You are on page 1of 32

Chủ đề 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và sự vận dụng TTHCM

về độc lập dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tư tưởng
của Người về độc lập dân tộc, đến nay còn nguyên giá trị, độc lập dân tộc là mục tiêu trực
tiếp, là cơ sở tiền đề để tiến lên Chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là Chủ nghĩa Cộng sản. Có
thể khẳng định: Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

1. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc


1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc

Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là ham muốn
tột bậc, là mục tiêu cách mạng xuyên suốt trong tư tưởng của Người.

Tại Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Hồ Chí
Minh đã gửi tới bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (Hình 1) với hai nội dung chính là
đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ của nhân dân Đông
Dương. Mặc dù Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên, lần
đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền
bình đẳng tự do đã được hình thành.
Hình 1

Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong
bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 (Hình 2) và Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Pháp năm 1791 (Hình 3). Từ quyền con người, Người đã khái quát và nâng
cao thành chân lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do... Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ
những giá trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho
cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng liêng không ai
có thể xâm phạm, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải phóng con người mà các
cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao.

Hình 2
Hình 3

Trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” năm 1930 (Hình 4), Hồ Chí Minh cũng đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng là:
1. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến;
2. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

Hình 4

Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 (Hình 5), Người tuyên bố trước đồng bào và thế giới
rằng: “Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự
do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Hình 5

Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể
hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ bằng được nền độc lập dân tộc “Không! Chúng ta thà hi sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam. Trong hoàn cảnh
khó khăn, chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên
ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”

1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân
dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập dân tộc và đem lại cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho Nhân dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt Nam; đồng
thời là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm, có quan hệ khăng khít và biện chứng với
nhau.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Người vận dụng
học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do (dân tộc độc lập, dân quyền
tự do và dân sinh hạnh phúc) vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam. Trong khi viện dẫn bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng
Pháp” năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương
nhiên cũng có quyền tự do và bình đẳng. ‘‘Đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được’’
(Tuyên ngôn độc lập Việt Nam, 1945)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ
Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. (Hình 6)

Hình 6

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh nhân dân đói
rét, mù chữ..., Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”. (Hình 7)
Hình 7

Hạnh phúc, tự do theo Hồ Chí Minh là đem lại cơm no, áo ấm, đời sống của Nhân dân phải
đầy đủ về cả vật chất và tinh thần, người dân phải được sống trong một xã hội tiến bộ,
công bằng, được hưởng đầy đủ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.

Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn
coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người khẳng định: “Chúng ta
tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Người đã
từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm
tình thương yêu dân tộc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh

1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Chủ nghĩa thực dân, đế quốc dùng chiêu bài mị dân như thành lập chính phủ bù nhìn bản
xứ, tuyên truyền ‘‘độc lập tự do’’ giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhằm che đậy
bản chất ‘‘ăn cướp’’, ‘‘giết người’’ của chúng

Bởi thế, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: “Độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc lập
đó chẳng có ý nghĩa gì”.

Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng tháng Tám còn gặp nhiều
khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập mới giành được, Người
đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có
biện pháp ngoại giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước. 6-3-1946, Người đã
thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp “Hiệp định Sơ bộ”, theo đó: “Chính
phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính
phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”. (Hình 8)
=> Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm dẻo,
linh hoạt nhưng có nguyên tắc của Hồ Chí Minh

Hình 8

1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình đất nước ta còn đang rối ren, thực dân Pháp
lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta lần nữa. Trong hoàn cảnh đó,
Bác đã khẳng định trong “Thư gửi đồng bào Nam Bộ” (1946) (Hình 9): “Đồng bào Nam
Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ
thay đổi”.
Hình 9
Mặc dù sau Hiệp định Giơnevơ (1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Người
vẫn tiếp tục kiên trì đấu tranh thống nhất đất nước. Tháng 2-1958, Người khẳng định:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt được"; "Nước
Việt Nam là một khối thống nhất…”

Trong bản “Di chúc” (Hình 10), Người đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi của
Cách mạng: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum
họp một nhà”. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh.
Hình 10

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giành độc lập dân tộc

2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
- Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và thiết lập bộ máy thống trị ở Việt
Nam. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra tuy anh dũng nhưng không thành
công. Những phong trào yêu nước trong thời kỳ này mặc dù gây tiếng vang nhưng lại thất
bại. Điều này đã nói lên sự khủng hoảng, bế tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cách
mạng:

· Con đường của Phan Bội Châu: “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”

· Con đường của Phan Chu Trinh: “Xin giặc rủ lòng thương”

· Con đường của Hoàng Hoa Thám: “Vẫn nặng tình phong kiến”

Sau khi chứng kiến các phong trào cứu nước ấy, Hồ Chí Minh tuy rất khâm phục tinh thần
yêu nước của cha ông ta, nhưng Người không đồng ý với con đường của họ. Chính vì vậy,
Người có chí hướng muốn tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở phương
Tây. Người đánh giá cao tinh thần cách mạng của nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ nhưng
cũng sớm thấy rõ các cuộc cách mạng này là những cuộc cách mạng “không đến nơi”,
“không triệt để”
- Cách mạng tháng 10 Nga ảnh hưởng sâu sắc đến sự lựa chọn của Bác Hồ, vì nó “thành
công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình
đẳng thật…”

Năm 1920, sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” của Lênin (Hình 11), Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản, như sau này Người khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại.

Hình 11
- Vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt
Nam:

+ Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trên hết,
trước hết, là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người

+ Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Chính cương khẳng định "làm tư sản dân
quyền cách mạng và và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo
- Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải tổ chức ra chính đảng để tập hợp, tổ chức, giác ngộ quần chúng và đưa quần
chúng ra đấu tranh

- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức quần chúng; ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi” (Đường Kách Mệnh – Hình 12)
Hình 12

- Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công
nhân mà còn là đội tiên phong của dân tộc, là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội II của Đảng (1951) (Hình 13), Người viết rằng chính vì Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là
Đảng của dân tộc Việt Nam.
Hình 13

2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công - nông làm nền tảng
- Cơ sở để HCM khẳng định luận điểm này:

+ Tiếp nối tinh thần yêu nước và truyền thống đánh giặc của dân tộc ta

+ Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân”, quần thể nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử

- Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách
mạng của Đảng bao gồm toàn dân: đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông...để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp; còn đối với phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho
họ trung lập.

→ Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân hay tất cả những người yêu nước

→ Phải quán triệt quan điểm giai cấp, kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp.
- Người chỉ rõ: "Công, nông là gốc cách mạng, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ...
là bầu bạn của cách mạng".

Người giải thích: giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng
nhất, bị bóc lột nặng nề nhất vì thế “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết…”

→ Động lực cách mạng là liên minh công - nông

2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Quan điểm Hồ Chí Minh: CMGPDT của các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ biện chứng, gắn bó khăng khít, nhưng đó là mối quan hệ bình
đẳng chứ không lệ thuộc vào nhau.

Năm 1924, tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (Hình 15), Người nói: “Vận mệnh của giai cấp
vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc
địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa.” Người khẳng
định: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính
quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết
con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”

Hình 15
- Người cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để
gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một
lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa
tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. Quan điểm được xây dựng trên cơ sở:

+ Thuộc địa có vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế
quốc

+ Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng

+ Nhân dân các dân tộc thuộc địa có tinh thần đấu tranh quyết liệt bởi họ bị đế quốc đàn áp
bóc lột nặng nề và có khát vọng lớn lao về độc lập, tự do

2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cách mạng, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân
dân
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự
cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Vì vậy, muốn đánh đổ thực dân-phong kiến
giành độc lập dân tộc thì tất yếu phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dùng bạo
lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.

→ Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng
thuộc địa để xây dựng nên một hệ thống luận điểm mới mẻ về cách mạng giải phóng dân
tộc, bao gồm cả đường lối cách mạng, chính đảng lãnh đạo, lực lượng cách mạng, sự liên
minh, liên kết với lực lượng bên ngoài và phương pháp cách mạng.

II. Liên hệ thực tiễn

1. Giá trị của tư tưởng HCM về độc lập dân tộc

a, Giá trị lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã bổ sung, sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam: hình 16
H.16

- Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:

+ Tư tưởng yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong các giá trị tinh thần Việt
Nam, nhưng trước Hồ Chí Minh, nó vẫn dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền
thống. Điểm khác biệt giữa Hồ Chí Minh và các lãnh tụ yêu nước tiền bối là ở chỗ
Người đã tìm thấy con đường cứu nước mới theo con đường cách mạng vô sản. Vì
vậy ngay từ khi bắt gặp “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, ở
Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cụ thể:

+ Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trên
hết

Điều này đã khẳng định rõ lí do vì sao dân tộc Việt Nam trước hết phải giành được
độc lập dân tộc chứ không phải giai cấp cách mạng như Cách mạng tháng Mười
Nga (1917) hay Cách mạng Pháp (1789). Và nó là hoàn toàn đúng đắn khi áp dụng
vào hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, phải giành được độc lập dân tộc thì mới có
thể đấu tranh giai cấp.

Với tinh thần đó, Người khẳng định quyết tâm:

“Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập”

“thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
(hình 17)

hình 16

+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Theo HCM, “nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, nên khi giành được độc lập, phải tiến lên CNXH,
làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo (hình 17)
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam.
Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh bổ sung vào lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin về Đảng cộng sản. Định hướng cho việc xây dựng Đảng gắn chặt với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.
(Mọi người VN dù là đảng viên hay không đều cảm nhận Đảng cộng sản Việt Nam
là Đảng của Bác Hồ, Đảng của mình, và đều gọi Đảng là “Đảng ta”.)
H.17
+ Theo Hồ Chí Minh, “…nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc, nếu xem thường cách mạng
thuộc địa tức là muốn đánh chết rắn đằng đuôi”

=> Nhận thức được vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa, Người cho rằng Cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản
ở chính quốc.

=> Đây là luận điểm sáng tạo có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Hồ Chí
Minh đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng

bạo lực

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nhờ biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm
đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu tinh hoa lý luận và kinh nghiệm quân sự của thế giới.
Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng là sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống
lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình
thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng phải “tùy tình hình cụ thể mà
quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp…” (hình 18)
H.18

Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường bạo lực cách mạng. Song,
Hồ Chí Minh luôn luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng
giải quyết xung đột bằng hòa bình, nhượng bộ có nguyên tắc… Tiến hành chiến
tranh chỉ là giải pháp bắt buộc.

Tư tưởng bạo lực cách mạng và nhân đạo hòa bình thống nhất với nhau
trong tư tưởng Hồ Chí Minh

=> Tư tưởng về độc lập dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một nội
dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này Hồ
Chí Minh không những đã đưa nước Việt Nam đến độc lập tự do, thống nhất
trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc
địa trên thế giới.

b, Giá trị thực tiễn

- Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã được vận dụng trong thực
tiễn cách mạng và đã soi sáng thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Các cuộc đấu tranh từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta đến trước
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đều thất bại. Nhưng kể từ khi Đảng ra đời và
lãnh đạo, cách mạng dù khó khăn nhưng cuối cùng vẫn đi đến thắng lợi. Và góp
phần quan trọng vào chiến thắng của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 và 30 năm
chiến tranh Cách mạng 1945 - 1975 (hình 19.1, 19.2) là minh chứng hùng hồn cho
tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.

hình 19.1

hình 19.2

- Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã góp phần vào sự nghiệp
giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc cũng như thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã mang lại cho nhiều nước thuộc địa sự gợi mở và những bài học kinh
nghiệm quý báu về con đường cách mạng giải phóng dân tộc khỏi “gông cùm xiềng
xích” của các nước đế quốc.

(chèn video)

=> Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là giá trị lịch sử
trường tồn của dân tộc ta, là tài sản quý báu trong quá trình đấu tranh giành
độc lập dân tộc và cả thời bình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

2. Vận dụng TTHCM về độc lập dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ đúng đắn trong lịch sử mà vẫn
luôn giữ nguyên giá trị cho tới ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Trong đó thành quả của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ là một trong những điều kiện cần thiết và tiên quyết bởi lẽ có độc lập tự do mới
có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày hôm nay. Tiếp nối và kế thừa những giá trị
tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, Đảng đã vận dụng sáng tạo đường lối
kháng chiến toàn dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu
nước vào “cuộc chiến chống đại dịch Covid-19” trên 1 số phương diện sau:

(hình 20)
H.20

Đường lối kháng chiến toàn dân là sự kết hợp nhuần nhuyễn những nguyên lý cơ
bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền thống, nghệ
thuật đánh giặc giữ nước của ông cha ta và kinh nghiệm đấu tranh quân sự của một
số nước trên thế giới. Bài học này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
phát huy sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng dịch bệnh COVID-19.

Trước hết là nhận diện - Về đối tượng của cuộc chiến: Virus corona (SARS-CoV-
2) (hình 21.1) ; các nguồn thông tin sai sự thật về dịch bệnh (hình 21.2)

21.1
21.2

Việc nhận diện chính xác “đối tượng” để tạo cơ sở cho việc hoạch định chiến lược
của Đảng từ mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, tổ chức lực lượng đến phương pháp tiến
hành cuộc chiến chống dịch bệnh.

- Về mục tiêu: bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân là trên hết; vì sự bình
yên của xã hội

Sự vận dụng sáng tạo ở đây không chỉ đối với công tác chống dịch Covid-19 mà còn
trong đấu tranh chống thông tin xuyên tạc tình hình dịch bệnh, nhất là thông tin do
các thế lực thù địch ngụy tạo làm rối loạn xã hội.
Đảng, Nhà nước đã xác định - Lực lượng nòng cốt của cuộc chiến này là đội
ngũ y tế, thông tin - truyền thông, quân đội, công an. (hình 22) Cùng với huy động
nguồn nhân lực, Đảng, Nhà nước đã huy động lực lượng vật chất cao nhất về tài
chính, trang thiết bị, sản xuất đồ bảo hộ… phục vụ phòng, chống dịch với tinh thần
“sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trong ngắn hạn để ngăn chặn dịch bệnh”.
H.22

=> Đảng đã vận dụng sâu sắc, sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân từ mục tiêu,
tư tưởng chỉ đạo, tổ chức lực lượng, lực lượng nòng cốt và phương pháp tác chiến
vào một cuộc chiến đặc thù - "cuộc chiến chống dịch Covid-19" và chống hành vi
lợi dụng tình hình dịch để xuyên tạc, chống phá đất nước. Như Phó thủ tướng Vũ
Đức Đam từng nói: “Chúng ta đồng lòng, toàn bộ người dân Việt Nam đều đồng
lòng, toàn dân chống dịch thì Việt Nam sẽ chiến thắng như dân tộc Việt Nam đã
từng nhiều lần chiến thắng”. (hình 23)
H.23

=> Giá trị lịch sử của đường lối toàn dân kháng chiến gợi mở những ý nghĩa sâu xa
đối với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc ở thời
kỳ mới.

“Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định;…”

(hình 24)

Đại hội XIII (2021)


H.24
Trong điều kiện hiện nay, cần nêu cao tinh thần chủ động, cảnh giác cách
mạng, kiên quyết giữ vững hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay chịu tác động sâu sắc từ những biến
động mạnh mẽ và phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế, nhất là sự chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực. Do đó, yêu cầu đặt
ra đối với chúng ta là phải luôn chủ động, tỉnh táo, cảnh giác, kết hợp chặt chẽ,
linh hoạt giữa hợp tác với đấu tranh vì lợi ích đất nước. Phải phát huy sức
mạnh tổng hợp để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột chiến tranh, có kế
sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

3. Trách nhiệm của sinh viên

Là một sinh viên được tiếp xúc với nhiều tri thức, công nghệ của thời đại mới, bản
thân em thấy sinh viên cần phải có trách nhiệm học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay.

- Trước tiên, mỗi sinh viên ngoài việc tiếp thu tốt những kiến thức chuyên ngành,
cần rèn luyện cho mình bản lĩnh chính trị đúng đắn, chấp hành tốt các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng
- Sống, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để phòng chống các
luận điệu xuyên tạc, âm mưu “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch.

Bản thân mình nếu không thể tránh được những cái xấu thì không thể đủ bản lĩnh
để làm được những việc khác. Rất nhiều sinh viên đã làm tốt điều này và trở thành
những tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên
vẫn còn chưa hiểu rõ được tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, chưa nắm bắt
tình hình trong nước và quốc tế. Một số sinh viên còn sa sút trong học tập, rèn
luyện, không có tinh thần cầu tiến nên dễ bị kẻ xấu lôi kéo, dụ dỗ thực hiện hành vi
trái pháp luật.

- Tiếp đó, để những kiến thức được học trong trường có thể vận dụng tốt ngoài thực
tiễn, sinh viên nên tích cực tham gia các phong trào thi đua, hoạt động ngoại khóa
dành cho thanh niên bởi nhờ đó mà ta được học hỏi, trải nghiệm, rèn luyện kiến
thức và kĩ năng cho bản thân.

- Ngoài ra, việc liên tục cập nhật cho mình những thông tin về chính trị, kinh tế - xã
hội không chỉ mang lại kiến thức mới mà còn để phát triển khả năng phân tích thông
tin, tư duy linh hoạt thay vì chỉ học từ sách vở, đây là một trong những cách giúp
kiến thức được phát huy tốt nhất trong thực tế.

- Chọn lọc những luồng thông tin đúng đắn, có lập trường vững vàng để không bị
thế lực thù địch dụ dỗ xa rời những giá trị đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

- Nắm vững các nguyên tắc và giá trị của độc lập dân tộc: Sinh viên cần đặt sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người lên hàng đầu, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng
cho tất cả các thành viên trong cộng đồng dân tộc

- Nâng cao nhận thức và hiểu biết sâu sắc hơn về tư tưởng độc lập dân tộc và vai trò
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đưa dân tộc Việt Nam đến với nền độc lập, tự
do, hạnh phúc

- Nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là trong bối
cảnh đấu tranh giành độc lập và chủ quyền của dân tộc Việt Nam

III. Minigame: 10 câu (làm trên Quizizz)

1. Nguyễn Ái Quốc gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến hội nghị
Versailles vào thời gian nào?
A. 18/6/1917
B. 18/6/1918
C. 18/6/1919
D. 18/6/1920

2. Nội dung cốt lõi trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là:
A. Độc lập, tự do dân tộc
B. Chủ nghĩa xã hội.
C. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
D. Người cày có ruộng.

3. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ mấy?

A. Lần thứ 7
B. Lần thứ 8
C. Lần thứ 5
D. Lần thứ 6

4. “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”- Hồ Chí Minh nói câu nói đó trong tác phẩm nào?
A. Tuyên ngôn độc lập.
B. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
C. Bản án chế độ thực dân Pháp.
D. Đường Kách mệnh.

5. Chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản” trích từ văn kiện nào?
A. Đường Kách mệnh
B. Chương trình tóm tắt
C. Điều lệ vắn tắt
D. Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt

6. Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không lựa chọn con
đường cách mạng tư sản?
A. Vì cách mạng tư sản là “cuộc cách mạng không đến nơi”
B. Vì cách mạng tư sản không phù hợp với Việt Nam
C. Vì cách mạng tư sản chỉ diễn ra ở các nước tư bản
D. Vì ở Việt Nam không có giai cấp tư sản lãnh đạo

7. Theo Hồ Chí Minh, nhân tố hàng đầu nào quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam?
A. Đoàn kết toàn dân
B. Đoàn kết quốc tế
C. Liên minh công – nông
D. Có Đảng lãnh đạo

8. Theo Hồ Chí Minh, Cách mạng Giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi
phải đi theo con đường nào?
A. Cách mạng tư sản
B. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
C. Cách mạng vô sản
D. Cả B,C đều đúng

9. Theo Hồ Chí Minh, lực lượng giải phóng dân tộc bao gồm:
A. Toàn dân tộc
B. Nông dân, tiểu tư sản.
C. Công nhân, nông dân
D. Công nhân, nông dân, trí thức

10. Theo Hồ Chí Minh, động lực của cách mạng là các giai cấp:
A. Công nhân, tư sản.
B. Nông dân – tiểu tư sản.
C. Công nhân – nông dân
D. Nông dân – tư sản.

11. Chọn cụm từ đúng để hoàn chỉnh quan điểm của Hồ Chí Minh về lực lượng
cách mạng: “Công - nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ là … cách mệnh của công - nông”
A. đồng minh
B. bầu bạn
C. đồng hành
D. liên minh

12. Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể:
A. Giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
B. Phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
C. Đi tắt đón đầu so với cách mạng vô sản ở chính quốc.
D. Giành thắng lợi sau cách mạng vô sản ở chính quốc.

You might also like