You are on page 1of 47

CHƯƠNG 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC


VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
1.1.1. Vấn đề độc lập dân tộc

a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều
tôi hiểu".
Lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền
bình đẳng và tự do đã được thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam, được Người gửi tới
hội nghị Vecxây năm 1919.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị
của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy”.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến ngày 19-12-1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng
được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh ở Việt Nam: đưa quân viễn chinh Mỹ và chư
hầu vào miền Nam, đồng thời gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn, chiến
tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”.
Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng non sông, thống nhất đất nước.
b. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh giá cao học
thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân
sinh hạnh phúc.

1
Bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và
bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu đấu tranh
của cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… dân chúng được tự do” 1. Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh
khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ… , Hồ
Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải….
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi
độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đất nước còn nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong
giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại
diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình,
quân đội của mình, tài chính của mình”.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các
lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không
có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất
nước của kẻ thù. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch
chiếm đóng, miền Nam thì thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một
lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần nữa.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1,2.
2
Năm 1946 trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi”.
Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc, Người khẳng định: “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng,
vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh.
1.1.2. Về cách mạng giải phóng dân tộc

a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX đã chứng tỏ những con đường giải phóng dân tộc theo tư tưởng phong kiến và tư tưởng
tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt
ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con
đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư sản Mỹ, Người nhận thấy: Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ,
kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa". Bởi lẽ đó, Người không đi theo
con đường cách mạng tư sản.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh
trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đến năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải phóng dân tộc:
con đường cách mạng vô sản, như sau này Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là con đường cách mạng triệt
để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin được Người vận dụng một cách
sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết,
trên hết. Theo Mác và Ăngghen, con đường cách mạng vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai
cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng con người. Còn theo Hồ Chí Minh, thì ở

3
Việt Nam và các nước thuộc địa do hoàn cảnh lịch sử- chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải
phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể
mà cách mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải do
đảng cộng sản lãnh đạo
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải
thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng
ra đấu tranh.
Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người rất chú trọng đến việc thành
lập đảng cộng sản, khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người đặt vấn đề: Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội
tiên phong của nhân dân lao động kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực
phụng sự Tổ quốc. Đó còn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
của Đảng (1951), Người viết: chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đây là một luận điểm quan
trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung, phát triển lý luận mácxít về đảng cộng sản.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
liên minh công - nông làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Hồ Chí Minh quan niệm: có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được lòng dân thì
được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người”. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành
công.
Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao
gồm toàn dân. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh thiết tha kêu gọi
mọi người không phân biệt giai, tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù
chung của dân tộc.
Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông. Người chỉ rõ: giai cấp công
nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách
4
mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái
kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Quán triệt tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, từ rất sớm Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng
khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc - mối quan hệ
bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.
Năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới
và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của
giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) , Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi
thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị
cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
- Thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi
duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, cách mạng ở
thuộc địa có vai trò rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa
đế quốc.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người
nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và giác
ngộ cách mạng.
Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra và
thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận
và thực tiễn to lớn
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
mạng
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng
Mười Nga và cách mạng thế giới, V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng, làm
sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng vô sản: không có bạo lực
cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên cơ sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

5
- Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.
- Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tùy
tình hình cụ thể mà quyết định hình thức đấu tranh cho thích hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế
quốc xâm lược ở chỗ:
- Tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
- Phải tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng.
- Khi tiến hành chiến tranh, vẫn tìm mọi cách vãn hồi hòa bình.
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh không để lại một định nghĩa cố định về chủ
nghĩa xã hội. Với cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu, dễ nhớ, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được Người
tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó (như kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, động lực, nguồn lực, v.v.) của chủ nghĩa xã hội;
Theo Người nói một cách tóm tắt, mộc mạc: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc”, là làm sao cho dân giàu, nước mạnh.
Người khẳng định mục đích của cách mạng Việt Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến
chủ nghĩa cộng sản vì: Cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp, tức là chủ nghĩa xã hội. Giai
đoạn cao, tức là chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không còn áp bức, bóc lột,
xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi
của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
b. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác khẳng định sự phát triển của xã hội loài
người là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Vận dụng học thuyết của C.Mác để nghiên cứu về tiến trình lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng
tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân theo những quy luật khách quan, trước hết là
những quy luật trong sản xuất vật chất; song, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau; trong đó, những nước đã

6
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ “đi thẳng” lên chủ nghĩa xã hội. Những nước chưa qua
giai đoạn phát triển này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã “đánh đổ đế quốc và phong kiến”
dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác - Lênin dẫn đường2.
Với nhận định trên, Hồ Chí Minh đã cho thấy tính chất chung của các quy luật phát triển xã
hội và tính đặc thù trong sự thể hiện các quy luật đó ở những quốc gia cụ thể, trong những điều kiện
cụ thể, trong đó có Việt Nam.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt Nam nói riêng vừa là
một tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá
trình đấu tranh tự giải phóng mình.

c. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa


Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
Chế độ dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội do nhân dân
làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền tảng liên minh công - nông.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
Mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ đất
nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ
nghĩa tư bản, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động, phương tiện
lao động trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về
nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ phát
triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Văn hóa, đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở các quan hệ
xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện: xã hội không
còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được bảo đảm đối xử công bằng,
bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.293-294.
7
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng
và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai
cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.

1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ trong mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định và giải thích: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”.
Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lợi và quyền
hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của
dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công việc của
dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân.
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về
chính trị.
Hồ Chí Minh xác định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến”, là “một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể”. Mục tiêu này phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Còn tồn tại 4 hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, cá thể và tư bản.
Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại
chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện
chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền tảng và quyết định tính chất của văn hóa; còn văn
hóa góp phần thực hiện mục tiêu của chính trị và kinh tế.
Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng
nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc
và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.

8
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ”, “dân là chủ” nên theo
Hồ Chí Minh, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước
đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
Những tư tưởng trên biểu hiện xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo
đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy
tính cách riêng và sở trường riêng của mình trong sự hài hòa với đời sống chung, lợi ích chung của
tập thể.
b. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, phải nhận thức,
vận dụng và phát huy tối ưu các động lực.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng người và lợi ích của
những con người cụ thể. Người đã dạy: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết”.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là dân chủ của nhân dân, là
của quý báu nhất của nhân dân. Có dân chủ lợi ích mới vì dân; có dân chủ quyền hành và lực lượng
mới ở nơi dân, công việc đổi mới và xây dựng mới là công việc của dân, là trách nhiệm của dân.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng mạnh nhất trong tất cả các
lực lượng. Chính vì vậy, ngay trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng
sự Tổ quốc”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đoàn kết toàn dân gắn bó hữu cơ với
nhau, là cơ sơ, là tiền đề của nhau, tạo nên những động lực mạnh mẽ nhất trong hệ thống những động lực
của chủ nghĩa xã hội.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị -
xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò quyết định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng
như người cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, thực hiện chức năng quản lý xã hội để
biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực. Các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là
các tổ chức quần chúng tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều
nhất quán về chính trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động
vì lợi ích của các thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đấy là những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư
tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa.

9
Cùng với việc xác định những động lực của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
phải ngăn chặn, loại trừ những lực cản của những động lực này. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
quan điểm “xây” đi đôi với “chống” cũng là một trong những quan điểm xuyên suốt tư tưởng Hồ
Chí Minh, là một trong những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

a. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ


Tính chất của thời kỳ quá độ: Đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài,
khó khăn, gian khổ.
Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến xã hội
cũ thành xã hội mới - một xã hội hoàn toàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Vì vậy, tiến lên chủ
nghĩa xã hội không thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc điểm
lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa nhu cầu
phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của
nước ta.
Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây
dựng các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống; trong đó:
Về chính trị, phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng được chế độ này, theo Hồ Chí Minh, phải chống tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, trước hết ở trong Đảng, trong bộ máy chính quyền từ cấp cơ sở đến Trung ương đồng thời
phải bồi dưỡng, giáo dục để nhân dân có tri thức, có năng lực làm chủ chế độ xã hội.
Về kinh tế, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo
nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá trình
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Về văn hóa, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế
quốc; đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái
mới của văn hóa tiến bộ trên thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc,
khoa học và đại chúng.
Về các quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để những quan hệ cũ đã trở thành thói quen trong lối
sống, nếp sống của con người; xây dựng được một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng
con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi

10
người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng
của mình trong sự hài hòa với đời sống chung, với lợi ích chung của tập thể.
b. Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
Thứ nhất, mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, phải giữ vững độc lập dân tộc.
Thứ ba, phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước anh em.
Thứ tư, xây phải đi đôi với chống.
1.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội

Vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, ngay từ năm 1930, Hồ Chí Minh khẳng định phương
hướng chiến lược của cách mạng nước ta là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu
đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, tiền đề cho mục tiêu tiếp theo - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ; độc lập
phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và hơn nữa độc lập dân tộc cũng phải gắn
liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nên khi nêu lên mục tiêu giải phóng dân
tộc, Người cũng đã định hướng đến mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đúng đắn và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu cầu khách
quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

1.3.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để bảo đảm nền độc lập dân tộc vững chắc
Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại và phù hợp với lợi ích của nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa
thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Năm 1960, Người khẳng định: chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là một xã hội tốt đẹp, không còn chế độ áp bức bóc
lột. Đó là một xã hội bình đẳng, công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng, bảo đảm phúc lợi xã hội cho người già, trẻ em và những người còn khó
khăn trong cuộc sống; mọi người đều có điều kiện để phát triển như nhau. Đó còn là một xã hội có
nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, là một xã hội có sự phát triển cao đạo đức và văn hoá…, hoà bình
hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới.

11
Với một chế độ xã hội như trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả năng làm cho đất nước phát triển
mạnh mẽ, sẽ tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm
gương cho các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia mới giành được độc lập dân tộc đang
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.3. Điều kiện để bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản trong suốt tiến trình cách
mạng.
Hai là, phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là khối liên minh
công - nông.
Ba là, phải đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Ba điều kiện trên phải được bảo đảm, gắn bó chặt chẽ với nhau sẽ góp phần bảo vệ nền độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.4. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1.4.1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng đã ban hành Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội XI (2011), Cương lĩnh này được bổ
sung và phát triển. Trong Cương lĩnh, Đảng đã rút ra bài học đầu tiên là phải “nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ quang vinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho
thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”.
1.4.2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy bản chất ưu việt của chế độ xã hội
xã hội chủ nghĩa; là bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; là dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống để nhân dân tham gia vào tất cả
các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân theo
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa không tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần
của Hiến pháp hiện hành.

1.4.3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ
thống chính trị
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính nhất nguyên và tính thống nhất: Nhất
nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

12
Nam, thống nhất về mục tiêu chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện
Như vậy, củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống
chính trị thực chất là để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy đầy đủ.

1.4.4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện
nay là phải tích cực thực hiện, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, trong đó các nghị
quyết về xây dựng Đảng giữ vị trí cực kỳ quan trọng vì xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong
sự nghiệp đổi mới.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là những hành động cụ thể mà Đảng tiếp tục
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, xứng đáng là Đảng cầm quyền trong sự nghiệp xây dựng đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,văn minh trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích tính đúng đắn và sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Nêu bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay và những yêu cầu cơ bản trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

13
CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

2.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


2.1.1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước hết
phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy”3.
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán của Hồ
Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình cách mạng, cả trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị tồn tại và
phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Trên thế giới, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa
học với phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Như vậy, so với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó
là phong trào yêu nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của xã hội Việt
Nam từ đầu năm 1930 trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.1.2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh

a. Đảng là đạo đức, là văn minh


Trong bài nói tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1960), Hồ Chí Minh cho rằng:
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh”4.
Đảng là đạo đức: Theo Hồ Chí Minh:
(1) Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.

3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.403.
14
(2) Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều phải nhằm mục
đích đó.
(3) Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện,
suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đảng viên phải là những
người có lòng nhân ái, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; trung với Đảng, trung với nước,
hiếu với dân; có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và luôn luôn chí công vô tư; có tinh thần quốc tế
trong sáng.
Đảng là văn minh:
(1) Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.
(2) Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc và
của nhân loại.
(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân, dân tộc
giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.
(5) Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đều phải là những chiên sĩ tiên phong,
gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không những vì lợi ích
dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì
hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Nếu Đảng không đạo đức, văn minh thì Đảng sẽ bị mất quyền lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã cảnh
báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”5. Như vậy, xây dựng Đảng để cho Đảng xứng đáng là Đảng đạo đức, văn
minh là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là bước phát
triển sáng tạo của Người so với lý luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”6.

5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.672.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.
15
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đồng thời phải luôn
luôn sáng tạo, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, từng lúc, từng nơi, không được phép giáo
điều.
- Tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh đưa ra luận đề liên quan mật thiết với nhau: Tập trung trên nền
tảng dân chủ, dân chủ phải đi đến tập trung. Như vậy, hàm lượng dân chủ càng cao, càng đậm đặc bao
nhiêu trong hoạt động của Đảng thì tập trung trong Đảng càng đúng đắn bấy nhiêu. Điều kiện tiên quyết
khi thực hiện nguyên tắc này là tổ chức Đảng phải trong sạch, vững mạnh.
Đối với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có lúc Hồ Chí Minh coi tập thể lãnh đạo là dân chủ,
cá nhân phụ trách là tập trung. Để nhấn mạnh tính chất này, Hồ Chí Minh lưu ý hai điều cần tránh trong
hoạt động của Đảng: (1) Độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể; (2) Dựa dẫm tập thể, không dám
quyết đoán. Hai vế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau.
- Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên,
“như mỗi ngày phải rửa mặt”7. Người viết trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố sự đoàn kết và thống
nhất trong Đảng”8. Người cho rằng, tự phê bình và phê bình là “thang thuốc” tốt nhất để làm cho phần
tốt trong mỗi tổ chức và mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; tự phê
bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng người, đúng việc, phải có văn hóa…Trong Đảng,
“phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”9.
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Sức mạnh của một đảng bắt nguồn từ kỷ luật, muôn người như
một, cùng một ý chí và hành động. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta tuy đông người, nhưng khi tiến đánh
chỉ như một người. Điều đó là nhờ trong Đảng có kỷ luật. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác, khi đã tự
giác thì kỷ luật của Đảng mới nghiêm và mới bền lâu, thực sự tạo sức mạnh cho Đảng.
- Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân,
Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra, hoạt động vì Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do đó, trở thành một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng trong xây dựng Đảng.
- Đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết là trong cấp uỷ, trong những cán bộ lãnh
đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm,
nghị quyết của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:“ Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ
quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”10.

7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 5, tr.279.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611.
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611.
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611.
16
- Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của toàn thể
dân tộc Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản - Giai cấp công nhân - Nhân dân Việt Nam là mối
quan hệ khăng khít, máu thịt. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt
chẽ với dân chúng, cũng như lơ lửng giữa trời, nhất định sẽ thất bại. Mất lòng tin là mất tất cả.
Hướng vào việc phục vụ dân - đó chính là yêu cầu của Hồ Chí Minh đối với Đảng.
- Đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong sáng.
Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân mà C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã
nhiều lần đề cập. Đối với nguyên tắc này, Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới.
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh lưu ý phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức vừa có tài, trong sạch,
vững mạnh. Người đề cập những yêu cầu chủ yếu sau đây đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên:
- Phải tuyệt đối trung thành với Đảng.
- Phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị
quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
- Phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau đồi đạo đức cách mạng.
- Phải luôn luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt.
- Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.
- Phải là những người luôn luôn phòng và chống các tiêu cực.
2.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ
NHÂN DÂN
2.1.1. Nhà nước dân chủ

a. Bản chất giai cấp của nhà nước


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng tuyệt nhiên nó
không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà nước Việt Nam mới
theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp
công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói đầu của bản Hiến pháp
năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh
công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa
trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu
cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới,

17
chính là để giai cấp công nhân và nhân dân lao động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện
mục tiêu nói trên.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính
dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất
giai cấp công nhân của Nhà nước thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều
thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất quán mục tiêu
vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc giao
phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào
sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản
là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước.
b. Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả mọi quyền lực
trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp
và dân chủ gián tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử
dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình
thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân.
- Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà họ đã
lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân.
c. Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên
sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. Nếu “dân là chủ” xác định vị thế của nhân
dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ” nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với
tư cách là người chủ. Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao

18
động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái
tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân được thực thi
những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa
vụ làm chủ của mình. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng phải tự
giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.
d. Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền
đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.
Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân
dân. Là đày tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng,
gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và
tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
2.2.2. Nhà nước pháp quyền

a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp


Hồ Chí Minh luôn chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới.
Người đã sớm thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội.
Chính vì thế, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời (ngày 3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu
phiếu”11.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu
tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo,
dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu, bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc hội. Ngày
2-3-1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức,
bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên
hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả
những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
b. Nhà nước thượng tôn pháp luật

11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.7.
19
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác
nhau, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp và bằng pháp luật. Muốn vậy, trước hết, cần
làm tốt công tác lập pháp. Hồ Chí Minh luôn chú trong xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại.
Cùng với công tác lập pháp, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống,
bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật.
Hồ Chí Minh luôn luôn khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám
sát quá trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành
phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư
pháp.
c. Pháp quyền nhân nghĩa
“Pháp quyền nhân nghĩa” tức là trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ
các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Cho nên, ngay khi thành
lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp hà
khắc của chính quyền thực dân phản động. Tính nhân văn của hệ thống luật pháp thể hiện ở việc ghi
nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người; ở tính nghiêm minh nhưng khách quan và công bằng, tuyệt đối
chống đối xử với con người một cách dã man.
2.2.3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh

a. Kiểm soát quyền lực nhà nước


Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có hiệu quả, phòng chống
thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Nhà nước, Hồ Chí Minh rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các cơ quan nhà
nước, cán bộ nhà nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền lực trong tay. Quyền lực này là do nhân dân
ủy thác cho. Nhưng một khi đã nắm giữ quyền lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể
trở nên lạm quyền.
Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần phát huy vai trò,
trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếp đó là dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và
việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước như kiểm soát của Nghị viện
nhân dân đối với Chính phủ chẳng hạn, v.v..
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, nhân dân có quyền kiểm soát quyền
lực Nhà nước. Đây là hình thức được Hồ Chí Minh đề cập rất cụ thể. Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức

20
sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được” 12. Đảng cầm quyền
cần chú ý phát huy vai trò kiểm soát quyền lực của nhân dân.
b. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam, Hồ Chí Minh thường nói đến những tiêu
cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục.
Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những
thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hạch dịch với dân, đồng thời vơ
vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình.
Tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc
ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tỗi lỗi
ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác
định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chính bản thân Người luôn làm
gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hằng ngày.
Bệnh quan liêu không những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà còn có ngay ở cả
cấp cơ sở. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ
không kiểm tra đến nơi đến chốn… Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô, lãng phí; muốn trừ
sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
“Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, béo cánh, tệ nạn bà
con bạn hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng
không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, cậy
thế, kiêu ngạo, làm mất uy tín của Chính phủ.
Về nguyên nhân, nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá nhân, tự
sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của bản thân cán bộ. Nguyên nhân khách quan là do công tác cán bộ
của Đảng và Nhà nước chưa tốt; do cách tổ chức, vận hành trong Đảng, trong Nhà nước, sự phối
hợp giữa Đảng với Nhà nước chưa thật sự khoa học, hiệu quả; do trình độ phát triển còn thấp của
đời sống xã hội; do tàn dư của những chính sách phản động của chế độ thực dân, phong kiến; do âm
mưu chống phá của các lực lượng thù địch, v.v..
Về giải pháp:
Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Đây là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.
Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Cán bộ, đảng viên phải
nghiêm túc và tự giác tuân thủ pháp luật. Đối với những kẻ thoái hóa, biến chất, pháp luật phải “thẳng
tay trừng trị”.

12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.325.
21
Ba là, cần coi trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hóa làm chủ yếu. Chỉ có như vậy mới làm cho cái
tốt trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và cái xấu mất dần đi.
Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm nêu gương
càng lớn. Đây là một nét đặc sắc trong văn hoá chính trị Việt Nam.
Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống lại tiêu cực trong
con người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước. Bất kỳ người Việt Nam nào có lòng tự hào, tự tôn
dân tộc, thì dù là người dân bình thường, hay cán bộ, đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm tu dưỡng và
thực hành đạo đức cách mạng.
2.3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
2.3.1. Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
- Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối, chủ trương này phải dựa trên nền
tảng lý luận Mác - Lênin sáng tạo và tư tưởng Hồ Chí Minh; phải phù hợp với hoàn cảnh của đất
nước từng giai đoạn, thời kỳ.
- Phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Phải thực thi và phát huy
đầy đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chiến
lược, nêu cao trách nhiệm làm gương tốt để mọi người noi theo.
- Phải chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng. Thường xuyên chỉnh đốn nội bộ để Đảng
xứng đáng là người cầm quyền, để đảng viên luôn xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người
đày tớ thật trung thành của nhân dân. Phải làm cho Đảng luôn là “Đảng là đạo đức, là văn minh”
như Hồ Chí Minh đã đề cập.
Những sinh viên đang là đảng viên của Đảng cần thực hiện thật tốt đường lối, quan điểm, chủ
trương, điều lệ Đảng, phải là công dân gương mẫu và là sinh viên tốt. Những sinh viên chưa là đảng
viên cần nghiên cứu, học tập thật tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu trở thành đảng viên hoặc
người tích cực ủng hộ Đảng, góp phần đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu, như
Hồ Chí Minh mong đợi.
2.3.2. Xây dựng Nhà nước
- Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân.

22
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, đồng thời quy định rõ
hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm
quyền, do đó, đến lượt Đảng, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành
công của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam để phân tích vấn đề phòng và
chống các tiêu cực trong Đảng hiện nay.
2. Phân tích những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam.
3. Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần chú ý những vấn đề gì?

23
CHƯƠNG 3
QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (TỪ 1975 ĐẾN NAY)

3.1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 -
1986)
3.1.1. Đặc điểm cách mạng Việt Nam và đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa
a. Đặc điểm và yêu cầu của cách mạng Việt Nam sau tháng 4 năm 1975
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỉ nguyên mới: Tổ quốc hoàn
toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bối cảnh tình hình thế giới và trong nước
có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn đặt ra cho Đảng và nhân dân ta nhiều vấn đề mới
cần tập trung giải quyết, trong đó yêu cầu hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước được
đặt ra một cách bức thiết, bởi một nước thống nhất không thể có hai chính quyền, đó là Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước của Đảng, ngày 25-4-1976 cuộc Tổng
tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri,
đạt tỉ lệ 98,77% tổng số cử tri (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%) đi bầu và bầu ra 492 đại biểu
(gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biểu tầng lớp
thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo). Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển
cử bầu Quốc hội chung của cả nước biểu thị ý chí của toàn dân và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.

24
b. Đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 - 1986)
* Đại hội Đảng lần thứ IV (12/1976), lần thứ V (3/1982) và đường lối chung của cách mạng
Việt Nam
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Dự Đại hội
có 1.008 đại biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn đại biểu của các
Đảng và tổ chức quốc tế tham dự.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế
hoạch 5 năm (1976 - 1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao
động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành
Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí
thư của Đảng.
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
- Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với
nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ
nghĩa thực dân mới gây ra.
- Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thể giới
còn gay go, quyết liệt.
Ba đặc điểm trên có tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi cách mạng tại Việt Nam.
Trong đó, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, nó quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá đúng các đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước, Đại
hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là:
- Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
25
- Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
- Không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính
trị và trật tự xã hội.
- Xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, khẳng định và xác lập đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ
vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh
nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nên chưa phát hiện những khuyết tật của chủ
nghĩa xã hội thời chiến, chưa đề xuất được con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một
cách thích hợp. Đại hội chưa nhận thức được việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục
hậu quả chiến tranh; dự kiến thời gian phấn đấu để hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế
của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc
thời kỳ quá độ là một chủ trương nóng vội; trong kế hoạch kinh tế đã thiên về ưu tiên công nghiệp
nặng với quy mô lớn ngay từ đầu, mở rộng quy mô hợp tác xã quá mức, đề ra các chỉ tiêu kinh tế
nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế.
Đến năm 1981, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to
lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây
dựng lại đất nước. Tuy nhiên, trong hơn 10 năm này đất nước ta cũng gặp nhiều khó khăn về kinh tế
và đời sống, xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng.
Trên thế giới, tình hình kinh tế-xã hội Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũng biểu hiện
sự bất ổn, đi xuống, từng bước lâm vào khủng hoảng. Trong khi đó, đường lối cải cách kinh tế-xã
hội ở Trung Quốc (từ năm 1978) bước đầu đạt được kết quả tích cực. Ở Đông Nam Á, các thế lực
phản động quốc tế tăng cường tìm cách can thiệp nhằm chi phối, tạo ảnh hưởng, đặc biệt là tăng
cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây,

26
cấm vận Việt Nam. Việt Nam đang ở trong tình thế vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một
kiểu chiến tranh  phá hoại nhiều mặt. Thực tiễn đó đòi hỏi Đảng phải có những điều chỉnh trong
nhận thức, đường lối về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 15 đến
ngày 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội (trong đó Đại hội nội bộ đã diễn ra từ ngày 15 đến ngày
24/3/1982). Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động
trong 35.146 đảng bộ cơ sở trong cả nước và 47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo quan điểm của Đại hội V, thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường,
hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên, đồng thời chỉ ra nội dung kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội của chặng đường đầu. Đây chính là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quan điểm chủ
nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ và sự phân kỳ thời kỳ quá độ vào điều kiện thực tiễn nước ta.
Đại hội xác định: Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những
năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Đại hội coi đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra là cho cả thời kỳ quá
độ nên tiếp tục thực hiện, song căn cứ vào thực tế 5 năm đã qua, quyết định bổ sung vào đường lối
chung quan điểm coi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ
mật thiết với nhau: “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa V đã tiếp tục cụ thể hoá, phát triển quan điểm của Đại hội về con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
3.1.2. Đường lối kinh tế của Đảng và những bước đột phá kinh tế
Đại hội IV (1976) của Đảng xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi
bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế
công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng
sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển

27
quan hệ kinh tế với các nước khác.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương đã có nhiều hội
nghị chuyên bàn về kinh tế, trong đó tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, giải
quyết vấn đề lương thực. Hội nghị lần thứ 2 (7-1977) bàn về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp. Hội nghị lần thứ 3 (12-1977) bàn về kế hoạch kinh tế năm 1978, về khắc phục sự trì trệ
trong sản xuất và quản lý kinh tế.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV và các Hội nghị Trung ương sau đó, trong những
năm 1976-1979, Đảng đã lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa
đạt một số thành tựu: cơ bản khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế,
sản xuất trên một số mặt phát triển, mức sống của người dân ở nhiều nơi được cải thiện. Bên cạnh
những kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Mô hình hợp tác
xã quy mô lớn tập trung ở miền Bắc thời điểm đó không phù hợp nên nhanh chóng bộc lộ những
nhược điểm: ruộng đất bị bỏ hoang, xã viên không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn
thua lỗ, thu nhập của xã viên ngày càng thấp. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã
xuất hiện hiện tượng “khoán chui”. Ở miền Nam, tình hình ruộng đất rất phức tạp, việc làm thí điểm
hợp tác xã ở miền Trung và Tây Nguyên diễn ra thuận lợi, nhưng thiếu vững chắc, ở Nam Bộ diễn
ra phức tạp và lúng túng, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm.
Trên phạm vi cả nước, từ năm 1976 đến năm 1979, đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp
không ngừng tăng, nhưng năng suất và sản lượng lương thực lại giảm đến mức thấp nhất 13. Nhà
nước đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Về phát triển công nhiệp, tốc độ tăng bình quân
hàng năm là 0,6%, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ
tăng 0,4%, trong khi dân số tăng 2,24%. Đặc biệt, từ cuối năm 1979, đất nước ta lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất trì trệ, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp; giá cả tăng vọt, đồng
tiền mất giá; đời sống nhân dân nhất là cán bộ, viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang rất khó
khăn.
Trong bối cảnh đó, tháng 8/1979, Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.

13
Từ 1976 đến đầu năm 1980, đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng 19% đến 36%, nhưng năng suất lại
giảm: 1976 là 22,3 tạ/ha; 1977 là 19,4 tạ/ha; 1978 là 17,5 tạ/ha; 1979 là 20,1 tạ/ha.
28
Thực hiện tinh thần làm cho sản xuất "bung ra” của Đảng, Chính phủ đã lần lượt công bố
một loạt những quyết định mới về kinh tế. Công tác khoán được xem là một nét mới và là biện pháp
then chốt để đưa nông nghiệp phát triển. Vì vậy, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-
CT/TW Về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nghiêm trọng đặt ra yêu cầu tất yếu đối với
Đảng ta là phải tìm tòi đổi mới, khắc phục những sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước tiến lên theo
mục tiêu con đường đã chọn. Vì vậy, Đại hội V của Đảng (1982) đã quyết định điều chỉnh về nội
dung, bước đị, cách làm của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Đại hội
xác định: Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp
hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý.
Nội dung đó phản ánh đúng bước đi của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực
tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai,
ngành nghề... giải quyết đúng đắn mối quan hệ công nghiệp với nông nghiệp làm cơ sở để thực hiện
nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6-1985) bàn về vấn đề giá, lương,
tiền. Đây là bước đột phá thứ hai của Đảng trong quá trình tìm tòi, đổi mới. Hội nghị chủ trương
dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liệu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao
cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh
doạnh xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986 đưa ra bản “Kết luận đối
với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”, nhìn nhận những hạn chế, sai lầm về cơ cấu sản
xuất, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và về cơ chế quản lý kinh tế; đồng thời chỉ ra những phương
hướng mới. Đây là bước đột phá thứ ba, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường
lối đổi mới.
Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển nhận
thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân

29
để hình thành đường lối đổi mới.
3.1.3. Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết tha
của nhân dân Việt Nam là được sống trong hoà bình để xây dựng đất nước. Song, các thế lực thù
địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, không muốn nước Việt Nam được
thống nhất, hoà bình, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến
tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc.
Ở Campuchia, tập đoàn Pôn pốt thi hành chính sách cực kỳ phản động và diệt chủng đồng
thời tăng cường thù địch, chống phá nước ta. Tháng 5 năm 1975, chúng cho quân đổ bộ lên đảo
Phú Quốc. Ngày 25/7/1977, bốn sư đoàn quân Pôn pốt đánh sâu vào lãnh thổ nước ta 19 km, tàn
sát khoảng 9000 dân thường của 13 xã thuộc huyện Tân Biên, Tây Ninh. Cuối tháng 12 năm
1977, Pôn pốt huy động 19 sư đoàn mở cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn dọc biên giới Tây
Nam nước ta. Trước hành động xâm lược trắng trợn, quân và dân ta lập tức đánh trả mạnh mẽ,
nhanh chóng chuyển sang tiến công, mở các chiến dịch đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ
cõi nước ta, lập lại cuộc sống yên lành cho nhân dân. Đáp lại lời kêu gọi giúp đỡ của Mặt trận đoàn
kết dân tộc cứu nước Campuchia, Việt Nam đưa quân tình nguyện sang, cùng nhân dân Campuchia
tiêu diệt quân Pôn Pốt. Ngày 07/01/1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, chế độ diệt chủng
được xoá bỏ.
Cũng từ năm 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu đi rõ rệt. Trên tuyến biên
giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã cho quân đội
đồng loạt đánh sang biên giới 6 tỉnh nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây cho Việt Nam những
thiệt hại nặng nề về sinh mạng nhân dân, bộ đội và cơ sở vật chất, di tích lịch sử, văn hóa. Quân dân
các tỉnh biên giới đã kiên quyết đánh trả, buộc Trung Quốc phải tuyên bố rút quân (5/3/1979). Ngày
18/4/1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hoà bình, an ninh ở biên giới,
giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ.
Ở trong nước, các thế lực phản động câu kết với lực lượng bên ngoài ra sức hoạt động phá
hoại, lật đổ, đặc biệt là hoạt động của phản động lớn ở Tây Nguyên FULRO kéo dài nhiều năm.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống các lực lượng phản động, kể cả lực lượng lưu vong
xâm nhập về nước, đã bảo vệ vững chắc mọi thành quả của cách mạng. Thắng lợi của quân và dân
ta trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn,

30
đã kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ Quốc tế, đã bảo
vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và
hợp tác giữa các nước và góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới.
3.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC (TỪ 1986 ĐẾN NAY)
3.2.1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1986 -
1996)
a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đường lối đổi mới toàn diện
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối cảnh
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần
thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa tiến hành cải tổ, cải cách. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang bị các đế quốc và thế lực thù địch
bao vây, cấm vận và khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 1976 -
1980 chỉ đạt 0,6%. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300%
năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn
ra khá phổ biến. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ
biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước.
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu,
nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 - 1986. Đó
là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc
biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trên, để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội, Đảng đề ra chủ trương đổi mới toàn diện công cuộc xây dựng đất nước.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,…
+ Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh, bảo đảm chủ động trong mọi
tình huống để bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.
+ Nhiệm vụ đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc

31
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân
hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt
phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất
khoa học và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn
chế của Đại hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân
phối lưu thông.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình hình thế giới biến chuyển nhanh chóng.
Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn
diện và sụp đổ hoàn toàn (12-1991), gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt Nam. Mỹ
và các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục cấm
vận, cô lập nước ta. Họ dung dưỡng các tổ chức phản động trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ.
Từ sau năm 1979, Trung Quốc vẫn bắn pháo, gây hấn trên một số vùng biên giới phía Bắc. Cao
điểm nhất, tháng 3-1988, Trung Quốc cho quân đội chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên,
Chữ Thập... trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Quan hệ Việt-Trung, Việt- Mỹ vốn căng thẳng
từ những năm 1974, 1979 nay càng căng thẳng hơn. Ở trong nước, những năm 1987-1988 khủng
hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần và chỉ đạo thực hiện
đổi mới quyết liệt về kinh tế:
Một là, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tập trung thực hiện ba chương trình mục
tiêu: lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Hai là, giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông. Thực hiện bốn giảm: giảm
tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của
nhân dân.
Ba là, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần
kinh tế bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.
Đến cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ
thiếu triền miên, năm 1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm 1990 đã đáp ứng được nhu cầu,
có dự trữ và xuất khẩu. Hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Nền kinh

32
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước
đầu hình thành. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn trước.
b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) được tiến hành trong bối cảnh
quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự khủng hoảng trầm trọng đi đến
sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa
xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực
thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ
phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đại hội nhận định đất nước sau hơn 4 năm đổi mới cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh tế-xã hội
nóng bỏng chưa được giải quyết, nền kinh tế bước đầu chuyển biến tích cực, hình thành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế chị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Lạm phát từ 393,3% năm 1988 còn 67,4% năm 1990.
Đại hội thông qua Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản. Trên cơ sở đó, Cương lĩnh vạch ra 7 phương hướng lớn xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,
văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tể-xã hội đến năm
2000, trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình
kinh tế-xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP năm 2000 tăng
gấp đôi so với năm 1990.
Báo cáo Xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng khẳng định vai trò trách nhiệm của Đảng,
đánh giá thực trạng tình hình Đảng và xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời
kỳ mới với những nội dung sau:
+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội VII xác định vai trò của Đảng gắn liền với việc xây
dựng và thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, Chiến lược và công cuộc đổi mới. Đồng thời gắn vai trò

33
của Đảng với hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trong hoàn cảnh lịch sử và tình hình Đảng ta lúc đó, việc xác
định đúng và phát huy vai trò của Đảng càng có ý nghĩa đặc biệt.
+ Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, Chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành
động gương mẫu của đảng viên.
+ Về bản chất giai cấp của Đảng, Đại hội VII khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. 
+ Tại Đại hội, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững
quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”.
+ Về mục đích của Đảng, Đại hội xác định Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng nước Việt
Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa.
Đại hội VII của Đảng là "Đại hội của trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỉ cương, đoàn kết” hoạch
định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam.
3.2.2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế (1996 - 2018)
a. Hoàn cảnh lịch sử từ giữa thập kỷ 90 thế kỷ XX
* Tình hình thế giới
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ của nhân loại tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
- Chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ (1991) dẫn đến những biến đổi to lớn về
quan hệ quốc tế.

34
- Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá
cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được
đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
- Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và chạy đua kinh tế đã dần thay thế cho xu thế chiến
tranh, đối đầu mặc dù một số cuộc chiến tranh khu vực, xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn diễn ra. Xu
thế này thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa thúc đẩy hợp tác vừa tạo ra
tính đấu tranh.
* Đặc điểm và yêu cầu của cách mạng Việt Nam
Sau 10 năm đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ, phá được thế bị
bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào cộng đồng quốc tế.
Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thay đổi cơ bản và toàn diện
tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu nhưng Việt Nam cũng đứng trước
những thách thức, khó khăn mới, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới và các nguy cơ khác. Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch
sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của
nước ta.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một
trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, cần phải tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp tác với các nước và tham
gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là
cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ trương, đường lối tiếp tục
phát triển sự nghiệp đổi mới.
b. Đường lối tiếp tục đổi mới của Đảng và quá trình thực hiện
* Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

35
Đại hội VIII (1996) đánh dấu bước ngoặt, đưa đất nước sang thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Đại hội, Đảng đã điều chỉnh chính sách công nghiệp hóa theo hướng
lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận
hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần,
nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với hiện
đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006), Đại hội XI (1/2011) và Đại hội XII (1/2016) tiếp
tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về quá trình công nghiệp hóa ở nước ta:
- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh
nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua
hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả các
sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở,
hướng ngoại.
- Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm nông nghiệp.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai.
* Xây dựng và ngày càng hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào
sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.

36
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI và Đại hội XII đã làm sáng tỏ thêm
nội dung cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể
hiện ở bốn tiêu chí là:
- Về mục đích phát triển: thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh”.
- Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng là động lực của nền kinh tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
- Về định hướng xã hội và phân phối: tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với
phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn
lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện
rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Chủ trương đổi mới hệ thống chính trị
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
Ba là, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả
Bốn là, tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập

37
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
* Chủ trương xây dựng, phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội
Một là, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước với quan điểm chỉ đạo:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học.
- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát
triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Ba là, phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, chủ trương giải quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 với
quan điểm chỉ đạo là: Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có
công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Năm là, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường.
* Về đổi mới, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại
- Đổi mới, tăng cường quốc phòng, an ninh:

38
Ngày 12-7-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành Nghị quyết Trung
ương 8 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát
triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (10-2013) đã đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; phân tích bối cảnh, dự báo xu hướng phát
triển của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước; chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân chủ quan
của những hạn chế, thiếu sót; chỉ ra nguyên tắc cơ bản, tiêu chí phân loại đối tác, đối tượng và sự
chuyển hóa giữa đối tác và đối tượng. Tiếp tục những quan điểm bảo vệ Tổ quốc được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và bổ sung:
+ Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh
tổng hợp; phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược và sách lược tạo sự đồng thuận cao của nhân dân ta ở
trong nước và nước ngoài; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ cao nhất của dư luận quốc tế. Đặc biệt coi
trọng mối quan hệ giữa yếu tố bên trong với bên ngoài, đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tình hình chính trị - xã hội của đất nước cơ bản ổn
định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là những tiền đề quan trọng để nước ta tiếp
tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong thời kỳ mới cũng như mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập quốc tế.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại:
Chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại được đề ra từ Đại hội lần thứ VI, sau đó được các
Nghị quyết Trung ương từ khoá VI đến khoá VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Từ năm 1996 đến nay, đường lối
đối ngoại đó được bổ sung và phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.

39
+ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp
tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ
trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng
cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố
quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung
tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên
kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
+ Đại hội IX của Đảng (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại
lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển
phương châm của Đại hội VII là: “Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” thành “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương xây
dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ
quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
+ Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006), XI (1/2011) và XII (1/2016) củng cố quan điểm: thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; đồng thời đề ra chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” với phương châm: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
3.3. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
3.3.1. Thành tựu
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về mọi
mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo

40
vệ Tổ quốc.
- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-2010 tăng
trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng 7,26% /năm, đạt mục
tiêu chiến lược đã đề ra. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so
với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình trên
thế giới.
Năm 2010, GDP của Việt Nam đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ
USD). Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047 USD, năm 2010 đạt
1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia và lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của
thế giới. Nước ta đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
- Văn hoá, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên, một số mặt đạt trình độ của các nước phát triển trung bình. Chỉ số phát
triển con người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham gia
xếp hạng. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa
thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008.
Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên
Hợp quốc đề ra cho năm 2015.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy
mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát

41
triển của lịch sử.
3.3.2. Hạn chế
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề
đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải tổng kết để tiếp tục làm rõ.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn
lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý
xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy
cơ mất ổn định xã hội. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994)
nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào
Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
3.3.3. Kinh nghiệm
- Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại.
- Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực
của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật, xuất phát,
bám sát và coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
- Bốn là, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
- Năm là, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
42
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường quan hệ mật thiết với
nhân dân.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Trình bày đường lối chung do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đề ra.
2. Làm rõ những nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên CNXH, trước hết là mặt
kinh tế.
3. Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, đổi mới công nghiệp
hóa hiện đại hóa từ 1986 đến nay. Liên hệ thực tiễn, trách nhiệm bản thân.
4. Trình bày những đặc trưng và phương hướng xây dựng CNXH thể hiện trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
5. Trình bày chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh
thần Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (7-1998). Liên hệ thực tiễn, trách nhiệm bản thân.
6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) đã đề cập đến đặc trưng của CNXH mà
nhân dân ta xây dựng như thế nào?
7. Làm rõ chủ trương CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng (4-2006). Liên hệ thực tiễn hiện nay.
8. Trình bày một số định hướng lớn về giải quyết các vấn đề xã hội theo quan điểm của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Liên hệ thực tiễn trách nhiệm bản thân.
9. Làm rõ quan điểm của Đảng về công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới.

43
PHẦN III
MẪU ĐỀ THI VÀ ĐÁP ÁN

BM.01.QT.KTDBCL.01
01/01/14-REV:0

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


ĐỀ THI HỌC KỲ
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HỆ CHÍNH QUY
(Dành cho sinh viên khối không Trưởng bộ môn
Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng (Ký, ghi rõ họ tên)
PHIẾU THI SỐ: 01 Hồ Chí Minh)
Thời gian làm bài: 60 phút
Phan Duy Hòa

Câu 1: (30 điểm): Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo
đức?

Câu 2: (30 điểm): Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa?

Câu 3:(40 điểm): Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước ta hiện nay?

Sinh viên không được tẩy xóa hoặc viết vào phiếu thi
44
ĐÁP ÁN ĐIỂM

Câu 1 (30 điểm): Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu 30đ
gương về đạo đức?

- Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây 12đ
dựng một nền đạo đức mới. Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại
hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm
ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo thì chỉ đem lại kết quả phản tác dụng.

- Phải chống lại thói đạo đức giả, nó là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột “hãy làm 5đ
theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm”.

- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Nói đi đôi 13đ
với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh rất chú ý đến nêu gương những
người tốt, việc tốt, một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống. “Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước”. “Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. Theo
Người, “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau” là như vậy.

Câu 2 (30 điểm): Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc 30đ
thuộc địa?

- Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa 5đ

- Nội dung của vấn đề độc lập dân tộc: 25đ

+ Cách tiếp cận từ quyền con người 10đ

Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc. Người
khẳng định: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do".

45
+ Nội dung quan điểm độc lập dân tộc được Bác quán triệt trong suốt quá trình cách mạng… 15đ

Câu 3 (40 điểm): Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân. Vận dụng tư 40đ
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước ta hiện nay?

- Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân 20đ

+ Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước 5đ
và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong
các bản Hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo: Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.

+ Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền

kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định
những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ
trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ
nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu
những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

+ Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có
nghĩa là “dân là chủ”. Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm “dân là chủ” 5đ

đối lập với quan niệm “quan chủ”. Hồ Chí Minh còn cho rằng: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa
là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”,
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.

+ Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định
quyền, nghĩa vụ của dân. Trong Nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ. Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân
thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội.

- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước ta hiện nay hiện nay? 20đ

+ Xây dựng Nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân… 7đ

+ Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước… 7đ

+ Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước… 6đ

46
Hải Phòng, ngày 15 tháng 10 năm 2021
TRƯỞNG BỘ MÔN

TS. Phan Duy Hòa

47

You might also like