You are on page 1of 14

Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính (H468)

Học viên: Trần Minh Hưng


Đơn Vị: Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện Nhà Bè

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN (Lần 3 – 6 câu)


MÔN: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG - NHÀ NƯỚC
VỀ CÁC LĨNH VỰC ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Câu 1: Hãy phân tích quan điểm:“Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo.” (Nghị quyết 33, Hội Nghị TW9, Khóa XI)
Trả lời:
Hội nghị Trung ương IX, khóa XI của Đảng đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm chỉ đạo về xây dựng,
phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thể hiện các đặc trưng Dân tộc - Nhân văn - Dân chủ và Khoa học. Xây dựng và phát triển con người Việt Nam
là trọng tâm, là cốt lõi và thực chất của xây dựng, phát triển văn hóa. Hệ giá trị của con người Việt Nam thống nhất
hữu cơ với các đặc trưng của văn hóa, đồng thời, các giá trị của con người Việt Nam lại là sự thể hiện sinh động, tiêu
biểu nhất các giá trị, sức sống của văn hóa, của bản sắc truyền thống dân tộc, của sự kết hợp hài hòa truyền thống với
hiện đại, dân tộc với thế giới và thời đại.
Diện mạo tinh thần của dân tộc Việt Nam - một dân tộc giàu truyền thống văn hóa và văn hiến được thể hiện
tập trung và nổi bật ở trí tuệ và tâm hồn, đạo đức, nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam.
Đó là những con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo như Nghị quyết
của Đảng đã chỉ ra.
Chỉ như vậy, văn hóa và con người mới thực sự là mục tiêu và động lực của phát triển bền vững và hiện đại
hóa đất nước, mới tạo ra sức mạnh của nguồn lực nội sinh, sức mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, con người và
văn hóa đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế Việt Nam tới thành công, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Nội sinh của văn hóa như nguồn trữ năng vật chất - tinh thần của cả xã hội, kết hợp với ngoại sinh
được tận dụng nhờ hội nhập quốc tế có hiệu quả, tạo ra nội lực và ngoại lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững
của Việt Nam. Cả nội sinh lẫn ngoại sinh, cả nội lực lẫn ngoại lực kết hợp lại thành ra nguồn lực tổng hợp như  vốn
xã hội để phát triển. Không có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn nhân
lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm
năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành”, như “vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, vốn người, “tư
bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã
hội, quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn hóa, phát triển
con người.
Vì lẽ đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương chín, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa văn
hóa với con người, giữa con người với văn hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát
triển con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn hóa
mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung
lại là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển
văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển
con người, con người vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, yêu
cầu của mẫu nhân cách xã hộivừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn hóa dưới dạng các sản
phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá,
giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là

1
chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần (phi vật thể), cũng chỉ có
con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng
nên môi trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho hiệu ứng xã hội của
văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống,
sức phát triển của con người, của văn hóa, không chỉ những thế hệ người trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa
của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của
sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của phát triển, văn minh,
tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn
hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một nước nào có thể ở bên ngoài tiến trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa với con người, con người với văn hóa là ở tương tác nhân - quả giữa chủ
thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con
người, hoàn thiện nhân cách, nhân tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của mọi giá trị. Hoàn
thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực cao nhất mà sáng tạo văn hóa cần đạt
đến, mà mọi thành quả, thành tựu của văn hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực người, khẳng định sức mạnh
bản chất người của con người trong phát triển, từ cá thể người đến cộng đồng người trong dân tộc và trong nhân loại.
Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên thú tính. Hoàn
thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ nói lên bản chất nhân văn đích thực
của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản văn hóa, phát triển với phản phát triển. Trong bản chất của nó,
văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự thật và lẽ phải, tôn
trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người. Văn hóa có cốt lõi của nó là đạo đức, mà đức là gốc
của nhân cách. Tiềm lực tư tưởng và trí tuệ là xung lực mạnh mẽ của văn hóa nên khoa học có mặt trong văn hóa
như một hợp phần không thể thiếu, không thể yếu.
Lịch sử văn hóa bao giờ cũng gắn liền với lịch sử của khoa học. Nhân cách trí thức khoa học cũng như nhân
cách nhà văn hóa sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực tinh thần - văn học nghệ thuật phải là những đại biểu xứng đáng
và tiêu biểu cho nhân cách của dân tộc mình, thời đại mình. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ ở
tầm quốc sách hàng đầu không chỉ là đột phá để tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển mà sâu xa hơn, còn là lựa
chọn một định hướng có triển vọng nhất cho phát triển bền vững, từ hiện tại tới tương lai. Bởi lẽ, phát triển bền vững
của đất nước thực chất là phát triển bền vững con người mà muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng thực hiện chiến lược
phát triển văn hóa. Chỉ có tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh mới có thể tạo ra những con người mang nhân cách
văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như điều C. Mác nói, nếu con người là
sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn, và sự phong phú của mỗi cá
nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn
hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa mà
chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà xây dựng
đời sống mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc, luôn
luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân tài, biết quý trọng, tin cậy hiền
tài.
Không có con người xã hội chủ nghĩa thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Do đó, kiến
thiết đất nước, xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với chiến lược con người, Đảng phải coi đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Những luận điểm như thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc về tầm nhìn chiến lược của nhà tư tưởng và nhà
văn hóa kiệt xuất, mà vào lúc này, Đảng ta đang ra sức vận dụng, phát triển. Để phát triển văn hóa và hoàn thiện
nhân cách con người Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định,
trong tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần phải tập trung triển khai thực
hiện những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện
của lòng dân.

2
- Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi nước mắt, sức sáng
tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất
nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học thức
mà không có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn hóa.
- Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân,
nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để đi
tới dân chủ.Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường lối,
chính sách chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân không yên, do
không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng.
- Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao quý hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc, một phương
châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo được kết quả của việc trị quốc.
Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải luôn luôn vì dân, phải coi “dĩ công vi
thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn
Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục đạo đức, đặc biệt là
giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống liêm khiết
phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền.
- Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh mẽ để
trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa, của chính trị bảo đảm
“quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị
phê phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của văn hóa và giá
trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan
Đảng, cơ quan Nhà nước và các đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của dân đối
với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động lực phát triển, nó minh
chứng cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng từ tác động của văn hóa. Tăng trưởng niềm tin của dân còn quan
trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế.
Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức
cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở
nước ta.
Câu 2: Vì sao “Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng.
Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển
kinh tế?”
Trả Lời:
Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, môi trường văn hóa ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến
hành vi, thái độ, ý thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, đặc biệt có vai trò to lớn với việc xây dựng văn hóa gia đình.
- Tác động của môi trường văn hóa đến môi trường gia đình:
Môi trường văn hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Môi trường văn hóa là điều kiện bên ngoài
làm nên sự hình thành hay tha hóa nhân cách, sự phát triển hay thụt lùi của cá nhân, sự tiến bộ hay lạc hậu của nhóm
xã hội hoặc cộng đồng. Khi đời sống con người với các mặt như phong tục, tập quán, lối sống, xu hướng đạo đức, ý
thức pháp quyền, mặt bằng dân trí, tính năng động hay mức độ bảo thủ của một xã hội được xem như điều kiện, cơ
sở, hoàn cảnh cho sự hình thành nhân cách, phát triển cá nhân, phát triển nhóm hoặc cộng đồng thì đó chính là môi
trường văn hóa.
Môi trường văn hóa cũng chính là hạt nhân cơ bản của sự phát triển xã hội. Nếu môi trường văn hóa có ảnh
hưởng lớn đến mỗi người và cộng đồng, thì ngược lại, mỗi người và cộng đồng sẽ có vai trò và trách nhiệm nhất
định trong việc tạo ra, cải tạo hoặc thay đổi môi trường văn hóa, góp phần sự phát triển xã hội nói chung và sự phát
triển của mỗi cá nhân nói riêng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, môi trường văn hóa ở Việt Nam ngày càng phong
phú, phức tạp. Đó là những hiện tượng và quan hệ văn hóa - xã hội đa dạng, đa chiều và năng động, có khả năng

3
nuôi dưỡng mọi ý tưởng tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát triển, sáng tạo, nhưng cũng tạo ra không ít thách
thức và cám dỗ khiến cho bất cứ cá nhân, gia đình, cộng đồng nào cũng phải cảnh giác trước nguy cơ lạc lối, sai lầm.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước cũng còn có những bất cập, trong đó
môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, xuất hiện nhiều hiện tượng trái với thuần phong mỹ tục…
nhất là trong thanh, thiếu niên. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thế
giới ngày càng sâu rộng với nhiều thời cơ thuận lợi và không ít những khó khăn, thách thức. Một trong số những khó
khăn, thách thức đặt ra đối với nước ta lúc này chính là sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ thanh niên trước những tác động mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường. Thanh niên nước ta
hiện nay về cơ bản được sống, học tập và rèn luyện trong môi trường tốt, được phát huy hết khả năng và trí tuệ của
mình. Nhiều người đã thành danh trên các lĩnh vực và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tuy nhiên, trong xã hội, thực trạng thanh niên sa vào các tệ nạn xã hội, như ma túy, cờ bạc, mại dâm, đua
xe, trộm cắp,… ngày càng gia tăng. Chính thực trạng đó đã đặt ra những mối quan ngại sâu sắc đối với từng gia đình
và xã hội.
Thời gian qua, chúng ta vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc chăm lo xây dựng môi trường văn hóa
trong sạch, lành mạnh, tạo điều kiện để bồi dưỡng nhân cách cho thanh niên. Ở nhiều địa phương, các nhà máy, khu
công nghiệp, chung cư cao tầng được đầu tư xây dựng nhiều nhưng những khu vui chơi, giải trí công cộng cho thanh
thiếu niên lại chưa được chú trọng. Hoạt động của các tổ chức Đoàn, Đội nhiều nơi còn kém hiệu quả, không thu hút
được đông đảo thanh niên tham gia… Vì vậy, chúng ta càng ngày càng khó kiểm soát một số biểu hiện lệch lạc, méo
mó về nhân cách của thanh niên hiện nay, như dao động mục tiêu, lý tưởng; thờ ơ với thời cuộc, vận mệnh quốc gia,
dân tộc; sống dựa dẫm, ỷ lại, sống vội, sống gấp, sống thử… thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Do
đó chúng ta cần phải thẳng thắn thấy được những “hạt sạn” đang xâm nhập mạnh mẽ vào tư tưởng và hành động của
thanh niên hiện nay để có biện pháp loại trừ kịp thời. Để có được thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước có đức, có
tài, “vừa hồng, vừa chuyên” thì việc xây dựng môi trường văn hóa gia đình lành mạnh - môi trường đầu tiên và cũng
là môi trường quan trọng nhất mà mỗi cá nhân học hỏi để trưởng thành, là một trong những giải pháp hữu hiệu và
thiết thực nhất hiện nay. Nhưng trước tiên, để có môi trường văn hóa gia đình tốt thì phải có môi trường văn hóa xã
hội tốt. Môi trường văn hóa lành mạnh có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng môi trường văn hóa gia đình, làm
cho gia đình thực sự trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy thành viên trong gia đình hoàn thiện nhân cách, kế thừa và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Một môi trường văn hóa lành mạnh sẽ góp phần giáo dục, rèn
luyện nhân cách, lối sống cho con người.
-Tác động trở lại của môi trường gia đình đến môi trường văn hóa
Môi trường gia đình là nơi tái xuất những công dân có ích cho xã hội.
Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống, hình thành nhân cách. Gia đình có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu
dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn gia đình phải trở thành
môi trường tốt, đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Gia đình ấm no, bố mẹ hòa
thuận hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có thể chất tốt cũng như tinh
thần tốt, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất
nước.
Gia đình là nơi tiếp thu, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thông qua các câu
chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm
hồn, phát triển tư duy và từng bước giáo dục hình thành nhân cách cho mỗi con người. Qua lao động, qua việc xử lý
các mối quan hệ hằng ngày, các thành viên lớn tuổi trong gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của
truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó, mỗi cá nhân dần hình thành nhân cách, được
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần
yêu tự do, hòa bình, anh hùng trong công cuộc xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chăm chỉ cần cù trong lao
động sản xuất… Đảng ta chỉ rõ trong giai đoạn hiện nay để “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội, mà xét đến cùng, đó là trách nhiệm của mỗi gia đình, mỗi con
người cụ thể.

4
Môi trường gia đình là nơi tốt đẹp nhất để giáo dục con cái biết bảo vệ thiên nhiên, đồng thời là một nét đẹp
trong văn hóa Việt.
Môi trường văn hóa gia đình có quan hệ chặt chẽ với môi trường văn hóa xã hội. Con người sống trong môi
trường nào chịu sự tác động của môi trường đó. Do những tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử
dựng nước và giữ nước, con người Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Sự gắn kết
của cá nhân với gia đình (và cao hơn là với làng, xã, Tổ quốc) đã trở thành một trong những giá trị văn hóa cơ bản
của dân tộc Việt Nam. Với con người Việt Nam truyền thống, môi trường gia đình có vai trò hết sức quan trọng. Môi
trường gia đình không chỉ là nơi sinh sống, nuôi lớn mỗi cá nhân về thể chất mà còn là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn,
hình thành nhân cách cho con người. Môi trường gia đình là giá trị cao đẹp mà con người mong muốn hướng tới.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình hạnh phúc và đáng tự hào là gia đình có sự chung sống của nhiều thế
hệ kiểu “tam đại”, “tứ đại”, “ngũ đại” đồng đường. Trong đó, hạnh phúc gia đình được duy trì trên cơ sở gắn kết hài
hòa của các mối quan hệ giữa các cá nhân, thế hệ với những tình cảm và chuẩn mực đạo đức, giá trị tốt đẹp.
Trước cơn lốc toàn cầu hóa, bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập quốc tế, văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa gia
đình nói riêng đang đứng trước những thời cơ lớn lao và những thách thức không nhỏ. Trong hoàn cảnh đó, nhiều
giá trị mới được sinh ra nhưng cũng nhiều giá trị cũ mất đi. Môi trường gia đình là tế bào cơ sở của xã hội, giữ gìn,
phát triển văn hóa gia đình, làm đẹp đẽ, bền chặt mối quan hệ giữa con người và gia đình, là con đường đúng đắn để
bình ổn và phát triển xã hội. Vấn đề đặt ra là xã hội, môi trường gia đình và chính bản thân mỗi cá nhân cần phải có
giải pháp để cân bằng các mối quan hệ: quyền lợi cá nhân và quyền lợi gia đình, cái lợi trước mắt và cái lợi lâu dài…
Cần phải kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với giá trị hiện đại, biết loại bỏ những yếu tố lỗi thời, giữ lấy những
gì là tinh hoa, bản sắc, đồng thời tăng cường giao lưu văn hóa quốc tế để tiếp nhận những giá trị văn hóa mới. Có
như thế mới khắc phục được tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế với văn hóa gia đình nói
riêng, văn hóa dân tộc nói chung./.
Giữa văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng. Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
văn hóa. Vì vậy, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, các quốc gia muốn phát triển bền vững cần
phải đạt được sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và xây dựng văn hóa.
- Tác động của kinh tế với văn hóa
Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng, thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa - xã hội. Khi nhu cầu sử dụng văn hóa tăng lên
cùng với sự phát triển kinh tế thì sẽ kích thích sự sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa, tạo ra thị trường phong phú,
sôi động.
Ngày nay, chính vì sự sản suất hàng loạt các sản phẩm văn hóa và các bản sao với sự trợ giúp của công nghệ
mà giá thành nhiều sản phẩm văn hóa được giảm đi. Vì vậy, những hàng thủ công mỹ nghệ được tạo ra bởi sự lao
động kỳ công, tỉ mỉ và mang nét đẹp độc đáo bao giờ cũng có giá trị rất cao. Do vậy, một số các sản phẩm nghệ thuật
vẽ tranh trực tiếp bằng tay hay là những bức tượng tạo ra từ đơn chiếc chứ không phải khuôn đúc, hay như những
trang phục độc quyền của những nghệ sĩ… luôn được định giá cao. Nhưng những sản phẩm thủ công này có thị
trường giới hạn, được lựa chọn khắt khe, tập trung vào các đối tượng có thu nhập cao và phụ thuộc vào sự lớn mạnh
về kinh tế của mỗi quốc gia. Đó chính là quy luật kinh tế tác động vào văn hóa.
Nhóm thứ hai là lao động sản xuất đại trà, như sản xuất băng đĩa nhạc, phim... Nhóm này bảo đảm cho thị hiếu
bình dân, người ta không cần phải đi đâu mà chỉ cần ở nhà xem phim, nghe nhạc. Nhóm hàng bình dân là thứ hàng
sản xuất đại trà. Đây là những sản phẩm bình thường, chất lượng không cao và thỏa mãn nhu cầu phổ thông của con
người.
Lực lượng lao động văn hóa bao gồm những người có kiến thức văn hóa nhất định. Sự tiêu dùng các sản phẩm
văn hóa tạo ra yếu tố “cầu” để cho lực lượng sản xuất tạo ra “cung”. Điều này phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Nếu như tổng thể kinh tế của một quốc gia lớn mạnh thì văn hóa cũng có điều kiện đầu tư phát triển
hơn.
Giá trị văn hóa - giá trị hàng hóa trong văn hóa là giá trị đặc thù không đo được theo công thức của kinh tế học
thuần túy mà còn bằng mức độ ưa thích của người tiêu dùng, sự chấp nhận xã hội. Trên thực tế, thẩm mỹ của thời đại
và văn hóa truyền thống thường tác động vào cách thức đánh giá cũng như sự ưa chuộng của dân chúng với một sản

5
phẩm văn hóa cụ thể. Có những giá trị văn hóa mang tính phổ quát cho toàn nhân loại, nhưng cũng có những giá trị
văn hóa chỉ phù hợp với quốc gia, dân tộc nhất định. Như vậy, giá trị văn hóa là đa diện và khác với các quan hệ giá
trị khác.
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước, sự vươn lên của văn hóa đại chúng là một hiện tượng văn hóa
đáng chú ý của Việt Nam. Ở một số đô thị trên toàn quốc, văn hóa đại chúng (xét một cách tương đối) đã trở thành
nội dung tiêu dùng chủ yếu trong đời sống văn hóa của nhân dân. Kinh tế thị trường ngày càng tác động mạnh mẽ
đến lĩnh vực sản xuất các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Tốc độ đô thị hóa và sự gia tăng nhu cầu giải trí cũng góp phần
thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn hóa.
- Để khai thác yếu tố văn hóa trong phát triển kinh tế
Thứ nhất, lấy pháp chế hóa làm bảo đảm
Chính quyền các cấp cần đẩy nhanh việc xây dựng các điều khoản pháp quy của phát triển công nghiệp văn
hóa, đưa việc bảo vệ hạ tầng cơ sở văn hóa quan trọng và tài nguyên văn vật vào quản lý. Các ngành hữu quan cần
nhanh chóng định ra và công bố chính sách công nghiệp văn hóa. Nội dung phải bao gồm các mặt nội hàm công
nghiệp, kết cấu công nghiệp, tổ chức công nghiệp văn hóa. Tăng cường kiểm tra và giám sát chấp pháp của thị
trường văn hóa; tăng cường xây dựng đội ngũ quản lý văn hóa và xây dựng pháp chế. Đối với việc sản xuất sản
phẩm và dịch vụ kinh doanh văn hóa, phải định ra những biện pháp quản lý thị trường, ngăn chặn việc cạnh tranh
không lành mạnh. Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật, xử lý nghiêm các hành vi ăn cắp bản
quyền, xâm phạm bản quyền đối với các sản phẩm văn hóa; tăng cường loại trừ những sản phẩm phi văn hóa. Vận
dụng có hiệu quả quy tắc bảo vệ của WTO đối với việc phát triển công nghiệp văn hóa nước ta.
Thứ hai, lấy thông tin hóa làm bộ phận thúc đẩy
Hiện nay, trình độ công nghiệp văn hóa Việt Nam còn thấp nên cần lấy thông tin hóa để thúc đẩy chiến lược cơ
bản của công nghiệp văn hóa Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần ra sức thúc đẩy thông tin hóa, kết hợp hữu cơ giữa
văn hóa với kinh tế. Kinh tế phát triển mới góp phần cải tạo hạng mục công nghiệp văn hóa truyền thống phát triển.
Đẩy nhanh việc điều chỉnh kết cấu doanh nghiệp văn hóa, nâng cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật của công nghiệp
văn hóa. Cần nghiên cứu hệ thống thông tin tiêu chuẩn hóa, xây dựng trung tâm thông tin, trung tâm giao lưu hàng
hóa, trung tâm tài chính thống nhất hiệu quả cao, tạo điều kiện cho việc hiện đại hóa công nghiệp văn hóa.
Công nghiệp văn hóa cần kết hợp với khoa học - kỹ thuật để tăng cường giá trị, nâng cao trình độ hiện đại hóa.
Tích cực thực hiện quy hoạch thông tin văn hóa, coi trọng phát triển kỹ thuật và đào tạo nhân tài kỹ thuật chuyên
nghiệp; phát triển hạ tầng các khu vui chơi, giải trí, khoa học kỹ thuật cao và phần mềm điện tử. Đẩy nhanh việc
nâng cấp hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong sản phẩm văn hóa và hạng mục phục vụ. Một mặt, đổi mới kỹ thuật
và trang bị cho các ngành, nghề, như phát thanh truyền hình, in ấn, sách báo, giải trí vui chơi, mặt khác, nâng cao kỹ
thuật cốt lõi của sản phẩm văn hóa làm trọng điểm phát triển công nghiệp văn hóa có viễn cảnh thị trường tốt, năng
lực cạnh tranh mạnh, hình thành quy mô công nghiệp, để đông đảo người dân có thể thực sự được hưởng thụ văn hóa
lành mạnh, hữu ích.
Thứ ba, lấy quy mô hóa hình thành thế mạnh
Phát triển kinh tế hiện đại cần có ưu thế quy mô; xây dựng văn hóa nhất là công nghiệp văn hóa đòi hỏi phải có
quy mô lớn, thực lực, sức cạnh tranh cao. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng đang tiến hành cải cách về thể chế
văn hóa, điều chỉnh về kết cấu, bố trí về tài nguyên, kết hợp những trật tự mới. Nhiều nước cũng sửa đổi luật pháp để
xúc tiến sự thu mua và sáp nhập giữa các ngành điện tín, truyền thông và giải trí; kinh doanh đa quốc gia dưới điều
kiện quốc tế hóa sản xuất. Nó là kết quả tất yếu của việc hợp tác chuyên nghiệp hóa kinh tế quốc tế. Một trong
những tiêu chí quan trọng của công nghiệp văn hóa là sự xuất hiện của tập đoàn công nghiệp mang tính tổng hợp.
Việc xây dựng nên những tập đoàn văn hóa lớn đã tăng cường thực lực văn hóa - kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc tế.
Vì vậy, cần xây dựng nên thành phố trung tâm làm đầu tàu, lấy tài nguyên văn hóa làm cầu nối đẩy mạnh việc
xây dựng và phát triển thành từng khối, hình thành chiến lược quy mô công nghiệp văn hóa. Tăng cường bồi dưỡng,
đào tạo nhân lực phục vụ cho ngành công nghiệp văn hóa, nhất là lực lượng quản lý văn hóa, phù hợp với tốc độ
phát triển nhanh của doanh nghiệp văn hóa và tập đoàn văn hóa loại hình lớn trong nước.
Thứ tư, lấy nhãn hiệu hàng hóa để hình thành điểm cao khống chế

6
Học tập những doanh nghiệp nổi tiếng cùng những kinh nghiệm vận hành xây dựng nên một tập đoàn công
nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh việc quảng bá và xây dựng thương hiệu nôi tiếng như thành phố với những giá trị văn hóa
đặc sắc, thị trấn nổi tiếng, quán ăn độc đáo, khu vườn và sản phẩm nổi tiếng... Lấy những doanh nghiệp có thương
hiệu, sản phẩm nhãn hiệu nổi tiếng, có lực tác động để chiếm lĩnh thị trường văn hóa, tiến tới tăng cường sức cạnh
tranh quốc tế của kinh tế nước ta. Về mặt này, một số thành phố của nước ta đã dần dần tích lũy được khả năng
thành công do lợi dụng được đầy đủ tài nguyên văn hóa, lịch sử phong phú của đất nước, lấy việc phát triển công
nghiệp văn hóa để phát huy mạnh mẽ sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống với phát triển kinh tế. Chú trọng làm
sống động tài nguyên văn hóa; phát triển du lịch bền vững gắn với văn hóa cộng đồng. Xây dựng nhãn hiệu sản
phẩm văn hóa gắn với nhu cầu đặc biệt, kết hợp tính tư tưởng, tính khuynh hướng với tính giải trí, tính tri thức, tính
hàng hóa, tính độc đáo hình thành nên điểm cao khống chế cạnh tranh thị trường của sản phẩm văn hóa Việt Nam.
Kinh nghiệm thành công của công nghiệp văn hóa các nước phát triển cũng là chú trọng nhấn mạnh đến sắc thái
riêng biệt. Cần có sự kết hợp văn hóa - kinh tế, văn hóa - thể dục thể thao, văn hóa - khoa học, văn hóa - giáo dục,
làm cho tài nguyên văn hóa mang màu sắc riêng, chuyển hóa thành thế mạnh kinh tế mới.
Câu 3: Vì sao GD-ĐT và KH-CN là vấn đề quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
Giáo dục là quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và
các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn tại, tiến hoá và phát triển của nhân loại
Đào tạo là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nhằm trao truyền một kỹ năng cụ thể cho một loại công việc
cụ thể nào đó.
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước như vậy?
- Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.
- Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Không chỉ trong giai đoạn hiện nay vị trí tầm quan trọng của giáo dục mới được khẳng định mà tư tưởng này
trải qua từng thời kỳ lịch sử đã được một dân tộc có truyền thống hiếu học đã dày công vun trồng và củng cố. Ở mọi
thời đại giáo dục luôn luôn dành được sự quan tâm đặc biệt.
- Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài, “Năm 1086 thi lấy người có văn học trong
nước sung làm quan Hàn lâm viện”. Từ đó đến các triều đại tiếp theo Nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Nguyễn .các
khoa thi lần lượt được mở ra để tuyển dụng người tài, người có trí tuệ phục vụ cho nhân dân cho đất nước. Và Quốc
Tử Giám trường đại học đầu tiên của nước Việt Nam nơi vinh danh của những người thi cử đỗ đạt có đức có tài, đó
là một minh chứng sống cho việc luôn luôn coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu của dân tộc ta.
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. “Nguồn tài nguyên và sự giàu có của một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm
trong bản thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải đẩy mạnh
phát triển giáo dục- đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng
như xây dựng nền văn hoá .
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong
sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng; tài năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người,
không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua quá trình đào luyện công phu có hệ thống. Vì
vậy giáo dục hiện nay được nhìn nhận không phải là yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu thành của nền
sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy rằng không có quốc gia nào muốn phát triển mà ít đầu tư cho giáo dục. Công
cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua về phát
triển giáo dục- đào tạo. Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn mạnh: Thực sự
coi giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là
nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển.
Giáo dục- đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành
nền văn hoá tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng
chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng nền văn hoá, văn học nghệ
thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ:

7
“Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc là những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ”
Như vậy giáo dục- đào tạo có tác dụng to lớn đến toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội.
Phát triển giáo dục - đào tạo là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược con người của
Đảng và Nhà nước ta.
Khoa học là hệ thống tri thức về quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy được nghiên cứu và khái quát từ thực tiễn
và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực
tự nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành sản phẩm.
Quan điểm phát triển khoa học công nghệ:
- Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hành đầu; một trong những động lực phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến
lược, kế hoạch phát tiển khoa học và công nghệ
- Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và
sức mạnh của dân tộc
- Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ
- Chủ động tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới
Nhiệm vụ phát tirển khoa học công nghệ:
- Động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường, làm tăng năng suất
lao động
- Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý,
đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
- Phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa
học và công nghệ
Câu 4: Phân tích các nhiệm vụ cần thực hiện nhằm phát triển GD-ĐT trong bối cảnh hiện nay?
Trả lời:
1. Đổi mới quản lý giáo dục
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ làm cơ sở triển khai thực hiện đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện thống nhất đầu mối quản lý và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về giáo dục. Thực hiện đồng bộ phân cấp quản lý, hoàn thiện và triển khai cơ chế phối hợp giữa các bộ,
ngành và địa phương trong quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
gắn với trách nhiệm và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ
sở giáo dục đi đôi với hoàn thiện cơ chế công khai, minh bạch, đảm bảo sự giám sát của cơ quan nhà nước, của các
tổ chức chính trị xã hội và nhân dân.
Bảo đảm dân chủ hóa trong giáo dục. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá người dạy, giáo viên và
giảng viên tham gia đánh giá cán bộ quản lý, cán bộ quản lý cấp dưới tham gia đánh giá cán bộ quản lý cấp trên, cơ
sở giáo dục tham gia đánh giá quản lý nhà nước về giáo dục.
- Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng khung trình độ quốc gia về giáo dục tương thích với
các nước trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo phân luồng trong hệ thống, đặc biệt là phân luồng sau trung học cơ
sở, trung học phổ thông và liên thông giữa các chương trình giáo dục, cấp học và trình độ đào tạo; đa dạng hóa
phương thức học tập đáp ứng nhu cầu nhân lực, tạo cơ hội học tập suốt đời cho người dân.
- Phân loại chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và đại học theo các tiêu chuẩn chất lượng
quốc gia, các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn phải có lộ trình để tiến tới đạt chuẩn; chú trọng xây dựng các cơ sở giáo
dục tiên tiến, trọng điểm, chất lượng cao để đào tạo bồi dưỡng các tài năng, nhân lực chất lượng cao cho các ngành
kinh tế - xã hội.
- Thực hiện quản lý theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển nhân lực

8
của từng ngành, địa phương trong từng giai đoạn phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
- Tập trung vào quản lý chất lượng giáo dục: chuẩn hóa đầu ra và các điều kiện đảm bảo chất lượng trên cơ sở
ứng dụng các thành tựu mới về khoa học giáo dục, khoa học công nghệ và khoa học quản lý, từng bước vận dụng
chuẩn của các nước tiên tiến; công khai về chất lượng giáo dục, các điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực và tài chính
của các cơ sở giáo dục; thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục; xây dựng hệ thống kiểm
định độc lập về chất lượng giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục của các cấp học, trình độ đào tạo
và kiểm định các chương trình giáo dục nghề nghiệp, đại học.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở các cấp.
2. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
- Củng cố, hoàn thiện hệ thống đào tạo giáo viên, đổi mới căn bản và toàn diện nội dung và phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ sức thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông sau năm 2015. Tập trung đầu tư xây dựng các trường sư phạm và các khoa sư phạm tại các
trường đại học để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên.
- Đảm bảo từng bước có đủ giáo viên thực hiện giáo dục toàn diện theo chương trình giáo dục mầm non và phổ
thông, dạy học 2 buổi/ngày, giáo viên dạy ngoại ngữ, giáo viên tư vấn học đường và hướng nghiệp, giáo viên giáo
dục đặc biệt và giáo viên giáo dục thường xuyên.
- Chuẩn hóa trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Chú trọng
nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo để làm gương cho học sinh, sinh viên.
Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo để đến năm 2020, 100% giáo viên mầm non và phổ
thông đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó 60% giáo viên mầm non, 100% giáo viên tiểu học, 88% giáo viên trung
học cơ sở và 16,6% giáo viên trung học phổ thông đạt trình độ đào tạo trên chuẩn; 38,5% giáo viên trung cấp chuyên
nghiệp, 60% giảng viên cao đẳng và 100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên; 100% giảng viên đại học
và cao đẳng sử dụng thành thạo một ngoại ngữ.
Thực hiện đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ các trường đại học, cao đẳng với phương án kết hợp đào
tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ.
- Thực hiện các chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần tạo động lực cho các nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục, nhất là với giáo viên mầm non; có chính sách đặc biệt nhằm thu hút các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia có
kinh nghiệm và uy tín trong và ngoài nước tham gia phát triển giáo dục.
3. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục
- Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các
nước, thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học
sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương. Chú trọng nội dung
giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chất, quốc phòng - an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo dục kỹ năng
sống, giáo dục lao động và hướng nghiệp học sinh phổ thông.
- Đổi mới chương trình, tài liệu dạy học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học dựa trên nhu cầu của
đơn vị sử dụng lao động, vận dụng có chọn lọc một số chương trình tiên tiến trên thế giới, phát huy vai trò của các
trường trọng điểm trong từng khối ngành, nghề đào tạo để thiết kế các chương trình liên thông. Phát triển các chương
trình đào tạo đại học theo hai hướng: nghiên cứu và nghề nghiệp ứng dụng.
- Phát triển các chương trình giáo dục thường xuyên, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông mở rộng
các hình thức học tập đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi người, giúp người học hoàn thiện nhân cách, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu công việc và nâng cao chất
lượng cuộc sống.
- Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học, đến năm 2015, 100% giảng viên đại học, cao đẳng và đến năm 2020, 100% giáo viên giáo
dục nghề nghiệp và phổ thông có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học. Biên soạn
và sử dụng giáo trình, sách giáo khoa điện tử. Đến năm 2020, 90% trường tiểu học và 50% trường trung học cơ sở tổ
chức dạy học 2 buổi/ngày. Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo

9
hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo
dục với kết quả thi.
- Thực hiện định kỳ đánh giá quốc gia về chất lượng học tập của học sinh phổ thông nhằm xác định mặt bằng
chất lượng và làm căn cứ đề xuất chính sách nâng cao chất lượng giáo dục của các địa phương và cả nước.
4. Tăng nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính giáo dục
- Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính giáo dục nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực
của nhà nước và xã hội đầu tư cho giáo dục; nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đảm bảo tính minh bạch và
trách nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội; đảm bảo nguồn lực tài chính cho một số cơ sở giáo dục Việt
Nam đủ sức hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
- Đảm bảo tỷ lệ chi cho giáo dục trong tổng ngân sách nhà nước từ 20% trở lên, phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội và quản lý sử dụng có hiệu quả. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục được tập trung ưu tiên cho giáo dục
phổ cập; giáo dục ở những vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách xã hội; giáo dục
năng khiếu và tài năng; đào tạo nhân lực chất lượng cao; đào tạo các ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội nhân
văn, khoa học mũi nhọn và những ngành khác mà xã hội cần nhưng khó thu hút người học.
- Đầu tư ngân sách nhà nước có trọng điểm, không bình quân dàn trải cho các cơ sở giáo dục công lập, đầu tư
đến đâu đạt chuẩn đến đó. Từng bước chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo đủ nguồn lực tài
chính và phương tiện dạy học tối thiểu của tất cả các cơ sở giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường đại học
xuất sắc, chất lượng trình độ quốc tế, các trường trọng điểm, trường chuyên, trường đào tạo học sinh năng khiếu,
trường dân tộc nội trú, bán trú. Phấn đấu đến năm 2020 có một số khoa, chuyên ngành đạt chất lượng cao. Quy
hoạch, đảm bảo quỹ đất để xây dựng trường học, ưu tiên xây dựng các khu đại học tập trung và ký túc xá cho sinh
viên.
- Có cơ chế, chính sách quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong đầu tư phát triển đào tạo nhân lực, đặc
biệt đào tạo nhân lực chất lượng cao và nhân lực thuộc ngành nghề mũi nhọn. Quy định trách nhiệm của các ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và gia đình trong việc đóng góp nguồn lực và tham gia các hoạt động giáo
dục, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, góp phần từng bước xây dựng xã hội học tập. Xây dựng và thực hiện
chế độ học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp lý giữa nhà nước, người học và các thành phần xã hội.
- Triển khai các chính sách cụ thể để hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục đại học, dạy nghề và phổ thông ngoài công
lập, trước hết về đất đai, thuế và vốn vay. Xác định rõ ràng, cụ thể các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm
chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các tổ chức kinh tế - xã hội tham gia thành lập trường theo quy
hoạch phát triển của Nhà nước.
5. Tăng cường gắn đào tạo với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu
xã hội
- Khuyến khích doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước mở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại học
để tăng cường khả năng tự cung ứng nhân lực và góp phần cung ứng nhân lực cho thị trường lao động.
- Quy định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành, địa phương; giữa
các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng và đánh giá chương trình, tuyển
sinh, tổ chức đào tạo và thực tập tại công nghiệp, tuyển dụng học sinh, sinh viên tốt nghiệp.
- Gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và sản xuất; thành lập các doanh
nghiệp khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo. Nâng cao năng lực của các cơ sở nghiên cứu khoa học, trong đó
ưu tiên đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm trong các trường đại học.
6. Tăng cường hỗ trợ phát triển giáo dục đối với các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính
sách xã hội
- Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội học tập, hỗ trợ và ưu tiên phát triển
giáo dục và đào tạo nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách xã hội,
người nghèo.
- Có chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn.
- Phát triển giáo dục từ xa, giáo dục nghề nghiệp, mở rộng hệ thống dự bị đại học. Phát triển hệ thống cơ sở
giáo dục đặc biệt dành cho người khuyết tật, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV và trẻ em lang thang đường phố, các đối

10
tượng khó khăn khác.
- Tăng đầu tư cho giáo dục đặc biệt; có chính sách đãi ngộ đối với giáo viên giáo dục đặc biệt và học sinh
khuyết tật.
7. Phát triển khoa học giáo dục
- Ưu tiên nghiên cứu cơ bản về khoa học giáo dục; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và xu thế phát triển giáo dục
trong và ngoài nước, nghiên cứu đón đầu nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chiến lược và chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước, phục vụ đổi mới quản lý nhà nước
về giáo dục và quản lý cơ sở giáo dục, đổi mới quá trình giáo dục trong các nhà trường, góp phần thiết thực và hiệu
quả vào sự nghiệp phát triển giáo dục nói chung và xây dựng nền khoa học giáo dục Việt Nam nói riêng.
- Phát triển mạng lưới cơ sở nghiên cứu khoa học giáo dục, tập trung đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu của
cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia và các viện nghiên cứu trong các trường sư phạm trọng điểm. Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục thông qua đào tạo trong và ngoài nước, trao đổi
hợp tác quốc tế.
- Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục; thực hiện tốt chuyển giao các kết quả
nghiên cứu khoa học và ứng dụng phục vụ đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam.
- Tăng chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước cho các trường đại học trọng điểm và viện
nghiên cứu quốc gia, ưu tiên các ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn. Khuyến khích và hỗ trợ công dân Việt Nam
đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng kinh phí tự túc.
- Khuyến khích các cơ sở giáo dục trong nước hợp tác với các cơ sở giáo dục nước ngoài để nâng cao năng lực
quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ
khoa học và quản lý giáo dục; tăng số lượng học bổng cho học sinh, sinh viên đi học nước ngoài.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu
tư, tài trợ cho giáo dục, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ
góp phần đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Xây dựng một số trường đại học, trung tâm nghiên cứu hiện đại để thu hút
các nhà khoa học trong nước, quốc tế đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Câu 5: Vì sao Chính sách xóa đói giảm nghèo là chìa khóa then chốt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội
mang tính cấp bách hiện nay ở nước ta?
Kết quả:
Hiện đang có khoảng 70 chính sách giảm nghèo, bao gồm:
- Nhóm chính sách chung gồm bảy nhóm chính sách cơ bản: tín dụng; hỗ trợ sản xuất, đất sản xuất và trồng
rừng; dạy nghề và tạo việc làm; nhà ở và nước sinh hoạt; giáo dục - đào tạo; y tế và chăm sóc sức khỏe; trợ giúp
pháp lý và hỗ trợ thông tin.
- Nhóm chính sách đặc thù, chủ yếu trong hai chương trình lớn tác động đến giảm nghèo đối với vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đó là Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (QĐ 135/1998/QĐ-TTg, gọi tắt
là Chương trình 135) và Nghị quyết về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
(NQ 30a/2008/NQ-CP, gọi tắt là Chương trình 30a)
- Nhìn chung, ở cấp quốc gia thành tựu giảm nghèo có thể thấy rõ ở cả chuẩn quốc gia và quốc tế. Theo báo
cáo của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 22% năm 2005 xuống 9,45% năm 2010 (chuẩn cũ) và từ 14,2% năm 2010
xuống 9,6% năm 2012 (chuẩn giai đoạn 2011-2015), năm 2013 còn 7,6-7,8%.
- Đánh giá việc thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo theo các nghị quyết của Quốc hội hàng năm, 5 năm cho thấy,
giai đoạn 2005 - 2012 tỉ lệ giảm nghèo cả nước đều đạt và vượt chỉ tiêu, bình quân giai đoạn này, mỗi năm giảm tỉ lệ
hộ nghèo từ 2,3 - 2,5%.
- Về quy mô, kết quả giảm nghèo diễn ra ở tất cả các vùng, miền, thành thị và nông thôn trong các nhóm đối
tượng. Năm 2005, có 6 vùng tỉ lệ nghèo ở mức trên 20%, năm 2010 có 4 vùng tỉ lệ nghèo trên 20%, đến năm 2011
chỉ còn 2 vùng có tỉ lệ nghèo trên 20% (miền núi Đông Bắc và miền núi Tây Bắc). Năm 2012 chỉ còn miền núi Tây
Bắc có tỉ lệ hộ nghèo 28,55%
Những khó khăn, thách thức trong chính sách giảm nghèo đó là:
• Mức sống của hộ nghèo và hộ cận nghèo chưa có sự khác biệt đáng kể nên nguy cơ tái nghèo cao.
• Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng, theo số liệu công bố mới nhất của Ngân hàng thế giới và

11
Tổng cục thống kê cho thấy hệ số chênh lệch này đã tăng đều từ 8,1 (năm 2002) lên 9,4 (năm 2012).
• Tỉ lệ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn cao, đồng bào dân
tộc thiểu số chiếm gần 50% số người nghèo cả nước.
• Đối với khu vực đô thị, một bộ phận người nghèo, người có thu nhập thấp có xu hướng phát sinh do quá
trình đô thị hóa, di cư nông thôn - đô thị,
• Công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như nguồn lực đối với chính sách giảm
nghèo còn hạn chế.
Những giải pháp đổi mới chính sách giảm nghèo:
• Đảm bảo cân đối nguồn lực trung hạn cho các chính sách; lựa chọn chính sách ưu tiên; cải cách thủ tục hành
chính, đổi mới phương thức để người dân tham gia xây dựng và tiếp cận chính sách tốt hơn. Tập trung đầu tư cho địa
bàn khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với các
vùng phát triển.
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và có giải pháp để huy động học sinh ra lớp đúng độ tuổi; thay đổi
phương thức đào tạo cử tuyển theo hướng nâng cao chất lượng gắn với hiệu quả sử dụng.
• Đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực để tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo,
đặc biệt người nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo ở các vùng khó khăn.
• Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo theo hướng ban hành chính sách phải gắn với bố trí
nguồn lực và kết quả đạt được; đổi mới cơ chế điều hành, phân cấp mạnh hơn cho địa phương, trao thêm quyền cho
người nghèo và cộng đồng.
• Nghiên cứu xây dựng chuẩn nghèo và chính sách giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều sau 2015.
Câu 6: Hãy phân tích sự vận dụng của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam?
Trả Lời:
* Những quan điểm về dân tộc, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là:
- Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của
công cuộc đổi mới đất nước. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và
giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
- Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân tộc,
chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi
người vào một mặt trận chung, tăng cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ. Luôn tôn trọng lẫn nhau về lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc; dân tộc
có trình độ phát triển cao phải có trách nhiệm giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã hội phát
triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo các dân tộc có điều kiện phát triển toàn diện,
tiến kịp trình độ phát triển chung của cả nước. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc; tránh
tư tưởng kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của dân tộc khác.
+ Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi, gắn
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

12
+ Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng
bào các dân tộc.
+ Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các
cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Năm quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có giá trị lâu dài trong công tác dân tộc ở nước ta, đòi hỏi phải nắm
vững và quán triệt thực hiện chặt chẽ, nhất quán trong giải quyết vấn đề dân tộc, nhất là các cơ sở có nhiều dân tộc
thiểu số.
* Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách dân tộc, đoàn kết dân tộc như sau:
- Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, trọng tâm là
đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. Giúp đồng bào các dân tộc khắc phục tình trạng thiếu đất
sản xuất, nhà ở tạm bợ, thiếu nước sinh hoạt, nâng cấp cơ sở hạ tầng, định canh, định cư, xây dựng khu kinh tế mới ở
khu vực biên giới, xoá nghèo nhanh và bền vững.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số. Kiện toàn,
củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, đẩy mạnh phát triển đảng viên; nâng cao năng lực quản
lý Nhà nước của bộ máy chính quyền các cấp, vai trò tập hợp quần chúng của mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết
khắc phục tình trạng cán bộ quan liêu, xa dân; thực hiện tốt phương châm “gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tin”.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng các dân tộc thiểu
số, phát huy sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động lợi dụng dân tộc, tôn giáo của các thế lực
thù địch; tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng” trên
các địa bàn chiến lược, trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; thực hiện tốt chủ trương xây dựng phát
triển các khu kinh tế - quốc phòng ở khu vực biên giới.
- Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối với các vùng, các dân tộc để
động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao dân trí, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng đời sống ở khu dân cư,
xây dựng bản làng văn hoá.
* Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo
- Những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo trong tình hình mới:
+ Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do
tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và đồng
bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo,
chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Động viên đồng bào nâng cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội,
an ninh – quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn
giáo.
+ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; trong đó, các tổ chức quần chúng có vai trò quan
trọng trong công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo.
- Công tác tôn giáo, chính sách tôn giáo:
+ Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
+ Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
+ Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo trong quần chúng, tín đồ, chức

13
sắc, nhà tu hành ở cơ cở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
+ Tăng cường thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu
nước của đồng bào có đạo; tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề tôn giáo, dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống đối chế độ.
+ Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước.

14

You might also like