You are on page 1of 34

1. Quyết định của trọng tài?

Tại sao là chung thẩm


Chung thẩm là gì?

Chung thẩm là một thuật ngữ được dùng nhằm mục đích để chỉ trường hợp tòa án xét xử hoặc đưa ra
quyết định về việc giải quyết vụ án đã qua hai cấp xét xử giải quyết (có nghĩa là đã giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm). Trong trường hợp cụ thể này, các chủ thể là những đương sự sẽ không có thẩm quyền
kháng cáo đối với bản án, quyết định đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Tìm hiểu về phán quyết trọng tài:

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thương mại năm 2010 có nội dung như sau :“5. Phán
quyết trọng tài là chung thẩm.” Đây là một trong những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Thực tế thì phán quyết trọng tài sẽ có giá trị bằng bản án của tòa án.

Phán quyết trọng tài được hiểu cơ bản chính là quyết định của Hội đồng trọng tài nhằm mục đích để có
thể giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Theo pháp luật Trọng tài
thương mại năm 2010 thì vấn đề thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại đã được quy định tại
Chương X và tại Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và Điều 67 Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 thì phán quyết trọng tài sẽ được thi hành theo quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự và thẩm quyền thi hành phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại thuộc về
cơ quan thi hành án dân sự.

Quy định về hiệu lực của phán quyết trọng tài:

Cụ thể, theo quy định tại Khoản 5 Điều 60 Luật trọng tài thương mại 2010 có nội dung cụ thể như sau:
“Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành“.

Như vậy, căn cứ theo quy định được nêu trên, ta nhận thấy, phán quyết của trọng tài là chung thẩm nên
các tranh chấp của các chủ thể khi đã được giải quyết thì sẽ không được xem xét lại bởi một trong số tất
cả các cấp hoặc cơ quan xét xử nào khác (trừ các trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo quy định
pháp luật). Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ có hiệu lực kể từ ngày ban
hành, tuy nhiên do phán quyết trọng tài thực chất không quy định thời hạn thi hành phán quyết, nên
chủ thể là bên được thi hành phán quyết trọng tài thực tế sẽ chỉ được yêu cầu cưỡng chế thi hành phán
quyết đó sau khi thời hạn thi hành phán quyết trọng tài đã kết thúc mà chủ thể là bên bị thi hành không
thi hành hoặc thi hành không đầy đủ.

Cũng chính bởi vì vậy, khi Hội đồng trọng tài đã đưa ra một phán quyết trọng tài thì các bên tham gia sẽ
không thể kiện tiếp lên tòa án, trừ trường hợp một bên gửi đơn yêu cầu Tòa án xem xét đế việc hủy
phán quyết trọng tài và Tòa án hủy phán quyết trọng tài theo các căn cứ cụ thể đã được quy định tại
Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010.

Cùng với đó thì ta thấy rằng, thực tế hiện nay, đối với vấn đề Tố tụng trọng tài giữa cơ quan Tòa án với
trung tâm trọng tài, hiện nay đã có một số thẩm phán không căn cứ cụ thể vào Điều 415 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015 quy định : “Thủ tục giải quyết các vụ việc liên quan đến hoạt động của trọng tài thương mại
tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam” và Điều 12
Luật Trọng tài thương mại năm 2010, mà các thẩm phán này đã tư duy theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự dẫn đến huỷ phán quyết trọng tài không đúng.

Thực tế thì hội đồng trọng tài của các vụ việc cụ thể thông thường sẽ bao gồm các chủ thể là những
chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, nhưng cũng sẽ có một vài trong số họ có những hiểu biết cũng
như quá trình thực hành tố tụng trọng tài lại chưa nhiều, ít kinh nghiệm khi tham gia xử lý các tình
huống tố tụng nên một số thành viên trong hội đồng trọng tài thường chú trọng nhiều vào phần nội
dung tranh chấp mà dẫn đến thiếu sót về tố tụng.

Nhiều các chủ thể là những thẩm phán giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, trong nhiều trường
hợp cụ thể, các chủ thể này đã không tiếp xúc nhiều với thực tiễn trọng tài và nội dung lĩnh vực tranh
chấp nên những thẩm phán đó đã có những quan điểm khác nhau trong đường lối giải quyết vụ việc
trọng tài.

2. TH quyết định trọng tài bị xem xét ?


Quy định về hủy phán quyết trọng tài:

Trường hợp được hủy phán quyết trọng tài:

Theo quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010, huỷ phán quyết trọng tài có nội dung như
sau:

– Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi nhân đượcđơn yêu cầu của một bên.

– Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:

+ Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy khi không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài vô hiệu.

+ Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy khi thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục
tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của pháp luật.

+ Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy khi vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ.

+ Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy khi chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội
đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết
trọng tài.

+ Phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật sẽ bị hủy khi phán quyết trọng tài trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

– Khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được xác định cụ thể
như sau:
+ Chủ thể là bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 68 Luật
Trọng tài thương mại 2010 có nghĩa vụ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
các trường hợp cụ thể đó.

+ Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương
mại 2010, Tòa án sẽ có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không
hủy phán quyết trọng tài.

Như vậy, pháp luật quy định cụ thể rằng Tòa án sẽ có quyền được hủy phán quyết trọng tài sau khi đã
chỉ ra được rằng các phán quyết trọng tài có nội dung trái lại với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài khi giải quyết vụ việc đã không thực hiện nguyên tắc này khi
thực hiện ban hành phán quyết trọng tài. Hay khi phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích
của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba. Và, nhiều các trường hợp
khác được quy định thể bên trên.

Chủ thể có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:

Theo Điều 69 Luật Trọng tài thương mại 2010, quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài được quy định
với nội dung cụ thể như sau:

– Kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài và trong thời hạn 30 ngày, nếu một bên có đủ căn cứ để
nhằm mục đích có thể chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại 2010 thì bên đó sẽ có
quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài được gửi đến Toà án sẽ cần phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp.

– Trong trường hợp việc gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất khả kháng
sẽ không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của chủ thể đó.

Như vậy, ta nhận thấy, theo quy định của pháp luật thì các bên trong tranh chấp thương mại có quyền
gửi đơn đến Tòa án để nhằm mục đích yêu cầu hủy phán quyết của Hội đồng trọng tài, tuy nhiên các chủ
thể cũng sẽ cần lưu ý đến việc chứng cứ chứng minh phán quyết của trọng tài không đúng.

Các chủ thể muốn hủy phán quyết trọng, chủ thể là người yêu cầu phải làm đơn theo quy định tại
Điều 70 Luật Trọng tài thương mại 2010:

– Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài của các chủ thể sẽ cần phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

+ Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài của các chủ thể sẽ cần phải có thông tin về ngày, tháng, năm
làm đơn.

+ Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài của các chủ thể sẽ cần phải có thông tin về tên và địa chỉ của
bên có yêu cầu.

+ Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài của các chủ thể sẽ cần phải có thông tin về yêu cầu và căn cứ
huỷ phán quyết trọng tài.

– Kèm theo đơn yêu cầu phải có các giấy tờ sau đây:

+ Bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.
+ Bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.

Cần lưu ý đối với giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì sẽ cần phải được dịch ra tiếng
Việt và bản dịch phải được chứng thực hợp lệ.

Như vậy, ta nhận thấy rằng, nếu có đủ chứng cứ, chứng minh rằng phán quyết của trọng tài là không
đúng, một trong hai bên tranh chấp sẽ có thể nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết này. Tòa án sẽ có trách
nhiệm xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nếu nhận thấy thực sự có sai phạm sẽ hủy bỏ
phán quyết này.

Nhìn chung, như chúng ta đã nói ở trên, phán quyết trọng tài có giá trị ngang với bản án của tòa án. Tuy
nhiên, thực tế thì pháp luật nước ta chủ cho phép trọng tài chỉ được lựa chọn trong giải quyết các tranh
chấp hoạt động thương mại. Còn cơ quan Tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong tất cả các
lĩnh vực

3. Nguyên tắc kí kết hợp đồng thương mại


Căn cứ quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có
thể hiểu hợp đồng thương mại được giao kết với những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội

Các bên được toàn quyền quyết định về việc giao kết hợp đồng, giao kết hợp đồng với đối tác nào, thời
điểm, địa điểm, nội dung, phương thức giao kết hợp đồng... Nguyên tắc này phù hợp với nguyên tắc tự
do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự, được pháp luật bảo đảm, nếu cam
kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Như vậy, tự do
giao kết hợp đồng thương mại cũng phải bảo đảm nội dung không trái pháp luật, không trái đạo đức xã
hội, kể cả đạo đức trong kinh doanh.

Thứ hai, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng

Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện cam kết, thoả thuận và nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự,
khi giao kết hợp đồng thương mại, các thương nhân hoàn toàn tự nguyện, tức là được tự dọ ý chí,
không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Các bên đều bình đẳng,
không được phân biệt thành phần kinh tế, quy mô, loại hình tổ chức, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh,
kể cả ngành nghề độc quyền... Ngoài ra, trong quá trình ký kết hợp đồng thương mại các bên cần thiện
chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng... đây là các thái độ tâm lý của các bên phù hợp với ý chí tự
nguyện gia kết hợp đồng nhằm bảo đảm sau khi giao kết, các bên đều thuận lợi khi thực hiện hợp đồng.

4. Nguyên tắc chấm dứt HĐ TM


Hợp đồng đại diện cho thương nhân chấm dứt khi:

+ Thời hạn đại diện cho thương nhân chấm dứt;

+ Công việc đại diện cho thương nhân đã hoàn thành;


+ Một trong hai bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi, mất tư cách thương
nhân (theo Điều 589 Bộ luật dân sự 2015).

Nếu trong hợp đồng không xác định thời hạn đại diện, các bên đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng đại diện nhưng phải thông báo cho bên kia biết. Luật thương mại năm 2005 không quy định thời
hạn các bên phải thông báo cho nhau biết về việc chấm dứt hợp đồng. So với Luật Thương mại 1997 thì
có điều khoản này và được quy định tại Khoản 1 Điều 92 Luật Thương mại 1997: Trong trường hợp hợp
đồng đại diện không xác định thời hạn cụ thể thì các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại
diện nhưng phải thông báo cho bên kia biết chậm nhất là sáu mươi ngày trước khi chấm dứt hợp đồng
đại diện.

Theo Khoản 3 Điều 144 Luật thương mại 2005 thì ” Trong trường hợp bên giao đại diện đơn phương
thông báo chấm dứt hợp đồng đại diện, bên đại diện có quyền yêu cầu được hưởng thù lao do việc bên
đại diện giao kết các hợp đồng với khách hàng mà bên đại diện đã giao dịch và những khoản thù lao
khác mà dáng lẽ mình được hưởng”.

Theo đó ta thấy trong trừng hợp này pháp luật quy định người đại diện vẫn có quyền hưởng thù lao đối
với những hợp đồng được giao kết giữa bên giao đại diện với bên thứ ba trước và cả sau khi hợp đồng
đại diện chấm dứt nếu những hợp đồng đó được giao kết là kết quả của những giao dịch do bên đại diện
đem lại. Trong trường hợp bên đại diện đơn phương chấm dứt hợp đồng đại diện thì bên đại diện mất
quyền hưởng thù lao đối với các giao dịch đáng lẽ mình được hưởng nếu các bên không có thoả thuận
khác.

Luật thương mại năm 2005 không quy định nguyên tắc xác định khoản thù lao mà bên đại diện được
hưởng nếu bên giao đại diện đơn phương chấm dứt hợp đồng (trong trường hợp hợp đồng không xác
định thời hạn đại diện).

Căn cứ theo quy định tại Điều 588 Bộ luật dân sự năm 2015, quy định này có nêu rõ là bên giao đại diện
phải thông báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về về việc bên giao đại diện chấm dứt hợp đồng và
trường hợp nếu không thông báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người
thứ ba biết hoặc phải biết về việc hợp đồng đại diện đã bị chấm dứt. Tuy nhiên, Luật thương mại 2005
không quy định ai sẽ có nghĩa vụ phải thông báo cho bên thứ ba biết trong trường hợp bên đại diện
thông báo chấm dứt hợp đồng.

5. Phân biệt phá sản và giải thể DN


Điểm giống nhau giữa phá sản và giải thể

 Đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp.
 Đều bị thu hồi con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
 Đều phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản.

Điểm khác nhau giữa phá sản và giải thể


Tiêu chí  Giải thể doanh nghiệp Phá sản doanh nghiệp

Căn cứ pháp
lý chính Luật Doanh nghiệp 2020 Luật Phá sản 2014

Theo Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp bị


giải thể khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ


công ty mà không có quyết định gia hạn.
Theo Luật Phá sản 2014, doanh nghiệp được
Theo quyết định của những người có quyền nộp công nhận là phá sản khi đồng thời thỏa mãn hai
đơn yêu cầu giải thể doanh nghiệp. điều kiện:

Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các
thiểu theo quy định trong thời hạn 06 tháng liên khoản nợ, tức là doanh nghiệp không thực hiện
tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03
doanh nghiệp. tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.

Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh Doanh nghiệp bị Tòa án nhân dân tuyên bố phá
Nguyên nhân nghiệp. sản.

Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ


tục phá sản bao gồm:

Chủ doanh nghiệp tư nhân

Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần

Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách


nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một


thành viên

Thành viên hợp danh của công ty hợp danh.


Những người có quyền nộp đơn yêu cầu giải
thể  doanh nghiệp bao gồm: Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm
một phần
Chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân.
Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp
Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần.
trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập
Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối công đoàn cơ sở
với công ty TNHH.
Người có Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
quyền nộp Tất cả các thành viên hợp danh đối với công ty
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ
đơn yêu cầu hợp danh.
phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít
nhất 06 tháng.

Giải thể doanh nghiệp là một loại thủ tục hành


chính do người có thẩm quyền trong doanh Phá sản là một loại thủ tục tư pháp do Tòa án có
nghiệp tiến hành làm việc với Cơ quan đăng ký thẩm quyền quyết định sau khi nhận được đơn
Loại thủ tục kinh doanh. yêu cầu hợp lệ.

Chi phí phá sản.

Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã


hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền
lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao
động tập thể đã ký kết.

Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản


nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ


không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong
danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa
được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không
đủ thanh toán nợ.
Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm
xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền Sau khi đã thanh toán hết các khoản trên mà vẫn
lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao còn tài sản thì phần còn lại này thuộc về: chủ
động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết. doanh nghiệp tư nhân; chủ sở hữu công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên; thành viên của
Nợ thuế.
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
Các khoản nợ khác. lên, cổ đông của công ty cổ phần; thành viên của
công ty hợp danh.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi
phí, phần tài sản còn lại sẽ chia cho chủ doanh Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán thì
nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được
Thứ tự thanh chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ sở hữu phần vốn thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với
toán tài sản góp, cổ phần. số nợ.
Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp (trừ
trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp) được tiến hành như sau:

 Thông qua quyết định giải thể doanh Trình tự, thủ tục phá sản của doanh nghiệp được
nghiệp. tiến hành như sau:
 Tiến hành tổ chức thanh lý tài sản doanh  Nộp đơn cho Tòa án yêu cầu mở thủ tục
nghiệp. phá sản.
 Thông báo công khai quyết định giải thể  Tòa án xem xét và thụ lý đơn yêu cầu mở
doanh nghiệp. thủ tục phá sản.
 Doanh nghiệp tiến hành thanh toán các  Tòa án mở thủ tục phá sản đối với những
khoản nợ và phân chia phần tài sản trường hợp đã đáp ứng đủ điều kiện
còn lại theo quy định. mở thủ tục phá sản.
 Nộp hồ sơ giải thể.  Triệu tập hội nghị chủ nợ.

 Cập nhật tình trạng pháp lý của doanh  Phục hồi doanh nghiệp.
Trình tự, thủ nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về  Ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp
tục đăng ký doanh nghiệp. phá sản.

Doanh nghiệp bị phá sản vẫn có thể tiếp tục hoạt


động nếu như có người mua lại toàn bộ doanh
Doanh nghiệp bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh nghiệp (Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng bị
Hậu quả
doanh và chấm dứt sự tồn tại. xóa tên và chấm dứt sự tồn tại).
pháp lý

Nhà nước có thể hạn chế quyền tự do kinh


Quyền tự do kinh doanh của chủ sở hữu, người doanh đối với chủ sở hữu hay người quản lý điều
 Thái độ của
bị quản lý điều hành không bị hạn chế. hành.
Nhà nước

7. Vấn đề cưỡng chế THA QĐ trọng tài?

Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có tính ràng buộc các bên đương sự về mặt
pháp lý. Phán quyết trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thi hành và không thể bị
kháng cáo. Do các bên đương sự đã tự nguyện lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương
nhiên phải phục tùng quyết định của người đó. Và hơn nữa, bản thân tố tụng trọng tài là tố tụng một
cấp và quyết định trọng tài khi ban hành có giá trị chung thẩm.

Do vậy, phán quyết trọng tài là phán quyết chung thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo bất cứ
thủ tục nào. Phán quyết của trọng tài sẽ được thi hành nếu phán quyết đó là hợp pháp (khi không có
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, hoặc hội đồng xét xử đã bác đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài).

Tuy là giải quyết tranh chấp bằng trọng thương mại – một tổ chức phi Chính phủ, nhưng được hỗ trợ,
đảm bảo về mặt pháp lý của tòa án trên nhiều mặt: Xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài; giải
quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài; công
nhận và thi hành phánquyết trọng tài.

Bên cạnh đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua phương thức trọng tài được
đảm bảo bằng sự cưỡng chế từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tại Điều 66 LTTTM năm
2010 quy định về quyền yêu cầu thi hành pháp quyết trọng tài:

“1. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi
hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được
thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi
hành phán quyết trọng tài.

2. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy
định tại Điều 62 của Luật này

Với sự hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp, phán quyết trọng tài được thi hành một cách triệt để tạo điều
kiện cho tranh chấp được giải quyết dứt điểm, tránh tình trạng một bên kéo dài thời hạn thi hành án.
Đây là một biện pháp đảm bảo phán quyết của trọng tài sẽ được thi hành bởi cơ quan thi hành án trong
trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thi hành.

Nếu phán quyết trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một trong các bên, mà bên phải
thi hành không tự nguyện thi hành sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành phán quyết
trọng tài, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

Còn trong trường bên phải thi hành phán quyết trọng tài đã không tự nguyện thi hành trong phán quyết
trong thời hạn quy định mà bên được thi hành cũng không làm đơn yêu cầu đến cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài thì pháp luật về trọng tài cũng không đặt ra chế tài
xử lý trong trường hợp này.Hơn nữa, trọng tài thương mại là một chủ thể ra phán quyết nhưng là tổ
chức phi chính phủ nên không có một quyền cưỡng chế nhà nước. Mà chỉ tùy trong trường hợp, điều
kiện cụ thể thì phán quyết trọng tài được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành dân sự. Từ đó có thể
khẳng định rằng, pháp quyết trọng tài “có thể” được cưỡng chế thi hành nếu pháp quyết này là hợp
pháp.

8. Vấn đề cho thi hành bản án nước ngoài tại VN


1. Công nhận và cho thi hành bản án dân sự, phán quyết trọng tài nước ngoài là gì?

Công nhận và cho thi hành bản án dân sự, phán quyết trọng tài nước ngoài là việc:

(i) Thừa nhận hiệu lực pháp lý của các nội dung sau:

Bản án của tòa án;

Nguyên tắc của tòa án nước ngoài; và


Nguyên tắc của tòa án nước này với phán quyết trọng tài nước khác ở mức độ tương tự như tòa án
trong nước.

(ii) Thực thi bản án, phán quyết đó trong lãnh thổ của một nước.

2. Bản án dân sự, phán quyết của trọng tài nước ngoài nào được công nhân và thi hành tại Việt Nam?

Bản án dân sự của nước ngoài là bản án của Toà án nước ngoài về các vấn đề dân sự. Các vấn đề dân sự
bao gồm hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, tài sản,…

Phán quyết của Trọng tài nước ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài hoặc trong
lãnh thổ Việt Nam. Trọng tài nước ngoài này do các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp.

Để yêu cầu công nhận hoặc áp dụng thi hành bản án, quyết định của Trọng tài nước ngoài, người yêu
cầu phải đáp ứng một số điều kiện. Ví dụ, giữa Việt Nam và quốc gia đó phải có điều ước quốc tế tương
trợ tư pháp về dân sự. Nếu không, việc thực hiện sẽ dựa trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia.
Cuối cùng, nếu pháp luật Việt Nam có quy định về vấn đề này thì yêu cầu công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài sẽ được áp dụng.

Lưu ý, luật Việt Nam cũng quy định rõ những trường hợp nào bản án của tòa nước ngoài, phá quyết của
trọng tài nước ngoài không được thi hành tại Việt Nam.

3. Ai có quyền yêu cầu thủ tục này tại Việt Nam?

Người được thi hành án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có thể yêu cầu công nhận và thi hành bản
án dân sự nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Ngược lại, người phải thi hành
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam không công nhận bản án,
quyết định đó. Bên cạnh đó, đương sự, các bên liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền
yêu cầu. Tuy nhiên, họ chỉ có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam không công nhận bản án dân sự của Tòa án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành.

4. Thủ tục để yêu cầu công nhận hoặc thi hành 

Các cơ quan tiến hành các thủ tục này bao gồm Bộ Tư pháp và các Tòa án có thẩm quyền. Thông
thường, thời gian dự kiến để yêu cầu công nhận hoặc thi hành bản án dân sự, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam có thể đến 06 tháng, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ yêu cầu. Thủ tục bao gồm các
bước như sau:

(i) Bước 1: Người yêu cầu nộp đơn và các tài liệu cho Bộ Tư pháp.

(ii) Bước 2: Bộ Tư pháp sẽ giao cho Tòa án có thẩm quyền tiến hành thực hiện. Sau đó, Tòa án có thẩm
quyền sẽ xem xét việc thụ lý đơn.

(iii) Bước 3: Tòa án có thẩm quyền xem xét đơn và yêu cầu giải thích bổ sung nếu có.

(iv) Bước 4: Tòa án tổ chức cuộc họp xét đơn yêu cầu. Cuộc họp được tiến hành với sự có mặt của người
được thi hành án, người phải thi hành án hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Cuộc họp không phải là
phiên xét xử lại vụ án mà chỉ để xem xét việc công nhận và thi hành bản án hoặc phán quyết của trọng
tài.

(v) Bước 5: Sau khi hoàn thành thủ tục, Tòa án gửi quyết định cho các đương sự.
Tóm lại, thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án dân sự, phán quyết của Trọng tài nước ngoài
tại Việt Nam là khá rõ ràng. Người yêu cầu phải đáp ứng một số yêu cầu theo quy định của luật.

9. hậu quả pháp lí khi DN phá sản?


Tình trạng pháp lý sau khi doanh nghiệp phá sản 

Căn cứ theo Điều 109 Luật phá sản 2014 quy định về việc gửi và thông báo quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản thì

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, Tòa án nhân dân phải
thông báo và đồng thời gửi trích lục tuyên bố phá sản trong trường hợp quyết định tuyên bố doanh
nghiệp phá sản có nội dung cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác
xã cho Sở Tư pháp nơi Tòa án nhân dân có trụ sở.

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản, Tòa án nhân dân phải
gửi quyết định cho cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh;
trong trường hợp Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị theo
quy định tại Điều 113 của Luật này thì thời hạn có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định

Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp sau khi phá sản

Theo Điều 110 Luật phá sản 2014 quy định thì doanh nghiệp sau khi có quyết định tuyên bố phá sản có
nghĩa vụ về tài sản là

Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản quy định tại các điều 105, 106 và 107 của Luật
này không được miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp người tham gia thủ tục phá
sản có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Nghĩa vụ về tài sản phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản được giải
quyết theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Cấm đảm nhiệm chức vụ đối với chủ doanh nghiệp phá sản

Theo Điều 130 Luật phá sản 2014 quy định các cá nhân bị cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp
phá sản cụ thể như sau:

Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị không được đảm
đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước.

Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp có vốn nhà nước mà doanh nghiệp đó bị
tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của
Nhà nước.

Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản mà cố ý vi phạm quy định tại khoản 1
Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 của Luật phá sản 2014 thì Thẩm phán xem xét, quyết định về
việc không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Tòa án nhân dân có quyết định tuyên bố phá sản.
10. Tài sản phá sản
- Tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản gọi là tài sản phá sản

Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán gồm:

 Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp có tại thời điểm Tòa án nhân dân quyết định mở thủ
tục phá sản;
 Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản;
 Giá trị của tài sản bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp phải thanh toán
cho chủ nợ có bảo đảm;
 Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được xác định theo quy định của pháp luật về đất
đai;
 Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp;
 Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu;

11. NT giải quyết TC bằng trọng tài


Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là gì?

Căn cứ Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài như sau:

- Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm và trái đạo đức xã hội.

- Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.

- Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm
tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác.

- Phán quyết trọng tài là chung thẩm.

12. NT giải quyết tranh chấp bằng tòa án


NNT guyên tắc tuân thủ pháp
luật trong tố tụng dân sự 

Mọi hoạt động tố tụng dân sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của BLTTDS. 

Đây là nguyên tắc rất quan trọng và cơ bản của tố tụng dân sự. Trước hết, mọi hoạt động tố tụng dân sự,
trong đó có giải quyết tranh chấp trong thương mại của tòa án phải tuân thủ đúng pháp luật nói chung,
pháp luật về tố tụng dân sự nói riêng, cụ thể là tuân theo các quy định của BLTTDS. 

Ngoài ra, các chủ thể khi tiến hành hoặc tham gia các hoạt động tố tụng dân sự như cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều
phải tuân theo quy định pháp luật, không loại trừ áp dụng cho bất kỳ một ai. Nguyên tắc thực

ện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia 

Việc xét xử sơ thẩm có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Khi
biểu quyết về quyết định giải quyết, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. 

Đây là nguyên tắc Hiến định, được quy định tại khoản 1, Điều 103 Hiến pháp 2013. Quy định sự tham gia
của Hội thẩm nhân dân đã có từ những ngày đầu thành lập tòa án nhân dân, đây là nguyên tắc
mang tính dân chủ đại diện cho tố tụng dân sự, nhằm bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của các
đương sự. 

Nội dung cơ bản của nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia xác định thành
phần hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án phải có Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân cùng thẩm
phán quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án, không kể vấn đề về nội dung hay thủ tục tố tụng. 

Ngp luật

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất kỳ hình thức nào. 

Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử phải gắn liền với việc tuân theo pháp luật.
Độc lập hoàn toàn không phải là tùy tiện, áp đặt suy nghĩ và quyết định cá nhân của mình vào vụ án. Độc
lập là chỉ tuân theo pháp luật, độc lập trên cơ sở lấy pháp luật để đánh giá, xem xét chứng cứ, áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp. 

Ngoài ra, để đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và có hiệu quả,
BLTTDS 2015 quy định tại Điều 496 về việc xử lý hành vi can thiệp vào việc giải quyết vụ việc dân sự”,
theo đó, tùy theo tính chất của hành vi sẽ bị xử lý kỷ luật, hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự… 
Nguyên tắc xét xử công khai 

Xét xử công khai phát huy được dân chủ trong tố tụng dân sự, tạo điều kiện cho mọi người giám sát
được hoạt động xét xử, bảo đảm cho việc xét xử giải quyết vụ án dân sự nói chung, thương mại nói riêng
được minh bạch, đúng pháp luật. Với tư tưởng thực hiện xét xử kín của tòa án chỉ là trường hợp ngoại
lệ, BLTTDS đề cao việc xét xử công khai của tòa án. Việc xét xử kín chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt
cần giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh theo yêu
cầu chính đáng của những chủ thể này. Tuy nhiên, dù xét xử công khai hay kín thì thủ tục tuyên án, tòa
phải tiến hành công khai. 

Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

Thực tế xét xử cho thấy, việc xét xử không chỉ dừng lại ở sơ thẩm, phúc thẩm mà việc xem xét lại các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chiếm một tỷ lệ không nhỏ các vụ việc dân sự. Nói như vậy,
không có nghĩa là ở nước ta có nhiều cấp xét xử. Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là nguyên
tắc thể hiện bản chất dân chủ, luôn tạo điều kiện tố tụng cho những người có quyền kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn luật định để yêu cầu xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm. 

Nguyên tắc giám đốc việc xét xử 

Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án; Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc việc xét
xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ
để bảo đảm việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất. 

Hoạt động xét xử của tòa án cũng như các hoạt động khác muốn thực hiện tốt thì đều cần phải có sự
quản lý, giám sát, đôn đốc của người có thẩm quyền, tức là giám đốc việc xét xử. Giám đốc việc xét xử
không những bảo đảm cho hoạt động xét xử được đúng đắn mà còn đảm bảo cho việc áp dụng pháp
luật được thống nhất. Nội dung của nguyên tắc giám đốc việc xét xử xác định tòa án cấp trên thực hiện
giám đốc xét xử đối với tòa án cấp dưới; tòa án nhân dân tối cao thực hiện giám đốc xét xử đối với tất cả
các tòa án các cấp. 

14. Nguyên tắc LTM (Luật TM mục 2)


15. Thỏa thuận của trọng tài
Với những ưu điểm của Trọng tài Thương mại là tính bảo mật, giải quyết nhanh chóng, và phán quyết
của Trọng tài Thương mại có tính chung thẩm thì giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài
Thương mại là sự lựa chọn của các bên. Việc thỏa thuận chọn Trọng tài Thương mại giải quyết tranh
chấp là điều kiện tiên quyết để phát sinh thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Thương mại.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì:“Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Thỏa thuận là đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận. Thỏa thuận trọng tài là các bên đồng ý đưa
tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp
dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết để phát sinh thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Thương mại.
Tức là Trọng tài Thương mại chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên tranh chấp có sự thỏa thuận chọn
Trọng tài Thương mại để giải quyết tranh chấp.
Theo quy đinh của pháp luật, thỏa thuận trọng tài cần có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài phải là một thỏa thuận tức là sự thể hiện thống nhất ý chí của các bên về
việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại.
Thứ hai, về hình thức thể hiện, thỏa thuận trọng tài hầu hết được thể hiện bằng văn bản. Với việc thể
hiện bằng vản bản nhằm giảm thiểu rủi ro cho các bên trong việc chứng minh có sự thỏa thuận khi tranh
chấp, có giá trị như là chứng cứ cho việc xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài thương mại. Nhưng theo quy định của pháp luật dân sự, các hình thức thể hiện khác như lời
nói, hành vi đều có giá trị thể hiện sự thỏa thuận này. Thực tế, việc thỏa thuận bằng lời nói, hành vi ít
được các bên lựa chọn vì chứa nhiều rủi ro.
Thứ ba, về cách thỏa thuận Trọng tài Thương mại. Theo quy định của khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010 thì thỏa thuận Trọng tài Thương mại có hai cách là thỏa thuận được lập trước khi
phát sinh tranh chấp thương mại và sau khi phát sinh tranh chấp thương mại.
Với thỏa thuận được lập trước khi có tranh chấp thương mại là thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng
một điều khoản của hợp đồng. Điều khoản về thỏa thuận trọng tài được soạn và thống nhất như một
phần của hợp đồng, các bên trong hợp đồng thỏa thuận chọn Trọng tài Thương mại giải quyết tranh
chấp chứ không phải là Tòa án trước khi có tranh chấp phát sinh. Thực tế, cách này được sử dụng nhiều
nhằm giảm thiếu tranh chấp về sau về vấn đề chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Cách thứ hai, thỏa thuận được lập sau khi tranh chấp phát sinh, ít phổ biến hơn. Thường gọi là “thỏa
thuận đưa tranh chấp ra Trọng tài”. Thỏa thuận này thường phức tạp hơn điều khoản trọng tài – bởi
một khi tranh chấp đã phát sinh, các bên có thể lựa chọn thành viên của hội đồng trọng tài, chỉ rõ tranh
chấp và xác đinh các bên muốn giải quyết tranh chấp đó như thế nào.
Ngoài ra, trên thực tế còn có một cách thứ ba, pháp luật về Trọng tài Thương mại Việt Nam chưa quy
định, được gọi là “thỏa thuận trọng tài dự kiến”, được phát sinh trong các văn kiện pháp lý quốc tế, như
hiệp định đầu tư song phương (BIT) ký kết bởi hai quốc gia. mỗi quốc gia trong hiệp định đồng ý đưa bất
cứ tranh chấp nào có thể phát sinh trong tương lai giữa họ và một “nhà đầu tư” ra trọng tài. “Nhà đầu
tư” này không phải là một bên trong hiệp định. Thực tế, nhà đầu tư chưa được xác định tại thời điểm
hiệp định được ký kết. Khi “thỏa thuận trọng tài dự kiến” nói trên có hiệu lực, nó thiết lập một “đề nghị
có tính ràng buộc” bởi quốc gia có liên quan về việc giải quyết bất cứ tranh chấp “đầu tư” nào tại trọng
tài. Với điều khoản này, nhà đầu tư được bảo vệ quyền, lợi ích bằng việc chọn trọng tài và lợi thế này đã
được nhiều nhà đầu tư nhanh chóng tận dụng trên thực tế.
Thứ tư, về nội dung, thỏa thuận phải đảm bảo về tính rõ ràng, sự chính xác của thỏa thuận trọng tài,
nhằm dễ dàng xác định được thẩm quyền xét xử của hội đồng trọng tài cụ thể.
Thứ năm, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực với hợp đồng, dù thỏa thuận được thể hiện dưới một điều
khoản của hợp đồng hoặc dưới hình thức văn bản riêng.
Như vậy, việc thỏa thuận trọng tài thương mại là việc quan trọng và trước tiên để phát sinh thẩm quyền
giải quyết của Trọng tài Thương mại.

16. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản của doanh nghiệp, HTX
1. Nộp và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

1.1 Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là yêu cầu của chủ nợ đề nghị Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ. Phá sản chỉ được Toà án xem xét, giải quyết trên cơ sở
có yêu cầu mở thủ tục phá sản. Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục bắt buộc đâu tiên của trình
tự giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản được quy định cụ thể trong Luật Phá sản. Theo quy định tại Điều 5 Luật Phá sản năm
2014, các đối tượng sau đây có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án mở thủ tục phá sản để xem xét và giải
quyết việc phá sản của một doanh nghiệp, họp tác mất khả năng thanh toán nợ:

Thứ nhất, đó là các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần. Mục đích của Luật Phá sản
trước tiên là nhằm bảo vệ quyền tài sản cho các chủ nợ, vì vậy các chủ nợ là đối tượng đầu tiên có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã để thu hồi các khoản nợ của mình. Tuy
nhiên, không phải tất cả các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu càu tuyên bo phá sản mà chỉ có chủ nợ
không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp. Các chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì khoản
nợ của họ đã được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã con nợ hay bảo lãnh của bên thứ
ba.

Thứ hai, những người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa
thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Các đối tượng này cũng được
phép nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ
ữả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán. Người lao động, suy cho cùng, cũng chính là chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác
xã đối với các khoản nợ lương nếu lương của người lao động không được thanh toán đầy đủ.

Thứ ba, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Như vậy, đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán thì việc nộp đơn không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Quy định
này nhằm giúp doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có cơ sở để tự giải thoát mình khỏi tình trạng mất khả
năng thanh toán, giải quyết một cách hợp pháp các quan hệ nợ nần hoặc dưới sự giám sát của Toà án,
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có thể cùng với các chủ nợ thỏa thuận các biện pháp hoà giải, tổ chức
lại hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế thiệt hại.

Thứ tư, chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng
thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, thành
viên hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán.

Thứ năm, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên
tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng
thanh toán, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục
ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh
toán trong trường hợp Điều lệ công ty quy định. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích các cổ đông, nhóm cổ
đông nhỏ trong công ty cổ phần.

Thứ sáu, thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành viên của liên
hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất
khả năng thanh toán.
Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định rõ nghĩa vụ của tổ chức tín dụng nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng sau khi Ngân hàng nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc
biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ
chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh toán.

1.2 Thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản

Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản yêu cầu giải quyết phá sản được hiểu là việc Toà án nhận đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, vào sổ thụ lý để giải quyết vụ việc phá sản.

Nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như trách
nhiệm của Toà án trong quá trình tiến hành giải quyết vụ việc phá sản, Luật Phá sản năm 2014 đã có
những quy định cụ thể về thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Cụ thể, khi đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản được nộp lên Toà án, Thẩm phán được phân công xử lý vụ việc trong thời hạn ba ngày sẽ xem xét và
xử lý đơn về các nội dung sau:

- Nếu đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, Thẩm phán thông báo cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản về việc nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp không phải nộp lệ phí
phá sản, tạm ứng chi phí phá sản;

- Trường hợp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chưa đầy đủ, Thẩm phán sẽ thông báo cho người nộp
đơn sửa đổi, bổ sung đơn;

- Nếu thấy thẩm quyền giải quyết vụ việc thuộc Toà án khác, Thẩm phán sẽ làm thủ tục chuyển đơn lên
Toà án đó;

- Trong một số trường hợp nhất định, Thẩm phán phải trả lại đơn xin yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Thông báo việc xử lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải bằng văn bản và gửi cho người nộp đơn và
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán biết.

Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc khi có đơn yêu cầu giải quyết phá sản hợp pháp của đương sự và sau
khi nhận được biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi phí phá sản (trừ trường hợp không
phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản).

Ngoài ra, không phải trong mọi trường họp Toà án đều thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án có
quyền trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong các trường hợp pháp luật quy định, như người nộp
đơn không có thẩm quyền, không sửa đổi, bổ sung đơn theo quy định, không nộp lệ phí phá sản, tạm
ứng chi phí phá sản v.v. hoặc Toà án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều
35 Luật Phá sàn năm 2014).

2. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản

Việc mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản có vai trò quan trọng trong tiến hành vụ việc phá sản. Quyết
định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản là cơ sở pháp lý để tiến hành giải quyết phá sản một doanh
nghiệp, hợp tác xã; là căn cứ để áp dụng các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; là
căn cứ để tính thời điểm bắt đầu cho thời hạn một số hoạt động trong quá trình giải quyết yêu cầu phá
sản.
Theo pháp luật phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì các chủ nợ có quyền yêu cầu Toà án mở thủ tục phá sản đối với các doanh
nghiệp, hợp tác xã đó. Thẩm phán là người ra quyết định mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác
xã mất khả năng thanh toán (Khoản 2 Điều 9 và khoản 2 Điều 42 Luật Phá sản năm 2014).

Để đảm bảo tính khách quan, chính xác khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, Toà án có thể triệu tập
phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên
quan để xem xét, kiểm tra các căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Nếu có đầy đủ căn cứ để chứng minh rằng doanh nghiệp, hợp tác xã đã mất khả năng thanh toán, thì
Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đom yêu cầu mở
thủ tục phá sản. Quyết định mở thủ tục phá sản của Toà án phải được gửi cho người nộp đơn, doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, chủ nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan thi hành
án dân sự, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính và
đăng trên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, cổng thông tin điện tử của Toà án và 02 sô báo
địa phương liên tiếp nơi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trụ sở chính.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày người tham gia thủ tục phá sản, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp nhận được quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản, quyết định mở hoặc không mở thủ tục
phá sản của Toà án có thể bị đề nghị xem xét lại hoặc bị kháng nghị. Thẩm quyền xem xét đơn đề nghị
hay kháng nghị về quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản thuộc về Toà án cấp trên của Toà án ra
quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản.

Cùng với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết
định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản.

Sau khi mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh bình thường. Tuy nhiên, doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm thực hiện một số hoạt động như: cất
giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm
phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã
theo quy định của pháp luật; từ bỏ quyền đòi nợ; chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo
đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 48 Luật Phá sản năm
2014).

Doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi mở thủ tục phá sản đều phải chịu sự quản lý và giám sát của Thẩm
phán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản lý, giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản là việc làm cần thiết để đảm bảo các doanh
nghiệp, hợp tác xã này không tiếp tục mắc sai lầm, tạo cơ sở cho việc xây dựng thành công phương án
sản xuất, kinh doanh sau này.

3. Hội nghị chủ nợ

Mặc dù không phải là thủ tục bắt buộc trong mọi trường hợp giải quyết phá sản, song Hội nghị chủ nợ có
vai trò quyết định trong việc doanh nghiệp mắc nợ có được áp dụng thủ tục phục hồi hay không, là hình
thức pháp lý quan trọng nhất để các chủ nợ thông qua đó bảo vệ quyền lợi họp pháp của mình trong tố
tụng phá sản. Những vấn đề pháp lý của Hội nghị chủ nợ gồm:

3.1 Quyền và nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ

Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ trước hết thuộc về chủ nợ. Những chủ nợ có tên trong danh sách chủ
nợ đều được quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Họ cũng có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác để
đại diện cho mình nếu bản thân không thể trực tiếp tham gia Hội nghị chủ nợ. Với các trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và nợ lương người lao động thì những người lao động này
là chủ nợ của doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, đại diện người lao động, đại diện công đoàn được
người lao động ủy quyền sẽ tham gia Hội nghị chủ nợ. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã được người
thứ ba bảo lãnh cho các giao dịch phát sinh nghĩa vụ tài sản, thì những người bảo lãnh, sau khi đã trả nợ
thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trở thành chủ nợ không có bảo đảm của các
doanh nghiệp, hợp tác xã đó.

Tham gia Hội nghị chủ nợ là nghĩa vụ đối với chính những doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán và người nộp đom yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trường hợp không tham gia được thì phải uỷ quyền
bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ và người được uỷ quyền có quyền, nghĩa vụ như
người uỷ quyền. Trường họp người đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán cố ý
vắng mặt không có lý do chính đáng thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có văn bản
đề nghị Toà án xử lý theo quy định của pháp luật.

3.1 Nội dung và thể thức hoạt động của Hội nghị chủ nợ

Để Hội nghị chủ nợ được tiến hành, cần số lượng chủ nợ tham dự chiếm ít nhất 51% tổng số nợ không
có bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mẩt khả năng thanh toán. Chủ nợ không có bảo đảm là
những người yếu thế nhất trong các chủ nợ, khoản nợ của họ nằm cuối trong thứ tự ưu tiên thanh toán
các khoản nợ và không được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Do vậy, chủ nợ không
có bảo đảm phải là thành phần không thể thiếu của Hội nghị chủ nợ. Pháp luật phá sản luôn có qua định
về tỉ lệ chủ nợ không có đảm bảo tham gia Hội nghị chủ nợ. Theo pháp luật phá sản hiện hành, nếu số
lượng chủ nợ chiếm ít hơn 51% tổng số nợ không có bảo đảm tham dự, thì Hội nghị chủ nợ bị hoãn vì
không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc hoãn Hội nghị chủ nợ phải được thông báo đến
những người tham gia thủ tục phá sản. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hoãn Hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất, Thẩm phán phải triệu tập lại Hội nghị chủ nợ. Việc triệu tập Hội nghị chủ nợ lần thứ hai mà vẫn
không đủ điều kiện như điều kiện áp dụng cho việc triệu tập Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thì Thẩm phán
lập biên bản và quyết định tuyên bố phá sản.

Khác với quy định của Luật Phá sản năm 2004, điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ theo Luật Phá sản
năm 2014 chỉ căn cứ trên số nợ. số chủ nợ tham gia hội nghị không phải là điều kiện để coi Hội nghị chủ
nợ có hợp lệ hay không. Điều này có nghĩa là Hội nghị chủ nợ có thể họp lệ khi chỉ cần một chủ nợ tham
gia mà đại diện cho ít nhất 51% số nợ không có bảo đảm.

Việc tham gia Hội nghị chủ nợ thể hiện thiện chí của cả hai bên trong việc tìm ra giải pháp để khắc phục
tình hạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, nếu những người có quyền
lợi không tham gia Hội nghị chủ nợ thì có thể hiểu là họ không có thiện chí tìm ra cách thức cải thiện tình
trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán hoặc không tin tưởng vào khả năng phục
hồi của các doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trong trường hợp này, việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã ngay là phù hợp, nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc của các bên liên quan.
Cùng với việc quy định thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ, pháp luật phá sản có những quy định về
nội dung của Hội nghị chủ nợ (Điều 81 Luật Phá sản năm 2014). Hội nghị chủ nợ chủ yếu thảo luận, bàn
bạc và quyết nghị các nội dung được pháp luật quy định. Hội nghị chủ nợ thảo luận về các vấn đề liên
quan đến tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã đang mất khả năng thanh toán, thông qua nghị quyết
về các vấn đề đó. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không
có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.
Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các chủ nợ, và quyết định được ra
theo một trong các hướng sau:

Thứ nhất, nghị quyết Hội nghị chủ nợ có thể đưa ra kết luận đề nghị Toà án đình chỉ giải quyết yêu cầu
mở thủ tục phá sản nếu kể từ ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra quyết
định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đó không mất khả năng thanh
toán.

Thứ hai, Hội nghị chủ nợ có quyền đưa ra nghị quyết đề nghị áp dụng biện pháp phục hồi hoạt động kinh
doanh đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp này, Hội nghị chủ nợ thấy rằng doanh nghiệp, hợp
tác xã có khả năng trả được nợ nếu áp dụng các biện pháp khắc phục để cứu vãn tình trạng làm ăn thua
lỗ và mất khả năng thanh toán.

Thứ ba, Hội nghị chủ nợ có thể ra nghị quyết đề nghị Toà án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản
nếu thấy không còn khả năng cứu vãn, kể cả trường hợp có áp dụng các biện pháp phục hồi hoạt động
kinh doanh.

Pháp luật phá sản đề ra cơ chế đề nghị, kiến nghị xem xét lại và giải quyết đề nghị, kiến nghị xem xét lại
nghị quyết của Hội nghị chủ nợ. Theo đó, trường hợp không đồng ý với nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, người có
quyền, nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ có quyền gửi đơn đề nghị, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có
quyền kiến nghị với Chánh án Toà án nhân dân đang giải quyết phá sản xem xét lại nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, kiến nghị, Chánh án
Toà án nhân dân đang giải quyết phá sản xem xét và ra một trong các quyết định không chấp nhận đề
nghị, kiến nghị hoặc tổ chức lại Hội nghị chủ nợ. Quyết định giải quyết đề nghị, kiến nghị xem xét lại nghị
quyết của Hội nghị chủ nợ là quyết định cuối cùng (Điều 85 Luật Phá sản năm 2014).

4. Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn

Phục hồi hoạt động kinh doanh là nội dung thể hiện quan điểm tiến bộ, tính nhân đạo của pháp luật phá
sản hiện đại đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Việc áp dụng thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
những cơ hội và điều kiện để tổ chức lại hoạt động kinh doanh, giúp doanh nghiệp có thể thoát khỏi bờ
vực của phá sản.

Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 chưa chú trọng đến vấn đề phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, chưa có những quy định cụ thể về thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh như điều kiện, nội dung, thời hạn thực hiện phương án phục hồi kinh doanh...
Khắc phục nhược điểm này, Luật Phá sản năm 2004 và Luật Phá sản năm 2014 đã đề cao vai trò của các
chế định liên quan đến phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Đặc
biệt, Luật Phá sản năm 2014 đã tiến thêm một bước nữa khi quyết định tách riêng thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh thành một chương riêng với những quy định khá chi tiết. Hoạt động phục hồi kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán bao gồm những giai đoạn sau:

4.1 Xây dựng và thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là chủ thể nắm rõ các hoạt động kinh doanh của
mình nhất nên pháp luật phá sản yêu càu họ phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
để những người có trách nhiệm xem xét trước khi trình lên để Hội nghị chủ nợ thông qua. Hội nghị chủ
nợ là chủ thể thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh vì phương án này ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của các chủ nợ.

Theo trình tự mà Luật Phá sản quy định, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua
nghị quyết có nội dung áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và gửi cho Thẩm phán,
chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản cho ý kiến.

Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản gửi ý kiến cho
doanh nghiệp, hợp tác xã để hoàn thiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Ngay sau khi nhận
được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh đã được doanh nghiệp, hợp tác xã bổ sung hoàn thiện,
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ báo cáo Thẩm phán. Trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản, Thẩm phán xem xét trước khi đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét thông
qua.

Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh khi được quá nửa
tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên
biểu quyết tán thành và có hiệu lực ràng buộc đoi với tẩt cả các chủ nợ. Trường hợp phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì phải quy định rõ thời gian sử dụng tài sản có bảo
đảm, phương án xử lý tài sản bảo đảm và phải được chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản đó đồng ý. Trường
hợp không tổ chức lại được Hội nghị chủ nợ hoặc Hội nghị chủ nợ không thông qua được nghị quyết về
việc thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì Toà án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
phá sản.

Sau khi phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được Hội nghị chủ nợ
thông qua, theo quy trình, Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ để
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh đó đi vào triển khai trong thực tế. Nghị quyết này, khi được
thông qua và công nhận, sẽ có hiệu lực đối với tất cả người tham gia thủ tục phá sản có liên quan.

4.2 Nội dung phương án phục hồi hoạt đông kinh doanh

Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải
nêu rõ các biện pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán
các khoản nợ. Các biện pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm: huy động vốn; giảm nợ, miễn nợ,
hoãn nợ; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản
lý, sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất; bán cổ phần cho chủ nợ và những người khác; bán hoặc
cho thuê tài sản và các biện pháp khác không trái quy định của pháp luật.
Thời hạn để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thực hiện theo nghị quyết của Hội
nghị, chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Và trong trường hợp nghị quyết của
Hội nghị chủ nợ không xác định thời hạn thì thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh là không quá 03 năm kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh.

4.3 Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh

Trong giai đoạn tiến hành các hoạt động phục hồi sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã chịu sự
giám sát của những người có trách nhiệm liên quan bao gồm Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản và chủ nợ của chính họ. Điều này là cần thiết và để đảm bảo các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch
phục hồi hoạt động kinh doanh được thực hiện hiệu quả, và doanh nghiệp, hợp tác xã không thể tùy tiện
thực hiện các hoạt động kinh doanh theo ý muốn chủ quan của mình. Ngoài ra, pháp luật phá sản còn
quy định, sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải lập báo cáo về tình hình thực hiện phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và
họ có trách nhiệm báo cáo Thẩm phán và thông báo cho chủ nợ (Khoản 2 Điều 93 Luật Phá sản năm
2014). Điều này là cần thiết nhằm giúp các chủ nợ có thể theo dõi được quá trình thực hiện và triển khai
kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ.

4.4 Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

Phục hồi hoạt động kinh doanh là một hoạt động được doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện trong thời
gian không quá ba năm với mục đích đưa doanh nghiệp, hợp tác xã thoát khỏi tình trạng mất khả năng
thanh toán. Kêt quả của quá trình này là doanh nghiệp, hợp tác xã có thể phục hồi thành công hoặc thất
bại. Dù thành công hay thất bại, việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã cũng sẽ được thực hiện. Thẻo quy định của pháp luật, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nếu thuộc
một trong các trường hợp: doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh; doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn
mất khả năng thanh toán (Điều 95 Luật Phá sản năm 2014).

5. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản

5.1 Các trường hợp Toà án tuyên bố phá sản

Theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản trong các trường họp sau đây:

Thứ nhất, trường hợp tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản khi Hội nghị chủ nợ không thành.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả họp Hội nghị chủ nợ, Toà án nhân dân ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong các trường hợp: (i) Triệu tập Hội nghị chủ
nợ lần hai mà vẫn không đủ số chủ nợ tham gia đại diện cho ít nhất 51% tổng số nợ không có bảo đảm,
thì Toà án có thể ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; (ii) Hội nghị chủ nợ không
thông qua được nghị quyết vì không có đủ quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện
cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành; (iii) không tổ chức lại được Hội
nghị chủ nợ hoặc Hội nghị chủ nợ không thông qua được nghị quyết trong đó quyết định phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Thứ hai, trường hợp tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có nghị quyết Hội nghị chủ nợ.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được nghị quyết của Hội nghị chủ nợ đề nghị tuyên bố phá sản
thì Toà án nhân dân xem xét quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

Ngoài ra, sau khi Hội nghị chủ nợ thông qua nghị quyết có nội dung áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh, Toà án nhân dân quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong các trường
họp: (i) doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua nghị quyết có nội dung áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh; (ii) Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã; (iii) doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh.

Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản phải có các nội dung theo quy định của pháp luật
(Điều 108 Luật Phá sản năm 2014) và có hiệu lực thi hành từ ngày ra quyết định.

5.2 Đề nghị xem xét lại, kháng nghị và giải quyết đơn đề nghị, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản

Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, các chủ nợ, người nộp đơn có quyền đề nghị xem
xét lại quyết định phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Toà án. Quyền kháng nghị quyết định tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc về Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp với Toà án ra quyết định
tuyên bố phá sản. Thời hạn đề nghị xem xét lại, kháng nghị là 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị xem xét lại, kháng nghị, Toà án đã ra quyết định tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản phải gửi hồ sơ vụ việc phá sản kèm theo đơn đề nghị, kháng nghị cho
Toà án cấp trên trực tiếp để xem xét, giải quyết.

Sau khi nhận được hồ sơ về phá sản kèm theo đơn đề nghị, kháng nghị, Toà án nhân dân cấp trên trực
tiếp chỉ định một tổ gồm 03 Thẩm phán xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ việc phá sản kèm theo đơn đề nghị, kháng nghị, Tổ Thẩm phán phải tổ chức phiên họp và
ra một trong các quyết định: (i) Không chấp nhận đơn đề nghị, kháng nghị và giữ nguyên quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; (ii) sửa quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá
sản; (iii) huỷ quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản và giao hồ sơ cho Toà án nhân dân
cấp dưới có thẩm quyền giải quyết lại (Điều 112 Luật Phá sản năm 2014).

Trước đây, Điều 92 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị của
Toà án cẩp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định Tuy
nhiên, trong thực tiễn giải quyết có những quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản của Toà án cấp trên trực tiếp có thể -mắc phải sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc có tình tiết mới. Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân, đồng thời không làm mất lòng tin của người dân và xã hội vào hoạt động của
Toà án, Luật Phá sản năm 2014 đã quy định về việc xem xét đơn đề nghị, kháng nghị theo thủ tục đặc
biệt (Điều 113 Luật Phá sản năm 2014). Theo đó, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án nhân dân cấp
trên trực tiếp ra quyết định giải quyết đề nghị, kiến nghị mà có đơn đề nghị xem xét lại của người tham
gia thủ tục phá sản, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kiến nghị của Toà án nhân dân thì
Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó khi có một trong các căn cứ như: (i) Có vi
phạm nghiêm trọng pháp luật về phá sản; hoặc (ii) phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung quyết định tuyên bố phá sản mà Toà án nhân dân, người tham gia thủ tục phá sản không thể biết
được khi Toà án nhân dân ra quyết định.

Khi có một trong các căn cứ nêu trên, Toà án nhân dân tôi cao sẽ xem xét giải quyết và trong thời hạn 30
ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị, kiến nghị, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có quyền ra một
trong các quyết định sau:

- Không chấp nhận đề nghị xem xét lại, kiến nghị và giữ nguyên quyết định của Toà án nhân dân cấp
dưới;

- Huỷ quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản của Toà án nhân dân cấp dưới, quyết định
giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị của Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp và giao hồ sơ về phá sản
cho Toà án nhân dân cấp dưới giải quyết lại.

Quyết định giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối
cùng và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

6. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

6.1 Xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

Xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc xử lý tài sản. Đây là một trong những căn cứ để xác định một doanh nghiệp,
hợp tác xã liệu đã bị mất khả năng thanh toán nợ hay chua. Mặt khác, nó chi phối việc lựa chọn thủ tục
tố tụng trong quá trình giải quyết phá sản và áp dụng hàng loạt các biện pháp bảo toàn tài sản có ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Luật Phá sản ở hầu hết
các nước có nền kinh tế phát triển đều đưa ra khái niệm tài sản phá sản nhằm xác định khối tài sản của
con nợ đang bị giải quyết phá sản. 0 Việt Nam, Luật Phá sản năm 2014 không có điều luật quy định riêng
về khái niệm tài sản phá sản mà chỉ quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán tại Điều 64 Luật Phá sản năm 2014, theo đó:

- Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán gồm: Tài sản và quyền tài sản mà doanh
nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm Toà án nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản; tài sản và quyền tài
sản có được sau ngày Toà án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản; giá trị của tài sản bảo đảm
vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm;
giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp luật về
đất đai; tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; tài sản và quyền
tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu; các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

- Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng thanh toán gồm: Các loại tài sản
thông thường theo quy định (Điều 64 Luật Phá sản năm 2014); tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh; trường hợp chủ doanh nghiệp tư
nhân, thành viên hợp danh có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư
nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định của pháp
luật có liên quan.
- Trường hợp hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì việc xử lý tài sản không chia được thực hiện theo quy
định của pháp luật về hợp tác xã.

So với Luật Phá sản năm 2004, quy định của Luật Phá sản năm 2014 đã mở rộng thêm một số đối tượng
là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán như: Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu,
tẩu tán tài sản hay tài sản và quyền tài sản cổ được sau ngày Toà án nhân dân ra quyết định mở thủ tục
phá sản. Quy định thêm như vậy đã dự liệu và bao quát được rộng hơn các loại tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã. Phương pháp liệt kê các loại hình tài sản như trên có ưu điểm là giúp các cơ quan tố
tụng cũng như các bên liên quan đánh giá được cụ thể về tình hình tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
nhưng khó có thể bao hàm hết toàn bộ khối tài sản, gây khó khăn cho việc tính toán, kiểm soát, phân
chia số tài sản này.

6.2 Thủ tục thi hành quyết định tuyên bổ phá sản

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự
có hách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân công Chấp hành viên thi hành quyết định tuyên bố
phá sản.

Sau khi nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên
thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Mở một tài khoản tại ngân hàng đóng tên cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết
định tuyên bố phá sản để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản;

- Giám sát Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện thanh lý tài sản;

- Thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được tài sản trong vụ việc phá sản
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự;

- Sau khi nhận được báo cáo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về kết quả thanh
lý tài sản, Chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản.

Về thứ tự phân chia tài sản: Tương tự Luật Phá sản năm 2004, Luật Phá sản năm 2014 cũng tách riêng
quy định về xử lý các khoản nợ có bảo đảm và các khoản nợ này được xử lý trước khi doanh nghiệp, hợp
tác xã bị tuyên bố phá sản (trừ trường hợp tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ cho các khoản nợ có bảo
đảm). Đối với các khoản nợ không có bảo đảm, việc thanh toán chỉ được thực hiện khi Thẩm phán ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, theo thứ tự: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ
lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp
đồng lao động và thoả ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá
sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; (iv) Nghĩa vụ tài chính
đối với nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có
bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ (Điều 54 Luật Phá sản
năm 2014).

Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định
nêu trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc chủ sở hữu của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán
theo tỉ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.

17. Phân loại phá sản


Phá sản doanh nghiệp là gì?

Điều 2 Luật Phá sản quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn“.

Phân loại phá sản


a) Trên cơ sở nguyên nhân gây ra phá sản có phá sản trung thực và phá sản gian trá
– Phá sản trung thực là gì?
Phá sản trung thực là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên nhân khách quan hay
những rủi ro bất khả kháng gây ra. Phá sản trung thực cũng có thể từ những nguyên nhân chủ quan
nhưng không phải do sự chủ ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Ví dụ: như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động; sự thiếu khả năng thích ứng với những
biến động trên thương trường…
– Phá sản gian trá là gì?
Phá sản gian trá là hậu quả của những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của
người khác.
Ví dụ: có hành vi gian lận trong khi ký hợp đồng, tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo sai… để qua đó tạo ra lý
do phá sản không đúng sự thật.
b) Trên cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý có phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc: Cụ thể là dựa trên
căn cứ ai là người làm đơn yêu cầu phá sản
– Phá sản tự nguyện là gì?
Phá sản tự nguyện là do phía doanh nghiệp mắc nợ tự làm đơn yêu cầu phá sản khi thấy mình mất khả
năng thanh toán, không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ.
– Phá sản bắt buộc là gì?
Phá sản bắt buộc là do phía các chủ nợ làm đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp mắc nợ nhằm thu hồi các
khoản nợ từ doanh nghiệp mắc nợ.
c) Dựa vào đối tượng bị giải quyết phá sản
Gồm phá sản cá nhân và phá sản pháp nhân. Tuỳ theo pháp luật ở mỗi nước mà đối tượng bị giải quyết
phá sản có quy định khác nhau. Ở nước ta áp dụng cho doanh nghiệp và HTX. Trung Quốc: áp dụng với
thành phần kinh tế quốc doanh. Úc: áp dụng với cả cá nhân.
– Phá sản cá nhân là gì?
Phá sản cá nhân: theo quy định này cá nhân bị phá sản phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản
nợ.
– Phá sản pháp nhân là gì?
Phá sản pháp nhân: đó là phá sản một tổ chức, tổ chức này phải gánh chịu hậu quả của việc phá sản.
việc trả nợ cho chủ nợ của pháp nhân dựa trên tài sản của pháp nhân.

18. Hành vi thương mại


Đặc điểm của hành vi thương mại
Thứ nhất, hành vi thương mại khác hành vi dân sự về thời điểm xuất hiện và về tỉnh ổn định.

Xét về mặt lịch sử, hành vi dân sự ra đời từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, từ khi con người tạo
ra những sản phẩm dư thừa và có nhu câu ữao đổi lấy những sản phẩm khác loại của người khác với
mục đích thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của mình. Còn hành vi thương mại xuất hiện muộn
hơn, khi sự phân công lao động trong xã hội đạt đến trình độ nhất định, trong xã hội xuất hiện tầng lớp
chuyên mua đi bán lại các sản phẩm, hàng hoá với mục đích kiếm lời thì thương mại mới ra đời.

Cũng dưới góc độ lịch sử, có thể nói, các quan hệ dân sự mang tính ổn định và bền vững cao hơn các
quan hệ thương mại. Đặc biệt, các quan hệ này ít chịu tác động hơn của các biến động bên ngoài về
chính trị, xã hội so với các quan hệ thương mại. Chính vì vậy, có thể nói, hành vi thương mại hay thay
đổi, ít bền vững hơn hành vi dân sự. Lịch sử đã cho thấy nhiều cách thức xử sự, nhiều nguyên tắc chung
của các chế định về sở hữu, thừa kế, hôn nhân, khế ước v.v. đã xuất hiện từ thời khởi thủy của luật dân
sự, đến nay vẫn còn được chấp nhận. Trong khi đó, quan hệ thương mại chịu sự ảnh hưởng của thực tế
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nhiều hơn, do đó, cách thức xử sự của các chủ thể thương mại thường
phải thay đổi cho phù hợp với những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Có thể lấy những sự thay đổi
trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế ở nước ta trong thời kì kế hoạch hoá tập trung và
trong thời kì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay ở nước ta làm ví dụ minh chứng cho điều đó.

Qua nghiên cứu lịch sừ ra đời và phát triển của quá trình trao đổi hàng hoá, có thể khẳng định hành vi
dân sự ra đời sớm hơn và ổn định hơn hành vi thương mại.

Thứ hai, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lợi.

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005:

“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi... ”.

Theo PGS.TS. Đỗ Đình Toàn thì:

“Thương mại phải gắn với thị trường, thị trường và thương mại đi liền với nhau như hình với bóng''.

Sở dĩ thương mại phải được diễn ra trên thị trường là vì mua bán là khâu quan trọng nhất, là thành tố
của hành vi thương mại. Nói đến thương mại không thể không nói đến thành tố này. Còn các yếu tố khác
(sản xuất và dịch vụ) phải kết hợp với khâu muạ bán mới có thể coi là thực hiện xong một hành vi
thương mại.

Là hành vi diễn ra trên thị trường, hành vi thương mại phải tuân theo các quy luật của thị trường, trong
đó phải kể đến các quy luật như: Quy luật cạnh tranh, quy luật tăng lợi nhuận, quy luật kých thích sức
mua giả tạo, quy luật cung cầu... và các quy luật riêng trong thương mại như quy luật của người mua,
quy luật về ý chí tiến thủ của chủ doanh nghiệp. Dưới sự tác động của các quy luật đó, các hành vi
thương mại có những nét đặc thù so với các hành vi dân sự.

Chẳng hạn, dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp thường phải vươn lên giành
giật lây toàn bộ hoặc một phần nào đấy của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển, để làm
được điều đó, ngoài việc tiến hành các hành vi thương mại, các chủ thể thương mại có thể thực hiện các
mưu kế trong thương mại nhằm buộc đối thủ cạnh tranh của mình nhất định phải hành động theo đúng
dự định do mình đặt ra. Điều này hầu như không được biết đến khi thực hiện các hành vi dân sự. Hoặc
dưới tác động của quy luật của người mua, các chủ thể thương mại sẽ phải bán ra cái mà thị trường cần
chứ không phải bán ra cái mình đang có, phải có trách nhiệm với khách hàng cả sau khi hàng đã bán và
phải đảm bảo chữ “tín” trong thương mại để phát triển lâu dài sự nghiệp thương mại của mình. Đây là
điều ít thấy khi thực hiện hành vi dân sự tương tự, nơi việc mua bán thường được thực hiện theo
phương thức “mua đứt, bán đoạn”.

Theo quy định của pháp luật, hành vi thương mại không chỉ là hành vi diễn ra trên thị trường mà còn là
hành vi nhằm mục đích sinh lợi.

Đây là đặc điểm mà dựa vào đó để phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự. Nếu một hành vi
được thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng (thoả mãn các nhu cầu cá nhân) thì đó là hành vi dân sự;
ngược lại, cũng hành vi đó nhưng được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi thì đó là hành vi thương mại.
Tiêu chí này được sử dụng khá phổ biến để phân biệt hành vi dân sự và hành vi thương mại.

Không dừng lại ở đó, từ chỗ khác nhau về mục đích này, có thể phái sinh nhũng sự khác nhau khác giữa
hành vi dân sự và hành vi thương mại về các yếu tố cấu thành nên các hành vi đó, về khách thể mà các
hành vi đó hướng tới, thậm chí cả yếu tố tâm lý của các chủ thể thực hiện hành vi ... Chẳng hạn, xuất
phát từ mục đích lợi nhuận, hành vi thương mại bắt buộc phải có hai yếu tố cấu thành quan trọng nhất
đó là mua và bán, có nghĩa để được coi là hành vi thương mại hoàn chỉnh, chủ thể thương mại trước hết
phải mua hàng hoá sau đó phải bán hàng hoá đó đi, có như vậy, mới nói đến vấn đề lợi nhuận. Điều đó
khác với hành vi dân sự, trong đó chỉ thuần túy mua hoặc bán. Ví dụ khác, người nào đó có thể mua nhà
để ở, thương nhân có thể mua nhà để kinh doanh. Ở đây, khách thể của hai hành vi trên đều là ngôi nhà
nhưng sự quan tâm của hai chủ thể đó đối với ngôi nhà lại khác nhau. Đối với người mua nhà để ở, sự
quan tâm của nó chủ yếu tập trung vào thuộc tính thứ nhất của ngôi nhà, đó là giá trị sử dụng. Còn đối
với người mua để bán lại quan tâm nhiều hơn đến thuộc tính thứ hai của ngôi nhà, đó là giá trị.

Như vậy, thương mại - hành vi được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lợi là đặc điểm
quan trọng, mang tính khách quan cùa hành vi thương mại trong mối quan hệ với hành vi dân sự nói
chung.

Thứ ba, hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân (tồ chức, cả nhân
kinh doanh) thực hiện.

Thương mại là hành vi mang tính nghề nghiệp có nghĩa là chủ thể của hành vi khi tham gia thương
trường thực hiện sự phân công lao động xã hội. Các hành vi này được chủ thể tiến hành thường xuyên,
liên tục, thể hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại thu nhập chính cho chủ thể thực hiện hành vi. Dựa
vào nét đặc thù này, dễ dàng nhận thấy rằng mặc dù trên thương trường có thể diễn ra những hành vi
nhằm mục đích sinh lợi nhưng chúng không thể được coi là hành vi thương mại, bởi lẽ đó không phải là
hành vi thường xuyên của người thực hiện hành vi, hơn nữa, hành vi đó không mang lại thu nhập chính
cho người đó. Ví dụ, nhân chuyến đi công tác, một viên chức mua số lượng hàng hoá nhất định nào đó ở
nơi công tác về để bán kiếm lời.

Liên quan đến đặc điểm này của hành vi thương mại, đặc thù về chủ thể thực hiện hành vĩ thương mại
cũng có một ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hành vi dân sự với hành vi thương mại. Như trên đã
phân tích, chủ thể thương mại trước hết là chủ thể hành vi dân sự (pháp nhân, cá nhân), các chủ thể này
phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nhưng điều đó không có nghĩa tất cả các
chủ thể của hành vi dân sự đều là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Xuất phát từ tính chất của hành
vi thương mại, chỉ có những chủ thể nào hội đủ những điều kiện nhất định mới là thương nhân. Những
điều kiện để frở thành chủ thể thương nhân phải được pháp luật quy định cụ thể. Tuy pháp luật chưa
quy định cụ thể, nhưng những điều kiện đó có thể hiểu là phải có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng nào
đó về các yếu tố cần có của quá trình thực hiện hành vi thương mại (vốn, tài sản, sức lao động ...); trong
khuôn khổ của pháp luật, phải được tự do và chủ động tiến hành các hành vi thương mại và phải tự chịu
trách nhiệm về kết quả cuối cùng của quá trình đó. Chính những điều kiện riêng này tạo nên đặc thù của
thương nhân.

Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, phải dựa vào điểm đặc thù này để xác định trở lại giao dịch nào là
giao dịch dân sự, giao dịch nào là giao dịch thương mại. Bởi vì, ở nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực trao
đổi hàng hoá và cung ứng dịch vụ, một bên có mục đích lợi nhuận còn bên kia lại có mục đích tiêu dùng,
một bên sẽ có hành vi thương mại còn bên kia sẽ có hành vi dân sự. Trong những trường hợp cụ thể như
vậy, Nhà nước còn phải dựa vào đặc thù về chủ thể để xác định tính chất của giao dịch. Chẳng hạn, khi
xác định tính chất thương mại của các giao dịch, Bộ luật Thương mại Cộng hoà Liên bang Đức dựa trên
dấu hiệu chủ quan, đã quy định, giao dịch thuơng mại là giao dịch được các thương gia thực hiện.

Mặc dù là tiêu chí chủ quan nhưng nó cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phân biệt giữa Luật
Thương mại và Luật Dân sự. Ở đây, trong các trường hợp cụ thể đòi hỏi các nhà làm luật phải có những
quy định rõ ràng để xác định phạm vi điêu chỉnh của pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Có như
vậy mới điều chỉnh bằng pháp luật một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội.

Cũng cần lưu ý rằng, xuất phát từ bản chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cũng như xuất phát từ vai trò của hành vi thương mại trong nền kinh tế, Nhà nước tác
động ở mức độ cao hơn vào các hành vi thương mại so với các hành vi dân sự. Nhà nước tác động vào
hành vi thương mại thông qua các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô cũng như hệ
thống pháp luật của mình. Thông qua hệ thống quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, Nhà nước định
hướng cho sự phát triển của các hành vi thương mại còn thông qua hệ thống pháp luật Nhà nước sẽ xác
định rõ tính chất của hành vi thương mại, những hành vi thương mại bị cấm hoặc những hành vi thương
mại có điều kiện và thủ tục pháp lý để một hành vi thương mại được coi là hợp pháp ... Chẳng hạn, để
thực hiện hành vi thương mại, chủ thể phải tiến hành đăng ký kinh doanh (nay gọi là đăng ký doanh
nghiệp) hoặc hành vi sản xuất, trao đổi hàng hoá nào đó trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, chỉ
được coi là hành vi thương mại nếu hành vi đó không bị pháp luật cấm.

Ngoài ra, sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại còn được thể hiện ở chỗ khi thực hiện các
hành vi thương mại, Nhà nước buộc các chủ thể phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Ví dụ, về
nguyên tắc, bất cứ chủ thể nào khi thực hiện hành vi thương mại cũng phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế,
nghĩa vụ bảo vệ môi trường, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh ...

Chính sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại đã tạo nên sự khác biệt nhất định giữa hành vi
dân sự và hành vi thương mại.

Tóm lại, giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại có những sự tương đồng và khác biệt. Chính trên cơ
sở sự tương đồng, khác biệt đó có thể nhìn nhận một cách khái quát mối quan hệ giữa hành vi dân sự và
hành vi thương mại là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó hành vi dân sự là cái chung và
hành vi thương mại là cái riêng. Với tư cách cái chung và cái riêng, hành vi dân sự và hành vi thương mại
đều tồn tại khách quan và độc lập tương đối với nhau; những thuộc tính vốn có của các hành vi dân sự
được biểu hiện cụ thể trong các hành vi thương mại đồng thời trong hành vi thương mại cũng có những
nét đặc thù riêng của nó.
19. Khái niệm thương nhân
Đặc điểm thương nhân
Thứ nhất, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại
Thương nhân và hành vi thương mại có mối quan hệ logic với nhau. Điều đó được thể hiện
ngay chính trong Luật Thương mại năm 1997. Khoản 1 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 quy
định:
“Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại...”
Trong khi đó, khoản 6 Điều 5 cũng trong Luật này lại quy định:
“Thương nhân gồm... có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại...”
hoặc khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005:
“Thương nhân bao gồm tổ chức... cá nhân hoạt động thương mại...”.
Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem chủ thể có phải là
thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hành vi thương mại hay không.
Thực hiện hành vi thương mại là một đặc điểm không thể tách rời tư cách thương nhân, đây là
tiêu chí quan trọng để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương nhân.
Pháp luật của các nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu “thực hiện hành vi thương mại” làm tiêu
chí để xác định khái niệm thương nhân (Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, 2005; Điều 121-
1 Bộ luật Thương mại Cồng hoà Pháp). Tuy nhiên, tuỳ thuộc quan niệm theo nghĩa rộng hay
hẹp mà việc xác định số lượng chủ thể được coi là thương nhân ở mỗi nước có khác nhau.
Thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chinh mình và vì lợi
ích của bản thân mình
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định, thương nhân phải hoạt động
thương mại một cách độc lập. Điêu 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định,
thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của
bản thân mình.
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang
danh nghĩá chính mình và vì lợi ích bản thân mình là dấu hiệu cần thiết để xác định chủ thể
tham gia vào các hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không.
Trong hoạt động thương mại thường có nhiều người tham gia như người làm công ăn lương,
các nhân viên quản lý điều hành. Do đó, cần phải dựa vào tính độc lập trong thực hiện hành vi
của chủ thể để xác định chủ thể có tư cách thương nhân. Thực hiện hành vi thướng mại độc
lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình được hiểu là thương nhân
thực hiện hành vi thương mại một cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân và tự
chịu trách nhiệm về việc thực hiện hành vi thương mại đó. Khi thực hiện hành vi thương mại,
thương nhân không bị chi phối bởi ý chí của chủ thể khác mà được hoạch định bởi ý chí của
chính thương nhân. Việc nhân danh của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh
của chủ thể. Bởi vậy, nếu thiếu điều kiện trên thì chủ thể không có tư cách thương nhân.
Ví dụ: người làm công ăn lương, người quản lý do chủ doanh nghiệp thuê, người quản lý một
chi nhánh hoặc một cửa hàng thương mại ... đều không phải là thương nhân.
Thứ ba, thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên
Hoạt động thương mại thường xuyên là một trong các dấu hiệu pháp lý không thể thiếu để xác
định tư cách thương nhân. Một chủ thể thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập, tự
thân, nhân danh chính mình nhưng hành vi thương mại đó không diễn ra một cách thường
xuyên, liên tục thì không thể là thương nhân. Điều đó được phản ánh khá rõ nét trong pháp luật
thương mại của các nước.
Ví dụ: Theo khoản 1 Điêu 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Thương nhân...
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên...hoặc khoản 1 Điều 121-1 Bộ luật Thương
mại Cộng hoà Pháp quy định, chủ thể chỉ có tư cách thương nhân nếu thực hiện hành vi
thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên.
Như vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính nghề nghiệp và tính
thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở thành thương nhân thì các chủ thể phải
thường xuyên thực hiện những hành vi thương mại, điều đó có nghĩa là chủ thể thực hiện
những hành vi thương mại một cách thực tế, lặp đi, lặp lại, kế tiếp mang tính nghề nghiệp. Các
chủ thể thực hiện hành vi thương mại một cách riêng lẻ sẽ không có tư cách thương nhân. Ví
dụ, một người thỉnh thoảng mua chứng khoán, mặc dù với mục đích là để tìm kiếm lợi nhuận
nhưng không mang lại cho người đó tư cách thương nhân. Hoặc, một hộ gia đình có nhà ở
không dùng hết cho một nhóm giáo viên thuê để luyện thi đại học trong một mùa hè thì không
trở thành thương nhân. Song nếu hộ gia đình đó xây nhà để cho các doanh nghiệp thuê một
cách liên tục thì có thể trở thành thương nhân.
Bên cạnh tính thường xuyên của hoạt động thương mại, khi xác định tư cách thương nhân
cũng cần quan tâm đến tính nghề nghiệp. Mặc dù, trong tính thường xuyên đã hàm chứa
những nội dung của tính nghề nghiệp:
“Mỗi nghề nghiệp chỉ nhằm vào một loại hoạt động nào đó, làm một nghề nghiệp là hằng ngày thực hiện
những hành vi thuộc loại hoạt động ấy, như bác sĩ ngày nào cũng khám bệnh kê đơn, nhà buôn lúc nào
cũng tiếp xúc với khách hàng, mua bán".
Như vậy, hoạt động thương mại mang tính chất nghề nghiệp của thương nhân phải được hiểu
là những hoạt động thường xuyên, liên tục được thương nhân thực hiện nhằm tạo ra những thu
nhập chính cho thương nhân.
Trên thực tế, có một số người làm nhiều nghề khác nhau. Nếu nghề nghiệp chính của họ là
nghề thương mại thì họ có tư cách thương nhân, ngược lại nếu nghề thương mại chỉ là nghề
phụ, có nghĩa là thu nhập từ nghề thương mại chiếm tỉ lệ không đáng kể so với thu nhập từ
nghề khác thì không có tư cách thương nhân.
Thương nhân phải là người hoạt động thương mại thường xuyên, liên tục. Tính chất nghề
nghiệp không chỉ là dấu hiệu quan trọng để xác định tư cách thương nhân mà còn là yêu cầu
bắt buộc của pháp luật thuơng mại Việt Nam đối với thuơng nhân. Nếu một thương nhân không
hoạt động thương mại thường xuyên, liên tục thì có thể bị pháp luật buộc chấm dứt thương
nhân thông qua hình thức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giải thể.
Thứ tư, thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại
Năng lực hành vi là khả năng của tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của chính bản thân
mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tổ chức, cá nhân có năng lực
hành vi sẽ được tham gia với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, bằng hành vi của mình
có thể độc lập xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách
nhiệm về những hành vi của mình.
Năng lực hành vi trong lĩnh vực thương mại là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng những
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thương mại. Điều 17 Luật
Thương mại năm 1997 quy định:
“Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có
đủ điều kiện kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mạỉ
thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cẩp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương
nhăn”.
Để bảo vệ lợi ích xã hội, pháp luật thương mại Việt Nam quy định một số người không được
công nhận là thương nhân. Điều 18 Luật Thương mại năm 1997 quy định người không có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự không thể là thương nhân. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng giống như
người chưa thành niên đều không thể trở thành thương nhân vi họ không có khả năng nhận
thức đầy đủ về hành vi của mình cũng như không có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý
phát sinh từ các giao dịch của họ, vì vậy để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà
nước và xã hội, cũng như lợi ích của chính họ, pháp luật không công nhận họ là thương nhân.
Thứ năm, thương nhân phải có đăng ký kinh doanh
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Thương nhân gồm... và có đăng ký kinh doanh”.
Như vậy, đăng ký kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc điểm của thương
nhân vừa có thể coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành
thương nhân.
Thực chất, đăng ký kinh doanh (đăng ký doanh nghiệp) là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của thương nhân. Đăng ký kinh doanh
có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý cũng như về mặt thông tin:
- Về mặt pháp lý, đăng ký kinh doanh là sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về sự ra đời của thương nhân, kể từ thời điểm được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, tư cách thương nhân được xác lập và thương nhân có quyền tiến
hành các hoạt động thương mại;
- Về mặt thông tin, khi đăng ký kinh doanh, những thông tin chủ yếu về thương nhân (tên
thương mại, trụ sở, mục tiêu ngành nghề kinh doanh...) được ghi nhận vào sổ đăng ký kinh
doanh và
như vậy một người nào đó muốn có thông tin về một thương nhân cụ thể thì chỉ cần đến cơ
quan có thẩm quyền cũng có được những thông tin cần thiết.
Đăng ký kinh doanh được thực hiện theo trình tự pháp luật quy định, áp dụng thống nhất trong
cả nước. Tuy nhiên, hiện nay do thương nhân còn tồn tại dưới nhiều hình thức doanh nghiệp
khác nhau, cho nên việc đăng ký kinh doanh được thực hiện trên cơ sở những văn bản pháp
luật khác nhau.
Tổ chức, cá nhân được yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh hướng dẫn về thủ tục, nội dung
đăng ký doanh nghiệp, cấp bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận
thay đổi đăng ký doanh nghiệp... và phải trả phí theo quy định của pháp luật.

Chế độ trách nhiệm tài sản của thương nhân


Trách nhiệm tài sản của thương nhân
Nguyên tắc chung là thương nhân phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của mình; bằng
toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của thương nhân. Có hai loại trách nhiệm tài sản trong kinh doanh là trách
nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn.
Trách nhiệm hữu hạn là loại trách nhiệm tài sản được giới hạn bởi phạm vi vốn đầu tư vào hoạt động
kinh doanh.
Trách nhiệm vô hạn là loại trách nhiệm tài sản không được giới hạn bởi phạm vi vốn đầu tư vào hoạt
động kinh doanh.
Trách nhiệm tài sản vô hạn của thương nhân
Đối với thương nhân là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân; vốn kinh doanh thuộc sở hữu của
thương nhân bao gồm vốn điều lệ , vốn vay, một số loại vốn và tài sản khác. Thương nhân phải sử dụng
toàn bộ tài sản này để chịu trách nhiệm thanh toán nợ; do vậy, có thể coi đây là trách nhiệm vô hạn.
Trách nhiệm này chấm dứt khi thương nhân được xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh hay được cập
nhật tình trạng “đã giải thể” trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Đối với thương nhân là cá nhân và thương nhân là tổ chức kinh tế không có tư cách pháp nhân; ngoài
vốn đăng ký đầu tư kinh doanh tại cơ sở kinh doanh; người kinh doanh; chủ doanh nghiệp tư nhân phải
sử dụng cả các tài sản khác; thuộc sở hữu của mình để chịu trách nhiệm thanh toán nợ. Ngay cả khi
thương nhân đã được xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh; họ vẫn có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán khi
phát sinh tài sản mới sau thời điểm thương nhân chấm dứt hoạt động. Trách nhiệm trong trường hợp nà
cũng là trách nhiệm vô hạn; thậm chí là vô hạn tuyệt đối.
Trách nhiệm tài sản hữu hạn của thương nhân
Theo quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân góp vốn vào công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác
xã, góp vốn vào công ty hợp danh với tư cách là thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn.
Tức là họ chỉ phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp hoặc cam kết góp vào doanh nghiệp.

Quyền cơ bản của thương nhân

Trách nhiệm tài sản của thương nhân


Nguyên tắc chung là thương nhân phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của mình; bằng
toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của thương nhân. Có hai loại trách nhiệm tài sản trong kinh doanh là trách
nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn.
Trách nhiệm hữu hạn là loại trách nhiệm tài sản được giới hạn bởi phạm vi vốn đầu tư vào hoạt động
kinh doanh.
Trách nhiệm vô hạn là loại trách nhiệm tài sản không được giới hạn bởi phạm vi vốn đầu tư vào hoạt
động kinh doanh.
Trách nhiệm tài sản vô hạn của thương nhân
Đối với thương nhân là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân; vốn kinh doanh thuộc sở hữu của
thương nhân bao gồm vốn điều lệ , vốn vay, một số loại vốn và tài sản khác. Thương nhân phải sử dụng
toàn bộ tài sản này để chịu trách nhiệm thanh toán nợ; do vậy, có thể coi đây là trách nhiệm vô hạn.
Trách nhiệm này chấm dứt khi thương nhân được xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh hay được cập
nhật tình trạng “đã giải thể” trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Đối với thương nhân là cá nhân và thương nhân là tổ chức kinh tế không có tư cách pháp nhân; ngoài
vốn đăng ký đầu tư kinh doanh tại cơ sở kinh doanh; người kinh doanh; chủ doanh nghiệp tư nhân phải
sử dụng cả các tài sản khác; thuộc sở hữu của mình để chịu trách nhiệm thanh toán nợ. Ngay cả khi
thương nhân đã được xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh; họ vẫn có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán khi
phát sinh tài sản mới sau thời điểm thương nhân chấm dứt hoạt động. Trách nhiệm trong trường hợp nà
cũng là trách nhiệm vô hạn; thậm chí là vô hạn tuyệt đối.
Trách nhiệm tài sản hữu hạn của thương nhân
Theo quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân góp vốn vào công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác
xã, góp vốn vào công ty hợp danh với tư cách là thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn.
Tức là họ chỉ phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp hoặc cam kết góp vào doanh nghiệp.

You might also like