You are on page 1of 23

CÁCH LẬP ÐÀN và TỤNG KINH DƯỢC SƯ

 
CẦU AN ÐẢO BỆNH
Khi bị tai nạn hoặc lâm bệnh nặng, có nghĩa là người đau đã đến lúc gần đất, xa trời,
nhọc mệt hôn trầm, cơm cháo không muốn ăn, thuốc thang không hiệu lực. Người trong gia đình
cần phải hết sức bình tĩnh và nên :
_Ðón thầy thuốc chuyên môn về căn bệnh mà trị liệu.
_Khuyên người đau phải bình tâm niệm Phật.
_Người trong gia đình cũng phải tổ chức niệm Phật trợ duyên.
_Tổ chức lễ đàn Dược sư diên thọ để cầu tai qua nạn khỏi, bệnh sớm bình phục.
Về phương pháp chữa bệnh thường có hai phương thức :
_Dùng dược lực điều trị
_Dùng sức tin tưởng mà điều trị
Khi dùng dược lực tức là cần mời các vị Bác sĩ minh y xem bệnh, cho thuốc.
Khi dùng sức tin tưởng tức là tụng kinh, niệm Phật để có một động lực huyền diệu vô
hình hổ trợ. Trong cái động lực huyền diệu vô hình này cũng có hai duyên:
 
A)_Nội duyên_Tức là tự mình cầu Phật và niệm Phật,tin tưởng nơi đức Phật hộ trì, mặt khác
niệm Phật thì tự tâm trong lặng, không khởi lên dục vọng thất tình, bệnh tất mau lành.
 
B)_Ngoại duyên_Tưc là do những người trong gia đình tụng kinh, lễ bái giúp vào. Hoặc thỉnh
chư Tăng, chư thiện hữu trợ duyên lễ Phật, tụng kinh để đem tâm tưởng tha lực phù trì, hiệp
cùng tự lực, tất nhiên có được một năng động lực mạnh mẽ mà khiển bệnh tình chóng dứt.
Muốn đạt được sự lý dùng sức tin tưởng trị liệu, người Cư sĩ cần phải biết rõ nghi thức
tụng kinh Dược sư, tụng thường hay tụng hội.
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
 
A)_Tụng thường_Nghiã là đối trước bàn Phật mà đem kinh Dược sư ra tụng, nhất tâm cầu
nguyện hồi hướng công đức để cho người bệnh chóng được bình phục.
Việc tụng này có thể tổ chức ngay tại trong gia đình hay cầu thỉnh một vị Tăng tụng cho ở chùa
cũng được, điều cốt nhất là người cầu tụng cũng như người tụng đều phải chí thành. Gia chủ tín
thành nhưng thầy tụng có tính cách là sự tụng thuê, miễn sao xong việc thì thôi, thì không có
công hiệu. Ngược lại người tụng kinh chí thành mà người gia chủ coi là một sự bất đắc dĩ phải
chiều ý mà tổ chức tụng chứ không thật tâm muốn tụng, hoặc cố tổ chức cho có tiếng vang đối
với bạn bè, hàng xóm v.v...nghĩa là có tính cách cầu danh thì cũng không lợi lạc.
Về cách trang biện lễ vật thì cứ tùy tâm biện lễ, cốt được thanh tịnh là hơn.
 
B)_Tụng hội_Tức là tổ chức lễ đàn Dược sư có bảy vị ngồi tụng hoặc có bảy khu, mỗi khu có
bảy vị gọi là đàn Dược sư thất khu.
Việc tụng kinh Dược sư hội cần nên chú ý mấy điểm sau đây:
 
1._THIẾT LẬP ÐÀN TRÀNG_Ðàn Dược sư có thể thiết lập tại nhà cũng như tại chùa chia làm
7 khu có 7 hình tượng Phật, có tràng phan, bảo cái:
 
THẤT PHẬT TRỢ TUYÊN DƯƠNG
 
_Nam mô Tỳ Bà Thi Phật
_Nam mô Thi Khí Phật
_Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
_Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
_Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật
_Nam mô Ca Diếp Phật
_Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
 
BÁT ÐẠI BỒ TÁT GIÁNG CÁT TƯỜNG
 
_Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
_Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
_Nam mô Ðắc Ðại Thế Bồ Tát
_Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát
_Nam mô Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát
_Nam mô Dước Vương Bồ Tát
_Nam mô Dược Thượng Bồ Tát
_Nam mô Di Lặc Bồ Tát

THẬP NHỊ DƯỢC XOA ÐẠI TƯỚNG


 
_Cung Tỳ La Ðại tướng
_Phạt Triết La Ðại tướng
_Mê Xí La Ðại tướng
_An Ðể La Ðại tướng
_Án Nể La Ðai tướng
_San Ðề La Ðại tướng
_Nhân Ðạt La Ðại tướng
_Ba Di La Ðại tướng
_Ma Hồ La Ðại tướng
_Thân Ðạt La Ðại tướng
_Chiêu Ðỗ La Ðại tướng
_Tỳ Yết La Ðại tướng

Bảy khu được phân định ra: Trung Ương _ Thượng phương _ Hạ phương _ Ðông phuong
_ Nam phương _ Tây phương _ Bắc phương.
Mỗi khu được đặt 1 cái bàn và 7 ghế ngồi, nếu là tụng 49 vị và mỗi bàn 1 ghế ngồi, nếu
chỉ có 7 vị ngồi tụng.
Về việc bày bàn nên xếp đặt theo 2 phương thức tùy theo vị trí chỗ thiết lập:
_ Xếp ngang _ bày bàn cùng hướng lên một hướng song song ngang nhau, hoặc giữa 3
bàn và 4 bàn lui xuống một chút.
_ Xếp theo phương hướng _ Trung Ương 3 bàn, rồi 4 bàn 4 phía đâu vào.( Nhìn thấy 5
bàn một hàng ngang , 3 bàn một hàng dọc ).
Trung Ương đàn nên được bày biện nguy nga hơn hết và đó là chỗ vị Sám chủ ngồi tụng,
nếu được ngoảnh mặt về phương Ðông thì tốt hơn hết.
 
2._ VẬT PHẨM TRANG TRÍ .
_ Về thức vật bày biện phải có đủ mỗi bàn:
a/Ðầy đủ
_Một tượng Phật
_Một bát hương
_Hai cây nến (đăng)
_Hai bình hoa
_Hai mâm quả( Năm thứ quả, có năm mầu )
_Trà
_Thực( thực vật ăn được như oản khảo hay oản nếp hoặc xôi chè v.v...
Về vật phẩm cúng dàng nên y theo lục cúng tức là ở món chay tịnh
 
b/Giản tiện
_Một bát hương
_Một cây nến
_Một bình hoa
 
3._ VIỆC THỈNH NGƯỜI TỤNG KINH .
_ Trong hội Dược sư ít nhất cũng nên có một vị Ðại Ðức Tăng chủ lễ, nếu được 7 vị Tăng hoắc
Ni chia ra đứng chủ mỗi bàn thì càng quí hóa. Trường hợp không thỉnh được vị Tăng thì cũng có
hàng cư sĩ có đức hạnh đáng tôn làm chủ lễ. Tất cả những vị trong đàn đều phải ăn mặc tề chỉnh
(có áo tràng) và nếu có thể nên được chay tịnh ba ngày hay một ngày trước khi vào đàn.
Những vị tham dự tụng kinh Dược sư hội nên giữ những điều cấm sau đây:
_Không nên ăn trầu trong khi tụng kinh
_Không nên hút thuốc
_Không nên chuyện trò, cười nói trong lúc tụng kinh cũng như trước khi tụng kinh
_Không nên vừa tụng kinh vừa quạt phì phà, phì phạch hoặc vặn mình nghiêng bên nọ,
ngã bên kia.
Ðối với gia chủ phải giữ tuyệt đối những điều răng cấm sau đây:
_Không sát sanh.
_Không mời thầy bùa chú nguyện.
_Không cầu ma đảo quỉ, tin thầy yêu nghiệt.
Phải thực tâm hồi hướng bằng cách làm các việc phúc đức:
_Ấn tống kinh sách
_Làm việc bố thí
_Tổ chức phóng sanh
Ðối với người đau,cũng phải luôn luôn niệm câu :
“Nam mô Dược Sư Phật”.
Hoặc nếu tâm linh còn minh mẫn có thể chuyên tụng bài chú sau đây:
“Nam mô Bạc Già Phạt đế, bệ sắc xã, lũ rô, bệ lưu ly bát lạt bà, hát ra xà dã, đát tha yết đa
dã, a ra hát đế tam miểu, tam bột đà da. Ðát điệt tha. Án,bệ sắc thệ, bệ sắc thệ, bệ sắc xã, tam một
yết đế sa ha.” Càng nhiều càng có lợi lạc.
Tuy nhiên, dù là tụng thường, dù là tụng hội, nên có ý niệm chân xác là phương pháp tụng
kinh cốt ở ý thành, về lễ lạt càng giản dị càng tốt, trong hoàn cảnh nghèo chỉ cần một nén hương
thơm, một chén nước trong cũng đủ.

HỘ NIỆM
 
Hộ niệm là một việc làm vô cùng quý báu,tự tha đều lợi lạc. Thiết nghĩ mọi cư sĩ Phật
giáo nên tìm hiểu rõ ràng và tích cực tham gia. Chúng ta có cơ hội hành trì, tu học trong các buổi
lễ từ hình thức: ăn mặc, đi đứng, nói năng,sắp xếp cho đến nội dung: kinh sách, tán tụng,hầu đạt
được trang nghiêm,thanh tịnh, giới luật và an lạc.
Về phần độ tha, như chúng ta đã biết ngày xưa đức Phật đã dạy ngài Mục Kiền Liên nhờ
cọng lực của chư Tăng mới mong cứu độ được mẹ. Ngày nay chúng ta dù không có được thần
lực mạnh như chư thánh tăng, nhưng thiết tưởng với nguyện lực phàm phu tha thiết chắc hẳn
cũng phần nào ảnh hưởng tốt đối với kẻ cầu độ,trong tài liệu Tịnh độ xưa nay đều có xác tín.
Tuy nhiên muốn có kết quả mỹ mãn chúng ta phải rõ từng sự việc, để chuẩn bị hộ niệm
chính xác đứng đắng
 
I) Cầu an: Mục đích là sám hối tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng, hầu tránh mọi bệnh hoạn,
tai họa và nghiệp báo, để được thân tâm an lạc, phước hụê trang nghiêm, đạo tâm kiên cố, Bồ đề
tăng trưởng.
Các trường hợp cầu an: Khánh thành, an vị-Ðăng khoa, thi cử-Thành hôn, vu quy, nhất là trường
hợp đau ốm,tai họa do nguyên nhân tội lỗi gây ra.v.v...
Lúc bấy giờ ta vận dụng hết lòng thành, tắm gội thân tâm, tập trung tất cả điện lực cầu nguyện
bằng cách: Tụng kinh, niệm Phật, trì chú, bái sám hồng danh.v.v...đối trước Tam bảo. Chính nhờ
sức mạnh của tinh thần cầu nguyện này, mà giao cảm đến chư Phật, Bồ tát sẽ phóng quang đến
gia hộ cho chúng ta sơm đạt được như ý và hợp chánh đạo. Vì rằng Phật thương chúng sanh như
mẹ thương con; chúng sanh nhớ Phật như con nhớ mẹ. Vậy mỗi lúc cầu nguyện chúng ta cần
phải thành khẩn và đầy đủ đức tin, mới có sự cảm ứng gia hộ của chư Phật và Bồ tát.
 
II) Sắp lâm chung: Lúc một người bệnh hoặc già yếu, sau khi tụng kinh, bái sám mà
bệnh nhân quá yếu,thầy thuốc tận tình cứu chữa, cho biết sắp lâm chung.
Những người hộ niệm:--
 
1) Thân nhân bà con nên giữ thaí độ bình tĩnh:
tụng kinh A Di Ðà và niệm Nam mô tiềp dẫn đạo sư A Di Ðà Phật.
*Không nên dùng thuốc trợ sinh kéo dài thời gian tắt thở làm cho Thân Trung Ấm bối
rối không định tỉnh. Thể xác đau đớn, khó khăn trong việc siêu thoát.
*Khi nghe không còn cứu chữa được nữa, thường bỏ mặc kẻ sắp lâm chung nằm một
mình, đi lo việc ma chay mai táng,đó là điều rất cấm kỵ. Vì bây giờ thần thức kẻ lâm chung tuy
rất sáng suốt,nhưng bơ vơ, sợ sệt. Thân nhân phải có mặt bên cạnh để niệm Phật, khuyên răng,
chỉ bảo lối đi cho thần thức. Cố tránh gây sân hận, là một điều dễ làm cho hương linh bị sa đọa.
 
2) Ðạo hữu, bằng hữu nên thành tâm niệm Phật, tụng kinh A Di Ðà. Lưu ý nếu kẻ lâm chung là
đàn ông, người hộ niệm đứng phía dưới chân. Nếu kẻ lâm chung là đàn bà, người hộ niệm đứng
phía trên đầu.
Khi kẻ lâm chung thở ra , đồng thanh niệm:
Nguyện sanh tây phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Khuyên bảo gia quyến không nên bịn rịn, khóc lóc. Nên để tâm niệm Phật tiếp dẫn là tốt
hơn hết. Ðể kẻ lâm chung không vì tình thương tham đắm cảnh thế gian, chướng ngại cho việc
vãng sanh
Khi tắt thở đến lúc nhập liệm tối thiểu là bốn tiếng đồng hồ,mới được đụng vào thân
thể,tốt hơn cả nên để hai mươi bốn tiếng. Vì nghiệp thức khi chưa hoàn toàn bỏ thân xác, cảm
thọ sự đau đớn sinh ra sân hận phải đọa vào ác đạo
 
3) Một vị thầy:Tốt hơn hết là nên mời một vị thầy để trợ niệm tiếp dẫn và vận chưởng giúp đỡ
siêu thăng
*Cách vận chưởng, Tây Tạng gọi là Phowa
Sau khi hơi thở đã tắt, nhưng thân thể chưa toàn lạnh hẳn, thì cần đến gần bên trái người
chết mà gọi tên, niệm Phật vãng sanh, đánh chuông và khánh không ngơi. Ðến khi toàn thân đều
lạnh chỉ còn nóng ở đầu và trán: chắc người đã được sanh về tây phương. Chỉ cần niệm Phật và
đánh khánh, chuông cho đến hết hơi ấm.
Nếu hơi ấm dồn vào chân: sa vào địa ngục.
- đầu gối: sinh vào súc sanh.
- bụng: đọa vào ngạ quỷ.
- ngực: chuyển sanh vào nhân đạo.
- chân mày: sinh lên cõi trời.
Chỗ còn hơi ấm cho biết nghiệp thức của kẻ chết còn ở chỗ đương ấm, nên mời một vị
thầy,dùng phương pháp chuyển vận giúp cho nghiệp thức chuyển lên đến đỉnh môn. Trường hợp
không tìm đâu ra được một vị thầy, thì bất cứ ai, thân nhân hoặc bằng hữu, thành tâm đem hết
tâm lực chuyển vận theo phương pháp như sau: Dùng hai bàn tay,ngang nhau, úp trên chỗ ấm ,
cách da người chết độ nửa tấc tây (50 phân).
Hai tay xoay chuyển lên trán
Mắt châm chú vào tay thầm tưởng nghiệp thức kẻ chết phải theo tay mà trở lên
Miệng niệm : Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật
Xin ngài đến tiếp dẫn vong linh tên . . . . sẽ từ trên đỉnh môn mà ra, sinh về thế giới cực
lạc phương tây, quyết định vãng sanh.
Như vậy đồng một lúc cả ba yếu tố: tinh thần châm chú, tay vận, miệng niệm. Nếu mỏi
mệt,thay người khác luân phiên, có khi suốt cả ngày, không nên nghỉ nữa chừng. Phải làm đến
lúc còn lưu lại một chút hơi ấm trên đỉnh đầu mới thôi.Như thế nghiệp thức của người chết được
gặp Phật và vãng sanh. Người chú nguyện phải là một vị thầy nghiêm minh giới luật, hoặc mời
được người tu niệm Phật lâu sẳn lòng từ bi thì tốt hơn cả.
 
III) Cầu siêu: Mục đích là sám hối tội lỗi cho người quá vãng, hầu chuyển nghiệp nhân
xấu ác của người, khiến họ xa lìa quả báo đau khổ , rời khỏi cảnh giới tối tâm đọa đầy. Cầu cho
thần thức người được nhẹ nhàng, thảnh thơi, siêu sanh về nơi thế giới tịnh lạc, chóng thoát luân
hồi.
Vậy cầu siêu là cầu cho người sau khi lâm chung; thời gian 49 ngày là quan trọng hơn cả,
theo lý thuyết Phật giáo khi chết tứ đại tan rã, thần thức (thân trung ấm) chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác theo nghiệp cảm đã tạo tác. Muốn được ra khỏi vòng luân chuyển, tâm linh của người
sống phải ứng hợp với thần thức của người chết để tạo ra một năng lực gọi là” tự tha hổ tương”
mới mong siêu thoát đến chốn an vui. Muốn đạt được mục đích này,điều tiên quyết là sự thành
tâm và thanh tịnh của quí vị hộ niệm “cầu độ” mới có thể cảm ứng vơí linh giác của người “được
độ”. Theo Việt nam các ngày về sau như : bách nhật, tiểu tường, đại tường, húy kỵ vẫn tiếp tục
cầu siêu với sự ước mong giải thoát. Gia quyến cần đặt vấn đề cầu nguyện và hiếu sự lên trên,
nên tránh việc sát hại sanh linh, hoặc việc làm có tánh cách gây tội lỗi. Cần nhất là người cầu
nguyện phải trai giới thanh tịnh, vận hết lòng thành tập trung vào việc tụng kinh, niệm Phật, sám
hối để cầu nguyện. Thân nhân của người quá vãng cần làm thêm những việc từ thiện: phóng
sanh, bố thí, cúng dường, ấn tống kinh điển.v.v. . .
Trong kinh Phật dạy: Tụng niệm và làm các việc phước thiện đem công đức ấy hồi
hướng cho hương linh, cũng như gởi lương hướng cho người đi xa vậy. Người đã siêu rồi mau
được Phật thọ ký; Người ở các cõi trên mau lên các địa vị cao hơn, hào quang càng sáng tỏ.
Người đang sa đọa vào ba đường ác thì cũng nhờ các công đức ấy mà siêu sanh tịnh độ hay thoát
khổ lên cõi trời, cõi người.v.v. .
Ðó là ý nghĩa cầu siêu và việc làm của người còn đối với kẻ mất vậy.

Mền QUANG MINH


Bài kệ
Chơn ngôn Phạn tự, xúc thi cốt,
Vong giả tức sanh tịnh độ trung.
Kiến Phật, văn pháp, thân thọ ký,
Tốc chứng vô thượng đại Bồ đề.
A) Chơn ngôn (thần chú) Phạn tự: Có hai bài thần chú Quang Minh nguyên văn chữ
Phạn, nay được phiên âm ra Hán văn, ra Việt văn để cho dễ đọc tụng
1) Bài thứ nhất (có ít chữ):
Tỳ Lô quán đảnh chơn ngôn: Àn a mộ già vi lô tả nẳng, ma hạ mẩu nại ra, mạ nỉ bát nạp mạ,
nhập phạ lã,bát ra mạt đá dạ hồng (108 biến)
2) Bài thứ hai (có nhiều chữ):
Ðại bảo quản bát, lâu cát thiện trụ bí mật đà la ni:Nẳng mồ tát phạ đắt tha nghiệt đá nẫm, án
vĩ bổ lã, nghiệt bệ mạ nỉ, tô bát ra bệ vĩ mạ lê, bà nghiệt ra nghiễm tỷ lệ, hồng hồng nhập
phạ lã, nhập phạ lã, một đà vĩ lô chỉ đế, hồng hê dạ địa sắc sí,đa nghiệt bệ ta bà ha (21 biến,
hay 108 biến)
B) Y nghĩa và công năng hiệu lực của thần chú (chơn ngôn) Quang Minh:
Thần chú nầy đức Phật dạy rõ trong kinh: “Bất không quyền tác Tỳ Lô Giá Na Phật đại quán
đảnh chơn ngôn”. Thần chú là thuộc về Mật giáo, nên đức Phật dạy gia trì nguyện lực tụng chú
nầy, có rất nhiều công năng lợi ích, để cứu bạt cho người khi lâm chung . Vì rằng: tất cả chúng ta
từ vô thỉ kiếp đến nay đã gây vô lượng tội lỗi nghiệp chướng, khi lâm chung nghiệp báo ấy hiển
hiện như bóng theo hình, hành hạ thân xác người sắp chết, và chết rồi phải đọa vào ba đường ác.
Trong kinh Phật dạy nên lấy chơn ngôn (thần chú) nầy mà gia trì vào đất hoặc cát, cho được 108
biến, rồi rải trên hài cốt của vong giả, hoắc nơi rừng chôn tử thi. nhờ oai lực của thần chú nầy và
sức gia trì chú nguyện vào đất cát kia mà cảm được hào quang của chư Phật chiếu đến nơi thân
vong giả, vong giả liền xã trừ được các nghiệp báo, khổ não , sanh về Tây phương cực lạc thế
giới. Trong kinh nầy cũng có dạy nên lấy lụa, vải viết bài chơn ngôn nầy đấp lên thi hài hoắc
xương cốt của vong giả, vong giả hưởng được nhiều lợi ích, lìa khổ được vui.
Do đó ngày nay khi làm lễ nhập liệm , quí thầy thường có mặc cho thi hài một áo vải hay lụa
vàng có ghi thần chú Quang Minh, có bao tay, bao chân,nón Quan Âm. Áo đó gọi áo Quan Âm
hay mền Quang Minh. Với mục đích mong được như ý nghĩa của bài kệ . Trên áo phải ghi:
LIÊN XÃ ÐĂNG DANH-Họ tên . . . Pháp danh . .

 Làm TUẦN cho người quá vãng


          Lời Phật dạy:
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hỏi đức Phật: “Phàm người ở đời không hay tu phước tu
huệ, sau khi chết rồi có con trai hay con gái hiếu thảo, thỉnh thầy tụng kinh Ðại thừa,lập đàn thủy
lục hay làm chay lớn, để cầu siêu độ cho vong linh. Vậy các vong linh ấy, thật có thể siêu độ
được không?”
Phật đáp:”Phàm người ở đời lúc còn sanh tiền, không tu phước thiện gì, sau khi mất rồi,
con cháu làm việc công đức tiến bạt, thì mười công đức, vong linh chỉ được ba phần. Tại sao
vậy? Vì lập công làm phước, không gì hơn tiền tài của cải. Người sống đem của tiền và sức lực
mình ra bố thí, thì những người đồng chung lo phận sự ấy được phước báo nhiều hơn vong linh.
Trong khi làm việc phước đức ấy, mà thỉnh những người uống rượu ăn thịt, không thanh tịnh,
đến tụng kinh lập đàn tiến bạt, thì thiên thần không giáng lâm, thánh hiền không đến dự, càng
thêm tội lỗi khổ lụy cho vong linh. Nếu có con trai hay con gái hiếu thuận và chơn chánh, sau khi
cha mẹ mất rồi, mỗi tuần 7 ngày, làm chay 7 thất; trong ba năm toàn gia trai giới, xuất tiền của
thanh tịnh của mình,cầu thỉnh những vị tu hành đức hạnh trai giới tính nghiêm, đọc tụng kinh
điển đại thừa, lập đàn thủy lục vô ngại, đại trai hương hoa trang nghiêm, đúng như pháp mà cúng
dường, một lòng thành kính , thay thế hương linh, cầu xin sám hối, cởi mở tội lỗi, cầu xin phước
đức cho vong linh; biết cách tiến bạt như vậy, thì vong linh được siêu thoát, hoặc sanh lên cõi
trời; người sống cũng được phước . Người còn kẻ mất đều được thảnh thơi, nhơn gian vui vẻ,
thần thánh hoan hỷ”( Ðại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
Sau đây là ý nghĩa can bản về việc làm tuần.
 
1) Cách tính tuần: Theo Phật giáo Việt nam, người từ trần bất cứ giờ nào trong ngày,đều
tính ngày ấy là ngày thứ nhất và tiếp tục đếm cho đến ngày thứ 49 là ngày chung thất, mỗi tuần
là 7 ngày. Ngày chung thất còn được gọi là tuần Tứ Cửu, Thất Thất Lai Tuần, hay Tuần Ðịnh
Nghiệp. Phật giáo Tây Tạng lại tính Tuần khác hơn. Nếu người chết sau giờ Ngọ thì ngày đó
không tính là ngày thứ` nhất. Ví dụ: nếu người chết tắt thở lúc 3 giờ chiêù ngày thứ Ba, Việt nam
sẽ làm tuần thứ nhất vào thứ hai tuần tới. Phật giáo Tây Tạng sẽ làm tuần vào ngày thứ Ba. Nếu
tắt thở trước giờ Ngọ thì hoàn toàn giống nhau.
 
2) Thần thức qua thất thú: Theo lý thuyết, khi con người chết đi, phần tứ đại: xương,
thịt, máu huyết v.v...tan vào đất nước gió lửa nhưng còn phần thần thức tức là trung ấm thân, tức
là sắc, thọ,tưởng, hành, thức chất chứa trong Mạt Na và A Lại Gia để cứ kiếp này, kiếp khác luân
chuyển mãi mãi theo với nghiệp cảm tạo tác mà nên. Cũng do đó mà thần thức phải qua thất bất
khả tỵ
---Sinh bất khả tỵ---nghĩa là nhất định lại phải thụ sinh, y cứ vào thiện nghiệp hay ác
nghiệp để thụ quả khổ đau hay vui sướng.
---Lão bất khả tỵ---đã thụ sinh là phải có sự già yếu không thể tránh được.
---Bệnh bất khả tỵ---ốm đau không thể tránh được.
---Tử bất khả tỵ---chết không thể tránh được.
---Tội bất khả tỵ---tội nghiệp tạo nên không thể tránh được.
---Phúc bất khả tỵ---phúc quả tạo nên không từ chối được.
---Nhân duyên bất khả tỵ---tất cả mọi nhân duyên thiện ác để thụ sinh không thể tránh
được.
Luân lưu qua 7 đường không thể tránh được, thần thức sẽ phải qua thất thú đó là :
--- Hoặc sa địa ngục thú
--- Hoặc đọa ngã quỷ thú
--- Hoặc đọa súc sinh thú
--- Hoặc thành nhân thú
--- Hoặc sinh A tu la thú
--- Hoặc sinh Thần Tiên thú
--- Hoặc sinh Thiên thú
 
3) Chung thất: Việc luân chuyển không nhất định là ngày thứ 49 mới là ngày định
nghiệp, mà có thể sớm hơn. Nhưng ngày thứ 49 là ngày cuối cùng để qua đủ thất bất khả tỵ, nên
nhất định ngày thứ 49 phải định nghiệp. Vì thế quan niệm của Phật giáo xem tuần chung thất là
quan trọng nhất đối với người chết. Muốn được ra khỏi vòng luân chuyển, tâm linh của người
sống phải ứng hợp với thần thức của người chết để tạo ra một năng lực gọi là “tự tha hỗ tương”
mới mong siêu thoát đến chốn an vui. Muốn đạt được mục đích này, điều kiện tiên quyết là sự
thành tâm và thanh tịnh của quí vị
“cầu độ”(Ðạo tràng và Tín chủ) mới có thể cảm ứng với linh giác của người “được độ “.
 
4) Thập điện Diêm Vương: Mười vị vua ở âm cảnh, mỗi vị ngồi nơi điện mình mà phê
các việc tội phước của những “hồn” đã từng sống ở dương gian, hoặc ra lệnh hành tội, ra lệnh
thả, hoặc cho đi luân hồi tùy theo tội phước của mỗi mạng
Liên quan giữa thập điện và các lễ làm tuần:
Ðiện thứ nhất do ngài Tần Quãng Vương,
làm lễ tuần thứ nhất
Ðiện thứ hai Sở Giang Vương tuần thứ hai
Ðiện thứ ba Tống Ðế Vương tuần thứ ba
Ðiện thứ tư Ngũ Quan Vương tuần thứ tư
Ðiện thư năm Diêm La Vương tuần thứ năm
Ðiện thứ sáu Biến Thành Vương tuần thứ sáu
Ðiện thứ bảy Thái Sơn Vương tuần thứ bảy
Ðiện thứ tám Bình Ðẳng Vương Lễ bách nhật (100 ngày)
Ðiện thứ chín Ðô Thị Vương Lễ tiểu tường (Giỗ đầu )
Ðiện thứ mười Chuyển Luân Vương Lễ đại tường (mãn tang)
Chúng ta là Phật tử, không lẽ nào không tin lời Phật dạy? Hơn nữa, những điều nầy cũng
không phản lại thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt nam chùng ta là thờ cúng Ông bà, Tổ tiên.
Ðặc biệt, mục đích của nghi lễ Phật giáo đã góp thêm cho thuần phong mỹ tục của dân tộc một
hương vị đậm đà độc đáo nhất vô nhị, đó là hương vị giải thoát cho hương linh
 

CHẨ N TẾ và BẠ T ÐỘ
CHẨN TẾ
Y nghiã của việc cúng thí thực cô hồn:
Nghĩa của hai chữ thí thực là bố thí thức ăn, về quan niệm ăn của Phật Giáo như sau:
 
a. Ðoạn thực: thức ăn cứng, có thể chia thành phần như cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các
thức vật có hương vị làm xúc cảm tâm thức. Tóm lại là những thức ăn thông thường mà các
chúng sanh trong cỏi Trời, Người và súc vật thường ăn, ăn bằng miệng và tiêu hóa được.
 
b. Xúc thực: Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương
vị mà thôi.
 
c. Tư thực: ăn với sự kiện thần giao tư tưởng, là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc giới, ăn với
phương thức thuyền duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn
luôn xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.
 
d. Thức thực: ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau,
bậc Thánh hưỡng thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn bậc phàm phân biệt là ngon, dở;
do chỗ phân biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân
hồi.
Vì vậy mà khi mình ăn thì bậc Thánh cũng thọ hưỡng cho đến các loài ngạ quỷ, súc sanh đều thọ
dụng. Do đó mà các bậc tu hành, khi ăn trước hết phải cúng dường lên Phật, lên Tổ rồi làm phép
Thí thực cho khắp thập loại chúng sanh, cô hồn, hai chữ cô hồn là nói chung tất cả những hương
hồn bơ vơ, cô độc, không nơi nương tựa, không nơi thờ cúng, không ai ghi nhớ. . . Nhưng theo
kinh sách thì gọi là Thí Thực Ngạ quỷ tức là ban phát thức ăn cho các loài quỷ đói, do đó những
hương hồn bơ vơ, không nơi nương tựa cũng trở thành ngạ quỷ. Vậy thí thực cô hồn cũng là Thí
thực Ngạ quỷ.
 
Cúng thí thực cô hồn là một khoa nghi cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa
đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế. Trong kinh Phật thuyết Diệm Khẩu Ngạ quỷ
Ðà la ni có ghi lại: Một hôm ngài A Nan đang tịnh tu, có một con quỷ mặt mày quái dị đến nói
với ngài trong ba ngày nữa ngài sẽ chết. Ngài đem chuyện ấy bạch lại với đức Phật. Phật dạy
khắp trong ba cõi đều có các loài ngạ quỷ cần cứu độ. Phật còn dạy cho ngài A Nan những chú
nguyện cần thiết và bảo lấy gạo nấu cơm cháo để cúng thí. Từ đó về sau mỗi lần thọ trai, các đệ
tử của Phật thường sớt lại phần ăn để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Mãi về sau, việc cúng thí
được chư Tổ sắp xếp theo thứ lớp: Cúng Phật, Cúng Tổ, thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư
Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực như là một phần hành trì thiết yếu hằng ngày sau công phu
chiều. Ở Việt nam, ngày trước cứ mỗi lần trong nhà có lễ: quan, hôn, tang , tế đều có cúng thí
thực. Ðơn giản một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo, hay thông thường gọi là
cúng Mông sơn thí thực.
Nguyện nhân đời nhà Tống, Cam lồ Pháp sư lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh
Mông sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, phần khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và
lời cầu nguyện tóm tắc như sau:
 
1/ Trình bày tất cả do tâm tạo, qua kệ Hoa Nghiêm: Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thế nhất thiết
Phật, Ứng quán pháp giới tánh, Nhất thiết do tâm tạo.
 
2/ Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan mọi phiền não, sám hối tội lỗi,
giải sạch oan khiên qua chú: Phá địa ngục chơn ngôn, Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Giải oan kết
chơn ngôn.
 
3/ Cung thỉnh : Mười phương Tam bảo, Thích Ca, Quán Âm, Ðịa Tạng, và A Nan Ðà giáng lâm
tác chứng.
4/ Hướng dẫn chúng san
h quy y Tam bảo: Quy y Phật lưỡng túc tôn, Quy y Pháp ly dục tôn, Quy y Tăng chúng trung tôn.
 
5/ Sám hối: Nhất thiết Phật tử, Hữu tình, Cô hồn giai sám hối. Nói chung cả người cúng lẫn kẻ
thọ (cô hồn) phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc. Kẻ cúng không bị đọa lạc, người hưởng (cô
hồn) mới thọ dụng được pháp vị.
6/ Phát đại nguyện: Chúng sanh thệ nguyện độ, Phiền não thệ nguyện đoạn, Pháp môn thệ
nguyện học, Phật đạo thệ nguyện thành. Chính người có phát tâm mới có giao cảm giữa người
cứu độ và người cầu độ, mới gặt hái được kết quả lợi lạc.
 
7/ Diệt tội:Thành tâm sám hối, phát đại nguyện, hành giả tụng các thần chú diệt tội mới có linh
cảm: Diệt định nghiệp chơn ngôn của ngài Ðịa Tạng .
Diệt bất định nghiệp chơn ngôn của ngài Quán Âm.
 
8/ Tuyên thuyết định giới: thần chú khai yết hầu chơn ngôn và tam muội da giới chơn ngôn. Ðể
cho chúng sanh diệt trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu, thọ hưởng pháp thực; thọ xong , giữ giới
để thoát khỏi phiền não.
 
9/ Biến thức ăn thành pháp vị: Biến thực chơn ngôn, Cam lồ thủy chơn ngôn, Nhất tự thủy chơn
ngôn, Nhủ hải chơn ngôn; khiến cho chúng sanh thọ hưởng được sung mãn.
 
10/ Niệm Phật: Ðể cho hành giả và chúng sanh tạo duyên lành gây chủng tử Phật.
 
11/ Kết nguyện: Thần chú gia trì tịnh pháp thực, tất cả Phật tử, hữu tình, cô hồn đã no đủ, xã hết
tham dục mau thoát cảnh u đồ vào tịnh độ. Trì chú:”vô giá thực chơn ngôn” phá tang sự ngăn
ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thọ hưởng cam lồ vị.
 
12/ Hồi hướng: Cầu cho tất cả chúng sanh an lành vãng sanh cực lạc.
Khoa này có ba điểm cốt lõi: Tâm thành, kinh chú, thân khẩu y thanh tịnh.
 
Cách lập bàn cúng Thí thực:
Thông thường là phải có 2 (hai) bàn: một bàn cao và một thấp hơn (gọi là bàn thượng và bàn hạ)
:
_ Bàn thượng: Tôn trí tượng Phật, hay tượng Bồ Tát, nhưng thông thường là tượng ngài Tiêu
Diện Ðại Sĩ ( hóa thân của ngài Quán Thế Âm), lư hương, đèn, hoa, quả, ly nước trong.
_ Bàn hạ (bàn đồ ăn) cũng trang trí: lư hương, đèn, bông, trái, ly nước trong, ly đề pha nước trà,
một bình trà cúng. Phía sau dãy đồ thờ là một mâm cơm cúng gồm đủ đồ ăn như cúng linh,
ngoài ra còn có một nồi cháo thật lõng ( cháo thánh), một dĩa lớn hoặc một khay gồm: muối hột,
gạo, đường thẻ. . . đây là thành phần chính yếu, nếu có thêm các thứ khác như : bắp, khoai lang,
củ mì, bánh tráng, trái cây v.v. . . càng nhiều càng tốt.
*Nếu có điều kiện và khả năng thì lập thêm một bàn nữa phía trước bàn đồ ăn. Bàn nầy cao hơn
bàn đồ ăn, nhưng thấp hơn bàn Tiêu Diện một chút. Trên bàn nầy tôn trí tượng ngài Ðịa Tạng,
lư hương, đèn, bông, trái như các bàn khác.
Tóm lại, hai bàn thượng là bàn Phật, Bồ Tát nên trang trí đơn giản, trang nghiêm và không để đồ
ăn.
Lưu ý:
a) Bàn thí thực luôn luôn lập ngoài nhà, trước cửa chính, nhìn vào bàn Phật trong nhà, tín chủ lạy
hướng từ trong nhà lạy ra, cách thức lạy như lạy linh. Thí thực được cúng tại tư gia sau khi có lễ
cầu an, cầu siêu hoàn mãn.
b) Bàn thí thực Cô hồn không được lập gần cây thạch lựu, hoặc cây đào vì Quỷ sợ loại cây nầy.
 
c) Trước bàn thí thực phải dành một khoảng trống; ít nhất là bằng một chiếc chiếu để quí vị Quỷ
Thần, Cô hồn có chỗ lễ bái chư Phật và thọ thực không bị chướng ngại. Khi hương đã thắp lên
rồi thì không nên đi qua, lại trong vùng nầy, mà chỉ nên đi hai bên. Chủ lễ Cư sĩ nên đứng sau
chiếu dành cho các vị Quỷ Thần và Cô hồn. Nếu trai đàn chẫn tế, lược khoa thì khoảng trống
nầy ở trước bàn Giác Hoa, và nên dùng loại dải vải vàng để làm ranh giới khu vực nầy.
 
2- Thực phẩm cúng: Nếu có cúng rau; nên cúng rau chín như rau luộc hoặc nấu canh, không
được cúng rau sống. Cháo thánh phải nấu thật lỏng (nhiều nước, nhưng ít gạo). Không nên lấy
cơm rồi cho nước vào để làm cháo.
 
3- Ban Nghi lễ và người tham dự:
 
a) Trong suốt thời gian cung hành nghi lễ, tất cả mọi người không được ăn hay uống bất cứ món
gì. Ngoại trừ thời gian nghỉ ngơi đã được qui định trong nghi thức.
 
b) Phải hành lễ theo đúng thứ tự mà nghi thức đã qui định, không được đảo lộn như : thỉnh Cô
hồn trước rồi thỉnh chư Phật và Bồ Tát sau. Tuy nhiên được phép thay đổi các bài thỉnh, nhưng
nội dung vẫn không khác.
 
c) Vị phụ trách hương đăng phải cắm hương sau mỗi lần thỉnh vào đúng lư hương của chư Bồ
Tát hay Cô hồn như lời cung thỉnh.
 
d) Nếu có Ðiệp văn nên tuyên đọc sau diên trà thứ nhì.
Trên đây là những điều rất căn bản, tầm thường. Nhưng chính vì sự tầm thường đó mà chúng ta
hay phạm phải và xem nhẹ; trong khi chính mình đang làm công việc đó và là người chịu hoàn
toàn trách nhiệm về mọi hậu quả. Do đó chúng tôi viết lên những dòng chữ nầy với một ước
nguyện duy nhất là: mong quí vị Cư sĩ đang có trách nhiệm nghi lễ để duy trì mạch đạo và bảo
tồn một phần truyền thống văn hóa của dân tộc hãy lưu tâm, hầu ứng phú hửu hiệu trong mọi
hoàn cảnh.
Cao hơn cả là chẩn tế cô hồn, chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan hồn uổng tử, bất đắc
kỳ tử, bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không nơi nương tựa. Không những thí thực mà còn
một lòng mong cứu độ cho chư vị thoát khỏi cảnh khổ nghiệp ác của cõi ngạ quỷ cô hồn. Một
khoa nghi nhiều lợi lạc nhất nhưng rất khó thực hiện, vì phải đòi hỏi tinh thông cả hai mặt, kinh
điển và mật điển. Mật điển của khoa Du Già là Tam Mật đồng tu: Thân kiết ấn, Khẩu trì chú, Ý
quán tưởng. Ấn là Pháp thân, Chú là Báo thân, Kinh văn là Hóa thân. Thành tâm cầu nguyện
thập phương Tam bảo gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi tam tâm: từ bi, hỷ xã, bình đẳng
độ thoát địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đồ khổ não, chúng sanh đồng sanh an dưỡng. Có thể
nói đây là một pháp hành trì mà âm cảnh và dương gian đồng lợi lạc.
Phần nghi lễ thường do một số thầy thuần thục khoa nghi Du già ngồi đàn
 
Cung trần pháp đàn chẩn tế :
Ðàn tràng tiếng Phạn là Mạn đà la, có nghĩa là một chỗ ngồi, một cuộc đất, lại còn có
nghĩa là Luân viên cụ túc. Tức là lập một cái đàn bằng đất cao, vuông hoặc tròn đặt chư tôn lên
đó mà cúng tế. Trên đàn tập trung đầy đủ chư tôn, chư đức, tạo thành một đại Pháp môn, một
bánh xe tròn trặn, lại còn có nghĩa nơi tụ hội của thánh hiền, muôn đức đều quay về. Vậy cung
trần pháp đàn chẩn tế là bày biện, sắp xếp vị trí hành lễ chẩn tế tròn đầy trang nghiêm theo khoa
nghi. Thứ tự từ trong ra như sau:
1/ Bàn Phật: Cung thỉnh tượng Phật Thích Ca.
2/ Bàn kinh: Kinh sách, chuông mõ, pháp khí.
3/ Tham lễ Giác Hoàng: Chủ sám vào bạch Phật, đội nón Tỳ Lư
Nón Tỳ Lư: tỳ Lư là tên gọi tắc của Tỳ Lư Giá Na tên chung của Pháp thân Phật tức là
đức Ðại Nhật Như Lai của Mật giáo. Vị Tăng thủ tọa đội nón Tỳ Lư đứng làm đức Phật Tỳ Lư
Giá Na (Ðại Nhật Như Lai) tụng kinh thí thực trong lễ Vu Lan. Do đó nón này các gia trì sư đội
trong các lễ trai đàn chẩn tế, bạt độ và tang lễ của Phật giáo Việt nam
4/ Màn Sư tử toà: Sư tử tọa là chỗ ngồi của Phật.
Phật là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ
chẳng phải là Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ ở đâu, dù trên ghế, hòn
đá, gốc cây hay mặt đất... thì những chỗ đó đều gọi là sư tử tòa. Vậy bức màn sư tử tòa là bức
màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị gia trì sư, tượng trưng
chỗ ngồi của Phật.
5/ Bảo tọa: Chỗ ngồi của gia trì sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt
là cô hồn mà tuyên dương chánh pháp. Theo khoa nghi trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải
cung hành một nghi thức mật pháp rất nghiêm trang. Sau khi cung thỉnh ngũ phương Phật xong,
vị chủ sám đến trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng vào vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng
thủ lư cung thỉnh sám chủ đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Vị chủ sám đáp lời và xin
phép chư Phật cho đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống Bát Nhã để cung
nghênh bằng động tác vổ thủ xích, chuông trống Bát Nhã cử hành, sám chủ quay về trái thượng
bảo tọa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài.
6/ Màn song khai: Trước bảo tọa là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo
quy định trong khoa nghi.
7/ Bàn kim đài: Kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hay bốn người. Thứ tự tính từ trong ra
ngoài. Có đội nón Tỳ Lư hay không và xử dụng pháp khí (tan hay đẩu) tùy theo địa phương.
8/ Bàn giác hoa: Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời quá
khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp.
Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có mọt cô gái Bà la môn, nhân mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ
tượng Phật Giác Hoa Ðịnh Tữ Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền
khiến thần thức của cô gaí ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng
Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh địa ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là
tiền thân của Ðịa Tạng Bồ Tát.
Bên ngoài có các bàn ngũ phương:
Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu
của Phật giáo Mật tông; và là sự phối hợp giữa ngũ phương, ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ
hành trong Thai tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Do đó đàn tràng ngũ phương cũng
được lập hai cách khác nhau:
a/ Lập theo trung khoa Du Già:
 
1/ Trung ương:
Tỳ Lô Giá Na (Ðại Nhật Như Lai) Hiển thân sắc màu vàng, đối diện bàn Giác Hoa.
 
2/ Phương Ðông: A Súc Phật (Bất Ðộng Như Lai) Hiển sắc màu xanh, trở mặt vào bàn trung
ương.
 
3/ Phương Tây: Phật A Di Ðà. Hiển sắc màu trắng, trở mặt vào bàn trung ương.
 
4/ Phươmg Nam: Bảo sanh Phật. Hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào bàn trung ương.
 
5/ Phương Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật. Hiển sắc màu đen, trở mặt vào bàn trung ương.
 
b/ Lập theo Kim Cang Giới Mạn Ðà La:
1/ Trung ương:Tỳ Lô Giá Na Phật- Phật bộ.
Pháp giới thể tánh trí, thân sắc màu trắng.
2/ Phương Ðông: A Súc Phật- Kim Cang bộ.
Ðại viên cảnh trí, thân sắc màu xanh hoặc màu lam.
3/ Phương Tây: A Di Ðà Phật- Liên Hoa bộ. Diệu quan sát trí, thân sắc màu đỏ.
4/ Phương Nam: Bảo Sanh Phật- Bảo bộ.
Bình đẳng tánh trí, thân sắc màu vàng.
5/ Phương Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật- Yết Ma bộ.Thành sở tác trí, thân sắc màu lục
Sở dĩ có sự khác biệt về thân sắc của ngũ phương Phật là do nhiều nguyên nhân như:
Truyền bá đến các nước Phật giáo bằng nhiều đường khác nhau, ảnh hưởng truyền thống văn hóa
của mỗi quốc gia dân tộc, tiến trình kết cấu và phát triễn Mạn Ðà La.v.v...Ngoài ra ấn tướng của
chư Phật trong ngũ phương cũng có khác nhau theo sự phát triễn không ngừng của triết học Mạn
Ðà La. Nhưng đây chỉ là những dị biệt nhỏ về hình thức, còn nội dung và mục đích tu chứng
hoàn toàn không có gì thay đổi
Phía sau Ngũ phương Phật là:
1/ Bàn Ðịa Tạng (đồng hướng và cao như bàn Trung ương)
2/ Bàn hộc thực (thấp hơn, để đồ cúng)
3/ Bàn Tiêu Diện (cao hơn bàn Ðịa Tạng)
Ngũ phương, Ðịa Tạng và Tiêu Diện là bảy vị Phật độ cô hồn nhập đàn tràng thọ hưởng
pháp lạc. Thường tại chùa hay tư gia có thờ Phật, chỉ lập đàn tràng từ màn Sư tử tòa đến bàn
Tiêu Diện trên rạp tiền chế.
Nếu không đủ sứ chẩn tế thì cúng lược khoa: phần kinh chú nhẹ hơn, phần đàn tràng khỏi
lập ngũ phương.
 

 
BẠT ÐỘ
 
Giải oan Bạt độ có nghĩa là cỡi bỏ oan khiên trói buộc, nhổ sạch phiền não đưa hương
linh qua sông mê về bến giác.Lễ giải oan Bạt độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta
luôn nghĩ đến những oanhồn uổng tử, những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc giòng họ đang chơi
vơi nơi cảnh ngạ quỷ cô hồn chưa được siêu thoát mong được hoá giải cứu độ.
Trong hành lễ, Sám chủ xử dụng ấn chú và cây Tích trượng trong hình thức giải oan:
( Triệu thỉnh, Phá địa ngục, Giải tội khiên, Sám hối, Quy y ).
Cây Tích trượng còn có tên là Thanh trượng, Minh trượng, Trí trượng hay Ðức trượng.
Hiển giáo dùng làm gậy khi đi khất thực và đuổi trùng thú. Theo Tích trượng kinh: -Tích
trượng của Phật Ca Diếp có hai gọng và 12 vòng tượng trưng cho hai đế (chơn đế và tục đế) và
thập nhị nhân duyên.
-Tích trượng của Phật Thích Ca có 4 gọng và 12 vòng tượng trưng cho tứ đế và
thập nhị nhân duyên
Mật giáo thì cho đó là cây Thập Pháp Giới do 5 đại tạo thành, là hình Tam Muội Da của
đức Ðịa Tạng có 6 vòng tượng trưng lục độ, trên đầu gậy có 5 bánh xe tượng trưng Bảo tháp.
Hình thức dẫn độ hương linh qua cầu từ bến mê về bờ giác, bẽ gảy chiếc cầu giữa đôi đường mê
giác, ân cần nhắc nhở chư hương linh đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, chuyên tâm tu hành thánh
đạo:” Ðoạn nhất thiết ác, tu nhất thiết thiện, độ nhất thiết chúng sanh”.
Hơn nữa, trong kinh Pháp Cú, Phật cũng đã dạy:”Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ các trạng
thái tâm lý và hành vi”.Nếu con người hành động hay nói năng với một tâm ác xấu thì khổ não sẽ
lê bước theo sau người ấy như bánh xe lần theo dấu chân của con bò kéo xe. Ngược lại nếu con
người hành động bằng tâm thiện lành thì hạnh phúc sẽ đuổi theo người ấy như bóng không rời
hình”
Với tâm thiện lành từ đây chắc hẳn âm linh thoát khỏi cảnh khổ phiêu bồng, chúng ta
cũng không còn dây dưa với nghiệp cảm ấy nữa.
Ngoài ra chúng ta còn có những cách bạt độ khác thuần túy như: quy y linh, vớt vong,
thuyết linh.v.v...
BÁT QUAN TRAI GIỚI
A. MỞ ĐỀ
Đức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa.
Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, huệ".
Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định,
tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh phiền não; vô
minh phiền não có dứt trừ mới minh tam kiên tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều
thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong
hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về
phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì
chúng ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng
tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới.
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA
Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24
giời).
Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là
khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn
cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau
đây:
1. Không được sát sanh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ
8. Không được ăn quá giờ ngọ
II. GIẢI RÕ TÁM ĐIỀU RĂN CẤM NÓI TRÊN
1. Không được sát sanh
a) Ý nghĩa vì sao không được sát sanh:
Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống
nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi,
ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim
thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến
tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để chốn thoát. Và khi được thả ra,
thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối
vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì
thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt
cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô
kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô
cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng
sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đã
tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số
Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan
trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô
giết người, đã đành ! Chúng ta cũng không nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi
loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản
đừng cho người ta thi hành ác ý ấy.
Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích
sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.
2. Không được trộm cướp
Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người
ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau,
người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi
làm trễ giờ, boc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là
trộm cướp.
Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra
tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền
của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh.
Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta
không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó
là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm
diẹt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?
Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một
cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng
xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có
khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình,
thân thuộc mà phải làm như thế.
Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà
cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm
cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng
ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và
ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn
thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu.
Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ,
chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta.
3. Không được dâm dục
Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy
rằng: "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì
không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn
kiếp cũng không thành cơm được".
Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.
Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoàn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà
dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ
chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng.
Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì
tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, nà cũng không
được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.
Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô
cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành
diệt dục.
4. Không được nói dối
Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong
bài Ngũ Giới. Đó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất
lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một
xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày
thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai,
không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn
khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy !
Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo
được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
5. Không được uống rượu
Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc
độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người
cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si
ám.
Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không
nên uống rượu".
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật,
chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên
mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội
lại nặng hơn.
Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phaỉ có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì
chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị
làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.
Đấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt
rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng uống nữa.
6. Không được trang điểm,thoa dầu thơm, múa hát và đi xem 
Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến
cảnh giới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh
tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh
khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng
những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe
tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích
thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta.
Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hat lả lơi, quyến rũ,
hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục.
Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã
hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc,
hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch,
xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải
lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng
quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.
Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không
được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố
gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong
đầu óc chúng ta.
Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng
quý báu cho sự tu hành của chúng ta.
7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn
Điều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không
cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm
màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo
điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật ché ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư
là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho
Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư
mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ.
Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn
Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện: ba
năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ
nằm sương, từ năm này sang năm khác...
Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ
không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm
bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải
triệt để thi hành giới thứ bảy này.
8. Không được ăn quá giờ ngọ
Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ
quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".
Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:
Ít mống tâm sai quấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhất tâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.
Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau
giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại
gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này.
C. KẾT LUẬN
1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một phát tu vô cùng lợi ích cho
Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn
thạnh tịnh, chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người
không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều tuy vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng
là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ,
nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm
ngàn châu báu khác.
Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thuâ hoạch được
trong 24 giờ ấy mà xem.
Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những
máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho
người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng.
Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những
vật phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải m,à họ đã
nâng niu, quý trọng.
Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm,
cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng.
Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung
quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.
Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không
loạn động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con ma
men này hành hạ.
Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình
ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải
tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát. 
Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục
lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang,
phù phiếm bên ngoài ngăn cách.
Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với
các loài chung quanh, như người nghèo đoí, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát,
vì sự lục lạo ăn uống về đêm.
Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24
giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa?
2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành Bát quan trai giới
Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên
sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có
thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.
Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích
không bằng đến chùa.
Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh
giải thoát, rồi khuyên nhiều người thật hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải
thoát, an vui.

You might also like