You are on page 1of 79

Table of Contents

LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................................................5


CHÚ THÍCH..............................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ MẠNG 5G...............................................................................6
1.1 Sự phát triển của mạng di động..........................................................................................................7
1.2 Tại sao 5G là cần thiết.........................................................................................................................8
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ MẠNG 5G...........................................................................................9
2.1 Các trường hợp sử dụng mạng 5G.....................................................................................................9
2.1.1 Giao tiếp giữa máy với máy và IOT................................................................................................9
2.1.2 Các trường hợp sử dụng chung.....................................................................................................10
2.1.3 Giao tiếp giữa thiết bị với thiết bị..................................................................................................11
2.2 Yêu cầu của 5G..................................................................................................................................11
2.2.1 Quản lý chất lượng dịch vụ thông minh........................................................................................13
2.2.2 Chất lượng trải nghiệm.....................................................................................................................14
2.3 Công nghệ 5G.....................................................................................................................................14
2.3.1 Kỳ vọng chung................................................................................................................................15
2.3.2 Thiết bị đầu cuối người dùng.........................................................................................................16
2.3.3 Giao thức Internet..........................................................................................................................16
2.3.4 Mạng không đồng nhất..................................................................................................................17
2.3.5 Kết nối giữa thiết bị với thiết bị.....................................................................................................18
2.3.6 Kết nối mạng và chức năng mạng được xác định bằng phần mềm.............................................20
2.3.7 Nhận thức vô tuyến.........................................................................................................................21
2.3.8 Phổ tần số vô tuyến và dải tần sóng ngắn.....................................................................................21
2.3.9 Mật độ mạng...................................................................................................................................22
2.3.10 MIMO nâng cao............................................................................................................................22
2.3.11 Kịch bản trong nhà và UDRANET..............................................................................................23
2.3.12 Bộ phận đa tia chương trình đa truy nhập.................................................................................23
2.3.13 Mạng truy cập vô tuyến................................................................................................................23
2.3.14 Kiến trúc mạng lõi........................................................................................................................23
2.3.15 Công nghệ cho truyền thông quan trọng....................................................................................24
2.4 Viễn cảnh xanh Olsson và cộng sự...................................................................................................25
2.5 Kinh tế................................................................................................................................................25

1
2.5.1 Doanh thu........................................................................................................................................26
2.5.2 Giá D2D...........................................................................................................................................27
2.6 Khía cạnh kinh doanh.......................................................................................................................28
2.6.1 Thị trường áp dụng........................................................................................................................29
Chương 3: Thảo luận..............................................................................................................................30
3.1 Khía cạnh công nghệ.........................................................................................................................30
3.2 Các khía cạnh kinh tế........................................................................................................................30
3.3 Hạn chế...............................................................................................................................................33
3.4 Mô tả sự cố........................................................................................................................................34
3.5 Công thức toán học của mô hình và do đó lợi nhuận......................................................................35
3.7 Giải thích về chức năng chất lượng..................................................................................................36
3.8 Tương đồng với Tối ưu hóa danh mục đầu tư.................................................................................37
3.9 Đề cương phân tích sâu hơn..............................................................................................................37
3.10 Thiếu sót...........................................................................................................................................38
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN......................................................................................................................38
4.1 Kết luận..............................................................................................................................................38
4.2 Khuyến về kinh tế.............................................................................................................................39

LỜI NÓI ĐẦU


Tôi đang học chuyên ngành Điện tử viễn thông, được hỗ trợ bởi các khóa học về
Kỹ thuật số, có vẻ phù hợp để chọn một chủ đề cho luận án của tôi kết hợp các lĩnh
vực khác nhau.

Mục tiêu tổng thể của luận án này là khám phá thế hệ tiếp theo của mạng di động,
5G và các khía cạnh kinh tế của nó. Điểm khởi đầu là nghiên cứu văn học hiện có,

để hiểu cách 5G hiện được định nghĩa. Dựa trên tổng quan tài liệu này, các khía
cạnh kinh tế cần được nghiên cứu thêm đã được xác định. Như tôi cũng đã thực
hiện các khóa học giới thiệu về Nghiên cứu và tối ưu hóa hoạt động, tôi đã chọn
mô hình hóa một vấn đề lập kế hoạch cho một nhà cung cấp mạng di động trong

2
bối cảnh 5G. Đây là đóng góp định lượng của tôi, vì phần còn lại của luận án này
dựa trên đánh giá tài liệu đã tiến hành.

Người đọc luận văn thạc sĩ này được cho là có kiến thức về các khía cạnh kinh tế
và kinh doanh của viễn thông ở cấp đại học, cũng như một số kiến thức chung

về mạng di động và lĩnh vực tối ưu hóa.

Tôi xin cảm ơn người giám sát của tôi, Đoàn Văn Tuấn vì sự giúp đỡ của Thầy

đã cho tôi trong tất cả các khía cạnh của luận án này, đặc biệt là với mô hình của
vấn đề lập kế hoạch

CHÚ THÍCH
- AI (Artificial Intelligence): Trí tuệ thông minh nhân tạo

- AWA-HetNet (Advanced Wireless Access Heterogeneous Network): Mạng


không đồng nhất truy cập không dây nâng cao

- CAPEX (Capital Expenditure): Chi phí vốn

- CMaaS (Connectivity Management-as-a-Service): Quản lý kết nối như một dịch


vụ

- CN (Core Network): Mạng lõi

- CR (Cognitive Radio): Nhận diện vô tuyến

3
- D2D(Device-to-Device): Từ thiết bị đến thiết bị

- DC-DC (Direct D2D Communication with Device Controlled Link


Establishment): Giao tiếp trực tiếp D2D với thiết lập liên kết được điều khiển bằng
thiết bị

- DC-OC (Direct D2D Communication with Operator Controlled Link


Establishment): Giao tiếp trực tiếp D2D với thiết lập liên kết được điều khiển bời
nhà điều hành

- DR-DC (Device Relaying with Device Controlled Link Establishment): Chuyển


tiếp thiết bị với thiết lập liên kết được điều khiển bởi thiết bị

- DR-OC (Device Relaying with Operator Controlled Link Establishmen): Chuyển


tiếp thiết bị với người thiết lập liên kết điều khiển

- EE (Energy Efficiency): Hiệu quả năng lượng

- HetNet (Heterogeneous Network): Mạng không đồng nhất

- ICT (Information and Communications Technology): Công nghệ truyền thông và


thông tin

- IP (Internet Protocol): Giao thức mạng

- ISP (Internet Service Provider): Nhà cung cấp dịch vụ Internet

- IT (Information Technology): Công nghệ thông tin

- 3GGP (The 3rd Generation Partnership Project): Dự án hợp tác thế hệ thức 3

- M2M(Machine-to-Machine): Máy tới máy

4
- METIS (The Mobile and Wireless Communications Enablers for the
TwentyTwenty Information Society): Công cụ truyền thông tin và không dây cho
Hiệp hôi thông tin 2020

- MIMO (Multiple-Input and Multiple-Output): Đa truy nhập đa truy xuất

- MU-MIMO (Multi-User Multiple-Input and Multiple-Output): Nhiều người dùng,


đa truy nhập, đa truy xuất

- NVNO (Mobile Virtual Network Operators): Nhà khai thác mạng di động ảo

- NGMN (The Next Generation Mobile Networks Alliance): Liên minh mạng di
động thế hệ tiếp theo

- NFV (Network Functions Virtualization): Ảo hóa các chức năng mạng

- OPEX (Operating Expenditure): Chi phí hoạt động

- RAN (Radio Access Network): Mạng truy cập vô tuyến

- RANaaS (Radio Access Network-as-a-Service): Mạng truy cập vô tuyến như một
dịch vụ

- RAT (Radio Access Technology): Công nghệ truy cập vô tuyến

- RRM (Radio Resource Management): Quản lý tài Nguyên vô tuyến

- SDN (Software-Defined Networking): Mạng được xác định bằng phần mềm

- SDR (Software-Defined Radio): Đài phát thanh được xác định bằng phần mềm

- SE (Spectral Efficiency): Hiệu quả quang phổ

- SINR (Signal-to-Interference-and-Noise Ratio): Tỷ lệ giữa tín hiệu-nhiễu với


nhiễu

5
- UDRANETs (Ultra-Dense Radio Access Networks): Mạng truy cập vô tuyến siêu
dày đặc

- QoE (Quality of Experience): Chất lượng trải nghiệm

- QoS (Quality of Service): Chất lượng dịch vụ

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ MẠNG 5G


Truyền thông điện tử và đặc biệt là Internet có một vị trí quan trọng trong xã hội
của chúng ta, và do đó 5G là một chủ đề được nhiều người quan tâm, không chỉ
riêng ngành công nghiệp viễn thông. Mạng truyền thông không dây có lẽ là yếu tố
quan trọng nhất trong chiến lược CNTT toàn cầu (Wang et al., 2014), và ngành
công nghiệp viễn thông trong những năm qua đã phát triển để trở thành một ngành

6
công nghiệp khổng lồ trên cơ sở toàn cầu, và là một trong những ngành phát triển
mạnh nhất trong mọi lĩnh vực trên thế giới.

Hôm nay, tất cả mọi người, các khu vực, với sự nổi lên của IOT, mọi thứ cũng sẽ
trực tuyến - ở mọi nơi và mọi lúc. Có nhu cầu truy cập phổ biến vào các dịch vụ di
động. Như một lời giới thiệu tiếp theo và là điểm khởi đầu để hiểu về con đường
hướng tới 5G, sự phát triển của các thế hệ mạng di động trước đó sẽ được giải
thích.

Kể từ khi 1G xuất hiện vào những năm 1980, mỗi thế hệ mạng di động mới đã
được ra mắt khoảng mười năm một lần. Ban đầu, các dịch vụ thoại hoặc điện thoại
di động đã được chú trọng và trong những năm qua, những sự thay đổi rõ ràng từ
điện thoại di động sang điện thoại di động đã xảy ra. Vào cuối năm 2010, số lượng
thuê bao cho điện thoại di động nhiều hơn bốn lần so với Điện thoại đường dây, và
không có bằng chứng tình huống nào nói rằng xu hướng này sẽ là đã đảo ngược
(Sharma, 2013). Giờ đây, dịch vụ thoại chỉ đơn giản là một phần trong tổng số nhu
cầu liên lạc mà người dùng dựa vào mạng di động để trang trải. Thiết bị người
dùng không còn chủ yếu là điện thoại di động mà là một máy tính nhỏ. Người dùng
mong đợi một kết nối không dây có chất lượng tương đương với mức tối đa của
những gì thiết bị có khả năng, tương tự như chất lượng của một kết nối có dây
(Pateletal., 2012). Hơn nữa, nếu người dùng bị kết nối WiFi hoặc có dây kém và
nằm ở khu vực có vùng phủ sóng di động tốt, họ sẽ dễ dàng chuyển sang kết nối di
động, dựa trên thực tế điều này sẽ giải quyết vấn đề kết nối của họ.

Theo Sharma (2013), các thế hệ không dây di động (G) đề cập đến sự thay đổi về
bản chất cơ bản của dịch vụ, công nghệ truyền dẫn không tương thích ngược và các
dải tần số mới. Điều này được hỗ trợ bởi Ch hèavez-Santiago et al. (2015), người
mô tả sự phát triển từ 1G sang 4G, chủ yếu được đặc trưng bởi sự thay đổi trong
phương thức đa truy cập, và cải tiến các sơ đồ điều chế và mã hóa

7
1.1 Sự phát triển của mạng di động
Thế hệ đầu tiên của công nghệ điện thoại không dây là các hệ thống tương tự sử
dụng phương pháp điều chế tần số phân tích tần số (FDMA) (Hossain, 2013).
Những hệ thống này được thiết kế theo quy định cho ứng dụng (Nokia, 2014).
Sapakal (2013) mô tả 1G với các đặc điểm sau: dung lượng thấp, liên kết giọng nói
kém và không có bảo mật nào cả theo mọi góc nhìn. Điều này cho thấy các hệ
thống 1G đơn giản như thế nào, so với tiêu chuẩn của các hệ thống 4G hiện tại. Hệ
thống di động đầu tiên thế giới được ra mắt bởi Nippon Điện thoại và Điện báo
(NTT) tại Nhật và một vài năm sau đó ở Châu Âu và Hoa Kỳ (Sharma, 2013).

Thế hệ mạng di động thứ hai được giới thiệu vào cuối những năm 1980 (Sharma,
2013). Hệ thống 2G đã sử dụng các sơ đồ điều chế kỹ thuật số: đa truy nhập phân
chia thời gian (TDMA) và đa truy nhập phân chia mã (CDMA) (Sapakal, 2013).
Các tín hiệu kỹ thuật số được sử dụng để truyền giọng nói đã cải thiện dịch vụ
thoại. Đây là thế hệ đầu tiên cung cấp tin nhắn văn bản, thường được gọi là Dịch
vụ tin nhắn ngắn (SMS) và nó cũng cho phép truy cập dữ liệu chuyển mạch kênh
(Nokia, 2014). So với các hệ thống 1G, 2G cung cấp hiệu quả phổ cao hơn và
chuyển vùng nâng cao hơn (Sharma, 2013), dẫn đến cải thiện dịch vụ thoại. 2G
liên kết với tiêu chuẩn toàn cầu cho truyền thông di động (GSM), mô tả các giao
thức 2G. Một bước quan trọng giữa 2G và 3G là triển khai dịch vụ chuyển mạch
gói chính, dịch vụ vô tuyến gói chung (GPRS), cùng với GSM. Sau này được gọi
là 2.5G, vì công nghệ này đã mở rộng đáng kể các hệ thống 2G hiện có.

Do dịch vụ tốc độ dữ liệu thấp, 2G không đáp ứng được nhu cầu truy cập Internet
di động với chất lượng tốt. Điều này dẫn đến các yêu cầu mới và nhu cầu về các
tiêu chuẩn 3G. Mạng 3G đầu tiên được ra mắt vào năm 1998. Đặc điểm của 3G là
dung lượng dịch vụ thoại nhiều hơn và Internet di động giá cả phải chăng với dịch
vụ dữ liệu nhanh hơn (Nokia, 2014). Sharma (2013) mô tả rằng 3G không chỉ đơn

8
giản là một tiêu chuẩn, mà là một nhóm các tiêu chuẩn có thể kết hợp với nhau.
Mạng 3G cho phép nhà điều hành mạng giả mạo người dùng một phạm vi rộng
hơn của các dịch vụ tiên tiến hơn, trong khi sự cải thiện hiệu quả phổ giúp cho việc
đạt được dung lượng mạng lớn hơn. Tốc độ dữ liệu nâng cao cho công nghệ GSM
Evolution (EDGE) là một phần của định hướng 3G, mặc dù nó được coi là công
nghệ tiền 3G. Một số tiêu chuẩn được liên kết với 3G, nhưng tiêu chuẩn quan trọng
nhất có lẽ là hệ thống Dịch vụ Viễn thông Di động Toàn cầu (UMTS), được phát
triển để bổ sung cho tiêu chuẩn GSM cũ.

Thế hệ thứ tư của mạng di động 4G, chủ yếu được liên kết với hệ thống LTE
(Sapakal, 2013), cung cấp dịch vụ dữ liệu tốc độ cao và dung lượng cao hơn cho đa
phương tiện di động (Nokia, 2014). Mạng di động bao gồm hai thành phần chính là
mạng truy cập vô tuyến (RAN) và mạng lõi (CN). Trong các mạng 4G, các thành
phần RAN và CN được gọi là LTE và System Architecture Evolution (SAE),
tương ứng. Hai thành phần này được gọi là Hệ thống gói phát triển (EPS), là mạng
không dây IP, chỉ hỗ trợ kết nối chuyển mạch gói (Yazici et al., 2014). Điều này có
nghĩa là không có phần nào của thế hệ này dựa trên chuyển mạch, đó là một ý định
quan trọng với 4G

Mục tiêu của 4G là cung cấp giải pháp dựa trên IP mạch lạc và an toàn, hỗ trợ các
dịch vụ thoại, dữ liệu và đa phương tiện cho người dùng ở mọi nơi, mọi lúc. Thực
tế là 4G dựa trên IP cho phép truyền dữ liệu nhanh hơn các thế hệ trước. Cùng với
LTE, Khả năng tương tác toàn cầu cho WiMax cũng được coi là một công nghệ 4G
quan trọng. Tuy nhiên, những công nghệ này thực sự là công nghệ tiền 4G. LTE
Advanced tiêu chuẩn được cải tiến đáp ứng các yêu cầu của Liên minh Viễn thông
Quốc tế (ITU) để tuân thủ 4G thực sự. Ở một số quốc gia, tiêu chuẩn này được bán
trên thị trường là 4G +. Theo dự định, trải nghiệm dữ liệu được cải thiện của 4G là
sự khác biệt đáng chú ý nhất so với 3G theo quan điểm của người dùng. Điều này

9
cho thấy các trường hợp sử dụng dữ liệu đã trở nên quan trọng hơn so với dịch vụ
thoại và nhắn tin một mình. Trong khi 3G là một khái niệm tập trung vào nhà điều
hành, thì 4G là một khái niệm tập trung vào dịch vụ (Janevski, 2009).

1.2 Tại sao 5G là cần thiết


Nếu 4G đã cung cấp băng thông rộng di động khá, thì có thực sự cần 5G không?
Đúng vậy, và điều này là do một số lý do. Khi 4G được phát triển, băng thông rộng
chính là động lực chính. Đối với 5G, băng thông rộng vẫn là quá trình điều khiển
quan trọng, nhưng với sự chú trọng hơn về độ bền, độ trễ, thông lượng, khối lượng
dữ liệu và tính di động (Rostetal., 2014). Các hệ thống 5G dự kiến sẽ mang lại lợi
ích đáng kể so với tốc độ dữ liệu cao hơn 4G, mức độ kết nối tốt hơn và vùng phủ
sóng được cải thiện (Ch Muffavez-Santiago và cộng sự, 2015). Nhìn chung, nhu
cầu tăng dung lượng mạng mà 5G phải giải quyết. Đã có sự tăng trưởng lớn trong
việc sử dụng Internet không dây trong những năm qua, và không có dấu hiệu cho
thấy sự tăng trưởng to lớn này sẽ chậm lại, vì sự tăng trưởng nhu cầu về cả tốc độ
dữ liệu người dùng và dung lượng mạng vẫn đang tiếp tục. Sự tăng trưởng của dữ
liệu ngoài khối lượng thiết bị được kết nối ngày càng tăng đòi hỏi sự phát triển của
LTE theo hướng 5G (Yazicietal., 2014). Rostrial. (2014) đã tóm tắt về lý do tại sao
nhu cầu về dữ liệu di động tăng:

- Nhiều thiết bị kết nối hơn (đặc biệt là do Internet of Things).

- Các thiết bị được kết nối mạnh hơn và phức tạp hơn trước.

- Các dịch vụ theo yêu cầu đa dạng hơn, phức tạp hơn và nhiều độ rộng băng tần
hơn.

- Các thiết bị được tích hợp vào nhiều mặt của xã hội, bao gồm cả ngành công
nghiệp

10
- Thiết bị đầu cuối người dùng được sử dụng làm cổng để truy cập dịch vụ đám
mây

Việc sử dụng công nghệ không dây đã bùng nổ, với sự tăng trưởng 92% về băng
thông rộng di động mỗi năm kể từ năm 2006 (Wang et al., 2014). Với sự tăng
trưởng hiện tại, giới hạn dung lượng của các mạng di động hiện tại sẽ sớm đạt
được. Vì ngày nay, các mạng 4G không thể xử lý được sự kết nối của dự đoán
trong tương lai, 5G là cần thiết để vượt qua các giới hạn của các hệ thống hiện tại
(Nokia, 2014). Để có được sự gia tăng đáng kể là khả năng của một hệ thống
không dây, cần phải tăng số lượng nút cơ sở hạ tầng không dây, tăng cường sử
dụng phổ vô tuyến và cải thiện hiệu quả liên kết (Bhushan et al., 2014). Yazici và
cộng sự. (2014) mô tả các mạng, trong các thiết bị đắt tiền và có thể sử dụng được
và thực tế là các giải pháp hiện tại cho mặt phẳng điều khiển của mạng rất phức tạp
và không linh hoạt, là hai lý do quan trọng cho các vấn đề về công suất. Những yếu
tố này làm cho khó cải thiện khả năng của các mạng hiện có

Chiến lược tăng trưởng năng lực và hiệu suất 5G phải là bền vững về kinh tế. Điều
này có nghĩa là nó sẽ cung cấp vùng phủ sóng ngày càng tốt hơn và trải nghiệm
người dùng vượt trội với chi phí thấp hơn các hệ thống không dây hiện có, bao
gồm LTE (Bangerter et al., 2014

Mục đích chính của 5G là thiết kế một xã hội hoàn toàn di động và kết nối
(NGMN, 2014) và thế giới không dây tốt nhất, không bị giới hạn và cản trở của
các thế hệ trước (Hossain, 2013), để có được World Wide Wireless Web (WWWW
) (Sharma, 2013). 5G cũng được định vị để trao quyền cho các chuyển đổi kinh tế
xã hội theo nhiều cách khác nhau, bao gồm các biến đổi cho năng suất, tính bền
vững và hạnh phúc (NGMN, 2014). So với khái niệm 4G tập trung vào dịch vụ, 5G
được coi là lấy người dùng làm trung tâm, tức là người dùng sẽ đứng đầu trong tất
cả (Janevski, 2009).

11
Dường như nó có sự đồng thuận trong nghiên cứu hiện tại rằng 5G dự kiến sẽ được
phát hành vào khoảng năm 2020 (Sapakal, 2013), khi giới hạn của 4G được dự
đoán sẽ đạt được (Nokia, 2014). Điều này cũng có ý nghĩa dựa trên thực tế là các
thế hệ mạng di động trước đó đã được tung ra khoảng năm thứ mười. Hiện nay cho
thấy Hàn Quốc sẽ là quốc gia đầu tiên triển khai 5G. Nhà điều hành lớn nhất của
họ, SKTelecom, hợp tác với các đối tác hàng đầu như Ericsson, Intel, Nokia,
Samsung, Qualcomm và Deutche Telecom để thử nghiệm công nghệ 5G.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ MẠNG 5G

2.1 Các trường hợp sử dụng mạng 5G


Các trường hợp sử dụng là sự tương tác giữa một tác nhân, điển hình là người dùng
và hệ thống, để đạt được mục tiêu. Họ cũng làm cho rõ ràng hơn để hiểu nền tảng
cho các yêu cầu 5G và họ có khả năng là người điều khiển công nghệ 5G sẽ được
phát triển (Nokia, 2014). Một số ứng dụng 5G sẽ cũ và quen thuộc, trong khi việc
giới thiệu các dịch vụ mới và đa dạng hơn cũng được mong đợi. Các kịch bản
thống trị hiện tại của giao tiếp lấy con người làm trung tâm sẽ được bổ sung bằng
sự gia tăng lớn về giao tiếp trực tiếp giữa các máy hoặc các thiết bị hoàn toàn tự
động. Do đó, các trường hợp sử dụng cho 5G có thể được chia thành hai loại chính
sau: băng thông rộng di động và IoT

2.1.1 Giao tiếp giữa máy với máy và IOT


Đây được gọi là giao tiếp giữa máy với máy (M2M) (Rost et al., 2014) và loại giao
tiếp này sẽ là một phần quan trọng của IoT mới nổi. Ở đây, các thiết bị và vật
phẩm được nhúng với cảm biến, điện tử, phần mềm và kết nối mạng thu thập và
trao đổi dữ liệu. Cảm biến hoặc thiết bị cho truyền thông M2M sẽ được tích hợp
trong các đối tượng sử dụng hàng ngày như ô tô, đồ gia dụng, dệt may và các thiết
bị quan trọng cho sức khỏe.

12
Kết quả của giao tiếp IoT và M2M là mọi thứ có thể sinh ra từ kết nối không dây,
sẽ được kết nối (Olsson et al., 2013). Do đó, IoT bổ sung bất cứ thứ gì như một
chiều bổ sung cho kết nối mọi nơi và mọi lúc (Agyapong et al., 2014). Truyền
thông M2M cũng sẽ tạo ra sự gia tăng lớn về số lượng thuê bao (ChenandZhao,
2014), vì có dự báo về tổng số 50 tỷ thiết bị được kết nối vào năm 2020
(Osseiranetal., 2014). Sự cùng tồn tại của giao tiếp giữa người và máy sẽ dẫn đến
sự đa dạng lớn về đặc điểm giao tiếp. Điều này đặc biệt bởi vì IoT yêu cầu các liên
kết truyền thông đáng tin cậy hơn, nhưng cũng có độ trễ hoặc độ trễ truyền thấp
hơn, vì máy móc có thể xử lý thông tin nhanh hơn nhiều so với con người (Nokia,
2014).

Mặc dù IoT sẽ phát triển 5G theo nhiều cách, nhưng điều chắc chắn là IoT đã xuất
hiện trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, kết nối không dây được cải thiện là rất cần
thiết để nhận ra tiềm năng đầy đủ của IoT và để đáp ứng tất cả những người dùng
có thể muốn hưởng lợi từ IoT trong cuộc sống hàng ngày. Những gì chúng ta đã
thấy có lẽ chỉ là khởi đầu và IoT dự kiến sẽ phát triển hơn nữa trong những năm
tới, đặc biệt là khi năng lực của các mạng không dây được cải thiện.

2.1.2 Các trường hợp sử dụng chung


Các yếu tố hỗ trợ truyền thông di động và không dây cho Hiệp hội thông tin hai
mươi (METIS), đề cập đến chăm sóc sức khỏe, an ninh, hậu cần, ứng dụng ô tô và
kiểm soát nhiệm vụ quan trọng như các trường hợp sử dụng 5G quan trọng. Họ
cũng đã tìm thấy, các orobjectives, dự kiến sẽ thúc đẩy hướng nghiên cứu 5G
(Osseiran et al., 2014)

- Nhanh chóng đáng kinh ngạc: 5G sẽ cung cấp tốc độ dữ liệu rất cao cho người
dùng băng thông rộng di động.

13
- Dịch vụ tuyệt vời trong đám đông: Người dùng nên có trải nghiệm băng thông
rộng hợp lý ở các khu vực đông người, như sân vận động, trung tâm mua sắm, lễ
hội ngoài trời và các sự kiện công cộng khác có nhiều người tham dự.

- Trải nghiệm tốt nhất cho bạn: Người dùng nên trải nghiệm dịch vụ cao cấp.

- Kết nối siêu thời gian thực và đáng tin cậy: 5G sẽ cho phép các ứng dụng mới và
các trường hợp sử dụng với các yêu cầu độ tin cậy và độ trễ nghiêm ngặt

- Những điều phổ biến trong giao tiếp: Một số lượng lớn các thiết bị khác nhau với
các yêu cầu duy nhất cần được xử lý hiệu quả.

Các kịch bản này được đặt trong giao điểm của các trường hợp sử dụng và các yêu
cầu thực tế, và sẽ cung cấp cho người đọc một ý tưởng về những kỳ vọng 5G
khổng lồ. Wang và cộng sự (2014) chỉ định rằng 5G sẽ hỗ trợ liên lạc cho các tình
huống đặc biệt mà mạng 4G không hỗ trợ. Chẳng hạn, 4G chỉ hỗ trợ các kịch bản
di chuyển lên tới vận tốc 250 km / h, trong khi đường ray tốc độ cao hiện có dễ
dàng có thể đạt tốc độ 350-500 km / h.NGMN (2014) đã xác định có 24 trường hợp
sử dụng cho 5G, mà họ đã nhóm thành tám trường hợp sử dụng:

- Truy cập băng thông rộng ở mọi nơi

- Truy cập băng thông rộng trong khu vực dày đặc.

- Tính di động của người dùng cao hơn

- IOT lớn

- Truyền thông thời gian thực cực đoan.

- Truyền thông huyết mạch.

- Truyền thông cực kỳ đáng tin cậy

- Dịch vụ như phát sóng.

14
Tám loại này không có nghĩa là toàn diện, mà chỉ nhằm mục đích như một công cụ
để đảm bảo rằng mức độ khả dụng của yêu cầu được nắm bắt tốt. Một số trường
hợp sử dụng được bao phủ bởi một số họ ca sử dụng và được thấy cùng nhau, các
họ ca sử dụng đưa ra một cái nhìn tổng quan về phạm vi của các ca sử dụng.

Nokia (2016) đề cập đến các phương tiện tự trị như là một trường hợp sử dụng có
liên quan trong bối cảnh truyền thông truyền giáo. Đây là một trong những trường
hợp sử dụng 5G thu được các yêu cầu về độ tin cậy cao và độ trễ rất thấp. Các
trường hợp sử dụng khác trong cùng bối cảnh là thực tế tăng cường (AR) và thực
tế ảo (VR). AR tăng cường chế độ xem trong thế giới thực với đồ họa và thời gian
thực được hiển thị dựa trên vị trí hoặc tầm nhìn của người dùng. VR tạo ra trải
nghiệm người dùng mới, trong đó người dùng ở trong một môi trường hoàn toàn
nhập vai

Cả hai thiết bị AR và VR cần theo dõi chính xác chuyển động của người dùng, xử
lý các chuyển động và nhận hình ảnh, sau đó hiển thị phản hồi ngay lập tức. AR có
thể được sử dụng để nâng cao kinh nghiệm dịch vụ hiện có. Người mua hàng có
thể thấy quần áo sẽ trông như thế nào mà không cần thử vật lý, người dùng có thể
sử dụng AR để xem nhiệt độ môi trường và chi tiết xây dựng cho một tòa nhà, và
cảnh sát có thể sử dụng AR với nhận dạng khuôn mặt để nhận dạng nghi phạm
trước khi bắt giữ. VR có thể được sử dụng cho các lớp học ảo nơi giáo viên ở xa
hoặc để thiết kế và sản phẩm nguyên mẫu trước khi chúng thực sự được chế tạo.
Cái sau rút ngắn thời gian phát triển và chi phí đáng kể (Nokia, 2016)

Các trường hợp sử dụng quan trọng khác là phẫu thuật từ xa, robot từ xa và điều
khiển công nghiệp và tự động hóa. Trong tương lai, robot có thể được sử dụng cho
các nhiệm vụ thường được thực hiện bởi con người trong quá khứ. Hai ví dụ về các
nhiệm vụ robot từ xa là xử lý bom hoặc xử lý (Nokia, 2016), có thể gây tử vong
nếu kết nối không đáng tin cậy hoặc có độ trễ quá cao.

15
2.1.3 Giao tiếp giữa thiết bị với thiết bị
Trong Bản phát hành 3GPP 12, trường hợp sử dụng giao tiếp giữa thiết bị với thiết
bị (D2D) được nhìn thấy lần đầu tiên. Yazici và cộng sự. (2014) mô tả đây là một
bước quan trọng theo hướng phát triển truyền thông LTE đến 5G.Dự đoán của
D2D là cho phép các thiết bị gần đó thiết lập các liên kết cục bộ, để các mạng có
thể truy cập trực tiếp qua chúng, thay vì thông qua cơ sở hạ tầng mạng. D2D sẽ có
hiệu quả đối với việc tải (Li et al., 2014) và có thể giúp giảm bớt tắc nghẽn mạng
trong mạng lõi di động (Ch Chuyệnavez-Santiago và cộng sự, 2015), vì nó sẽ đảm
bảo rằng các trạm cơ sở không còn nữa nút thắt giữa nguồn và đích. Có các khái
niệm D2D được đề xuất cho cả giao tiếp trực tiếp giữa hai thiết bị gần và giao tiếp
giữa người gửi và người nhận thông qua các thiết bị khác, trong đó các thiết bị
trung gian trong trường hợp sau sẽ hoạt động như các rơle trong mạng. D2D có khả
năng cải thiện khả năng sử dụng bằng cách giảm độ trễ và mức tiêu thụ năng
lượng, tăng tốc độ dữ liệu cao nhất và tạo ra các dịch vụ dựa trên vùng lân cận mới
như chơi game nhiều người chơi (Bhushan et al., 2014).

2.2 Yêu cầu của 5G


Vì các trường hợp sử dụng 5G rộng hơn bao giờ hết, 5G sẽ yêu cầu các đặc điểm
liên kết đa dạng hơn và do đó, các yêu cầu nói chung đa dạng hơn so với các thế hệ
mạng trước đó. Sự phát triển và đổi mới qua nhiều năm, cũng như công nghệ mới,
đã mở ra những cơ hội mà ít ai có thể tưởng tượng được khi có thể 1G lần đầu tiên
trở thành hiện thực. Các ứng dụng 5G đa dạng sẽ có một loạt các đặc điểm và yêu
cầu, bổ sung cho các yêu cầu 5G chung.

Mặc dù một số ứng dụng 5G có thể được hỗ trợ bởi băng thông rộng hiện tại hoặc
sự phát triển của nó, các ứng dụng khác sẽ áp đặt các yêu cầu mới. Các lớp ca sử
dụng

16
IoT và VR / AR là những ví dụ về trình điều khiển cho các yêu cầu mới và đa dạng
mà 5G sẽ phải hỗ trợ. Các mạng sẽ cần xử lý các loại thiết bị được kết nối mới,
trong khi video độ phân giải cực cao sẽ yêu cầu băng thông rộng di động tốt hơn
(Cha Muffvez-Santiago et al., 2015) .Nokia (2014) hy vọng rằng trong mạng 5G sẽ
thấy sự thay đổi tránh xa băng thông rộng di động nỗ lực tốt nhất để liên lạc thực
sự đáng tin cậy. 5G phải hỗ trợ một loạt các tốc độ dữ liệu, và khả năng mở rộng
và tính linh hoạt của mạng là bắt buộc. Nếu khả năng mở rộng và tính linh hoạt
được xử lý đúng cách, các mạng sẽ có thể hỗ trợ nhiều thiết bị mới có độ phức tạp
thấp và yêu cầu về tuổi thọ pin rất dài một cách hiệu quả.

Trong thập kỷ tới, tổng lưu lượng truy cập di động dự kiến sẽ tăng gấp nghìn lần
lưu lượng truy cập hiện nay, chủ yếu là do số lượng thiết bị kết nối ngày càng tăng
(Olsson et al., 2013). Do đó, nó cũng được dự kiến sẽ tăng công suất gấp ngàn lần
cho 5G (Li et al., 2014). Có sự gia tăng gấp ngàn lần công suất của các hệ thống
không dây từ năm 2000 đến năm 2010, và bây giờ, cùng một mức tăng là cần thiết
một lần nữa. Yêu cầu về công suất được cải thiện có liên quan đến nhu cầu truy
cập vào phổ nhiều hơn, trên các tần số sóng mang cao hơn. 5G phải được thiết kế
để cho phép triển khai ở các dải tần số cao hơn (Nokia, 2014).

Ngoài việc tăng công suất gấp ngàn lần, Wang và cộng sự (2014) liệt kê các yêu
cầu đã được thống nhất rộng rãi cho 5G, so với 4G: gấp 10 lần hiệu suất phổ (khối
lượng dữ liệu trên một đơn vị diện tích), hiệu quả năng lượng và dữ liệu tỷ lệ, và
25 lần thông lượng tế bào trung bình. Một yêu cầu 5G khác được đưa ra bởiChen
và Zhao (2014) là xử lý mức độ đồng bộ cao hơn trong lưu lượng dữ liệu. Tỷ lệ
đường xuống so với lưu lượng truy cập đường lên là 6: 1, nhưng điều này có thể
tăng lên tới 10: 1 trong những năm tiếp theo, do tỷ lệ lưu lượng video ngày càng
tăng. Hơn nữa, Ch avevez-Santiago và cộng sự (2015) đề cập đến xác suất ngừng
hoạt động thấp hơn và vùng phủ sóng tốt hơn, tốc độ bit cao hơn trên các vùng phủ

17
sóng lớn hơn, tính linh hoạt cao hơn và độ tin cậy cao hơn của các liên kết truyền
thông trong mạng.Agyapong et al. (2014) thêm kết nối thiết bị lớn như một yêu
cầu cụ thể vào danh sách.

Các yêu cầu 5G cụ thể được xác định bởi dự án METIS là (Osseiran và cộng sự,
2014):

- Khối lượng dữ liệu di động cao hơn 1000 lần cho mỗi khu vực.

- Số lượng thiết bị được kết nối cao gấp 10 đến 100 lần.

- Tốc độ dữ liệu người dùng cao hơn 10 đến 100 lần.

- Tuổi thọ pin dài hơn 10 lần đối với giao tiếp máy.

- Giảm 5 lần độ trễ đầu cuối.

Điều này được so sánh với hiệu suất của 4G.

Nokia (2016) chỉ ra rằng các yêu cầu về giảm độ trễ từ đầu đến cuối và độ tin cậy
cao hơn đặc biệt quan trọng trong bối cảnh kiểm soát nhiệm vụ hoặc sử dụng khác

các trường hợp liên quan đến chăm sóc sức khỏe, an ninh, hậu cần và ô tô. Điều
này là do độ tin cậy cực kỳ quan trọng đối với sự an toàn, trong khi độ trễ thấp đảm
bảo rằng các ứng dụng có thể sử dụng được. Độ trễ cũng xác định nhận thức về tốc
độ và việc sử dụng chức năng thời gian thực ngày càng tăng đòi hỏi độ trễ thấp
nhất có thể trong mạng. Hơn nữa, độ tin cậy cao khiến người dùng tự tin giao tiếp
không dây ngay cả trong các tình huống nguy hiểm hoặc đe dọa đến tính mạng
thực tế.Nokia (2014) giải thích rằng độ trễ dưới 10 ms là hoàn toàn bắt buộc, vì
mắt người rất nhạy cảm với độ trễ cho các ứng dụng đa phương tiện . Tuy nhiên,
đối với các trường hợp sử dụng AR và VR, độ trễ từ đầu đến cuối hơn 5 ms làm
tăng nguy cơ người dùng có thể gặp phải tình trạng bệnh trên mạng, còn được gọi

18
là bệnh thực tế ảo. Đây là trạng thái gây ra các triệu chứng tương tự như triệu
chứng say tàu xe, và là một trải nghiệm khó chịu cho người dùng. Bệnh mạng có
tác động tiêu cực đến trải nghiệm người dùng, điều đó có nghĩa là nên giảm thiểu
sự chậm trễ trong các ứng dụng AR và VR. Đây là những ví dụ về cách giao tiếp
của con người sẽ đòi hỏi nhiều hơn trong tương lai

Không chỉ có các yêu cầu kỹ thuật được đề xuất cho 5G, mà còn có các yêu cầu
liên quan đến chi phí.Osseiran và cộng sự (2014) xác định rằng các yêu cầu họ đã
liệt kê sẽ được đáp ứng với chi phí và năng lượng tiêu hao tương tự như hiện
nay.Yazici và cộng sự ( 2014) mô tả rằng kiến trúc 5G phải là một giải pháp nhanh
nhẹn với công suất cao và chi phí thấp. Nếu các yêu cầu này được đáp ứng, cả sự
hài lòng của người dùng và lợi nhuận của các nhà cung cấp dịch vụ di động sẽ
được đảm bảo. Hoạt động hiệu quả năng lượng, hiệu quả tài nguyên và chi phí hiệu
quả cũng là những yêu cầu được đề cập bởi Demestichas và cộng sự
(2013) .Chanamvez-Santiago và cộng sự (2015) chỉ định rằng đặc biệt là chi phí
cho việc triển khai cơ sở hạ tầng nên thấp, trong khi Agyapong và cộng sự (2014)
giải thích rằng mục tiêu của 5G là giảm cả chi phí vốn (CAPEX) và chi phí hoạt
động ( OPEX) để cung cấp công việc ròng.

19
2.2.1 Quản lý chất lượng dịch vụ thông minh
Hossain (2013) định nghĩa Chất lượng dịch vụ (QoS) là khả năng của mạng để đạt
được băng thông tối đa và xử lý các yếu tố hiệu suất mạng khác, chẳng hạn như độ
trễ, tốc độ lỗi và thời gian hoạt động. QoS cũng liên quan đến việc kiểm soát và
quản lý tài nguyên mạng. Điều này được thực hiện bằng cách đặt các mức độ ưu
tiên khác nhau cho các loại dữ liệu cụ thể được truyền qua mạng. QoS cũng bao
gồm sự cống hiến của băng thông, kiểm soát jitter, đảm bảo độ trễ thấp và cải thiện
các đặc tính mất mát (Hossain, 2013). Ngày nay, người dùng chọn giao diện không
dây theo cách thủ công và mỗi lần chỉ có một giao diện.Patel và cộng sự (2012) mô
tả khả năng kết nối với nhiều công nghệ cùng một lúc và cũng có thể chuyển đổi
giữa chúng cho các dịch vụ khác nhau, như một tính năng chính của 5G. Một yêu
cầu cuối cùng cho 5G là cung cấp quản lý QoS thông minh trên các mạng khác
nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, các mạng di động thường được định hướng theo
mức độ hiệu quả cao nhất và hiệu suất đã được đánh giá theo các số liệu của Hard
hard, như tốc độ dữ liệu cao nhất, độ bao phủ và hiệu quả quang phổ (Bangerter et
al., 2014). Trong tương lai, họ nên đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng bởi
khả năng linh hoạt về thời gian và không gian (Olsson et al., 2013). Vì 5G có nhiều
yêu cầu khác ngoài tăng thông lượng tối đa (Hossain, 2013), các thiết bị nên lưu
trữ các biện pháp QoS khác nhau trong một cơ sở dữ liệu (Javaid, 2013). Các biện
pháp như vậy có thể là trì hoãn, jitter, tổn thất, băng thông và khả năng (Gohil et
al., 2013). Sau đó, các thiết bị 5G có thể kiểm tra chất lượng dịch vụ dựa trên các
biện pháp này.

Hơn nữa, nếu những dữ liệu này được kết hợp với các thuật toán thông minh và
đưa ra các ràng buộc cho QoS và chi phí cá nhân cần thiết, kết nối không dây tốt
nhất có thể được xác định bởi thiết bị đầu cuối 5G. Điều này sẽ làm cho khái niệm
này luôn kết nối tốt nhất với nhau trong mạng lưới không đồng nhất, trở thành hiện
thực, bởi vì mối quan hệ tốt nhất được gắn liền với chất lượng tốt nhất (Sharma,
2013). Để có kết nối tuân thủ các yêu cầu QoS là rất quan trọng đối với nhiều
trường hợp sử dụng khác nhau và đặc biệt là đối với các dịch vụ thời gian thực.
Khi các dịch vụ trong tương lai trở nên phổ biến hơn, điều này sẽ còn quan trọng
hơn nữa. Yazici và cộng sự (2014) đề xuất một số ý tưởng tương tự, được gọi là
dịch vụ quản lý kết nối (CMaaS). Vì mọi hệ thống không dây đều có các đặc điểm

20
và vai trò riêng biệt, nên việc lựa chọn công nghệ phù hợp nhất sẽ khác nhau đối
với các dịch vụ khác nhau ở các địa điểm khác nhau vào các thời điểm khác nhau.
khai thác cùng một lúc. Vì 5G sẽ đáp ứng các yêu cầu QoS cho tất cả các loại ứng
dụng có thể, mục tiêu cuối cùng khác của 5G là kết nối tất cả các mạng không
đồng nhất để cung cấp trải nghiệm viễn thông liền mạch và nhất quán cho tất cả
người dùng (Javaid, 2013).

Wang và cộng sự (2014) cũng thảo luận về thách thức đánh giá mạng truyền thông
không dây và tối ưu hóa các số liệu hiệu suất, vì họ đồng ý rằng cần có một số số
liệu để đánh giá đầy đủ và công bằng các hệ thống 5G. Ngoài QoS, họ đề xuất hiệu
quả phổ, hiệu quả năng lượng, độ trễ, độ tin cậy, tính công bằng của người dùng và
độ phức tạp của ứng dụng. Họ lập luận rằng một số số liệu, kết quả tốt hơn và cần
có sự đánh đổi giữa tất cả các số liệu có sẵn. Điều này sẽ đòi hỏi các thuật toán tối
ưu hóa độ phức tạp cao và thời gian mô phỏng dài

2.2.2 Chất lượng trải nghiệm

Bangerter và cộng sự (2014) đề xuất rằng các số liệu hiệu suất mở rộng liên quan
đến chất lượng trải nghiệm của người dùng (QoE) sẽ được nhìn thấy trong 5G.
QoE mô tả sự hiểu biết chủ quan của người dùng về việc dịch vụ hoặc ứng dụng
hoạt động tốt như thế nào. Các yếu tố QoE rất đặc trưng cho ứng dụng và người
dùng, và do đó chúng không thể được khái quát hóa, mặc dù độ trễ thấp và độ rộng
băng tần cao thường sẽ cải thiện QoE (Agyapong et al., 2014). Trong 5G, sẽ sử
dụng dữ liệu mạng thông minh hơn. 5G nên tạo điều kiện sử dụng tối ưu tài
nguyên mạng cho việc cung cấp và lập kế hoạch QoE. Để đáp ứng nhu cầu của
người dùng các mạng trong tương lai sẽ cần nhận thức rõ hơn về các yêu cầu ứng

21
dụng và số liệu QoE (Bangerter et al., 2014). Kết nối ngày càng được đánh giá bởi
người dùng, về mặt QoE. Người dùng có xu hướng đánh giá kết nối bất kể thời
gian hay địa điểm và họ cũng có xu hướng không tha thứ cho các nhà khai thác
hoặc nhà cung cấp mạng của họ khi không đáp ứng được mong đợi của họ. Do đó,
các nhà khai thác mạng di động liên tục phải đối mặt với nguy cơ bị đảo lộn, tức là
mất thuê bao của họ trước các đối thủ cạnh tranh (Agyapong et al., 2014).

Theo Bangerter và cộng sự (2014), các yếu tố QoE cũng có thể bao gồm sự dễ
dàng kết nối với các thiết bị gần đó và cải thiện hiệu quả năng lượng. Các hệ thống
5G phải được nhận biết theo ngữ cảnh, để cung cấp QoE cao cho các dịch vụ.
Thông tin bối cảnh nên được sử dụng theo cách thức thời gian thực, dựa trên mạng,
thiết bị, ứng dụng, người dùng và môi trường của họ. Nhận thức về bối cảnh gia
tăng sẽ góp phần vào các dịch vụ lấy người dùng làm trung tâm và cá nhân hóa
nhiều hơn và cũng có thể cho phép cải thiện hiệu quả của các dịch vụ hiện tại
(Bangerter et al., 2014). Để cung cấp mức độ cá nhân hóa cần thiết và cung cấp trải
nghiệm nhận biết người dùng và bối cảnh tập trung hơn, các mạng 5G sẽ cần hợp
tác theo những cách mới. Điều này đòi hỏi phải lựa chọn và quản lý công nghệ truy
cập vô tuyến (RAT) phối hợp chặt chẽ ở cả cấp độ mạng và thiết bị, để duy trì trải
nghiệm người dùng tối ưu.

2.3 Công nghệ 5G


Vì có nhiều kỳ vọng vào 5G, có rất nhiều thách thức cần được giải quyết. Như đã
đề cập, hầu hết các tài liệu 5G hiện có cho đến nay đều quan tâm đến việc đề xuất
các giải pháp công nghệ khác nhau để giải quyết các thách thức khác nhau. Phần
này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về một số công nghệ nổi bật và hứa hẹn
nhất. Tổng quan không có nghĩa là toàn diện, mà là cung cấp cho người đọc một ý
tưởng về những giải pháp dường như được đưa vào 5G, theo tài liệu. Đầu tiên, các
kỳ vọng chung sẽ được tóm tắt, trước khi các chủ đề được chọn và mô tả kỹ hơn.

22
Các chủ đề này là thiết bị đầu cuối người dùng, giao thức Internet, mạng không
đồng nhất, kết nối giữa thiết bị với thiết bị, ảo hóa chức năng mạng và chức năng
mạng, radio nhận thức, phổ vô tuyến, mật độ mạng, đa đầu vào và đầu ra đa tiến .
của nhiệm vụ truyền thông quan trọng.

2.3.1 Kỳ vọng chung


NGMN (2014) mô tả rằng 5G sẽ hoạt động trong môi trường không đồng nhất,
được điều chỉnh bởi sự tồn tại của nhiều loại công nghệ truy cập, mạng nhiều lớp,
nhiều loại thiết bị và nhiều loại tương tác của người dùng. Trong một môi trường
như vậy, nhu cầu cơ bản cho các yếu tố hỗ trợ để đạt được trải nghiệm người dùng
liền mạch và nhất quán theo thời gian và không gian. Điều này đã thúc đẩy nghiên
cứu về công nghệ cho 5G. Các kỹ thuật chính sẽ là các mạng không đồng nhất và
sự hội tụ của công nghệ thông tin và truyền thông.Ch a Namvez-Santiago et al.

(2015) mô tả 5G là sự hội tụ của các công nghệ không dây.Bangerter và cộng sự


(2014) tạo ra sự thay đổi về hiệu quả mạng, với các hệ thống 5G dựa trên kiến trúc
cho các mạng không đồng nhất dày đặc. Đây cũng là một giải pháp đầy hứa hẹn
liên quan đến viễn cảnh chi phí thấp, đồng thời đáp ứng nhu cầu tăng trưởng công
suất và mang lại trải nghiệm kết nối thống nhất cho người dùng.

Cách tiếp cận tổng thể của dự án METIS đối với 5G là phát triển các công nghệ
hiện có và bổ sung cho chúng bằng các khái niệm vô tuyến mới, vì một công nghệ
truy cập vô tuyến mới sẽ không thể đáp ứng tất cả các yêu cầu cũng như thay thế
các mạng hiện có. Họ đã thực hiện nghiên cứu về các thành phần công nghệ nhắm
vào từng kịch bản 5G đã xác định của họ. Các khái niệm được đề xuất là MIMO
khổng lồ, Mạng siêu dày đặc, Mạng di chuyển, Thiết bị đến thiết bị, Truyền thông
máy cực lớn và đáng tin cậy. Những khái niệm này sẽ cho phép 5G hỗ trợ sự gia
tăng dự kiến về khối lượng dữ liệu di động, đồng thời mở rộng phạm vi của các
lĩnh vực ứng dụng di động có thể hỗ trợ ngoài năm 2020 (Osseiran et al., 2014).

23
Để có được tốc độ dữ liệu cao hơn và độ trễ thấp hơn ngoài khả năng của mạng
4G, 5G phải áp dụng các cách thức sử dụng phổ tần cách mạng. Sự đồng thuận
hiện nay là để giải quyết các thách thức của mạng truy cập vô tuyến, cần có sự kết
hợp của nhiều nguồn tài nguyên phổ hơn, hiệu quả phổ cao hơn, mật độ mạng và
giảm tải (Agyapong et al., 2014). Đây là một thách thức lớn đối với 5G để tăng
công suất và chất lượng hệ thống, do phổ tần có sẵn hạn chế (Hossain, 2013),
nhưng 5G vẫn phải giải quyết thách thức.Wang et al. (2014) đồng ý rằng sự khan
hiếm vật lý của thông số vô tuyến - trum được phân bổ cho thông tin di động là
một thách thức quan trọng. Ch avevez-Santiago et al. (2015) mô tả rằng các dải tần
đã được phân bổ có thể được khai thác theo những cách tốt hơn bằng cách tăng
cường các sơ đồ điều chế và mở rộng mạng truyền thống. Hơn nữa, việc giới thiệu
đài phát thanh nhận thức (CR) sẽ cung cấp quyền truy cập thông số kỹ thuật chưa
được sử dụng. Điều này cũng sẽ tăng công suất của các hệ thống. Cha Tiếtvez-
Santiago và cộng sự (2015) cũng mô tả rằng các kỹ thuật giảm tải khác nhau sẽ
tương ứng với khả năng truy cập gần như không giới hạn vào một lượng lớn dữ
liệu đa phương tiện. Các nền tảng có thể cấu hình lại để triển khai CR trong các
mạng di động và các giải pháp giảm tải lưu lượng sẽ được kích hoạt bằng công
nghệ radio xác định bằng phần mềm (SDR). Mạng được xác định bằng phần mềm
(SDN) sẽ tạo điều kiện cho hoạt động lập trình của mạng lõi.

Bhushan và cộng sự (2014) cũng đưa ra con đường đến 5G như là một sự cải tiến
và nhân rộng các công nghệ 4G hiện tại, với một vài thành phần mới. Họ hy vọng
rằng sự kết hợp này có thể nâng trải nghiệm người dùng tổng thể lên một cấp độ
hoàn toàn mới. Theo Ch avevez-Santiago và cộng sự (2015), các tính năng sử dụng
rộng rãi các công nghệ 5G như CR, SDR và SDN, kết hợp với các công nghệ tiến
hóa, như sơ đồ điều chế mới và tải lưu lượng, sẽ phân biệt 5G với trước đó thế hệ
mạng.

24
Các công nghệ chính khác được phát triển và triển khai trong những năm tới. 5G
sẽ yêu cầu công nghệ cho phép mã hóa nguồn tiên tiến, mạng truy cập vô tuyến
tiên tiến (RAN), chẳng hạn như mạng không đồng nhất (HetNets) và công nghệ
truy cập vô tuyến tiên tiến (RAT) .Bangerter và cộng sự (2014) mô tả thêm về
công nghệ vận chuyển tại các trang web di động , cả fronthaul và backhaul, cần
được cải thiện đáng kể về cả tốc độ và tính linh hoạt triển khai.Yazici và cộng sự
(2014) đã hình dung hoàn toàn tách rời, điều khiển có thể lập trình và điều khiển
lập trình độc lập cho mạng 5G. CảChen và Zhao (2014) vàAgyapong và cộng sự
(2014) mô tả các giải pháp cho sự phân tách và phối hợp linh hoạt giữa các mặt
phẳng điều khiển và người dùng trong mạng, để giải quyết các thách thức về dung
lượng và tốc độ dữ liệu trong 5G.Li et al. (2014) rằng một kiến trúc nơi tách biệt
các mặt phẳng điều khiển và người dùng có thể được sử dụng làm khung chung
cho HetNets 5G.

Công nghệ như SDN, NFV, Dữ liệu lớn và thay đổi toàn bộ IP theo cách các mạng
được cấu trúc và quản lý.NGMN (2014) mô tả rằng những thay đổi này sẽ cho
phép phát triển cơ sở hạ tầng linh hoạt cao cho phép phát triển hiệu quả chi phí
mạng lưới và các dịch vụ liên quan, cũng như tăng tốc độ đổi mới.

25
2.3.2 Thiết bị đầu cuối người dùng
Vì các mạng di động sẽ được cải thiện, các thiết bị người dùng nên được nâng cấp
một cách thích hợp để đảm bảo rằng các cải tiến được sử dụng đầy đủ (Li et al.,
2014) .Hossain (2013) mô tả rằng các thiết bị đầu cuối nên được nâng cấp và thích
ứng với mới các tình huống và được thiết kế để tự giải thích hoạt động trong các
mạng truy cập không đồng nhất khác nhau.Javaid (2013) hy vọng rằng trong 5G,
các thiết bị đầu cuối của người dùng sẽ tập trung hơn so với các thế hệ trước. Theo
Janevski (2009), các thiết bị 5G sẽ có các chương trình radio và điều chế được xác
định bằng phần mềm, cũng như các sơ đồ kiểm soát lỗi mới có thể được tải xuống
từ Internet. Các thiết bị đầu cuối sẽ có quyền truy cập vào các công nghệ không
dây khác nhau cùng một lúc và chúng sẽ có thể kết hợp các luồng khác nhau từ các
công nghệ khác nhau, như được mô tả trước đó. Các mạng sẽ xử lý tính di động
của người dùng, trong khi đó, bộ phận sẽ đưa ra lựa chọn cuối cùng cho việc sử
dụng công nghệ truy cập nào cho một dịch vụ nhất định. Cái sau sẽ được xử lý bởi
phần mềm trung gian thông minh mở trong các thiết bị. Khi lựa chọn kết nối dựa
trên quản lý QoS thông minh trở thành hiện thực, các thiết bị đầu cuối cũng sẽ có
thể thay đổi các ràng buộc liên quan đến QoS trong một kết nối đầu cuối duy nhất
và do đó cũng thay đổi kết nối nếu cần. Theo mô tả của Sapakal (2013), có vẻ như
triết lý Internet ban đầu là giữ mạng càng đơn giản càng tốt và cung cấp nhiều chức
năng hơn cho các nút cuối, sẽ trở thành hiện thực trong 5G.Janevski (2009) cho
thấy thêm rằng trong khi các mạng xử lý tính di động của người dùng, các thiết bị
đầu cuối cũng có thể chọn giữa các nhà cung cấp mạng khác nhau cho các dịch vụ
khác nhau, ngoài các loại kết nối khác nhau. Vai trò của các thiết bị đầu cuối được
mô tả trong phần này nên được hiểu là một phần của các biến thể được đề xuất để
tối ưu hóa QoS (và có khả năng là QoE) .NGMN (2014) mô tả cùng một ý tưởng,
mà người dùng ứng dụng phải được kết nối liền mạch và nhất quán với các RAT
và hoặc các điểm truy cập cung cấp trải nghiệm người dùng tốt nhất mà không cần
sự can thiệp của người dùng.

2.3.3 Giao thức Internet


Tiền đề là 5G sẽ có kiến trúc All-IP giống như các hệ thống 4G hiện có (Javaid,
2013) và 5G phải hỗ trợ IPv6 (Patel et al., 2012). Theo Sharma (2013), khái niệm
về các địa chỉ IP khác nhau có thể sẽ được tiếp tục: Mỗi thiết bị đầu cuối sẽ có một
địa chỉ IP nhà cố định và một địa chỉ chăm sóc bổ sung (CoA), trong đó địa chỉ sau
đại diện cho vị trí thực tế của thiết bị. Giao tiếp đến thiết bị sẽ được xử lý theo cách

26
sau: Đầu tiên, một gói được gửi đến địa chỉ nhà. Sau đó, máy chủ trên địa chỉ nhà
sẽ chuyển tiếp gói đến vị trí thực tế. Máy chủ cũng sẽ gửi một gói trở lại máy phát
để thông báo về địa chỉ chăm sóc hiện tại, để các gói trong tương lai sẽ được gửi
trực tiếp đến thiết bị. Những lợi ích chính của kiến trúc này là chi phí thấp hơn,
giảm độ trễ hệ thống và truy cập vô tuyến tách rời và tiến hóa mạng lõi .Patel et al.
(2012) cũng chỉ ra rằng bảo mật là mặt tiêu cực của IP, vì các cuộc tấn công mạng
là một thách thức cả ngày nay và cho các mạng di động trong tương lai.

Cấu hình mạng gán nhiều địa chỉ IP cho các công nghệ không dây có sẵn khác
nhau. Sau đó, nếu một liên kết không thành công, các địa chỉ IP khác sẽ vẫn hoạt
động và cung cấp truy cập Internet. Chủ đề chuyển giao dọc có liên quan đến cuộc
thảo luận về cách các thiết bị trong kỷ nguyên 5G sẽ hỗ trợ các công nghệ truy cập
khác nhau một cách tự nhiên và xử lý khả năng chuyển đổi giữa chúng. WhilePatel
và cộng sự (2012) nghĩ rằng 5G sẽ hỗ trợ chuyển giao theo chiều dọc, Janevski
(2009) giải thích rằng họ nên tránh, vì chúng không khả thi trong các trường hợp
có nhiều công nghệ, nhà điều hành và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau.Yazici và
cộng sự (2014) giới thiệu một cách tiếp cận thống nhất để di động, chuyển giao và
quản lý định tuyến cho 5G.

2.3.4 Mạng không đồng nhất

Mặc dù LTE đạt được những thành tựu lớn trong việc giảm chi phí cho các nhà
mạng di động và tăng trải nghiệm người dùng cuối với tốc độ dữ liệu cao hơn và
độ trễ thấp hơn, Yazici và cộng sự (2014) cho rằng cần có tư duy mới đối với 5G,
chủ yếu là do rất lớn nhu cầu về dữ liệu không dây. Điều này thúc đẩy mô hình của
các mạng không đồng nhất (HetNets). HetNets là các triển khai mạng với các loại
nút mạng khác nhau, được trang bị khả năng truyền dữ liệu và khả năng xử lý dữ

27
liệu khác nhau, hỗ trợ các công nghệ truy cập khác nhau (RAT) và được hỗ trợ bởi
các loại liên kết backhaul khác nhau (Li et al., 2014). Các HetNets 5G sẽ bao gồm
các macrocell, microcell truyền thống hoặc pic-ocells, một số lượng lớn các tế bào
nhỏ IMT cục bộ mới và các nút chuyển tiếp hoặc các nút công suất thấp khác. Các
tế bào nhỏ đã được đề xuất là chìa khóa để đạt được các yêu cầu 5G về lưu lượng
giao thông, hiệu quả tần số và giảm năng lượng và chi phí (Chen và Zhao, 2014) và
chúng hỗ trợ tái sử dụng không gian phổ tích cực (Bangerter et al., 2014). Các tế
bào nhỏ được cho là đóng một vai trò rất quan trọng trong 5G. Những tế bào này
có khả năng được thiết kế khác với các tế bào trong 4G (Chen và Zhao, 2014).

Ngoài các tế bào nhỏ, Mạng truy cập vô tuyến dựa trên đám mây (RAN-as-a-
Service, RAN- aaS), giao tiếp giữa các thiết bị và nhiều công nghệ truy cập vô
tuyến được coi là các thành phần quan trọng cho sự phát triển của đề xuất kiến trúc
của HetNets (Bangerter et al., 2014). RANaaS được mô tả thêm bởiRost và cộng
sự (2014), người đã dành toàn bộ bài báo cho lĩnh vực nghiên cứu này.Chen và
Zhao (2014) chỉ định nhu cầu phối hợp lớp không đồng nhất, để đảm bảo rằng các
lớp khác nhau trong HetNets 5G được phối hợp đúng cách. Nếu sự phối hợp lớp
không đồng nhất được xử lý tốt, nó có thể mang lại lợi ích về hiệu suất hệ thống,
tiết kiệm năng lượng và cung cấp dịch vụ. HetNets là một trong những cách tiếp
cận chi phí thấp hứa hẹn nhất để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng công suất của ngành
và mang lại trải nghiệm kết nối thống nhất (Bangerter et al., 2014).

Một khái niệm tế bào mới được đề xuất khác được đưa vào HetNets 5G là tế bào
xương di động (MFemtocell) được mô tả bởiWang và cộng sự (2014), là sự kết

28
hợp giữa các khái niệm rơle di động và xương đùi. Khái niệm này có nghĩa là để
phù hợp với người dùng di động cao,

tức là người dùng đi du lịch. Các MFemtocell được đặt bên trong xe để liên lạc với
những người dùng khác trong xe, trong khi các dải ăng ten lớn được đặt bên ngoài
xe để kết nối với các trạm gốc ngoài trời. Một MFemtocell và những người dùng
liên quan của nó được coi là một đơn vị duy nhất cho trạm cơ sở và theo quan điểm
của người dùng, một MFemtocell được xem như một trạm gốc thông thường.
MFemtocell có khả năng cải thiện hiệu quả phổ của toàn bộ mạng (Wang et al.,
2014).

Các khía cạnh thông minh của 5G, và đặc biệt đối với HetNets, được điều tra bởi
Demestichas và cộng sự (2013). Họ cung cấp một cái nhìn tổng quan để cung cấp
thông tin tình báo cho 5G, bằng cách giới thiệu bối cảnh hoạt động phức tạp và các
yêu cầu thiết yếu như QoE, hiệu quả năng lượng, hiệu quả chi phí và hiệu quả tài
nguyên. Trí thông minh sẽ cung cấp các giải pháp tiết kiệm năng lượng và chi phí,
tại đó đạt được một điều khoản chất lượng nhất định. Họ mô tả rằng các cơ chế
quản lý thông minh, nhận thức là cần thiết để kiểm soát và quản lý hiệu quả tất cả
các thiết bị được kết nối mạng này trong tương lai.

2.3.5 Kết nối giữa thiết bị với thiết bị

TheoNokia (2016) vàChen và Zhao (2014), giao tiếp trực tiếp giữa thiết bị với thiết
bị (D2D) sẽ là một phương thức giao tiếp quan trọng trong 5G. Ngoài tiềm năng
được đề cập để giảm độ trễ, giảm mức tiêu thụ điện năng và tăng tốc độ dữ liệu cao
điểm, D2D cũng có thể đóng góp vào yêu cầu về độ tin cậy cao.Bangerter et al.

29
(2014) thêm hiệu quả quang phổ khu vực tăng và phạm vi di động được cải thiện
vào danh sách các lợi ích chính. D2D dẫn đến việc tái sử dụng phổ dày đặc
(Bhushan et al., 2014) .Chen và Zhao (2014) hình dung rằng D2D di động sẽ được
tích hợp vào các mạng di động hiện tại, như là một phần bổ sung của hệ thống. Họ
cũng chỉ ra rằng các công nghệ chuyển tiếp là một chủ đề nghiên cứu liên quan đến
truyền thông D2D trong 5G.Nokia (2016) mô tả rằng độ trễ thấp đạt được thông
qua giao tiếp trực tiếp giữa các thiết bị trong khoảng cách ngắn với độ trễ lan
truyền tối thiểu và không có sự tham gia của các yếu tố mạng để xử lý dữ liệu lưu
lượng truy cập (nghĩa là không xử lý trong mặt phẳng người dùng bởi các thành
phần mạng),hoặc bất kỳ mạng lưới giao thông nào giới thiệu sự chậm trễ. Hơn nữa,
để tăng độ tin cậy hoặc mở rộng vùng phủ sóng, một liên kết D2D bổ sung có thể
được sử dụng làm đường dẫn đa dạng (Nokia, 2016). Mạng ad-hoc D2D nơi các
thiết bị đóng vai trò là rơle có thể được sử dụng làm giải pháp sao lưu, nếu cơ sở
hạ tầng mạng không khả dụng hoặc có các lỗi khác trong mạng. Trong bài viết
Giao tiếp giữa thiết bị với thiết bị trong mạng di động 5G: Thách thức, quy định và
định hướng tương lai, Tehrani và cộng sự (2014) đã hình dung ra một mạng di
động hai tầng. Điều này liên quan đến một lớp macrocell để liên lạc thông thường
thông qua các trạm cơ sở và một tầng thiết bị chuyên dụng để xử lý giao tiếp giữa
thiết bị với thiết bị (D2D). Do đó, giao tiếp D2D sẽ đóng vai trò là một lớp tế bào
khác trong HetNet 5G (Bangerter et al., 2014). Tehrani và cộng sự (2014) giải
thích rằng nhu cầu ngày càng tăng về tốc độ và dung lượng dữ liệu cao hơn đòi hỏi
phải có suy nghĩ độc đáo cho các hệ thống 5G và tầng thiết bị được đề xuất có thể
là một câu trả lời khả thi. Tầng thiết bị trong mạng di động hai lớp sẽ là một ví dụ
về liên lạc hợp tác, đây là một lớp kỹ thuật giao tiếp không dây mới. Để nhận ra
tiềm năng đầy đủ của giao tiếp hợp tác, việc chuyển tiếp thiết bị phải được triển
khai. Với công nghệ này, các thiết bị người dùng có thể đóng vai trò là rơle truyền
cho nhau thay vì có tất cả thông tin liên lạc trong băng thông di động được cấp

30
phép đi qua các trạm gốc. Theo cách này, các trạm cơ sở sẽ không còn là nút cổ
chai trong các hệ thống truyền thông

Truyền thông D2D đã không được xem xét trong bốn thế hệ mạng đầu tiên, chủ
yếu là vì tiềm năng của nó dường như là giảm chi phí cung cấp dịch vụ địa
phương, điều này chưa bao giờ là một chi phí lớn trong quá khứ. Thái độ này đã
thay đổi và chức năng của D2D giờ đây có vẻ có lợi hơn nhiều, vì người ta tin rằng
truyền thông của D2D có thể tạo điều kiện chia sẻ tài nguyên hiệu quả, đây là vấn
đề chính của 5G.

Cả Ch avevez-Santiago và cộng sự (2015) vàTehrani và cộng sự (2014) mô tả D2D


là một sự hủy bỏ cho các mạng di động trong các dải tần được cấp phép. Sự khác
biệt quan trọng nhất giữa WiFi hoặc Bluetooth và chức năng D2D được đề xuất
sau đó sẽ là hai chức năng đầu tiên hoạt động ở băng tần không được cấp phép, nơi
không thể kiểm soát nhiễu. Không giống như D2D, WiFi và Bluetooth không thể
cung cấp bất kỳ đảm bảo bảo mật. Các mạng ad-hoc di động cũng hoạt động tương
tự như D2D, nhưng trong phổ không được cấp phép (Cha Tiếtvez-Santiago et al.,
2015). Tuy nhiên, Bangerter và cộng sự (2014) đề xuất rằng công nghệ D2D có thể
sử dụng lại phổ giống như tầng macrocell hoặc sử dụng phổ không được cấp phép.

Tehrani và cộng sự (2014) đề xuất bốn loại truyền thông cấp thiết bị chính:

• DR-OC: Chuyển tiếp thiết bị với thiết lập liên kết do nhà điều hành điều khiển.

• DC-OC: Giao tiếp D2D trực tiếp với thiết lập liên kết do nhà điều hành điều
khiển.

• DR-DC: Chuyển tiếp thiết bị với thiết lập liên kết được điều khiển bằng thiết bị.

31
• DC-DC: Giao tiếp D2D trực tiếp với thiết lập liên kết được điều khiển bằng thiết
bị.

Đối với DR-OC và DC-OC, nhà điều hành hỗ trợ thiết lập liên kết, tức là trạm cơ
sở có liên quan đến giao tiếp ban đầu, trong khi các thiết bị tự xử lý việc này trong
hai trường hợp sau. DR-OC và DR-DC là về chuyển tiếp thiết bị, trong đó một số

các thiết bị có thể được sử dụng làm rơle truyền giữa các thiết bị gửi và nhận. Mặt
khác, DC-OC và DC-DC chỉ đơn giản là về giao tiếp trực tiếp giữa các thiết bị gửi
và nhận, tức là không có thiết bị nào chuyển tiếp giữa chúng. Theo cách tương tự
asTehrani et al. (2014), Nokia (2016) phân tách giữa hai cách tiếp cận khác nhau
để quản lý tài nguyên vô tuyến trong D2D: phân bổ tài nguyên tập trung và phân
tán. Với giải pháp phân tán, các thiết bị có thể truyền ngay lập tức và không có quy
trình kết hợp hoặc kênh điều khiển chuyên dụng. Mặt khác, giải pháp tập trung sẽ
có hiệu quả tránh va chạm gói, nhưng với chi phí tăng độ phức tạp và độ trễ trung
bình.

32
Hình 2.1: Tổng quan về bốn giao tiếp cấp thiết bị khác nhau được đề xuất bởi
Tehrani và cộng sự. (2014).

Một thách thức quan trọng với giao tiếp D2D được đề xuất, là bảo mật. Vì dữ liệu
người dùng được định tuyến thông qua các thiết bị của người dùng khác, quyền
riêng tư phải được duy trì. Điều này có thể được giải quyết với quyền truy cập kín,
trong đó mỗi thiết bị giữ một danh sách các thiết bị đáng tin cậy sẽ là thiết bị duy
nhất mà nó có thể giao tiếp trong lớp thiết bị. Một thách thức khác là quản lý
nhiễu, cần được xử lý theo cách thông minh để có tác động ít nhất có thể đến hiệu
suất của lớp macrocell (Tehrani et al., 2014).

2.3.6 Kết nối mạng và chức năng mạng được xác định bằng phần mềm

Mạng được xác định bằng phần mềm (SDN) và ảo hóa chức năng mạng (NFV) là
hai khái niệm kiến trúc mạng mới nổi dựa trên công nghệ đám mây và chúng
thường được đề cập trong bối cảnh 5G. Mối liên hệ chính giữa hai khái niệm này là
NFV là một công nghệ bổ sung cho SDN, vì NFV có thể cung cấp cơ sở hạ tầng
mạng mà SDN có thể chạy (Demestichas et al., 2013). Ngoài ra, SDN sẽ cho phép
các cơ hội và khả năng lập trình mạng tốt hơn của NFV (Yazici và cộng sự, 2014).
Vì cả hai khái niệm đều phức tạp, công nghệ đằng sau sẽ không được giải thích chi
tiết ở đây. Điểm quan trọng nhất là cả hai khái niệm đều cung cấp hoạt động và
triển khai mạng linh hoạt và do đó có liên quan đến 5G (Agyapong et al., 2014)

Demestichas và cộng sự (2013) mô tả SDN như một kiến trúc mạng với bộ điều
khiển mạng tập trung trong mặt phẳng điều khiển, chịu trách nhiệm phân bổ lưu
lượng cho các thành phần mạng trong mặt phẳng dữ liệu riêng biệt của

33
mạng.Denazis và cộng sự (2015) tiếp tục ghi nhận rằng phương pháp SDN cho
phép các quản trị viên mạng khởi tạo lập trình, kiểm soát, thay đổi và quản lý hành
vi mạng một cách linh hoạt thông qua các giao diện mở và trừu tượng hóa chức
năng cấp thấp hơn. Định nghĩa ngắn gọn của NFV là khái niệm này sử dụng các
công nghệ ảo hóa CNTT để mô phỏng các lớp chức năng nút mạng thành các khối
xây dựng có thể kết nối hoặc kết nối với nhau, để tạo ra các dịch vụ truyền
thông.Demestichas và cộng sự (2013) mô tả chi tiết hơn Công nghệ NFV là một
cách mới để xây dựng cơ sở hạ tầng mạng đầu cuối với công nghệ ảo hóa CNTT
tiêu chuẩn, cho phép hợp nhất nhiều thiết bị mạng không đồng nhất lên các máy
chủ, bộ chuyển mạch và lưu trữ dung lượng lớn tiêu chuẩn công nghiệp. Chức
năng mạng của thiết bị mạng được triển khai trong gói phần mềm đang chạy trong
các máy ảo. Điều này giúp dễ dàng giới thiệu hoặc kiểm tra chức năng mạng mới
bằng cách cài đặt hoặc nâng cấp gói phần mềm do các máy chủ điều hành

TheoYazici và cộng sự (2014), kiến trúc mạng toàn SDN với khả năng kiểm soát
mạng phân cấp sẽ tạo cơ hội cho các cấp hiệu suất và độ phức tạp khác nhau khi
cung cấp dịch vụ mạng lõi và phân biệt dịch vụ .Yazici et al. (2014) mô tả thêm
rằng nếu các cơ hội đám mây dưới dạng NFV được theo đuổi, các thách thức 5G
liên quan đến chi tiêu, sự nhanh nhẹn và linh hoạt sẽ thực sự được đáp ứng. Với
NFV, các chức năng mạng di động có thể được chuyển từ các nền tảng phần cứng
chuyên dụng sang các máy ảo chạy trên phần cứng chung. Một ví dụ về NFV là sự
thành thạo và tập hợp xử lý băng cơ sở trong các trạm cơ sở, thường được gọi là
mạng truy cập vô tuyến đám mây (C-RAN). Nếu lợi ích của điện toán đám mây
được tận dụng để tận dụng tối đa khả năng vận chuyển phân tán, sẽ có sự khác biệt
lớn giữa cách thức 4G và 5G trong cách điều khiển hệ thống tổng thể được thiết kế
và quản lý (Yazici et al., 2014) .Demestichas et al. (2013) mô tả rằng lợi ích chính
của các công nghệ NFV là các nhà mạng có thể xây dựng và vận hành một mạng

34
với mức tiêu thụ điện năng giảm và chi phí thiết bị. Điều này là do hợp nhất thiết
bị và khai thác các nền kinh tế có quy mô trong CNTT. Các nhà mạng cũng có thể
hưởng lợi từ các dịch vụ mới dễ dàng tạo, thử nghiệm và triển khai trong một thời
gian ngắn để tiếp thị, cũng như quản lý dễ dàng cơ sở hạ tầng và dịch vụ
mạng.Demestichas và cộng sự (2013) cũng đề cập đến việc giảm chi phí không
gian vì lợi ích có thể.

2.3.7 Nhận thức vô tuyến

Mặc dù nhiều ô nhỏ sẽ được triển khai trong 5G, nhưng việc tăng phổ vô tuyến là
không đủ để đảm bảo sử dụng phổ linh hoạt. Một công nghệ đầy hứa hẹn để giải
quyết vấn đề này là radio nhận thức (CR) (Chen và Zhao, 2014) .Hong et al. (2014)
mô tả CR như một công nghệ đầy hứa hẹn để đối phó với những thách thức trong
mạng 5G, đặc biệt là các quy tắc liên quan đến các vấn đề về dung lượng và yêu
cầu QoS. CR là một kỹ thuật cho phép một mạng di động cho thuê linh hoạt các
dải tần được sử dụng dưới mức mà không gây ra nhiễu sóng có hại cho người
đương nhiệm. Do đó, mạng di động nhận thức là mạng di động sử dụng CR để thuê
thêm phổ ngoài các dải di động được cấp phép. Hong và cộng sự (2014) minh họa
rằng khái niệm mạng di động nhận thức có triển vọng cho hệ thống 5G. Chi phí
cho thuê phổ tần dự kiến sẽ thấp hơn nhiều so với chi phí mua băng tần được cấp
phép, vì phổ tần thuê là cơ hội cơ bản và không đáng tin cậy. CR cho phép mở
rộng mạng di động, theo yêu cầu và với chi phí khá thấp. Đây là một giải pháp đầy
hứa hẹn để xử lý lượng lưu lượng dữ liệu di động ngẫu nhiên và đa dạng không thể
đoán trước.

Hóa đơn cho thuê quang phổ và hóa đơn tiền điện đều được hình dung là một phần
quan trọng trong OPEX của mạng di động nhận thức. Hóa đơn cho thuê quang phổ

35
có liên quan đến băng thông, hoặc hiệu quả phổ (SE). Hóa đơn điện có liên quan
đến hiệu quả năng lượng (EE). Quang phổ và năng lượng là tài nguyên thiên nhiên
làm nền tảng cho tất cả các hệ thống không dây, và SE và EE có liên quan đến các
hạn chế về độ tin cậy, CR cũng được đề cập bởiWang và cộng sự (2014), người mô
tả nó như là một kỹ thuật vô tuyến được xác định bằng phần mềm có thể cải thiện
việc sử dụng phổ của phổ vô tuyến hiện có, vì phần lớn phổ vô tuyến được sử dụng
hầu hết time.Patel và cộng sự (2012) đồng ý rằng việc sử dụng CR hoặc radio được
xác định bằng phần mềm (SDR) sẽ dẫn đến các hệ thống liên lạc vô tuyến hiệu quả
hơn trong tương lai.Chen và Zhao (2014) cũng coi CR là một công nghệ đầy hứa
hẹn để có được một thiết kế mạng cho phép sử dụng phổ linh hoạt. Một thuật ngữ
khác của CR là radio thông minh (Gohil et al., 2013).độ trễ và chi phí mạng. để
quản lý OPEX của các mạng di động nhận thức. Phân tích về sự đánh đổi EE-SE
cũng có thể đưa ra những hiểu biết thú vị về thiết kế và tối ưu hóa hệ thống.

2.3.8 Phổ tần số vô tuyến và dải tần sóng ngắn


Sự tăng trưởng lưu lượng trong thông tin di động đã thu hút sự chú ý đến các dải
tần số milimet, vì phổ tần có sẵn cho việc sử dụng tế bào ở các dải tần số thấp hơn
đã trở nên khan hiếm. Có một lượng lớn phổ không được sử dụng trong các dải
sóng milimet và chúng là một giải pháp tiềm năng để đạt được sự gia tăng công
suất lớn trong các mạng di động. Theo Chen và Zhao (2014), phổ vô tuyến mới có
sẵn cho thế hệ mạng di động trong tương lai chủ yếu nằm ở mức trên 3 GHz, hoặc
thậm chí cao hơn.Yazici và cộng sự (2014) mô tả rằng tần số sóng mang cho 5G sẽ
từ các băng tần di động được sử dụng ngày nay dưới 5 GHz, đến sóng milimet ở 60
GHz và hơn thế nữa. Kiểm lâm và cộng sự (2014) đề cập đến việc khám phá tần số
sóng mang cao hơn, chẳng hạn như dải sóng milimet từ 30 đến 300 GHz, là một
lĩnh vực quan trọng cho các nghiên cứu trong tương lai liên quan đến 5G.Li và
cộng sự (2014) cho rằng có thể thấy sự gia tăng gấp 3-10 lần kích thước phổ được

36
phân bổ trong thập kỷ tới nếu sử dụng các dải sóng milimet. Roh và cộng sự
(2014) đồng ý rằng các dải sóng milimet là ứng cử viên tiềm năng cho 5G, vì có
thể đạt được công suất gấp hàng chục đến hàng trăm lần với các dải này so
vớidung lượng 4G. Họ kết luận rằng băng thông rộng là phương pháp hiệu quả và
đơn giản nhất để cung cấp nhu cầu dữ liệu dự kiến cho các dịch vụ di động 5G.Roh
et al. (2014) cho thấy tần số sóng milimet thể hiện mình là ứng cử viên mạnh cho
5G gần đây. Hầu hết bài viết của họ được dành để trình bày kết quả của nguyên
mẫu sóng milimet của họ, đảm bảo băng thông hệ thống lớn vượt quá 500 MHz ở
28 GHz và hỗ trợ hàng chục ăng ten được đặt trong các mảng plannar ở cả hai đầu
truyền

2.3.9 Mật độ mạng

Để hiện thực hóa tầm nhìn 5G, cần phải triển khai rất dày đặc và sản xuất tập
trung.Rost và cộng sự (2014) thảo luận về cách đáp ứng các yêu cầu này, bằng
cách sử dụng các công nghệ đám mây và gán chức năng linh hoạt trong các mạng
truy cập vô tuyến để cho phép xác định các mạng và hoạt động tập trung của mạng
truy cập vô tuyến qua các mạng truyền dẫn không đồng nhất. Vì hầu hết các mạng
di động 3.5G và 4G đều dựa trên các tiêu chuẩn 3GPP, nên Rost và cộng sự (2014)
đã dựa trên kiến trúc truy cập vô tuyến và kiến trúc mạng của họ về sự phát triển
của công nghệ LTE hiện tại. Bhushan và cộng sự (2014) khám phá mật độ mạng
theo không gian và tần số để tiến hóa không dây thành 5G. Mật độ mạng có nghĩa
là thêm nhiều ô và là sự kết hợp của hai thành phần mật độ không gian và tập hợp
quang phổ. Mật độ không gian được thực hiện bằng cách tăng số lượng ăng-ten
trên mỗi nút và tăng mật độ của các trạm cơ sở được triển khai. Các nút là thiết bị
người dùng và trạm cơ sở. Tập hợp quang phổ sử dụng lượng lớn hơn của phổ điện
từ. Điều này trải dài từ 500 MHz và vào các dải sóng milimet (30-300 GHz). Mật

37
độ mạng cho dung lượng cao hơn và vùng phủ sóng được cải thiện. Mật độ không
gian và tập hợp quang phổ ít có kết quả trừ khi chúng được bổ sung bằng cách tăng
mật độ backhauls, kết nối các trạm cơ sở với mạng lõi. Mật độ của backhauls khá
là tốn kém, và vì điều này, chi phí của mật độ mạng có thể không bền vững. Tuy
nhiên, Bhushan và cộng sự (2014) cho rằng việc tăng cường mạng theo cách họ mô
tả sẽ đáp ứng thách thức tăng công suất hàng nghìn lần, cùng với việc giảm đáng
kể chi phí mỗi bit được phân phối. Điều này đảm bảo khả năng kinh doanh của
phương pháp đề xuất

2.3.10 MIMO nâng cao

MIMO là viết tắt của nhiều đầu vào và nhiều đầu ra, và là phương pháp mà công
suất của một liên kết vô tuyến được nhân lên, bằng cách sử dụng nhiều ăng ten ở
cả máy phát và máy thu, để khai thác lan truyền đa luồng. Các kỹ thuật MIMO đã
là một yếu tố quan trọng trong Wi-Fi, 3G và 4G. Tuy nhiên, sự đồng thuận nghiên
cứu là chưa phát hiện được tiềm năng đầy đủ của nó.Bangerter và cộng sự (2014)
mô tả rằng các kỹ thuật MIMO tiên tiến là cốt lõi để đạt được công suất cao hơn
cho các hệ thống tế bào trong tương lai, trong khi Chen và Zhao (2014) đã cải thiện
đáng kể hiệu suất hệ thống trong phạm vi bảo vệ và tốc độ dữ liệu người dùng như
các lợi ích khác. MIMO thường được đề cập với các tiền tố khác nhau trong tài
liệu. Những cái được sử dụng nhiều nhất là tiên tiến. MIMO nâng cao là một thuật
ngữ bao gồm các kỹ thuật MIMO tiến hóa khác nhau. Trường hợp ngược lại,
MIMO người dùng đơn lẻ là khi một bộ phát duy nhất giao tiếp với một bộ thu duy
nhất cả hai đều có một số ăng ten. MU-MIMO cung cấp mức tăng ghép kênh tăng
và được đề xuất cho 5G (Bangerter và cộng sự, 2014) .Chen và Zhao (2014) mô tả
MU-MIMO là giải pháp hoàn hảo cho thách thức trong lưu lượng truy cập không
đối xứng tức là tỷ lệ giữa đường lên và lưu lượng truy cập đường xuống. Massive

38
MIMO là một trong những kỹ thuật liên quan đến MU-MIMO.Wang và cộng sự
(2014) mô tả MIMO khổng lồ như một kỹ thuật MIMO trong đó máy phát vàhoặc
máy thu được trang bị một số lượng lớn các phần tử ăng ten thường là hàng chục
hoặc hàng trăm do đó biểu thức thay thế: hệ thống ăng ten quy mô lớn Massive
MIMO được coi là một ứng cử viên đầy triển vọng cho 5G, vì nó giảm thiểu nhiễu
trong khi nó tối đa hóa mức tăng chùm tia. Wang và cộng sự (2014) cũng đề xuất
điều chế không gian, đây là một kỹ thuật MIMO mới lạ. Đây là một kỹ thuật có thể
tăng tốc độ dữ liệu. Điều chế không gian mã hóa một phần dữ liệu được truyền vào
vị trí không gian của từng ăng ten phát trong mảng ăng ten, thay vì truyền đồng
thời nhiều luồng dữ liệu từ các tín hiệu có sẵn. Theo Patel và cộng sự (2012), thông
lượng và độ tin cậy cao hơn liên quan đến các hệ thống MIMO có lợi cho các trạm
cơ sở hơn so với người dùng, vì kích thước và mức tiêu thụ điện năng. Họ đề xuất
các kỹ thuật chuyển tiếp hợp tác nhóm thay thế cho các hệ thống MIMO.

2.3.11 Kịch bản trong nhà và UDRANET


Thiết bị của chúng ta có thể sử dụng 3G và 4G. TheoChen và Zhao (2014), 5G
không phải là một trong những vấn đề quan trọng về sự khác biệt của sự nghiệp và
sự nghiệp. Trong khi bạn đang ở trong tình trạng của bạn Các loại có thể giảm cân
và có thể thay đổi trong 5G. Người dùng không dây được đặt trong nhà 80% thời
gian và 60% lưu lượng thoại và 70% lưu lượng dữ liệu xảy ra trong nhà (Chen và
Zhao, 2014). Điều này có thể tăng lên trong tương lai và cần có sự bao phủ trong
nhà tốt hơn. Một lý do cho các vấn đề bảo hiểm trong nhà là thực tế là nhiều tòa
nhà văn phòng hiện đại được xây dựng bằng các vật liệu như thép, kim loại khác
nhau và thậm chí cả kính hiện đại có chứa kim loại. Thật không may, những vật
liệu này làm cho các tòa nhà hoạt động giống như cái gọi là lồng, nơi tín hiệu vô
tuyến bị chặn một cách hiệu quả (Seehusen, 2013). Để giải quyết vấn đề phủ sóng
trong nhà Wang và cộng sự (2014) đề xuất một kiến trúc di động tiềm năng cho 5G

39
tách biệt trong nhà và ngoài trời. Kiến trúc này cần được hỗ trợ bởi hệ thống ăng
ten phân tán và công nghệ MIMO khổng lồ.

Cha Tiếtvez-Santiago và cộng sự (2015) cũng giải quyết thách thức của vùng phủ
sóng trong nhà và mô tả khái niệm mới được đề xuất về Mạng truy cập vô tuyến
siêu dày đặc (UDRANET). Công nghệ này được dự tính là các nút truy cập năng
lượng thấp nằm cách nhau vài mét cho các khu vực trong nhà. Mục tiêu chính của
UDRANET là cung cấp dung lượng lưu lượng cực cao so với liên kết tầm ngắn có
độ tin cậy cao (Cha Phụvez-Santiago và cộng sự, 2015). Các UDRANET có khả
năng hoạt động trong dải tần từ 10 đến 100 GHz

2.3.12 Bộ phận đa tia chương trình đa truy nhập


Beam Division (BDMA) là một kỹ thuật đa truy cập mới cho truyền thông không
dây lần đầu tiên được đề xuất vào năm 2008, bởi chương trình nghiên cứu và phát
triển 5G Mobile Communications Systems của Hàn Quốc dựa trên Truy cập đa
kênh và chuyển tiếp với hợp tác nhóm (Patel et al., 2012). Hạn chế về tần suất và
tài nguyên thời gian có sẵn gây ra những thách thức trong giao tiếp và có nhu cầu
về kỹ thuật sử dụng các tài nguyên khác để tăng công suất hệ thống. Điều này đã
dẫn đến khái niệm BDMA. Khi một trạm cơ sở đang liên lạc với các trạm di động,
một chùm tia trực giao được phân bổ cho mỗi trạm di động. BDMA phân chia một
chùm ăng ten theo vị trí của các trạm di động để cho phép chúng cung cấp nhiều
truy cập, do đó làm tăng đáng kể công suất của hệ thống (Patil et al., 2012).

40
2.3.13 Mạng truy cập vô tuyến

Như một dịch vụ Rost et al. (2014) mô tả khái niệm RAN trên Mạng truy cập vô
tuyến (RANaaS) hoặc khái niệm RAN trên nền tảng đám mây, tập trung một phần
các chức năng của RAN tùy thuộc vào nhu cầu thực tế, cũng như các đặc điểm
mạng. Khái niệm đề xuất là sự đánh đổi giữa tập trung hóa hoàn toàn và phân cấp
hiện có của các mạng hiện nay, vì việc tập trung xử lý và quản lý trong mạng 5G
cần phải linh hoạt và phù hợp với yêu cầu dịch vụ thực tế. Khái niệm RANaaS
được đề xuất sẽ ảnh hưởng đến kiến trúc của các mạng di động, nhưng vì lý do
kinh tế, kiến trúc 5G dự kiến sẽ được phát triển như một sự phát triển của LTE.
Rost et al. (2014) kết luận rằng RANaaS là một yếu tố quyết định chính cho các
mạng 5G trong tương lai.
2.3.14 Kiến trúc mạng lõi
Cả Sharma (2013) và Patel et al. (2012) cho rằng lõi 5G sẽ là lõi đa công nghệ có
thể cấu hình lại. Họ gọi nó là SuperCore, trong khi Hossain (2013) sử dụng thuật
ngữ MasterCore và Patil et al. (2012) mô tả nó là NanoCore. Lõi 5G có khả năng là
sự hội tụ của các công nghệ khác nhau. Theo Hossain (2013), phần cứng và phần
mềm nên được nâng cấp và do đó thích nghi với các tình huống mới. Khả năng
nâng cấp sẽ dựa trên công nghệ CR .

41
MasterCore được đề xuất sẽ có thể thay đổi các chức năng giao tiếp dựa trên các
yếu tố như trạng thái mạng hoặc nhu cầu của người dùng. Hossain (2013) đề xuất
thêm việc sử dụng Đơn vị giao diện 5G giữa các triển khai mới và mạng lõi, với
mục đích quản lý mạng dễ dàng. Ưu điểm sẽ là chi phí thấp hơn để thiết lập mạng,
cải thiện hiệu quả mạng và giảm độ phức tạp. Điểm đáng chú ý của Hossain (2013)
là mạng lõi 5G có khả năng mang tính liên ngành cao. NanoCore được đề xuất bởi
Patil et al. (2012) là sự hội tụ của công nghệ nano, điện toán đám mây và nền tảng
All IP. Các phân khúc chính trong điện toán đám mây sẽ là các ứng dụng, nền tảng
và cơ sở hạ tầng. Các phân khúc này nên được sử dụng để đáp ứng tất cả các nhu
cầu của khách hàng về 5G. Điện toán đám mây sẽ góp phần hạ thấp chỉ số triển
khai mạng 5G của CAPEX, điều này có thể tạo ra giảm hóa đơn cho người dùng
cuối cho tất cả các dịch vụ được sử dụng (Patil et al., 2012). Khái niệm IP phẳng
được mô tả trong phiên bản 2.3.3 sẽ giúp các RAN khác nhau dễ dàng nâng cấp
thành mạng lõi đơn. Công nghệ nano có thể được sử dụng như một công cụ phòng
thủ chống lại các vấn đề bảo mật liên quan đến IP phẳng. Sharma (2013) giải thích
rằng tất cả các nhà khai thác mạng sẽ được kết nối thông qua một lõi với một cơ sở
hạ tầng duy nhất, bất kể công nghệ truy cập của các nhà khai thác. Ý tưởng tương
tự được mô tả bởi Patel et al. (2012), người đã hình dung ra một lõi siêu cấp của
Gabriel với công suất lớn. Một lõi như vậy sẽ tích hợp các tiêu chuẩn độc đáo của
thực hành kỹ thuật khác nhau.
2.3.15 Công nghệ cho truyền thông quan trọng
Trong sách trắng 5G cho truyền thông quan trọng sứ mệnh: Đạt được độ tin cậy
cực cao và độ trễ bằng không ảo, Nokia (2016) đã xem xét các giải pháp công nghệ
cho các yêu cầu đã xác định. Để đạt được độ tin cậy cực cao, họ đề xuất MIMO
lớn và đa kết nối, cũng như quản lý can thiệp tiên tiến và cơ chế truyền lại được tối
ưu hóa cho người dùng / dịch vụ. Độ trễ vô tuyến có thể được giảm xuống đến mili
giây nếu cấu trúc khung linh hoạt được giới thiệu. Để đảm bảo mạng linh hoạt và
đáng tin cậy, 5G cần một kiến trúc đa dịch vụ có thể lập trình. Các thành phần
chính được đề xuất cho kiến trúc này là cắt mạng, mạng lập trình, khả năng phục
hồi mạng và tính toán cạnh di động. Nokia (2016) giải thích rằng nghiên cứu về cải
thiện truy cập vô tuyến là rất quan trọng, vì nó gần với người dùng và có tác động
đáng kể đến độ tin cậy và độ trễ. Quản lý đa dạng và can thiệp nên được đưa vào
để có độ tin cậy cao. Điều này là do chất lượng của liên kết vô tuyến giữa trạm gốc

42
và thiết bị đầu cuối người dùng ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy chung của hệ
thống. Tỷ lệ tín hiệu-nhiễu và nhiễu (SINR) được sử dụng để đo chất lượng liên
kết. SINR cao hơn cho xác suất lỗi gói thấp hơn và do đó độ tin cậy cao hơn. Một
kỹ thuật để cải thiện SINR bằng cách quản lý nhiễu là giảm nhiễu nhận được từ các
trạm gốc hoặc thiết bị đầu cuối lân cận. Để hủy bỏ một hoặc hai giao thoa mạnh
nhất thường là đủ để đạt được hầu hết mức tăng tiềm năng trong SINR. MIMO
khổng lồ với hàng trăm hoặc hàng nghìn ăng ten được khuyến nghị cho 5G, để
khai thác nguyên tắc rằng nhiều ăng ten cung cấp vùng phủ sóng tốt hơn hoặc có
sẵn không gian. Sự gia tăng số lượng ăng-ten cho tín hiệu tốt hơn và SINR cao
hơn. Nokia (2016) giải thích thêm rằng mục tiêu cho 5G phải có thời gian gián
đoạn gần như bằng không. Điều này đòi hỏi phải có nguyên tắc trước khi phá vỡ ở
mọi bàn giao, để đảm bảo rằng kết nối luôn có sẵn.

2.4 Viễn cảnh xanh Olsson và cộng sự.


(2013) đã xem xét các khía cạnh xanh của 5G, vì đây là một thách thức lớn để cung
cấp sự gia tăng công suất cần thiết cho hàng tỷ thiết bị một cách hợp lý và bền
vững. Hóa đơn năng lượng của nhà khai thác di động đã là một phần ngày càng
tăng trong hoạt động của họ

  2.5 Kinh tế
Khi phí (OPEX) và nếu không có gì được thực hiện, có nguy cơ nó có thể tăng hơn
nữa. Việc giảm sức mạnh không chỉ quan trọng từ góc độ kinh tế, mà còn từ góc
độ bền vững. Olsson và cộng sự. (2013) mô tả rằng tiêu thụ năng lượng thấp là
chìa khóa để đạt được điều này. Tuy nhiên, việc giảm thiểu tiêu thụ năng lượng
mạng sẽ không ảnh hưởng đến việc quản lý QoS hiệu quả trong mạng. Trong bài
viết của mình, họ đã cố gắng xác định một số lĩnh vực trọng tâm quan trọng và các
giải pháp tiềm năng để thiết kế kiến trúc mạng di động 5G tiết kiệm năng lượng.
Đối với kiến trúc hệ thống, đề xuất tách dữ liệu và mặt phẳng điều khiển. Để triển

43
khai mạng, bố cục cực kỳ không đồng nhất dự kiến sẽ có tác động tích cực. Về
truyền dẫn vô tuyến, việc giới thiệu các cấu hình ăng ten lớn có thể là một yếu tố
hỗ trợ quan trọng. Hơn nữa, cần có các giải pháp hồi lưu hiệu quả năng lượng hơn
ngày nay (Olsson et al., 2013). Chen và Zhao (2014) đồng ý về thách thức về nhu
cầu giảm tương lai của mức tiêu thụ năng lượng tăng trong các trạm cơ sở. Tiêu
thụ năng lượng cho các mạng trong tương lai có thể cần phải giảm theo thứ tự của
một số cường độ. Một cách để đạt được điều này, có thể là giảm tải phần lớn dữ
liệu cho các ô nhỏ cục bộ và để các ô không hoạt động ngủ. Hơn nữa, khi việc triển
khai các công nghệ không dây tiên tiến đi kèm với chi phí tiêu thụ năng lượng cao,
phát thải CO2 tăng lên. Đây là một mối đe dọa lớn cho môi trường. Để giảm thiểu
tiêu thụ năng lượng hơn nữa, Wang et al. (2014) trình bày các hệ thống thông tin
liên lạc trong nhà riêng biệt, giao tiếp ánh sáng có thể nhìn thấy và công nghệ sóng
milimet như các giải pháp khả thi để đưa vào thiết kế hệ thống không dây 5G. Cuối
cùng, Agyapong et al. (2014) cũng đã xác định sự cần thiết của các kỹ thuật quản
lý năng lượng thông minh, đặc biệt là trong RAN. Họ mô tả rằng NFV và SDN có
thể cho phép giảm chi phí hơn nữa.Kinh tế Trong phần này, các khía cạnh kinh tế
của 5G được mô tả trong tài liệu được trình bày. Đầu tiên, các nhận xét chung về
chi phí và doanh thu sẽ được trình bày, trước khi hai bài viết dành riêng cho các
khía cạnh kinh tế nhất định của 5G được mô tả kỹ hơn.Chi phí Một số tác giả đã
giải quyết các vấn đề chi phí cho các mạng di động trong tương lai. Osseiran và
cộng sự. (2014) giải thích rằng trong khi 5G phải đáp ứng các yêu cầu quy định, áp
lực chi phí ngày càng tăng cũng phải được giải quyết. Theo Yazici và cộng sự.
(2014), tổn thất nguồn doanh thu cho các nhà cung cấp dịch vụ và tăng CAPEX và
OPEX là một số thách thức lớn nhất mà các nhà khai thác di động hiện đang phải
đối mặt, bên cạnh thách thức về năng lực chung. Olsson và cộng sự. (2013) mô tả
rằng CAPEX và OPEX phải ở mức độ mà các dịch vụ có thể được cung cấp ở mức
giá người dùng cuối hợp lý và với các trường hợp kinh doanh hấp dẫn cho các nhà

44
khai thác di động. Ngoài các yếu tố đã khiến chi phí mạng tăng lên, Agyapong et
al. (2014) mô tả rằng một số cải tiến mới cũng có thể tốn kém. Một cải tiến như
vậy là tối ưu hóa việc sử dụng mạng cho QoE công bằng và tốt hơn, bao gồm tích
hợp nhiều chức năng hơn, chẳng hạn như kiểm tra gói sâu, lưu trữ và chuyển mã.
Để giảm chi phí, Demestichas et al. (2013) có niềm tin vào các khái niệm đám mây
được đề xuất, vì đây là lý do có thể tiết kiệm đáng kể trong cả CAPEX và OPEX
nếu mạng không dây dựa trên nguyên tắc đám mây. Bangerter và cộng sự. (2014)
mô tả rằng cần phải có sự thay đổi đối với việc triển khai và công nghệ ảo hóa dựa
trên phần mềm, vì chi phí và tính linh hoạt của việc triển khai sẽ là các yếu tố quan
trọng trong mạng 5G. Nói cách khác, động lực kinh tế dường như là một yếu tố
quan trọng đằng sau sự tập trung vào các khái niệm đám mây như SDN và NFV
trong 5G. Một giảm chi phí khác trong 5G là chi phí của một tế bào nhỏ, bao gồm
chi phí bảo trì các tế bào, sẽ giảm đáng kể cho 5G (Chen và Zhao, 2014). Giảm chi
phí tế bào cũng được mô tả bởi Bhushan et al. (2014), người chỉ ra rằng picocell sẽ
cho phép CAPEX và OPEX thấp hơn nhiều so với macrocell. Bangerter và cộng
sự. (2014) giải thích rằng các tế bào nhỏ và giao tiếp D2D với nhau sẽ tạo thành
một lớp cơ sở hạ tầng chi phí thấp mới bổ sung cho phạm vi bảo hiểm và chi phí
của các mạng di động thông thường. Chavez-Santiago và cộng sự (2015) đã xem
xét viễn cảnh xã hội, liên quan đến truy cập băng rộng di động ở khu vực nông
thôn. 5G thực sự có tiềm năng để cải thiện điều này. Mức độ bao phủ hoàn toàn
của các khu vực nông thôn đã bị trì hoãn do có chỉ số CAPEX cao để triển khai
một số lượng lớn các trạm cơ sở và doanh thu trung bình thấp trên mỗi người dùng
cùng một lúc. Chavez-ắc Santiago et al. (2015) mô tả rằng sẽ cần ít trạm gốc hơn
nếu sử dụng công nghệ không gian trắng TV và giải pháp giảm tải lưu lượng. Điều
này mang lại điều kiện lan truyền tốt hơn trong phổ VHF / UHF và do đó, mạng
5G có thể được triển khai ở các vùng nông thôn với chi phí thấp hơn. Patel et al.
(2012) cũng đề xuất rằng các trạm cơ sở trong tương lai nên được thiết kế để bao

45
gồm các khu vực lớn hơn. Theo cách này, sẽ cần ít trạm gốc hơn và một số có thể
ngừng hoạt động.

Agyapong et al. (2014) cũng xem xét sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó kết nối
là một yếu tố quan trọng. Họ chỉ ra rằng để làm cho kết nối trở thành một tiện ích
phổ biến, giá cả phải chăng và bền vững, điều quan trọng là phải giảm chi phí cơ
sở hạ tầng cũng như chi phí liên quan đến việc triển khai, bảo trì, quản lý và vận
hành. 5G phải đối mặt với thách thức rằng cần có những cải tiến lớn để giải quyết
các yêu cầu mới, trong khi khách hàng không may không sẵn sàng trả theo tỷ lệ.
Để giải quyết các thách thức về dung lượng và tốc độ dữ liệu với mật độ mạng
(2.3.9) có thể tốn kém về thiết bị, bảo trì và vận hành. Chi phí thiết bị có thể được
giảm bằng cách giảm thiểu số lượng chức năng tại các trạm cơ sở. Một đề xuất là
chỉ thực hiện một số chức năng trong các trạm cơ sở thông thường và di chuyển
các chức năng của các lớp cao hơn. Điều này dẫn đến các trạm cơ sở đơn giản hơn
và chúng có thể được người dùng triển khai và quản lý từ xa hoặc tự động. Theo
cách này, chi phí triển

khai và vận hành có thể giảm (Agyapong et al., 2014).

2.5.1 Doanh thu


Giảm thiểu độ trễ và tăng độ tin cậy mở ra cơ hội kinh doanh mới có khả năng sinh
lợi cao cho ngành, phát sinh từ các ứng dụng mới đơn giản là không hoạt động 2.5
Kinh tế đúng nếu độ trễ mạng quá cao (Nokia, 2016). Vì 5G sẽ mang đến cho
người dùng trải nghiệm mới và cải thiện về kết nối không dây, kinh tế mạng đơn
giản yêu cầu ngành công nghiệp di động đưa ra chiến lược cho phép các dịch vụ
mới, ứng dụng mới và cơ hội mới để kiếm tiền từ trải nghiệm người dùng
(Bangerter et al., 2014 ). Vì 5G sẽ cung cấp một cấp độ kết nối mới, các cơ hội mới
sẽ không chỉ ảnh hưởng đến ngành viễn thông và các tác nhân Internet, mà còn các

46
ngành khác như ô tô, y tế, sản xuất và hậu cần, và thậm chí cả chính phủ / khu vực
công, như 5G dự kiến để bao gồm các trường hợp sử dụng cho các ngành này
(Nokia, 2016). Theo Yazici và cộng sự. (2014), khái niệm CMaaS được đề xuất có
thể mở ra những con đường mới để tạo doanh thu, vì nó cho phép kiểm soát tính di
động và định tuyến của các luồng khác nhau hoặc người dùng khác nhau trong
mạng. Agyapong et al. (2014) đề xuất rằng các chương trình định giá có thể được
sử dụng để quản lý và có khả năng làm giảm mức tăng tiêu thụ dữ liệu, điều này đã
được các nhà khai thác trên thị trường chứng minh. Tuy nhiên, khách hàng sẵn
sàng trả tiền cho dịch vụ được cung cấp hơn khối lượng dữ liệu và do đó các mô
hình định giá có thể không hiệu quả để ngăn chặn lưu lượng truy cập trong tương
lai (Agyapong et al., 2014).

2.5.2 Giá D2D


xác định giá cho các dịch vụ của D2D là một vấn đề nan giải quan trọng mà các
nhà khai thác sẽ phải đối mặt, tức là cách kiểm soát và tính phí cho các dịch vụ của
D2D. Đối với các trường hợp giao tiếp DR-DC và DC-DC như được mô tả trong
2.3.5, nhà điều hành sẽ không có bất kỳ điều khiển nào vì thiết lập ban đầu không
đi qua các trạm cơ sở. Do đó, họ không nên mong đợi kiếm được lợi nhuận từ nó.
Đối với các loại giao tiếp D2D khác, DR-OC và DC-OC, nơi thiết lập ban đầu đi
qua các trạm cơ sở, Tehrani et al. (2014) đề xuất các chương trình định giá dựa trên
lý thuyết đấu giá và lý thuyết trò chơi.

Đối với DR-OC, thách thức chính là cung cấp đủ các ưu đãi cho người dùng để sẵn
sàng chia sẻ tài nguyên của họ cho mục đích chuyển tiếp. Tehrani et al. (2014) đề
cập giảm giá cho các hóa đơn hàng tháng dựa trên lượng dữ liệu được chuyển tiếp
qua thiết bị của người dùng hoặc các dịch vụ miễn phí có thể được khuyến khích.
Điều này là hợp lý theo quan điểm của nhà điều hành, vì chuyển tiếp thiết bị có lợi

47
cho họ, vì nó góp phần giảm tải lưu lượng trong tầng macrocell, và do đó giảm tải
các trạm cơ sở. Bằng cách xác định một hàm tiện ích và vẽ doanh thu của nhà khai
thác như là một hàm của tỷ lệ nhiễu tín hiệu trung bình (SNR), Tehrani et al.
(2014) đã có thể chỉ ra rằng đối với mạng hai cấp có DR-OC, cả doanh thu của nhà
điều hành và doanh thu thiết bị sẽ tăng so với hệ thống singletier thông thường.
Đối với DC-OC, đây là một thách thức quan trọng để có các chương trình giá hấp
dẫn để người dùng sẽ sử dụng điều này thay vì Bluetooth hoặc WiFi. Tehrani et al.
(2014) mô tả rằng thiết kế của một mô hình định giá có thể được xem là một vấn
đề giao dịch phổ, trong đó người bán muốn tối đa hóa lợi nhuận, trong khi người
mua muốn tối đa hóa tiện ích sử dụng phổ của mình. Để kiểm tra trường hợp DC-
OC bằng số, họ đã vẽ doanh thu của nhà điều hành như là một hàm của số lượng
thiết bị. Họ đã phát hiện ra rằng doanh thu của nhà khai thác trong mạng hai tầng
cao hơn 10% so với hệ thống một tầng. Mức tăng doanh thu thiết bị trong mạng hai
lớp là 48% cho 100 thiết bị và 6% khi số lượng thiết bị là 800. Tehrani et al. (2014)
kết luận rằng DR-OC và DC-DC sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho cả nhà khai thác
và người dùng. Một thiếu sót trong nghiên cứu này là họ đảm nhận một thị trường
độc quyền (chỉ có một nhà khai thác), do đó họ không đề cập đến khía cạnh cạnh
tranh giữa một số nhà khai thác.

2.5.3 Đánh giá hiệu quả chi phí

Nikolikj và Janevski (2015) giải thích rằng việc thiếu phổ vi sóng đã buộc các ấn
phẩm gần đây tập trung vào các hệ thống sóng milimet, để sử dụng phổ tần có sẵn
trong các dải từ 30-300 GHz. Hiệu suất về năng lực và tốc độ dữ liệu người dùng
đã thúc đẩy việc đánh giá khả năng tài chính của các hệ thống sóng milimet được
đề xuất tích hợp trong Mạng không đồng nhất truy cập không dây nâng cao
(AWAHetNet) trong tương lai. Mục tiêu là để xem liệu đây có phải là một giải

48
pháp tiềm năng để thu hẹp khoảng cách doanh thu mà các nhà khai thác mạng di
động gặp phải hay không. Nikolikj và Janevski (2015) sử dụng phân tích kinh tế kỹ
thuật để cung cấp một mô hình để đánh giá hiệu quả chi phí của AWA-HetNets.
Họ trình bày mô hình năng lực chi phí so sánh, tính toán chi phí sản xuất và lợi
nhuận kinh doanh. Nikolikj và Janevski (2015) xem xét một khu vực đông dân cư
từ tương lai, với 250.000 công dân trên mỗi km2. Con số này gấp hơn 6 lần mật độ
dân số cao nhất hiện nay trên thế giới được tìm thấy tại Manila, thủ đô của
Philippines, với 42.000 công dân trên mỗi km2. Nikolikj và Janevski (2015) mô
hình tổng chi phí của AWA-HetNets (CTOT) là: , (2.1) Trong đó, αk, i là tổng chi
tiêu, tính theo CAPEX và OPEX xảy ra trong năm k đối với trạm gốc hoặc điểm
truy cập loại i, là tỷ lệ chiết khấu hàng năm, Ni là tổng số trạm gốc hoặc điểm truy
cập của loại i là bắt buộc và φ là tập hợp của tất cả các cấu hình trạm gốc hoặc
điểm truy cập có sẵn. Các chiến lược mở rộng năng lực hiệu quả chi phí khác nhau
cũng được đề xuất. Mô hình cấu trúc chi phí của họ dựa trên việc giới hạn CAPEX
và OPEX của mạng truy cập vô tuyến. Lợi nhuận kinh doanh của AWA-HetNet
được đánh giá bằng cách liên quan đến tổng chi phí đầu tư với chi phí sản xuất và
doanh thu. Họ đã phát hiện ra rằng hệ thống sóng milimet 5G có thể đảm bảo cho
các nhà khai thác mạng lợi nhuận bền vững, với tỷ suất lợi nhuận hơn 50%.

Liên quan đến vấn đề được biết đến của phạm vi bảo hiểm trong nhà trong các tòa
nhà văn phòng hiện đại được mô tả trong 2.3.11, Nikolikj và Janevski (2015) đã
xem xét khả năng chi phí và lợi nhuận của các công nghệ truy cập vô tuyến cho các
khu vực văn phòng. Kết quả của họ chỉ ra rằng các trạm gốc picocell 5G được đề
xuất có thể là một giải pháp triển khai thích hợp hơn cho môi trường văn phòng tải
nặng. Cụ thể, họ đã đánh giá mức lợi nhuận của việc triển khai cần thiết để đáp

49
ứng nhu cầu được gọi là văn phòng thực tế ảo, trong đó yêu cầu là 36,0 TB mỗi
người dùng, mỗi tháng.

2.6 Khía cạnh kinh doanh


Hơn nữa, Nikolikj và Janevski (2015) cũng phân tích chia sẻ tài nguyên hợp tác,
bằng ứng dụng Quản lý tài nguyên vô tuyến (RRM), nơi tài nguyên vô tuyến được
chia sẻ giữa các nhà khai thác di động. Điều này nhằm mục đích tối đa hóa hiệu
suất tổng hợp, về năng lực hoặc lợi nhuận. Cụ thể, họ nghiên cứu các trường hợp
cung cấp năng lực quá mức và họ cũng xác định các nguyên tắc để cung cấp tốc độ
dữ liệu được đảm bảo (về QoS) cho một số người dùng cá nhân. Việc cung cấp quá
mức công suất dự kiến sẽ xảy ra thường xuyên trong 5G AWA-HetNets, do lượng
băng thông lớn có sẵn. Mặc dù cách tiếp cận RRM có thể cung cấp sự chia sẻ hoàn
hảo về công suất khả dụng, các nhà khai thác sẽ trả chi phí cao hơn cho việc phân
bổ công suất, so với giá trị gia tăng. Điều này là do công suất giảm. Vì điều này,
Nikolikj và Janevski (2015) cũng đã xem xét việc sử dụng RRM với hàng đợi ưu
tiên được điều chỉnh linh hoạt theo tải của các nhà khai thác mạng di động. Trong
trường hợp này, Nikolikj và Janevski (2015) đã có thể hiển thị 31% khả năng cải
thiện công suất khi hai nhà khai thác xử lý tải tương đương, so với RRM với chia
sẻ tài nguyên cố định. Đây là một cải tiến đáng kể. 2.6 khía cạnh kinh doanh
NGMN (2014) xem xét kỹ hơn về các khía cạnh kinh doanh của 5G và hy vọng bối
cảnh kinh doanh sau năm 2020 sẽ khác biệt đáng kể so với hiện nay. Điều này chủ
yếu là do sự xuất hiện của các trường hợp sử dụng và mô hình kinh doanh mới,
được thúc đẩy bởi nhu cầu của khách hàng và nhà khai thác, và được kích hoạt bởi
các công nghệ chính cho 5G. Định hướng kinh doanh và khuyến khích kinh tế với
sự thay đổi cơ bản về chi phí, năng lượng và hiệu quả hoạt động sẽ làm cho 5G trở
nên khả thi và bền vững. Tầm nhìn 5G của họ là rằng 5G là một hệ sinh thái từ đầu
đến cuối để cho phép một xã hội hoàn toàn di động và kết nối. Nó trao quyền cho

50
việc tạo ra giá trị đối với khách hàng và đối tác, thông qua các trường hợp sử dụng
hiện tại và mới nổi, được phân phối với kinh nghiệm nhất quán và được kích hoạt
bởi các mô hình kinh doanh bền vững.
Về các mô hình kinh doanh cho 5G, NGMN (2014) hy vọng rằng các mô hình này
sẽ mở rộng sang các mô hình mới và hỗ trợ các loại khác nhau của cả khách hàng
và đối tác. Họ xác định khách hàng không chỉ là người tiêu dùng và doanh nghiệp
như ngày nay, mà còn là ngành dọc và các mối quan hệ đối tác khác. Về quan hệ
đối tác, họ mô tả rằng các nhà khai thác mạng di động sẽ tiếp tục phát triển các
dịch vụ riêng, nhưng cũng mở rộng phạm vi kinh doanh của họ thông qua quan hệ
đối tác cho cả cơ sở hạ tầng và các khía cạnh phát triển ứng dụng. Các nhà khai
thác mạng đã bắt đầu tận dụng quan hệ đối tác với các nhà cung cấp dịch vụ để
cung cấp dịch vụ đóng gói cho người dùng cuối. Trong tương lai, các nhà cung cấp
dịch vụ dự kiến sẽ tiếp tục cung cấp các ứng dụng yêu cầu chất lượng cao hơn, độ
trễ thấp hơn và các khả năng cung cấp dịch vụ khác như độ gần, vị trí, QoS và xác
thực, theo yêu cầu và theo cách có thể lập trình rất linh hoạt. Các chủ đề liên quan
đến hợp tác giữa các chủ thể khác nhau trong hệ sinh thái viễn thông, chẳng hạn
như tiên phong và tích hợp dọc, thực sự sẽ rất quan trọng trong kỷ nguyên 5G. Các
chủ đề này giải quyết thách thức về cách các nhà khai thác có thể đảm bảo doanh
thu đủ để trả cho cơ sở hạ tầng cần thiết trong tương lai, khi lợi nhuận lớn nhất
nằm ở một vị trí khác trong chuỗi giá trị, tức là tại các nhà cung cấp dịch vụ, những
người thường nhận được doanh thu cao và có chi phí ít hơn nhiều. NGMN (2014)
cũng hy vọng rằng các nhà khai thác sẽ đóng góp vào việc huy động các ngành
công nghiệp và quy trình. NGMN (2014) mô tả khả năng 5Gs để hỗ trợ các mô
hình kinh doanh với chi phí rất thấp và cung cấp tính linh hoạt để cho phép các mô
hình kinh doanh theo yêu cầu, như một yêu cầu chính. Về việc tạo ra giá trị, họ đề
xuất rằng các đặc điểm dịch vụ sau nên được cung cấp trên tất cả các phân khúc
dịch vụ và khách hàng. Dịch vụ 5G phải là (NGMN, 2014):

51
• Có sẵn ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.

• Cung cấp với kinh nghiệm nhất quán theo thời gian và không gian.

• Có thể truy cập trên nhiều thiết bị và công nghệ truy cập.

• Có khả năng hỗ trợ nhiều loại tương tác.

• Cung cấp liền mạch và minh bạch trên các công nghệ truy cập.

• Giao hàng theo ngữ cảnh và cá nhân hóa.

• Được kích hoạt bởi thông tin liên lạc an toàn và đáng tin cậy.

• Được hỗ trợ bởi một mạng lưới có độ tin cậy và khả năng phục hồi cao

. • Cung cấp một cách nhanh chóng và thời gian thực.

Một sự phát triển mô hình kinh doanh toàn cầu của các nhà khai thác di động Các
dịch vụ trên mạng sẽ bao gồm sự phát triển của các dịch vụ hiện tại, cũng như sự
xuất hiện của các dịch vụ mới. Theo Hossain (2013), khả năng nâng cấp được đề
xuất cho mạng 5G có thể giúp các nhà mạng dễ dàng giới thiệu các dịch vụ giá trị
gia tăng với tốc độ cao hơn trong tương lai.

2.6.1 Thị trường áp dụng


5G Demestichas et al. (2013) đã xem xét thị trường có khả năng áp dụng 5G như
thế nào. Họ trình bày hai cách tiếp cận khác nhau: cách tiếp cận dần dần và đột
phá. Cách tiếp cận dần dần sẽ được đặc trưng bằng cách giới thiệu các khía cạnh
liên quan đến trí thông minh đầu tiên. Cách tiếp cận đột phá có nhiều khả năng sẽ
được xem xét trong dài hạn. Khi đạt được đủ lợi nhuận và lợi tức đầu tư của các hệ
thống 4G hoàn thiện, các nhà khai thác sẽ sẵn sàng đầu tư vào các thiết bị cập nhật
triệt để. Chavez-Santiago và cộng sự (2015) cũng mô tả hai giai đoạn tiến hóa đồng
thời theo hướng 5G. Đây là sự cải tiến của các mạng hiện tại và sự tích hợp của các

52
mạng phát triển với các hệ thống truyền thông không dây bổ sung. Nokia (2016)
mô tả rằng trong giai đoạn đầu triển khai, truy cập vô tuyến 5G với tính đa dạng,
đa kết nối, quản lý nhiễu và cấu trúc khung linh hoạt sẽ được giới thiệu và tích hợp
với mạng lõi LTE. Đồng thời, việc cắt mạng, mạng có thể lập trình, khả năng phục
hồi mạng và tính toán cạnh di động sẽ được giới thiệu bởi kiến trúc đa dịch vụ 5G
có thể lập trình. Trong giai đoạn tiếp theo, truy cập vô tuyến 5G sẽ được tích hợp
với mạng lõi 5G mà không cần neo LTE. Trong giai đoạn này, các yêu cầu 5G về
độ trễ thấp, tính di động và độ tin cậy cao sẽ được đáp ứng.

 Chương 3: Thảo luận

3.1 Khía cạnh công nghệ


Như được mô tả ở đầu chương 2, các trường hợp sử dụng và yêu cầu đối với 5G là
rõ ràng, nhưng 5G vẫn chưa được tiêu chuẩn hóa. 3GPP dự kiến sẽ phát hành bộ
tiêu chuẩn 5G đầu tiên trong năm tới. Do đó, hầu hết các tài liệu 5G được xuất bản
đều liên quan đến các khía cạnh công nghệ, tức là đề xuất cho phép các công nghệ
và giải pháp được đưa vào thế hệ mạng di động tiếp theo, để 5G có thể đáp ứng các
yêu cầu được mô tả trong phần 2.2. Mặc dù các yêu cầu rất cao, chúng dường như
được coi là hoàn toàn có thể tiếp cận. Nghiên cứu công nghệ đang tiếp cận sự đồng
thuận cho một số giải pháp quan trọng nhất cho 5G, trong khi những giải pháp
khác chưa được quyết định chính thức. Các chuyên gia đồng ý rằng 5G sẽ không
phải là một hệ thống liên lạc hoàn toàn mới được xây dựng từ đầu, mà là một sự
phát triển của các hệ thống 4G, với một số thành phần mới.
Vai trò của thiết bị đầu cuối người dùng, hoặc điện thoại thông minh, là thiết bị cá
nhân chính là rõ ràng. Rõ ràng là trong 5G, số lượng thiết bị cá nhân sẽ tăng lên.
Các thiết bị đeo được có khả năng AI là một ví dụ về các loại thiết bị cá nhân mới.
5G phải kích hoạt IoT với số lượng thiết bị được kết nối cao hơn nhiều so với hiện
nay và do đó, nó phải hỗ trợ các thiết bị loại máy một cách hiệu quả. Các công

53
nghệ thường được đề cập nhất trong bối cảnh 5G, là HetNets với một tầng dành
riêng cho truyền thông D2D, SDR, SDN, NFV, CR, hệ thống MIMO lớn và sử
dụng tần số sóng milimet. Đây được coi là một trong những yếu tố hỗ trợ quan
trọng nhất cho 5G. Mật độ mạng, UDRANET và cách đáp ứng nhu cầu liên lạc
trong nhà, kiến trúc của mạng lõi, kỹ thuật BDMA và khái niệm RAN dựa trên
đám mây, RANaaS, là những phần khác của công nghệ 5G được đề xuất thường
được đề cập trong bối cảnh 5G . Do đó, chúng ta đã chọn trình bày tất cả các chủ
đề công nghệ này trong chương 2. Tuy nhiên, vì trọng tâm của luận án này là khía
cạnh kinh tế của 5G, các công nghệ được đề cập sẽ không được đánh giá thêm ở
đây, vì điều này nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của tác giả. Dựa trên đánh giá tài
liệu, chúng ta kết luận rằng sự đồng thuận nghiên cứu dường như là tất cả các công
nghệ này có khả năng được đưa vào 5G.

3.2 Các khía cạnh kinh tế


Cho đến bây giờ, chúng ta đã cố gắng trả lời phần đầu tiên của mô tả vấn đề của
luận án này, tức là khám phá cách 5G hiện được định nghĩa. Trong phần này,
chúng ta xem xét mục tiêu tiếp theo: xác định các khía cạnh kinh tế liên quan. Ban
đầu, đề cương cho luận án này là nghiên cứu một số khía cạnh kinh tế sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, trong quá trình đánh giá tài liệu, rõ ràng là nó chưa được xuất bản nhiều
tài liệu dành riêng cho các khía cạnh kinh tế của 5G. Những lý do chính cho điều
này đã được mô tả: 5G chưa được chuẩn hóa và khu vực trọng tâm hiện tại là công
nghệ được đưa vào. Nói cách khác, vẫn còn sớm để xem xét các khía cạnh kinh tế
bị cô lập. Cần phải xác định rằng mặc dù có rất ít bài viết dành riêng cho nghiên
cứu kinh tế về 5G, nhưng điều đó không có nghĩa là các khía cạnh kinh tế chưa
được xem xét nhiều cho 5G. Nhận thức này phát sinh từ thực tế là một số bài viết
đề cập ngắn gọn về khía cạnh kinh tế, mà không cần xây dựng thêm. Cân nhắc
kinh tế hiếm khi xảy ra trong tóm tắt hoặc kết luận, có nghĩa là các ấn phẩm

54
thường phải được đọc kỹ để tìm thấy những cân nhắc này. Nhiều tác giả định
hướng kỹ thuật đồng ý rằng vấn đề tăng chi phí phải đối mặt. Osseiran và cộng sự.
(2014); Yazici và cộng sự. (2014); Demestichas et al. (2013); Chavez-Santiago và
cộng sự (2015); Agyapong et al. (2014) đã đưa ra các yêu cầu cho việc này, như
được mô tả trong phần 2.2. Nó được đánh dấu bởi Bangerter et al. (2014) rằng
chiến lược tăng trưởng năng lực và hiệu suất của 5G phải bền vững về kinh tế.
Yazici và cộng sự. (2014) mô tả rằng LTE đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong việc giảm chi phí cho các nhà khai thác mạng di động, nhưng mức tăng này
không đủ cho các mạng di động trong tương lai và phải đạt được những lợi ích
trong tương lai theo những cách mới và khác nhau. Mặc dù việc giảm thiểu
CAPEX và OPEX của các mạng di động là điều đáng quan tâm, nhưng hạn chế
chính là các yêu cầu 5G thực tế về hiệu suất mạng phải được đáp ứng. Sẽ luôn có
sự đánh đổi giữa chi phí và hiệu suất. Olsson và cộng sự. (2013) phản ánh áp lực
chi phí ngày càng tăng từ cả hai khía cạnh kinh doanh, tức là sự cần thiết phải cung
cấp giá cả của người dùng cuối phải chăng và quan điểm xanh, về tiêu thụ điện
năng, tính bền vững và lượng khí thải CO2. Quan điểm xanh có liên quan đến kinh
tế theo nhiều cách. Kết nối dễ dàng nhất là tiêu thụ ít năng lượng hơn là mục tiêu
xanh, điều này cũng dẫn đến chi phí tiện ích thấp hơn, là một phần của OPEX. Một
kết nối gián tiếp rõ ràng hơn trong dài hạn, là hậu quả kinh tế của khí thải từ sản
xuất điện, chẳng hạn như CO2. Khí thải lớn 3.2 Các khía cạnh kinh tế có thể được
tính phí, được thêm vào tổng chi phí. Và ngay cả khi không có phí, phát thải lớn
vẫn có thể gây ra hậu quả kinh tế xã hội, làm giảm phúc lợi xã hội hoặc thặng dư
xã hội. Đây là một số lý do tại sao nên đưa vào quan điểm xanh khi các khía cạnh
kinh tế của 5G được nghiên cứu. Ngoài ra, cần đề cập rằng việc tập trung vào mức
tiêu thụ điện năng giảm không chỉ tập trung vào các mạng, mà còn tập trung vào
các thiết bị đầu cuối của người dùng.
Các công nghệ được mô tả là có tác động tích cực đến chi phí của các nhà khai

55
thác mạng di động trong 5G, là các khái niệm đám mây, chẳng hạn như SDN và
NFV (Demestichas et al., 2013; NGMN, 2014) và giảm chi phí tế bào (Chen và
Zhao , 2014; Bhushan và cộng sự, 2014). Yazici và cộng sự. (2014) mô tả rằng
thách thức chi tiêu sẽ được đáp ứng với việc sử dụng NFV. Liang và Yu (2015)
đồng ý rằng vì ảo hóa mạng không dây sẽ cho phép chia sẻ cơ sở hạ tầng và tài
nguyên phổ vô tuyến, nên có thể giảm đáng kể CAPEX và OPEX của cả RAN và
CN. Mạng lưới dày đặc, không đồng nhất với các tế bào nhỏ và D2D sẽ cho phép
cơ sở hạ tầng chi phí thấp (Bangerter et al., 2014). Mặc dù các tài liệu đánh giá mô
tả các khái niệm này không nhấn mạnh lợi ích kinh tế là lý do chính cho việc lựa
chọn các công nghệ này có liên quan đến 5G, nhưng dường như vẫn có một động
lực kinh tế nhất định đằng sau sự phát triển của các khái niệm này ngay từ đầu . Ví
dụ, sẽ không khả thi nếu chỉ phát triển các giải pháp giải quyết tất cả các vấn đề về
dung lượng của mạng di động, nhưng quá tốn kém để thực sự thực hiện ở quy mô
đầy đủ.Hong et al. (2014) mô tả rằng việc hiểu được sự đánh đổi giữa hiệu quả
năng lượng và hiệu quả quang phổ có thể cung cấp các hướng dẫn trực tiếp cho
việc quản lý OPEX của các mạng di động nhận thức. Nếu sự hiểu biết này được sử
dụng, có thể thu được OPEX giảm trong 5G. Một ví dụ về các cân nhắc kinh tế của
Hidden hidden, là các khía cạnh chi phí của việc tăng cường mạng. Mật độ mạng
sẽ giúp giảm đáng kể chi phí mỗi bit được phân phối Bhushan et al. (2014). Tuy
nhiên, để có được hiệu ứng đầy đủ của mật độ mạng, nó cần được bổ sung bằng
cách tăng mật độ backhauls. Thứ hai là đủ đắt để thách thức lợi ích ban đầu của
mật độ mạng. Đây là một ví dụ về công nghệ có những cân nhắc kinh tế quan trọng
đằng sau giải pháp được đề xuất. Nó cũng cho thấy tầm quan trọng của việc xem
xét tổng lợi nhuận kinh tế trước khi lựa chọn đầu tư được thực hiện. Để nghiên cứu
hiệu quả chi phí của các giải pháp đề xuất, phân tích kinh tế kỹ thuật là một khả
năng. Điều này được thể hiện bởi Nikolikj và Janevski (2015), những người đã
thực hiện điều này cho AWA-HetNets, nơi họ cũng đã xem xét lợi nhuận kinh

56
doanh. Họ đã sử dụng phương pháp chiết khấu tiền mặt, trong số những người
khác. Các phân tích tương tự có thể được thực hiện cho các thành phần 5G có thể
khác, để đánh giá liệu các cơ hội đầu tư được ước tính có sinh lãi hay không. Một
lợi thế với phân tích kinh tế kỹ thuật là khía cạnh công nghệ cũng được đảm bảo và
công nghệ có thể được đánh giá theo các yêu cầu trong cùng một mô hình.
Về doanh thu, Bangerter et al. (2014) mô tả rằng ngành công nghiệp di động cần
một chiến lược cho phép các dịch vụ mới, ứng dụng mới và cơ hội mới để kiếm
tiền từ trải nghiệm người dùng được cải thiện. Hiệu suất mạng liên quan đến việc
tạo doanh thu như thế nào? Liệu hiệu suất mạng tốt hơn có tự động đảm bảo doanh
thu cao hơn trong tương lai không? Nhiều người sẽ nghĩ như vậy, nhưng điều này
không hẳn đúng. Dịch vụ thoại và tin nhắn đã trở thành một mặt hàng trên thị
trường, trong đó giá cả là yếu tố duy nhất mà các nhà cung cấp cạnh tranh. Điều
này khiến giá giảm. Có một cuộc tranh luận đang diễn ra về việc liệu lưu lượng dữ
liệu đã là một hàng hóa hay khi nào nó sẽ trở thành một hàng hóa. Tuy nhiên, vẫn
có thể phân biệt truyền dữ liệu theo các thuật ngữ khác ngoài giá cả, ví dụ: bởi chất
lượng. Sự đánh đổi giữa chi phí và hiệu suất cũng phù hợp với người dùng cuối.
Theo mô tả của Nokia (2014), một sự thay đổi từ băng thông rộng di động có nỗ
lực tốt nhất sang hiệu quả mạng với truyền thông thực sự đáng tin cậy về hiệu suất
cao được mong đợi. Điều này có nghĩa là đối với 5G, chất lượng kết nối có thể là
yếu tố khác biệt quan trọng nhất mà các nhà khai thác mạng di động cạnh tranh.
Nhiều tác giả đã đề cập đến các chủ đề về chất lượng, hoặc QoS và QoE. Quản lý
QoS thông minh hoặc quản lý kết nối cũng được đề xuất, trong đó thiết bị đầu cuối
chọn kết nối không dây tốt nhất với các biện pháp chất lượng khác nhau cho kết
nối khả dụng, các ràng buộc đối với QoS cần thiết và các ràng buộc cho chi phí cá
nhân. Đây là một khía cạnh kinh tế quan trọng của 5G. Sự hiểu biết về cách người
dùng đánh giá mối quan hệ giữa chất lượng và chi phí mang lại cái nhìn sâu sắc có
giá trị về mức độ sẵn sàng chi trả của người dùng 5G đối với hiệu suất mạng được

57
cải thiện liên quan đến 5G. Hơn nữa, vì chất lượng kết nối tối đa dự kiến sẽ rất cao,
cuối cùng người dùng sẵn sàng trả tiền có thể trở thành hạn chế mạnh nhất, thay vì
dung lượng tối đa của các mạng.
Tehrani et al. (2014) cho thấy các nhà khai thác mạng di động sẽ có thể kiếm được
lợi nhuận từ giao tiếp D2D, nếu thiết lập ban đầu đi qua các trạm cơ sở, trong tầng
macrocell. Trong trường hợp đó, các nhà khai thác có thể kiểm soát và tính phí cho
lưu lượng truyền trong tầng thiết bị. Để nhận ra tiềm năng kinh doanh này, các
dịch vụ truyền thông của D2D phải hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng, hơn là
các lựa chọn thay thế tương đương. Điều này có nghĩa là các nhà khai thác phải trả
lời về việc trả tiền cho câu hỏi của người Viking (Tehrani et al., 2014). Nếu các
nhà khai thác mạng di động có thể đảm bảo hiệu suất tốt hơn, QoS tốt hơn và bảo
mật mạng đủ, thì các nhà khai thác chắc chắn có thể kiếm được lợi nhuận bằng
cách cung cấp giao tiếp D2D. Tuy nhiên, các ưu đãi của người dùng cho giao tiếp
D2D phải đủ tốt để thu hút người dùng và vẫn có giá cả phải chăng cho các nhà
khai thác mạng di động. Đây sẽ là một trường hợp dịch vụ hoàn toàn mới và các
nhà khai thác mạng di động có thể xem xét thay đổi các chương trình định giá của
họ để kiếm tiền từ giao tiếp D2D. Những thay đổi như vậy cũng có thể liên quan
đến giao tiếp M2M, đặc biệt là liên kết với IoT. Nhiều thiết bị IoT sẽ cần phải trực
tuyến mọi lúc và không phải ai cũng có quyền truy cập vào kết nối WiFi hoặc
Bluetooth. Đối với một số thiết bị IoT, kết nối không dây qua mạng di động là khả
năng duy nhất và các loại đăng ký mới cho các thiết bị này có thể là tiềm năng kinh
doanh mới cho 5G. Đây là một ví dụ về cách các nhà khai thác mạng di động có
thể kiếm tiền từ IoT. Nokia (2016) mô tả rằng các cơ hội kinh doanh mới trong 5G
sẽ phát sinh từ các ứng dụng mới được kích hoạt bởi độ trễ tối thiểu hóa và độ tin
cậy tăng. Đây là những ứng dụng sẽ không hoạt động chính xác nếu độ trễ mạng
quá cao và không thể sử dụng qua các thế hệ mạng không dây trước đó, bao gồm
4G.

58
3.3 Hạn chế
giả định rằng 5G sẽ góp phần tiếp tục huy động các ngành công nghiệp và quy
trình, như được mô tả bởi NGMN (2014). Như được mô tả trong 2.6, NGMN
(2014) hy vọng bối cảnh kinh doanh của 5G sẽ khác với bối cảnh kinh doanh của
4G. Họ đồng ý với Nokia (2016) rằng các trường hợp sử dụng mới và hiệu suất
mạng được cải thiện sẽ dẫn đến sự khác biệt chính. Khi các mạng được cải thiện,
người dùng sẽ mong đợi nhiều hơn và phát triển các nhu cầu mới mà 5G phải giải
quyết. Hiệu suất mạng được cải thiện sẽ cho phép tạo giá trị trong 5G. NGMN
(2014) cũng mô tả rằng các mô hình kinh doanh sẽ mở rộng sang mô hình mới và
5G phải hỗ trợ chúng với chi phí rất thấp và cung cấp sự linh hoạt để cho phép các
mô hình kinh doanh theo yêu cầu. Các mô hình kinh doanh sẽ bao gồm sự phát
triển của các dịch vụ hiện tại và sự xuất hiện của các dịch vụ mới. Hơn nữa,
NGMN (2014) cũng hy vọng rằng các loại khách hàng và đối tác mới sẽ được nhìn
thấy trong 5G. Các nhà khai thác mạng di động dự kiến sẽ tiếp tục phát triển các
dịch vụ riêng, nhưng cũng mở rộng phạm vi kinh doanh bằng cách tham gia các
quan hệ đối tác có liên quan. Cái sau, cùng với một số triển vọng quan trọng khác
cho các khía cạnh kinh doanh của 5G, được định nghĩa ngoài phạm vi của đề tai
này. Một số ví dụ cuối cùng về cách 5G thay đổi bối cảnh kinh doanh cho các tác
nhân khác ngoài các nhà khai thác mạng di động theo sau. Nokia (2016) đề cập đến
thực tế ảo (VR) là trường hợp sử dụng cho 5G. Công nghệ VR có thể được áp dụng
cho các sản phẩm thiết kế và nguyên mẫu trước khi chúng được chế tạo. Việc sử
dụng VR trong phát triển sản phẩm có thể cho phép thời gian phát triển ngắn hơn,
vì nó giúp dễ dàng trình bày và hiển thị ý tưởng sản phẩm trước khi nguyên mẫu
vật lý được chế tạo. Vì những lý do tương tự, nó cũng có thể làm giảm chi phí phát
triển. Do đó, việc sử dụng công nghệ VR có thể đơn giản hóa việc phát triển sản
phẩm trong tương lai và 5G có thể là yếu tố quyết định cho việc này.
5G cũng sẽ thay đổi bối cảnh kinh doanh cho các diễn viên sản xuất phần cứng

59
không dây. Các tác nhân này được gắn nhãn kiến trúc sư và các nhà xây dựng thiết
bị, trong tổng quan về các tác nhân Internet để cho phép trải nghiệm 5G hoàn chỉnh
và cho phép người dùng trải nghiệm tất cả các cải tiến mạng. Các nhà sản xuất
thiết bị IoT cũng có khả năng hưởng lợi từ 5G, vì 5G dự kiến sẽ cho phép hiện
thực hóa toàn bộ tiềm năng của IoT. Hạn chế Phạm vi văn học của luận án này là
văn học tập trung vào 5G một cách rõ ràng. Sự lựa chọn này được thực hiện do
mục tiêu xác định 5G, trong đó sự khác biệt so với 4G đã được nhấn mạnh hơn
nhiều so với sự tương đồng. Điều này là do người đọc được cho là có một số kiến
thức chung về hệ thống 4G, và câu hỏi về 5G là gì mới trong bối cảnh này, có lẽ
thú vị hơn trong bối cảnh này, so với điều ngược lại (đó là gì? Do đó, sự hiểu biết
về các đặc điểm độc đáo của 5G miền được coi là quan trọng hơn như là điểm khởi
đầu cho nghiên cứu trong tương lai - đặc biệt với giả định rằng các nhà nghiên cứu
đã quen thuộc với 4G. Do đó, các hướng nghiên cứu hiện có khác có liên quan cao
trong bối cảnh mở rộng của 5G đã bị loại khỏi phạm vi. Hai ví dụ sẽ được trình
bày ở đây. Ví dụ đầu tiên là nghiên cứu kinh tế về 4G. Vì 5G được coi là một sự
phát triển của 4G theo nhiều cách, một góc độ có thể có cho nghiên cứu kinh tế về
5G là nghiên cứu nghiên cứu về các khía cạnh kinh tế của 4G. Các vấn đề nghiên
cứu trong đó giả định nền tảng và ban đầu được giả định là tương tự đối với 5G vì
đối với 4G có thể được tiếp tục trực tiếp vào nghiên cứu 5G. Các vấn đề nghiên
cứu trong đó bối cảnh sẽ thay đổi từ 4G thành 5G, ví dụ về mặt công nghệ khác
nhau, có thể được sửa đổi để áp dụng cho nghiên cứu 5G.
Ví dụ thứ hai là vấn đề chung chung của các chuỗi cung ứng Internet, tức là sự
phân phối doanh thu và chi phí không đồng đều. Các nhà cung cấp truy cập sở hữu
cơ sở hạ tầng cần thiết để cung cấp kết nối Internet có chi phí cao hơn nhiều, cả
OPEX và CAPEX, so với các tác nhân Internet khác như nhà cung cấp dịch vụ và
nội dung. Tuy nhiên, các tác nhân sau nhận được tỷ lệ doanh thu trên chi phí cao
hơn nhiều, trong khi họ phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng được cung cấp bởi các chủ thể

60
khác để cung cấp dịch vụ của họ hoặc phân phối nội dung của họ. Các nhà khai
thác mạng di động vừa là nhà cung cấp truy cập vừa là nhà cung cấp dịch vụ
Internet, cung cấp băng thông rộng không dây. Tổng quan về các tác nhân khác
nhau trong hệ sinh thái Internet được thể hiện trong hình 3.1. Câu hỏi, ai sẽ trả tiền
cho Internet? Một số người đã tham gia chương trình nghiên cứu trong vài năm, vì
các khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng là cần thiết để vận hành, mở rộng và cải
thiện Internet trong tương lai. Một ví dụ về đề xuất 3.3 Hạn chế giải pháp để lấp
đầy những gì được gọi là khoảng cách doanh thu, là tích hợp dọc trong chuỗi cung
ứng. Chẳng hạn, Dai và Tang (2009) đã nghiên cứu tích hợp dọc giữa các nhà khai
thác viễn thông và nhà cung cấp dịch vụ, trong khi Maille và cộng sự (2016) đã
nghiên cứu tích hợp dọc giữa các mạng phân phối nội dung và các nhà khai thác
mạng. Liang và Yu (2015) đề cập đến mối quan hệ giữa nhà khai thác mạng di
động và nhà khai thác mạng ảo di động (MVNOs), nơi các nhà khai thác sau không
sở hữu cơ sở hạ tầng, mà thay vào đó là thuê từ các nhà khai thác mạng di động.
Họ mô tả rằng các MVNO có thể giúp các nhà khai thác mạng di động thu hút
nhiều người dùng hơn bằng cách cung cấp các dịch vụ cụ thể. Các nhà khai thác
mạng di động có thể tăng doanh thu của họ bằng cách cho thuê các mạng ảo hóa bị
cô lập cho các MVNO.
Một ví dụ khác về một giải pháp được đề xuất, là trả tiền tiên phong. Một lời giải
thích đơn giản và ngắn gọn về tính tiên phong được trả tiền là khi hai công ty
Internet kết nối mạng của họ và một trong những công ty trả tiền cho công ty kia
để ưu tiên lưu lượng truy cập. Điều này làm dấy lên cuộc tranh luận về tính trung
lập của mạng, tức là nguyên tắc Internet cơ bản rằng tất cả dữ liệu Internet phải
được đối xử bình đẳng, không phân biệt đối xử hoặc tính phí bởi người dùng, nội
dung, trang web, nền tảng, ứng dụng, loại thiết bị đính kèm hoặc phương thức liên
lạc. Cuộc tranh luận này đã rất quan trọng và có khả năng vẫn nằm trong chương

61
trình nghị sự khi 5G được triển khai. Vấn đề trung lập mạng được mô tả thêm bởi
Maille và Tuffin, (2014).

62
Vấn đề tối ưu hóa được chọn để mô tả trong chương này là vấn đề lập kế hoạch
cho nhà khai thác mạng di động trong kỷ nguyên 5G. Vì người dùng cuối sẽ mong
đợi nhiều hơn từ các kết nối mạng của họ trong tương lai, áp lực đối với nhà điều
hành mạng di động để cung cấp kết nối hoàn hảo để đáp ứng nhu cầu của người
dùng có thể sẽ tăng lên. Để có quyền truy cập vào một kết nối không đủ dài, bởi vì
kết nối cũng phải đảm bảo độ trễ thấp và độ tin cậy cao, và do đó cung cấp cho
người dùng chất lượng trải nghiệm cao (QoE). QoE đã trở nên quan trọng hơn
trong vài năm qua và dự kiến sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá
trải nghiệm 5G. Do đó, mục tiêu tổng thể của phần này của luận án là mở rộng một
mô hình đơn giản cho lưu lượng mạng và phân bổ tài nguyên để tính đến QoE
nhận thức của các dịch vụ được cung cấp. Trong vấn đề được trình bày ở đây, các
phần tử luồng là các đơn vị dịch vụ và tài nguyên là các kết nối mạng với dung
lượng hạn chế.
Mô hình danh mục đầu tư cho các dịch vụ khác biệt từ đầu đến cuối được trình bày
bởi Gaivoronski et al. (2016) đã được sử dụng làm điểm khởi đầu cho mô hình
trong luận án này. Họ nghiên cứu lựa chọn danh mục dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi
nhuận cho nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Danh mục dịch vụ, tức là tập hợp
tất cả các quyết định, bao gồm các đơn vị dịch vụ được cung cấp cho từng phân
khúc thị trường, giá của từng dịch vụ cho từng phân khúc thị trường, chất lượng
dịch vụ được cung cấp (QoS) và liệu có bổ sung dung lượng mạng không. Trong
mô hình được mô tả trong luận án này, doanh thu, chi phí mạng, chi phí cơ hội
không đáp ứng nhu cầu và tùy chọn mở rộng dung lượng mạng được xử lý theo
cách tương tự. Tuy nhiên, trong khi Gaivoronski et al. (2016) tập trung vào hai
dịch vụ kích thước và phân khúc thị trường, kết nối mạng được thêm vào như một
chiều thứ ba trong vấn đề . Quyết định chính là lựa chọn các kết nối để đưa vào
mạng, thay vì chính dịch vụ cung cấp. Cuối cùng, để làm cho bối cảnh 5G rõ ràng
hơn, tham số chất lượng trong mô hình được thay đổi từ QoS sang QoE. Chúng ta
cũng đã giới thiệu một chi phí cơ hội bổ sung xảy ra nếu QoE nhận thức là không
đủ. Mặc dù bối cảnh của vấn đề của chúng ta là liên quan đến 5G, đặc biệt là tập
trung vào QoE, nhưng model này cũng có thể được sử dụng bởi một nhà khai thác
4G hiện nay. Nói cách khác, không có đặc điểm nào trong vấn đề lập kế hoạch
được mô tả ở đây không áp dụng cho 4G, nhưng mô hình này được dự định sẽ áp
dụng cho hậu cần mạng 5G trong tương lai.
3.4 Mô tả sự cố
Vấn đề quy hoạch mạng mà chúng ta muốn giải quyết là nhà điều hành mạng di
động chọn danh mục kết nối để cung cấp cho người dùng, để tối đa hóa lợi nhuận

63
của chính họ. Người dùng thuộc các phân khúc thị trường khác nhau và họ yêu cầu
các dịch vụ khác nhau. Nhà khai thác mạng di động đầu tư vào các kết nối khác
nhau, được xác định bởi các năng lực khác nhau, được sử dụng để phục vụ nhu cầu
dịch vụ từ người dùng. Doanh thu được tạo khi dịch vụ được cung cấp qua các kết
nối. Ngoài ra còn có một số chi phí liên quan. Chúng ta giả định rằng có cả chi phí
cố định và chi phí biến đổi để cung cấp kết nối. Mạng được cho là có tổng công
suất dành riêng cho việc cung cấp dịch vụ, nhưng nhà điều hành có thể chọn đầu tư
vào công suất bổ sung nếu cần thiết. Có cả chi phí cố định và biến đổi để mở rộng
mạng. Ngoài ra còn có một chi phí vận hành cố định cho mạng di động và chi phí
biến đổi để duy trì một đơn vị công suất. Cuối cùng, có hai chi phí cơ hội khác
nhau. Đầu tiên là chi phí cơ hội của việc không đáp ứng nhu cầu, tức là không thể
cung cấp dịch vụ được yêu cầu cho người dùng. Thứ hai là chi phí cơ hội của việc
cung cấp kết nối có chất lượng quá kém để đáp ứng QoE theo yêu cầu của người
dùng. Những điều khoản này thể hiện rủi ro trong vấn đề, vì không đáp ứng nhu
cầu hoặc cung cấp chất lượng quá kém sẽ dẫn đến sự không hài lòng của khách
hàng. Nếu các vấn đề về năng lực hoặc chất lượng dường như vẫn còn dai dẳng, sự
khuấy động sẽ phát sinh, tức là mất khách hàng cho các đối thủ cạnh tranh. Đây là
một rủi ro mà nhà khai thác mạng di động phải giải quyết, vì churn làm giảm
doanh thu của nó,

3.5 Công thức toán học của mô hình và do đó lợi nhuận.


Do đó, điều quan trọng là bao gồm các chi phí cơ hội được đề cập trong mô hình,
như một hình phạt kinh tế. Trong thực tế, một rủi ro đáng kể khác là chính nhu cầu.
Để đơn giản trong mô hình, nhu cầu được thể hiện dưới dạng hàm tuyến tính của
giá. Logic hơn nữa trong vấn đề là mỗi kết nối có một dung lượng nhất định và
tổng dung lượng cho tất cả các kết nối mà nhà khai thác mạng chọn cung cấp có
thể không vượt quá tổng dung lượng trong mạng. Chúng ta giả định rằng QoE thay

64
đổi theo dung lượng khả dụng trong một kết nối nhất định và mỗi phân khúc thị
trường của người dùng có các yêu cầu cố định cho QoE của mỗi dịch vụ.
3.6 Công thức toán học của mô hình

Trong phần này, mô hình toán học đã phát triển cho bài toán quy hoạch được mô tả
được trình bày. Chỉ số và bộ iI là chỉ số cho các dịch vụ. jJ là chỉ số cho các kết nối
có sẵn. kK là chỉ số cho các phân khúc thị trường. Thông số Wj là kết nối dung
lượng tối đa j có thể cung cấp. là chi phí cố định liên quan đến việc cung cấp kết
nối j. là chi phí biến đổi để cung cấp một đơn vị kết nối j. cdik là chi phí cơ hội của
việc không đáp ứng một đơn vị nhu cầu từ phân khúc thị trường k cho dịch vụ i.
cqik là chi phí cơ hội của việc cung cấp QoE một đơn vị dưới qijk khi dịch vụ i
được phân phối tới phân khúc thị trường k. cf là chi phí cố định cần thiết để mở
rộng công suất. ce là chi phí biến đổi để mở rộng công suất thêm một đơn vị. cm là
chi phí biến đổi để duy trì một đơn vị công suất. cb là chi phí vận hành cơ bản của
nhà mạng di động. W0 là dung lượng mạng hiện có dành riêng để phục vụ nhu cầu
từ tất cả các phân khúc thị trường. W là dung lượng mạng bổ sung mà nhà cung
cấp mạng di động có thể cài đặt. Do đó, tổng dung lượng mạng là W0 + W. qik là
phân khúc thị trường QoE k yêu cầu từ dịch vụ i. Qik là QoE thấp nhất có thể trong
đó phân khúc thị trường k vẫn sẽ yêu cầu dịch vụ i. Biến pik là giá tính trên mỗi
đơn vị dịch vụ ta cung cấp cho phân khúc thị trường k. xijk biểu thị số lượng đơn
vị dịch vụ ta cung cấp cho phân khúc thị trường k qua kết nối j. zj là biến nhị phân
bằng 1 nếu kết nối j được bao gồm trong danh mục kết nối của nhà khai thác mạng
di động và 0 nếu không. y là một biến nhị phân bằng 1 nếu quyết định cài đặt dung
lượng được thực hiện và 0 nếu không. Chức năng QoE, qijk, thay đổi theo dung
lượng khả dụng trên liên kết đã cho:
cho và là một hằng số khác nhau cho cả dịch vụ và mọi phân khúc thị trường. Giá
trị càng lớn (càng gần 1) thì yêu cầu QoE đối với dịch vụ i từ phân khúc thị trường

65
càng cao. Giả định rằng một số kết nối có thể được sử dụng để cung cấp dịch vụ
cho phân khúc thị trường, nếu cần thiết. Chất lượng trung bình của mỗi dịch vụ
được cung cấp cho từng phân khúc thị trường của khách hàng phải được tính toán
trên các kết nối khác nhau. Cách công bằng nhất để ước tính điều này là tính toán
chất lượng trung bình bằng cách đánh giá chất lượng của từng kết nối với phần
dịch vụ được gửi qua mỗi kết nối:  . Nhu cầu dik được coi là một hàm tuyến tính
của giá pik: dik = d0ik + βik (p0ik - pik), trong đó các tham số d0ik và p0ik lần
lượt là các giá trị tham chiếu cho nhu cầu và giá cả, và βik là một tham số độ nhạy.
Công thức toán học Tối đa hóa lợi nhuận của nhà cung cấp dịch vụ chứa các phần
sau: Thuật ngữ đầu tiên là doanh thu trừ chi phí biến đổi cho mỗi đơn vị dịch vụ
được cung cấp, kết quả ròng là ký quỹ. Sau đó, thuật ngữ thứ hai là chi phí cố định
cho các kết nối mà nhà khai thác cung cấp, tiếp theo là chi phí cơ hội cung cấp kết
nối quá kém chất lượng và chi phí cơ hội không đáp ứng nhu cầu. Nhiệm kỳ thứ
năm là chi phí mở rộng mạng nếu quyết định mở rộng được thực hiện, nhiệm kỳ
thứ sáu là chi phí bảo trì và nhiệm kỳ thứ bảy là chi phí vận hành cơ bản cố
định.Các hạn chế cho thấy tổng dung lượng cho tất cả các kết nối có trong danh
mục kết nối không được vượt quá tổng dung lượng có thể có của mạng dành riêng
cho việc cung cấp dịch vụ. Hạn chế là một ràng buộc kỹ thuật kết nối các biến liên
tục và nhị phân. M biểu thị một số lượng lớn, tốt nhất nên được chọn theo khu vực
của các giải pháp khả thi, để hạn chế chặt chẽ. Cuối cùng, có các ràng buộc không
âm cho các biến quyết định pik và xijk, và các ràng buộc nhị phân cho các biến
quyết định khác, zj và y.

3.7 Giải thích về chức năng chất lượng


Trong mô hình, người ta cho rằng QoE được người dùng cảm nhận, qijk, phụ
thuộc vào dung lượng khả dụng trên kết nối j. Để giải thích thêm, chúng ta nên
xem xét một trường hợp đơn giản hóa chỉ với một kết nối, một dịch vụ và một

66
người dùng. Kết nối khả dụng có tổng dung lượng W, bằng với số lượng đơn vị
dịch vụ tối đa có thể được gửi qua kết nối đồng thời. Số lượng đơn vị dịch vụ được
gửi qua
kết nối được ký hiệu là x. Người dùng yêu cầu dịch vụ được cung cấp với chất
lượng q. Đây là trường hợp miễn là tổng số đơn vị dịch vụ được cung cấp nhỏ hơn
hoặc bằng (1 − α) W. Tham số α lấy giá trị từ 0 đến 1 và dành riêng cho dịch vụ và
người dùng. Càng lớn (càng gần 1), chất lượng cảm nhận sẽ càng giảm khi càng
nhiều dung lượng của kết nối được sử dụng. Khi số lượng đơn vị dịch vụ (x) được
cung cấp qua kết nối vượt quá (1− α) W, chất lượng sẽ giảm tuyến tính cho đến khi
đạt được công suất tối đa. Sau đó, chất lượng bằng q, là giá trị QoE thấp nhất khi
vẫn còn   nhu cầu. Do đó, QoE phụ thuộc vào tất cả những điều này. Để xác định
dung lượng khả dụng trên kết nối j, chúng ta phải tóm tắt tất cả các dịch vụ ta đã
cung cấp cho tất cả các phân khúc thị trường k qua kết nối j. Chúng ta tiếp tục giả
định rằng các tham số q, q và α là cụ thể cho cả hai dịch vụ i và từng phân khúc thị
trường k, và do đó các ký hiệu của chúng trong mô hình là qik, qik và αik.

3.8 Tương đồng với Tối ưu hóa danh mục đầu tư


Người đọc cảm nhận sẽ nhận thấy sự tương đồng giữa các vấn đề tối ưu hóa danh
mục đầu tư và mô hình được mô tả trong chương này. Lý thuyết danh mục đầu tư
hiện đại (MPT) hoặc phân tích phương sai trung bình ban đầu được mô tả bởi nhà
kinh tế học người Mỹ Harry Markowitz vào năm 1952. Mục tiêu của MPT là tối đa
hóa lợi nhuận kỳ vọng của danh mục tài sản, với mức độ rủi ro nhất định: Tối đa
hóa s.t.   Ở đây, E (Rp) là lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư, xi là phần ngân
sách đầu tư vào tài sản i và E (Ri) là lợi nhuận kỳ vọng của tài sản i. σ2 (x) là
phương sai của danh mục đầu tư và ω là giới hạn trên cho rủi ro mà phương sai của
danh mục đầu tư không được vượt quá. Phương sai lợi nhuận của danh mục đầu tư
được tính theo cách sau:

67
trong đó σi2 là phương sai của lợi nhuận của tài sản i và ρij là hệ số tương quan
giữa lợi nhuận của tài sản i và j. Hơn nữa, như được hiển thị bởi ràng buộc thứ hai,
tổng của tất cả các trọng số tài sản phải bằng 1. Nếu không được phép giữ các vị trí
ngắn trong tài sản, một ràng buộc không phủ định được thêm vào cho tất cả các
biến xi. Do ràng buộc phương sai phi tuyến tính, việc giải quyết nghịch đảo của
vấn đề là khả thi hơn về mặt tính toán, tức là tìm danh mục đầu tư giảm thiểu rủi ro
cho mức lợi nhuận thấp hơn. MPT được mô tả thêm bởi Zenios (2008).

3.9 Đề cương phân tích sâu hơn


Có một số tính năng phổ biến của MPT và mô hình cho vấn đề lập kế hoạch được
mô tả trong chương này. Điểm tương đồng đầu tiên là mô hình MPT chọn một
phần ngân sách để đầu tư vào các tài sản khác nhau có trong danh mục tài sản và
trong vấn đề lập kế hoạch, nhà điều hành mạng chọn các kết nối có sẵn trong danh
mục kết nối. Trong mô hình MPT, nhà đầu tư tìm cách tối đa hóa lợi nhuận dự kiến
của tài sản của mình, trong khi nhà điều hành mạng tối đa hóa lợi nhuận dự kiến.
Hơn nữa, cả hai vấn đề giải quyết vấn đề rủi ro. Trong khi mô hình MPT có một
ràng buộc đối với phương sai của danh mục đầu tư, sự không chắc chắn được
nhúng vào hàm mục tiêu trong bài toán quy hoạch. Nhu cầu được coi là một chức
năng của giá cả, và nếu nhu cầu không được đáp ứng, chi phí cơ hội sẽ tích lũy.
Rủi ro khác trong vấn đề lập kế hoạch là nhà điều hành cung cấp chất lượng quá
kém trên kết nối của họ và nhu cầu QoE của người đăng ký không được đáp ứng.
Nếu điều này xảy ra, hàm lợi nhuận bị phạt bởi chi phí cơ hội khác. Cuối cùng, có
nguồn lực hạn chế trong cả hai vấn đề. Trọng lượng của tài sản không thể vượt quá
1 trong MPT và trong bài toán quy hoạch, dung lượng của tất cả các kết nối được
chọn để đưa vào không thể vượt quá tổng dung lượng mạng. Hơn nữa, số lượng
đơn vị dịch vụ được gửi qua mỗi kết nối không thể vượt quá khả năng của kết nối
đã cho. 4.6 Đề cương phân tích sâu hơn Để tiếp tục công việc với mô hình, bước

68
tiếp theo sẽ là thực hiện phân tích số bằng cách triển khai mô hình trong phần mềm
thương mại. Ví dụ, mô hình có thể được triển khai trong MATLAB và được giải
quyết bằng fmincon của bộ giải lập trình phi tuyến trong Tối ưu hóa ToolboxTM.
Vì bộ giải này giảm thiểu hàm mục tiêu, nên hàm mục tiêu đã xác định (4.1) nên
được nhân với -1. Hơn nữa, các chức năng được xác định bên ngoài mô hình, tức
là các chức năng cho chất lượng và nhu cầu, sẽ phải được viết lại để được đưa vào
mô hình trước khi thực hiện.
Mô hình rõ ràng sẽ hữu ích nhất nếu dữ liệu thực nghiệm hoặc lịch sử có thể được
lấy và sử dụng làm tham số. Tuy nhiên, vì những dữ liệu này có thể khó có được,
người ta vẫn có thể hiểu rõ hơn về cả hai đặc điểm của cả vấn đề và mô hình bằng
cách phân tích mô hình với dữ liệu mẫu. Hơn nữa, một tổng quan tương tự có thể
được thực hiện cho các dịch vụ khác nhau và nhu cầu QoE liên quan cho dịch vụ
cụ thể, cho từng phân khúc thị trường. Nếu các tham số được thực hiện một cách
có hệ thống và kỹ lưỡng, kết quả từ mô hình sẽ trở nên hợp lệ hơn so với nếu dữ
liệu mẫu được chọn theo cách ngẫu nhiên hơn. Một số ví dụ về các vấn đề có thể
được điều tra:

- Sự lựa chọn của các kết nối khác nhau:

Với khả năng và chi phí nào sẽ là tối ưu với một số kết nối có dung lượng ít hơn,
so với ít kết nối có dung lượng lớn hơn? Phân khúc thị trường Khả năng và dịch vụ
chung sẵn sàng trả nhu cầu QoE Học sinh / trẻ Khả năng thấp, Phương tiện truyền
thông xã hội, Trung bình đến cao người lớn sẵn sàng truyền phát đa phương tiện
thấp, giải trí nói chung Người lớn tuổi Khả năng cao, Băng thông rộng đơn giản
thấp đến trung bình dịch vụ sẵn sàng trung bình khả năng kinh doanh và hội nghị
truyền hình cao sẵn sàng phân khúc cao

69
- Điều tra quyết định đầu tư bị cô lập: nhu cầu nên lớn đến mức nào trước khi có
thể mở rộng công suất mạng? Khi chi phí mở rộng cao đến mức không thể mở
rộng, ngay cả khi nhu cầu là đủ?

- Cần bao nhiêu công suất để tránh chi phí cơ hội? Những giá trị nào của chi phí cơ
hội là đáng giá hay không xứng đáng với rủi ro mà chúng có thể xảy ra?

Với việc ấn định chi phí trong các phạm vi khác nhau, sự đánh đổi tối ưu giữa việc
tăng giá hay tăng nhu cầu bằng cách hạ giá là gì?

- Với hành vi ngẫu nhiên hơn của nhu cầu, hơn là mối quan hệ tuyến tính với biến
số giá: Giải pháp tối ưu (lợi nhuận) thay đổi bao nhiêu nếu nhu cầu thay đổi trong
hoặc ngoài một khoảng nhất định?
- Độ nhạy chung khác và những gì nếu khác phân tích. Đây chỉ đơn giản là một
vài gợi ý về những khó khăn khác nhau, vì có nhiều khía cạnh thú vị khác có thể
được phân tích thêm. Danh sách trên cho thấy phạm vi rộng các khả năng về cách
hành vi của mô hình có thể được khám phá.

3.10 Thiếu sót


Thiếu sót đầu tiên là mô hình chưa được thực hiện và phân tích bằng số. Bởi vì
điều này, thật khó để đánh giá mô hình của Good tốt như thế nào, hoặc hiệu suất
tính toán của mô hình. Một thiếu sót khác trong mô hình đề xuất là QoE được đơn
giản hóa để phụ thuộc vào dung lượng khả dụng của các kết nối. Đây là một mâu
thuẫn rõ ràng với cách QoE được định nghĩa trong tài liệu như được mô tả trong
phần 2.2.2, vì QoE rất chủ quan và có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau,
bao gồm độ trễ và băng thông. Tuy nhiên, với mục đích của mô hình này, nó đã
được đơn giản hóa. Đối với bất kỳ mô hình nào tìm cách tối đa hóa hiệu suất về
chất lượng, một số số liệu sẽ cho kết quả tốt hơn, nhưng tại một số điểm sẽ có quá
nhiều số liệu để có được thời gian chạy có thể quản lý khi vấn đề được giải quyết.

70
Sự đánh đổi này nên được lựa chọn cẩn thận. Nếu việc xem xét QoE quá phức tạp
cho một vấn đề, thì QoS là một lựa chọn tốt, vì nó cụ thể hơn và ít chủ quan hơn.
4.7 Thiếu sót Như đã đề cập, việc lập kế hoạch mạng với QoS là thước đo chất
lượng được thể hiện bởi Gaivoronski et al. (2016).

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN

4.1 Kết luận


Mặc dù 5G chưa được chuẩn hóa nhưng công việc trên bộ tiêu chuẩn 5G đầu tiên
dự kiến sẽ bắt đầu trong năm nay. Do đó, trọng tâm chính của nghiên cứu 5G cho
đến nay là tìm hiểu nhu cầu liên lạc nào mà thế hệ mạng di động tiếp theo phải đáp
ứng, yêu cầu là gì và công nghệ nào có thể đảm bảo đáp ứng yêu cầu. Các trường
hợp sử dụng và yêu cầu là rõ ràng, điều đó có nghĩa là trọng tâm hiện tại là các
công nghệ, vì chúng chưa được quyết định chính thức. Một số trường hợp sử dụng
mới làm cho 5G khác với 4G là giao tiếp giữa máy với Internet bao gồm Internet of
Things, sử dụng mở rộng công nghệ thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường, cũng như
sự cần thiết phải cải thiện đáng kể công nghệ băng rộng di động, để cung cấp thông
tin di động thực sự đáng tin cậy với độ trễ cực thấp.

Ngoài các yêu cầu chung về tốc độ dữ liệu cao hơn, độ trễ đầu cuối giảm, khối
lượng dữ liệu di động cao hơn trên mỗi khu vực và có thể hỗ trợ số lượng thiết bị
được kết nối cao hơn, nó cũng được cho là tập trung lớn hơn vào chất lượng tổng
thể của các kết nối. Yêu cầu cuối cùng cho 5G là cung cấp quản lý Chất lượng dịch
vụ thông minh. Ví dụ về các biện pháp khác nhau được đưa vào đánh giá QoS là
độ trễ, độ giật, băng thông và độ tin cậy. Chúng tôi đề xuất rằng trong 5G, các dịch
vụ khác nhau có thể chạy trên các kết nối khác nhau cùng một lúc. Kết nối khả
dụng tốt nhất cho một dịch vụ nhất định có thể được tìm thấy bằng cách đánh giá
dữ liệu QoS có sẵn theo các yêu cầu và hạn chế QoS đối với chi phí cá nhân. Chất

71
lượng trải nghiệm có thể cũng quan trọng như QoS khi chất lượng của kết nối được
đánh giá, vì điều này dựa trên nhận thức chủ quan của người dùng.

72
Đánh giá tài liệu tiếp tục cho thấy rằng các công nghệ sau đây được dự kiến sẽ đặc
biệt quan trọng để cho phép 5G: mạng không đồng nhất, giao tiếp giữa thiết bị với
thiết bị mạng được xác định bằng phần mềm, ảo hóa chức năng mạng, radio nhận
thức, truyền qua các dải tần số milimet, các kỹ thuật đa đầu ra đa đầu vào tiên tiến
và radio được xác định bằng phần mềm. Các khái niệm đám mây như SDN và
NFV dự kiến sẽ giảm chi phí cho các nhà khai thác mạng di động, vì chúng cho
phép chia sẻ cơ sở hạ tầng và tài nguyên phổ vô tuyến. Truyền thông D2D cũng sẽ
đóng góp như cơ sở hạ tầng chi phí thấp. Hơn nữa, dự đoán rằng chi phí tế bào sẽ
giảm trong các mạng không đồng nhất 5G. Khả năng giảm chi phí rất quan trọng,
vì các nhà khai thác mạng di động Chi phí đã tăng lên trong những năm qua. Mặc
dù điều quan tâm là giảm thiểu cả chi phí vốn và hoạt động, điều quan trọng hơn là
phải đạt được sự cải thiện năng lực cần thiết trong các mạng. Áp lực chi phí ngày
càng tăng cũng được giải quyết trong tài liệu tập trung vào viễn cảnh xanh của 5G.
Vì cả mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải CO2 có liên quan cũng phù hợp
với các khía cạnh kinh tế của 5G, nên cần chú ý nghiên cứu sâu hơn về các khía
cạnh xanh. Một phát hiện quan trọng là, thật không may, chưa được thực hiện
nhiều nghiên cứu 5G dành trọn cho các khía cạnh kinh tế. Điều này có ý nghĩa, vì
điều tự nhiên là công nghệ là trọng tâm chính ngay trước khi tiêu chuẩn hóa bắt
đầu. Tuy nhiên, đánh giá của nghiên cứu kinh tế 5G cho thấy một số công nghệ
được đề xuất dường như đã mang lại lợi nhuận. Tehrani et al. (2014) đã phát hiện
ra rằng các nhà khai thác mạng di động sẽ có thể kiếm được lợi nhuận từ giao tiếp
giữa thiết bị với thiết bị, với điều kiện thiết lập ban đầu đi qua trạm gốc, do đó lưu
lượng truy cập liên quan có thể được kiểm soát và tính phí. Nikolikj và Janevski
(2015) đưa ra đánh giá hiệu quả chi phí cho các mạng không đồng nhất 5G, nơi họ
nhận thấy rằng các hệ thống sóng 5 mm có thể đảm bảo cho các nhà khai thác lợi
nhuận vững chắc, với tỷ suất lợi nhuận hơn 50%. Điều này hứa hẹn liên quan đến
sự cần thiết của 5G để bền vững về kinh tế.
Bối cảnh kinh doanh của 5G sẽ bao gồm cả dịch vụ mới và cũ. Cơ hội kinh doanh
mới phát sinh từ các ứng dụng được kích hoạt lần đầu tiên khi độ trễ mạng được
giảm thiểu và độ tin cậy được tăng lên. Điều này bao gồm nhiệm vụ truyền thông
quan trọng, một số lượng lớn các thiết bị được kết nối phát sinh từ Internet of
Things và huy động các ngành công nghiệp khác nhau. Ngành viễn thông phải
quyết định cách kiếm tiền từ trải nghiệm người dùng 5G. Hiệu suất mạng được cải
thiện sẽ cho phép tạo ra hầu hết giá trị trong 5G. Các loại khách hàng và đối tác
mới cũng có thể mô tả bối cảnh kinh doanh của 5G. Như một ví dụ về nghiên cứu
kinh tế tiếp theo của 5G, chúng tôi đã xây dựng một vấn đề lập kế hoạch cho một
nhà khai thác mạng di động. Dựa trên cách tài liệu được đánh giá coi khía cạnh

73
chất lượng của trải nghiệm kết nối 5G là một yếu tố quan trọng đối với người đăng
ký, chúng tôi chỉ ra cách thức này có thể được đưa vào mô hình tối ưu hóa cho quy
hoạch mạng. Trong mô hình lý thuyết danh mục đầu tư kết quả, một nhà điều hành
mạng di động tìm cách tối đa hóa tổng lợi nhuận của họ, bằng cách chọn một danh
mục tối ưu các kết nối có sẵn để cung cấp cho khách hàng của mình, để cung cấp
các kết nối cần thiết cho lưu lượng mạng liên quan đến nhu cầu dịch vụ của khách
hàng, trong khi cũng đáp ứng nhu cầu chất lượng của họ. Giá tối ưu để tính phí cho
từng dịch vụ cung cấp cho từng phân khúc thị trường của khách hàng cũng được
quyết định, ngoài quyết định liệu nhà mạng có nên đầu tư thêm dung lượng mạng
hay không. 5.2 Khuyến nghị cho nghiên cứu trong tương lai về Kinh tế 5G   Có
một số thiếu sót trong luận án này. Đầu tiên, tài liệu được đánh giá chỉ giới hạn
trong nghiên cứu về 5G. Vì 5G trước hết sẽ là một sự phát triển của 4G, thay vì
một hệ thống liên lạc hoàn toàn mới, nhiều vấn đề kinh tế của 4G cũng có liên
quan đến 5G, nhưng chưa phải tất cả chúng đều được đề cập trong tài liệu 5G. Vì
một trong những mục tiêu chính là giải thích 5G sẽ khác với 4G như thế nào,
nghiên cứu kinh tế về mạng 4G phải được đưa ra khỏi phạm vi của luận án này.
Sau khi khám phá ra lĩnh vực kinh tế 5G hiện đang thu hẹp như thế nào, nên tiếp
tục nghiên cứu kinh tế về 4G thành 5G, thay vì chỉ sử dụng các ấn phẩm liên quan
đến công nghệ 5G làm điểm khởi đầu. Việc 5G vẫn còn ở giai đoạn đầu là một
thiếu sót rõ ràng cho nghiên cứu kinh tế. Điều này có thể thay đổi một khi bộ tiêu
chuẩn đầu tiên được phát hành. Một thiếu sót khác là chúng tôi không thể thực hiện
phân tích bằng số của mô hình lập kế hoạch. Điều này nên được thực hiện bởi một
người có năng lực giải quyết các vấn đề tối ưu hóa lớn hơn so với tác giả của luận
án này.
4.2 Khuyến về kinh tế
Như đã mô tả ở trên, sẽ có một đánh giá kinh tế kỹ lưỡng hơn nếu nghiên cứu về
các khía cạnh kinh tế của 4G được đối chiếu với những gì được biết về 5G cho đến
nay. Trước khi các công nghệ được đưa vào 5G cuối cùng được chọn, phân tích
kinh tế kỹ thuật theo cách tương tự như thể hiện của Nikolikj và Janevski (2015)
có thể được thực hiện cho các ứng cử viên công nghệ đầy triển vọng, để đánh giá
lợi nhuận của các công nghệ trước khi chúng được chọn. Tương tự, sẽ rất quan
trọng để đánh giá chi phí của các công nghệ được chọn cùng nhau sau khi bộ tiêu
chuẩn 5G đầu tiên được phát hành, để hiểu quy mô của tổng chi phí trong tương lai
liên quan đến phát triển mạng và lên kế hoạch chi phí cho các chi phí này trong

74
tương lai. Khi 5G được triển khai thương mại, dữ liệu thực nghiệm sẽ có sẵn, điều
đó có nghĩa là nghiên cứu kinh tế hơn nữa có thể dựa trên những dữ liệu này. Sau
đó, cũng có thể so sánh chi phí dự đoán và chi phí thực tế, để kiểm tra tính chính
xác của các ước tính cũ. Nghiên cứu này cũng có thể được so sánh với chi phí của
mạng 4G, để nghiên cứu xem liệu có được tăng về mặt giảm chi phí hay không. Về
khía cạnh doanh thu, điều quan trọng là phải hiểu hiệu suất mạng tăng lên ảnh
hưởng đến mức độ sẵn sàng chi trả của người dùng. Kết nối 5G đáng giá bao nhiêu
cho người dùng và trải nghiệm người dùng mới nên kiếm tiền như thế nào? Các
nhà khai thác mạng di động nên khám phá câu hỏi này, để phát triển một chiến
lược giá mà người dùng sẽ chấp nhận. Khía cạnh kinh tế xã hội của kết nối không
dây cũng có thể là đối tượng để nghiên cứu thêm. Một ví dụ về câu hỏi nghiên cứu
là giá trị 5G sẽ có cho sự phát triển kinh tế xã hội ở những nơi khác nhau trên thế
giới. Về lý thuyết danh mục đầu tư cho viễn thông, phân tích số của mô hình được
trình bày trong chương 4 có thể được thực hiện. Một đề xuất khác để áp dụng lý
thuyết danh mục đầu tư cho 5G, là Quản lý QoS thông minh được đề xuất, trong đó
kết nối không dây tốt nhất cho một dịch vụ nhất định được chọn dựa trên dữ liệu
QoS có sẵn và các hạn chế đối với chi phí cá nhân.

5.2 Tài liệu tham khảo

3GPP, 2017. Phát hành 15. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2017.

URL http://www.3gpp.org/release-15

Agyapong, P., Iwamura, M., Staehle, D., Kiess, W., Stewebbour, A., 2014. Cân
nhắc thiết kế cho kiến trúc mạng 5g. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (11), 65
bóng75.

Bangerter, B., Talwar, S., Arefi, R., Stewart, K., 2014. Mạng và thiết bị cho kỷ
nguyên 5g. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (2), 90 mộc96.

75
Bhushan, N., Li, J., Malladi, D., Gilmore, R., Brenner, D., Damnjanovic, A.,
Sukhavasi, R., Patel, C., Geirhofer, S., 2014. Mật độ mạng: chủ đề chính cho sự
phát triển không dây thành 5g. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (2), 82 Từ89.

Carlton, A., tháng 2 năm 2017. Kiểm tra thực tế 5g: 3gpp về tiêu chuẩn hóa ở đâu?
Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2017.

URL http://www.networkworld.com/article/3174138/ di động không dây / 5g-thực


tế-kiểm tra-nơi-là-3gpp-on- \ standardization.html

Chavez-Santiago, R., Szydelko, M., Kliks, A., Foukalas, F., Haddad, Y., Nolan,
KE, ọ Kelly, MY, Masonta, MT, Balasingham, I., 2015. 5g: The sự hội tụ của
truyền thông không dây. Truyền thông cá nhân không dây 83 (3), 1617 cường1642.

Chen, S., Zhao, J., 2014. Các yêu cầu, thách thức và công nghệ cho 5g viễn thông
di động mặt đất. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (5), 36 Hàng43.

Dai, R., Tang, S.-l., 2009. Phân tích về tích hợp dọc của các nhà khai thác viễn
thông. Hội nghị quốc tế về quản lý thương mại điện tử và chính phủ điện tử của
ICMECG.

Demestichas, P., Georgakopoulos, A., Karvounas, D., Tsagkaris, K., Stavroulaki,


V., Lu, J., Xiong, C., Yao, J., 2013. 5g trên đường chân trời mạng truy cập vô
tuyến. Tạp chí công nghệ IEEE Vehicular 8 (3), 47 Hang53.

Denazis, S., Hadi Salim, J., Meyer, D., Koufopavlou, O., 2015. Mạng được định
nghĩa bằng phần mềm (sdn): Các lớp và thuật ngữ kiến trúc.

Gaivoronski, A., Nesse, P., Østerbo, O., Lønsethagen, H., 2016. Kích thước cân
bằng rủi ro và giá cả của các dịch vụ khác biệt từ đầu đến cuối. Tạp chí nghiên cứu
hoạt động châu Âu 254 (2), 644 Từ655. Gohil, A., Modi, H., Patel, S. K., 2013. 5g

76
công nghệ truyền thông di động: Một khảo sát. Hội nghị quốc tế về hệ thống thông
minh và xử lý tín hiệu, 288 21292. Hong, X., Wang, J., Wang, C.-X., Shi, J., 2014.
Đài phát thanh nhận thức trong 5g: Một viễn cảnh về sự đánh đổi hiệu quả quang
phổ năng lượng. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (7), 46 con53. Hossain, S., 2013.
5g hệ thống truyền thông không dây. Tạp chí Nghiên cứu Kỹ thuật Hoa Kỳ 02
(10), 344 Chân353. Janevski, T., 2009. Khái niệm điện thoại di động 5g. Viện Kỹ
sư Điện và Điện tử, 1 Đài2. Javaid, M. A., 2013. 5g công nghệ: Sự thay đổi cơ bản
trong triết lý mạng di động. Tạp chí điện tử SSRN. Li, Q. C., Niu, H.,
Papathanassiou, A. T., Wu, G., 2014. Dung lượng mạng 5g: Các yếu tố và công
nghệ chính. Tạp chí công nghệ IEEE Vehicular 9 (1), 71 trộm78. Liang, C., Yu, F.
R., 2015. Ảo hóa mạng không dây: Một khảo sát, một số vấn đề nghiên cứu và
thách thức. Hướng dẫn khảo sát truyền thông của IEEE 17 (1), 358 sắt 380. Lucas,
E., tháng 2 năm 2017. Ở phía nam Hàn Quốc, cuộc đua đang diễn ra cho olympics
5g vào năm tới. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017. URL https:
//phys.org/news/2017-02-south-korea-olympics-5g \ -year.html Maille, P., Simon,
G., Tuffin, B., 2016. Tích hợp dọc của cdn và nhà điều hành mạng: Mô hình và
phân tích. Linh vật IEEE. Maille, P., Tuffin, B., 2014. Kinh tế mạng viễn thông:
Từ lý thuyết đến các ứng dụng. Nhà xuất bản Đại học Cambridge, Cambridge,
Vương quốc Anh. Marek, S., tháng 11 năm 2016. Koreas kt nói rằng nó sẽ ra mắt
5g vào năm 2019 sẽ verizon theo sau? Được sắp xếp lại vào ngày 3 tháng 5 năm
2017. URL https://www.sdxcentral.com/articles/news/ koreas-kt-say-will-launch-
5g-2019-will-verizon-follow / 2016/11 / NGMN, 2014. Liên minh Ngmn: 5g giấy
trắng - phiên bản điều hành.
Nikolikj, V., Janevski, T., 2015. Đánh giá hiệu quả chi phí của các hệ thống 5g với
chia sẻ tài nguyên vô tuyến hợp tác. Tạp chí Telfor 7 (2), 68 bóng74. Nokia, 2014.
Giấy trắng: 5g trường hợp sử dụng và yêu cầu.   Nokia, 2016. Sách trắng: 5g cho
nhiệm vụ truyền thông quan trọng: Đạt được độ linh hoạt tối đa và độ trễ bằng

77
không ảo. Olsson, M., Cavdar, C., Frenger, P., Tombaz, S., Jantti, R., 2013.
5green: Hướng tới mạng di động 5g xanh. WiMob 2013, Hội nghị quốc tế về mạng
và truyền thông điện toán di động và điện toán di động lần thứ 9: Hội thảo quốc tế
GROWN về mạng không dây được tối ưu hóa xanh, 1 đùa5. Osseiran, A.,
Boccardi, F., Braun, V., Kusume, K., Marsch, P., Maternia, M., Queseth, O.,
Schellmann, M., Schotten, H., Taoka, H. e . a., 2014. Kịch bản cho 5g thông tin di
động và không dây: tầm nhìn của dự án metis. Tạp chí Truyền thông IEEE 52 (5),
26 Hàng35. Patel, S., Chauhan, M., Kapadiya, K., 2012. 5g: Tầm nhìn công nghệ
di động trong tương lai 2020. Tạp chí quốc tế về ứng dụng máy tính 54 (17), 6
trận10. Patil, S., Patil, V., Bhat, P., 2012. Một đánh giá về công nghệ 5g. Tạp chí
quốc tế về kỹ thuật và công nghệ đổi mới 1 (1), 26 chuyến30. Roh, W., Seol, J.-Y.,
Park, J., Lee, B., Lee, J., Kim, Y., Cho, J., Cheun, K., Aryanfar, F., 2014. Dạng
sóng chùm milimet như một công nghệ cho phép truyền thông di động 5g: tính khả
thi về mặt lý thuyết và kết quả nguyên mẫu. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (2), 106
Phản113. Rost, P., Bernardos, C. J., De Domenico, A., Girolamo, M. D., Lalam,
M., Maeder, A., Sabella, D., Wbben, D., 2014. Công nghệ đám mây cho mạng truy
cập vô tuyến 5g linh hoạt. Tạp chí Truyền thông IEEE 52 (5), 68 Công ty76.
Sapakal, Reshma S.Kadam, S. S., 2013. 5g công nghệ di động. Tạp chí quốc tế về
nghiên cứu nâng cao về công nghệ kỹ thuật máy tính 2 (2), 568 Tiết571. Seehusen,
J., tháng 3 năm 2013. Moderne bygg dreper mobildekningen. Truy cập ngày 15
tháng 4 năm 2017. URL https: //www.tu.no/artikler/moderne-bygg-dreper- \
mobildekningen / 234252 Sharma, P., 2013. Sự phát triển của mạng truyền thông
không dây di động - 1g đến 5g cũng như tương lai của mạng truyền thông thế hệ
tiếp theo. Tạp chí quốc tế về khoa học máy tính và điện toán di động 2 (8), 47
con53.
Tehrani, M. N., Uysal, M., Yanikomeroglu, H., 2014. Giao tiếp giữa thiết bị với
thiết bị trong 5g mạng di động: Thách thức, giải pháp và định hướng trong tương

78
lai. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (5), 86 Hàng92. Vollen, D.-R. Z., tháng 7 năm
2016. Første kommersielle 5g-nett i korea. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
URL http: //www.cw.no/artikkel/5g/forste-kommersielle-5g- \ nett-korea Wang,
C.-X., Haider, F., Gao, X., You, X.-H., Yang, Y., Yuan, D., Aggoune, H., Haas,
H., Fletcher, S. , Hepsaydir, E., 2014. Kiến trúc tế bào và các công nghệ chính cho
5g mạng truyền thông không dây. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (2), 122 Hàng130.
Yazici, V., Kozat, U., Sunay, M., 2014. Một mặt phẳng điều khiển mới cho kiến
trúc mạng 5g với nghiên cứu trường hợp về chuyển giao thống nhất, di động và
quản lý định tuyến. Tạp chí truyền thông IEEE 52 (11), 76 Hàng85. Zenios, S. A.,
2008 Tối ưu hóa tài chính thực tế, Ấn bản đầu tiên. Blackwell.

79

You might also like