You are on page 1of 17

Những nhận thức mới về giai cấp công

nhân hiện nay*


PGS, TS. NGUYỄN AN NINH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

TCCS - Thực trạng, số lượng, cơ cấu, tiêu chí đánh giá,


các yếu tố tác động đến giai cấp công nhân rất đa dạng,
phong phú, đan xen nhiều chiều. Căn cứ vào đó có thể
đưa ra một số nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện
nay.
Thực trạng của giai cấp công nhân hiện nay
Số lượng giai cấp công nhân (GCCN) hiện nay có nhiều số
lượng tương đối khác biệt do tiêu chí, quy mô và cách đánh giá
của mỗi chủ thể nghiên cứu. Năm 2012, Ngân hàng Thế giới
(WB) cho biết, thế giới đã có 1.000 triệu công nhân. Một nghiên
cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2014 khẳng
định, trên thế giới hiện có 1.540 triệu “công nhân làm công ăn
lương” (salaried workers) trong tổng số gần 3.300 triệu người
lao động của thế giới hiện nay. Cũng theo ILO, dự báo về số
lượng nhóm này, năm 2018 sẽ là 1.702 triệu người(1).
Cũng có một phân tích khác đưa ra số liệu tương đương: “Khi
C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, trên
thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương
chiếm 2% - 3% số dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có
máy móc. Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới có 80 triệu công
nhân. Năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử có đa số cư dân
tham gia vào lực lượng lao động và là người lao động ăn
lương. Hiện nay có khoảng 1,6 tỷ người lao động ăn lương,
tăng thêm 600 triệu kể từ giữa những năm 1990, hơn 1 tỷ trong
số đó là công nhân”(2). Số liệu về số lượng công nhân có thể
khác nhau đôi chút, nhưng nhận thức chung là sự tăng lên
mạnh mẽ của lao động công nghiệp trên thế giới trong vài thập
niên gần đây. Tỷ lệ lao động bằng phương thức công nghiệp
hiện nay chiếm trên 60% số lao động toàn cầu. Quá trình công
nghiệp hóa, nhu cầu phát triển văn minh (toàn cầu hóa, đô thị
hóa, hiện đại hóa cuộc sống...) là những nguyên nhân của hiện
tượng này.

Công nhân dây chuyền lắp ráp tại nhà máy của hãng Ford Motor Company ở
Michigan (Mỹ), năm 1928_Ảnh: Getty Images
Cơ cấu của GCCN hiện nay khá đa dạng, đang chuyển biến
mạnh theo hướng hiện đại hóa và được tiếp cận theo những
tiêu chí đánh giá sau:
Một là, cơ cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay vô cùng đa
dạng và chưa ngừng lại ở những nghề hiện có. Năm 1893,
Ph.  Ăng-ghen quan niệm: “Khi tôi nói “công nhân”, tôi có ý nói
người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị
các hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công,
công nhân thành thị và công nhân nông nghiệp bắt đầu cảm
thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện nay ở nước
chúng tôi”(3). Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã
được lý luận mở rộng rất nhiều, không chỉ có những người trực
tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có tính chất
công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong
chế độ tư bản.
Theo một nghiên cứu, hiện nay trên thế giới có khoảng 23.000
nghề nghiệp liên quan đến máy móc và phương thức lao động
công nghiệp; và dự đoán rằng, đến giữa thế kỷ XXI sẽ có thêm
khoảng 10.000 nghề nghiệp mới, chủ yếu là ở lĩnh vực dịch
vụ(4). Một nghiên cứu gần đây của Ê-ríc Ô-lin Rai (Erik Olin
Wright) một nhà xã hội học mác-xít (1947  - 2019) đã lập một
mô hình cơ cấu giai cấp theo nghề nghiệp, gồm 9 nhóm khác
nhau, dựa vào trình độ, kỹ năng và thẩm quyền (Xem bảng 1)
(5).

Hai là, cơ cấu công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp
công nhân hiện nay lao động trên 3 lĩnh vực cơ bản là nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang có sự dịch
chuyển lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là
nhóm lao động ở lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh, số lượng lao
động trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp giảm nhẹ. Số
liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI cho thấy rõ điều đó (Xem bảng
2).
Cơ cấu công nhân lao động trong các ngành nghề tại các nước
công nghiệp phát triển (G7) trong những năm đầu thế kỷ XXI
biến động chủ yếu cũng theo chiều hướng tăng lao động ở
nhóm dịch vụ, giảm lao động ở nhóm công nghiệp và nông
nghiệp (Xem bảng 3)(6).
Ở các nước phát triển, chẳng hạn ở Bắc Âu, xu hướng này có
nhỉnh hơn: Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng lao động dịch vụ
chiếm khoảng 70%; công nghiệp khoảng 25% và nông nghiệp
từ 3% đến 5% lao động. Cơ cấu lao động của Đan Mạch: 4%
số dân làm việc trong khu vực nông - lâm nghiệp, 24% trong
công nghiệp và xây dựng, 72% số dân làm việc trong lĩnh vực
dịch vụ, trong đó 31% là dịch vụ công và 41% là dịch vụ tư
nhân.
Ba là, cơ cấu của GCCN xét theo trình độ công nghệ hiện nay
được nhìn nhận là đa dạng và không đồng đều. Các nghiên
cứu về trình độ công nghệ của công nhân thường xét theo khả
năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán
thường là công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có
những đánh giá trình độ công nghệ của công nhân theo đặc
tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp mà họ đang hoạt
động, ví dụ: “công nghệ in offset” và “công nghệ in kỹ thuật số”.
Nhìn chung, công nghệ mà công nhân trên thế giới hiện đang
sử dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây phả hệ
công nghệ đa tầng”, hàm ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn
theo quy luật không đều và sự phát triển của GCCN hiện nay
cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Công nhân làm việc tại nhà máy lắp ráp ô tô ở EU_Nguồn: news.europawire.eu
Bốn là, cơ cấu GCCN dựa theo trình độ phát triển kinh tế
thường được giới nghiên cứu phân tích theo 2 nhóm nước là
nước phát triển và nước đang phát triển. Hiện có 408 triệu
công nhân trong các nước phát triển và số còn lại (khoảng hơn
1.100 triệu) là ở các nước đang phát triển. Trình độ phát triển
kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận với năng suất
lao động đạt được. Công nhân của các nước phát triển có
năng suất lao động cao hơn so với các nước đang phát triển.
Năm 2017, ILO xếp hạng năng suất lao động thông qua so
sánh việc tạo ra giá trị mới của 1 lao động/năm ở một số nước
phát triển: Công nhân Mỹ tạo ra 63.885USD/người/năm; công
nhân Ai-len là 55.986USD/người/năm; công nhân Bỉ là 55.235
USD/người/năm; công nhân Pháp là 54.609USD/người/năm...
Năm là. cơ cấu GCCN theo chế độ xã hội là cách tiếp cận theo
chế độ chính trị. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối
quan hệ biện chứng giữa công nhân, công nghiệp và chủ nghĩa
xã hội (CNXH) (chế độ chính trị). Chế độ chính trị cũng có thể
tác động đến sự phát triển của công nhân và công nghiệp. Lịch
sử cận đại, hiện đại xác định điều đó. Thống kê về GCCN các
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) năm 2019 cho thấy: Việt Nam
có khoảng 15 triệu; Lào có khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba có gần
3 triệu, Trung Quốc có khoảng 300 triệu công nhân và 270 triệu
“nông dân - công” (nhóm xã hội tham gia 2 phương thức và 2
lĩnh vực lao động, có 2 nơi cư trú; là trung giới của quá trình
chuyển biến từ nông dân sang công nhân, nhưng chưa hoàn
toàn sống bằng thu nhập từ lao động công nghiệp). Một nghiên
cứu cho biết: “Đến năm 2002, Trung Quốc có số lượng nhân
viên công nghiệp gấp đôi tổng số lượng nhân viên công nghiệp
các nước G7 cộng lại”(7).
Công nhân làm việc tại một nhà máy sợi ở tỉnh Giang Tây (Trung Quốc)_Ảnh: Tư
liệu
Đặc thù của cơ cấu công nhân ở các nước XHCN là có một bộ
phận công nhân thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tính đến
năm 2019, bộ phận công nhân ở thành phần kinh tế nhà nước
ở tất cả các nước XHCN đều có tỷ lệ nhỏ hơn so với số lượng
công nhân ở những thành phần kinh tế khác; Trung Quốc hiện
có 120 triệu, Việt Nam có hơn 2 triệu công nhân thuộc nhóm
này. “Công nhân nhà nước” gắn liền với thực tiễn của chế độ
công hữu XHCN và trong thời gian gần đây, họ tương tác với
nền kinh tế thị trường, công nhân ở thành phần kinh tế khác.
Theo J.M.  Kên-nơ (Keynes) - tác giả của lý thuyết về vai trò
của nhà nước - “bàn tay hữu hình”, họ (tức là công nhân nhà
nước) góp phần tạo ra cơ sở vật chất cho sự tăng cường can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục những “thất
bại của kinh tế thị trường” và cải thiện sự công bằng (8). Thực
tiễn cải cách, đổi mới còn phát hiện thêm trách nhiệm mới của
“công nhân nhà nước” là bộ phận tiền phong trong xây dựng
CNXH, công cụ điều tiết, can thiệp và định hướng của nhà
nước XHCN với cả nền kinh tế.
Sáu là, trình độ của GCCN còn được tính theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về
sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp cận này khá phổ biến
trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định
hướng XHCN hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị
của công nhân không đồng đều, có biểu hiện bất cập so với
yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà họ phải đảm trách. Điều đáng
quan tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính trị của một
bộ phận công nhân trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại
đang diễn ra ở nhiều quốc gia.            
Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện
nay
Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới
đang tạo ra nhiều đặc điểm mới cho GCCN.
Tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên là các cuộc
cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu
cầu đa diện hơn. Trong hơn 100 năm gần đây nhất người ta đã
thấy 3 cuộc cách mạng công nghiệp: lần thứ hai, lần thứ ba và
lần thứ tư. Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã tiến hành 2 kiểu
công nghiệp hóa là công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN)
và công nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công nghiệp
với chu kỳ ngày càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức là từ
“công nghiệp 1.0” đến “công nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ;
nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp 3.0” chỉ khoảng
một thế kỷ; còn từ “công nghiệp 3.0” đến “công nghiệp 4.0” chỉ
mất 30 năm!   
Công nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn
(diễn ra không tuần tự từ A đến Z mà phải tận dụng lợi thế so
sánh của mỗi quốc gia); gắn với hiện đại hóa (sử dụng thành
tựu khoa học và công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu mới
về phát triển bền vững về xã hội và môi trường, sinh thái...);
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ
hơn; các yêu cầu ngoài công nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ
môi trường, sinh thái, tài nguyên cao hơn; và hội nhập thị
trường quốc tế cấp thiết hơn...
Theo đó, lý luận “GCCN là sản phẩm và chủ thể của đại công
nghiệp” đã được bổ sung thêm nhiều nhận thức lý luận mới. Sự
phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế thế giới,
chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và
chấp nhận hợp tác, hội nhập quốc tế. Quá trình sản xuất hàng
hóa công nghiệp của công nhân buộc phải đáp ứng các tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính” của
thị trường... Và kết quả là một sản phẩm công nghiệp được
công nhân tạo ra không chỉ là kết quả của công nghệ - kỹ thuật
mà còn là sự tích hợp những giá trị kinh tế, xã hội, môi trường.
Nhiều nước phát triển đã ứng dụng cơ chế quản lý linh hoạt
(FMS) trong công nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng
tạo, tối ưu hóa quá trình sản xuất bằng nhiều nguyên tắc, như
thường xuyên đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa năng lượng
và vật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh hoạt thời gian và
địa điểm làm việc (chế độ làm việc tại nhà). Công nhân hiện đại
không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất TBCN”
mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn. 
Sự phát triển của GCCN ở “các nước đang chuyển đổi” hiện
nay còn là kết quả của sự kết hợp các cơ chế, quy luật của
kinh tế thị trường với vai trò của nhà nước và thành phần kinh
tế nhà nước; với chính sách đổi mới công nghệ, nâng cao trình
độ nhân lực, dần chuyển dịch mô hình kinh tế từ phát triển “bề
rộng” là chủ yếu sang phát triển theo “chiều sâu”. Công nhân
không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà còn là kết quả
tổng thành của chế độ chính trị và cơ chế kinh tế thị trường.
Trình độ làm chủ và sáng tạo công nghệ, tư duy kinh tế thị
trường, năng lực tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải
cách, đổi mới đều đã có bước tiến lớn. Quan tâm đến lợi ích
chính đáng của người lao động, kết hợp hài hòa lợi ích của
người lao động với lợi ích của tập thể và lợi ích của xã hội...,
vừa là tư duy kinh tế phù hợp, vừa là sự thể hiện tính chất
XHCN trong phát triển.  
Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của
GCCN. Chế độ XHCN đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô
và tốc độ mới cho công nghiệp hóa. Ngay trong kiểu công
nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là công nghiệp hóa theo mô
hình công nghiệp hóa cũ và theo mô hình công nghiệp hóa
mới. Hiện nay, cùng với lý luận công nghiệp hóa mới của thế
giới và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước XHCN
có thể thông qua hợp tác - phân công lao động quốc tế để thực
hiện công nghiệp hóa. Chính CNTB cũng cần đến CNXH và tìm
đến để hợp tác trong sản xuất toàn cầu. Đổi mới tư duy chính
trị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đẩy mạnh
hội nhập quốc tế... là xu thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp
công nhân đã xuất hiện với số lượng, chất lượng và diện mạo
mới không chỉ từ công nghiệp hóa mà còn từ cải cách, đổi mới.
Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ động xã hội
của GCCN và các giai cấp khác. Trước đây, như nhận định
của một tác giả Trung Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN địa vị
giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính sách phúc lợi toàn xã hội
khiến cho GCCN có được địa vị xã hội và kinh tế “trời phú” rất
cao, ở vào vị trí trung tâm trong toàn bộ kết cấu xã hội, được
hưởng một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp
nông dân trên nhiều phương diện và cao hơn nhiều so với
nông dân”(9). Nhưng hiện nay, “thân phận “trời phú” của GCCN
Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng trưng
thân phận sang khái niệm nghề nghiệp”. “Phương thức hợp
đồng hóa nghề nghiệp” thay cho chế độ công nhân, viên chức
vĩnh viễn; quan hệ lợi ích kinh tế thay cho quan hệ hành chính,
“từ trạng thái do quá khứ lưu truyền đến trạng thái do khế ước
quy định”(10). Rõ ràng, công nhân hiện nay không chỉ là sản
phẩm của công nghiệp hóa mà còn là sản phẩm của đổi mới
chính trị. Trong một số trường hợp, chính trị, chính sách đã tác
động mạnh mẽ, trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc đối với GCCN.
Thứ hai, kinh tế thị trường làm cho cơ cấu GCCN ngày càng đa
dạng hơn.
Nhận thức mới về vai trò của kinh tế thị trường là tạo ra một
không gian rộng mở hơn cho sự phát triển về nhiều mặt của
GCCN với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia quá trình
công nghiệp hóa. Từ thực tế này, lý luận về GCCN hiện đại
được bổ sung, phát triển thêm. Chẳng hạn, hiệu quả sản xuất  -
kinh doanh, năng suất lao động, lợi ích của người lao động,
người sử dụng lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp,
chuỗi giá trị toàn cầu, chủ động hội nhập, tổ chức chính trị   - xã
hội của công nhân trong bối cảnh mới,... đều là những vấn đề
lý luận mới mẻ và rộng lớn, phức tạp hơn.
Có thể, khái niệm “GCCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở giai
đoạn cải cách, đổi mới” sẽ là một vấn đề mà lý luận về GCCN
đang tích hợp thêm các nội hàm từ thực tiễn hiện nay. Có một
số dấu hiệu khá rõ là, trên thế giới đang có những khái niệm
“lưỡng tính” để phản ánh trình độ như “công nhân tri thức”,
“công nhân - trí thức”, “trí thức - công nhân” hoặc ở Trung
Quốc có khái niệm “nông dân - công” để chỉ tính chất đang
chuyển biến giai tầng; lại cũng có những khái niệm mang tính
chi tiết hơn về vị trí mà họ tham gia: công nhân trong thành
phần kinh tế nhà nước, công nhân trong thành phần kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là các
khái niệm mang tính phân lớp nghề nghiệp, như công nhân cổ
cồn trắng, cổ cồn xanh, cổ cồn vàng, cổ cồn nâu (11). Trình độ
mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện
đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa
dạng tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo
hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nhân làm việc trong lĩnh
vực công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); theo trình độ công
nghệ (công nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền
thống; công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học, cao
đẳng, chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất; công
nhân áo vàng - công nhân của các ngành công nghệ mới, công
nhân áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác
cầu thang, vệ sinh đô thị...). Lại có cả những phân loại công
nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp
lao động tại nhà để sống và công nhân không có cổ phần, chỉ
sống bằng sức lao động của mình). Phân loại công nhân theo
chế độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định
hướng XHCN; ở các nước G7; ở các nước đang phát triển...).
Công nhân hiện đại không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất tư bản
chủ nghĩa” mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn_Ảnh: Minh
họa
Cũng vì vậy, đã có hàng chục khái niệm để chỉ GCCN và có
nhiều điểm khác biệt về nội hàm khi so sánh các khái niệm ấy
với nhau. Sự mở rộng nội hàm ấy đã khiến cho nhiều khi so
sánh công nhân hiện nay với công nhân ở thế kỷ XIX chỉ còn
đặc điểm là “lao động làm thuê” và “bị bóc lột sức lao động”
được C. Mác sử dụng, là có thể thấy rõ. Còn các tiêu chí -
phẩm chất khác của công nhân, như gắn liền với máy móc
công nghiệp, lao động mang tính xã hội hóa, có tính tổ chức, kỷ
luật và triệt để cách mạng, có tinh thần quốc tế và bản sắc dân
tộc... đều có sự thay đổi, mở rộng và trong nhiều trường hợp
cụ thể, là tương đối khó nhận diện.
Thứ ba, một bộ phận lớn công nhân hiện nay xuất thân từ đô
thị.
Giai cấp công nhân thời C. Mác là giai cấp lao động làm thuê,
bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn.
Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô
thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn
vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân. Trước đây, các
vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con
sông lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và có nguồn
nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX,
bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc, như Lát
Ve-gát (LasVegas) cùng nhiều đô thị ở Trung Đông..., chúng
hầu như được xây dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới
là khắc phục giới hạn của tự nhiên, nhân tạo hóa các điều kiện
sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là một quá
trình gắn liền với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là
những thành phố được dịch vụ bởi công nghệ hiện đại. Nó cần
đến công nghệ mới, công nghiệp và công nhân.
Năm 2005, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất là ở Bắc Mỹ
với 82% số dân sống ở đô thị, tiếp đó là Mỹ La-tinh và vùng
Ca-ri-bê chiếm 80% và châu Âu là 73%. Báo cáo “Nhìn lại triển
vọng đô thị hóa thế giới” của Liên hợp quốc năm 2005, mô tả
“thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình đô thị hóa nhanh chóng của
cư dân thế giới” với tỷ lệ cư dân đô thị tăng từ 13% (220 triệu
người) năm 1900 lên 29% (732 triệu người) năm 1950 và 49%
(3,2 tỷ người) năm 2005. Báo cáo này cũng ước tính rằng vào
năm 2030 con số đó sẽ là 60% (4,9 tỷ người).
Đô thị hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao
động làm thuê, vốn có mặt từ thời “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, gồm “bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai
cấp tư sản biến thành những người làm thuê...” (12). Song, hiện
nay họ đông đúc hơn, đa dạng hơn với hàng nghìn ngành,
nghề khác nhau. Xét về cơ cấu nghề nghiệp, các nhà nghiên
cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm lao động dịch vụ
mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay với lao
động trí óc. Trong các quốc gia phát triển đã xuất hiện một cơ
cấu xã hội mới với vai trò mới của trí thức, công nhân trí thức.
Cũng bởi vậy, ở nhiều nước phát triển hiện nay (các nước G7
lao động nông nghiệp hoặc nông dân chỉ chiếm từ 2% - 3% lực
lượng lao động) liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân đã
không còn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên
minh giữa những người lao động, mà chủ yếu là hai nhóm lao
động đông đảo ở đô thị là sản xuất công nghiệp và dịch vụ
bằng phương thức công nghiệp.
Đô thị là nơi mà đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển
hình của nó. Ph. Ăng-ghen viết: “Các thành phố lớn là nơi bắt
nguồn của phong trào công nhân: nơi đây công nhân lần đầu
tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu tranh để
thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên
đoàn lao động, phong trào Hiến chương và chủ nghĩa xã hội đã
ra đời...”(13). Và quan trọng hơn: “Cách mạng công nghiệp tập
trung tư sản và vô sản vào các thành thị lớn, ở đó sự phát triển
công nghiệp là có lợi hơn cả, và sự tập trung đông đảo quần
chúng vào một chỗ như vậy làm cho vô sản nhận thức được
sức mạnh của mình”(14). Thực tiễn chính trị hiện nay cũng đang
xác nhận rằng, GCCN ở các đô thị sẽ là lực lượng quyết định
diện mạo của chính trị thế kỷ XXI./.
---------------------------
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia
“Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về giai cấp
công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lịch sử và thời
đại ngày nay; đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong
bối cảnh mới”, thuộc Chương trình KX.02/16-20, do PGS, TS. Nguyễn
Viết Thảo, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm
Chủ nhiệm
(1) Xem: Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ
dữ liệu hỗ trợ: Việc làm theo ngành và giới tính của toàn cầu, khu vực
và từng nước. Hiện nay chưa có số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy
hơn
(2) Xem: Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của
Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Anh, số ra ngày 11-8-2015
(3) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t. 22, tr. 809
(4)  Xem: Viện Nghiên cứu lao động và việc làm Pháp, Việc làm trên thế
giới hiện nay, 2010
(5) Xem: Những nghiên cứu mới về giai cấp công nhân trên thế giới hiện
nay, Tài liệu dịch của Đề tài, tr. 28
(6) Xem: Phong trào công nhân, công đoàn trên thế giới hiện nay, Tài
liệu tập huấn môn học Lịch sử Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 12-2018
(7) Judith Banister: “Việc làm trong ngành sản xuất ở Trung Quốc”
(Manufacturing employment in China), Monthly Labor Review, tháng 7-
2005, tr.  1,  Tài liệu dịch của Đề tài, Tldd, tr. 90
(8) János Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường (The Road to
a Free Economy - Shifting from a Socialist System: The Example of
Hungary), Hà Nội, Hội Tin học Việt Nam, 2001, tr. 32
(9), (10) Hoàng Húc Đông: Lý luận giai cấp công nhân của các tác giả
mác-xít kinh điển và những biến động mới của giai cấp công nhân Trung
Quốc đương đại, Tài liệu dịch của Đề tài: “Các học giả Trung Quốc bàn
về giai cấp công nhân Trung Quốc thời đại mới”, 2019, tr.  10, 11 - 12
(11) Ở Mỹ, nhóm lao động dịch vụ thường gọi là “Brown-collar workers”.
Họ chịu trách nhiệm vệ sinh môi trường công cộng, chăm sóc sức khỏe
người già, hỗ trợ cộng đồng và những công việc tuy có thể đơn giản
nhưng rô-bốt không thể thay thế 
(12) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 600
(13) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd,  t. 22, tr. 485
(14) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 464

You might also like