You are on page 1of 8

2.

2 Quan điểm của các bên về vấn đề tranh chấp biển đảo

2.2.1. Quan điểm của Việt Nam

Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa
bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982. Trong quá trình tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho các vấn đề tranh
chấp trên Biển Đông, các bên liên quan cần kiềm chế, cùng nỗ lực duy trì hòa bình ổn
định, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến
chương Liên hợp quốc và các chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Đồng thời Việt Nam
tôn trọng quyền tự do hàng hải và nỗ lực cùng các bên liên quan bảo đảm an ninh, an
toàn hàng hải cho tàu thuyền của các nước qua lại Biển Đông phù hợp với Công ước
Luật biển 1982 và hoan nghênh nỗ lực và đóng góp của tất cả các nước vào việc duy
trì hòa bình ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải ở Biển Đông.

2.2.2 Góc nhìn của Đảng và nhà nước

Đảng và nhà nước ta đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh, xử
lý kịp thời các tình huống trên biển, bảo đảm giữ vững được chủ quyền, mối quan hệ
và môi trường hòa bình trên biển.

Để có được những kết quả như trên, một trong những nguyên nhân, điều kiện quan
trọng, tiên quyết chính là vì chúng ta đã đề ra được những quan điểm, đường lối đúng
đắn trong công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo, xử lý kịp thời các tranh chấp trên biển
Đông. Có thể thấy rằng, sau 35 năm đổi mới, hệ thống quan điểm của Đảng ta về công
tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều
đó được thể hiện rõ nhất qua các văn kiện của mỗi kỳ Đại hội Đảng. Gần đây nhất,
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ
bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã
xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện
nay.

2.2.3 Quan điểm của Đảng về vấn đề tranh chấp biển đảo:
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc vừa là mục tiêu, vừa là quan điểm xuyên suốt của Đảng.
Đây cũng là một trong những quan điểm cơ bản trong Chiến lược Bảo vệ biên giới
quốc gia, cần được nghiên cứu, quán triệt, làm cơ sở để triển khai thực hiện. Quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia là một bộ phận trọng yếu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập
trung, thống nhất của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy trực tiếp của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Đây là nội dung rất quan trọng, được khẳng
định trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược
bảo vệ biên giới quốc gia, là cơ sở để các cấp, ngành, địa phương, lực lượng triển khai
thực hiện. Cùng với đó, Nghị quyết cũng chỉ rõ, trong tình hình mới, nhiệm vụ của Bộ
đội Biên phòng - lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia rất toàn diện và phức tạp, bao gồm: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ biên giới quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân,
chế độ xã hội chủ nghĩa,… bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy
nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu. Xây dựng biên giới hòa bình,
hữu nghị, ổn định, hợp tác, bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia; góp phần
phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại
ở khu vực biên giới và cả nước. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, Bộ đội Biên phòng cần
triển khai toàn diện, đồng bộ các nội dung, biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia; trong đó, cần phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, kết
hợp chặt chẽ giữa biện pháp vũ trang và biện pháp phi vũ trang, giữa bảo vệ trực tiếp,
tại chỗ với bảo vệ từ xa, cơ bản, lâu dài; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, giải quyết mọi bất
đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp, thông lệ quốc tế. Nhận
thức rõ quan điểm của Đảng về đối tượng và đối tác trong quản lý, bảo vệ biên giới;
chống cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác và siêu hình, cứng nhắc trong nhận
thức, trong đề ra chủ trương và biện pháp xử lý các tình huống cụ thể trên biên giới và
các vùng biển, đảo; tăng cường quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới
quốc gia gắn với thực hiện tốt chủ trương mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, xây
dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng.
Trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia phải quán triệt, thực hiện
tốt mục tiêu .Xây dựng hệ thống chính trị các cấp ở khu vực biên giới vững mạnh,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng nền tảng chính trị, tinh thần thế trận lòng dân
vững chắc ở khu vực biên giới. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nền tảng
cho sự nghiệp tăng cường quốc phòng, an ninh và quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
Đầu tư xây dựng, phát triển các cụm dân cư biên giới, phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân. Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về
phát triển nhanh, mạnh và bền vững khu vực biên giới. Phát triển kinh tế - xã hội kết
hợp với tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới.
Thực hiện tốt chủ trương tăng thêm cấp ủy viên cấp huyện là cán bộ đồn Biên phòng
tại các huyện biên giới, hải đảo trong cả nước; tham gia củng cố, xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh, thành phố biên giới vững mạnh, xây dựng thế trận biên phòng toàn
dân vững chắc trong thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở
khu vực biên giới. Hiện nay, tình hình xâm phạm, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ diễn
biến rất phức tạp, đặc biệt là tranh chấp, bất đồng về chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển giữa các nước, nhất là trên Biển Đông có
xu hướng gia tăng, ngày càng phức tạp, khó dự báo. Tình hình vi phạm chủ quyền,
lãnh thổ và an ninh trật tự trên các tuyến biên giới nước ta đã, đang xuất hiện những
phương thức, thủ đoạn mới; vấn đề biên giới, lãnh thổ gắn với vấn đề dân tộc, tôn giáo
trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch; các loại tội phạm, nhất là tội
phạm có tổ chức, có vũ trang, xuyên biên giới có chiều hướng gia tăng; cùng với
những thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ công tác biên
phòng ngày càng toàn diện, nặng nề, phức tạp,... Quán triệt, thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biên phòng, Đảng ủy, Bộ
Tư lệnh Bộ đội Biên phòng xác định cần tập trung thực hiện tốt những nội dung,
nhiệm vụ trọng tâm sau. Tiếp tục quán triệt, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng, biên phòng. Chủ động nghiên cứu, phối hợp với các lực lượng nắm, đánh
giá, dự báo từ sớm, từ xa, sát đúng tình hình, kịp thời báo cáo Quân ủy Trung ương,
Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước nhiệm vụ biên phòng và xây dựng nền
biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững chắc; tổ chức thực hiện Luật
Biên phòng Việt Nam và các nghị định, thông tư triển khai thi hành Luật. Trọng tâm là
phối hợp tổ chức thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới; tham gia đàm phán
các vùng biên giới chồng lấn và giải quyết 16% khối lượng công việc còn lại tuyến
biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia. Duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến
đấu, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn. Nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động, chống phá của các thế lực thù địch, phản
động và các loại tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy và mua bán người, giữ vững an
ninh, trật tự địa bàn khu vực biên giới. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
cửa khẩu, kiểm soát xuất, nhập cảnh theo hướng hiện đại tiếp cận cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Tổ chức thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước. Trong đó, cần
kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại quốc phòng, đối
ngoại biên phòng và đối ngoại nhân dân ở khu vực biên giới. Đẩy mạnh và phát huy
kết quả hình thức giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới; nhân rộng mô hình kết
nghĩa giữa các địa phương và nhân dân hai bên biên giới. Đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế có liên quan. Chú
trọng tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới; xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở khu vực biên giới, tạo nền tảng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố biên
giới vững mạnh. Phát huy vai trò của cán bộ đồn Biên phòng tham gia cấp ủy cấp
huyện, xã biên giới; cán bộ Biên phòng tăng cường xã, đảng viên đồn Biên phòng
tham gia sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản và phụ trách hộ gia đình ở khu vực biên giới.
Tiếp tục phát huy hiệu quả các phong trào, mô hình, cuộc vận động thực hiện tốt Chỉ
thị số 01/CT-TTg, ngày 09/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ «Về việc tổ chức phong
trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong
tình hình mới».
Tham mưu xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới toàn dân rộng khắp, đồng bộ; trọng
tâm là xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ, giỏi chuyên môn nghiệp vụ. Tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh
2.2.4. Quan điểm Quốc tế:

Trung Quốc khẳng định các yêu sách chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dựa trên việc coi mỗi nhóm đảo trên Biển Đông mà
nước này yêu sách chủ quyền là “một thực thể đơn nhất”. Điều này không được luật
pháp quốc tế cho phép. Phạm vi của các vùng biển phải được đo từ các đường cơ sở
được thiết lập hợp pháp, thường là ngấn nước thủy triều thấp dọc theo bờ biển. Trong
các vùng biển có yêu sách chủ quyền của mình, Trung Quốc cũng đưa ra nhiều yêu
sách về quyền tài phán không phù hợp với luật pháp quốc tế.

Bên cạnh đó, Trung Quốc tiến hành chia rẽ, phân hóa các nước ASEAN nhằm
phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển
Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với một nước
ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thỏa hiệp có lợi nhất về vấn đề Biển
Đông. Nhằm mục tiêu ấy, Trung Quốc đã lợi dụng sự bất đồng về lợi ích, về quan
điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của các nước ASEAN có
tuyên bố chủ quyền để gây chia rẽ, không để các nước này đoàn kết thành một khối
đối trọng với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc sử dụng con bài viện trợ để các
nước này vì lợi ích quốc gia trước mắt mà không ủng hộ các nước ASEAN khác trong
“hồ sơ Biển Đông”; chủ trương đàm phán riêng rẽ đối với các nước có liên quan trực
tiếp đến tranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích riêng. Trung Quốc tăng cường ảnh
hưởng đối với các nước ASEAN khác nhằm tách họ khỏi các vấn đề Biển Đông, tập
trung vào bao vây, cô lập Việt Nam với các nước ASEAN, vì Trung Quốc cho rằng,
Việt Nam là lực cản lớn nhất đối với chiến lược độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc.

Đây là lần đầu tiên ASEAN đưa ra một văn kiện chính thức về Biển Đông, trong
đó nêu rõ: “Mọi diễn biến bất lợi ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn
định của khu vực” và nhấn mạnh nguyên tắc: “Cần thiết phải giải quyết mọi vấn đề
chủ quyền và tài phán ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình và không sử dụng vũ
lực... Tuyên bố kiến nghị các bên liên quan áp dụng các nguyên tắc trong Hiệp ước
Thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) làm cơ sở cho việc thiết lập COC” (5).
Đến năm 1994, chính sách ngoại giao của ASEAN trong vấn đề Biển Đông trở nên rõ
ràng hơn, Hiệp hội liên tục đưa ra tuyên bố hoặc thông cáo chung về vấn đề này. Tại
cuộc họp đầu tiên giữa các quan chức cấp cao của ASEAN và Bộ Ngoại giao Trung
Quốc vào tháng 4-1995, các phái đoàn ASEAN đã thúc ép Trung Quốc về các vấn đề
Biển Đông(6). Đồng thời, tại ARF năm 1995, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đưa nội
dung về vấn đề Biển Đông vào Tuyên bố Chủ tịch. Các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN
đã “bày tỏ quan ngại về các tuyên bố chủ quyền chồng lấn trong khu vực...; khuyến
khích tất cả các bên tranh chấp tái khẳng định cam kết của mình đối với các nguyên
tắc có trong luật pháp và công ước quốc tế liên quan, cũng như Tuyên bố ASEAN về
Biển Đông năm 1992”.

Công ước quy định trước khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước phải thỏa thuận tìm
cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình. Khi có tranh chấp
xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công
ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải
quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác. Sau đó
nếu không đạt được một giải pháp bằng phương pháp hòa bình mới áp dụng thủ tục
giải quyết tranh chấp bằng các cơ quan tài phán theo quy định của Công ước (điều 281
và 283).

Ngoài các cơ chế đã được quy định tại Công ước, các quốc gia trong tranh chấp có
liên quan đến chủ quyền trên biển cũng có thể đưa vụ việc ra Hội đồng bảo an - Liên
hợp quốc: "Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc
tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng
tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa
giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc
bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình. Hội đồng Bảo an,
nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp của họ bằng các biện
pháp nói trên" (điều 33 – Hiến chương Liên hợp quốc).

2.3. Nhiệm vụ của sinh viên trong góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc

Khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia vào học các ngành nghề liên quan tới biển,
đảo.

            Quản lý biển là ngành học tiềm năng trong tương lai .Việt Nam có lợi thế to
lớn trong việc khai thác tài nguyên biển và Hải đảo nhưng nguồn lực chuyên ngành về
quản lý các dạng tài nguyên này còn đang thiếu hụt do các trường đào tạo về lĩnh vực
này còn hạn chế. Vì vậy mặc dù ngành đào tạo là một ngành mới nhưng vẫn được thí
sinh và quý phụ huynh quan tâm do thị trường về việc làm lớn, sinh viên sau khi tốt
nghiệp rất dễ dàng tìm kiếm việc làm.

            Sinh viên học ngành học quản lý biển sẽ học các kiến thức về quản lý tổng hợp
vùng bờ biển, quy hoạch phát triển không gian biển, quan trắc tổng hợp môi trường
biển, quản lý tài nguyên biển, nghiên cúu về hải dương học, luật và chính sách biển..
vì vậy giúp sinh viên có thể làm việc đa lĩnh vực tại các đơn vị quản lý nhà nước, các
đơn vị trong lĩnh vực môi trường biển, quản lý khai thác tài nguyên.

  Ngành du lịch biển ở Việt Nam ngày càng phát triển do các yếu tố địa lý mang lại vị
vậy đây cũng là một trong những thị trường lao động lớn tuyển dụng về ngành Quản
lý biển do ngành này cần phải quy hoạch không gian biển, quản lý khai thác và bảo
tồn các hệ sinh thái biển phục vụ cho phát triển du lịch xanh.
            Tiềm năng trong lĩnh vực đào tạo chuyên ngành về quản lý tài nguyên và Môi
trường biển. Hiện nay trên cả nước chỉ có duy nhất Khoa học biển & Hải đảo, Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường HN đào tạo về lĩnh vực Quản lý biển và một số ít
các trường đào tạo chuyên ngành gần về lĩnh vực biển như Kỹ thuật công trình biển
trường ĐH Thủy Lợi , Hải dương học của ĐH Khoa học tự nhiên dẫn đến việc không
có sự cạnh tranh nghề nghiệp đối với sinh viên chuyên ngành Quản lý biển.

Khó khăn:

Sinh viên ngại môi trường làm xa nhà


Song song đó, các phương tiện, thiết bị nghiên cứu khoa học biển và hệ thống các
cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển chưa được đầu tư tương xứng với nhu
cầu thực tế; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm
tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn… ở ven biển còn nhỏ, trang thiết bị thô sơ, chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn. Việc khai thác các tài nguyên biển chủ yếu vẫn ở vùng ven
biển, bờ biển và ở tầng nước mặt hoặc vùng nước nông; đời sống vật chất lẫn tinh thần
của một bộ phận người dân vùng biển chưa bền vững. Ý thức chấp hành của một bộ
phận ngư dân còn yếu dẫn tới việc khai thác tự phát, không tuân thủ quy hoạch biển
đảo còn diễn ra khá phổ biến.

Hơn thế nữa, kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo chưa hoàn chỉnh. Các
cảng biển, các khu kinh tế, sân bay ven biển còn nhỏ bé, chưa hình thành một hệ
thống kinh tế biển liên hoàn… Phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hòa với phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường. Một số địa phương có biển chưa khai thác được lợi
thế từ biển hoặc lợi ích mang lại chưa lớn, chưa thực sự bền vững.

You might also like