Professional Documents
Culture Documents
V - N S - Cúng Gia Tiên - Tham KH - o 1
V - N S - Cúng Gia Tiên - Tham KH - o 1
Tuổi thơ tôi lớn lên ở làng, văn hoá dân tộc thấm nhuần trong máu thịt âu
cũng nhờ ông nội truyền cho. Tôi coi đó là người thầy tuyệt vời nhất của
đời mình. Người đã dạy cho tôi quá nhiều những tinh hoa trong vốn sống
và cách đối nhân xử thế. Ông tôi có cách dạy con cháu hay lắm! Dạy mà
không giáo điều, dạy mà như kiểu nhờ vả ai làm một cái chi đó. Giờ đi xa
tôi mới thấy đó là một cách giáo dục tuyệt vời “học đi đôi với hành”.
Ông tôi là một bậc thượng lão đức trọng ở làng, từ việc trong nhà đến việc
họ tộc làng nước đều lo lắng chu tất. Ông là người giỏi về văn sớ mặc dù
không được học hành chi nhiều. Văn sớ cúng làng, văn sớ chạp mả, văn sớ
đám tang, đến các tờ cấp cho người đã khuất...ông đều thạo. Ngày còn
nhỏ, tôi thấy ông có một quyển sổ nhỏ bìa dày, giấy kẻ ô vuông kiểu Liên
Xô. Trong những trang giấy cũ bạc màu ấy là các dòng chữ Quốc ngữ
nhưng viết theo kiểu Hán. Tức trình bày dọc từ trên xuống và bên phải
sang bên trái. Tôi đọc những dòng chữ đó và chả hiểu gì cả, nhưng vẫn
thấy thích cuốn sổ vì thấy ông hay đặt ở trước bàn kệ giữa nhà nên ngày
nào cũng lén mở ra xem.
Tôi đến trường học được mấy năm, sau khi đã thành thạo chữ nghĩa, đọc
tốt viết được, ông cho tôi cùng viết văn sớ. Cái chuyện này cũng chả có gì
lạ, ngày nhỏ tôi vẫn theo ông nội như hình với bóng nên việc gì ông làm
cũng có mặt thằng cháu nhỏ. Nhớ cái dáng ông ngồi viết sớ mà thương
lắm! Ông ít khi ngồi trên bàn vì trong nhà hơi tối. Vậy là ông vác cái ghế
nhỏ ra ngoài hiên, ngồi mà hai chân như thể quì rồi viết. Cái dáng vẻ thành
kính như một ông đồ cho chữ vậy! Tôi cũng quì theo một bên, chống hai
tay lên cằm mà xem ông viết. Chữ ông nội tôi đẹp, viết xiên nghiêng như
lúa tháng ba gặp thoáng gió xuân bỗng xuôi chiều. Đều đặn típ tắp, bàn
tay ông cẩn trọng thảo từng con chữ.
Giấy viết sớ là loại giấy bổi màu vàng mỏng. Thứ giấy này người ta thường
dùng để quấn quanh các ốp hưong. Giấy được xếp thành các bản nhỏ cỡ
bàn tay, gấp chồng như cách xếp cánh quạt. Rồi từ mỗi bản đó, lại đem
gấp nhẹ thành các hàng dọc nhỏ cỡ ngón tay cái để viết vừa một chữ. Nhà
tôi luôn luôn có sẵn giấy đã xếp, ông kẹp vào cuốn sổ văn sớ để khi nào có
việc là lấy ra viết liền. Không chỉ là sớ cúng trong nhà trong họ, ông tôi còn
viết cho cả những người trong làng, ai đến nhờ ông cũng viết không nề hà.
Nhiều khi tôi thấy ông cứ cùi cụi cả ngày viết sớ. Nhất là những dịp năm
hết tết đến thì ông khom lưng cả ngày mà viết.
Tôi đứng cạnh bên lật sổ cho ông, nhiều chữ không rõ thì ông nhủ tôi đọc
hộ. Ấy là ông tôi giả vờ thế chứ thực ra ông đã thuộc hết cuốn sổ đó rồi.
Sau này tôi mới biết đó là cách ông hướng tôi quan tâm với văn sớ cúng
tiên tổ. Và quyển sổ kia chắc cũng có ý định truyền lại cho đời sau mà thôi.
Văn sớ thường bắt đầu thế này
“Duy
Việt Nam quốc, Quảng Trị tỉnh, Triệu Phong huyện, Triệu Thuận xã..”
Tôi không hiểu chữ “Duy” lắm nhưng có lẽ đó là một từ dùng để xưng
danh, để chứng tỏ sự có mặt của những cụm từ tên nước, tỉnh, huyện,
làng xã đi sau. Kiểu như khi mới ra đời thì Thái Tử Tất Đạt Đa tay chỉ đất
tay chọc trời mà bảo rằng “thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, thì
chữ “Duy” cũng nằm trong trường nghĩa đó. Các danh xưng phía sau được
sắp xếp theo cấp hành chính từ to đến nhỏ. Mà là phải viết đảo, tên riêng
lên trước rồi mới xưng cấp. Vì trong văn sớ ít khi dùng các dấu chấm phẩy,
lại viết dọc từ trên xuống nên có lần tôi đọc nhầm “tỉnh Triệu Phong,
huyện Triệu Thuận...”.
Sau khi xưng địa danh quán trú xong là đến ngày tháng. Ông tôi nhủ phải
viết qua hàng khác.
“Tuế thứ (tên năm) niên, (số tháng) nguyệt, (số ngày) nhật...”
Tên năm thì lấy theo âm lịch, tức gồm có can và chi. Số tháng số ngày
phiên qua tiếng Hán-Việt cho đúng với văn phong thờ cúng. Ví dụ ngày 28
tháng 11 năm Canh Thìn (2000) thì viết là
“Tuế thứ, Canh Thìn niên, thập nhất nguyệt, nhị thập bát nhật...”
Nếu số tháng và số ngày bé hơn 10 thì phải thêm sữ “sơ” ở trước. Chữ
“sơ” trong trường hợp này tương ứng với số 0. Vì như ngày mồng 7 tháng
giêng thì viết là
“...sơ nhất nguyệt, sơ thất nhật...”
Tiếp đó là một bài văn tự khá dài bằng tiếng Hán - Việt kể về công trạng,
lai lịch thuỷ hoả đất trời. Trong đó còn có các câu “thần chú” nhằm mục
đích gọi hồn cho người đã mất nghe được sớ. Trong “Văn tế thập loại
chúng sinh” của Nguyễn Du cũng có những câu ‘chú’ như thế! Nên chi
nhiều người hay chơi ma thuật ‘cầu cơ’ đồng bóng sử dụng một đoạn trong
bài văn của cụ Nguyễn, cùng với một đoạn kinh nhà Phật mà làm nên bài
‘kinh cầu cơ’.
Phần cuối cùng của tờ sớ là tên của người đã mất, viết bằng chữ Quốc
ngữ. Riêng có loại văn cúng thì phải thêm “hiển khảo” (người đàn ông),
“hiển tỷ” (đàn bà), “hiển tổ khảo”, “cao tằng tổ khảo”.... Nhân cái chuyện
chữ “khảo” và “tỷ” mà có mẫu chuyện vui thế này! Một ông nọ biết có mỗi
một chữ “khảo” trong tiếng Hán. Khi đi tìm mộ cho nhà mình thì gặp hai
cái bia, nhưng giờ không biết cái nào của ông cái nào của bà bởi hai tấm
bia dựng từ xưa nên toàn chữ Hán là Hán. Người đó lần xem cả hai tấm
bia và phát hiện chỉ có một tấm bia có chữ “khảo”. Và đó chắc chắn là
phần mộ của đàn ông. Thật là “một chữ cũng đáng để học” – ông cha ta
dạy chí phải.
Kết thúc lá sớ bằng việc liệt kê một số vật phẩm dâng cúng, tất nhiên là
chỉ lược sơ thôi, còn chi tiết thì đã ghi ở ‘Tờ Cấp’. Thường có một khuôn
mẫu chung để kết sớ như thế này
“Thứ phẩm chi nghi, hương - hoa - đăng - trà - phù - tửu chước lễ chi nghi
Cẩn chiêu cáo vu”
Riêng tờ cấp thì được phép viết ngang trên giấy trắng. Liệt kê đây đủ các
thứ đốt cho người ở bên kia. Người nhà quê thường mua về các loại áo
giấy, giầy dép mũ mão bằng giấy, đặt trên bàn thờ, cúng xong thì đem ra
phát hoả thành tro. Hàng mã cũng làm thật khéo tay, trông cái đôi giầy,
mũ mão là y như hàng thật. Lại còn đốt tiền giả với mấy chữ “Ngân hàng
địa phủ”, có cả tiền ta và tiền đôla. Chuyện đốt vàng mã âu cũng để thể
hiện lòng thành kính tưởng nhớ. Nhưng nếu lợi dụng nó quá thì thành ra
mê tín và phung phí. Nhất là trong thời đại ngày nay, người ta còn mua cả
bạc triệu vàng mã về đốt. Cứ y như thời này hàng mã phát đạt nhất vậy!
Có một vị sư cho ý kiến thế này mà theo tôi là hay. Vị sư bảo nếu cứ cung
cấp áo quần tiền của cho người dưới địa ngục thì họ cảm thấy đầy đủ mà ở
mãi dưới đó, không chịu tu tập để được thăng lên thiên đường. Vậy là
thành ra làm hỏng!
Đọc sớ cũng là một nghệ thuật. Thật vậy đó, giọng đọc đòi hỏi phải ấm
cúng và thành khẩn. “Nói ngọt lọt tới tận xương” - giọng ai đọc truyền cảm
thì khiến cho các quan ở âm phủ dễ xuôi lòng mà độ cho người thân của
mình. Chính điều này mà sinh ra những ông thầy cúng (gọi là thầy phù
thuỷ). Nói đọc sớ là một nghệ thuật chẳng phải ngoa ngôn trào phúng vì
các văn nhân nghệ sĩ cũng đã vào “cuộc chơi” này rồi đó! Mấy năm trước
nhà văn Xuân Đức đóng vai trò một ông thầy với khăn áo mũ chỉnh tề,
đứng trước đền đài nghĩa trang Trường Sơn mà đọc sớ trong chương trình
Huyền Thoại Trường Sơn phát trên VTV.
Có loại sớ cần đọc to, có loại sớ đọc thầm và có loại sớ không cần phải
đọc. Như ‘tờ cấp’ chẳng hạn thì chỉ đặt lên thế chứ không cáo. Sau này
ông tôi có tìm hiểu thêm loại sớ nhà chùa. Sớ này có in và bán sẵn, viết
song chữ văn tự chữ Hán và tiếng phiên Hán-Việt. Chừa sẵn những chỗ
trống để viết thêm vào mà thôi.
Ông tôi cũng bỏ công tìm tòi nghiên cứu. Sau này ông có mua được ‘tập
văn cúng gia tiên’ của nhà xuất bản văn hoá dân tộc. Ông tham khảo văn
tế của nhiều nơi trên đất nước rồi sau đó hiệu đính lại cuốn sổ của mình.
Đến nay cuốn sổ năm xưa đã được ông tôi thay mới, chữ nghĩa rõ ràng
hơn. Cuốn sổ được chia ra nhiều phần gồm: văn làng, văn họ, văn cúng
gia tiên, văn tảo mộ, văn đám tang, văn khánh thành... Nói chung là lễ nào
có loại văn nấy. Tôi lém lỉnh lôi ra đọc xem cũng thấy thích. Khi đã lớn
hơn, không những qùy bên xem ông viết mà ông còn cho tôi viết sớ nữa.
Nhớ cái lần đầu tiên cầm ngòi bút, kê tay lên tờ giấy bổi vàng mà lòng hồi
hộp, sợ viết sớ sai thì thần linh bắt tội. Ông tôi chỉ trỏ từng chỗ, giải nghĩa
từng chữ và bảo cho cách viết. Những lần đó ông tôi giả vờ mắt kém, cốt
là để tôi làm quen với công việc ý nghĩa này.
Dần dà, tôi cũng đã quen thuộc tất cả các loại sớ. Biết rõ loại văn nào
dùng vào dịp nào, biết cách xưng hô cấp bậc người khuất, biết tên gọi
những “thứ phẩm chi nghi”. Viết sớ cũng như viết gia phả vậy, phải nhập
tâm và cẩn thận, suy nghĩ lung tung là viết sai liền. Mà tờ sớ khác với tờ
giấy vở học, sai một chữ tất phải huỷ đi viết lại cả tờ. Nhờ viết sớ cùng ông
mà tôi tập được tính kiên nhẫn và phép nhập định rất tốt. Ngoài ra còn có
thêm một vốn chữ Hán, Hán-Việt được bổ sung thêm trong cái bồ chữ của
mình.
Làng xã vẫn còn, văn hoá tập tục cổ truyền sẽ không bao giờ mất, và
những dòng văn sớ tất nhiên mãi được bảo lưu. Trong dòng chảy thời đại
hôm nay có thể điều đó không được coi trọng cho lắm, nhưng tôi tin văn
sớ là một nét đẹp văn hoá người Việt mà qua đó thể hiện chữ Hiếu của
người đời sau.
Minsk 22.3.2008
Hoàng Công Danh
Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt
hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn tay đang chắp
(đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn
lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên
chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đầu
gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót
này cùng đứng thẳng lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau
khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nữa lạy, cho nên
người ta thường nói là lạy "bốn lạy rưỡi" là vậy.
Văn tế, văn khấn thật ra chỉ là những lời nói sửa soạn trước cho được
nghiêm chỉnh với việc dùng từ ngữ cẩn thận và cách thức kính cẩn trình
bày lên các đấng thần thánh, với tổ tiên trong các lễ tế hay cúng giỗ. Cũng
có một số bài đã trở thành những áng văn chương tuyệt tác, ý nghĩa thâm
trầm được làm ra do những văn tài xuất chúng. Chẳng hạn như bài văn tế
tiểu tường do thi sĩ Tản Đà làm giúp cho một vị tri huyện tế mẹ đã được
dẫn ở đoạn trước. Thông thường văn tế, văn khấn chia làm ba đoạn chính:
1. Đoạn thứ nhất gồm có ngày tháng, tên của người đứng ra chủ động việc
cúng tế và nói về lễ vật.
2. Đoạn thứ nhì gồm tên tuổi, hiệu, thụy các vị được cúng tế.
3. Đoạn thứ sau cùng nói rõ mục đích của tế lễ, nhân dịp nào.
Văn tế thường theo một thể riêng như thể phú. Văn khấn có thể viết theo
văn vần, gồm một đoạn theo thể phú, hoặc bằng văn xuôi. Văn khấn cũng
như văn tế, khi người hay giỏi chữ Nho thường dùng Hán văn, về sau
người ta chuyển sang Việt văn. Cần nhất là hay, có ý nghĩa và được đọc
một cách trang trọng. Điều cần lưu ý là trong các lễ giỗ kỵ, văn khấn nên
viết sẵn ra giấy. Người chủ lễ đứng trước bàn thờ, vái bốn vái rồi cầm giấy
đưa ra trước mặt mà đọc. Đọc xong vái năm cái. Tiếp theo là thân nhân
trong gia đình vào lễ theo thứ tự.
Sau đây là một bài văn khấn Nôm bằng thơ nhằm mục đích giúp đ àn bà,
trẻ con có thể học và dễ nhớ theo một thức giả xưa làm ra, dùng vào việc
cúng lễ gia tiên:
Ngày ... tháng ... năm (âm lịch), tín chủ là ... tuổi ... sinh quán tại ... trú
quán tại ... cùng toàn gia.
Cúc cung bái trước bàn thờ,
Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu.
Cùng là phẩm vật trước sau,
Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên.
Cao tằng tổ khảo đôi bên,
Cao tằng tổ kỷ dưới trên người người.
Cô dì chú bác kính mời,
Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường.
Cúi xin hưởng chút lễ thường,
Và xin phù hộ khang cường toàn gia.
Cẩn cáo
Thức ăn các thứ, nói chung là đồ lễ dâng cúng gia tiên bao giờ cũng thanh
khiết và dành riêng, không được để con cháu đứa nào đụng tới. Các thức
ăn đã nấu nướng xong, phải đem cúng gia tiên trước rồi con cháu mới
được ăn. Cũng như lúc ông bà còn sống, ông bà cha mẹ chưa ăn thì con
cháu không được phép động tới.
Để tránh tình trạng lỗi lầm do không biết của các cháu nhỏ, các thức ăn
nấu nướng xong phải được múc ra dành cho việc cúng lễ cho phải phép.
Trong việc cúng ông bà, chẳng nên làm lấy có hay chỉ để khoe khoang với
thiên hạ. Phải lấy tâm thành, kính trọng làm gốc. Người xưa quan niệm
rằng trong lòng nghĩ thế nào quỷ thần đều biết rõ (Tâm động quỷ thần tri).
Cúng bái chỉ làm cho có hình thức, thiếu lòng thành kính tức là thiếu sự
hiếu thảo ngay lành. Không một vị tổ tiên nào chứng giám cho những con
cháu có cúng mà không có kính. Thà chén cơm dĩa muối mà lòng thành
hơn mâm cao cỗ đầy mà tâm địa dửng dưng.
VĂN KHẤN LỄ GIAO THỪA TRONG NHÀ.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT ! ( 3 lần )
Kính lạy : _ Đức Đương Lai hạ sinh DI LẶC Tôn Phật.
_ Hoàng Thiên , Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
_ Long Mạch , Táo Quân , chư vị Tôn Thần.
_ Các cụ Tổ Tiên nội , ngoại chư vị tiên linh.
Nay phút giao thừa năm Mậu Tý ,
Chúng con là...........................
Ngụ tại.............................................
Phút giao thừa vừa tới , nay theo vận luật , tống cựu nghênh tân , giờ Tý
đầu Xuân , đón mừng Nguyên Đán , tín chủ chúng con thành tâm , sửa
biện hương hoa phẩm vật , nghi lễ cung trần , dâng lên trước án , cúng
dâng Phật Thánh , dâng hiến Tôn Thần , tiến cúng Tổ Tiên , đốt nén tâm
hương dốc lòng bái thỉnh.
Chúng con xin kính mời :
Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương , Ngài Bản xứ Thần Linh
Thổ Địa , Phúc Đức Chính Thần , các Ngài Ngũ phương , Ngũ thổ , Long
Mạch Tài Thần , các Ngài Bản gia Táo Quân và chư vị Thần Linh cai quản ở
trong xứ này. Cúi xin giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật. Con lại kính mời
các cụ tiên linh Cao Tằng Tổ Khảo , Cao Tằng Tổ Tỷ , Bá thúc huynh đệ ,
Cô di tỷ muội , nội ngoại tộc chư vị hương linh cúi xin giáng về linh sàng
hâm hưởng lễ vật.
Tín chủ lại kính mời các vị vong linh Tiền chủ , Hậu chủ , y thảo phụ mộc ở
trong đất này. Nhân tiết giao thừa , giáng lâm trước án chiêm ngưỡng tân
xuân , thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho tín chủ : Minh niên khang thái , trú dạ cát tường. Thời thời
được chữ bình an , gia đạo hưng long thịnh vượng.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Nhân đây , NCD cũng xin đăng các ngày giờ , phương hướng Dâng hương ,
Xuất hành , Khai trương trong dịp Tết Mậu Tý này.
CÁC ĐIỀU CẦN BIẾT KHI NHẬP TRẠCH ( DỌN VÀO NHÀ MỚI ):
Nếu là 1 gia đình có vợ chồng con cái thì đầu tiên là vợ gia chủ cầm 1 cái
gương tròn đem vào nhà trước( mặt gương soi vào nhà ) , kế đến là gia
chủ tự tay bưng bát nhang thờ Tổ Tiên , rồi lần lượt các người trong nhà
mới đem vào Bếp lửa ( tốt nhất là Bếp còn đang cháy đỏ từ nhà cũ đem tới
) , chăn nệm , gạo , nước......vv...
Nếu nhà vắng đàn ông thì người mẹ bưng bát nhang thờ Tổ Tiên vào trước
, kế đến là con cái lần lượt mang Bếp , gạo , nước...vv.....
Chuyển đồ đạc vào nhà trước , dọn đồ cúng sau.
Không ai được đi tay không vào nhà. Tuồi Dần không được phụ dọn . Phụ
nữ có thai không được phụ dọn ( nếu muốn phụ , thì mua 1 cây chổi mới ,
dùng chổi quét qua 1 lượt các đồ vật thì không sao). Trong giờ tốt , gia
chủ tự tay cầm tiền bạc nữ trang , tài sản quý giá cất vào tủ.
Lễ vật để đi Tân Gia mà người ta quý và có ý nghĩa tốt đẹp , mang lại điều
lành cho gia chủ chính là : 1 nồi cơm điện ( theo quan niệm bây giờ cho
tiện ) , hay 1 bộ soong nồi ( bởi ngày xưa chưa có đồ điện mà ). Đây là
những món quà mang ý nghĩa sung túc, no đủ , nên ta hãy đem tặng cho
người thân , bạn hữu thân tình khi họ Tân Gia nhé !
( Vái 3 lần,rót trà 3 lần,rót rượu 3 lần,3 lần lạy/mỗi lần 3 lạy,rồi hóa vàng
bạc & đồ thế ).
(A) : Là tên các vị Thần ứng theo từng năm như sau :
_ Năm Tý : Thần ĐỊA VONG , ngày 22 , lạy về hướng BẮC.
_ Năm Sửu : ĐỊA HÌNH 14 Đông Bắc
_ Năm Dần : THIÊN LINH Rằm Đông Bắc
_ Năm Mẹo : THIÊN HÌNH 14 ĐÔNG
_ Năm Thìn : THIÊN KIẾP 13 Đông Nam
_ Năm Tị : HẮC SÁT 11 Đông Nam
_ Năm Ngọ : ÂM MƯU 20 NAM
_ Năm Mùi : BẠCH SÁT 8 Tây Nam
_ Năm Thân : NHƠN HOÀNG 8 Tây Nam
_ Năm Dậu : THIÊN HỌA 7 TÂY
_ Năm Tuất : ĐỊA TAI 6 Tây Bắc
_ Năm Hợi : ĐỊA BẠI 21 Tây Bắc
(B) : Là chỉ Ngũ Hành của năm đó ứng với :
KIM : Thân_Dậu.
Mộc : Dần_Mẹo
THỦY : Hợi_Tý.
HỎA : Tị_Ngọ
THỔ : Thìn_Tuất_Sửu_Mùi.
Ví dụ như năm nay là năm hợi , ta sẽ vái " Mông Long Đại Tướng Địa Bại
Tam Tai Thủy Ách Thần Quang ".
Chúc các anh chị , các bạn giải tai , giải nạn và gặp nhiều an lành nhé !
Văn khấn tại Đền BÀ CHÚA KHO
(Sám tạ Từ đường)
Hương phụng hiến cúng Dàng tiên Tổ, cập môn tông Tử hiếu chí thành, nghênh Tổ đức,
nguyện kỳ tiên Tổ giáng đường tiền, bảo hộ Tử tôn đa cát khánh tứ thời bát tiết hưởng thiên
duyên.
Thiết dĩ: Từ đường nghiêm khiết, tịnh cúng phu trần, lự bài biện tri Phật nghiêm, khủng vãng
lai chi câu uế, bằng tư pháp thủy, quán sái Tổ đường (gia đường, từ đường). Giáo hữu tịnh uế
chân ngôn cẩn đường trì tụng.
Cung văn: Ẩm phương tuyền tụ tri tỉnh xuất, nhu hương đạo yến thức diền sinh nhân cư
thiên địa chi gian, chiếu xuất vu tình ư vạn địa.
Cung duy: Tổ tiên nhất thiết liệt vị đẳng chư tôn môn ân cần thế nghiệp gia thanh trung hậu
di quyết tôn mưu yến dực. Trường lưu ư phong kỷ, thích kỷ lạc thổ hạch cao, cửu luyến ư trà
hình, thiết tự, mộc bản đồng căn, kha diệp trung khan hướng mậu, cảm dụng lễ nghi tận vật,
phi phong thức ngụ chí thành, dục cầu bảo an cơ mưu duệ. Tu bằng cảm cách ư Tiên linh, tư
nhân …thiên (xuân, hạ, thu, đông hay kỵ nhật, lễ Tết). Đồng tộc (đồng gia) phụng nghênh
cung trần phỉ lễ mặc ngụ đan thành, phụng vong Tổ tiên giám cách. Giáo hữu nhiên hương
cẩn đương trì tụng.
Thiết dĩ: Hạnh phùng tiết nhật gia tộc yếu nghênh, xuyên kỳ Tổ đức, giáng uy nghi. Giáo hữu
triệu thỉnh chân ngôn cẩn đương trì tụng.
Thượng lai triệu thỉnh chân ngôn tuyên dương dĩ kính, Tử tôn chí thành kiền thành phụng
thỉnh. Nhang hoa thỉnh.
Nhất tâm phụng thỉnh: Thiên chi hữu nhật nguyệt. Quang chiếu thập phương, nhân chi hữu
Tổ tông, lưu thùy vận thế, từ đường hương hỏa. Cầu linh sảng dĩ lai lâm, hương khí đan
thành, bằng Tổ tông nhi chiếu giám, phàm tâm cẩn bạch tuệ nhãn giao quan, ngôn niệm
thiết vi nhân Tử, cảm hạ tông thân, ngưỡng càn khôn phụ tải chi ân, cảm tông Tổ tài bồi chi
ấm, dục cầu bảo an miêu duệ, tu bằng cảm cách tiên linh, cung duy vật bản hồ thiền, nhân
bản hồ Tổ, thế bất lăng vong, tộc ư tư tụ, dịch thế chi tông, tông điều, tuy viễn, dĩ tự trung
tư, thiên tu chi công đức do tồn, bất thăng vĩnh mộ sơ thủy đồng căn cộng bản, nhi Tổ nhi
tông, hậu lai biệt phái phân chỉ, hữu môn hữu hộ.
Cung thỉnh: Gia tiên cao cao Tổ khảo, cao cao Tổ tỷ nhất thiết liệt vị tôn linh, phục hồi từ sở
tả vị hữu chiêu, ức niên chi sảng, thúc bằng, ai hồ kiến, khái hồ văn, dịch thế chi tinh thần, dĩ
tụ cung trần phỉ lễ mạch ngũ đan thành.
Duy nguyện: Tổ tiên giám cách, nguyện thân phục chỉ, hiếu phụng xuân thu, giáng phó Tổ
đường (gia đường) chứng minh công đức. Nhang hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Công cao quảng đại đức thụ tài bồi Tử tôn khang cát dĩ hưng long, đức
thuộc Tổ tiên chi hữu chuẩn.
Cung duy: Gia tiên, tiên linh bản phái, hương kỳ phần đại anh hiền, hoặc văn thơ lễ, hoặc
lược điền viên, phong thanh thu lập, văn vong lưu truyền, dư thanh đồng cảm, thức lễ mạc
khiên. Gia tiên khí số chung anh, tài năng tế mỹ, nhất thiết liệt vị chư Tổ tông.
Duy nguyện: Tổ tông bất thác bảo hộ Tử tôn giáng phó Tổ đường (gia đường) thụ tư cúng
Dàng. Nhang hoa thỉnh.
Nhất tâm bái thỉnh: Tiên Tổ liệt vị căn thâm mạt mậu đức hậu lưu quang, nghi chỉ thiệu bồi,
tích thế chi âm, công thương tại, nhưng tồn bằng tịch tục cổn dĩ dư thanh do trường xuân
tam chi thủ bảo, hữu tâm cảm cách Tổ đức lưu phương.
Cung duy: Tổ tiên hệ phái, chi ngành đẳng đẳng Tông môn nhất thiết liệt vị.
Duy nguyện: Đức hậu trường lưu, thiên vạn cổ, Giáng phó từ đường (gia đường) thụ tư cúng
Dàng. Thượng lai triệu thỉnh chân ngôn tuyên dương dĩ kính. Giáo hữu an tọa chân ngôn cẩn
đương trì tụng.
Phục vọng: Tổ tiên, nhất thiết liệt vị chân linh. Đẳng đẳng sảng linh, trùng trùng quyến thuộc
quang giáng Tổ đường (gia đường) thụ kỳ lễ giáo hữu biến thực chân ngôn cẩn đương trì
tụng, hóa vô vi hữu, biến thiểu thành đa.
Na mô Sar va - Ta tha ga ta - A va lô ki tê
Na mô - Tô rô Ba da - Ta tha ga ta Da - Ta đi da tha:
Thượng lai văn sớ tuyên đọc dĩ chu, sớ đối Tổ từ dụng bằng hóa hỏa (hóa sớ).
Khẩn thiết chí thành chí tâm, Tử tôn thành bái tạ.
Quán tự tại, cố tâm vô quải ngại, việt siêu khổ hải. Đại minh thần chú, diệt trừ tai. Ngũ uẩn
không, pháp thể chu sa giới, ngũ uẩn không, pháp thể chu sa giới.
Phụng hiến cúng Tổ tiên đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng giai hồi hướng, Phổ nguyện trầm
nịch chư chúng sinh, tốc vãng vô lượng quang Phật sái, Thập phương Tam thế nhất thiết chư
Phật, chư tôn Bồ tát Ma ha tát. Ma ha Bát nhã Ba la mật đa, Tứ sinh cửu hữu đồng đăng, hoa
tạng huyền môn bát nạn, tam đồ cộng nhập tỳ lô tính hải.
Nam mô Sa bà thế giới, Tam giới đại sư, Tứ sinh từ phụ, Nhân thiên giáo chủ, Thiên bách ức
hóa thân, Bản sư Hòa thượng Thích ca Mâu ni Phật (3 lần)
Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhất thiết, Dữ phúc lộc Tử tôn, Đắc bình an khang thái.
Tử tôn kiền thành tạ lễ cúng Gia tiên. Ngũ bái.