các thần thoại. Chúng ta sợ cái chết của bản thể cũ của mình vì chũng ta không
biết mong chờ gì sau đó. Một chức năng chính của những pháp sư đã nhìn thấy bộ xương
của chính họ là đi trước qua Vùng đất của Người chết và do đó có thể dẫn dắt linh hồn của
những người khác.
Một dòng sông chảy qua giữa lá bài. Những dòng sông, như ta đã thấy cùng
với The Empress, biểu thị sự thống nhất của thay đổi và vĩnh cửu. Việc chúng dẫn về biển
nhắc chúng ta về sự vô hình vô dạng và tính tổng hòa của vũ trụ. Con thuyền, làm gợi đến
những con thuyền mai táng của các Pharaoh, đại diện cho bản ngã thực sự được đưa
qua The Death để đến với cuộc sống mới.
Cho dù hình ảnh là gì thì tất cả các lá bài  The Death trong Tarot đều mang số 13. Dù phần
lớn mọi người đều xem 13 là xui xẻo nhưng họ không biết tại sao. Trong nền văn hóa của
chúng ta 13 ngụ ý chỉ Judas, vì hắn là người thứ mười ba tại Bữa Tiệc Ly, và do đó con số
này biểu thị cái chết của Chúa Jesus (và của chúng ta nữa). Thứ Sáu ngày 13 đặc biệt xui

76
xẻo vì Chúa chết vào ngày thứ Sáu. Nhưng chúng ta cũng có thể mô tả Chúa là người thứ
mười ba. Cái chết dẫn đường đến sự hồi sinh.
Theo một cảm giác mang tính hình tượng hơn thì 13 xui xẻo bởi nó đưa ta vượt khỏi 12. 12
là một cái gì đó của một con số “hoàn hảo”. Nó kết hợp các nguyên mẫu của 1 và 2, nó biểu
trưng cho hoàng đạo và do đó, cho vũ trụ, nó có thể được chia bởi 1, 2, 3, 4 và 6, nhiều số
hơn bất cứ số nào khác. Số 13 hủy hoại sự tao nhã này. Nó không thể được chia bởi số nào
khác ngoài 1 và chính nó. Một lần nữa, chúng ta có thể vượt ra khỏi những khía cạnh tiêu
cực của tính biểu tượng. Đúng vậy, bởi nó phá hỏng sự hoàn hảo của 12, số 13 biểu thị một
sự sáng tạo mới; cái chết đánh đổ đi các hình thái cũ và dọn đường cho cái mới.
Số 13 cộng lại bằng 4, lá The Emperor. Qua The Death chúng ta vượt qua cái bản ngã “xã
hội” bên ngoài của chúng ta. Vì 13 là dạng cao hơn của 3, lá bài cũng gợi đến The Empress,
và lần nữa nhắc chúng ta rằng sự sống tự nhiên và cái chết là không thể tách rời.  
Trong giải bài Tarot, lá The Death biểu thị đã đến lúc thay đổi. Thường thì nó biểu thị nỗi sợ
phải thay đổi. Theo khía cạnh tích cực nhất nó cho thấy một sự dọn dẹp sạch sẽ những tính
khí và sự cứng nhắc cũ để cho phép một cuộc sống mới trỗi dậy. Theo khía cạnh tiêu cực
nhất nó biểu thị một nỗi sợ cái chết đến méo mó. Nỗi sợ này ăn sâu hơn nhiều so với mức
độ nhiều người có thể nhận thấy, và thường một quẻ bài với nhiều dấu hiệu lạc quan sẽ kết
thúc khá tệ vì có The Death nằm ở vị trí của những nỗi sợ hãi.
Lá chính này nếu đảo ngược sẽ biểu thị cho việc bị mắc kẹt lại trong những thói quen
cũ. Waite nói đó là “tính ù lỳ, u mê, thờ ơ” trong cuộc sống. Cảm giác về một cuộc đời uể
oải, chán ngán sẽ che đi những giây phút chiến đấu dữ dội của cái tôi để tránh phải thay
đổi. Lá bài luôn biểu thị rằng The Death, với sự tái sinh ngay sau đó của nó, không chỉ là
một khả năng mà còn là một cảm thức, một sự cần thiết phải có. Đã đến hồi kết thúc. Bằng
cách chìm đắm trong u mê, cái tôi khiến sự nhận thức của vấn đề này không đến được với ý
thức. Tính ù lỳ, chán nản và rầu rĩ thường che lấp đi những khiếp sợ bên trong chúng ta. 

TEMPERANCE

The Chariot biểu trưng cho những thành tựu của một cái tôi có thể giành chiến thắng trước
cuộc sống. Thời gian trôi qua, cái tôi này sẽ trở nên cứng nhắc; cách hành xử dần không
còn là những phản ứng trước thực tại nữa và càng ngày càng chỉ còn là một nét thói quen.
Mục đích của dòng thứ hai của bộ Ẩn Chính là giải phóng chúng ta khỏi tính cách nhân tạo
này, và đồng thời cho chúng ta nhìn thoáng qua những sự thật vĩ đại trong vũ
trụ.Temperance, xuất hiện bên dưới The Chariot, cho thấy một người có cách hành xử lại
kết nối với thế giới thực thêm một lần nữa nhưng theo một cách có ý nghĩa hơn trước kia rất
nhiều. Dù rằng nếu một đứa trẻ liên kết trực tiếp với cuộc sống thì nó cũng làm vậy mà
không có chút ý thức nào, và khi ý thức phát triển, cái tôi cũng sẽ phát triển
theo. Temperance biểu thị khả năng kết hợp tính tự phát với nhận thức.

77
Cụm từ “hài hòa” mang nghĩa điều tiết. Đối với hầu hết mọi người điều này có nghĩa là tự
kiểm soát bản thân. Temperance của Tarot, tuy nhiên, không đơn giản là đến với các thái
cực vì các thái cực là không cần thiết. Không phải là những kiềm hãm nhân tạo tuân theo
một hệ thống đạo đức, mà chính xác là thứ ngược lại; một phản ứng thực sự và đúng đắn
với tất cả mọi tình huống xảy ra.
Từ “temperance” bắt nguồn từ từ La-tinh “temperare” có nghĩa là “hòa trộn” hoặc “kết hợp
một cách đúng đắn”. Người đã giải phóng bản ngã nội tại của mình sẽ có những đặc điểm
được tạo nên không chỉ bằng tính điều tiết mà còn bởi khả năng kết hợp những mặt khác
nhau của cuộc sống. Nhiều người chỉ có thể đối phó với cuộc sống bằng cách bọc nó lại
thành từng phần. Họ tạo nên một tính cách cho công việc và một tính cách khác cho cuộc
sống riêng; cả hai đều là giả tạo. Họ xem một vài khoảnh khắc và tình huống này là “nghiêm
túc” và một vài khoảnh khắc và tình huống khác là “vui đùa” rồi cẩn thận không bao giờ cười
vào những vấn đề nghiêm trọng. Người họ yêu thường không phải là người họ cảm thấy lôi
cuốn tình dục. Tất cả những chia tách này bắt nguồn từ việc không thể đón nhận cuộc sống
khi nó đến, từng phút từng giây. Temperance kết hợp các yếu tố của cuộc sống. Trong thực
tế nó kết hợp những yếu tố của một cá nhân, để người này và thế giới bên ngoài sẽ nhẹ
nhàng cùng nhau chảy đi.
Lá chính này thể hiện những dấu hiệu kết hợp xuyên suốt bức tranh. Khi chúng ta nhìn vào
bức vẽ của Wait-Smith ở bên trái, điều chúng ta thấy đầu tiên là nước được đổ từ cốc này
sang cốc khác; những yếu tố của cuộc sống cùng chảy với nhau. Hãy chú ý rằng chiếc cốc
thấp hơn không ở ngay dưới chiếc cốc bên trên, tức là bức tranh cho thấy một việc không
thể xảy ra theo vật lý. Đối với vài người thì khả năng của người Temperance là giải quyết tất
cả những vấn đề của cuộc sống bằng niềm vui xuất hiện như một phép màu.

Temperance của bộ Rider Waite Tarot thể hiện cả hai chiếc cốc như có phép. Trong bức
tranh của Wirth ở phía bên phải thì chiếc cốc phía trên làm bằng bạc, biểu thị một dòng chảy
từ Moon, tức là vô thức, chảy đến Sun, đến ý thức. Dòng thứ hai bắt đầu với một sự rút lui

78
khỏi thế giới để tìm bản ngã bên trong; và nay đã đến lúc quay lại với những hoạt động bình
thường của cuộc sống.
Con đường đặc biệt biểu hiện cho sự quay trở lại. Chúng ta đã đi vào bên trong bản ngã và
giờ đây chúng ta dọn đường quay lại để hòa nhập với thế giới bên ngoài với một bản thân
phong phú hơn. Hãy chú ý rằng hai cây cột của lá bài trước đó đã trở thành hai ngọn núi.
Những quan niệm trừu tượng đang dần trở nên thực tế; Temperance là lá bài của cách
hành xử chứ không phải của những khái niệm.
Thiên thần đứng với một chân trên đất, một chân trong nước. Nếu nước đại diện cho vô
thức thì đất biểu trưng “thế giới thực” của những sự kiện và những người khác. Tính
cách Temperance, hoạt động từ một cảm thức bên trong của cuộc sống, kết nối hai địa hạt.
Nước cũng biểu thị tính tiềm năng, tức là, những khả năng của cuộc sống, trong khi đất biểu
trưng cho những thứ hữu hình hay hiện thực. Một người Temperance, qua những hành
động của mình, mang đến hiện thực những điều kỳ diệu được The Hanged Man cảm nhận.
Temperance của BOTA thể hiện nước được đổ lên một con sư tử, và một ngọn đuốc vấy
lửa lên một con đại bàng. Sư tử biểu trưng cho lửa (The Magician), trong khi đại bàng, một
dạng “cao cấp” hơn của cung Bò Cạp, đại diện cho nước (The High Priestess). Thiên thần
đang hòa trộn tính nhị nguyên cơ bản, kết hợp không thể tách rời những mặt khác nhau của
cuộc sống vốn từng xa lạ đến vô vọng với nhau. Giờ đây, đại bàng đại diện cho dạng Bò
Cạp cao hơn bởi Bò Cạp đại diện cho sức mạnh của vô thức. Ở dạng thấp hơn là bò cạp thì
năng lượng này cơ bản thể hiện chính bản thân nó là bản năng tình dục, “những khát khao
thú tính” của cái tính cách còn chưa phát triển. Khi năng lượng này được chuyển đổi bằng
cách dẫn nó đi qua nhận thức, nó trở thành một chú đại bàng của tinh thần. Strength đã cho
thấy năng lượng này được đưa đến trong hình dạng một con sư tử; trong
lá Temperance của BOTA chúng ta thấy quá trình đã hoàn tất, đại bàng và sư tử đã kết hợp
rồi.  
Thiên thần này tương đồng với vị nữ thần Hi Lạp Iris, người có biểu tượng là chiếc cầu
vồng; cầu vồng xuất hiện trong lá bài BOTA và hoa diên vỹ trong phiên bản của bộ Rider
Waite Tarot. Cầu vồng xuất hiện là dấu hiệu yên bình sau cơn bão, điều nhắc ta
rằng Temperence thể hiện tính cách đã được giải phóng bởi trải nghiệm đầy sợ hãi
với The Death. Cầu vồng đến từ nước nhưng bừng lên như dải sáng vắt qua bầu trời, một
tượng trưng của bản ngã bên trong, vốn dường như từng tăm tối, hỗn độn, đáng sợ, nay đã
được mang ra ngoài và hân hoan chuyển thành lời hứa hẹn một cuộc sống mới. Trong
truyền thống đạo Do Thái và Thiên Chúa, cầu vồng là dấu hiệu của sự tái sinh sau Đại Hồng
Thủy (The Flood). Cơn Đại Hồng Thủy, cũng như sự phá hủy vũ trụ của Shiva, đại diện cho
cái chết của những hình mẫu cũ theo tâm lý, những hình mẫu không phản ánh sự thật và
niềm vui của cuộc sống và là thứ dẫn con người vào đường “ma quỷ” – cách hành xử tàn
phá chính chúng và những thứ khác nữa.

79
Cũng như người đưa tin Iris của Zeus xuống địa phủ để múc đầy chiếc cốc vàng của mình
bằng nước sông Styx, người Hi Lạp tin rằng linh hồn người đã khuất qua sông Styx để đến
vùng đất của người chết. Chỉ khi bản ngã xuống nơi địa phủ thì cuộc sống mới mới có thể
bắt đầu.
Theo tôn giáo thiên thần biểu trưng cho linh hồn bất tử giải phóng khỏi cái chết. Nếu bạn
nhìn kỹ bên dưới cổ áo bạn sẽ thấy tên của Chúa ở bên trong lớp vải áo chùng. Trong
truyền thống đạo Thiên Chúa, linh hồn sẽ hòa làm một với Chúa sau khi phục sinh. Tam
giác bên trong hình vuông biểu thị Linh hồn thoát ra từ cơ thể phàm tục.
Theo tâm lý học, thiên thần biểu thị cho năng lượng của cuộc sống trỗi dậy sau Cái Chết
của cái tôi. Hình tam giác ở đây thể hiện rằng năng lượng này hoạt động trong hình vuông
của những hoạt động thông thường. Chúng ta không cần dùng đến phép màu để cảm nhận
sự kết nối giữa mình và vũ trụ bất tử. Chúng ta chỉ cần là chính mình thôi.
Hãy nhớ rằng Tứ Tự xuất hiện trên The Wheel như một điều bí ẩn của số mệnh. Ở đây cái
tên đã trở thành một phần của chúng ta. Chúng ta trở thành “chủ nhân” định mệnh của mình
khi chúng ta học được cách dàn xếp với cuộc sống lúc nó đến và không dựa theo vòng
quay thông thường của những thói quen và chống chế.
Ý nghĩa tiên tri, cũng như những quan niệm của lá bài Tarot này, bắt đầu với sự điều tiết,
cân bằng trong mọi thức và bước trên trung đạo. Lá bài mang nghĩa hành động đúng đắn,
làm những việc đúng cho dù tình huống có thế nào đi nữa. Ý này rất hay mang nghĩa là
không làm gì cả. Một người phi điều độ luôn cần phải làm gì đó, nhưng thường thì tình
huống yêu cầu người đó chỉ chờ thôi. Lá bài đôi lúc sẽ xuất hiện như một liều thuốc giải cho
những lá của tính khinh suất và sự kích động.
Temperance biểu thị hòa trộn những yếu tố hoàn toàn khác biệt với nhau, pha trộn những
hành động và những cảm giác để cho ra một cảm thức hài hòa và bình lặng. Bởi nó có
nghĩa là cân bằng và kết hợp những mặt khác nhau của cuộc sống, Temperance mang một
ý nghĩa đặc biệt đến cho bộ Ẩn Phụ. Nếu quẻ bài Tarot cho thấy một người chia tách giữa,
ví dụ như, gậy và cốc, chủ động và bị động, hoặc cốc và đồng xu, ảo tưởng và thực tế,
thìTemperance, điều tiết và hành động từ một cảm thức nội tại về cuộc sống, có thể cho
manh mối để mang những thứ đó lại với nhau.
Giống như lá The Fool ngược, Temperance xoay ngược biểu thị một sự hoang đã, đi đến
các thái cực. Trong Temperance đây là bởi người đó thiếu đi nhận thức bên trong để biết
điều gì là thích hợp cho tình huống đó. Lá chính này đảo ngược có thể dùng như một lời
cảnh báo rằng bạn đã cho phép đời mình trở nên phân mảnh và rằng bạn đang trượt từ thái
cực này sang thái cực khác. Nó thực sự có thể biểu thị sự thất bại trong nhiệm vụ cao cả là
để những thói quen và nỗi sợ chết đi cùng quá khứ. Ở một mức độ giản đơn
lá Temperance ngược bảo chúng ta bình tĩnh lại và tránh những thái cực đi; trong cảm thức

80
sâu sắc nhất của nó nó đưa ta quay lại với Strength để bắt đầu quá trình dài, đôi khi đau
đớn, đôi khi đáng sợ, nhưng luôn đầy hân hoan từ trong cốt lõi của sự chết đi và tái sinh.

CHƯƠNG VI: CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI

MỤC TIÊU CỦA SỰ KHAI SÁNG

Hầu hết mọi người đều thỏa mãn khi đã phá nát cái mặt nạ của tính cá nhân và có thể quay
lại với thế giới bình thường đã được làm mới lại. Tuy nhiên, luôn có những người tìm kiếm
những điều vĩ đại hơn thế – một sự thống nhất hoàn toàn với những nền tảng tinh thần của
thực tại. Đối với họ chỉ cảm nhận được tinh thần này chảy xuyên cuộc sống của mình chưa
đủ. Họ ao ước được hiểu sức mạnh này với một ý thức hoàn chỉnh và sự khai sáng, những
thuyết giảng và tấm gương của họ sẽ làm phong phú chúng ta. Đối với những người này,
thành tựu đạt được ở dòng thứ hai là một sự chuẩn bị, một sự dọn dẹp hết những trở ngại
đi.
Trong hình dạng thực sự nhất, cuộc sống đơn giản rất thuần khiết, là năng lượng không
phân hóa mà tất cả những thứ trong nó tồn tại đồng nhất. Không có những dạng thức,
không có những phần mảnh của sự bất diệt. Ý thức bảo vệ ta khỏi những trải nghiệm mang
tính áp đảo đấy. Nó phá vỡ toàn bộ cuộc sống thành những mặt đối lập và những thể loại
khác nhau. Trong lá The Hanged Man và Temperance chúng ta một phần đã chạm ra ngoài

81
những ảo ảnh giới hạn này để cảm thức được sức mạnh vĩ đại của cuộc sống, và cảm thức
được chính mình là một phần của sức mạnh đó. Nhưng thậm chí trong lá Temperance ảo
ảnh của những tách biệt cũng qua lại. Lá bài bên dưới Temperance gọi là The World bởi
qua việc trải nghiệm nó, chúng ta và vũ trụ trở thành một thể.
Dòng này bắt đầu với một nghịch lý, một thứ có vẻ như là một cú ngã vào những ảo giác
của The Devil. Bằng cách theo đuổi ý nghĩa của lá bài ở vị trí đặc thù này, chúng ta đến với
một thấu hiểu mới mẻ về những gì liên quan với sự giải phóng. Ngay từ đầu của bộ Ẩn
Chính, chúng ta đã nói rằng bóng tối và ánh sáng ràng buộc với nhau. Phần vô thức tối tăm,
tuy nhiên, lại nằm ẩn trong đền thờ của The High Priestess, chỉ được trải nghiệm thông qua
tiềm thức. Để vượt qua tấm màn phủ chúng ta đầu tiên phải đi vào vùng tối của bản ngã.
Nhiều tôn giáo ca tụng chuyến đi qua bóng tối để đến vùng đất của cuộc sống vĩnh hằng.
Khi Giáo Hội Thiên Chúa giáo lập nên tôn giáo ánh sáng của mình, nó đã cấm tất cả những
gì gợi đến bóng tối và xem đó là xấu xa. Hình ảnh quen thuộc của The Devil đơn giản là một
hòa trộn của vị thần Hi Lạp Pan và những đối thủ cạnh tranh của Chúa Jesus.  
Ý nghĩa của The Tower phụ thuộc vào cách chúng ta nhìn The Devil ra sao. Nếu chúng ta
xem The Devil là những ảo ảnh giản đơn thì The Tower cho thấy chúng tan tành vì những
biến động dữ dội. Tuy nhiên, nếu The Devil biểu thị cho sự giải phóng những năng lượng bị
đè nén thì ảo ảnh bị tia sét đánh tan kia không gì hơn là một bức màn của chính ý thức.  
Trong mỗi dòng, ba lá bài giữa tạo nên một nhóm đặc biệt. Đầu tiên đó là bộ ba tự nhiên, xã
hội và giáo dục; thứ hai đó là sự thay đổi, thông qua Justice, từ tầm nhìn bên ngoài
của The Wheel đến trải nghiệm bên trong của The Hanged Man. Trong dòng cuối, ba lá bài
cho thấy một chuyến quay về từ phát giác bên trong của The Star đến ý thức của The Sun.
Ở giữa chúng, lấp đầy bởi những điều lạ lùng, The Moon nằm đó.
Lá The Sun không phải là kết thúc. Một lần nữa chúng ta đi xuống bóng tối để đến với trải
nghiệm, trong Judgement và The World, một sự hòa nhập hoàn toàn với vụ trụ và tinh thần
lấp đầy vũ trụ. Chúng ta giờ đây có thể hoạt động ở thế giới bên ngoài mà không bao giờ
đánh mất cảm giác vô tận và kỳ diệu bên trong. The Magician và The High Priestess đã
thống nhất trong một vũ điệu hân hoan.  

THE DEVIL

Vì sao trong Tarot hình ảnh dữ tợn đầy áp lực này lại xuất hiện muộn đến vậy? Đã đạt được
sự cân bằng của Temperance rồi mà sao lại đột ngột sụp đổ thế này? The Devil mang số
15, con số giảm xuống còn 6, Lovers, và thật ra chúng ta có thể nói rằng Waite đi lùi lại
từ The Devil khi ông phác thảo phiên bản gốc lá The Lovers của mình. Do đó trong bộ Rider
Waite Tarot thì The Devil, với những con quỷ mà hắn bắt được, xuất hiện giống như lá
chính số 6 bị bóp méo, xuyên tạc đi. Nhưng tại sao lá bài “thực” lại xuất hiện sớm như thế
và bản xuyên tạc lại xuất hiện gần cuối như vậy?

82
The Devil giới thiệu dòng cuối cùng. Lá bài này gợi ý rằng nó mang đến vài năng lượng tối
cần cho vận động của dòng này. Ở đây, dòng này giải quyết những thế lực nguyên mẫu
nằm ngoài bản ngã. Con dường đến sự khai sáng có đưa ta qua thế giới tối tăm
của The Devil không? Hãy nhớ rằng Dante đã đi qua Địa Ngục trước khi đến được Ngục
Luyện Tội (Purgatory) và Thiên Đường; và rằng William Blake, một nhà huyền học và là một
nhà thơ, đã mô tả The Devil là một người hùng thực sự của bài thơ luân lý Paradise
Lost của Milton.

Để hiểu giá trị huyền bí của The Devil chúng ta đầu tiên phải xem xét những ý nghĩa thường
thấy hơn của nó, một sức mạnh của ảo giác và tính áp bức. Ảo ảnh lớn nhất là chủ nghĩa
vật chất, một thuật ngữ mà chúng ta thường nghĩ là một sự quan tâm thái quá đến tiền bạc,
nhưng đúng hơn nó có nghĩa là quan điểm rằng không có gì tồn tại bên ngoài thế giới của
những giác quan. The Devil ngồi trên một bệ đá tương tự như khối lập phương
của The Emperor trong bộ BOTA. Nhưng nếu khối lập phương thể hiện toàn bộ vũ trụ thì bệ
chữ nhật của The Devil, một nửa khối lập phương, biểu thị một kiến thức không hoàn chỉnh.
Chối bỏ mọi thành phần mang tính tinh thần của cuộc sống, người theo chủ nghĩa vật chất
theo đuổi chỉ những mục tiêu cá nhân – tiền tài, dục vọng và chính trị. Vì sự hạn hẹp đó chỉ
dẫn đến bất hạnh nên The Devil trở thành biểu tượng cho cảnh khổ sở. Khi nhìn vào hai
hình người kia, tuy nhiên, ta không thấy mặt mày hay tư thế của họ có chút khó chịu nào.
Cũng hãy chú ý rằng những sợi xích không thực sự giữ chân họ, những vòng xích lớn đó có
thể dễ dàng tuột ra. Sức mạnh của The Devil nằm trong ảo giác rằng không còn gì khác hơn
tồn tại. Trong rất rất nhiều trường hợp, từ những đàn áp chính trị đến cảnh khổ sở của cuộc
sống gia đình tồi tệ, người ta chỉ trở nên bất hạnh một cách ý thức khi họ nhận ra cuộc sống
này còn những lựa chọn khác.   
Tư thế của The Devil, một tay hướng lên, một tay hướng xuống, làm nhớ đến The Magician.
Nếu lá chính 1 vươn một tay lên thiên đàng, truyền xuống sức mạnh tinh thần thì ngọn đuốc
của The Devil chỉ xuống đất, biểu thị niềm tinh rằng không gì tồn tại vượt ngoài vật chất.  

83
Lòng bàn tay của The Devil khắc biểu tượng chiêm tinh của sao Thổ, hành tinh thường
được xem là tượng trưng cho những điều xấu xa hay tai họa, nhưng chính xác hơn thì nó
được xem là những giới hạn, điểm yếu hoặc hạn chế. Những ngón tay xòe ra cộng thêm 5
vào 15, làm nhớ đến hai ngón tay chỉ lên và chỉ xuống của The Hierophant. Cử chỉ cuối biểu
thị rằng vũ trụ có nhiều thứ hơn là những gì bạn đang thấy, lòng bàn tay mở ra
của The Devil lần nữa biểu thị rằng không gì tồn tại bên ngoài những thứ rõ ràng trước mắt.
The Devil mang một ngôi sao năm cánh ngược, biểu tượng của ma thuật, trên trán hắn. Ở
đây, ngôi sao năm cánh mang rất rất nhiều ý nghĩa. Nếu bạn đứng với hai chân dang rộng,
hai tay duỗi ngang ra bạn sẽ thấy ngôi sao năm cánh tượng trưng cho cơ thể con người. Ở
chiều xuôi thì đầu ở cao nhất và khi chúng ta lộn ngược ngôi sao năm cánh lại thì bộ phận
sinh dục ở bên trên đầu. Thiên Chúa giáo truyền dạy sức mạnh của lý trí, khả năng chỉ ra
điều đúng từ cái sai, thống trị những ham muốn. Do đó, ngôi sao năm cánh ngược biểu thị
việc để những ham muốn khuất phục đi sự phán xét của bạn. Ngọn đuốc của The Devil thắp
lửa chiếc đuôi của người nam, và những ai đã trải nghiệm nhu cầu tình dục của họ theo
cách vừa áp đảo vừa tàn phá thường miêu tả nó như lửa cháy lên bên trong họ. Nền của lá
bài màu đen, biểu trưng cho ma thuật, sự bất lực để thấy được sự thật và những muộn
phiền.  
Do đó chúng ta thấy ý nghĩa truyền thống của The Devil là: ảo ảnh, chủ nghĩa vật chất, cảnh
khốn cùng và ám ảnh tình dục. Tuy vậy, lá bài mang một sức mạnh to lớn. The Devil mãnh
liệt nhìn chúng ta. Những người thực hành Tantra mô tả kundalini như ngọn lửa bên trong
cơ thể, bắt đầu ở cuối cột sống, chỗ xương cụt, và được gợi lên bằng những nghi lễ tính
dục.
Hãy xem xét ngôi sao năm cánh lần nữa. Cơ quan sinh dục ở bên trên đầu. Hình ảnh này
nhắc chúng ta nhớ đến lá The Lovers của bộ Rider Waite Tarot, lá bài mà người phụ nữ,
biểu tượng của vô thức và đam mê, ngước nhìn thiên thần. Chúng ta cũng có thể nhớ lại
lá Strength, ngay phía trên The Devil, ở đó chú sư tử tượng trưng cho sức mạnh thú tính nổi
lên và bị thuần hóa. Chúng ta đã nói về niềm tin huyền bí rằng năng lượng tình dục và tinh
thần thực ra là một và như nhau cả, được biểu trưng bằng hình ảnh đôi bò cạp và đại bàng
của cung Bò Cạp. Nghe cũng lạ nhưng quan niệm này không quá bí ẩn đâu. Nó không
khiến một nhà huyền học hay một người theo Freud nhận ra sức mạnh lớn lao của tình dục
trong cuộc sống chúng ta. Một nền văn hóa đại chúng, với những bản tình ca, những bộ
phim lãng mạn, những chuyện tếu và tiếng lóng có mùi tình dục, cống hiến bao phần cho
quan niệm này chứ? Nếu, với một người bình thường, thôi thúc tình dục quá áp đảo, thì nó
có nghĩa là một nhà huyền học nên theo đuổi mà rút lấy năng lượng này và nâng nó đến
một mức độ mà cuối cùng nó hoàn toàn biến đổi thành trải nghiệm tràn trề của sự khai
sáng.

84
Một điểm tinh tế hơn – mơ mộng luôn luôn đi kèm với ham muốn tình dục của cơ thể, một
dương vật hay âm vật cương cứng, thêm những dấu hiệu khác nữa. Giờ đây, một giấc
mộng chính là vô thức tự biểu lộ bản thân nó dưới dạng những hình ảnh. Dấu hiệu cho thấy
vô thức là nhục dục trong bản chất và những giấc mơ là một phần biến đổi của năng lượng
đó thành một dạng rộng lớn hơn. Thật ra thuật ngữ “vô thức” không thực sự ngụ ý chỉ
những giấc mơ và những chuyện tưởng tượng phô bày nó cho ta thấy, mà là một hồ lớn
năng lượng chống đỡ chúng ta qua cuộc sống.
Văn hóa phương Tây của chúng ta dạy rằng thể xác và tinh thần đối lập về cơ bản. Chúng
ta cho rằng tăng ni kiêng chuyện tình dục để không tự làm mình bị ô uế. Nhưng chúng ta có
thể nhìn việc sống độc thân theo một cách khác. Bằng cách kiềm chế tình dục, người sống
độc thân có thể chuyển năng lượng đó theo một hướng khác. Ở Ấn Độ, mối liên kết giữa
năng lượng tình dục và tinh thần luôn luôn được nhận thức. Biểu tượng của thần Shiva là
dương vật, trong khi những nghi thức Tantra gọi giao hợp là một cách nạp năng lượng cho
cơ thể. Những người theo Tri Thức giáo (Gnostic), một ảnh hưởng lớn đến những quan
niệm huyền học châu Âu, thực hành những nghi lễ tương tự như Tantra. Và những người
theo Tri Thức giáo, cũng như Blake sau này, cho rằng Satan là người hùng thực sự của
Vườn Địa Đàng, theo Adam và Eve để cho họ tri thức về bản ngã thực sự của họ.
Nếu con đường dẫn đến tinh thần là thông qua những ham muốn, thế tại sao xã hội lại vùi
dập chúng đi? Và nếu con đường dẫn đến tự do đã được biết đến và vạch sẵn hàng thế kỳ
nay thì tại sao vẫn giữ nó làm bí mật? Câu trả lời cho những câu hỏi này nằm ở sức mạnh
khủng khiếp của năng lượng tình dục-tinh thần. Nếu nâng lên một tầm cao hơn nó sẽ giải
phóng chúng ta khỏi những giới hạn của tính nhị nguyên. Tuy vậy, nếu sức mạnh này được
giải phóng và không biến đổi, nó có thể gây nên những ám ảnh, tội phạm tình dục, bạo lực
và thậm chí phá hủy tính cách con người. Không đơn giản chỉ là nền chính trị giới tính đã
dẫn dắt các trưởng lão Hi Lạp tấn công các nghi thức bí truyền mang thiên tính nữ của
những mê đắm xuất thần. Bị áp đảo bởi những thế lực được giải phóng chính bên trong họ,
những người sùng bái sẽ đánh quất và cắt xẻo chính mình, đôi khi còn chạy như điên qua
những miền quê mà xé xác thú vật, người và thậm chí cả trẻ em không được khóa an toàn
trong nhà. Chỉ một người đã được huấn luyện, đạt được một mức sâu sắc sự bình yên nội
tại, người thực sự đã chạm đến sự thấu hiểu mà Tarot gọi làTemperance, mới có thể an
toàn giải quyết những thế lực ngụ ý trong The Devil.
Thực ra The Devil có ý chỉ một thỏa thuận lớn hơn là những nghi thức tình dục hay năng
lượng bạo lực. Trong một cảm thức rộng lớn hơn nó biểu trưng cho năng lượng cuộc sống
bị khóa kín trong nhũng phần tối tăm ẩn dật của bản ngã, năng lượng không thể tiếp cận
bằng cách thức thông thường. Nó được gọi là The Devil bởi đối với những ai không chuẩn
bị để nhận lấy năng lượng này thì nó có thể tự lộ diện như những con quái vật, một cảm
thức về vũ trụ đầy những điều xấu xa, hoặc những cám dỗ khiến họ ham thích bạo lực.

85
Chúng ta đã nói ở dòng thứ hai rằng một đứa trẻ phát triển một cái tôi mạnh mẽ thì nó sẽ
không còn sợ hãi bóng tối nữa. Hoạt động của dòng thứ hai cho chúng ta một cái nhìn
thoáng qua về vùng nước tối tăm bên dưới Bánh xe Cuộc đời (Wheel of Life). Dòng thứ ba
yêu cầu một sự giải phóng hoàn toàn nguồn năng lượng vô thức. Một cơn lũ như vậy chỉ có
thể đến qua việc dấn thân vào vùng ẩn giấu, với tất cả những ảo ảnh, những khiếp hãi và
những ham muốn của nó, những thứ có thể dễ dàng làm người chưa chuẩn bị xao lãng khỏi
mục đích cuối cùng. 
Hãy nhìn lại tư thế của The Hierophant và The Devil. Hai ngón tay của người tu sĩ chỉ xuống
biểu thị rằng còn có nhiều thứ để sống hơn là những gì chúng ta thấy; cùng lúc những ngón
tay này ngụ ý rằng con đường đến với tri thứ sâu hơn đã đóng. Những ngón tay mở ra
của The Devil có thể biểu trưng cho ảo ảnh hạn hẹp của suy nghĩ rằng những gì bạn thấy là
tất cả những gì tồn tại; hoặc nó có thể biểu trưng cho việc thấy tất cả. Không có gì bị dấu
diếm. Tư thế đặc biệt được The Devil tạo nên, với một khoảng trống giữa hai ngón giữa, là
tư thế được các Đại Tư Tế (High Priest) ở Jerusalem tạo nên để mang lực lượng thánh thần
xuống. Ngày nay nó còn tồn tại trong lễ mừng Năm Do Thái Mới (Jewish New Year) như
một phần của “chúc phúc của thầy cả”.  
Paul Douglas đã gọi lá chính số 15 là “mặt đen tối của vô thức tập thể”. Khi kẻ được gọi là
“pháp sư hắc ám” (black magician) (từng là tên của The Devil) gọi lên một con quỷ thì anh ta
hoặc cô ta thực ra đang đưa một sức mạnh bên trong bản ngã ra ngoài. Nếu thao tác này
thành công thì pháp sư sẽ làm chủ con quỷ, biến nó thành đầy tớ của người ấy. Tức là,
pháp sư sử dụng năng lượng được giải phóng chứ không phải thành con mồi cho nó. Để
làm được việc này, pháp sư phải gột sạch mọi cái tôi ham muốn và mọi sợ hãi. Nói ngắn
gọn, người ấy phải đạt được Temperance, nếu không con quỷ có thể sẽ “thắng” cuộc đọ
sức này. Pháp sư trở thành nô lệ cho những ảo giác của The Devil.
Chúng ta đã đi khá sâu vào giải nghĩa cơ bản của Devil. Những nghĩa của lá bài trong quẻ
bói Tarot có xu hướng theo những diễn giải thông thường hơn. Chúng ta chọn các ý nghĩa
rõ ràng hơn vì trong một quẻ bài Tarot lá bài xuất hiện theo tình huống. Devil có thể biểu thị
một cái nhìn thực dụng hạn hẹp về cuộc sống; nó có thể có nghĩa là bất kỳ một dạng thức
nào của những đau khổ hay chán nản, đặc biệt là cảm giác bị ràng buộc và bị cầm tù, với ảo
ảnh rằng không có thay thế nào là khả dĩ cả. Nếu nó xuất hiện liên kết với The Lovers, nó
cho thấy một mối quan hệ bắt đầu bằng tình yêu nhưng về sau biến thành một cái bẫy.
The Devil biểu thị rằng bạn là nô lệ của những ham muốn của mình chứ không phải làm
theo cách mà bạn nghĩ là tốt nhất. Nó có thể mang nghĩa một nỗi ám ảnh mang tính kiểm
soát, đặc biệt là một nỗi ám ảnh tình dục, khi một người cảm thấy bị lôi kéo phải phạm vào
những hành động mà anh ta hay cô ta thấy trái đạo đức. Ví dụ điển hình nhất là những tội
phạm tình dục; ở một mức độ thường thấy hơn là người nam và người nữ thấy mình bị

86
những người mình cực kỳ không ưa thu hút dữ dội. Cảm giác bất lực và xấu hổ vì đã
nhượng bộ những ham muốn thuộc về The Devil.
Lúc nãy chúng ta đã quan sát vẻ mặt bình thản của người đàn ông và người phụ nữ bị xích.
Điều này biểu thị sự chấp nhận một tình huống xấu. Cuối cùng chúng ta cũng xem những
tình trạng bất hạnh của mình là bình thường, và thậm chí có thể đấu tranh chống lại những
thay đổi (trình trạng đó). The Devil đảo ngược, mặt khác, biểu thị một nỗ lực để nới lỏng
những buồn đau hay trói buộc, cả thực tế lẫn tâm lý. Người này không còn chấp nhận tình
trạng của mình được nữa và tiến đến tự do. Ngược đời làm sao khi đó chính là lúc mà
chúng ta cảm thấy sự bất hạnh và những giới hạn của cuộc sống chúng ta một cách mạnh
mẽ nhất. Trước khi bạn có thể quẳng những sợi xích đi thì bạn phải ý thức được chúng đã.
Do đó, những người đã trải qua vài quá trình giải phóng – ví dụ như bỏ nhà đi, trị liệu tâm lý,
hay một cuộc ly hôn khó khăn – thường thấy mình bất hạnh hơn nhiều so với khi họ mắt
nhắm mắt mở chấp nhận tình trạng nặng nề của mình. Một giai đoạn như thế có thể sẽ
mang tính quyết định đối với sự phát triển của một người. Nếu một người có thể sống sót
qua khỏi giai đoạn đó, người đó sẽ trưởng thành đầy hạnh phúc và với một tính cách phát
triển hơn. Đôi khi chúng ta thấy giai đoạn chuyển đổi này đau đớn đến mức không chịu
được và lại đeo gông vào cổ.
The Devil ngược trong vị trí nói về quá khứ thường có nghĩa là những thay đổi đã diễn ra,
nhưng những cảm giác buồn bã, tức giận, chán nản vẫn còn đó, có lẽ chỉ bị che dấu khỏi
cái nhìn ý thức, nhưng vẫn là một ảnh hưởng. Chúng ta thường phải giải quyết những điều
kinh khủng từ quá khứ, ngay cả với những việc chúng ta sớm đã vượt qua trong những thời
hạn thực tế. Tâm lý không bao giờ để thứ gì phai đi, không đơn giản là quên đi mọi thứ. Con
đường dẫn đến tự do nằm ở cách sử dụng và biến đổi tri thức và năng lượng bao quanh
mọi trải nghiệm. 

THE TOWER

Cũng như The Devil, lá chính này mang những ý nghĩa lớn, và các giải nghĩa từ các
sách Tarot chỉ biểu thị những bài học đạo đức ở bề mặt của nó. Người ta nói The Tower là
quan niệm vật chất của vũ trụ, và tia sét – sự phá hủy đến từ một cuộc sống chỉ dựa trên
những nguyên tắc vật chất. Ngay cả ở đây ta cũng thấy một nét tinh tế lớn. Tuy nó như thể
một thế lực bên ngoài nào đó đánh xuống một người có đầu óc hạn hẹp, tính bạo lực thể
hiện trong lá bài thực ra xuất phát từ những nguyên tắc tâm lý. Một người sống chỉ để thỏa
mãn cái tôi sẽ đòi hỏi của cải, danh tiếng và những ham muốn thể xác, lờ đi cả nội quan lẫn
vẻ đẹp tinh thần của vũ trụ, xây lên một nhà tù quanh anh ta. Chúng ta xem người này
như The Tower; xám xịt, đá vây quanh với một mũ miện bằng vàng. Một áp lực cùng lúc nổi
lên bên trong tinh thần khi vô thức kéo căng những giới hạn của nó. Những giấc mơ trở nên

87
phiền nhiễu, tranh cãi và chản nản nhiều hơn bình thường, và nếu kiềm nén cả những biểu
hiện này, vô thức thường sẽ tìm cách khác để bùng nổ.  
Sự bùng nổ này có thể xuất hiện như một thảm họa từ bên ngoài; bạn bè và gia đình bạn
chống lại bạn, công việc thất bại và bạo lực theo kiểu này hay kiểu khác bủa vây quanh bạn.
Và một trong những điều bí ẩn của cuộc sống là vận xui đến cả đàn cả lũ. Nhưng bao nhiêu
trong số các vấn đề đập chúng ta tơi bời lúc chúng ta yếu ớt nhất đó là kết quả từ những
tình huống lôi thôi dai dẳng hoặc được giải quyết chẳng ra gì? Và nếu một vài vấn đề, bệnh
tật hay cái chết của những người thân thiết với ta, những vấn đề kinh tế của xã hội, thậm
chí là thiên tai, như bão bùng – hoặc sấm sét – xuất hiện cùng lúc như những vấn đề cá
nhân, thì sự trùng hợp như vậy lần nữa cho thấy rằng cuộc sống chắc chắn chứa đựng
nhiều điều hơn là những gì chúng ta thấy trước mắt.

Chúng ta không nên nghĩ rằng thần linh, hay cuộc sống, mang đến những tai họa đó chỉ để
trừng phạt mình. Những ngọn lửa rơi xuống ở mỗi bên của The Tower mang hình của ký
tự Hebrew yod, ký tự đầu tiên trong tên của Chúa. Chúng không biểu trưng cho sự giận dữ,
mà là ơn huệ. Vũ trụ, và tâm trí con người sẽ không cho phép chúng ta bị cầm tù mãi mãi
trong những tòa tháp đầy ảo giác và kiềm nén của mình. Nếu chúng ta không thể tự giải
thoát chính mình một cách yên lành thì các thế lực của cuộc sống sẽ làm một cuộc bùng nổ.
Tôi không có tâm ngụ ý rằng chúng ta đang trên đường tận hưởng những trải nghiệm đau
đớn làm ta lung lay, hay rằng chúng ta có thể thấy đoạn kết có lợi từ những phương cách
như vậy, hay thậm chí rằng quá trình này luôn mang lại tự do. Rất thường thấy một loạt
những thảm họa hoặc một giai đoạn cảm xúc dữ dội sẽ làm hỏng một tính cách từng mạnh
mẽ. Vấn đề chỉ là không cho vô thức đường ra nào khác thì nó sẽ phun trào quanh chúng
ta, và chúng ta có thể dùng trải nghiệm này để thấy cân bằng hơn. Một vài bộ bài gọi lá bài
này là “Ngôi nhà của Quỷ” (The House of the Devil); nhưng những bộ khác thì gọi nó là
“Ngôi nhà của Chúa” (The House of God), điều này nhắc chúng ta rằng một thế lực tinh thần
đã là thứ phá hủy cái nhà tù tâm lý của ta.

88
Có một ý nghĩa sâu xa hơn trong liên kết giữa nhà của Chúa và nhà của Quỷ, một ý nghĩa
gợi nhắc một cách trực tiếp hơn việc từ Hebrew chỉ “rắn” có cùng giá trị số (và do đó được
xem như tương đương) với từ để chỉ “vị cứu tinh” (messiah). Quỷ là cái bóng của Chúa.
Trong lá chính số 15 chúng ta thấy một người tìm kiếm sự thống nhất với cuộc sống phải
viện đến nguồn năng lượng vốn bình thường vẫn bị tính cách ý thức kiềm nén lại. Tuy
nhiên, bằng cách ôm lấy The Devil, chúng ta đặt sự yên bình và cân bằng được thể hiện
trong Temperance vào vòng nguy hiểm. Chúng ta đặt tâm lý vào một khuynh hướng dữ dội
dẫn đến sự bùng nổ của The Tower. Jung đã miêu tả ý thức như một con đập ngăn dòng
chảy ồ ạt của con sông vô thức. Tenperance đóng vai trò như một miệng cống, để nước
chảy qua với một tỷ lệ được kiểm soát. The Tower thổi bay hoàn toàn con đập đó, thả cho
năng lượng bị khóa kia ào ra như lũ.  
Tại sao lại chuyển sang khuynh hướng nguy hiểm này? Câu trả lời là không có cách tồn tại
nào khác để cuối cùng có thể đi vượt ra khỏi tầm của ý thức, hay để thoát ra khỏi những thứ
chia tách cuộc sống thành những mặt đối lập và những thứ tách chúng ta khỏi năng lượng
thuần khiết chứa trong mỗi con người. Tấm màn căng ngang đền thờ là tính cách ý thức,
bảo vệ chúng ta khỏi chính cuộc sống. Như những nhà huyền học, sharman, hành giả đã
chứng thực, vô hạn là tất cả những gì xung quanh ta, không thể thấy được và mang tính áp
đảo. Một tinh thần không có sự chuẩn bị không thể bao vây được sức mạnh đó, và thế nên
ý thức đến để cứu chúng ta, đóng lại phần năng lượng tinh thần khổng lồ của chúng ta,
đóng gói trải nghiệm vào thời gian và những mục đối lập.
Những nhà huyền học cũng nói với chúng ta rằng thiên khải đến như một tia sét phá hủy ảo
ảnh của thế giới vật chất trong chớp mắt, như Paul đã thấy trên đường đến Damascus, hay
thứ đã khai sáng Phật Tổ dưới cội Bồ Đề. Cho dù việc thiền định, những năm tháng người
cầu nguyện hay những nhà huyền bí tu hành có dài đến mấy thì sự thật đều đến ngay một
lúc hoặc chẳng bao giờ đến cả. Điều đó không phải để nói rằng chuẩn bị là vô nghĩa. Quá
trình thể hiện trong hai dòng đầu tiên của bộ Ẩn Chính có một mục đích kép. Nó không chỉ
giúp ta đủ mạnh mẽ để chống chịu với tia sét khi nó đến mà còn đẩy ta vào thế phải gây nên
tia sét ấy. Tất cả những cách tu tập huyền bí đều bắt đầu với một giả thuyết: có thể gọi
xuống tia sét thiên khải, rằng một người có thể bước những bước rõ ràng để khiến điều này
xảy ra.
Những bước đi này bao gồm giảng dạy, thiền, cái tôi chết đi, và cuối cùng là ôm
lấy The Devil. Bằng cách giải phóng năng lượng này chúng ta vượt qua rào chắn của những
kiềm nén và mở rộng bản thân cho tia sét tới. Đối với tinh thần tồn tại mãi theo thời gian,
chúng ta là những kẻ mù lòa trước nó. Bằng cách đi vào bóng tối của bản ngã, chúng ta mở
rộng bản thân đón nhận ánh sáng.
Rõ ràng đây là một quá trình nguy hiểm. Một người không được chuẩn bị có thể trở nên bị
mắc kẹt trong ảo giác của The Devil. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng việc giải phóng năng

89
lượng mang những nguy hiểm riêng của nó khi tâm lý cố hòa nhập nó với nhận thức ý thức.
Người anh hùng trên đường quay lại từ trung tâm của mê cung có thể bị lạc nếu anh ta
không chuẩn bị mình cho cẩn thận.
The Tower ở bên dưới The High Priestess, nó thể hiện tấm màn bị xé rách đi. Cùng lúc tia
sét gợi đến The Magician. Luồng năng lượng và sự thật truyền qua The Magician đã dồn
hết sức đánh một cú ở đây. Chúng ta cũng thấy lá chính 1 và 2 trong hai con người; một
người mặc áo lam, người kia choàng áo đỏ. Tính phân cực được biểu trưng trong rất nhiều
lá bài trước đã bị sự thống nhất của tồn tại áp đảo ở đây. Hãy đếm những ngọn lửa yod và
bạn sẽ thấy rằng chúng có hai mươi hai ngọn, con số của các lá chính. Bạn cũng sẽ thấy
chúng bị chia thành mười và mười hai. Người Sumer đã dùng một hệ thống chữ số dựa trên
mười (đại diện cho mười ngón tay) cho mọi thứ hữu hình, nhưng một hệ thống phân chia
dựa trên mười hai, đại diện cho hoàng đạo, cho cách đếm tinh thần. Tính nhị phân này cũng
là một ảo giác. Cả hai thế giới đều là những biểu lộ của cùng một ngọn lửa tinh thần.  
Hình ảnh toà tháp bị phá hủy làm người ta nghĩ đến tháp Babel. Ở tầng nghĩa đen, câu
chuyện ấy giải thích vì sao con người lại nói nhiều thứ tiếng như thế, còn về những giá trị
đạo đức, nó dạy chúng ta đừng tin vào khả năng của con người (The Tower được xem như
chủ nghĩa vật chất). Nhưng chúng ta cũng có thể thấy một ý nghĩa khác trong việc Babel bị
phá hủy. Tia sét đánh xuống đó là Chúa Trời đang trực tiếp nói với loài người, chứ không
phải gián tiếp thông qua một hiện tượng của thế giới vật chất.
Trong một tích tắc lời của Chúa đã thay cho tiếng nói của loài người, thứ xây nên tòa tháp;
thiên khải thay thế cho kiến thức tích lũy của các giác quan. Hãy nhớ rằng tinh thần giáng
xuống tại Phong Trào Ngũ Tuần (Pentecost) đã làm hỗn độn ngôn ngữ loài người; người ta
“vô thức nói” (speak in tongues) hoặc kêu như thú vật. Và những sharman trong trạng thái
xuất thần sẽ nói tiếng của muông thú. Ngôn ngữ loài người là một khía cạnh của văn hóa và
là một giới hạn của ý thức. Nhiều nhà ngôn ngữ học, đáng kể là Benjamin Whorf, đã chứng
tỏ rằng ngôn ngữ của chúng ta hạn chế khả năng lĩnh hội thực tế, giống như một bộ lọc đặt
lên vũ trụ. Và những nhà huyền học nói với ta rằng sự thật không thể biểu đạt bằng ngôn từ.
Số 16 của The Tower giảm xuống thành 7, The Chariot, được Case và những người khác
liên kết với ngôn ngữ loài người. Lời của Chúa về The Tower phá hủy mọi công trình cẩn
trọng của những văn hóa, ngôn ngữ và ý thức trong nháy mắt. Như vậy nó cũng đưa ta
quay lại với hỗn mang bên dưới The Wheel of Fortune và Hồ nước đằng sau tấm màn
của The High Priestess.  
The Tower là lá bài phức tạp nhất trong tất cả các lá chính theo một cách nào đó; các nghĩa
ngầm không giống các nghĩa rõ ràng. Cũng như The Devil, nghĩa tiên tri của nó thường bắt
nguồn từ các nghĩa rõ ràng. Nó thường ngụ ý đến một giai đoạn bùng nổ bạo lực (cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng), sự phá hủy nhiều trạng thái đã được thiết lập lâu dài, đổ vỡ một mối
quan hệ trong tức giận hoặc thậm chí là bạo lực.  

90
Bởi vì lá bài này mang nhiều nghĩa mãnh liệt như vậy nên nhiều người bị dội khi thấy nó.
Phản ứng này làm nổi lên thêm câu hỏi quan trọng là làm thế nào để đánh giá những hình
ảnh còn đáng sợ hơn của Tarot. Chúng ta phải học cách dùng tất cả mọi trải
nghiệm, The Tower cũng như The Lovers. Khi The Tower xuất hiện thì cần phải nhớ rằng nó
có thể dẫn đến tự do; những bùng nổ đang dọn đi vài tình huống gây những sức ép không
thể chịu được. Chúng có thể dẫn đến những khởi đầu mới.
Nói rằng việc The Tower xuất hiện thường biểu thị những trải nghiệm khó khăn không có
nghĩa nhất nhất rằng những nghĩa sâu xa hơn sẽ không bao giờ trỗi dậy. Lá bài có thể
mang nghĩa một ánh nhá lên của sự khai sáng, đặc biệt nếu sự khai sáng đó thay thế một
cái nhìn hạn hẹp về cuộc sống. Chỉ trực giác và kinh nghiệm của người đọc bài, cũng như
những gợi ý từ những lá bài khác, mới có thể biểu thị những nghĩa đặc biệt đó.
The Tower ngược biểu thị một phiên bản nhẹ nhàng hơn của nghĩa lá bài khi nó ở chiều
xuôi. Bạo lực và bão tố vẫn còn đó nhưng nhẹ nhàng hơn. Cùng lúc lá chính ngược này
mang một nghĩa bổ sung là “sự cầm tù”, theo cách nói của Waite. Nghịch lý này được giải
quyết khi chúng ta xem lá The Tower xuôi là giải phóng. Thế thì khi xoay ngược lại, lá bài có
nghĩa rằng chúng ta không cho phép bản thân trải nghiệm hoàn toàn. Bằng cách kiểm soát
chặt những phản ứng của mình, chúng ta giảm nhẹ những đớn đau; chúng ta cũng không
giải phóng tất cả những nguyên liệu bị đàn áp. Bên trong chúng ta tiếp tục trải nghiệm đau
đớn, không bao giờ hoàn tất con đường của nó. Bằng cách chặn The Tower khỏi tia sét,
chúng ta trở thành tù nhân của nó. 

THE STAR

Sau cơn bão bình yên lại đến. Con người đã trải qua những thăng trầm của cảm xúc cuối
cùng sẽ thấy bình thản và trống rỗng. Hãy trải các lá bài cho một người chưa bao giờ thấy
chúng mà xem,The Star hầu như không cần một lời diễn giải nào cả. Mọi thứ trong nó nói
đến sự toàn vẹn, rộng mở và chữa lành.
Rất đáng so sánh The Star với Temperance, hai lá chúng ta đều thấy hình người đổ nước
và cầm hai chiếc bình, với một chân trên đất và một chân nhúng trong nước. Cả hai lá bài
đều đến sau một hồi khủng hoảng, nhưng Temperance bị kiểm soát còn The Star thì tự do.
Không mặc áo quần mà trần trụi. Không đứng nghiêm trang mà mềm mại và thư thái. Và
cuối cùng, nếu Temperance đổ nước qua lại, hòa trộn nhưng cùng lúc bảo tồn, người trinh
nữ của The Star thoải mái đổ nước ra ngoài, tin tưởng rằng cuộc sống sẽ luôn cung cấp
năng lượng mới cho nàng. Bức tranh cho thấy tất cả những cái tách thần kỳ đó không bao
giờ cạn nước. 

91
Năng lượng phóng ra của The Tower đã xé đi tấm màn của ý thức. Ở đây trong The Star,
chúng ta đã ở sau tấm màn đó. Hồ nước này, nhỏ như vậy thôi nhưng lại đại diện cho vô
thức; cùng loại với nước mà ta thấy ẩn sau các cây cột của The High Priestess. Giờ đây
năng lượng sống của vũ trụ đã được khuấy động bởi hành động đổ dòng nước cuộc đời
một người vào nó.
Nước đổ trên nền đất biểu thị rằng năng lượng thoát ra từ The Tower hướng ra ngoài lẫn
vào trong; nó kết nối vô thức với thực tiễn bên ngoài của thế giới vật chất. Một cách để mô
tả những dòng nước này là những nguyên mẫu trong thần thoại, những hình ảnh qua đó vô
thức tự thể hiện mình. Vô thức là toàn bộ, không có hình dạng hay phân tách, nhưng nó nổi
lên trong nhận thức thông qua những dòng thần thoại khác biệt nhau. Với The Star chúng ta
đi vượt ngoài tầm thần thoại để đến với các nguồn của nó dưới dạng năng lượng vô hình vô
dạng; như ánh sáng phát ra từ bóng tối. Sự chuyển đổi của bóng tối thành ánh sáng là vô
thức, tính mênh mông ẩn giấu trong chúng ta, đã biến thành nhận thức xuất thần của siêu
thức.
Một dòng nước chảy lại vào hồ, có nghĩa rằng tất cả mọi nguyên mẫu hòa nhập lại vào sự
thật vô hình vô dạng. Giá trị của nguyên mẫu chỉ nằm trong sức mạnh đánh thức bản ngã
bên trong và kết nối ta mới nguồn sức mạnh đó. Bàn chân nàng trinh nữ không nhúng vào
trong nước. Vô thức tập thể không được tiếp cận mà chỉ được khuấy lên.
Chú chim bên phải là một con cò quăm, biểu tượng của vị thần Hi Lạp Thoth, người được
xem là nhà phát minh mọi loại nghệ thuật, từ thơ ca đến làm gốm. Theo nghĩa đen, ngài dạy
dỗ những nghệ sĩ đầu tiên những kỹ thuật này, nhưng ở một mức hình tượng hơn, chúng ta
có thể nói rằng tất cả mọi cái gốc của hành động sáng tạo đều khởi nguồn từ cái hồ của
những năng lượng chưa định hình. Việc chúng ta lấy năng lượng này và dùng nó để tạo ra
thơ ca, tranh vẽ và thảm thêu là một chức năng của việc làm một sinh vật sống. Tất cả
những sáng tạo của nhân loại đều được biểu trưng trong những dòng nước này. Mọi hành
động sáng tạo đều làm khách quan năng lượng tinh thần trong thứ được tạo nên. Cùng lúc,

92
không việc gì làm cảm hứng của người nghệ sĩ cạn đi, chỉ cần ông ta hay bà ta vẫn còn kết
nối vói nguồn nội tại. Do đó, một dòng nước đổ lại vào hồ, cũng như mỗi tác phẩm lại mang
đến cảm hứng mới cho người sáng tạo ra nó.
The Star xuất hiện bên dưới The Empress và The Wheel. Trong The Empress chúng ta thấy
thế giới tự nhiên được tôn lên trong niềm đam mê. Nhưng The Empress phục sức rất nhiều
thứ biểu thị rằng nàng biểu lộ cảm xúc của mình qua những thứ bên ngoài bản thân nàng –
thiên nhiên, tình yêu và con cái. Trong Star chúng ta thấy bản ngã bên trong hân hoan trải
nghiệm chính mình. Nàng trinh nữ The Star kết hợp hai loại nguyên mẫu nữ, tính nhạy cảm
của The High Priestess được mang ra và thể hiện cùng với đam mê của The Empress.
Trong The Wheel of Fortune chúng ta thấy một cách nhìn nhận vũ trụ trong những biểu
tượng bí ẩn. Ở đây The Tower đã đưa ta vượt khỏi những cách nhìn nhận đó. Trong The
Star chúng ta trải nghiệm trực tiếp vô thức chứ không phải những hình ảnh của nó.
Là lá chính 17, The Star vượt ngoài tầm 7 khi giải phóng thế lực sống mà The Chariot kiểm
soát và định hướng. 1 cộng 7 bằng 8, và chúng ta có thể thấy The Star chính
là Strength được nâng lên một tầm cao hơn, với con sư tử của những ham muốn không
đơn giản là được thuần hóa nữa mà đã biến đổi thành ánh sáng và niềm vui thích.  
Những ngôi sao trên lá bài đều có tám cánh là một ngụ ý khác đến Strength. Vì một ngôi
sao tám cánh có thể tạo nên bằng cách đặt một hình vuông này lên một hình vuông khác
với các góc so le nhau, người ta đôi khi nghĩ ngôi sao tám cánh (octagram) nằm giữa hình
vuông và hình tròn. Hình vuông đại diện cho vật chất và hình tròn đại diện cho tinh thần.
Con người là đường nối giữa tinh thần và thế giới vật chất; khả năng vừa có thể cảm nhận
sự thật vừa có thể hành động của chúng ta khiến chúng ta chở qua cái mà sự thật có thể tự
bộc lộ.
Nhà Thờ từng mô tả con người nằm giữa thú vật và thiên thần. Thông thường thì người ta
đưa ra một giải nghĩa mang tính đạo đức; tức là người ta có thể đi theo ham muốn hoặc lý
trí của họ. Nhưng chúng ta có thể dùng phép ẩn dụ này để nói rằng nhận thức và hành động
của con người kết nối thế giới vật chất với “thiên thần”.
Trái với tất cả những gợi ý về việc biểu hiện, The Star không hẳn là một lá bài của hành
động, mà là lá bài của sự bình thản nội tại. Ngược lại
với Temperance và The Moon, The Star không cho thấy con đường nào dẫn từ hồ trở lại
ngọn núi của thực tại bên ngoài. Dù những dòng nước và chú cò quăm ngụ ý các cách dùng
năng lượng sáng tạo, nhưng trải nghiệm của The Star là một trải nghiệm yên bình. Lúc này
đây, có thể để cho cuộc hành trình chờ đợi.
Trong giải bài Tarot, lá bài này diễn đạt hi vọng, một cảm giác chữa lành và toàn vẹn, đặc
biệt là sau một cơn bão cảm xúc. Rất thường hay thấy The Star và The Tower ám chỉ lẫn
nhau dù chỉ có một lá xuất hiện. Lá chính 17 biểu thị vô thức đã được kích động, nhưng là
theo một cách rất ôn hòa.

93
Đảo ngược lại, chúng ta để mình xa cách với những yên bình và hi vọng của lá bài và trải
nghiệm sự yếu đuối, bất lực và sợ hãi. Nhưng bấp bênh sâu thẳm này đôi khi có thể đeo
cho mình một cái mặt nạ ngạo mạn. Nếu The Star biểu thị con người là cầu nối giữa tinh
thần và thế giới bên ngoài thì lá bài này xoay ngược lại sẽ biểu trưng các kênh truyền đã
đóng, và khi các nguồn nước của sự sống bị ngăn lại ở bên trong, bên ngoài chỉ có thể trở
nên mệt mỏi và trì trệ. 

THE MOON

Nhiệm vụ chính của dòng thứ ba không phải là thiên khải mà là mang trạng thái xuất thần
nội tại ấy quay lại với ý thức. The Star không có đường quay lại. Nó thể hiện “chúng ta” đắm
mình trong thời khắc huy hoàng khi bóng tối biến đổi thành ánh sáng. Để sử dụng ánh sáng
đó chúng ta phải vượt qua những méo mó và sợ hãi.
Trải nghiệm của The Star nằm bên ngoài ngôn từ hay thậm chí là dạng thức, tuy nó ngụ ý
rằng những dạng thức xuất hiện cùng với những dòng nước chảy. Trong The Moon chúng
ta thấy quá trình này diễn ra, dưới dạng những ảo cảnh, thần thoại và hình
ảnh. The Moon là lá bài Tarot của trí tưởng tượng vì nó đóng khuôn năng lượng
của The Star thành những hình dạng mà ý thức có thể lĩnh hội được. 
Thần thoại luôn bị biến dạng. Chúng có thể không bao giờ nói lên những gì chúng muốn,
chúng có thể chỉ lôi cuốn những thứ sâu bên trong bản ngã. The Star khuấy động những
nguồn nước; khi chúng ta quay lại với nhận thức bên ngoài, những nguồn nước đó sẽ để lộ
ra những sinh vật của chúng. Hãy nhớ rằng The Star và The Sun phát ra ánh sáng của
chính chúng, nhưng The Moon thì phản chiếu ánh sáng ẩn giấu của The Sun. Trí tưởng
tượng biến dạng bởi vì nó đang phản chiếu trải nghiệm bên trong lên tâm trí bên ngoài.  

Như thần thoại của thế giới chứng tỏ vô thức tập thể chứa đựng những con quái vật lẫn
những vị anh hùng, nỗi sợ lẫn niềm vui. Đây là một lý do tại sao chúng ta phủ lấp sự nhạy
cảm của mình đối với cuộc sống bằng những lớp bảo vệ của cái tôi ý thức, nhờ vậy chúng
ta không còn sợ hãi bóng tối và những cái bóng vặn vẹo của The Moon.

94
Ánh sáng chập chờn quái dị của The Moon luôn khiến những cảm giác lạ kỳ trỗi dậy trong
con người và động vật. Một từ chỉ sự điên rồ, “lunacy” bắt nguồn từ “luna”, từ La-tinh chỉ
mặt trăng, và vào thời Trung cổ người ta tin rằng linh hồn của những kẻ mất trí sẽ bay lên
mặt trăng. Ngày nay cũng thế, nhiều bác sĩ và cảnh sát đã quan sát thấy tính thường xuyên
của những vụ tự sát hoặc những dấu hiệu khác của rối loạn cảm xúc vào ngày rằm. Có gì
đó ở mặt trăng kích thích nỗi sợ và những thứ khác thường, cũng như mặt trời làm chúng ta
thư giãn và nguôi ngoai. Lá The Sun của Tarot đến ngay sau lá The Moon, chúng ta chỉ có
thể cảm kích sự giản đơn sau một hành trình qua những thứ khác thường của mặt trăng. 
Chú chó và con sói đại diện cho “phần thú” trỗi dậy do The Moon, cũng như trăng tròn có
thể khiến hai sinh vật này tru lên trong đêm dài. The Emperor, ở ngay trên lá chính 18, đã
dạy chúng ta học những luật lệ của xã hội tốt đến nỗi chúng trở nên tự động. Với dòng cuối
cùng, chúng ta vượt ngoài tầm kiềm nén của “cái siêu ngã” (super ego); trong quá trình này,
sự hoang dã của “xung động bản năng” (id) trồi lên bề mặt. Một người sói tru lên dưới trăng
tròn là một ẩn dụ rất rõ ràng về sức mạnh vô thức gợi nên cái gì đó nguyên thủy và phi-nhân
loại trong những con người đáng kính trọng nhất.
Là lá số 18 nên The Moon liên quan đến 8. Strength thấy bản chất thú vật đã được thuần
hóa và được truyền đi thông qua The Hermit. Ở đây không có sự định hướng như vậy; khi
chúng ta quay lại từ The Star thì con thú cũng quay lại với tất cả sự hoang dã của nó. Chỉ
khi năng lượng của The Star hòa nhập hoàn toàn vào The World thì bản ngã thú vật mới
biến chuyển toàn bộ. Hãy chú ý rằng trong Strength người phụ nữ, phần người, kiểm soát
con sư tử. Ngay cả trong The Devil những con quỷ cũng xuất hiện dưới dạng con người.
Nhưng không có con người nào trong lá chính số 18. Trong ánh sáng mờ ảo đó cảm thức
về bản thân là người của chúng ta bị phá vỡ.  
Chúng ta cảm nhận thứ gì đó từ sự hoang dã của The Moon trong dư âm của một cơn ác
mộng, khi chúng ta cảm thấy trong mình kỳ lạ. Cảm giác hoang dại không phải là kết quả
của cơn ác mộng; ngược lại thì đúng hơn. Lúc trước chúng ta đã nói rằng những giấc mộng
không phải là những biến đổi thành hình ảnh của năng lượng vô thức. Một sự bùng nổ năng
lượng quá lớn khiến cơ cấu mộng (dream mechanisms) không thể tiêu hóa được có thể gây
ra cả ác mộng lẫn cảm giác cơ thể được nạp năng lượng dữ dội kia khi bạn thức dậy.
Chứng điên cũng đi cùng với những cảm giác rối loạn trong cơ thể. Rất thường thấy chứng
tâm thần chuyển biến thành dạng một con thú. Người ta sẽ bò bằng bốn chi, trần truồng, tru
lên dưới trăng. Năng lượng vô thức giải phóng đột ngột không thể hòa hợp với nhân cách.
Trong Tarot khoảnh khắc cực kỳ nguy hiểm này chỉ xảy ra sau một giai đoạn chuẩn bị dài,
với tất cả vấn đề của cái tôi thông thường đã bị bỏ lại phía sau. Những shaman cũng trải
qua việc hóa thành thú. Shaman sẽ nhảy nhót và kêu như thú trong suốt trạng thái xuất thần
của họ. Nhưng những shaman, cũng như những nhà huyền học, đã chuẩn bị bản thân qua
nhiều năm. Ông ta cũng được trang bị kiến thức về những thứ có thể xảy ra, được truyền

95
qua các thế hệ shaman đã ra đi trước đó. Hãy nhớ rằng con số của The Moon cộng lại
thành 9, lá The Hermit. Người thầy hướng dẫn của lá bài kia là vô hình vô ảnh vì chúng ta
phải đối mặt với The Moon một mình, nhưng những chỉ dẫn đã được trao đi trước đó có thể
giúp chúng ta tìm được đường ra.  
Nếu những con thú biểu trưng cho sự dã man bên trong con người, con tôm kia là một cái gì
đó rất khác biệt. Trong một trong những phát biểu sống động nhất của mình, Waite gọi nó là
“thứ nằm sâu hơn cả những con thú hoang dại”. Nó biểu trưng cho những nỗi sợ phổ biến
nhất bên trong ý thức tập thể, được trải nghiệm trong những cảnh nhìn như những con quỷ
không tên. Sự trỗi dậy của những nỗi kinh hoàng đó là một sự kiện thường thấy đối với
những người bộc lộ mặt thuộc về mặt trăng của họ qua những phương pháp như thiền hay
ma túy. Họ cũng bị xem là những quái vật các shaman chạm trán trong những chuyến xuất
thần của họ. Sự trỗi dậy của những nỗi sợ này, thường được trải nghiệm dưới dạng những
sinh vật trồi lên từ nước hay những chiếc hồ chứa chất lỏng như dầu, có thể gây nên những
hoảng loạn vô cớ. Tuy nhiên những hình ảnh này thuộc về thế giới bên trong của chúng ta;
chúng ta không thể chạm đến The Sun nếu không đi qua chúng.
Con tôm trồi lên một nửa từ trong nước. Waite bảo với chúng ta rằng nó không bao giờ bò
lên bờ hoàn toàn và luôn rơi lại xuống nước. Những sai sót sâu sắc nhất là những sai sót
không bao giờ có đủ hình đủ dạng. Chúng ta cảm thấy gì đó bên trong, nhưng chúng ta
không thể thấy đó là gì. Cùng lúc, con tôm bò lên một nửa kia ám chỉ rằng trong chuyến
quay lại với ý thức, nhận thức của The Star trở nên biến dạng bởi vì chúng ta không thể
mang nó quay lại đầy đủ. Vì lý do này The Moon cũng biến dạng, bởi vì sự bình thản và kỳ
diệu của Star đã bị phá huỷ và mất tích một phần.
Tuy vậy, bất chấp sự hoang dã và sự kích động đáng sợ, ánh sáng lạnh lẽo ấy cũng có thể
xoa dịu. Người ta nói The Moon làm tăng “phần khoan dung”, một quy chiếu đến cột khoan
dung của Cây Sự Sống Qabalah. Khuấy động hơn, những giọt ánh sáng rơi xuống đầu
những con thú một lần nữa lại là các yod; ký tự đầu tiên trong tên của Chúa và là những
biểu tượng của ơn huệ. Nếu như, thông qua chuẩn bị và lòng dũng cảm đơn giản, chúng ta
chấp nhận những thứ hoang dại được trí tưởng tượng sâu xa nhất gợi nên, thì The Moon sẽ
mang đến yên lành, những hoảng sợ sẽ giảm đi và trí tưởng tượng dẫn ta, nay đã phong
phú hơn, quay lại cùng với những điều diệu kỳ của nó. Waite viết rằng, “Yên Bình ơi, hãy an
tĩnh; và rồi mặt nước sẽ lại êm đềm”. Con tôm lặn xuống, nước yên tĩnh lại. Con đường vẫn
còn đó.
Con đường dẫn qua hai tòa tháp, ám chỉ một cổng vào những vùng bất tri. Cổng vào là một
biểu tượng chung giữa những nhà huyền học và những sharman, cũng được thấy trong
nhiều thần thoại. Đôi khi là một hình đồ tròn, ví dụ như mạn đà la (mandala), hay một vài
cấu tạo vật chất, ví dụ như hang động (thường được so sánh với âm đạo), cổng vào cho
phép chúng ta rời thế giới bình thường để đi vào những thứ lạ kỳ của tâm trí.

96
Hai tòa tháp của Tarot mang một nghĩa khác, như sự bộc lộ hoàn toàn trước đó của tính nhị
nguyên mà chúng ta thấy lần đầu trong các cây cột ở đền thờ của The High Priestess. Nếu
thiên khải của The Tower không hòa hợp với cuộc sống bình thường thì có thể gây ra một
tính đối lập mới, gay gắt hơn. Cùng lúc, việc nghe những lời của Chúa Trời hoàn toàn thay
đổi mối tương quan của chúng ta với câu hỏi về các mặt đối lập. Trước đây, tính nhị nguyên
được xem là một cơ sở của cuộc sống, nhưng chúng ta biết rằng sự thật thì thực tế kết hợp
mọi thứ; ở nơi trước đây tấm màn ngăn ta đi qua hai cây cột, giờ đây chúng ta đã bước qua
mất rồi. Chúng ta tìm kiếm hai tòa tháp ý thức từ bên kia tấm màn. Nhiệm vụ lúc này không
phải là đâm xuyên qua sự thật nội tại mà là mang sự thật đó quay lại.
Trong giải bài Tarot, lá The Moon biểu thị một sự kích động của vô thức. Chúng ta bắt đầu
trải nghiệm những cảm xúc, những giấc mộng, những nỗi sợ, thậm chí cả những ảo giác kỳ
lạ. Nếu lá bài xuất hiện với chiều xuôi thì người này sẽ cho phép việc đó xảy ra. Khi được
chấp nhận, trí tưởng tượng sẽ làm giàu thêm cuộc sống. Nhưng nếu lá bài ngược, nó cho
thấy một sự đấu tranh chống lại trải nghiệm này. Cuộc đấu tranh này dẫn đến sợ hãi và
thường dẫn đến những cảm xúc nhiễu loạn vì người này không để mặt bình thản
của The Moon nổi lên.
Cũng như The High Priestess, Moon biểu thị sự quay lưng với những ưu tư bên ngoài và trở
nên nội quan. Nó cũng có thể biểu thị sự từ bỏ một vài hoạt động đặc biệt hoặc đơn giản là
một giai đoạn rút lui. Tuy nhiên, trong khi The High Priestess biểu trưng cho trực giác tĩnh
tại, thì The Moon lại bị kích động, kích thích lên những hình ảnh từ vô thức. Một lần nữa,
lá The Moon ngược biểu thị một sự nhiễu loạn. Người này không mong muốn quay lưng với
phần mặt trời, và có thể cố chống lại The Moon với một lượng hoạt động lớn. Tuy
nhiên, The Moon sẽ không bị chối từ, và những nỗi sợ sẽ có thể trở nên mạnh hơn nếu
chúng ta chiến đấu dữ dội hơn. Tinh thần, vận hành với những luật lệ riêng của nó vì những
lý do riêng của nó, đã quay về phía The Moon. Nếu chúng ta cho phép bản thân trải nghiệm
nó, những nỗi sợ sẽ biến thành những điều kỳ diệu và cổng vào sẽ rộng mở cho những
cuộc phiêu lưu.

THE SUN

Cũng như The Hanged Man ngay ở trên, The Sun vừa là sự giải phóng đầy phấn khởi sau
thử thách trong lá bài trước vừa là cuộc chuẩn bị cho cái chết và tái sinh trong hai lá bài tiếp
theo. Justice yêu cầu hành động như một sự trả lời cho kiến thức nhận được về bản thân
dẫn đến kết quả The Hanged Man là một lá bài thụ động. The Moon yêu cầu những người
buông xuôi thụ động, vì không có cách để chúng ta kiểm soát những ảo cảnh trỗi dậy dưới
ảnh hưởng của nó. Do đó, The Sun thể hiện một trạng thái chủ động, đầy năng lượng. Bằng

97
cách chấp nhận những hình ảnh đáng sợ của The Moon, chúng ta mang năng lượng ra bên
ngoài chúng ta, mang hào quang chói lọi đến cho cả cuộc đời.  
Dưới The Sun mọi thứ đều trở nên đơn giản, phấn khởi và hữu hình. Ánh sáng của vô thức
đi đã vào cuộc sống. Hai đứa trẻ trong phiên bản của Oswald Wirth (ở trên bên phải) là một
hình ảnh thường thấy của lá chính này, đôi khi được gọi là bản ngã vĩnh hằng và thân xác
bất tử. Nắm tay nhau, chúng hòa nhập cùng với nhau. Hai hình người này với Mặt trời ở
bên trên đưa ta quay lại với mô típ bộ ba trong The Hierophant cách đó hai dòng. Ở đây
niềm vui sướng và tính đơn giản của The Sun không làm trung gian giữa cực bên trong và
cực bên ngoài của cuộc sống mà nhập chúng lại với nhau.  

Tất cả chúng ta đều là những đứa trẻ, theo cách những tín ngưỡng mặt trời gọi thì tất cả
chúng ta là những đứa trẻ thần thánh của cha chúng ta, mặt trời. Nếu bạn nhìn vào những
thân người trong bức tranh, đặc biệt là người nữ, bạn sẽ thấy họ đều là những người
trưởng thành. Chuyến đi thành công từ The Tower đã cho họ một sự đơn giản hồn nhiên.
Tarot thể hiện chuyến đi này với nhiều giai đoạn, gây nên ấn tượng về một chuyến hành
trình của thời gian. Tuy nhiên, đôi lúc, hay có lẽ là thường thấy, chúng xảy ra cùng một lúc,
thiên khải sáng lòa của The Tower, hào quang nội tại của The Star và nỗi sợ sâu sắc
của The Moon, tất cả hợp lại trong một khoảnh khắc biến đổi. Và dư âm là niềm phấn khởi,
cảm thức toàn sự sống và toàn thế giới tràn đầy ánh sáng diệu kỳ.
Đối với toàn nhân loại, sự khai sáng có những đặc tính giống nhau, cho dù những giải nghĩa
văn hóa qua thần thoại, giáo lý, học thuyết tâm lý học, vân vân có là gì đi nữa. Sự khai sáng
là một trải nghiệm, không phải là một ý niệm. Người này sẽ cảm thấy bị một ánh sáng bùng
lên giống như những giọt yod trong lá bài của Wirth – đôi khi ánh sáng đó có màu sắc –
đánh trúng. Đột nhiên người đó thấy và cảm nhận thế giới một cách đầy thiêng liêng và bất
diệt, không còn là từng ngày từng ngày tồn tại cực nhọc và hoang mang. Người này sẽ cảm
thấy sống thực sự với niềm vui hồn nhiên mà, chắc chắn, hầu hết trẻ em sẽ chẳng bao giờ

98
biết đến vì con người đắm mình trong nắng đã vượt qua nỗi sợ bóng tối của đứa trẻ bằng
cách băng qua nó.
Trong chuyến hành trình đi ngang thế giới của mình, mặt trời thấy mọi thứ, và vì thế nó
tượng trưng cho kiến thức. Các vị thần đi cùng với mặt trời, như Apollo, được cho là biết
mọi thứ diễn ra. Những người đắm mình trong nắng cảm thấy một cảm giác thông thái, thấy
mọi thứ thật sáng sủa. Người đó “minh bạch” (lucid), một từ có nghĩa rõ ràng và thẳng thắn,
nhưng nghĩa đen là “đầy ánh sáng”.
Có một điều thú vị rằng Apollo, vị thần ánh sáng, được Leto, nữ thần bóng đêm sinh ra, và
đền thờ chính của ngài, ngôi đền thiêng ở Delphi, vốn thuộc về nữ thần bóng tối. Thâm chí
theo chỉ đạo của Apollo, sự thông thái và ánh sáng của lời sấm truyền phát ra từ bóng tối.
Chính Apollo là người đã buộc Oedipus khám phá những ẩn giấu bên trong anh ta.
Mặt trời ngày xuân làm sự sống nảy sinh từ mặt đất mùa đông chết chóc. Ở nhiều nơi người
ta tin rằng mặt trời không chỉ thụ tinh cho đất đai mà cho cả những người phụ nữ. Khi ý
nghĩa sinh học của sự sinh sôi được khám phá, vai trò của mặt trời không rơi rớt mất mà trở
nên huyền ảo hơn. Ngày nay con người thấy linh hồn – cái tiểu ngã (atman) của bản ngã
đích thực – giống như ánh mặt trời chứa trong một chiếc phôi thai. Thần thoại Phật giáo kể
rằng vì Gautama (Phật Thích Ca) ở trong tử cung của mẹ ngài, hoàn toàn là ánh sáng nên
bụng của bà sáng như một tấm màn đục phủ lên một bóng đèn chói lóa. Zoroaster cũng
sáng rực rỡ trong tử cung của mẹ ông đến mức hàng xóm mang xô chạy đến vì nghĩ rằng
nhà ông đang cháy.
Những người theo thuyết ngộ đạo (Gnostics) mang quan niệm này đi xa hơn khi tin rằng Sự
Sa Ngã đã làm thánh thần vỡ vụn ra thành các mảnh tồn tại. Quan trọng nhất là ánh sáng
đã trở nên bị cầm tù (chứ không phải chỉ được chứa) trong cơ thể mỗi cá nhân. Đó là nhiệm
vụ của mỗi người, thông qua những nghi lễ ngộ đạo, phải giải phóng ánh sáng bên trong cơ
thể mình để sự thống nhất được phục hồi. Isaac Luria, một người theo Qabalah có giảng
một giáo thuyết tương tự. Cây Sự Sống, hay Adam Kadmon (“người nguyên bản”), sự thống
nhất của tồn tại, đã bị đập tan vì ánh sáng thần thánh quá mạnh mẽ. Một lần nữa, ánh sáng
trở nên bị chia cắt và bị cầm tù, nên đó là trách nhiệm của mỗi con người phải trợ giúp 
“tikkun”, tức là phục hồi thống nhất ánh sáng.
Những giáo thuyết này bắt nguồn từ trải nghiệm chung về Mặt trời trong tất cả các nền văn
hóa. Người đắm mình trong ánh nắng thấy mọi thứ, từng con người, từng con vật, tất cả
ngọn cây hòn đá, thậm chí cả không khí, sự sống và những thứ linh thiêng, thống nhất qua
ánh sáng lấp đầy mọi sự tồn tại. Dù vậy, The Sun không phải là The World. Với lá chính 19
chúng ta lĩnh hội được vũ trụ thống nhất và sống động. Lá 21 là hiện thân của những cảm
giác đó.
Hình vẽ thường thấy cho lá The Sun thể hiện những đứa trẻ trong vườn, thường đứng
thành một vòng tròn. Douglas gọi đó là “khu vườn bên trong của tâm hồn”, một cảm giác

99
thuần khiết và linh thiêng, một Vườn Địa Đàng mới. Khi chúng ta giải phóng và biến đổi
năng lượng bị khóa bên trong chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng Vườn Địa Đàng chưa mất đi
mà luôn tồn tại bên trong chúng ta.
Bộ bài Rider Waite Tarot thể hiện chỉ một đứa trẻ cưỡi ngựa ra khỏi khu vườn. Đối
với Waite, trải nghiệm The Sun về cơ bản là một cú phi nước đại của tự do. Nó là một sự
cởi bỏ mang tính phá vỡ, một cuộc giải phóng tuyệt diệu khỏi ý thức vốn bị hạn chế để đến
với sự cởi mở và tự do.
Bức tường đá xám trong bức tranh đại diện cho cuộc sống quá khứ, bị trói buộc bởi góc
nhìn hạn hẹp của thực tại. Siêu thức của The Sun được hình thành bởi cảm giác là một
phần của toàn thế giới chứ không phải là một cá nhân bị cô lập. Có lẽ chúng ta có thể kết
hợp hai hình ảnh cho lá chính này bằng cách nói rằng một khi bạn đã nhận ra rằng Vườn
Địa Đàng tồn tại trong chính bạn, bạn đã tự do lời bỏ nó, luôn mang nó đi cùng bạn khi bạn
tạo nên một cuộc sống mới.
Số 19 ám chỉ một tầm cao hơn của 9. Ánh sáng chứa trong chiếc đèn lồng của The Hermit,
sự thông thái của những bài giảng của ông nay bùng lên giống như sự xuất thần
tầng Quabalah thứ ba của Abulafia. Chúng ta đã nói về The Hermit rằng cụ già và đỉnh núi
hoang vắng là những ảo ảnh cần có vì bản ngã bên trong chỉ có thể được chạm đến thông
qua sự rút lui. Ở đây sự thật đã trỗi dậy và The Hermit mặc áo choàng cứng nhắc đã biến
đổi thành đứa trẻ trần trụi một cách tự hào. Một nửa của 19 là 1. Quyền lực
của The Magician nhập với sự thông thái của The Hermit chính là siêu thức. Năng lượng
của cuộc sống thống nhất với ý nghĩa và mục tiêu của nó.    
1 cộng 9 bằng 10, The Wheel of Fortune, lá bài mà cái nhìn của nó là những thứ bên ngoài
chúng ta cố gắng lĩnh hội. Ở đây chúng ta thấy cuộc sống theo một cách tưởng tượng từ
bên trong chính mình. Và trong cái nhìn này không có gì bí ẩn và không có biểu tượng nào,
chỉ có vũ trụ tràn đầy ánh sáng.
Nghĩa tiên tri của The Sun cũng đơn giản và sáng sủa như những đứa trẻ kỳ diệu trong
tranh. Lá bài Tarot biểu thị niềm hân hoan, vui sướng và một cảm thức lớn lao về vẻ đẹp
của cuộc sống. Trong tầng nghĩa sâu nhất của nó, nó có nghĩa là nhìn thế giới với một con
mắt hoàn toàn mới, thấy rằng tất cả mọi sự sống thống nhất trong niềm vui và ánh sáng.
Trên hết nó là lá bài của tính lạc quan, năng lượng và những diệu kỳ.
Đảo ngược lại, những điểm tốt không mất đi mà chỉ bị rối một chút, như thể mặt trời bị mây
che mất. Cuộc sống vẫn cho người này khoảng thời gian của những hạnh phúc giản đơn,
nhưng nó không được thấy rõ ràng. Người này không còn minh bạch và phải vận động để
nhận ra niềm vui vốn là một món quà tuyệt diệu của Mặt Trời.

JUDGEMENT

100
Dưới The Sun chúng ta thấy cả cuộc đời đầy ánh sáng thần thánh. Nhận thức được sự thật
vĩnh hằng này sẽ giải phóng chúng ta khỏi tất cả những ảo ảnh và sợ hãi để giờ đây chúng
ta có thể cảm nhận, giống như một tiếng gọi từ trong sâu thẳm, khao khát muốn bản thân
hoàn toàn tan vào tinh thần, tan vào cuộc sống diệu kỳ chứa trong mỗi sinh vật.
Tiếng gọi này đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài chúng ta, vì một trong những ảnh hưởng
của The Sun là phá vỡ những rào cản nhân tạo giữa trải nghiệm bên trong và thế giới bên
ngoài. Chúng ta cảm thấy tiếng gọi trong bản ngã sâu xa nhất của mình như thể mọi tế bào
của cơ thể đều mang đầy những tiếng hét sướng vui. Cùng lúc, chúng ta nhận thức được
rằng tiếng gọi đến từ thế lực nào đó vĩ đại hơn bất kỳ sự sống riêng biệt nào.

Quan niệm xem Judgement như một tiếng gọi đứng dậy để đến với một sự tồn tại ý nghĩa
hơn có những biểu hiện tương tự trong những tình huống đời thường hơn. Đôi khi trong
cuộc sống một người có thể gặp một ngã tư đường (hãy chú ý hình chữ thập trên lá cờ) nơi
cần có những quyết định xem liệu có thực hiện vài thay đổi lớn lao hay không. Và đôi khi nó
có thể giống như thể có gì đó bên trong người đó đã quyết định rồi và lựa chọn duy nhất
dành cho bản ngã ý thức là làm theo quyết định với những hành động thích hợp. Những
cách tin tưởng và tư duy cũ xưa, những tình huống cũ xưa, đã chết đi mà chính chúng ta
cũng không chú ý đến.
Phần lớn các phiên bản của lá chính này chỉ thể hiện thiên thần và những hình người đang
đứng dậy. Bộ Rider Waite Tarot  thêm vào rặng núi ở cảnh nền. Waite gọi đó là “những
ngọn núi của tư duy trừu tượng”. Cụm từ này ngụ ý chỉ sự thật vĩnh hằng nằm bên ngoài
kiến thức hạn hẹp luôn có sẵn cho chúng ta thông qua những ý nghĩa thông thường.
Một đặc trưng cơ bản của đạo đức là không có khả năng biết được mọi thứ bằng một giác
quan thuần túy. Chúng ta bị trói buộc bởi cuộc sống ngắn ngủi của mình và bởi sự thật là tất
cả mọi kiến thức đến với tâm trí chúng ta đều thông qua trung gian là các giác quan. Trong
vật lý hiện đại chúng ta học được rằng nghiên cứu khoa học không bao giờ có thể định hình

101
nên một bức tranh chính xác về thực tế bởi vì những người quan sát luôn là một phần của
cái vũ trụ mà họ đang quan sát. Theo cách tương tự, những trải nghiệm trong quá khứ của
một người ảnh hưởng đến suy nghĩ và góc nhìn về cuộc sống của họ. “Tư duy trừu tượng”
ngụ ý chỉ, giống như các ý niệm của Platon, một cảm thức về sự hoàn toàn.
Chúng ta chạm đến “cái trừu tượng” này bằng cách chìm một lần cuối vào trong nước của
hư vô để đứng dậy khi đã được giải phóng khỏi những kiến thức cục bộ đó. The Death,
ngay ở phía trên, cho thấy một sự tan rã. Ở đó cái tôi có thể đang hấp hối và lá chính này
nhấn mạnh nỗi sợ khi buông tay. Ở đây tất cả những ảo ảnh của sự cô lập đều tan đi, và sự
nhấn mạnh không chỉ nằm ở cái chết mà còn ở sự hồi sinh.
Chúng ta gọi lá bài là Judgement bởi vì, giống như Justice, nó bao hàm việc nguôi ngoai với
trải nghiệm đã qua là một phần để vượt qua nó. Với Justice thì trải nghiệm và phản ứng
mang tính cá nhân, dựa trên hành động của bạn trong quá khứ. Ở đây một thế lực lớn hơn
chính bạn đang dẫn dắt và gọi mời bạn, và Judgement không chỉ đơn giản mang nghĩa về
cuộc sống riêng của bạn mà còn về bản chất thực sự của sự tồn tại, và về con đường mà
bạn và tất cả các sinh vật đều là một phần của nó.
Đôi lúc trong sách này chúng tôi tham khảo các ký tự Hebrew được quy cho các lá chính
khác nhau. Thường thì chúng tôi theo hệ thống với The Fool là Aleph. Còn có một hệ thống
khác trong đó The Magician nhận ký tự Aleph, và trong hệ thống đó, Judgement mang ký
tự Resh. Resh có nghĩa là “đầu” và giống như những ngọn núi của Waite, nó ngụ ý chỉ tâm
trí thực sự được tiếng gọi đánh thức. Resh cũng ám chỉ đến Rosh Hashanah, Năm Mới của
người Do Thái, nghĩa đen là “đầu của năm” (head of the year). Ở đây, Rosh
Hashanah không phải là bắt đầu cuốn lịch mới, giống như Năm Mới thường thấy, mà đại
diện thực sự cho lễ kỷ niệm của sự sáng tạo. Tương tự, Judgment không chỉ biểu thị một sự
thay đổi những hoàn cảnh mà còn là một sự nhận thức mới, một nhận thức quen thuộc trực
tiếp với sự thật thông qua hợp nhất chính bạn với những thế lực của cuộc sống.
The Wheel of Fortune, với những luật nhân quả huyền bí vô hình, ở vị trí số
10; Judgement là 20, 10 nhân lên với 2. Thông qua cách vận hành của dòng cuối, chúng ta
phát hiện minh triết bị ẩn giấu của The High Priestess để chúng ta hiểu những bí ẩn nội tại
khuất trong The Wheel.
Dấu thập trên lá cờ biểu thị một sự gặp gỡ của những mặt đối lập, một sự hòa nhập của tất
cả những thứ đã từng bị chia tách ra. Nó biểu trưng cho cuộc hội ngộ của hai loại thời gian;
thời gian thông thường chúng ta nhận thức bằng giác quan và nhờ nó ta sống ngày qua
ngày, và sự vĩnh hằng, một cảm nhận linh thiêng về sự sống. Hai thời gian này được biểu
trưng bằng những vạch ngang và dọc của chữ thập. Cuộc hội ngộ của ở giữa chúng biểu thị
rằng bản thể tối cao không vứt bỏ những hoạt động cũ của nó mà truyền nó đi theo một
cách mới.

102
Lá bài bên trên Judgement là The Lovers và, trong bộ Rider Waite Tarot, cũng thể hiện một
thiên thần. Tuy nhiên, ở đó, thiên thần là một thoáng hiện của một sự thật to lớn hơn được
trải nghiệm thông qua tình yêu làm trung gian. Ở đây, thiên thần dựa xuống từ tầng mây để
gọi chúng ta. Trong phiên bản truyền thống của The Sun chúng ta thấy ví dụ cuối cùng của
mô típ bộ ba bắt đầu ở lá 5 và 6. Ở đây chúng ta thấy một đứa trẻ ở giữa hai người lớn. Các
cực của cuộc sống đã đến với nhau để tạo một thực tại mới, theo cách mọi đứa trẻ vừa là
một kếp hợp của cha mẹ chúng vừa là một thứ hoàn toàn mới mẻ.
Đứa trẻ ở đằng trước đứng đưa lưng về phía chúng ta. Tồn tại mới này là một sự bí ẩn,
không cách nào chúng ta biết được nó sẽ như thế nào đến khi chúng ta trải nghiệm nó.
Khuôn mặt của đứa trẻ không thấy được cũng ngụ ý rằng chúng ta không thực sự biết về
chính mình, và rằng chúng ta không thể biết được bản thân cho đến khi chúng ta nghe thấy
và đáp lại tiếng gọi kia. Hầu như tất cả các thần thoại đều chứa những câu chuyện về người
anh hùng bị tách khỏi cha mẹ và được nuôi dưỡng như những đứa trẻ bình thường với
những người khác, và thường thì chính đứa trẻ không biết gì về thân phận thực sự của
mình. Những câu chuyện về Vua Arthur, Moses, Theseus và Chúa Jesus đều theo hình mẫu
này. Chúng ta thấy ý tưởng tương tự trong nhiều câu chuyện khoa học viễn tưởng, ở đó
người anh hùng thức tỉnh ở một nơi lạ lùng, bị mất trí nhớ; cuộc tìm kiếm thân phận thật dẫn
dắt anh khám phá ra những sức mạnh to lớn trong bản thân mình. Rất thường thấy anh
nhận ra chính mình tại trung tâm của âm mưu quyền lực hoặc ngay chính những vận hành
của tự nhiên. Chúng ta đã “quên” tất cả thân phận thật của mình và bị chia cắt với “cha mẹ”
chúng ta. Và khi chúng ta tìm ra hoặc tạo nên bản ngã đích thực, chúng ta sẽ tìm thấy chính
mình tại trung tâm vũ trụ. Vì trung tâm đó ở khắp mọi nơi.
Hầu hết các bộ bài Tarot chỉ thể hiện ba người ở cận cảnh. Khi bổ sung thêm ba người nữa,
tất cả họ đều đối diện với chúng ta, ám chỉ rằng khi Judgement dẫn đến bất tri thì vẫn có
một nhận thức (cũng được biểu trưng bằng các ngọn núi) trên con đường mà cuộc sống bất
tri đó sẽ phát triển.
Những con người thêm vào kia ngụ ý một điểm khác, rất sống còn. Bằng cách thể hiện cả
một nhóm người đứng dậy, lá chính này nhắc chúng ta rằng không có sự giải thoát cá nhân.
Mỗi con người là một phần của loài người và do đó có trách nhiệm về sự phát triển của cả
giống loài nói chung. Không ai có thể thực sự tự do khi người khác còn đang chịu cảnh nô
lệ. Người ta nói Phật đã quay lại làm một bồ tát bởi vì ngài hiểu rằng ngài không thể giải
phóng chính mình cho đến khi ngài giải phóng mọi chúng sinh. Cùng lúc, bất cứ sự giải
phóng đơn nhất nào cũng giải phóng tất cả mọi người. Đó là bởi vì sự giác
ngộ Judgement và The World của bất kỳ ai cũng đều làm biến đổi hoàn cảnh sống của tất
cả mọi người. Đức Phật Gautama thành Phật và sự phục sinh của Chúa Jesus được xem là
những sự kiện thay đổi hoàn toàn thế giới.

103
Trong ý nghĩa tiên tri, lá Judgement mang một ý nghĩa đặc biệt. Cho dù quanh bạn có diễn
ra những gì thì cũng có một cú đẩy, một tiếng gọi từ bên trong, để thực hiện vài thay đổi
quan trọng. Thay đổi này có thể quy cho cái gì đó thế tục hoặc tức thời, hay cho một sự
chuyển đổi toàn bộ trong cách người này nhìn cuộc sống – dựa vào những lá bài khác và
chủ đề của quẻ bài Tarot. Điều quan trọng là tiếng gọi. Kết quả, người này đã thay đổi;
những tình huống cũ, bản ngã cũ, đã chết. Đơn giản chỉ là vấn đề nhận thức mà thôi.
Judgement ngược có thể biểu thị rằng người này ao ước trả lời tiếng gọi nhưng không biết
phải làm gì. Thường thấy hơn nó thể hiện một người cố gắng từ chối tiếng gọi, thường là vì
sợ hãi những điều chưa biết. Thực sự có thể có rất rất nhiều lý do lý trí cho thấy tại sao
người này không nên đi theo những thay đổi được đề nghị: thiếu tiền, thiếu chuẩn bị hoặc
trách nhiệm. Judgement, dù xuôi hay là ngược, biểu thị rằng tất cả những phản đối đều là
chống chế. Khi lá bài Tarot này xoay ngược lại, các chống chế vượt trội hơn; người này vẫn
đứng trong phần mộ. Từ Judgement ngụ ý rằng thực tại cuộc sống đã thay đổi. Lựa chọn
duy nhất chính là đi theo.

THE WORLD

Chúng ta có thể nói gì về một sự thấu hiểu, một sự tự do và một sự sung sướng vô ngần
vượt ngoài tầm ngôn ngữ? Vô thức được biết đến một cách ý thức, bản ngã bên ngoài
thống nhất với những lực lượng của cuộc sống, những kiến thức hoàn toàn không phải là
kiến thức mà là một vũ điệu xuất thần không ngừng nghỉ – chúng vừa thực vừa vô thực.
Chúng ta đã quan sát rất nhiều về lá bài này và những hình ảnh của nó. Con số cũng như
hai cây gậy phép hợp nhất The Magician và The High Priestess. Chúng ta cũng đã
thấy Word được báo trước trong The Wheel of Fortune và phản ánh cách những biểu tượng
của lá chính này giờ đây sống động như thực. Các này hay cách khác, The Wheel đã đến
gần với hầu như mọi lá bài trong dòng cuối. Mục đích của dòng này có thể được mô tả là
mục đích hợp nhất chính chúng ta với tất cả những gì được thấy như một tầm nhìn hướng
ngoại trong lá chính 10, tức là, định mệnh, những vận động của cuộc sống, những yếu tố
của sự tồn tại. Khi đạt được sự thống nhất này thì những biểu tượng sẽ biến mất, tan ra
trong một tinh thần nhảy múa.  

104
Chúng ta thấy The World trong The Hanged Man qua con số và qua bức tranh vẽ. Lá chính
12 duy trì niềm vui sướng của mình qua một sự bất động hoàn toàn. Nhưng ngay cả Cây
Thế Giới cũng là một ảo ảnh được tạo nên bởi những nhu cầu của tâm trí để nắm được một
thứ gì đó. Khi chúng ta đã hòa tan bản ngã bị cô lập của mình vào nước nằm bên dưới
khuôn mặt sáng bừng của The Hanged Man, chúng ta học được rằng sự thống nhất thực
sự nằm trong những vận động.  
Mọi thứ trong vũ trụ đều vận động, Trái đất quay quanh mặt trời, mặt trời nằm trong thiên
hà, thiên hà nằm trong cụm (cluster), tất cả quay quanh lẫn nhau. Không có trung tâm nào,
không có nơi chốn nào mà chúng ta có thể nói “Đây là nơi tất cả bắt đầu, đây là nơi tất cả
dừng lại”. Tuy nhiên, trung tâm có tồn tại, khắp mọi nơi, vì trong một vũ điệu người vũ công
không di chuyển quanh bất kỳ một điểm độc nhất nào trong không gian, mà vũ điệu mang
tính thống nhất của nó tập trung quanh một sự di chuyển không ngừng nghỉ, một trung tâm
không ngừng bình yên. Hư vô và mọi thứ có cùng một lúc.
Và thế là chúng ta quay lại với The Fool. Trong sáng và trống rỗng, thống nhất với sự minh
triết. Như chúng ta đã nói ngay từ đầu rằng trong tất cả những lá Ẩn Chính thì chỉ có hai lá
này chuyển động. Vòng hoa bầu dục hàm ý chỉ số 0, với tất cả những tính biểu tượng của
nó. Nó cũng ngụ ý chỉ một quả trứng vũ trụ, một nguyên mẫu của sự nảy sinh; tất cả mọi
thứ tồn tại tiềm tàng và mọi tiềm năng đều được nhận thức. Bản ngã là mọi nơi trong tất cả
mọi thứ. Dải khăn thắt trên đầu và cuối của vòng hoa được buộc thành dấu vô cực, cho thấy
rằng bản ngã không đóng lại mà mở ra với vũ trụ.
Hai dải khăn màu đỏ, màu của chakra gốc rễ trong biểu tượng Kundalini. Người vũ công
không đánh mất sự sống trần tục của mình, gốc rễ của nàng ở trong thực tế vật chất và tình
dục. Thay vào đó, năng lượng chảy liên tục, được biển đổi và làm mới. Màu xanh của vòng
hoa biểu trưng cho thế giới tự nhiên trỗi dậy chứ không phải bị vứt bỏ. Màu xanh cũng là
màu của yêu thương và chữa lành, tỏa ra trọn vẹn cho tất cả mọi người, cho cả những

105
người không nhận thức được nó một cách ý thức. Màu tím (dải băng) là màu của thánh thần
và màu xanh dương (bầu trời) là màu của thông tri. Khi chúng ta biết rằng thần thánh không
phải là thứ gì đó ngoài kia, mà ở bên trong bản thân chúng ta thì sự có mặt của chính chúng
ta sẽ truyền tải sự thật này đến những người xung quanh.
Một trong những hình tượng tương tự của The World là Shiva, Chúa tể của Điệu nhảy Vũ
trụ. Ngài cũng nhảy múa với hai tay đưa ra, một chân hướng xuống và một chân nhấc lên,
đầu thăng bằng và biểu cảm bình thản. Bàn chân phải của hai hình tượng này đều được
“trồng” trong thế giới trần tục trong khi chân trái nâng lên biểu thị cho sự giải phóng linh hồn.
Khi chúng ta trở nên kết hợp nhất với cuộc sống, lúc đó chúng ta nhận ra sự tự do của
mình. Khuôn mặt không buồn rầu lẫn hân hoan mà là bình thản, tự do trong sự trống không
của nó. Đôi tay mở ra với tất cả những trải nghiệm.
Shiva nhảy múa thường được miêu tả là một người lưỡng tính, một nửa thân người
là Shiva, nửa kia là Parvati, mặt nữ của ngài. Vũ công của The World cũng là người lưỡng
tính với cơ quan sinh dục kép giấu trong dải băng như thể nói rằng sự thống nhất mà chúng
thể hiện nằm bên ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Khi thảo luận về The Lovers, chúng ta
đã nhắc đến niềm tin phổ biến rằng tất cả mọi người đều vốn là lưỡng tính. Người vũ công
đã biểu lộ và thống nhất tất cả các mặt khác nhau của sự sống.  
Cùng cảm giác đó dẫn ta đến “ký ức” của tính lưỡng tính nguyên thủy đã đưa con người
tiến một bước xa hơn đến hình ảnh toàn vũ trụ đã từng là một con người. Chúng ta tìm thấy
niềm tin này ở những thần thoại của Tri thức giáo (Gnosticism), của Blake, của người Đức,
người Ấn Độ và những thần thoại khác, và trong những chi tiết lớn của Qabalah. Ở đó hình
tượng này có tên là “Adam Kadmon” và được người ta nói rằng đó là sự sáng tạo gốc bắt
nguồn từ Chúa Trời bất khả tri. Hơn cả một sinh vật trần thế, Adam Kadmon, cũng là một
người lưỡng tĩnh, được mô tả như một ánh sáng thuần khiết. Chỉ khi hình tượng này vỡ
thành những phần tách biệt của vũ trụ thì ánh sáng mới bị “cầm tù” trong vật chất. Một thực
tế quyến rũ là các học thuyết khoa học đương thời về thuyết nguồn gốc vũ trụ mô tả vũ trụ
ban đầu chỉ là một hạt. Lúc hạt này vỡ ra nó đều là ánh sáng thuần khiết; chỉ sau đó, khi các
mảnh trở nên cô lập hơn thì một vài năng lượng đó mới tụ vào vật chất, theo như công thức
nổi tiếng của Einstein, E=mc2.
Thần thoại xem sự vỡ ra của Con Người nguyên thủy là một sự kiện không thể đảo ngược
lại. Tuy nhiên, những nhà huyền học lại tin vào khả năng khôi phục. Bằng cách theo quá
trình phác họa trong bộ Ẩn Chính, chúng ta trở nên thống nhất với cuộc sống và vì thế chính
chúng ta trở thành Adam Kadmon và Shiva-Parvati.
Adam Kadmon được liên kết đến Cây Sự Sống với 10 sephiroth của nó, hoặc các điểm phát
xạ. Chúng ta đã thấy sự kết nối giữa hình tượng này và Tarot thông qua 22 con đường của
Cây Sự Sống. The World Dancer, bằng tư thế của nàng, là một đại diện chính xác của hình
dạng thường thấy nhất của Cây Sự Sống. Cây Sự Sống được vẽ theo cách sau:

106
Đơn giản hóa tối đa, hình tam giác trên đỉnh là siêu thức, hình tam giác ở giữa là ý thức,
hình cuối là vô thức, và điểm cuối cùng, gốc rễ của Cây, là một biểu thị của tất cả những
nguyên tắc của thế giới trần tục.
Với The Dancer, hình tam giác trên cùng là vương miện trên đầu và những điểm ở vai, hình
tam giác ở giữa là tay và bộ phận sinh dục, hình tam giác dưới cùng là chân bắt chéo và
bàn chân phải. Cùng lúc nó là nguyên một cơ thể. Bằng cách nhìn ngắm người vũ công,
chúng ta học được rằng vô thức, ý thức và siêu thức không phải là những phần tách biệt
hay thậm chí là những giai đoạn tách biệt của sự sống, mà là một. Nhưng còn
về sephira thứ mười, cội rễ của Cây thì sao? Chúng ta tìm thấy nó không phải ở trong cơ
thể mà là ở trong vũ trụ, nền tảng tuyệt vời của sự sống mà trong đó chúng ta vận động.
Những mô tả, những ẩn dụ và ngay cả thưởng ngoạn chỉ có thể gợi ý những diệu kỳ biểu
hiện trong lá chính 21. Khi lá bài này hiện ra trong quẻ bói Tarot những điều diệu kỳ này
giảm xuống thành những tình huống đời thường liên quan đến chính quẻ bài hơn. Lá bài có
nghĩa thành công, thành tựu, thỏa mãn. Ở một mức độ cao hơn hoặc thấp hơn nó biểu thị
một sự thống nhất của những giác quan bên trong của một người với  hoạt động bên ngoài
của người đó.
Đảo ngược lại, lá chính này biểu thị một sự trì trệ, sự vận động và phát triển bị chậm lại đến
điểm phải dừng. Hoặc có vẻ là thế. Thực tế thì sự tự do và niềm vui sướng vô ngần
của The World luôn có tồn tại tiềm tàng để được giải phóng khi một người cảm thấy sẵn
sàng để bắt đầu, một lần nữa, vũ điệu của cuộc sống.
Đó là những ý nghĩa của The World trong tiên tri Tarot. Ý nghĩa thực sự của nó là bất khả
tri. Chúng là mục tiêu, là hi vọng, là trực giác. Con đường đến mục tiêu đó, những bước
chân và nhạc của điệu nhảy, nằm ngay trong những hình ảnh sống động của bộ Ẩn Chính
kia.

107

You might also like