Professional Documents
Culture Documents
HUỲNH NHẬT QUANG
HUỲNH NHẬT QUANG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Giới thiệu đề tài và lí do chọn đề tài
II. Ý nghĩa nghiên cứu
III. Mục tiêu nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
V. Giới hạn nghiên cứu
I.1 Thực trạng các vấn đề về tâm lý trên thế giới và ở Việt Nam hiện
nay:
I.1.1 Trên thế giới:
Sức khỏe tâm thần là một vấn đề được quan tâm ở thời điểm cuộc
sống hiện đại ngày nay trên thế giới. Đối với những nước phát triển, các
vấn đề về sức khỏe tâm thần, tâm lý các lứa tuổi và những tình trạng có
liên quan được chú ý và quan tâm nhiều hơn so với các nước đang phát
triển. Điều này xuất phát từ những lý do như điều kiện phát triển kinh tế
của đất nước có ảnh hưởng đến thu nhập của từng hộ gia đình, các vấn đề
về giáo dục và sự phát triển của giáo dục, những nhận thức và phong tục –
tập quán của các nhóm dân tộc, nhóm người...v.v.. Và Việt Nam là một
trong những nước đang phát triển có một tầm nhìn còn hạn chế về vấn đề
này.
Theo các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) rằng, đến
năm 2020, trầm cảm là căn bệnh thứ hai gây hại cho sức khỏe con người
(chỉ sau tim mạch). Mặc dù có mức độ ảnh hưởng lớn, nhưng trầm cảm
chỉ là một phần của các chứng bệnh tâm lý ở người trẻ như lo âu, căng
thẳng, bạo lực, sang chấn tâm lý, tăng động rối loạn giới tính đang diễn ra
hằng ngày ở trường học và gia đình. [7]
I.3.3 Các nguyên nhân liên quan đến môi trường sống và không gian
sống:
Sự sụp đổ của đô thị huyền thoại (The collapse of Myth urban) hay
còn được biết đến là Giai thoại Pruitt-Igoe (The Myth Pruitt-Igoe) cho
thấy một vấn đề vô cùng to lớn giữa việc kiến trúc, và cụ thể hơn là không
gian sống tác động mạnh mẽ đến tâm lý của những người sống trong đó.
Tâm lý chịu những ảnh hưởng từ một hệ thống công trình có những điều
kiện không phù hợp với những đòi hỏi cơ bản về mặt vận động. Cụ thể
việc thiết kế thang máy chỉ dừng ở mỗi ba tầng một lần (stop-skip) gây ra
những sự bất tiện về việc di chuyển cho những người sống ở hai tầng phía
trên và phía dưới thang máy, họ phải di chuyển một quãng đường dài. Sự
tác động về mặt gia tăng nhân khẩu sau Thế chiến thứ II làm bùng phát
những bất cập và đẩy sự bất tiện lên mức tối đa. Hàng loạt những vụ bạo
lực bởi các băng đảng túc trực trong thang máy làm ảnh hưởng đến sự an
toàn của những người sử dụng. Những đứa trẻ không thể kìm nén được
nhu cầu vệ sinh cá nhân và xử lí ngay phía trong buồng thang làm cho vấn
đề về an toàn vệ sinh giảm thiểu nặng nề, cùng với cách sinh hoạt của
những người dân vốn ở khu ổ chuột làm cho chất lượng sống ngày càng tệ
hơn. Bên cạnh thiết kế bất hợp lí về thang máy làm ảnh hưởng đến vấn đề
di chuyển hàng ngày, dần dần tạo thành sự ức chế về tâm lý và hàng loạt
những tệ nạn kéo theo sau, các khu vực chức năng khác cũng phải chịu sự
bỏ mặc bởi công năng không hề tạo được sự thuận tiện cho người sử
dụng. Dự án Pruitt-Igoe được xem là một sự thất bại về thiết kế trong lịch
sự phát triển đô thị của Chủ nghĩa Kiến trúc hiện đại chỉ vì tiết kiệm chi
phí. Những phát minh/ thiết kế mới đưa ra không có sự nghiên cứu
chuyên sâu về mặt tâm lý, tạo ra sự ức chế ngấm ngầm, phản lại mọi tiêu
chí ban đầu về tạo tác không gian sống cho con người.
Phá hủy khu đô thị Pruitt-Igoe. Nguồn: Ashui [19]
Theo một nghiên cứu khác cho thấy, các khu nhà ở tập thể ở HongKong là
một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các bệnh về tâm lý cho
những người dân vì họ phải sống chen chúc với nhau, mỗi căn hộ chỉ vỏn
vẹn vài mét vuông, có những căn chỉ vừa đủ cho một người nằm. Hàng
ngày, những người thuê nhà ở đây phải đi làm để kiếm tiền chi tiêu cho
chi phí đắt đỏ ở thành phố này, buồi tối họ quay về nhà chỉ để giải quyết
các nhu cầu cá nhân và có chỗ để ngủ. Có những căn hộ xếp chồng lên
nhau như giường tầng, việc phải sống chung với những người xa lạ là một
điều đã quá quen thuộc với họ. Những vấn đề này gây ra sự ức chế lên
tinh thần của những người sống ở đây, áp lực và mệt mỏi từ một ngày làm
việc căng thẳng lại không được giải tỏa vào buổi tối mà còn bị chi phối
bởi sự không thoải mái khi làm những việc cá nhân mà xung quanh còn
có quá nhiều người, sự riêng tư bị xâm hại quá mức bình thường.
Khu nhà ở tập thể HongKong. Nguồn: Internet [21]
Một bài viết của PGS.TS.KTS Nguyên Hạnh Nguyên cũng đã bàn
về hình thái kiến trúc và thiết kế đô thị có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý
và tư duy của con người: “Tôi cho rằng hình thái đô thị, chuyện đẹp xấu
trong đô thị, trong kiến trúc ảnh hưởng vô cùng lớn dù rất âm thầm tới
con người sống trong đô thị đó. Khi kiến trúc, cảnh quan đô thị được
nghiên cứu chuẩn mực từ tổng thể đến chi tiết, được thiết kế một cách
ngay ngắn, con người dần dần cũng trở nên ngăn nắp trong tư duy. Tất cả
những ai đã ra nước ngoài học, làm việc đều thấy dường như mình tử tế
hơn ở môi trường đó. Khi kiến trúc đạt đến độ phóng khoáng, con người
sống ở đó cũng lãng mạn hơn, không còn suy nghĩ bon chen chuyện đời
nữa”. [5]
Cô cho rằng các vấn đề chủ yếu trong thiết kế kiến trúc và đô thị ở
Việt Nam tồn tại rất nhiều sự hỗn độn, không ngăn nắp và thiếu trật tự, từ
đó tạo ra rất nhiều góc nhọn, góc chết. Từ các yếu tố về tạo hình và thiết
kế này tồn tại ngày này qua ngày khác sẽ ăn sâu vào tiềm thức của người
dân đô thị, khiến họ bị chi phối mà không hề hay biết, tạo ra sự lộn xộn về
mặt nhận thức môi trường xung quanh dẫn đến mất trật tự trong suy nghĩ.
Cụ thể như sau: “Những lời sắc nhọn khiến ta thức tỉnh, giật mình. Những
lời mềm mại, tự nhiên khiến ta mềm lòng, thấy dịu dàng. Những đường
thẳng, mạnh mẽ khiến ta thấy sự uy nghi, nghiêm trang. Những màu trầm
mặc khiến ta dịu lại, tĩnh tâm... Ngược lại: Những lời nói hỗn độn, những
thứ lộn xộn sẽ khiến ta phân tâm, không thể tập trung nghĩ được những
điều bay bổng. Dần dà nếu ta cứ dễ dãi (hoặc biết mà chẳng thể thay đổi
được trong phạm vi tầm mắt của mình) thì chính những "lời nói" này làm
hại tinh thần của ta, khiến ta cứ luẩn quẩn, trách móc, bon chen, đố kị...
chẳng thể vượt ra xa mà nghĩ những điều có giá trị thực sự.
Vì sao người dân trong các đô thị ở Việt Nam ngày càng suy nghĩ tiêu
cực? Vì sao mọi người ra đường ngày càng thiếu kiềm chế? một phần
cũng do sự hỗn độn của mớ vật chất khổng lồ đang choáng hết thị giác
hàng ngày.”[5]
* Về nhận thức:
Sự thay đổi về tâm trạng, cảm xúc của người trầm cảm cũng tác
động đến nhận thức của họ về bản thân và môi trường xung quanh. Họ
luôn tự ti về bản thân mình, cảm thấy bản thân vô dụng và lúc nào cũng là
một sự phiền phức, dư thừa, gánh nặng cho những người xung quanh.Từ
đó, hình thành lối suy nghĩ rằng sự tồn tại của mình là không cần thiết và
không ảnh hưởng đến những người xung quanh khi mình biến mất, thậm
chí còn là trút bỏ gánh nặng cho người thân. Những nhận thức tiêu cực
này bước đầu tạo ra cho những người trầm cảm sinh ra ý muốn trừng phạt
lên bản thân mình bằng cách tự cắt, rạch tay (self-cut), đã có hẳn một trào
lưu trong giới trẻ về việc tự hành hạ bản thân, điển hình là trào lưu “Cá
voi xanh” đã một thời gây hoang mang khi mọi người biết đến. Cuối
cùng, người trầm cảm tìm đến sự giải thoát cho bản thân để không phải
chịu những cảm xúc tiêu cực đó bằng việc tự tử.
* Cấp độ 3 – Giai đoạn trầm cảm nặng không kèm theo loạn thần:
Các triệu chứng:
- Buồn bã kéo dài.
- Chậm chạp hoặc dễ kích động.
- Luôn mất tự tin.
- Cảm thấy mình vô dụng hoặc thấy có tội lỗi..
- Tự làm tổn thương bản thân hoặc người xung quanh
- Trầm trọng hơn, người bệnh có thể có suy nghĩ muốn tự tử hoặc hành vi
tự tử.
Triệu chứng cơ thể xuất hiện hầu như thường xuyên ở giai đoạn
này. Người bị bệnh trầm cảm ở giai đoạn này thường có 3 triệu chứng
điển hình của giai đoạn trầm cảm nhẹ hoặc vừa, cộng thêm ít nhất 4 triệu
chứng nặng khác.
* Cấp độ 4 – Trầm cảm nặng kèm theo loạn thần:
Người bệnh trầm cảm có kèm theo triệu chứng hoang tưởng, xuất
hiện ảo giác chẳng hạn như nghe thấy tiếng nói, âm thanh lạ, tưởng tượng
ra có tai họa sắp xảy ra… Trầm cảm nặng hoặc trầm cảm kèm theo loạn
thần đòi hỏi phải có sự can thiệp y tế càng sớm càng tốt. Khi có những biểu
hiện loạn thần hoặc hành vi tự làm tổn thương, ý nghĩ tự sát người bệnh cần
được thăm khám với bác sỹ chuyên khoa sức khỏe tâm thần càng sớm càng
tốt. Bác sỹ có thể sẽ sử dụng thuốc hoặc phối hợp với tâm lý trị liệu, sốc
điện để giúp cho bệnh nhân thoát khỏi tình trạng nguy hiểm.
I.6 Các phương pháp trị liệu:
I.7 Cơ sở lý luận:
I.7.1 Các yếu tố tác động đến quá trình phục hồi (các yếu tố
kiến trúc và nội thất tác động đến tâm lý):
Như đã đề cập ở những phần trên, thiết kế Kiến trúc và Nội thất
góp phần không nhỏ đến những tác động về tâm lý của người sử dụng.
Chính từ nguyên nhân đó và sự phát triển của ngành Tâm lý học, các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra được nhiều khía cạnh về tính chất không gian, thẩm
mỹ và cả những nhu cầu về công năng ảnh hưởng như thế nào đến cảm
nhận và tâm lý người sử dụng. Cho đến thời điểm hiện nay, thiết kế Kiến
trúc và Nội thất không còn giữ nguyên những vai trò trước đây mà còn
được mở rộng và phát triển lên một khía cạnh rộng lớn hơn, đó là còn chú
trọng về thiết kế môi trường. Tạo tác không gian gắn liền với sự vận động
của con người về không gian ấy cho nên ngoài đảm bảo những nhu cầu về
công năng, thẩm mỹ và sự tiện nghi phù hợp thì các nhà thiết kế còn phải
luôn luôn quan sát, nghiên cứu để nâng cao chất lượng sống từ những gì
khái quát cụ thể cho đến chi tiết, tỉ mỉ, đảm bảo sự thoải mái tối đa về mặt
tinh thần. Phần nghiên cứu này tìm hiểu về các yếu tố tương tác giữa thiết
kế - môi trường – con người.
I.7.2 Phản ứng các giác quan với mối trường của người trấm
cảm:
Giác quan Đặc trưng của người trầm cảm Các yếu tố tác
động
Thị giác - Vấn đề nhìn rõ bị ảnh hưởng khi - Hình dáng cấu trúc
tự cô lập mình trong không gian không gian, trang
kín và thiều sáng khá lâu, ít tiếp thiết bị.
xúc ánh sáng mặt trời và thị giác bị - Ánh sáng.
giảm do thiếu ngủ hoặc thiếu chất
dinh dưỡng -> nhạy cảm với ánh
sáng.
- Người trầm cảm nặng sẽ bị tác
động bởi các đồ vật nhọn bằng kim
loại hoặc các chi tiết góc cạnh,
thanh treo -> ý nghĩ tự sát.
- Dùng thuốc có thể gây ra khô và
mờ mắt.
- Một số trường hợp rối loạn tương
phản trắng đen và nhìn thấy màu
xám nhiều hơn sau khi trài qua
trầm cảm.
Thính giác - Nhạy cảm hơn với tiếng ồn. - Tiếng ồn.
Khứu giác - Giảm độ thính của khứu giác. - Mùi hương
Vị giác - Giảm vị giác trong cảm nhận mùi - Thức ăn
vị -> chán ăn hoặc ăn không thấy - Ánh sáng
ngon miệng. - Màu sắc
Xúc giác - Giảm khả năng chịu đau về thể - Bề mặt chất liệu.
xác.
- Nhạy cảm với các bề mặt hơn.
Chương II. CÁC THIẾT KẾ TIỀN LỆ
II.1 Nguyên lý thiết kế công trình bệnh viện và trung tâm phục hồi
(trích TCVN):
II.1.1 Quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế:
II.1.1.1 Kích thước thông thủy:
* Chiều cao phòng:
- Chiều cao thông thủy tối thiểu của các gian phòng trong bệnh viện
được quy định là 3,0 m và được phép thay đổi tùy theo yêu cầu của từng
khoa trong bệnh viện.
- Chiều cao thông thủy các phòng tắm rửa, xí tiểu, kho đồ vật bẩn
không nhỏ hơn 2,4 m.
CHÚ THÍCH: Trong trường hợp sử dụng điều hòa không khí cho
phép giảm chiều cao để sử dụng tiết kiệm năng lượng. Nếu sử dụng thiết bị
làm sạch không khí phải đảm bảo độ cao để lắp đặt thiết bị tùy theo yêu cầu
cụ thể.
- Chiều cao thông thủy của các khu vực trong khoa Phẫu thuật được
quy định như sau:
+ Chiều cao khu vô khuẩn, khu sạch: không thấp hơn 3,3 m;
+ Chiều cao khu phụ trợ: không thấp hơn 3,0 m.
* Hành lang:
- Chiều rộng của hành lang giữa: không nhỏ hơn 2,4 m;
- Chiều rộng của hành lang giữa (có di chuyển giường đẩy, kết hợp
chỗ đợi): không nhỏ hơn 3,0 m;
- Chiều rộng của hành lang bên: Không nhỏ hơn 1,8 m;
- Chiều rộng của hành lang bên (có di chuyển giường đẩy, kết hợp
chỗ đợi): không nhỏ hơn 2,4 m;
- Chiều cao hành lang: không thấp hơn 2,7 m;
CHÚ THÍCH: Phải bố trí tay vịn hai bên hành lang trong bệnh viện
để trợ giúp cho người khuyết tật và người bệnh. Độ cao lắp đặt tay vịn từ
0,75 m đến 0,8 m.
* Cửa đi:
- Chiều cao của cửa đi: không thấp hơn 2,1 m;
- Chiều rộng của cửa đi một cánh: không nhỏ hơn 0,9 m;
- Chiều rộng của cửa đi hai cánh: không nhỏ hơn 1,2 m;
- Chiều rộng của cửa đi chính vào các phòng mổ, đỡ đẻ, cấp cứu và
chăm sóc tích cực: không nhỏ hơn 1,6 m;
- Chiều rộng của cửa đi chính của phòng chiếu chụp: không nhỏ hơn
1,4 m.
- Chiều rộng cửa phòng vệ sinh: không nhỏ hơn 0,8 m.
CHÚ THÍCH: Kích thước hành lang, cửa đi của các khoa tùy theo
yêu cầu sử dụng được quy định riêng.
* Cầu thang và đường dốc:
Thiết kế cầu thang, đường dốc phải đảm bảo quy định về an toàn sinh
mạng và sức khỏe cho người sử dụng [4] và đáp ứng yêu cầu sau:
- Chiều rộng của mỗi vế thang: không nhỏ hơn 2,1 m.
- Chiều rộng của chiếu nghỉ cầu thang: không nhỏ hơn 2,4 m.
- Độ dốc của đường dốc: không nhỏ hơn 1:10;
- Chiều rộng của đường dốc: không nhỏ hơn 2,1 m.
- Chiều rộng của chiếu nghỉ đường dốc: không nhỏ hơn 3,0 m;
- Tại lối ra vào chính phải có đường dốc dành cho người khuyết tật
có chiều rộng: không nhỏ hơn 1,2 m.
* Thang máy:
- Kích thước thang máy (cabin) phải đủ cho cáng bệnh nhân và 04
người, chiều rộng x chiều dài: không nhỏ hơn 1,3 m x 2,1 m;
- Kích thước thang máy cho nhân viên, chiều rộng x chiều dài: không
nhỏ hơn 1,1 m x 1,4 m;
- Chiều rộng của thang máy: không nhỏ hơn 0,9 m;
- Tốc độ thang máy cho bệnh nhân: không lớn hơn 0,75 m/s.
II.1.1.4 Dây chuyền chức năng khu điều trị ngoại trú – nghiệp
vụ:
II.1.1.5 Dây chuyền chức năng khu điều trị đặc thù:
- Cần phải chú ý việc có biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm
do thải nước dơ và khói từ lò nấu thanh trùng. Khu giặt nên gần
trung tâm thanh trùng.
- Nhiều bệnh viện không còn tổ chức khu giặt trong khuôn viên
mà thuê các xí nghiệp giặt chuyên nghiệp làm việc này.
b. Khoa dinh dưỡng:
*Chức năng:
- Khoa dinh dưỡng của bệnh viện có nhiệm vụ tổ chức phục vụ
ăn uống cho người bệnh chế độ ăn uống theo bệnh lý.
- Tham gia đào tạo cán bộ chuyên khoa, nghiên cứu khoa học về
ac1c chế dộ dinh dưỡng phục vụ người bệnh.
- Nhà bếp nên đặt tại nơi ít ảnh hưởng bệnh nhân do tỏa nhiệt,
khói và các mùi nặng. Tuy nhiên, điều này có thể hạn chế được
khi có các trang thiết bị mới như bếp gas, toa thu khói kiểu mới,
hệ thống điều hòa không khí cưỡng bức.
- Nhà bếp cũng phải đặt tại vị trí không có các dòng giao thông
khác đi xuyên qua như dòng quần áo sạch, dơ, các vật tư từ
trong kho… cần cách ly tuyến xuất cơm ra và nhận dụng cụ ăn
dơ trở lại.
- Cần tạo nơi tập hợp các xe đẩy chở cơm đứng chờ cả ở 2 tuyến
xuất và nhập. Để có thể phục vụ sớm khuya, khu bếp nên có nơi
cho nhân viên ngủ lại để trực.
c. Kho:
- Có nhiều kho khác nhau (kho sạch, kho bẩn, kho dụng cụ, kho
đồ vải, kho thuốc…) trong bệnh viện.
- Tuy là thành phần phụ trợ nhưng vô cùng cần thiết và phải
được bộ phận quản lý giám sát chặt chẽ, khi nói đến dây chuyền
sạch, bẩn, các kho cần được bố trí ở vị trí thích hợp để đảm bảo
vệ sinh.
d. Khu dịch vụ thương mại:
- Ngày nay, các dịch vụ thương mại cũng đã trở thành một nhu
cầu thiết yếu trong bệnh viện. Chức năng này thường gần với
sảnh bao gồm: các shop quần áo, nhu yếu phẩm, cắt tóc, may đồ,
tiệm ăn, căn tin. Có như vậy người bệnh mới không có cảm giác
mình bị cách ly khỏi xã hội.
II.1.1.9 Khu phục hồi – vật lý trị liệu:
* Dây chuyền chức năng:
Ngoài ra, còn có các hình thức vận động cho trẻ em:
- Tập vận động: Tùy theo tình trạng bệnh của mỗi trẻ.
- Tập sinh hoạt hằng ngày: ăn uống, vệ sinh, tắm rửa, mặc quần
áo…
- Tập kĩ năng ăn uống: tập cầm nắm vật dụng và cách ăn uống.
- Tập kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ: trao đổi giữa hai hay nhiều
người, bao gốm việc gửi thông tin theo chủ đề nào đó và nhận lại phản
hồi.
- Hoạt động vui chơi: trong nhà và ngoài trời.
- Không gian tập chủ động mở ra thiên nhiên, cần nhiều ánh sáng tự
nhiên. Chiều cao phòng tùy thuộc độ rộng của phòng sao cho không bị ức
chế không gian (>=3300).
- Không gian tập chủ động có hỗ trợ ít mở ra thiên nhiên. Sử dụng
ánh sáng nhân tạo hoặc trực tiếp từ trần (mặt trời).
- Không gian tập thụ động ít mở ra thiên nhiên vì tính riêng tư.
Không lấy sáng từ trần.
- Không gian vận động cho trẻ em vui tươi, bo tròn các góc cạnh.
Ưu tiên lấy sáng tự nhiên.
-> Không gian vận động trị liệu cần ánh sáng đầy đủ và hạn chế cột
trong không gian tập. Không gian không qua dài và hẹp. Tùy từng mục
đích tập mà mỗi phòng có chiều cao phù hợp với máy tập và dụng cụ tập.
* Các yếu tố tác động:
Mục đích chính (chung):
- Duy trì và phục hồi tầm hoạt động của khớp, tính mềm dẻo của
mô mềm, phòng ngừa các thương tật thứ cấp do bất động.
- Làm tăng sức mạnh, sức bền và khả năng kiểm soát vận động của
cơ, cải thiện sự vững khớp.
- Cải thiện sức khỏe và sức bền tim mạch.
- Cải thiện điều hợp thần kinh – cơ, cảm thụ bản thể, thăng bằng.
- Gia tăng khả năng hoạt động và các kĩ năng chức năng.
Mỗi giai đoạn vật lí trị liệu sẽ có hiệu quả và mục đích tăng dần lên.
Các mục đích chính (riêng) của các phương pháp trị liệu vận động:
- Vận động thụ động:
+ Phòng ngừa kết dính khớp.
+ Duy trì độ dài cơ và phần mềm quanh khớp, ngăn ngừa co rút.
+ Tăng cảm giác cảm thụ bản thể.
+ Phòng ngừa các biến chứng do bất động khác.
- Vận động chủ động (có người hỗ trợ):
+ Phòng ngừa kết dính khớp.
+ Duy trì độ dài cơ và phần mềm quanh khớp, ngăn ngừa co rút.
+ Tăng cảm giác cảm thụ bản thể.
+ Phòng ngừa các biến chứng do bất động khác.
+ Tăng tiến cơ lực.
- Vận động chủ động:
+ Phòng ngừa kết dính khớp.
+ Duy trì độ dài cơ và phần mềm quanh khớp, ngăn ngừa co rút.
+ Tăng cảm giác cảm thụ bản thể.
+ Phòng ngừa các biến chứng do bất động khác.
+ Tăng tiến cơ lực, cải thiện chức năng.
c. Điện xung trị liệu:
* Định nghĩa:
- Là một phương pháp điều trị bằng các xung điện có tần số thấp
và trung bình. Tín hiệu xung điện là tín hiệu điện áp hay dòng
điện biến đổi theo thời gian một cách rời rạc (tức không liên
tục).
- Tín hiệu điện xung có thể là một dây theo xung tuần hoàn theo
thời gian với chu kì lặp lại, hay chỉ là một xung đơn xuất hiện
một lần, có cực tính hoặc cực tính thay đổi.
* Hình thức tập:
- Tập cùng nhiều máy móc khác nhau: máy massage, bấm huyệt
xung điện, máy điện xung trị liệu STT…
* Vị trí – tính chất không gian:
* Tác dụng:
- Giảm đau và giảm trương lực cơ:
+ Cơ chế cổng kiểm soát: các xung động thần kinh do tác dụng
của dòng điện xung khi đi vào tủy sống làm ức chế sự dẫn
truyền cảm giác đau lên não.
+ Cơ chế phóng thích endorphine: tác động của xung động thần
kinh do dòng điện xung kích thích não giải phóng các morphine
nội sinh (gọi là endorphine) nên có tác dụng giảm đau.
- Kích thích thần kinh:
+ Các dòng điện xung có tần số thấp, cường độ tăng nhanh, loại
dòng điện như dòng tam giác, chữ nhật, AMF, giao thoa, kiểu
Nga… có tác dụng kích thích thần kinh cơ, làm tăng dẫn truyền
thần kinh, tăng trương lực cơ, tăng khối lượng cơ.
d. Châm cứu:
* Định nghĩa:
- Châm cứu là phương pháp điều trị không thể thiếu của y dược cổ
truyền phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam,
châm cứu đã phát triển rộng rãi trong việc phòng và trị bệnh. Châm cứu
gồm hai hình thức khác nhau:
+ Châm: dùng kim xuyên qua da của một vùng cơ thể nhất định gọi
là huyệt.
+ Cứu: dùng lá khô của cây Ngãi cứu (Artemisia vulgaris L) đốt lên
để hơ nóng trên huyệt.
* Hình thức tập:
- Thể châm: châm các huyệt tr6en cơ thể.
- Nhỉ châm: châm các huyệt trên loa tai.
- Điện châm: châm hoặc ấn các huyệt trên mặt.
- Túc châm, thủ châm, tỵ châm.
- Châm tê.
* Vị trí – tính chất không gian:
- Thiết kế chiếu sáng tự nhiên cho công trình bố trí hành lang giữa
(có chiều dài không lớn hơn 20 m) có thể lấy ánh sáng từ mọi phía. Hành
lang giữa dài hơn 40 m phải được chiếu sáng từ hai phía và có khoang lấy
sáng không được nhỏ hơn 3 m cách đầu hồi từ 20 m đến 25 m.
- Hệ thống chiếu sáng trực đêm trong phòng bệnh nhân cần đảm bảo
độ rọi 5 lux trên mặt ngang cách sàn 0,8 m. Các đèn phải bố trí thấp hơn
mặt giường, không được gây chói cho bệnh nhân và điều khiển riêng biệt
với các hệ thống chiếu sáng khác. Hệ thống chiếu sáng trực đêm trong
phòng bệnh nhi phải đảm bảo độ rọi 20 lux.
- Diện tích cửa sổ lấy sáng tự nhiên phải đảm bảo quy định:
- Đối với phòng bệnh nhân, nhân viên: không nhỏ hơn 20 % diện tích
sàn;
- Đối với các phòng phụ trợ: không nhỏ hơn 15 % diện tích sàn.
- Hướng mở cửa sổ các gian phòng chủ yếu trong bệnh viện tham
khảo phụ lục K.
- Trong bệnh viện phải có hệ thống đèn chiếu sáng sự cố có trị số độ
rọi không nhỏ hơn 5 % trị số độ rọi quy định trong Bảng 37 và đảm bảo
quy định:
- Không nhỏ hơn 2 lux với hệ thống đèn chiếu sáng sự cố trong nhà;
- Không nhỏ hơn 1 lux với hệ thống đèn chiếu sáng sự cố ngoài nhà.
II.1.2.2 Yêu cầu về giải pháp thông gió:
- Khi thiết kế hệ thống thông gió và điều hòa không khí cho bệnh
viện cần có các giải pháp công nghệ, giải pháp kiến trúc và kết cấu một
cách hợp lý đảm bảo yêu cầu vệ sinh, tuân thủ các quy định trong TCVN
5687 : 2010 và đảm bảo công trình xây dựng sử dụng năng lượng có hiệu
quả [9].
- Cần thiết kế thông gió cơ khí cho các phòng thí nghiệm có sản sinh
ra hơi độc, hỗn hợp bụi khí có nguy hiểm về cháy nổ hoặc có lò đốt.
CHÚ THÍCH:
1) Đối với các phòng thí nghiệm có thải hơi độc thì bố trí hút hơi tại
chỗ bằng các tủ hút hơi. Nơi thoát hơi độc phải bố trí ở chỗ thoáng không
ảnh hưởng tới người làm việc hay sinh hoạt.
2) Số lần trao đổi không khí của phòng được tính toán theo nồng độ
cho phép của hơi độc trong phòng và lượng nhiệt thừa tỏa ra.
- Phải thiết kế hệ thống quạt trần, thông gió cơ khí cho các khoa,
phòng trong bệnh viện.
- Sảnh đợi, đón tiếp, nơi đăng ký, nơi đăng ký lấy số và nhận/ trả kết
quả, khu phụ trợ và hành lang nên sử dụng cả phương pháp thông gió tự
nhiên và thông gió nhân tạo.
- Khu vực bố trí điều hòa không khí cần phân bố theo điều kiện và
có thời gian vận hành thích hợp tùy chức năng của từng phòng.
b. Tường:
- Bề mặt tường phải được quét sơn, quét vôi đảm bảo vệ sinh và mỹ
quan.
- Bề mặt tường bên trong có yêu cầu vệ sinh, cọ rửa thường xuyên
phải được quét sơn hoặc sử dụng vật liệu đảm bảo chống thấm và
chống ăn mòn của hóa chất tới độ cao tối thiểu 2,0 m so với mặt sàn.
- Tường bên trong phòng X quang phải dùng vật liệu cản được tia
xạ, đảm bảo an toàn bức xạ ion hóa theo quy định của TCVN
6561 và TCVN 6869.
- Tường bên trong các phòng tạm lưu cấp cứu, điều trị tích cực và
chống độc, phòng làm thủ thuật can thiệp, phòng mổ phải hoàn thiện
bằng vật liệu chống thấm, chống ăn mòn hóa chất, kháng khuẩn, dễ
cọ rửa từ sàn tới trần.
- Tường bên trong khu vực hàng lang có chuyển cáng, xe và giường
đẩy phải gắn thanh chống va đập ở độ cao từ 0,7 m đến 0,9 m tính từ
mặt sàn.
c. Trần:
- Bề mặt trần phải phẳng, nhẵn, không bám bụi, đảm bảo cách nhiệt,
cách âm, chống thấm.
- Trần bên trong phòng và hành lang của khoa cấp cứu và khoa Điều
trị tích cực và chống độc, khoa Phẫu thuật - gây mê hồi sức phải có
bề mặt phẳng, nhẵn không bám bụi, kháng khuẩn, bảo ôn và chống
thấm.
- Các phòng, hành lang phải có trần kỹ thuật lắp đặt các thiết bị chiếu
sáng, phòng cháy chữa cháy, điều hòa không khí và các thiết bị kỹ
thuật khác.
- Trần bên trong phòng Xquang phải dùng vật liệu cản được tia xạ
đảm bảo an toàn bức xạ ion hóa tuân theo quy định trong TCVN
6561 và TCVN 6869.
d. Cửa đi:
- Kích thước đảm bảo yêu cầu sử dụng.
- Phòng cấp cứu, phòng chăm sóc tích cực phải được thiết kế cửa
hai cánh, bản lề mở hai chiều hoặc đóng mở tự động và phải có chốt,
khóa an toàn.
- Cửa thoát hiểm chính của các khối công trình và khu vực tập trung
đông người phải được thiết kế mở ra phía ngoài.
- Cửa sảnh, cửa phòng phân loại có thể thiết kế dạng đóng mở tự
động.
- Các cửa đi chính có chuyển xe, giường đẩy dùng cửa có bản lề mở
2 chiều.
- Phòng Xquang phải được thiết kế cửa đẩy ngang có ray treo, đảm
bảo an toàn bức xạ ion hóa đảm bảo kín không để lọt tia xạ khi chiếu,
chụp. Phải có đèn hiệu biển cảnh báo bức xạ ở bên ngoài phòng chụp.
e. Cửa sổ:
- Phải có hệ thống song sắt bảo vệ và lưới chống côn trùng (nếu cần).
- Các phòng đặt thiết bị Xquang, máy chụp cắt lớp và máy cộng
hưởng từ không được thiết kế cửa sổ.
II.1.2.4 Yêu cầu về Ngoại thất:
Thiết kế nội và ngoại thất phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đồng bộ với công nghệ, trang thiết bị và kết cấu chịu lực;
- Phù hợp tâm sinh lý của bệnh nhân, nhân viên;
- Bền vững và thuận tiện cho công tác vệ sinh bảo dưỡng thường
xuyên;
- Có biện pháp phòng chống mối mọt cho công trình.
II.2 Hiện trạng các thiết kế/ giải pháp tiền lệ:
II.2.1 Tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Theo nghiên cứu và tìm hiểu, hầu hết các khu phục hồi chức năng
tại Thành phố Hồ Chí Minh đều tồn tại dưới dạng một khu vực/ khoa trực
thuộc một bệnh viện lớn, các trung tâm phục hồi chung cho nhiều nhóm
đối tượng, nhiều loại bệnh khác nhau, chứ chưa có các trung tâm phục hồi
riêng biệt dành cho nhóm đối tượng mắc các vấn đề về tâm lý. Bên cạnh
đó, các bệnh viện hoặc trung tâm điều trị tâm lý, tâm thần điển hình như
Bệnh viện tâm thần thành phố Hồ Chí Minh có các khu phục hồi tích hợp
chung trong công trình và không có sự phân tách rõ ràng cho hai nhóm
đối tượng riêng biệt là nhóm đang điều trị và nhóm cần hỗ trợ phục hồi
sau điều trị. Các trung tâm trị liệu và tư vấn tâm lý, phục hồi chức năng
riêng biệt hầu hết đều là các công trình tư nhân có qui mô nhỏ, không có
diện tích lớn để có các khoảng sân vườn rộng lớn hỗ trợ cho việc điều trị
đạt hiệu quả cao.
Bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng 1A TP.HCM. Nguồn:
Internet
Bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng TP.HCM. Nguồn: Internet
Trung tâm Vật lí trị liệu và phục hồi chức năng Thiền Tâm.. Nguồn:
Internet
Ngoài việc chưa có các trung tâm phục hồi riêng biệt thì tại Thành
phố Hồ Chí Minh cũng chưa có một trung tâm điều trị nào dành riêng cho
các người mắc các chứng bệnh về tâm lý, hầu hết được điều trị chung với
các bệnh nhân tâm thần, còn nếu muốn điều trị riêng tư hơn thì chỉ có thể
đến các phòng khám tư nhân. Đây là một trong những thiếu sót vô cùng
lớn đối với công tác điều trị các chứng bệnh về tâm lý.
Tại các trung tâm phục hồi tập trung, vì tích hợp chung với các
bệnh viện nên dễ dàng nhận thấy các không gian được thiết kế hoàn toàn
giống với các không gian của bệnh viện, từ nơi nghỉ ngơi cho đến phòng
ốc điều trị. Các hoạt động vật lí trị liệu không cần máy móc chuyên sâu
hầu hết được điều trị tập thể, không có sự riêng tư. Các phòng trị liệu có
máy móc thì được thiết kế như một phòng khám – chữa bệnh thông
thường ở các bệnh viện, với một sự nhận dạng dễ gây cảm giác xa lạ, và
ang tới tâm lý “sọ bệnh viện” cho người được điều trị. Không những thế,
do nhiều lý do mà cơ sở vật chất của nhiều khu phục hồi đã xuống cấp từ
rất lâu nhưng vẫn không có cơ hội sửa sang, nâng cấp, điều này ảnh
hưởng rất nhiều đến chất lượng phục hồi của bệnh nhân.
Vì vậy, việc cần có một trung tâm phục hồi hỗ trợ đặc thù cho
những người mắc bệnh tâm lý như trầm cảm đang là một vấn đề cần được
giải quyết trong bối cảnh xã hội hiện nay. Và cần phải có một thiết kế
ngoài đảm bảo các tiêu chuẩn còn phải có một thiết kế có sự đầu tư, quan
tâm nhiều hơn đến các đặc điểm của nhóm đối tượng.
II.2.2 Trên thế giới:
Dưới đây là một số công trình trung tâm phục hồi tham khảo.
a. Trung tâm phục hồi chức năng Groot Klimmendaal của
Architectenbureau Koen van Velsen, Hà Lan
Trong cảnh quan rừng nhấp nhô xung quanh Arnhem ở phía đông
của Hà Lan, Groot Klimmendaal có thể được tìm thấy đứng như
một con nai yên tĩnh giữa những tán cây. Tòa nhà được đúc hẫng
trên địa hình rừng cây, mặt tiền nhôm anodised vàng nâu cho phép
tòa nhà gần 14.000m2 hòa quyện với môi trường tự nhiên xung
quanh nó. Bên trong công trình có đầy đủ các khu vực chức năng
như trong một khu dân cư, các phòng tập, phòng gym, trung tâm
thương mại, nhà hàng… giúp cho những người tham gia điều trị
phục hồi và thân nhân có một trải nghiệm gần gũi và đáp ứng được
mọi nhu cầu sinh hoạt thiết yếu.
Nguồn ảnh: Internet
Sự kết nối giữa không gian trong và ngoài được tổ chức bởi các
mảng xanh, có các khu vườn và công viên phía trong công trình danh cho
người đi bộ tập thể dục. Ngoài ra, việc kết nối phía trong công trình là
một cuốn thang bằng gỗ chạy xuyên suốt công trình giúp liên kết và kích
thích các bệnh nhân phục hồi tích cực trong việc tập thể dục. Giá trị cao
nhất trong thiết kế là việc đặt con người nằm giữa bối cảnh thiên nhiên
rộng lớn, không gian mở với các diện kính lớn giúp lấy ánh sáng tự nhiên
vào xuyên suốt không gian nội thất, đồng thời giúp điều hòa nhiệt độ. Các
khoàng xanh là một trong những yếu tố hỗ trợ phục hồi nhanh chóng. Nội
thất được nhấn nhá bởi các ảng màu sắc bắt mắt trên nền trắng, với hệ
thống chiếu sáng thú vị giúp tạo nên một thiết kế thú vị.
Nguồn ảnh: Internet
* Dự án tích hợp các cơ sở chăm sóc sức khỏe vào các căn hộ lều ở Bắc
Kinh của Cameron Clarke:
Cũng giống như ở Việt Nam các trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm thần
tại Bắc Kinh không được chú trọng và hầu hết chỉ là những ngôi nhà nhỏ
nép mình bên những ngồi lếu của cư dân bản địa. Với dự án tích hợp các
cơ sở điều trị tâm thần vào kiến trúc địa phương, góp phần đưa điều trị
đến gần nhà hơn. Đây là việc tạo ra cho thiết kế một sự nhận dạng gắn
liền với địa phương nhất định, kết hợp các yếu tố về văn hóa và vật liệu
địa phương giúp kêu gọi và động viên người dân đến phòng khám một
cách tự tin, không còn e dè hay tự ti. Đồng thời, dự án còn kết hợp một số
liệu pháp trị liệu bằng công nghệ hiện đại mới vào, góp phần nâng cao
dân trí cho những người dân nơi đây.
Chương III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Với nhiều yếu tố tác động đến hành vi, nhận thức và tâm lý, cùng
với sự phát triển không ngơi nghỉ sinh ra hàng ngàn vấn đề, hàng triệu
nguồn thông tin, điều này dễ dàng dẫn đến sự quá tải cho con người. Trầm
cảm nói riêng và các vấn đề về sức khỏe tâm thần nói chung là một vấn đề
hết sức đáng lo ngại trong thời điểm cuộc sống hiện đại ngày nay. Đối
mặt với tất cả những vấn đề đó, sự chịu đựng của con người là có giới
hạn. Tất cả những đúc kết dưới đây về các yếu tố thiết kế Kiến trúc – Nội
thất là những đúc kết có được thông qua những tài liệu nghiên cứu đi
trước. Bản thân người thực hiện tổng hợp cảm thấy đây là những thông tin
góp phần hỗ trợ cho quá trình phục hồi của những người mắc bệnh được
tốt hơn, cung cấp thêm kiến thức giúp những người chưa gặp các vấn đề
về tâm lý và sức khỏe tâm thần tránh khỏi và giải quyêt những vấn đề
trong không gian sống hằng ngày, ngăn ngừa tối đa việc mắc phải. Bài
nghiên cứu hoàn toàn không phải là những giải pháp dùng để điều trị cho
những người đang gặp vấn đề. Nếu không may, chúng ta mắc phải một
trong những vấn đề nêu trên, sức khỏe tâm thần bị ảnh hưởng thì cách giải
quyết tốt nhất vẫn là đến gặp các chuyên gia, y bác sĩ để chẩn đoán và
điều trị bằng các phương pháp trị liệu, hoặc các phương pháp về y khoa
nếu cần.
III.1 Các giải pháp kích thích giác quan của người trầm cảm:
Giác quan Đặc trưng Các yếu tố Giải pháp Ghi chú
của người tác động
trầm cảm
Thị giác - Vấn đề nhìn - Hình dáng - Thay đổi, Xem phần
rõ bị ảnh cấu trúc hạn chế các giải pháp
hưởng khi tự không gian, chi tiết sắc cụ thể ở
cô lập mình trang thiết cạnh, nhọn. - các mục
trong không bị. Đổi vật liệu tương ứng
gian kín và - Ánh sáng. ốp hạn chế sử III.2, III.3,
thiều sáng khá dụng kim loại. III.4
lâu, ít tiếp xúc - Cường độ
ánh sáng mặt chiếu sáng
trời và thị giác phù hợp từng
bị giảm do khu vực chức
thiếu ngủ năng.
hoặc thiếu - Tránh chói
chất dinh sáng từ các
dưỡng -> vật dụng có bề
nhạy cảm với mặt phản
ánh sáng. chiếu, thay
- Người trầm đổi cường độ
cảm nặng sẽ quá đột ngột.
bị tác động - Áp dụng các
bởi các đồ vật giải pháp cải
nhọn bằng thiện giấc
kim loại hoặc ngủ.
các chi tiết
góc cạnh,
thanh treo ->
ý nghĩ tự sát.
- Dùng thuốc
có thể gây ra
khô và mờ
mắt.
- Một số
trường hợp rối
loạn tương
phản trắng
đen và nhìn
thấy màu xám
nhiều hơn sau
khi trài qua
trầm cảm.
Thính giác - Nhạy cảm - Tiếng ồn.- Hạn chế
hơn với tiếng tiếng ồn từ
ồn. bên ngoài
bằng các biện
pháp cách âm,
ngăn chia
hoặc trồng
cây.
Khứu giác - Giảm độ - Mùi hương - Kích thích
thính của khứu giác
khứu giác. bằng các giải
pháp tạo mùi
hương từ cây
cỏ.
Vị giác - Giảm vị giác - Thức ăn - Kích thích vị
trong cảm - Ánh sáng giác để ăn
nhận mùi vị - - Màu sắc ngon miệng
> chán ăn hơn bằng ánh
hoặc ăn không sáng và màu
thấy ngon sắc tại các
miệng.
không gian
phòng ăn.
Xúc giác - Giảm khả - Bề mặt - Hạn chế sử
năng chịu đau chất liệu. dụng các vật
về thể xác. liệu thô sần,
- Nhạy cảm tác động tới
với các bề mặt xúc giác
hơn. mạnh.
- Không gian nên được thông thoáng, tinh gọn, không có quá nhiều góc
khuất, hạn chế tạo những hành lang quá dài để giảm cảm giác bất an, tiêu
cực.
- Hạn chế các góc cạnh, mũi nhọn hết sức có thể để tránh suy nghĩ tự cắt
khi người bệnh trong tình trạng không ổn định.
- Thiết kê tiết kiệm diện tích và ngay ngắn hết mức có thể vì một không
gian không ngăn nắp sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc và tâm lý của người sử
dụng và tránh không gian có tình trạng nặng nề.
- Danh sách các trang thiết bị, vật dụng được đề xuất sử dụng trong các
bệnh viện về sức khỏe tâm thần của the New York State Office of Mental
Health [26]
- Tạo ra các tiềng động hỗ trợ thư giãn và giúp dễ đi vào giấc ngủ.
- Kết hợp liệu pháp trị liệu bằng nghệ thuật bằng cách sắp đặt các không
gian trưng bày, các không gian tương tác trực tiếp tại các không gian công
cộng hoặc không gian mở.
- Tổ chức các khu chức năng phụ trợ để tạo sự gần gũi và hạn chế cảm
giác bị cách ly khỏi xã hội (thư viện, phòng tập gym, cửa hàng tiện lợi,
quán ăn, quán nước…
C. PHỤ LỤC: TÀI LIỆU THAM KHẢO
[24]: Tiêu chuẩn quốc gia, TCVN 4470 : 2012 - BỆNH VIỆN ĐA KHOA
–
Tiêu chuẩn thiết kế, 2012
[25]: Tiêu chuẩn quốc gia, TCVN 9212 : 2012 - BỆNH VIỆN ĐA KHOA
KHU VỰC – Tiêu chuẩn thiết kế, 2012
[26]: Patient Safety Standards, Materials and Systems Guidelines
Recommended by the New York State Office of Mental Health
* Tài liệu tham khảo từ các bài nghiên cứu khoa học:
[3]: Báo cáo tóm tắt Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và
thanh niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam – UNICEF Việt Nam
[8]: Interior Architectural Elements that Affect Human Psychology and
Behavior - Heba-Talla Hamdy Mahmoud (Lecturer of interior
architecture Decor department Faculty of Fine Arts Mansoura
University)
[9]: Health, Behavioral Design, and the Built Environment White Paper –
NCCOR (National Collaborative on Childhood Obesity Research, tháng
3/2017)
[10]: Architecture and Human Behavior. Does Design Affect Our Senses?
- Walid Abdel Moneim Abdel Kader (PHD. Architect, Lecturer,
Architectural Department, Faculty of Engineering, Cairo University)
[14]: How a place makes us feel. Designing in moods that boost human
performance – Kimball
[17]: Nghiên cứu môi trường vườn trị liệu và tổ chức không gian cho trẻ
tự kỉ (ADS) – Lê Hải Dương, Phan Văn Ẩn, Phạm Thanh Hưng
[23]: Đồ án tốt nghiệp Kiến trúc sư khóa 14, Trường Đại học Kiến trúc
TP. HCM, đề tài: Trung tâm điều trị và phục hồi sang chấn tâm lý –
SVTH: Đoàn Phương Châu, GVHD: Ths. KTS Nguyễn Bích Hoàn
[2]: Bệnh trầm cảm (Major Depressive Disorder) – Hải Đường Tĩnh
Nguyệt
Link nguồn: https://hiroshimi.wordpress.com/2014/10/06/series-tam-ly-va-benh-
chung-ky-11-benh-tram-cam-major-depressive-disorder/
[4]: Sự cô đơn ở giới trẻ: Vấn đề sức khỏe về tinh thần ngày càng gia
tăng – Page: WhyPsychology
Link nguồn:
https://m.facebook.com/WhyPsy/photos/a.933536350088817/2661495567292878/?ty
pe=3&source=57&__tn__=EH-R
[5]: Hình thức kiến trúc có ảnh hưởng đến người dân đô thị không? –
PGS. TS. KTS Nguyên Hạnh Nguyên
[6]: Tại sao sức khỏe tâm lý lại không được coi trọng tại Việt Nam? –
Vietcetera
Link nguồn:
https://vietcetera.com/tai-sao-suc-khoe-tam-ly-lai-khong-duoc-coi-trong-tai-viet-nam/
[7]: Báo động bệnh trầm cảm ở giới trẻ Việt Nam hiện nay
Link nguồn:
https://cuocsongantoan.vn/bao-dong-benh-tram-cam-o-gioi-tre-viet-nam-hien-nay-
24644.html
[18]: Giai đoạn tiến triển của bệnh trầm cảm
Link nguồn: https://benhlytramcam.vn/giai-doan-tram-cam-845/
[20]: “Đô thị lộn xộn do bao cấp qui hoạch” – Ashui
Link nguồn: https://ashui.com/mag/tuongtac/doithoai/4252-do-thi-lon-xon-do-bao-cap-
quy-hoach.html
[21]: Ám ảnh cuộc sống của cư dân nghèo trong nhà “quan tài” tại Hồng
Kông – Báo Dân trí
Link nguồn: https://dantri.com.vn/bat-dong-san/am-anh-cuoc-song-cua-cu-dan-ngheo-
trong-nha-quan-tai-tai-hong-kong-20200306230911873.htm
[22]: 9 hậu quả khôn lường của trầm cảm
Link nguồn: https://roiloanloau.vn/bai-viet/phuong-phap-dieu-tri/9-hau-qua-khon-
luong-cua-tram-cam-doc-de-tranh-va-cuu-giup-nguoi-than.html?utm_source=ads-KTK-tram-
cam-tong-quan&utm_medium=cpc&utm_campaign=ads-ktk&utm_content=ads-KTK-tram-
cam-tong-quan
[28]: Trung tâm phục hồi chức năng Groot Klimmendaal của
Architectenbureau Koen van Velsen
Link nguồn: https://www.dezeen.com/2011/03/25/rehabilitation-centre-
groot-klimmendaal-by-architectenbureau-koen-van-
velsen/?fbclid=IwAR1rNDDULM8bHLcP1iSfSv3wT6mtlVNZG6zEZPw
ZKFeQL7qaHiGU3Cdct3s
[29]: Nan Arquitectos selects pale palette to relax visitors at SanaSana
physiotherapy centre
Link nguồn: https://www.dezeen.com/2015/10/18/nan-arquitectos-
sanasana-physiotherapy-centre-interior-
spain/?fbclid=IwAR28YQ898RFVMogBEk33CCt9KMSBpyA42uklzqg6
PcH3tcAhC-wyd-5DCAY