You are on page 1of 49

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


(1930 – 2018)

HÀ NỘI - 2020

1
5. NỘI DUNG CHI TIẾT HỌC PHẦN

Chương nhập môn


ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Đối tượng và mục đích môn học Lịch sử Đảng


1.1. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu
- Quan hệ với các môn học khác
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Về kiến thức
- Về tư tưởng
- Về kỹ năng
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng
2,1.Chức năng môn học
- Chức năng nhận thức lịch sử
- Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng
2.2. Nhiệm vụ của môn học
- Trình bày có hệ thống Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
- Tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng.
- Tổng kết lịch sử, đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
3.1. Phương pháp luận
- Cở sở lý luận: chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
- Phương pháp luận: phương pháp luận sử học Mác xít
3.2. Phương pháp nghiên cứu, học tạp
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Một số phương pháp liên ngành, bổ trợ

Chương 1. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
Mục tiêu

2
Về kiến thức:Cung cấp cho sinh viên những nội dung khách quan, chân thực về
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng; Vai trò lãnh đạo của Đảng trong 15 năm tiến hành cách
mạng để xác lập chính quyền cách mạng, thay đổi vận mệnh dân tộc (1930-1945).
Về tư tưởng:Cung cấp cơ sở lịch sử, góp phần củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào
con đường cách mạng vô sản- sự lựa chọn đúng đắn, khách quan, tất yếu của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
Về kỹ năng:Trang bị cho thế hệ trẻ phương pháp nhận thức biện chứng, khách
quan từ quá trình lịch sử Đảng, góp phần nâng cao năng lực tư duy, nhận thức đúng
đắn, khách quan về chính trị-xã hội trong điều kiện lịch sử mới hiện nay.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và quá trình chuẩn bị thành lập Đảng
- Bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ XX
+ Tình hình thế giới
+ Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam
- Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
+ Phong trào yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
-Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình chuẩn bị thành lập Đảng
+ Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc
+ Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
- Những chuyển biến của phong trào yêu nước và sự ra đời các tổ chức cộng sản
+ Sự chuyển biến của phong trào yêu nước
+ Các tổ chức cộng sản được thành lập
- Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
+ Hội nghị thành lập Đảng
+ Nội dung cơ bản và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.3. Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng
- Đặc điểm sự ra đời của Đảng
- Ý nghĩa ra đời của Đảng
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
2.1. Đường lối của Đảng
- Từ tháng 10-1930 đến tháng 3-1935
+ Hội nghị BCH TW Đảng tháng 10-1930 và Luận chương chính trị của Đảng
+ Đại hội lần thứ I của Đảng (3-1935)
- Từ năm 1936 đến năm 1941
+ Hội nghị BCH Trung ương tháng 7- 1936

3
+ Hội nghị BCH Trung ương tháng 5- 1941
2.2. Các phong trào cách mạng
- Phong trào cách mạng 1930-1935
+ Chủ trương của Đảng
+ Diễn biến cơ bản, ý nghĩa lịch sử
- Phong trào dân chủ 1936- 1939
+ Chủ trương của Đảng
+ Diễn biến cơ bản, ý nghĩa lịch sử
- Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945
+ Chủ trương của Đảng
+ Diễn biến cơ bản, ý nghĩa lịch sử
2.3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm
- Tính chất và ý nghĩa
+ Tính chất
+ Ý nghĩa lịch sử
- Đặc điểm và kinh nghiệm
+ Đặc điểm
+ Kinh nghiệm

Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP
HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ MIỀN
BẮC (1945 - 1975)
Mục tiêu
Về kiến thức:Cung cấp cho sinh viên những nội dung lịch sử khách quan về sự
lãnh đạo của Đảng đối với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược thời kỳ 1945- 1975, nhất là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, dựa vào sức mình là chính và sự chỉ đạo kiên quyết, sáng tạo của Đảng trong
cuộc đọ sức với những kẻ thù to lớn, hung hãn, để giành độc lập hoàn toàn, thống nhất
đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Về tư tưởng:Nhận thức đúng đắn thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm rút ra từ
quá trình Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ 1945-1975;
qua đó nâng cao lòng tự hào dân tộc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh
đoàn kết của toàn dân trong sự nghiệp cách mạng hiện tại.
Về kỹ năng:Giúp sinh viên khả năng tìm chọn tài liệu nghiên cứu, nâng cao kỹ
năng phân tích, nắm bắt vấn đề, đúc rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng để vận
dụng vào công tác của mình.
1. Xây dựng, bảo vệ chính quyển cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954)

4
1.1. Xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến ở Nam Bộ (1945-
1946)
- Bối cảnh lịch sử và chủ rương kháng chiến kiến quốc của Đảng
+ Bối cảnh trong nước và quốc tế sau cách mạng Tháng Tám
+ Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
- Chỉ đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ
+ Đặt những nền móng đầu tiên cho chế độ mới
+ Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
1.2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và sự chỉ đạo thực hiện từ năm 1946 dến năm 1950
- Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
+ Phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
+ Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính
- Đảng chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến toàn quốc từ năm 1946 đến năm 1950
+ Triển khai cuộc kháng chiến toàn quốc (1946- 1947)
+ Xây dựng lực lượng, phát triển cuộc chiến tranh nhân dân về mọi mặt (1948-
1950)
1.3. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sự chỉ đạo thực hiện đưa kháng
chiến đến thắng lợi (1951- 1954)
- Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sự lãnh đạo kháng chiến từ năm
1951 đế năm 1953
+ Đại hội lần thứ II và Chính cương của Đảng về hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội
+ Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1951 đến năm 1953
- Đảng chỉ đạo cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954 và ký Hiệp định
Giơnevơ
+ Chỉ đạo cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954
+ Chỉ đạo đấu trang ngoại giao, ký kết Hiệp định Giơnevơ
1.4. Ý nghĩa và kinh nghiệm
- Tính chất cuộc kháng chiến và ý nghĩa lịch sử
+ Tính chất của cuộc kháng chiến
+ Ý nghĩa lịch sử
- Nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm lãnh đạo kháng chiến của Đảng
+ Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến
+ Những kinh nghiệm lãnh đạokháng chiến của Đảng
2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược, thống nhất đất nước (1954-1975)

5
2.1. Đặc điểm mới của cách mạng Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn 1954- 1965
- Đạc điểm của cách mạng Việt Nam và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới
(1954- 1960)
+ Đặc điểm của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954
+ Đường lối của Đảng trong giai đoạn mới: Tiến hành đồng thời 2 chiến lược
cách mạng ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm mục tiêu chung giải phóng miền Nam hòa bình
thống nhất đất nước.
- Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam (1954- 1960)
+ Khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
+ Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền
Nam (1961-1965)
+ Thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1961- 1965)
+ Giữ vững thế tiến công của cách mạng miền Nam (1961- 1965).
2.2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc
- Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giữ vững chiến lược tiến công ở miền Nam (1965-
1968)
+ Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới
+ Xây dựng và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc,
+ Giữ vững chiến lược tiến công trên chiến trường miền Nam
- Tiếp tục xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc (1969- 1975)
+ Tiếp tục xây dựng và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc
+ Đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-
1975)
2.3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
- Ý nghĩa và kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ miền Bắc
+ Ý nghĩa lịch sử:
+ Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
- Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
+Ý nghĩa lịch sử
+ Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng

6
Chương 3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC, THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI (1975 - 2018)
Mục tiêu
- Về kiến thức:Giúp sinh viên nắm được những nội dung cơ bản về quá trình
Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế (1975-2018).
- Về tư tưởng:Củng cố cho học viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Về kỹ năng: Rèn luyện cho sinh viên phong cách tư duy lý luận gắn liền với
thực tiễn, phát huy tính năng động, sáng tạo của người học; vận dụng những tri thức về
sự lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn công tác, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
công cuộc đổi mới.
1. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
đầu cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (1975-1986)
1.1. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước và sự chỉ đạo thực hiện giai
đoạn 1976- 1982
- Đương lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước và lãnh đạo xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc từ năm 1975 đến năm 1982
+ Lãnh đạo hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước nhà
+ Đại hội Đảng lần thứ IV và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước
- Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1976- 1982)
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm 1976- 1982
+ Giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước
1.2. Tìm tòi, khảo nghiệm con đường đổi mới đất nước (1982- 1986)
- Bước phát triển mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
+ Đại hội Đảng lần thứ V và tư duy mới về phát triển kinh tế, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu
+ Một số tìm tòi, khảo nghiệm con đường đổi mới đất nước
- Thực thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1982- 1986)
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội, tiếp tục hoàn thiện con đường đổi mới
+ Bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế
1.3. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1975-1986
- Thành tựu và hạn chế
- Ý nghĩa và kinh nghiệm:
2. Lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986-2018)
2.1. Kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, quyết tâm đổi mới, đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội (1986-1996)
- Đại hội Đảng lần thứ VI, bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới (1986-1991)

7
+ Đại hội lần thứ VI và đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(1986)
+ Đưa đường lối đổi mới vào cuộc sống (1986- 1991)
- Đại hội Đảng lần thứ VII, lãnh đạo đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội
(1991-1996)
+ Đại hội lần thứ VII: ”Trí tuệ- đổi mới- dân chủ- kỷ cương- đoàn kết” và
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991)
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 1991- 1996
2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới toàn diện và hội nhập quốc
tế (1996-2018)
- Đại hội Đảng lần thứ VIII, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 1996- 2001
+ Đại hội lần thứ VIII và chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996)
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 1996- 2001
- Đại hội Đảng lần thứ IX, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2001- 2006
+ Đại hội lần thứ IX: « Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa ».
+Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2001- 2006
- Đại hội Đảng lần thứ X, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2006- 2010
+ Đại hội lần thứ X : «Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển»
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2006- 2010
- Đại hội Đảng lần thứ XI, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2011- 2015
+ Đại hội lần thứ XI: «Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tẳng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại » và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011
+ Thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội 2011- 2015
- Đại hội Đảng lần thứ XII, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội từ năm 2016
đến năm 2018
+ Đại hội lần thứ XII của Đảng : «Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa ; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới ; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình
ổn định ; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại».
+ Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội từ năm 2016 đến năm 2018
2.3. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm thời kỳ đổi mới (1986-2018)
- Thành tựu và hạn chế

8
+ Thành tựu
+ Hạn chế
- Ý nghĩa và kinh nghiệm
+ Ý nghĩa lịch sử
+ Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng

Chủ đề 19: Phân tích tính chất của xã hội miền Nam sau năm
1954 và nôi dung cơ bản Nghị quyết 15 (tháng 1 – 1959). Ý nghĩa
của Nghị quyết với Cách mạng miền Nam
Hoàn cảnh
Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền:
Miền Bắc: Hoàn toàn được giải phóng và bước vào khôi phục kinh tế - văn hoá, đi lên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho đấu tranh giải phóng miền
Nam.
Miền Nam: Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Trong xã hội miền Nam có 2 mâu thuẫn cơ bản:
Nhân dân ta >< Đế quốc xâm lược (Đế quốc Mỹ)
Mâu thuẫn chủ yếu
Nông dân >< Địa chủ phong kiến
Đảng phải có một đường lối hoàn chỉnh và toàn diện về cách mạng miền Nam.
Nội dung
Hội nghị chỉ rõ 2 mâu thuẫn cơ bản trong xã hội:
Nhân dân ta >< Đế quốc xâm lược (Đế quốc Mỹ)
Nông dân >< Địa chủ phong kiến
Lực lượng tham gia cách mạng: giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản
Đối tượng: Đế quốc Mỹ, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến và tay sai của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ cơ bản:
Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến
Thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng
Xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân tộc, dân chủ và giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt: Đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm,
thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do
dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà; tích cực góp phần bảo
vệ hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.
Phương thức đầu tranh và con đường phát triển cơ bản:
Sử dụng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang
Bạo lực cách mạng gồm 2 lực lượng, dưới 2 hình thức là đấu tranh chính trị và vũ trang.
Đấu tranh chính trị chỉ được coi là bạo lực cách mạng khi mà:
Nằm ngoài vòng pháp luật của kẻ thù
Đặt ra vấn đề giành chính quyền
Đấu tranh lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu.
Chủ trương:
Nhận định:
Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất
Cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục diện mới
Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta

9
Tăng cường công tác mặt trận
Củng cố, xây dựng Đảng bộ vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng thắng lợi
Ý nghĩa
Đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên
Đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta
Thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự chủ, năng động, sáng tạo trong đánh giá, so sánh lực
lượng , trong vận dụng lý luận Mác-Lênin
Là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi” 
Nghị quyết 15 tuy chậm nhưng vẫn kịp thổi vào cách mạng miền Nam Việt Nam làn gió mới,
mở ra hướng đi mới cho phong trào đấu tranh, đưa cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi.

Chủ đề 20: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam được Đại hội III (9-1960) của Đảng vạch ra
Hoàn cảnh Đại hội III
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế
giới có những đặc điếm nổi bật:
Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước tiến quan trọng.
Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh
tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã
giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm
lung lay chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là thách
thức cho cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên
Xô và Trung Quốc đã có nhiều ảnh hường tích cực đến cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó
là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong
phong trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách
mạng Việt Nam. Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh
chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành động, định
hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác, đã gần 10 năm
kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam
đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
đang đặt ra cho cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đặc biệt, cùng với sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước
nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn
phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự
nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu tiên sau 30 năm hoạt động trong điều kiện bí
mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã được tiến hành tại Thủ
đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính
thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham dự
Đại hội còn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16
đoàn quốc tế.
Nội dung đại hội III (9/1960)
Mục tiêu chung
2 Nhiệm vụ chiến lược
Vai trò Cách mạng mỗi miền
Con đường thống nhất tổ quốc
Triển vọng cách mạng

10
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự Đại
hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong
cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ư¬ơng Đảng
và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua
Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội.
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm
nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền
Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào
mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa
của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt
Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình
để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả
nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao
cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều
lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng
lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất
nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh
cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng
ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum
họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc
điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu
tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ
một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước
ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và
đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc
trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

11
Hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội khóa III là nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành công lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược
chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là đường lối tiến hành đồng thời và
kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960),
Đại hội lần thứ ba của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất
(1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện
một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa,
tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống
nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước
nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thành công tốt đẹp. “Đại hội... sẽ là nguồn ánh
sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”1. “Toàn Đảng và toàn dân ta
đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta
tiến lên”

Ý nghĩa, tác dụng


Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lực thể hiện tư tưởng, giương cao ngọn cờ độc lập DT
và CNXH
Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề riêng của
CMVN
Là cơ sở để Đảng chỉ đạo nhiệm vụ c/m ở mỗi miền vì mục tiêu chung
=> Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc c/m là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác Lê-nin trong
điều kiện cụ thể của VN
( Sáng tạo vì:
+ Theo lý luận về c/m k ngừng của CN Mác Le-nin. Sau khi hoàn thành gđ 1 là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân thì phải chuyển sang gđ 2 là CMXH chủ nghĩa giữa hai gđ k có bức
tường thành ngăn cách
+ Ở trên TG có nhiều nước bị chia cắt nhưng k tiến hành đồng thời như VN => xét về lý luận
và thực tiễn, chưa có tiền lệ trong lịch sử)
CHỦ ĐỀ 22 : GIAI ĐOẠN 1965-1975, Quá trình hình thành, phát triển và nội
dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Hoàn cảnh
- Thuận lợi: khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang ở
thế tiến công.
+ Ở miền Bắc: kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế,
văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của miền bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh
cả theo đường bộ và đường biển.
+ Ở miền Nam: vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm 1963
cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có những bước phát triển mới. Ba công cụ của “chiến tranh
đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên
tục. Đến đầu năm 1965 chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến
mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.

- Khó khăn:

12
+ Sự bất đồng của Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt nên gây khó khăn cho
cách mạng Việt Nam.
+ Việc đế quốc Mỹ mở cuộc “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ
và các nước chư hầu vào xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất
lợi cho ta.
→ Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường
lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.

Các nghị quyết trung ương


Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, ra Nghị quyết
Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt:
Quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và văn hóa, giáo dục, đảm bảo cho miền Bắc
có đầy đủ sức mạnh đánh thắng không quân, hải quân Mỹ
Duy trì và giữ vững sản xuất, tăng khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam.

Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích một cách toàn
diện chiến lược và hành động mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Hội nghị kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh,
cuộc chiến đấu của quân và dân ta sẽ khó khăn, gian khổ gấp bội nhưng do quân Mỹ vào
trong thế thua, thế bị động nên lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không có sự thay đổi
lớn.
Cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Kết hợp đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị, nhưng đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp.
Phương châm là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà” .

Nội dung đường lối

Nội dung của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Đảng và nhà nước đề ra
trong Hội Nghị lần thứ 11 và 12 gồm các nội dung lớn sau:
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Quyết định phát động kháng chiến chống Mỹ trên cả
nước, coi đó là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc; tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà.
- Phương châm chỉ đạo: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng
chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết
định trong thời gian tương đối ngắn ở Miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo với Miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công
và liên tục tiến công; Kiên trì phương châm kết hợp quân sự với chính trị; triệt để thực hiện 3
mũi giáp công, đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược.
- Tư tưởng chỉ đạo với Miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế trong điều kiện có chiến
tranh; tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân để bảo vệ Miền Bắc; động viên sức người sức của
cao nhất để chi viện Miền Nam.
- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa 2 miền: Miền Bắc là hậu phương lớn, Miền Nam là tiền
tuyến lớn. Hai nhiệm vụ có mối liên hệ khăng khít và không tách rời nhau nhằm mục tiêu
chung đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

13
Ý nghĩa đường lối

Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được đề ra trong Hội nghị Trung
ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng :
Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng thể hiện tư tưởng chiến lược giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề
riêng của Cách mạng Việt Nam.

Là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài,dựa vào sức mình là chính
được phát triển trong hoàn cảnh mới tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta có đủ sức đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.

Là cơ sở để Đảng chỉ đạo các nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền vì mục tiêu chung.

Kết luận:
Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx Lenin
trong điều kiện cụ thể của nước ta. Theo lí luận cách mạng không ngừng sau khi hoàn thành
giai đoạn 1 là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải chuyển sang giai đoạn 2 là
CMXHCN giữa 2 giai đoạn không có bức tường thành ngăn cách.

Trên thế giới có nhiều nước bị chia cắt: Đức, Triều tiên, Trung Quốc,… nhưng không tiến
hành đồng thời như Việt Nam.

Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn chưa hề có tiền lệ trong lịch sử.

Chủ đề 24: Ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn
1945-1975
Ý nghĩa thắng lợi đối với thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi
tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mĩ và thế
giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn
nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách mạng
của thời đại mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa
thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính
phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc
dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công cuộc
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào
công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại
về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong thời
đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song
dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác
xít-lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân

14
tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể
đánh bại mọi thế lực xâm lược.
- Là một sự kiện có “tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Ý nghĩa thắng lợi đối với dân tộc :

Đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1945), 30
năm chiến tranh cách mạng ( tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc thực dân phương
Tây (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, đưa
lại độc lập,thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đánh dấu bước ngoặt cơ bản; quyết định của con
đường cách mạng mà Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ trong chính cương vắn
tắt năm 1930 – Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Từ đây, cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ,
văn minh.
Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và mỗi
người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Đảng trên
thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam trong thế kỷ XX
và mai sau.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng tháng 8-
1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954); là trận
đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại nền
độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc.
Chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập
quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ
nghĩa thực dân mới.
Góp phần khẳng định, nhân tố chính trị tinh thần của con người Việt Nam. Đó là sự nỗ lực phi
thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên chiến thắng vĩ đại, được loài người tiến
bộ trên thế giới ngưỡng mộ, ca tụng. Có thể nói, con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước đã phát triển ở một tầm cao mới.
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ .
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân tộc đã dấy lên mạnh mẽ
ở các nước Á, Phi, Mĩ Latinh, trong đó có Việt Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954-1975) của nhân dân Việt Nam đã góp phần thay đổi bản đồ chính trị thế
giới. Hệ thống thuộc địa và chế độ phân biệt chủng tộc kéo dài từ nhiều thế kỉ đã bị sụp đổ
hoàn toàn. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó đã đưa tới sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập
trẻ tuổi.
1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)
a, Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng
đầu
Đảng ta nhận thức rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử trước giai cấp, trước dân tộc và phong
trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức vững mạnh. Chính
nhờ vậy, Đảng đã đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu khắt khe của một Đảng giữ vai trò quyết
định thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại trong lịch sử nước ta.

15
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
đưa ra những đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời. Bên cạnh đó,
Đảng kiên quyết chỉ đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng và quả cảm, thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền
tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên
trình độ cao những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc
lập, tự do và CNXH trên đất nước ta. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công
vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu
sắc”
b, Truyền thống yêu nước, một lòng đi theo Đảng, chiến đấu ngoan cường, bất
khuất, hi sinh vì độc lập tự do dân tộc của nhân dân
Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân và các lực lượng
vũ trang nhân dân với tinh thần chiến đấu anh dũng, bền bỉ. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn
một lòng hướng về miền Nam ruột thịt. Nhân dân miền Bắc hăng say lao động tạo ra cơ sở vật
chất xây dựng Chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc chi viện toàn diện và liên tục cho
cuộc kháng chiến ở miền Nam.
Thấm nhuần tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và luôn khẳng định Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết ấy. Nhờ sự đoàn kết,
thống nhất trong nội bộ Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị
nên Đảng ta đã phát huy cao nhất sự sáng tạo, trí tuệ tập thể, đề ra đường lối cách mạng đúng
đắn nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Thành quả vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại
thắng mùa Xuân 1975 còn thể hiện ở sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam với tinh
thần bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sỹ miền
Nam trên tiền tuyến lớn và sự chi viện hết lòng của hậu phương lớn miền Bắc với tinh thần
“Vì miền Nam ruột thịt”. Mặc dù kẻ thù luôn tìm trăm phương, nghìn kế để chia rẽ Bắc - Nam
hòng cô lập cách mạng miền Nam, nhưng Bắc - Nam luôn là một nhà. Cả miền Bắc ngày đêm
hướng về miền Nam, dốc hết sức người, sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam. Cả
miền Nam ngày đêm hướng về miền Bắc - nơi đầu não của cách mạng và kháng chiến.
Cùng với tình cảm Bắc - Nam sâu nặng, “tình quân - dân cá nước” đã trở thành một biểu
tượng sáng ngời của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng
mùa Xuân 1975. Sở dĩ có được tình cảm “đoàn kết quân - dân”, “gắn bó cán binh” là do quân
đội ta “từ nhân dân mà ra”, “vì nhân dân mà chiến đấu”. Trong trận quyết chiến chiến lược
cuối cùng, quân đội ta đã thể hiện bản lĩnh và trí tuệ quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam
anh hùng, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, xứng đáng với lời khen tặng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
c, Đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Tinh thần đoàn kết, yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đứng trước những
khó khăn, thử thách, truyền thống đó lại càng được phát huy mạnh mẽ. Sự thống nhất trong

16
Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng, nâng cao lòng tin của toàn dân đối với Đảng
và trở thành động lực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến
đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thống nhất về tư tưởng, nhận thức và hành động.
Triển khai thực hiện nhiệm chiến lược cách mạng ở hai miền theo mục tiêu chung của
cách mạng cả nước, Đảng ta đã chủ trương tập hợp quần chúng rộng rãi bằng các hình thức
mặt trận dân tộc thống nhất phù hợp với tình hình cụ thể. Ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ra đời; ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập;
và sau đó, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam được thành lập
vào ngày 20-4-1968. Tuy mục tiêu, cương lĩnh, thành phần, cơ cấu tổ chức có nhiều điểm
khác nhau nhưng hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, dân sinh là mẫu số chung để quy tụ,
tập hợp, đoàn kết toàn dân thành một khối thống nhất theo tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.
Trên cơ sở các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng tổ chức xây dựng, thực hiện
thế trận chiến tranh nhân dân trường kỳ, toàn diện bằng sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp giữa quân sự, chính trị và ngoại giao, vừa
khởi nghĩa vũ trang vừa tiến công quân sự; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; vừa đánh giặc vừa
từng bước xây dựng chế độ mới. Thế trận đó được hình thành ở khắp nơi, trên cả ba vùng
chiến lược, thậm chí cả ở sâu trong lòng địch, tạo ra sự liên hoàn trên khắp chiến trường miền
Nam, giữa miền Nam và miền Bắc và giữa 3 nước anh em trên bán đảo Đông Dương.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ hơn 20 năm trường kỳ kháng chiến được
dồn lại cho thời khắc lịch sử vinh quang. Dân tộc ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh vô địch của
khối đại đoàn kết dân tộc thời đại Hồ Chí Minh.
d, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp
đánh thắng Mỹ.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế,
coi đó là một bộ phận tất yếu và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt
trận có tầm quan trọng chiến lược tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta.
Ở đây, sức mạnh dân tộc chính là yếu tố bên trong. Đó là tổng hợp những lợi thế, những
nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội; truyền thống và hiện tại.
Yếu tố bên ngoài, sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới
như: hòa bình, hợp tác và phát triển, cách mạng khoa học công nghệ, xu thế dân chủ hóa, xu
thế phát triển bền vững, tự chủ, xu thế hợp tác và liên kết kinh tế. Bên cạnh đó, sức mạnh của
thời đại ngày này còn là sức mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng đồng thuận trong kiến
tạo, củng cố một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng,
bình đẳng, sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ (MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên của cách mạng khoa
học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa...
Quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Đảng và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm mácxít về giải quyết mâu thuẫn, về mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Vận dụng quan điểm
mácxít và tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc kết hợp giữa các yếu
tố bên trong và bên ngoài, đặt Việt Nam là một phần của thế giới, xuôi theo dòng chảy lịch sử
của thế giới. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đánh giá, quan sát toàn diện “nhìn cho
rộng, suy cho kỹ”
e, Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào và Campuchia
Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào và Campuchia
trong cuộc chiến đấu chống Mỹ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi
nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.

17
*Trong những nguyên nhân trên thì sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, quân
sự độc lập, tự chủ, đúng đắn sáng tạo… là nguyên nhân quan trọng nhất.
Vì: Đảng lãnh đạo là nguyên nhân bao trùm, chi phối các nguyên nhân khác….Nếu
không có Đảng lãnh đạo thì sẽ không có sức mạnh tổng hợp của dân tộc, không thể kết hợp
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết
định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Việc thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia là thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược, Nhằm tăng cường sự chi viện của hậu phương miền Bắc và bạn bè quốc tế
cho chiến trường miền Nam và cách mạng Lào, Cam-pu-chia, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã quyết định mở tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, nối liền từ hậu phương miền Bắc với
các hướng chiến lược quan trọng trên chiến trường ba nước Đông Dương. Tuyến đường vận
tải chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng sinh động, sáng ngời về tình
đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia. Tạo cơ sở nâng cao quan hệ
đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, là đòn giáng mạnh mẽ
vào chính sách “chia để trị” của bọn thực dân, đế quốc.
Chủ đề 28: Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy
quản lý kinh tế của Đảng từ năm 1979 – 1985 , Phân tích nội dung
cơ bản đường lối chung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ
được Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra
I. Xây dựng chủ nghĩa xh theo đường lối cũ từ năm 1975-1985
1. Hoàn cảnh trước năm 1986
- Thành tựu và hạn chế của 10 năm xây dựng CNXH trước đổi mới.
Đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh
lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của
Đảng phù hợp với điều kiện mới chưa được đặt ra một cách đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; mặt khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự
phát triển nhận thức của Đảng. Trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, hệ thống chính trị còn
nhiều hạn chế, hoạt động bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Tính độc lập, chủ động của Nhà nước bị vi
phạm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế - xã hội thiếu năng động.
Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy một cách thực chất.
Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em giảm dần và chuyển sang hợp tác, trao
đổi theo giá thị trường quốc tế. Các thế lực phản động quốc tế câu kết với nhau chống phá
quyết liệt cách mạng nước ta. Chiến tranh bùng nổ ở hai đầu biên giới. Mỹ tiến hành cuộc bao
vây, cấm vận nước ta ngày càng khắc nghiệt. Sau sự kiện Campuchia, nước ta gặp rất nhiều
khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế đất nước bị giảm sút trên trường quốc tế...
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý kinh tế, tình hình
kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát phi
mã[1], hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống Nhân dân không được cải thiện, thậm chí nhiều mặt
còn sa sút hơn... Đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.

2. Các bước đột phá


Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, hay còn gọi là Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm
1986 tại Hà Nội (họp trù bị từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 12 năm 1986). Dự đại hội có 1.129
đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu Đảng viên.Công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI kéo dài 19 ngày. Sau hội nghị lần thứ 10, các tổ chức đảng cấp tỉnh và địa
phương bắt đầu bầu đại biểu dự đại hội cũng như chuẩn bị các văn kiện Đại hội. Đại hội đã
đưa ra các cải cách kinh tế, được gọi là Đổi Mới, và bầu ra ban lãnh đạo mới của Đảng Cộng

18
sản Việt Nam. Tổng Bí thư Trường Chinh đương nhiệm không được bầu lại và ông Nguyễn
Văn Linh lên thay. Sau đó, Đại hội cũng đã bầu các thành viên của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cũng trong Đại hội, Hội đồng cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam được thành lập, bao gồm các cán bộ cấp cao, chủ chốt trong bộ máy chính trị đã về hết
nhiệm kỳ tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ phải xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là lần đầu tiên các tổ chức thông tấn
phương Tây được phép đưa tin.
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành công những
nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu...
2. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức
và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất...

3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

4. Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.

5. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội.

6. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.

7. Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.

8. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.

9. Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.

10. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.

Đại hội đã chỉ ra "Chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ
bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân". Đại hội thẳng thắn cho
rằng: "Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chình
sách lơsn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện"' Đại hội chỉ rõ "Những sai lầm
và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt
động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân". Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội nêu lên những bài học kinh nghiệm quan trọng.

Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc",
xây dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân lao dộng.

Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.

19
Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Ý nghĩa và tác dụng của các bước đột phá
ĐH đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo của
Đảng. Một là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm
gốc", chăm lo xây dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là phải
biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là chăm lo xây
dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.

ĐH VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta. ĐH thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau ĐH, Đảng
đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ
sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Tính tất yếu phải đổi mới
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã họp 12 lần để bàn và quyết định các vấn đề
trọng đại của Đảng và Nhà nước ta, trong đó chủ yếu là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế sang kinh doanh XHCN; đổi mới quản lý Nhà nước, đổi mới công tác tổ chức
và cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác quần chúng của Đảng.
Chủ đề 30: Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả
nước (1976 – 1985)
1. Thành tựu
Thực hiện kế hoạch 5 năm, nhân dân ta đạt được những thành tựu quan trọng:
1976-1980: (giai đoạn 1)
Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về cơ bản đã được
khôi phục và bước đầu phát triển.
Trong nông nghiệp:nhờ tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ, diện tích gieo
trồng tăng thêm gần 2 triệu héc ta. Nông nghiệp được trang bị thêm 18.000 máy kéo các loại.
Trong công nghiệp: nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện, cơ khí, xi măng
v.v..
Trong giao thông vận tải: khôi phục và xây dựng mới 1 700 kilômét đường sắt, 3 800
kilômét đường bộ, 30.000 mét cầu đường, 4.000 mét bến cảng. Tuyến đường sắt Thống nhất
từ Hà Nội đi thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở miền
Nam: giai cấp tư sản mại bản bị xóa bỏ; 1500 xí nghiệp tư bản hạng lớn vừa được cải tạo
chuyển thành xí nghiệp quốc doanh hoặc công ty hợp danh. Đại bộ phận nông dân đi vào con
đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
Xóa bỏ những biểu hiện văn hóa phản động của chế độ thực dân, xây dựng nền văn hóa mới
cách mạng. Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển. Tính chung,
số người đi học thuộc các đối tượng trong cả nước năm học 1979-1980 là 15 triệu, tăng hơn
năm học 1976-1977 là 2 triệu.
1981-1985:
Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp: đã chặn được đà giảm sút của 5 năm trước
(1976-1980) và có bước phát triển: sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm là 4,9% so
với 1,9% của những năm 1976-1980, sản xuất lương thực tăng bình quân từ 13,4 triệu tấn lên
17 triệu tấn; sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5% so với 0,6% trong những năm 1976-
1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm là 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước

20
Về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật: hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công
trình vừa và nhỏ được hoàn thành. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, công trình thủy điện Hòa
Bình, thủy điện Trị An được khẩn trương xây dựng, chuẩn bị đi vào hoạt động.
Các hoạt động khoa học-kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
2. Hạn chế
1976-1980:
-Nền KT chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ. Đại bộ phận lao động xã hội là lao động thủ công. Phân
công LĐ xã hội kém phát triển. Năng suất LĐ xã hội rất thấp.
- Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối. Kinh tế quốc doanh và tập thể còn thua lỗ, không phát huy
được tác dụng, tăng trưởng bình quân chỉ đạt 3.56%/năm. Nhiều chỉ tiêu đặt ra ko đạt được.
Điều đó ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống nhân dân.
- Kinh tế tư nhân và cá nhân bị ngăn cấm.
- Sản xuất phát triển chậm. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế còn yếu kém, trình độ kĩ
thuật còn lạc hậu. Công nghiệp nặng nhỏ bé, ko đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, công nghiệp
nhẹ phụ thuộc 70- 80% nguyên liệu nhập khẩu.
- Thu nhập quốc dân thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Và Kết quả nhìn chung trong thời gian trên đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu
thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của
nhân dân, cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một
số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam, việc
thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng…
1981-1985:
- Những khó khăn yếu kém của 5 năm trước vẫn chưa được khắc phục, thậm chí có phần trầm
trọng hơn.
- Phân phối lưu thông bị rối ren. Thi trường tài chính, tiền tệ ko ổn định. Bội chi ngân sách
ngày càng cao gây rối loạn điều hành kinh tế của nhà nước.
– Lạm phát ngày càng nghiêm trọng, Giá cả leo thang từng ngày.
- Mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội vẫn chưa thực hiện được.
- Sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lí, chậm được khắc phục.
-> Đất nước thời kỳ này đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất
tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng
phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng
không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện
được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Tổng kết 10 năm 1975-1986 còn một số hạn chế: không hoàn thành các mục tiêu do Đại hội
IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài; sản
xuất tăng chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích
luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
3.Nguyên nhân
nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976 –
1985)
Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân của những khó khăn yếu kém trong việc
thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980 và 1981 - 1985) là do nền kinh tế nước ta vốn nghèo
nàn lạc hậu lại bị chiến tàn phá nặng nề, chính sách cấm vận của Mỹ đã làm cản trở quan hệ
kinh tế giữa nước ta với các nước và sự khống chế, phá hoại của các lực lượng thù địch.
Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ
trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước.
Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế của nước ta, không coi trọng khôi phục kinh
tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết kết hợp kế

21
hoạch hóa với quan hệ hàng hóa - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân
phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn
về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là phải đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình hình kinh tế -
xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
=> Đặt ra một yêu cầu cần phải đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trong sự lãnh đạo của
Đảng về vấn đề kinh tế.
Chủ đề 31: Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm của thời
kỳ xây dựng CNXH trước đổi mới được Đại hội lần thứ VI
(12/1986) của Đảng đưa ra.
1/ Hoàn cảnh lịch sử ĐHVI (12/1986) ( Chủ yếu nêu từ 1981-1985 )
2/Nêu và phân tích 4 bài học Kinh nghiệm.
3/Ý nghĩa hay nhận xét về 4 BH KN trên
Đại Hội 6/12/1986
1- Hoàn cảnh lịch sử
+ Đại hội họp công khai tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, 1129 đại
biểu, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên, có 35 đoàn đại biểu quốc tế đến dự.
+ Đại hội đảng lần thứ 6 họp trong bối cảnh sau 10 năm tiến hành cải tạo và xây | dựng
CNXH trên cả nước, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu trên cả 2 mặt | trận xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Song chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái | lại còn gặp nhiều khó
khăn và khuyết điểm mới. Tình hình kinh tế xã hội nước ta
có nhiều diễn biến phức tạp, sản xuất trì trệ, lạm phát tốc độ cao, nhiều mặt kinh tế | mất cân
đối nghiêm trọng (làm không đủ ăn, xuất không đủ nhập, thu không đủ | chi...). Các tiêu cực
xã gội nảy sinh và phát triển mạnh. Đời sống nhân dân lao
động hết sức khó khăn.
+ Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ lần thứ 3 trên thế giới phát | triển mạnh
mẽ, làm thay đổi bộ mặt và các mối quan hệ trong từng nước và trên | toàn thế giới.
+ Trong các nước XHCN, kể cả Liên Xô và Trung Quốc, do việc xây dựng CNXH | theo mô
hình và phương pháp kiểu cũ có những mặt không còn phù hợp với điều | kiện lịch sử mới, đã
bộc lộ không ít khuyết tật. Nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, phải đi
vào cải tổ, cải cách với các hình thức và mức độ khác nhau.
+ Một mặt khác, nhiều nước tư bản, đế quốc trên thế giới, sau khi giải quyết được tình trạng
khủng hoảng sâu sắc của những thập kỷ trước đây, đã nhanh chóng tiếp thu được những thành
tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3, vươn lên phát triển nhanh
chóng về kinh tế, quốc phòng, đã liên kết lại để tiến hành "diễn biến hòa bình" nhằm phản
kích và xóa bỏ hệ thống XHCN thế giới.
+ Đổi mới đã trở thành yêu cầu cấp thiết, có tính chất sống còn đối với XHCN thế giới nói
chung, đối với cách mạng Việt Nam nói riêng.
2- 4 bài học kinh nghiệm và phân tích
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc,"
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện đảng cầm
quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường
xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản
phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi
chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi
nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy

22
luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh
mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp các
yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở
rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với
các nước anh em và bầu bạn.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm cho Đảng ta làm tròn sứ
mệnh lịch sử vẻ vang đó, vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
3. Ý nghĩa hay nhận xét về 4 Bài học kinh nghiệm:
Đại hội VI của Đảng Đại hội VI của Đảng - đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đã rút ra bốn
bài học kinh nghiệm.
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm
gốc," xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện đảng cầm
quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường
xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản
phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi
chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải
thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ
thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi
phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
mới. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp
các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng
mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với
các nước anh em và bầu bạn.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm cho Đảng ta làm tròn
sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng
lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
Chủ đề 32 : Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới
xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đại hội
VI (12/1986)
Hoàn cảnh lịch sử diễn ra Đại hội lần thứ VI
Hoàn cảnh quốc tế: Tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là cuộc khủng hoảng
toàn diện trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự tan rã và sụp đổ tại nhiều
nước Đông Âu. Phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh; phong trào không liên kết trở
thành lực lượng chính trị rộng lớn, có vai trò ngày càng quan trọng.
Hố ngăn cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu rộng.
Sự bóc lột ngày càng nặng nề của các nước đế quốc chủ nghĩa khiến nhiều nước Á, Phi, Mỹ
Latinh ngày càng bần cùng và nợ nần chồng chất. Phong trào công nhân của các nước tư bản
có bước phát triển mới.

23
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của
lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.
Trong 5 năm nhân dân ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn và sự hợp tác nhiều mặt của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.
Hoàn cảnh trong nước: Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng về kinh tế-xã hội. Trong nước
tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới
và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, 10 năm đầu tiên của
thời kỳ quá độ, nền sản xuất cũ, hậu quả của các cuộc chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ đã cản
trở sự phát triển của đất nước. Chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá
thấp. Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn.
Nội dung Đại hội lần thứ VI (tập trung vào chủ trương kinh tế)
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.
Những năm 1987-1988, đất nước vẫn đang khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Phân
phối, lưu thông rối ren, lạm phát ở mức cao. Do thiên tai, mất mùa nên kỳ giáp hạt năm 1988,
nhiều nơi từ miền Trung trở ra rất thiếu đói. Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) chủ trương về
một số biện pháp cấp bách về phân phối lưu thông. Trọng tâm là thực hiện bốn giảm: Giảm
bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân
dân; mở rộng giao lưu hàng hoá, giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các đường giao
thông; thực hiện cơ chế một giá và chế độ lương thống nhất cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân
sách và bội chi tiền mặt, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực; chuyển hoạt động của các đơn vị
kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế. Quyết định số 217-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (14-11-1987) trao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp.
Trong nông nghiệp nổi bật là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988) về khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã viên (gọi tắt là Khoán 10). Theo đó, người nông dân được
nhận khoán và canh tác trên diện tích ổn định trong 15 năm; bảo đảm có thu nhập từ 40% sản
lượng khoán trở lên. Lần đầu tiên Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông
qua, có hiệu lực từ ngày 1-1-1988.
Trong công nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế
quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ, giải phóng mọi
năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Nhà máy thủy điện
Hòa Bình phát điện tổ máy số 1. Liên doanh dầu khí Việt-Xô khai thác những thùng dầu thô
đầu tiên.
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể
hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi
đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng thắn chỉ ra rằng: Cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển làm suy yếu
nền kinh tế, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong
phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý quan
liêu, cửa quyền tư duy mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí. Vì vậy, "Phương hướng đổi

24
mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách qua: và với trình độ phát triển của nền kinh tế".
Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng tính kế hoạch;
sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ
sản xuất - kinh doanh, tự chủ về tài chính; sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế
3. Ý nghĩa Đại hội VI:
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.
- Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diên của đất nước, là Đại hội kế thừa và quyết tâm
đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện.
Từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo.
- Đại hội đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
triển, làm thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử
Cánh mạng Việt Nam.
- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới theo xu thế mới
của xã hội mới. Thể hiện sự kết tinh trí tuệ toàn Đảng, toàn dân. Đảng đã lãnh đạo triển khai
thực hiện đường lối, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa nước ta đạt được
những thành tựu quan trọng.
- Là Đại hội: “Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết và đổi mới”.
- Tuy nhiên, Đại hội còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ những tình trạng rối
ren trong phân phối và lưu thông.
Chủ đề 34: Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại Hội VII, Phân tích những cơ hội và
thách thức lớn của cách mạng Việt Nam được Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm ký (4/1994) đưa
ra.
1 Cơ hội:
Trước sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, lần đầu tiên Đảng tổ
chức Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1-1994) . Hội nghị khẳng định, đổi mới là sự nghiệp khó khăn,
chưa có tiền tệ, song Đảng đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ bản có
tính chất quyết định nhất là Đảng ta đã giữ vai trò lãnh đạo duy nhất , nếu cao tinh thần độc
lập tự chủ và sáng tạo, có đường lối , chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn Việt Nam ,
phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân , mở rộng hợp tác quốc tế .
Ngoài việc cụ thể hóa việc thực hiện Nghị Quyết đại hội VII và bầu bổ sung 20 ủy viên
Trung ương Đảng mới thay thế cho số ủy viên Trung ương sức khỏe yếu hoặc bị kỷ luật ,
nhận thức mới của Hội nghị giữa nhiệm kỳ là chỉ rõ trước mắt nhân dân ta là những cơ hội và
thách thức lớn:
Cơ hội
Đảng ta có đường lối đúng đắn , đoàn kết nhất trí , nhân dân cần cù ,thông minh, giàu
lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường ,tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng,
các lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân,
những thành tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới , sự phát triển của cách
mạng khoa học kĩ thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và khu vực
mang đến cho chúng ta những nguồn lực quan trọng .
Từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng
họp tại Hà Nội . Hội nghị có nhiệm vụ kiểm điểm thực hiện Nghị quyết từ Đại hội VII và tổng
kết một bước thực tiễn đổi mới từ đại hội VI nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta , xác định những chủ trương và giải pháp lớn để
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII, đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta tiếp tục tiến
lên.

25
Đảng và nhân dân cùng chung chí hướng: Đảng ta và nhân dân ta quyết tâm không gì
lay chuyển nổi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là con đường duy nhất đúng đắn.
Đảng ta kiên trì và tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới do chính bản thân Đảng
khởi xướng theo những nguyên tắc đã được xác định. Trong khi tiếp tục lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, Đảng đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hoá
sinh hoạt xã hội, đổi mới mọi mặt đời sống và hoạt động xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ,
có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể
đảo ngược.
Được sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế: các đồng chí đại biểu quốc tế đã đem đến cho
Đại hội Đảng ta và nhân dân ta tình hữu nghị và đoàn kết, lòng tin cậy và sự ủng hộ mạnh mẽ
của Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô quang vinh; của Đảng và nhân dân Lào,
Đảng và nhân dân Campuchia anh em đầy tình nghĩa trong sáng, đặc biệt thuỷ chung; của
Đảng Cộng sản Cuba và nhân dân Cuba anh hùng
=> Những tiếng nói chân tình, thắm thiết của các đoàn đại biểu quốc tế anh em đã vang
vọng khắp đất nước ta, làm xúc động sâu sắc tình cảm những người cộng sản và nhân dân
Việt Nam, góp phần quý báu vào thành công của Đại hội.
2. Thách thức:
+ Một là, nguy cơ chệch hướng chủ nghĩa xã hội :
Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn trong cơ chế thị trường, phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Vấn đề này có một số biểu hiện như: sự giảm sút vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối
sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc...
Xuất hiện tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị". Một bộ phận cán bộ, đảng
viên, phần lớn còn trẻ tuổi, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng,
xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thậm chí, một số ít thanh niên bị lôi kéo, có những
việc làm đi ngược lại truyền thống của Đoàn, trái với mục tiêu của Đảng, của dân tộc. Có
những cán bộ, đảng viên không giữ vững bản lĩnh cách mạng, ý thức nhạy bén chính trị kém,
bị tác động bởi luận điệu, thông tin sai trái, có những biểu hiện tiêu cực, tạo ra mặt trái của xã
hội và tiếp tay cho sự chống phá xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là trên mạng xã hội.
Đại hội 13 tiếp tục nhấn mạnh phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; chỉ rõ định hướng vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội XIII bổ sung, phát triển các
nội dung mới là: Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, cơ chế, quy định và thực hành dân chủ
gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Coi trọng nâng cao năng lực dự báo và
ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Khi hoạch định chủ trương, giải pháp
phải đánh giá tác động và cân đối, bố trí nguồn lực để tổ chức thực hiện có hiệu quả; hình
thành cơ chế tổ chức thực hiện nghị quyết bài bản, nghiêm túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân.
+ Hai là, nguy cơ suy thoái về đạo đức lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí: Thực tế
cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ từ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời
hợt, ngại khó, ngại khổ, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ
cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ,
quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.
Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng,
lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn,
tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp
luật. Thực tế còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao

26
động về lập trường, quan điểm, lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ
nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút vềc đạo đức, lối sống, thiếu
gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung
dân chủ, tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền,
đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào “lợi ích
nhóm”
Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay trong cán bộ, đảng viên, xuất hiện với
nhiều hình thức mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công
tác cán bộ… Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển,
chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cao cấp,
chậm được ngăn chặn, đẩy lùi. Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối
với cán bộ, đảng viên, gây ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế -
chính trị - xã hội của đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Công tác PCTN ở một
số địa phương, bộ, ngành chuyển biến chưa rõ rệt, trách nhiệm của người đứng đầu đối với
công tác PCTN chưa được đề cao. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn
chế, tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn
là khâu yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa
được đẩy lùi… Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp,
với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá
phổ biến, gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ.
Thời gian qua, không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm
việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vi phạm các quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng, hành chính của Nhà nước và xử lý
hình sự. Tổng kết công tác xây dựng Đảng của nhiệm kỳ XII, Đại hội XIII đã chỉ ra: “Một bộ
phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức
tạp”. Tổng kết về công tác PCTN, tiêu cực trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng cho thấy, có
đến hơn 87 nghìn đảng viên bị kỷ luật, trong đó vi phạm chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân
chủ và quy chế làm việc, những điều đảng viên không được làm, tham nhũng, tiêu cực, buông
lỏng lãnh đạo, cố ý làm trái.
+ Ba là, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm vào cán bộ, đảng viên: Dưới góc
độ thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc gia, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho rằng: “Đất nước
đang đứng trước 3 thách thức lớn đe dọa trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của
chế độ”. Cụ thể, theo ông Lâm, thách thức đầu tiên là âm mưu hoạt động chống phá, gây bạo
loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, phản động ngày càng thâm độc, nguy hiểm hơn. Thứ hai
là nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông, gắn với thách thức trong xử lý quan hệ
với các nước lớn và giữ vững uy tín của Đảng, chế độ trước nhân dân ngày càng gia tăng.
Thách thức thứ ba là nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với suy giảm
lòng tin của nhân dân diễn biến phức tạp. “Trong 3 thách thức nêu trên, nguy cơ mất an ninh
chính trị nội bộ, suy giảm thế trận lòng dân, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ
ta từ gốc, từ bên trong là nguy hiểm nhất”, ông Lâm khẳng định. Các thế lực thù địch thường
tranh thủ, len lỏi vào cán bộ, đảng viên để thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá
nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước. Bản chất thật sự của “diễn
biến hòa bình” là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các
nước có chế độ chính trị mà còn coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các
biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển hóa

27
chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ. Hiện nay, “diễn biến hòa bình”
đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã
phát triển đến đỉnh cao, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của công
nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết tận dụng triệt
để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần phải có
những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị
động, bất ngờ.
+ Bốn là, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là
nguy cơ thường trực và khó khắc phục: Theo GS-TS Trần Ngọc Đường Chủ nhiệm Hội đồng
Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam cho rằng, nguy cơ “phải đặc biệt coi
trọng” cần phải khắc phục chính là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Ông Đường phân
tích, hiện nay khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, nhất là với cuộc cách mạng công nghệ
4.0 đã làm thay đổi các quan hệ xã hội, suy nghĩ, tư duy của con người. Bên cạnh đó, thế giới
ngày nay cũng diễn biến rất khó lường với những vấn đề an ninh phi truyền thống, từ thiên tai
cho tới dịch bệnh. “Nếu không vượt qua nguy cơ tụt hậu về kinh tế, trong đó có nguy cơ tụt
hậu về khoa học, công nghệ thì khó mà đạt được các mốc mục tiêu quan trọng. Toàn cầu hóa
tạo ra những thách thức không nhỏ đối với cán bộ, đảng viên trong công cuộc đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó thì hiện nay chúng ta đang thiếu những cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của
đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán
bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ
ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn
chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
Kinh tế Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020
đạt 6%/năm, (năm 2020, do ảnh hưởng dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng
Việt Nam vẫn đạt GDP 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô
nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và
thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD).
Tuy nhiên, nhìn từ thực tế vẫn thấy: khoảng cách GDP của thế giới và của Việt Nam vẫn
đang ngày càng dãn ra với tốc độ rất nhanh. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn
GDP của Việt Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Và như vậy là cho dù Việt
Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hậu so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng,
đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến
lược tổng thể, dài hạn để khắc phục. Điều này cũng chính là những thách thức, trở ngại và
trách nhiệm lớn đặt lên vai cán bộ, đảng viên – là lực lượng làm việc chính, là chủ, là người
đứng đầu các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp… làm nhiệm vụ chèo lái con thuyền
kinh tế Việt Nam ra biển lớn trên con đường hội nhập quốc tế.
Những nguy cơ và thách thức luôn xuất hiện đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó cần phải khắc chế nguy cơ
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội
nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vượt qua những nguy cơ trên để tiếp tục phát triển
nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu mới có được,
vẫn đang và sẽ là những thách thức thực sự, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có những nỗ lực
vượt bậc, sự đoàn kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng với cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát
huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chủ đề 35: Đại hội VIII (Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của Đại hội VIII (7/1996).)

28
NỘI DUNG ĐẠI HỘI VIII
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: 2 chiến lược:
Đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc
Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà,
hoàn toàn độc lập và dân chủ trong cả nước

Về mục tiêu chiến lược chung: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng mỗi miền
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng
VN và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà
Cách mạng DTDCND ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành CM DTDCND trong
cả nước

Về hoà bình thống nhất đất nước: chủ trương thực hiện bằng con đường hoà bình.

Về triển vọng cách mạng: là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài nhưng nhất định thắng lợi ● Về xây dựng CNXH:
1: Hoàn cảnh ĐH VIII(1996) ( Nhóm 1+ thuyết trình) (trả lời câu hỏi nếu cô hỏi có liên
quan đến phần 1)
Hoàn cảnh quốc tế:
Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng
bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh
lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế
hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.
Bối cảnh quốc tế nói trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Hoàn cảnh trong nước:
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước
đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh
được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức như nguy
cơ tụt hậu xa về kinh tế, “diễn biến hoà bình”; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta những
nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên
đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước.
2: Quan điểm,chủ trương đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước ( nhóm 2 +
trả lời câu hỏi)
Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, 5 năm thực hiện
Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.
Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Ðại hội xác định: Mục tiêu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát

29
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Ðại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: Phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính sách đối với các thành phần kinh
tế; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn
đề xã hội; quốc phòng và an ninh; chính sách đối ngoại; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ðại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng Ðảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Ðó là, giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên. Củng cố Ðảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Ðảng. Ðổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng.
3: Ý nghĩa Đại Hội VIII ( nhóm 3 + trả lời câu hỏi)
-Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủnghĩa ở
miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.
-Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
-Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”
Câu hỏi: tên 6 quan điểm chỉ đạo cnh-hdh
1) Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại.
2)CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
3)Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
4)Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH.
5)Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án pháttriển, lựa
chọn dự án đầu tư và công nghệ
6)Kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh

Chủ đề 36: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước và đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo” của ĐH IX
(4/2001). Để thực hiện luận điểm đó cần làm gì?

Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là Đại đoàn kết toàn dân
Ðoàn kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước;
điều này được thể hiện đậm nét trong lịch sử dân tộc ta, nhất là trong cuộc cách mạng giải
phóng đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta tiếp tục xác định xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu, nhân
tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc
gia, dân tộc đó. Đối với Việt Nam, sự hình thành khối đại đoàn kết toàn dân có tính đặc thù do
phải trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách để chống lại thiên tai, dịch bệnh khắc nghiệt và các
kẻ thù xâm lược hùng mạnh hơn từ bên ngoài. Do đó, đoàn kết đã được hun đúc từ đời này
qua đời khác và trở thành một truyền thống quý báu lâu đời, sức mạnh vô địch của dân tộc ta.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận có tính chân lý: “Đoàn kết làm ra
sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích
của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người. Trong mỗi quốc gia dân tộc bao

30
giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích
khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc.
Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc
đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các
quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm,
trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố
khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay
cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về
lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc
và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến
trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó
trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
Nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa và nâng
lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Lenin, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức
mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân
dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được.
Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không
ra”.
Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc đã được kế thừa và phát triển đến cao độ; được thể hiện nhất quán và xuyên
suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ những động lực phát triển đất nước, bao gồm: Đại
đoàn kết toàn dân tộc; Dân chủ xã hội chủ nghĩa; kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá
nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người; Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;
Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Công bằng xã hội; Đổi mới, sáng
tạo… Trong đó, đại đoàn kết toàn dân tộc được xem là động lực hàng đầu.
Sở dĩ, đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta coi là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, khi được quy tụ, tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, thì sẽ động viên đến mức cao nhất
sức mạnh của tất cả các giai tầng trong xã hội, đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước để
hướng đến mục tiêu chung là xây dựng và phát triển “Một nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó,
đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển đất nước trong thời kỳ
mới, khác với quan điểm tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp trước đây.
Phân tích liên minh công nông và trí thức
Tại Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, người chủ trì
Nguyễn Ái Quốc Trên cơ sở đánh giá tình hình giai cấp và xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh
chiến tranh thế giới, với quan điểm lý luận gắn với thực tiễn cách mạng, Người nêu cao vấn
đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong
lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn
đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng. Liên minh công -
nông - trí thức là sự cố kết của công nhân, nông dân, trí thức trong một chỉnh thể”. Xây dựng
khối liên minh công - nông - trí là lực lượng cơ bản tiến hành cách mạng Việt Nam. Đường
lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên nhiều
chiến thắng
Về phía nông dân, do địa vị kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp của mình, nông dân tự
nguyện tìm đến với giai cấp công nhân. Nếu không liên kết với công nhân, trí thức thì họ sẽ bị
các giai cấp bóc lột lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc sống nô lệ, bị áp bức, bóc lột. Ngày nay, sự

31
tiến bộ của nông dân đã ngày càng gắn bó hơn với công nhân và trí thức. Để đẩy nhanh sản
xuất nông sản hàng hóa, làm cho nông nghiệp phát triển bền vững, nông dân rất cần tới sự hỗ
trợ của công nghiệp và những tri thức khoa học kỹ thuật
Về phía tầng lớp trí thức, là một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc trưng nổi bật là lao động trí óc
sáng tạo. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nhân,
nông dân rất cần trí thức. Công nhân và nông dân tạo nên những cơ sở vật chất, điều kiện sinh
hoạt và làm việc cần thiết, đặt ra các nhu cầu làm động lực cho sự tìm tòi sáng tạo, hoạt động
nghiên cứu của trí thức. Ngược lại, các lĩnh vực hoạt động của công nhân, nông dân sẽ là môi
trường để trí thức đem khoa học kỹ thuật vào phục vụ cuộc sống.

Trí thức là những người lao động trí tuệ, sáng tạo, dựa trên nền tảng học vấn và kiến thức
chuyên môn cao, có tính chuyên nghiệp. Thực hiện việc lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội
cũng bao chứa lao động trí óc, nhiều dạng hoạt động lao động khác trong xã hội hiện đại cũng
không thể không có lao động trí óc. Nhưng với trí thức, nhất là trí thức trong thời đại cách
mạng KHCN, lao động trí óc của họ là lao động trí óc chuyên nghiệp, gắn với sáng tạo, tích
lũy, truyền bá tri thức.
-Liên minh công - nông trong quá trình công nghiệp hoá thể hiện rõ trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội.
Nội dung này thể hiện trước hết ở chỗ, hai giai cấp đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, trở thành lực
lượng cách mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, bảo vệ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một công cụ
chủ yếu để nhân dân lao động từng bước thực sự làm chủ xã hội.
-Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản và quyết định nhất, làm cơ sở vững chắc cho liên minh
công nông trong quá trình công nghiệp hoá.
Bản chất sâu xa của liên minh công-nông, xét về mặt kinh tế, chính là quá trình giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế của hai giai cấp và của toàn xã hội. Các lợi ích
kinh tế này không đối kháng mà về cơ bản là thống nhất nhưng vẫn luôn luôn nảy sinh mâu
thuẫn cần phát hiện và giải quyết những điều kiện cụ thể. Quá trình kết hợp đúng đắn các lợi
ích kinh tế biểu hiện ở các quan hệ tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp, công
nhân và nông dân, đặc biệt là quan hệ giữa Nhà nước và nông dân.

Đối với quan hệ giữa giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng đông đảo nhất trong dân cư,
Hồ Chí Minh xác định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì nông dân mới được giải
phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách
mạng đến thắng lợi. Cho nên công nhân phải chăm chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố
công nông liên minh”. Người cũng chỉ rõ: “Nông dân, công nhân, lao động trí óc đều phải dựa
vào nhau. Nông dân không có sự giúp đỡ của công nhân thì không được. Công nhân không có
nông dân cũng không được. Lao động trí óc không có công nhân, nông dân cũng không
được”.
Liên minh công - nông - trí thức là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại
đoàn kết toàn dân, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận chung
thống nhất vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng lãnh đạo gì
Đại hội IX của Đảng (4/2001) là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí
kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỷ
mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 19
đến ngày 22- 4-2001. Đại hội đã nghe đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Thường vụ Bộ
Chính trị đọc Diễn văn khai mạc Đại hội, đồng chí Lê Khả Phiêu,Tổng bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về các văn kiện trình Đại hội IX. Đại hội Đảng lần thứ IX có nhiệm vụ tổng kết 5
năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát

32
triển kinh tế xã hội 1991 – 2000 và tổng kết 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội IX
kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ngang tầm
với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới, sửa đổi, bổ sung Điều lệ, bầu ra Ban Chấp hành
Trung ương mới.
+) Đại hội khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên
vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
+) Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên xây dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế.
+) Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mà nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đảng, Nhà nước chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
+) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; làm cho chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của
nhân dân.
+) Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển.
⇒ Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng
thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển
và cụ thể hóa Cương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Để thực hiện luận điểm cần làm gì?
Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng.
Mục tiêu trên là ước vọng ngàn đời của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi. Yêu
nước, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước đã trở thành lẽ sống của cả dân tộc;
của mỗi người Việt Nam qua các thời đại.
Mục tiêu trên cũng là hoài bão, thể hiện ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Đó cũng là điều mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa: "Toàn Đảng, toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh".

33
Giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh" là mẫu số chung, là chất kết dính để gắn bó đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mục tiêu "Dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" được xác định từ Hội nghị giữa
nhiệm kỳ khóa VII của Đảng họp tháng 1-1994, được Đại hội IX của Đảng bổ sung thành
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và được Đại hội X tái khẳng
định.
Xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội
Nước ta là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Nhân dân ta đã từng trải qua hơn một phần ba thế kỷ
tiến hành các cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước cũng đã từng bị chia
cắt tạm thời làm hai miền. Tuy đất nước đã thống nhất được hơn 30 năm, nhưng "những mặc
cảm, những khoảng cách còn lại" ở nơi này, nơi khác, thậm chí trong mỗi gia đình, nhất là các
tỉnh phía nam và trong một bộ phận đồng bào có đạo và đồng bào ta định cư ở nước ngoài vẫn
tồn tại với những mức độ khác nhau.
Mặt khác, chấp nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
có nghĩa là chấp nhận thu nhập khác nhau, mức sống, lối sống khác nhau và chấp nhận sự tồn
tại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội.
Trên cơ sở thừa nhận còn tồn tại những khác biệt đó, Đại hội X của Đảng xác định: Để thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc ở tầm cao mới phải: "xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt
đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi
ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội".
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh
đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt
nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn xã hội. Đường lối đúng đắn của
Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới,
chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng để Đảng đoàn kết, thống nhất,
thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đào tạo xây dựng một đội
ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân là việc làm có
ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Nhà nước, vì Nhà nước là trụ
cột của hệ thống chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Cần tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc: tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân; cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc của dân. Đây là yếu
tố rất quan trọng, bảo đảm sự bền vững của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc (bao gồm
các đoàn thể nhân dân). Là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò
rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thắt chặt mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội,
động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là
đường lối chiến lược của Đảng.
Câu hỏi thảo luận
Câu 1: Để phát huy vai trò trí thức, theo em Đảng và Nhà nước cần phải làm gì ?
Ðảng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề để tạo động lực
thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước cần thực hiện các chính sách
xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng

34
cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn
nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi
ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và
các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
Câu 2: Tại sao cần có sự lãnh đạo của Đảng trong sự phát triển đất nước ?
Nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, duy trì và xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo
vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ. Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát
triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ
cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng
lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác
với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn. Trên cơ
sở đó, Trung ương đã nêu các nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu Bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới.
Chủ đề 38: Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam của
Cương lĩnh năm 2011 được Đại hội XI (1/2011) thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
1.Sự phát triển nhận thức lý luận về phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội:
Với phương hướng 1:-Những luận điểm đã rõ:
Nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam
và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
là phù hợp thực tế Việt Nam.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:

35
Tiêu chí của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của nền kinh tế tri
thức vận dụng vào điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ đó làm cho chúng ta còn
lúng túng về biện pháp, con đường, điểm đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cũng như xây dựng nền kinh tế tri thức. Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển kinh tế tri thức. Trong công nghiệp thì đột phá ngành gì, ưu tiên ngành gì
cũng còn lúng túng. Trong nông nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa chọn được khâu đột phá
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế tri
thức; còn cầu toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển khai thực tiễn. Hơn nữa,
chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết
cho thực hiện phương hướng này.
Với phương hướng 2:-Những luận điểm đã rõ:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu dài mô hình kinh tế này. Những
đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này đã được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận
trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế
thị trường hiện đại hơn.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Vẫn chưa thống nhất trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ bản của mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là việc cụ thể hóa những đặc trưng
này trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn lúng
túng trong tổ chức thực hiện. Do vậy, cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu hiện biến
tướng phức tạp.
- Nguyên nhân hạn chế:
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này còn chậm. Còn những nhóm lợi ích
nhóm xấu tìm mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn nữa, đây là mô hình kinh tế mới chỉ
có ở nước ta, nên không thể học hỏi kinh nghiệm các nước khác được.
Với phương hướng 3:-Những luận điểm đã rõ:
Nhận thức toàn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối
liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn
hóa đối với phát triển bền vững được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
là sức mạnh nội sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị;
tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ
đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
là tất yếu chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về vai trò,
vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách là quốc sách hàng đầu. Đã
gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng
chính sách phát triển. Chế độ phân phối đã thể hiện được tinh thần thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội của Đảng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
còn chung chung, chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân chưa được nghiên cứu đầy đủ,
nghiêm túc chỉ đơn thuần là phủ định. Chưa đề ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt

36
Nam; hệ giá trị con người Việt Nam. Chưa có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào
tạo; phát triển khoa học công nghệ; trọng dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở
tư tưởng, quan điểm chưa hoặc chậm triển khai trên thực tế.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò, vị trí của một số vấn đề văn
hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong mối quan hệ với
kinh tế; chưa nhận thức hết vai trò sức mạnh mềm của văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa
kinh tế, còn tâm lý chỉ chú ý lo tăng trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây
dựng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
Với phương hướng 4:-Những luận điểm đã rõ:
Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ giữ vững chế
độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng như gắn kết phương hướng
bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc giai với yêu cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm
cuộc sống của nhân dân. Trên thực tế, phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội luôn gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo,
linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay
thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân với
kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng
biển của Tổ quốc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Nhận thức lý luận về vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn còn chung
chung, chưa cụ thể. Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời sống xã hội của nhân dân
gắn với an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân như “Luật biểu tình” chưa
được nhận thức giải quyết triệt để, còn các ý kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên
nhân chưa giải quyết triệt để vấn đề tụ tập đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá trớn”
gây mất trật tự, an toàn xã hội cho người dân. Vấn đề an ninh phi truyền thống chưa được
quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về lĩnh vực quốc phòng, an
ninh chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những nhận thức và tư duy chiến
lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm so với một số nước khác trong khu vực,
thậm chí có lúc bị động, còn có biểu hiện chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ chiến lược quốc
phòng, an ninh.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan quốc phòng,
an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới “né tránh” vấn đề.
Với phương hướng 5:-Những luận điểm đã rõ:
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được kiên
trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế” chúng ta đã chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là
bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế” tức là công tác đối ngoại ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân
dân” đã được thay bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến
lược, mềm dẻo trong sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ
điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tính tới tháng 9/2018, Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác chiến lược (bao
gồm cả 3 đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện nhưng chúng ta chưa có “chiến
lược, chương trình, nội dung” cụ thể cho từng đối tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để đột
phá về đối ngoại.
Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ quyền, cùng thế nào là ưu tiên
bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay còn chung chung,
chưa rõ.

37
- Nguyên nhân hạn chế:
Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình phải dựa vào khi tình hình khó khăn,
trong khi bối cảnh thế giới biến động khôn lường. Do vậy, chúng ta còn rất cẩn trọng trong
xác định từng đối tác cụ thể trong đối ngoại. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
về những vấn đề trên còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Với phương hướng 6:-Những luận điểm đã rõ:
Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới” thành “dân
chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất nước”. Như vậy đầy đủ hơn,
đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ
bản xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gắn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn
dân tộc được mở rộng trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở các
“dân tộc trong nước”. Lấy điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, phương thức thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chưa
rõ” cho nên việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện
thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn hạn chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất
trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy cơ quan liêu
hóa của các cơ quan này được nhận thức từ sớm nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu, triệt để
khắc phục.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, bằng lòng với kết quả đã
có. Chưa tổng kết thực tiễn, xây dựng mô hình thí điểm hoạt động của Mặt trận đoàn kết để
tìm ra phương thức hoạt động tối ưu. Chưa quyết liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân
dân bầu trực tiếp một số chức danh lãnh đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực
hiện trên cả nước.
Với phương hướng 7:Những luận điểm đã rõ:
So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định
trong phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập
pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân hiệu quả nhất, cũng như
phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực tế nhất trong điều kiện hiện nay.
Mô hình, cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ, nhất là cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm
rõ. Do vậy, chưa có cơ chế ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách giản đơn mà
không nghiên cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất hợp lý không phù hợp điều
kiện Việt Nam.
- Nguyên nhân hạn chế:
Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận một cách toàn
diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học cho việc kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta
chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà
nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai
nhiều nhưng kết quả rất hạn chế.

38
Với phương hướng 8:-Những luận điểm đã rõ:
Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn của cả dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng
về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về
đạo đức. Những luận điểm này phù hợp thực tiễn Việt Nam và được thực tiễn chứng minh là
đúng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được nêu ra từ rất sớm
nhưng nội hàm, cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng túng, chưa rõ. Quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng chưa được làm rõ. Vấn đề kiểm soát
quyền lực trong Đảng cũng chưa được nhận thức và giải quyết một cách quyết liệt. Cơ chế
ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa”
còn chung chung.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của xây dựng Đảng về Đạo đức; tổ chức
thực hiện trên thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức chưa tốt. Chúng ta tổ chức đấu
chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền ,v.v.. trong bộ máy Đảng, chính quyền trong nhiều
nhiệm kỳ Đại hội nhưng hiệu quả không cao, chưa đáp ứng yêu cầu mong mỏi của nhân dân
và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

Chủ đề 39:Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

1.Công cuộc đổi mới vì CNXH từ năm 1986 đến nay. ( Ngọc Anh).

35 năm đổi mới (1986 - 2021) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh
dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu,
toàn diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực
cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Bởi đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức, với từng
đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển khai một cách sâu rộng và đồng
bộ, cho nên 35 năm qua, công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận
mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm.

Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng, con
đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực hiện công
bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội
nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững;
xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp, từ
đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.

Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới tư duy để
khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò
lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành
quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng
cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước có thu nhập
thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, an ninh

39
quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã
đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo
đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành
thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ
phong cách sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi
tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đạt
được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác
trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc mới cho đất
nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường đã chọn.
Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi;
dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng
cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…

Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những
năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường
lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân
tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức,
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù
hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm
2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng,
toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các
tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.

2. Một số hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH từ năm 1986 đến nay. ( hương giang)
( uyển my)

Trong 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam cũng còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể.
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần
đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế
còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ
thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều
hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng
để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh,
nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có
hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai căng tác động
tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh
thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng

40
nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng
thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng
bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính
trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ.Biên
chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ
song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số
văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi
liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn
nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.
Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về
tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ bản trong tình
hình mới. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội còn diễn ra nghiêm trọng. Công tác tư tưởng- lý
luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất
cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp,
quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng
đầu.
Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, chưa
ngang tầm nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, Đảng phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận- thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra:
- Vấn đề xác định lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam:
Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho đến nay, Việt
Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ đây cho đến khi kết thúc thời kỳ quá độ để trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn phải trải qua bao nhiêu chặng đường, nội
dung kinh tế- xã hội của từng chặng đường là gì? Chỉ có đẩy mạnh nghiên cứu lý luận- thực
tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách có căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng
chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, phòng ngừa và khắc phục tư duiy giản đơn, chủ quan
nóng vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
- Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu cầu nền
kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy luật của
kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường như thế nào để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ? Vai trò của thị
trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân bổ các nguồn lực trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
Cần tiếp tục nghiên cứu vai tro của kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà
nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân; những giải pháp củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước cần đổi mới, bổ
sung cơ chế, chính sách nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình đăng thực sự của kinh tế

41
tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ hơn vai trò động lực của kinh tế
tư nhân.
- Vấn đề mô hình và phương thức quản lý phát triể xã hội:
Cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mô hình xã hội đoàn
kết, đồng thuận, hài hòa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó tầng lớp trung
lưu sẽ ngày càng chiếm số động trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng xã hội, quản trị sự
biến đổi xã hội, có chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải thiện điều kiện sống của
nhân dân, chủ động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Vấn đề đổi mới đồng bộ giữa chính trị và kinh tế:
Hiện nay, đổi mới chính trị (tư duy chính trị và tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị) còn
chậm hơn so với đổi mới kinh tế. Vì vậy phải đẩy mạnh đổi mới chính trị cho đồng bộ, phù
hợp với đổi mới kinh tế, tập trung vào đổi mới thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách, phương
thức huy động và phân bổ nguồn lực, kiểm soát quyền lực và phát huy các động lực của phát
triển.
- Vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam:
Để định hướng đúng đắn cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong
giai đoạn mới, cần đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam.
Cần nghiên cứu làm rõ hơn các tiêu chí về tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân
chủ, khoa học. Tiếp tục nghiên cứu những tiêu chí cụ thể của con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo.
- Vấn đề đảng cầm quyền:
Cần tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện một đảng để thực sự đổi
mới trong thực tiễn về nội dung cầm quyền, phương thức cầm quyền, mô hình cầm quyền, các
điều kiện để cầm quyền bền vững, hiệu quả.
Cần nghiên cứu những giải pháp có hiệu quả để chống suy thoái trong Đảng, phòng chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ.
- Vấn đề động lực của đổi mới và phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới:
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cần phải phát huy mạnh mẽ các động lực. Muốn vậy
phải nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động lực phát triển, đặc biệt nhận thức đúng và
xử lý tốt các động lực như lợi ích, dân chủ, đoàn kết yêu nước, phát huy nhân tố con người…
Các động lực đó tác động lẫn nhau, tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩy công cuộc đổi mới
của Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
CHỦ ĐỀ 40
Kinh nghiệm chủ yếu : 5 bài học kinh nghiệm + 2.Nội dung, phân tích các bài học kinh
nghiệm
Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán bộ: Công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên
cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng
tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống
chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then
chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy

42
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Điểm mới của bài học này so với các
đại hội trước là xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ; nhấn mạnh xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
toàn diện; nhấn mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nhấn mạnh yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Bài học thứ hai về dân: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán
triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát
từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết
với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa. Điểm mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm
“dân là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn
mạnh lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu
Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện: Trong lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết
liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và
tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người
đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương;
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Điểm
mới của bài học này là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị
cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước đi phù hợp; coi trọng chất
lượng và hiệu quả thực tế
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ: Tập trung ưu tiên xây dựng đồng
bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con
người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế-xã
hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập
quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ trong phát triển đất nước. Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh tập trung ưu
tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển (cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại).
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự
báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở
giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước
lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả
sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động
nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.
3. Ý nghĩa của các bài học kinh nghiệm về việc thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm 1986-2002
Về kinh tế, đổi mới nền kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường, định
hướng lên xã hội chủ nghĩa và chịu sự quản lý của Nhà nước;

43
Về chính trị – xã hội, đẩy mạnh vai trò của cả 03 nhánh quyền lực: lập pháp, tư pháp và
hành pháp; trong đó, vai trò của cơ quan lập pháp được chú trọng; hoạt động hành chính nhà
nước được đơn giản hóa, cụ thể hóa, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, lấy nhân dân làm
gốc, xây dựng nhà nước “của dân, do dân, vì dân”;
Về văn hóa – giáo dục, gìn giữ, kế thừa văn hóa truyền thống dân tộc, hội nhập và tiếp cận
nền văn hóa đa sắc màu của thế giới; cải cách giáo dục theo hướng chú trọng thực hành, tăng
tính tự do, tự chủ và chú trọng vào người học.
Có thể thấy, trong bối cảnh chung đó, ý nghĩa của công cuộc đổi mới 1986 là vô cùng lớn.
Sự đổi mới kịp thời không chỉ giúp nước ta giải quyết được các khó khăn, tồn tại trong quá
khứ mà còn chủ động, kịp thời nắm bắt được những cơ hội để phát triển, hoàn thiện đất nước;
… Và đặc biệt là tạo động lực cho nền kinh tế – xã hội phát triển vượt bậc và hướng tới dân
chủ hóa xã hội, đề cao hơn nữa quyền công dân .
Từ đó, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn:
củng cố nên nền độc lập, tự chủ dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của đất nước.
tăng cường sức mạnh tổng hợp, từng bước phát triển về đời sống nhân dân, khẳng định vị thế
và uy tín của VN trên trường quốc tế.
khẳng định sự đúng đắn trong đường lối, chính sách lãnh đạo của đảng, làm vững lòng dân,
đoàn kết cùng phát triển về mọi mặt.
hội nhập quốc tế, nắm bắt đúng thời cơ để phát triển; đồng thời khắc phục những hạn chế
đang tồn tại hiện có.
giúp VN trở thành một đối tác tối ưu, không ngừng đổi mới và phát triển để bắt kịp nhịp độ
của các quốc gia phát triển trên toàn thế giới.

Chủ đề 41 : Thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc
a) Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thắng lợi Cách mạng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong
gần một thế kỷ, lật đổ chế độ quân chủ và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân
Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc
Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Với thắng
lợi của Cách mạng Tám, Đảng và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ. Cách mạng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh
mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực
dân giành độc lập, tự do.
Viết về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: là
thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam: “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị
áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là làn đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc”1.
b) Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, bảo
vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế
– Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã buộc thực dân Pháp và
các nước phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương;
làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền
Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế.

44
Đối với quốc tế, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp đã cổ vũ mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ
nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở ba nước Đông Dương, là tấm gương cổ vũ các dân tộc thuộc
địa, phụ thuộc, góp phần làm sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ
thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước thực dân hùng mạnh, Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng lả một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên
thế giới. Thắng lợi đó đã chứng minh rằng một dân tộc dù đất không rộng, người không đông,
nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự
ủng hộ quốc tế thì hoàn toàn có thể giành thắng lợi.
Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ
thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng"
– Thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước (1954-1975): Quân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, giành
lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình,
thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức
mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào
sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp
phần quan trọng và việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với cách mạng thế giới, thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản
kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, đã làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp
phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu
vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, tự do và hòa bình phát
triển của nhân dân thế giới.
Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại
hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi
qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi
mãi được ghi và lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc”2.
– Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc là “là một bảo đảm cực kỳ quan trọng
cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3 và tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa
các nước và góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Thắng lợi của công cuộc đổi mới
Qua hơn 30 năm đổi mới, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trên đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, phát triển. Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Văn hóa-xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân

45
tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Nhìn khái quát, trong gần 90 năm, kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội;
đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều. Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm
sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhưng vấn đề căn bản là Đảng đã nghiêm túc tự phê
bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến
lên.
Đánh giá những thành tựu cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954,
đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Chủ đề 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt
Nam từ năm 1930 đến năm 2018
5 BÀI HỌC LỚN
Từ những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại đã giành được, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tổng kết và nêu lên một số bài học chủ yếu.
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là lí tưởng, là mục tiêu chiến lược của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Mục tiêu đó
được đề ra ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và được đặt ra và cụ thể hóa
trong từng thời kì, từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam; được phát triển cả về nhận thức lí
luận và thực tiễn trong các Cương lĩnh tiếp theo. Điều cần nhấn mạnh là, Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn nội dung của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội và sự thống nhất không thể tách rời nhau của hai mục tiêu chiến lược đó. Độc lập dân tộc
là đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa và con đường phát triển độc lập, tự chủ của đất nước; là bảo vệ sự ổn định chính trị
và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; là giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng đã từng
bước hiện thực hóa và nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

46
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất với nhau trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ; đất nước có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng thống nhất trong một xã hội không có áp bức, bất công,
mọi người được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện cá nhân với đời
sống ngày càng nâng cao về vật chất, tinh thần trong nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất trong chính sách bình đẳng, tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và hòa bình, hữu nghị,
hợp tác cùng phát triển với các dân tộc, quốc gia trên thế giới.
Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh giành độc
lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính trị
đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ sở đường lối đúng đắn mà tập hợp, đoàn
kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có mục
đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đồng thời đoàn kết rộng rãi các giai
cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, đoàn kết các tôn giáo, đoàn
kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời bảo
đảm lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích chung của
dân tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất
để tập hợp đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các
hình thức tổ chức tập hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần
chúng, nghề nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát
triển truyền thống đoàn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
truyền thống gắn kết trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng họ, làng xã đến cộng đồng
dân tộc, quốc gia. Đại đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu sắc đó
của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền,
lãnh đạo xây dựng và tăng cường vai trò, sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Từ khi ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh
giành độc lập dân tộc với giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua 3 cao trào cách mạng,
dẫn tới thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng kiểu mới, chính quyền Nhà nước thật sự là công bộc của nhân dân, phục vụ nhân dân,
gánh việc chung cho dân chứ không phải là chính quyền cai trị dân như dưới thời của chế độ
phong kiến, thực dân. Chính quyền nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tổ chức công
cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết đất nước, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, động viên và tổ chức lực lượng của toàn dân
tiến hành các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc giành độc lập, thống nhất
hoàn toàn và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Lãnh đạo quá trình cụ thể hóa, thể chế
hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo xây

47
dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước và chính quyền các cấp, bố trí cán bộ trong bộ máy chính
quyền Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước phát huy
cao độ hiệu lực, hiệu quả quản lí, thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng, lợi ích và quyền
làm chủ của nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để
quản lí tốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt các chính sách xã
hội, an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh
và mở rộng quan hệ đối ngoại. Quốc hội không ngừng đổi mới để thực hiện tốt hơn chức năng
lập pháp, quyết định những vấn đề to lớn của đất nước và giám sát tối cao. Đẩy mạnh cải cách
hành chính để Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí
hành chính nhà nước. Cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ m áy, nâng cao chất lượng và
trách nhiệm của đội ngũ công chức, cải cách tài chính công là những vấn đề bức thiết hiện
nay. Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nắm vững quan điểm: Quyền lực nhà nước là thống nhất,
nhưng có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mọi
quyền lực thuộc về nhân dân.
Bốn là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc,
coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách
mạng thế giới. Trong Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp
được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các
cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt để phát triển sức
mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự
giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng
và dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó
đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao
bản lĩnh chính trị để đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội, động viên cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường
củng cố sự đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa
quốc tế trong sáng. Đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối đa những vấn đề
mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng khoa học,
công nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội
lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, xong sức mạnh đó được tăng
cường khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.
Năm là, không ngừng nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Những bài học đã nêu trên đây thể hiện nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Có được thành
công đó trong lãnh đạo là nhờ Đảng không ngừng tự đổi mới và chỉnh đốn, luôn luôn coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng coi trọng nâng cao trình độ trí tuệ, lí luận, nghiên
cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Coi trọng nghiên cứu lí luận, nâng cao trình độ lí luận của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lí chủ chốt, nâng cao tầm tư duy, chiến lược, nắm bắt và vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan, khắc phục biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Chú trọng
tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam để bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ những vấn đề lí
luận. Đảng không ngừng phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ Cương lĩnh
tháng 2-1930, tháng 10-1930 đến Cương lĩnh của Đại hội II (2-1951), Cương lĩnh 1991 và

48
Đại hội XI sắp tới của Đảng sẽ bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991: Đường lối của Đảng trên
từng lĩnh vực cụ thể cũng được xây dựng và hoàn chỉnh.
Đảng coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cả ở cấp
chiến lược và cấp cơ sở. Đảng hoạt động, lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỉ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất
trong Đảng; tự phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; gắn
bó mật thiết với nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không
ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.

49

You might also like