You are on page 1of 46

Câu 1: Làm rõ những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân và những biểu

hiện mới của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
Trả lời:
- Khái niệm và đặc điểm của GCCN
→ Từ những đặc điểm cơ bản – chung nhất đó giai cấp công nhân có những đặc điểm riêng do những
điều kiện lịch sử cụ thể ở từng quốc gia tạo ra.
-Những biểu hiện mới của giai cấp công nhân hiện nay:
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, giai cấp công nhân đã có những biến đổi quan trọng, có thêm nhiều đặc điểm
mới:
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động làm thuê (ở các nước tư bản) mà một bộ phận
không nhỏ trở thành những người làm chủ, nắm quyền lãnh đạo xã hội (ở các nước đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa).
- Lao động với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại;
- Nhiều lĩnh vực công nghiệp mới ra đời nên cơ cấu xã hội của giai cấp công nhân ngày càng đa
dạng; trình độ học vấn, khoa học công nghệ, tay nghề ngày càng được nâng cao (trí thức hoá);
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động chân tay, trực tiếp điều khiển máy móc cơ khí, mà
còn bao gồm những người lao động sản xuất với trình độ trí tuệ cao (công nhân – trí thức), nghiên cứu,
sáng chế
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động công nghiệp trực tiếp tạo ra các giá trị vật chất
cho xã hội, mà còn bao gồm những người lao động dịch vụ công nghiệp, lao động của họ gắn liền với sản
xuất công nghiệp, có tính chất công nghiệp.
- ở các nước tư bản, phần đông họ không còn vô sản trần trụi như trước kia mà đã có ít nhiều tư
liệu sản xuất (tuy nhiên, họ vẫn là những người đi làm thuê và bị bóc lột). ở các nước giai cấp công nhân
đã giành được chính quyền, cùng với nhân dân lao động, họ đã làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ nhà
nước và xã hội.
Phân tích những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân và những nội dung
để xác định khái niệm về giai cấp công nhân?
Khi nói về đặc điểm của giai cấp công nhân, có 3 đặc điểm nổi bật thể hiện rõ qua quá trình phát triển của
loài người:
+ Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra
năng suất lao động, mang tính xã hội hoá
+ Thứ hai, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, được coi là chủ thể trong quá trình
sản xuất vật chất.
+ Thứ ba, người công nhân được rèn luyện để mang những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật, sự
hợp tác và tinh thần lao động. Họ có tinh thần cách mạng triệt để
- Hai đặc trưng cơ bản của công nhân bao gồm+ Phương thức lao động của giai cấp công nhân có tính
hiện đại hoá, ngày càng có trình độ hoá cao. 9 - (KT – XH: trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ
sản xuất có tính chất công nghiệp hiện đại và xã hội hóa cao.) + Địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa rất thấp, buộc họ phải bán sức lao động và bị bóc lột bởi nhà tư bản. (- CT –
XH: người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho nhà tư bản và bị
bóc lột về giá trị thặng dư) => Đây là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với sự
phát triển của nền công nghiệp hiện đại. Đây là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến ra của cải, vật chất và
các quan hệ xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất và bị bóc
lột bởi giai cấp tư sản
Phân tích quan điểm của chủ nghĩa mác – Lênin về tính quy luật của sự ra đời
Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân?
Bản thân quy luật ra đời của Đảng Cộng sản (là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân)
quy định Đảng Cộng sản phải lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của mình. Đây là tiêu chuẩn cơ bản để xem xét một đảng có phải là chính đảng mácxít hay không và là
tiêu chuẩn hàng đầu để xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai
cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là
nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho đảng cộng sản. Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện
giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng, có như thế sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân mới thực hiện được. Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân và cả dân tộc.
Sự khác nhau giữa phong kiến, tư sản và SMLS của GCCN.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc
lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng
thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng
dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai
trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Nói cách khác SMLS của gccn không phải thay thế chế độ sở
hữu tư nhân về TLSX này bằng 1 chế độ sở hữu tư nhân về TLSX khác, hay thay hình thức bóc lột này
bằng 1 hình thức bóc lột khác. >< -PK, TS chỉ giải cứu người bóc lột khỏi người bóc lột chứ không xóa
bỏ hoàn toàn chế độ bóc lột người
Vì sao GCCN tiên tiến nhất?
- Trình độ chuyên môn, học vấn ngày càng cao.
- Môi trường sống, làm việc nâng cao trí tuệ cho GCCN.
- Đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, cung cấp tri thức CT – XH.
- Có hệ tư tưởng độc lập, tiến bộ.
Vì sao GCCN có tinh thần cách mạng triệt để?
- Bị áp bức bóc lột và bị tước TLSX, đấu tranh xóa tận gốc chế độ người bóc lột người.
- Mục tiêu đấu tranh triệt để: giải phóng GCCN và giải phóng xã hội.
- Có hệ tư tưởng tiên tiến: chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vì sao GCCN có tính kỉ luật cao?
- Điều kiện sản xuất tập trung.
- Trình độ kĩ thuật hiện đại.
- Phân công lao động có tính xã hội hóa cao.
Đoàn kết + tổ chức chặt chẽ + kỉ luật cao = sức mạnh -> lật độ GCTS
GC lãnh đạo CMVS là GC nghèo khổ nhất. Đúng hay sai? Vì sao?
-Sai. Hoàn toàn không phải vì nghèo khổ mà giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng
nghèo khổ của GCCN dưới CNTB là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và CNTB tạo ra
đối với công nhân, đó là trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng GCCN và xã hội.
So sánh điểm giống và khác giữa GCCN Việt Nam và thế giới.
Điểm giống:
- Đại diện LLSX tiên tiến, mang lại của cái vật chất cho xã hội.
- Chịu sự bóc lột của CNTB.
- Phẩm chất tiên tiến, cách mạng, kỉ luật, đoàn kết quốc tế.
Điểm khác:
- Đặc điểm của GCCN Việt Nam:
+ Sản phẩm của quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp -> phát triển chậm và mang nhiều tâm lí
tiểu nông (thế giới: ra đời bởi nền đại CN).
+ Ra đời trước GCTS Việt Nam, đối kháng trực tiếp với tư bản Pháp và tay sai.
+ Được tôi luyện trong đấu tranh chống thực dân, đế quốc nên trưởng thành nhanh chống, giác ngộ chủ
nghĩa Mác – Lênin.
+ Có tinh thần cách mạng triệt để, truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất.
+ Gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân, lợi ích thống nhất với lợi ích dân tộc -> tạo động lực cho
CM.
Công nhân hiện nay bị bóc lột giá trị thặng dư nhiều hơn hay ít hơn?

- Bị bóc lột nhiều hơn vì công nhân nhận lương theo cấp số cộng, trong khi tư
bản nhận theo cấp số nhân.
Ví dụ, trước đây, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, lao động thủ công là phổ biến, sức sản xuất của lao
động thấp, ngày lao động kéo dài 12 giờ, trong đó 8 giờ là lao động tất yếu(bù lại tiền công) và 4 giờ lao
động thặng dư. Giả dụ vì năng suất lao động thấp nên số sản phẩm chứa đựng giá trị mới là 60 đơn vị,
trong đó sản phẩm tất yếu là 40, sản phẩm thặng dư là 20, nên mức sống của người công nhân rất thấp và
nhà tư bản cũng chỉ thu được một lượng giá trị thạng dư rất nhỏ đành phải “tiết dục” chi tiêu tằn tiện đồng
thời giá trị thặng dư tích lũy nhỏ. Ngày nay, do sự đấu tranh của giai cấp công nhân và sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật ngày lao động rút ngắn còn 7 giờ chẳng hạn, trong đó thời gian lao động tất yếu là 2
giờ. Nhưng do năng suất lao động cao, nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ nên lượng sản
phẩm chứa đựng giá trị mới là 5600 đơn vị trong đó với 2 giờ lao động tất yếu người công nhân nhận
được 1600 sản phẩm cho tiêu dùng cá nhân(gấp 40 lần trước đây), do đó mức sống được nâng cao. Nhưng
mức độ bóc lột lại tăng từ 50%(4 giờ/8 giờ .100%) tăng lên 250% (5 giờ/2 giờ. 100%) còn nhà tư bản có
thể nhận được từ mỗi công nhân 4000 sản phẩm thặng dư, nhờ đó vừa sống xa hoa, vừa tăng được quy
mô tích lũy. Như vậy, dù đời sống của công nhân ở các nước tư bản tăng lên hơn trước nhưng quan hệ
bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại.
GCCN Việt Nam hiện nay đứng trước thời cơ phát triển nhưng cũng phải đối
mặt với nhiều thách thức
GCCN Việt Nam hiện nay đứng trước thời cơ phát triển nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức. Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đứng trước sự phát triển
nhanh chóng và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam có những
thuận lợi đan xen với khó khăn nhất định:
Về thuận lợi: GCCN Việt Nam có số lượng đang tăng lên. Theo báo cáo của Tổng cục Thống
kê,hiện nay tổng số công nhân nước ta chiếm tỷ lệ khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội,
bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước; đang
làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài; số lao động giản đơn trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể.
Dự báo đến năm 2020, giai cấp công nhân có khoảng 20,5 triệu người. Công nhân trong doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh; ngược lại, công nhân trong
doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề
nghiệp, chính trị của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri thức, nắm vững
khoa học – công nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu vực
ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với
các chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác phong công
nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp
ngay từ đầu, có trình độ học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực
lượng lao động chủ đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia
tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai…
Về khó khăn: Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất
cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật laođộng còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ
bản và có hệ thống”.Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Để hướng đến một nền
sản xuất công nghiệp hiện đại, số lượng giai cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24%
lực lượng lao động xã hội là tỷ lệ còn thấp. Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân
nước ta dù được cải thiện, song vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng không thuận đến việc tiếp thu khoa học - kỹ
thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ tăng năng
suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038, năng suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt
kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, có kế hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về
laođộng khi các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam. Một thực trạng đáng quan tâm khác là tỷ lệ thất nghiệp
của những người đã qua đào tạo đang ngày càng cao…Trong thời gian tới, quá trình toàn cầu hóa sản xuất
với sự phân công và hợp tác lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế
giới. Khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản vềkhông gian kinh
tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường lao độngđược gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa
các nước càng trở nên gay gắt. Hiện ASEAN đã cóhiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa
thuận công nhận lẫn nhau về chứngchỉ hành nghề chính thức đối với 8 ngành nghề được tự do chuyển
dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và du lịch. Việc công nhận trình độlẫn
nhau về kỹ năng nghề sẽ là một trong những điều kiện rất quan trọng trong việc thực hiện dịch chuyển lao
động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Nhưngđây cũng sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số
lượng công nhân lành nghề ở nước tacòn khiêm tốn, buộc phải chấp nhận nguồn lao động di cư đến từ các
nước khác cótrình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình độ của công nhân nước ta không được cảithiện để
đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”
Phương hướng và giải pháp của Đảng ta về xây dựng GCCN Việt Nam
hiện nay:
- Phương hướng phát triển GCCN Việt Nam hiện nay
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng khẳng định
+ Coi trọng, giữ vững bản chất GCCN và các nguyên tắc sinh hoạt Đảng, đồng thời chú trọng xây
dựng và phát huy vai trò của GCCN, nông dân, đội ngũ tri thức, đội ngũ doanh nhân đáp ứng nhu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
+ Đảng và nhà nước ta phải quan tâm giáo dục đào tạo, bồi dưỡng phát triển GCCN về cả chất
lượng và số lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác
phong công nghiệp, kỉ luật lao động của công nhân, bảo đảm việc làm nhà ở các công trình phúc lợi phục
vụ cho công nhân, sửa đổi bổ sung các chính sách pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp, để bảo vệ quyền lợi nâng cao đời sống vật chất tinh thần của công nhân.
- Giải pháp về xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay
+ Một là, nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lớn mạnh của GCCN là một điều kiện tiên quyết đảm
bảo thành công của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước.
+ Xây dựng GCCN lớn mạnh gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên mình
GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng của tất cả các giai cấp, các
tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết dân tộc – động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước đồng thời
tang cường quan hệ hợp tác đoàn kết quốc tế với GCCN trên toàn thế giới
+ Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng GCCN lớn mạnh gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đẵn giữa mối quan hệ tang trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo xây dựng GCCN; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công
nhân, người lao động, nhà nước và toàn xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
CN, quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN.
+ Bốn là, đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa
GCCN là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biết quan tâm xây dựng đối với hệ công nhân trẻ, có học vấn
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực, quốc tế. Có lập trường giai cấp và bản lĩnh
chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nồng cốt của GCCN.
+ Năm là, xây dựng GCCN lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và
sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng
lao động. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò
quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng GCCN. Xây dựng GCCN lớn mạnh gắn liền với xây dựng
Đảng trong sạch, vững vàng về chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Có thể hỏi thêm: Suy nghĩ của anh chị về các giải pháp chính sách trên
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu cho nên để và muốn phát triển GCCN thì trước hết phải
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn để xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại, trong đó công
nghiêp dịch vụ là lĩnh vực trọng tâm, nông nghiệp thì phải từng bước hiện đại hóa, cơ giới hóa. Hơn nữa,
muốn phát triển GCCN và để giai cấp công nhân có thể thực hiện sự mệnh đó là lãnh đạo thông qua đội
Tiên Phong là Đảng cộng sản thì cần phải nâng cao trình độ cho GCCN, nâng cao trình độ giác ngộ lý
luận chính trị bởi vì trình độ của GCCN nước ta nói riêng và người lao động nói chung còn ở mức độ rất
thấp. Chỉ khoảng hơn 40% lao động Việt Nam mới qua đào tạo, trong đó thì ở khu vực thành thị chiếm
hơn 30%, ở khu vực nông thôn thì chỉ khoảng trên 10% lao động mới qua đào tạo. Do đó nâng cao trình
độ cho người lao động đặc biệt là GCCN ngoài trình độ về học vấn, về chuyên môn kỹ thuật cần phải
nâng cao lý luận chính trị để GCCN nhận thức rõ được sứ mệnh lịch sử của mình và làm chủ được khoa
học công nghệ trong điều kiến cuộc cách mạng công nghệ 4.0 phát triển mạnh và một số nước phát triển
đã chuyển sang nền kinh tế tri thức thì công nhân VN cần phải nâng cao trình độ trí thức hóa. Bên cạnh
đó, GCCN cần liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức khối liên minh công nông trí thức ngày
càng phải được tăng cường nhưng phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của ĐCS khối liên minh này là nồng cốt
pháp quyền của nhà nước xhcn Việt Nam của khối đại đoàn kết dân tộc.
Một số bộ phận cho rằng chế độ công hữu về TLSX không phù hợp với Việt
Nam. Đúng hay sai?
-Sai. Trong CNTB, có sự đối lập giữa sở hữu tư nhân về TLXS với LLSX mang tính XHH cao.
CNTB có LLSX phát triển nên có thể thay đổi QHSX từ tư hữu sang công hữu về TLSX. Còn VN do
chưa có LLSX phát triển nên không thể thay đổi QHSX ngay được mà thay vào đó là phát triển LLSX
trước để LLSX mang tính XHH cao mâu thuẫn với sở hữu tư nhân về TLSX, từ đó mới có thể thay đổi
QHXS. Chế độ công hữu về TLSX không phải không phù hợp mà Việt Nam cần có một thời kì quá độ
khá lâu dài để có thể đáp ứng những điều kiện cần thiết.
Làm rõ sự ưu việt của các đặc trưng CNXH so với các xã hội khác.
- CNXH giải phóng GC, dân tộc, XH, con người, tạo điều kiện để con người phát triển
toàn diện: Ở các XH trước, đa số con người vẫn còn bị áp bức bóc lột, chịu nhiều bất công trong XH và
họ thường chỉ giải phóng cho giai cấp của mình. Còn CNXH giải phóng con người, XH khỏi những xiềng
xích và con người có nhiều cơ hội phát triển hơn. Khác ở bản chất nhân văn, nhân đạo.
- CNXH có nền kinh tế phát triển, LLSX hiện đại, chế độ công hữu về TLSX: CNXH ->
công hữu: làm theo năng lực, hưởng theo lao động, đời sống được nâng cao, tạo đk phát triển. XH khác ->
tư hữu: làm theo năng lực, hưởng theo tiền công -> bị bóc lột sức lao động.
- CNXH là chế độ XH do nhân dân lao động làm chủ: vì do nhân dân lao động làm chủ nên
CNXH đại diện cho đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. XH cũ do thiểu số thống trị -> nhân
dân lao động không được làm chủ. Trong CNXH, người lao động làm theo năng lực, hưởng theo lao động
-> hưởng đúng với công sức.
- CNXH có nhà nước kiểu mới mang bản chất GCCN, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý
chí của nhân dân lao động: Nhà nước XHCN đại diện cho GCCN mà bản thân GCCN là người lao động -
> có sự thống nhất giữa lợi ích nhà nước với lợi ích nhân dân. Còn XH cũ, nhà nước chỉ đại diện cho giai
cấp nắm quyền, cho thiểu số.
- CNXH có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại: CNXH hướng đến xây dựng con người chân, thiện, mỹ, hướng đến những
giá trị tốt đẹp, kết hợp hài hòa giữa cái riêng với cái chung. Các nền văn hóa trước thiên lệch về 1 hướng,
đề cao cá nhân hoặc tập thể.
- CNXH bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hợp tác hữu nghị:
Các nước XHCN sẵn sàng giúp đỡ các nước đang xây dựng CNXH (Liên Xô giúp VN), chung sống trong
hòa bình và giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng, hòa giải.
Vì sao nói quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự lựa chọn duy
nhất, đúng đắn?
-Phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
-Là sự lựa chọn đúng với xu hướng phát triển của thời đại.
-VN bị bóc lột bởi CNTB nên không thể tiến lên CNTB, bỏ qua CNTB đúng với kỳ vọng của
nhân dân VN.
-Đi theo con đường CMVS là tất yếu để đến CNCS.
-Con đường CNXH đã giúp VN giành độc lập, chỉ có CNXH mới giữ được độc lập dân tộc.
Điều kiện cần để VN tự tin bước trên con đường này:
- Có Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Có nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Khối liên minh công – nông – trí thức.
- Con người VN cần cù, thông minh, yêu chuộng hòa bình.
Đây chính là cơ sở lý luận mang tính tất yếu của thời kỳ qúa độlâu dài ở VN. Vậy tính tất yếu của TKQĐ
lên CNXH ở Việt Nam làgì? 1. Đây chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với cácnước đi lên
XHCN trong thời đại ngày nay, hay nói cách khác đấy chínhlà sự phù hợp với lý luận cách mạng ko
ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạocủa
Đảng CSVN ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạngXHCN, vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc,
vừa đấu tranh chống Đế QuốcMỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự phù hợp với xu thế của thờiđại
ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắcchắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống
XHCN trên phạm vi tòan thế giới.CNTB không phải là tương lai của loài người. Đây là xu hướng
kháchquan thích hợp với lịch sử. 2. Đây là sự phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp
TKQĐ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của TKQĐ,cụ thể là: - Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ
điều này trên quan điểm: ”Bỏ qua CNTB tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
vàkiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thu kế thừa những thành tựu mànhân loại đã đạt được dưới thời
TBCN.” - Đất nước ta còn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ xã hội cũ vàchiến tranh để lại. Công cuộc đi
lên CNXH là một công việc khó khănphức tạp do đó cần phải có thời gian để cải tạo xã hội, tạo điều kiện
vềvật chất và tinh thần cho CNXH.- Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nứoc ta đãcó
đủ điều kiện quá độ lên TBCN, đó là những điều kịên: + Nhân dân đoàn kết tin tưởng vào chế độ XHCN
+ Chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân laođộng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS + Có sự
giúp đỡ của các nước tiên tiến, các nước XHCN anhem và phong trào cách mạng tiến bộ của thế giới
=>Tóm lại, thời kỳ qúa độ lên CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN là tính tấtyếu, là sự lựa chọn sáng suốt của
Đảng và nhân dân ta.
Phân tích đặc điểm quá độ lên CNXH ở VN.
- Xuất phát từ một XH vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, LLSX rất thấp.
+ Ưu: Xuất phát điểm thấp nhưng có kinh nghiệm từ các nước đi trước, chưa có gì nên dễ dàng định
hướng phát triển thay vì phải đập đi xây lại, xuất phát điểm thấp -> động lực cho người dân VN.
+ Nhược: chiến tranh ác liệt -> hậu quả nặng nề, tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, các thế lực thù
địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và độc lập dân tộc.
- Cuộc CM khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ.
+ Ưu: chất lượng sống được nâng cao, có cơ hội quảng bá văn hóa đến bạn bè quốc tế.
+ Nhược: nguồn nhân lực trình độ thấp -> khó khăn tiếp cận khoa học, công nghệ hiện đại -> cho đi đào ở
nước ngoài -> có thể gây ra chảy máu chất xám, dễ thành “bãi rác công nghiệp”.
- Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
+ Ưu: vẫn đang phát triển đúng hướng, không phải lăn tăn suy nghĩ.
+ Nhược: đối mặt với sự chống phá của thế lực thù địch.
- Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ
qua vị trí thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
+ Thứ nhất, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường CM tất yếu khách quan, con đường xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
+ Thứ hai, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua vị trí thống trị của QHSX và kiến trúc
thượng tầng TBCN. Điều đó có nghĩa là sở hữu tư nhân TBCN và thành phần kinh tế tư nhân TBCN
không chiếm vai trò chủ đạo; ngoài phân phối theo lao động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức đóng
góp và quỹ phúc lợi xã hội; quan hệ bóc lột TBCN không giữ vai trò thống trị.
+ Thứ ba, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN đòi hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu nhân
loại đạt được dưới chế độ TBCN.
+ Thứ tư, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là tạo ra sự biến đổi về chất của XH trên các lĩnh vực,
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
Một số bổ sung, điều chỉnh các đặc trưng của CNXH ở VN hiện nay.

- “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”: đáp ứng nhu cầu
diễn đạt một cách khái quát nhất để người dân dễ hiểu, là mục tiêu quan
trọng nhất.
- “nhân dân lao động làm chủ” -> “nhân dân làm chủ”: nhấn mạnh vai trò của
toàn thể nhân dân, ai cũng có quyền được hưởng lợi ích cũng như có nghĩa
vụ ngang nhau.
- “chế độ công hữu" -> “QHSX tiến bộ phù hợp”: thích nghi với những biến
chuyển của thời đại, tiếp thu những cái hay để dần hoàn thiện hơn.
- Không còn “được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động”: ở thời điểm hiện tại con người không còn bị áp
bức, bóc lột như trước kia, sự phát triển của con người chính là mục tiêu
quan trọng nhất.
- “trong nước” -> “cộng đồng người Việt”: trong hay ngoài nước thì đều là
dân tộc Việt Nam.
- “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do ĐCS lãnh đạo”: nhà nước có hệ thống pháp luật để xây dựng, quản lý XH
nhằm bảo vệ con người.
- “nhân dân tất cả các nước” -> “các nước”: quan hệ hữu nghĩ không những
với nhân dân mà còn với chính quyền, lãnh đạo các nước.
Vì sao chưa có nước nào đạt đến CNXH?
- Kể cả các nước đã có hay chưa có chế độ TBCN phát triển thì cũng cần trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài để đáp ứng những nhu cầu của thời đại, cải
biến từ XH này sang XH khác.
- Để đạt được CNXH, các quốc gia cần có 1 nền chính trị cũng như nền kinh
tế ổn định. Các nước TBCN có 1 nền kinh tế vô cùng phát triển, KHKT hiện
đại nhưng vấn đề chính trị lại phức tạp, không ổn định. Còn ở các nước
thuộc địa sau khi trải qua CM thì nền chính trị có thể ổn định, không còn
chiến tranh nhưng nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, là hậu quả của các cuộc
chiến tranh.
→ Hiếm có quốc gia nào hội tụ đủ 2 yếu tố trên để có được CNXH.

“Dân chủ vô sản gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Bằng kiến thức đã học làm rõ
nhận định.
Dân chủ vô sản Dân chủ tư sản

Mục đích Phục vụ số đông Phục vụ thiểu số

Bản chất Mang bản chất GCCN Mang bản chất GCTS
- Mang tính nhất nguyên về - Mang tính đa nguyên về
Chính trị
chính trị chính trị
- Nhà nước pháp quyền - Nhà nước pháp quyền TS
XHCN
- Công hữu về TLSX - Tư hữu về TLSX
Kinh tế
- Phân phối lợi ích theo kết - Phân phối lợi ích theo
quả lao động TLSX
- Dựa trên hệ tư tưởng Mác - Dựa trên hệ tư tưởng TS
Văn hóa tư tưởng
– Lênin
- Kết hợp hài hòa giữa lợi - Chủ yếu hướng đến lợi ích
ích cá nhân, lợi ích tập thể cá nhân
và lợi ích của toàn XH
→ DCVS gấp triệu lần DCTS.

Vì sao vai trò lãnh đạo duy nhất của ĐCS là điều kiện tiên quyết để có được
dân chủ XHCN?

- Bởi lẽ:
+ Nhờ nắm vững hệ tư tưởng CM và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin
và đưa nó vào quần chúng, Đảng mang lại phong trào quần chúng tính tự
giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN.
+ Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng nâng cao trình
độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả
năng thực hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát
triển của xã hội.
+ Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống
lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của
nhân dân.
+ Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ XHCN ra đời, tồn tại và
phát triển.

Tại sao nhà nước XHCN là nửa nhà nước?

- Nhà nước nguyên nghĩa có chức năng trấn áp đóng vai trò quyết định. Còn
nhà nước XHCN vẫn còn chức năng trấn áp (sự trấn áp của đa số nhân dân
lao động đối với thiểu số bóc lột) nhưng chức năng tổ chức, xây dựng lại
đóng vai trò quyết định.
→ Nhà nước XHCN là nửa nhà nước
Lấy ví dụ chứng minh giữa dân chủ XHCN và nhà nước XHCN có mối quan
hệ biện chứng với nhau.

- Tính mạng con người luôn là mục tiêu quan trọng được nhà nước hướng đến
để bảo vệ -> con người được sống lạc quan, hạnh phúc, được phát triển bình
thường -> đóng góp tích cực vào việc xây dựng, tổ chức và quản lý nhà
nước.
- Nhà nước ban hành luật Hình sự để trấn áp, cưỡng chế những ai xâm phạm
đến tính mạng của người khác -> XH ổn định, trật tự.
Vì sao phải kết hợp cả 2 hình thức DC trực tiếp và DC gián tiếp?

- Trực tiếp: tốn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc.
- Gián tiếp: nhanh chóng, tiện lợi nhưng đôi khi tổ chức được nhân dân “ủy
quyền” lại vì lợi ích của mình mà từ bỏ lợi ích chung -> không thể hiện được
tính dân chủ.
→ Cần kết hợp cả 2 hình thức trên để thực hiện dân chủ một cách hiệu quả nhất
Thực trạng dân chủ ở Việt Nam : Thành tựu/ Sau Chỉ thị 30, Chính phủ đã luật hóa bằng nghị
định của Chính phủ. Dựa trên chỉ thị và nghị định về dân chủ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành
hàng trăm văn bản nhằm bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở, bao gồm cả quyền dân
chủ của cán bộ, công chức, của cán bộ, nhân viên ở các doanh nghiệp… Cho đến nay, chế độ dân
chủ ở Việt Nam đã và đang được thực hiện nghiêm túc ở các cấp, từ cơ sở xã phường, cơ quan,
cho đến Quốc hội. Tất cả những vấn đề từ đời sống thường nhật cho đến vấn đề độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đều được người dân quan tâm và có quyền tham gia.
Chẳng hạn, hiện nay vấn đề nguồn nước sạch, thực phẩm an toàn, bảo vệ quyền trẻ em... từng là
những chủ đề “nóng” trên diễn đàn Quốc hội. Gần đây, vấn đề Biển Đông là chủ đề được Quốc
hội Việt Nam đặc biệt quan tâm.

Ngày nay, nói đến chế độ dân chủ và quyền con người (QCN) thì không thể không nói đến
quyền sử dụng internet và mạng xã hội. Việt Nam chính thức nối mạng internet từ năm 1997. Từ
năm 2010, đường truyền internet ở Việt Nam được chuyển từ dây cáp đồng sang cáp quang. Tính
đến năm 2017, Việt Nam đã có 64 triệu người dùng internet, chiếm 67% dân số cả nước. Với con
số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng
thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.( trích tạp chí cộng sản)

Hạn chế/Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế,
chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt
chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. Các thông tin chưa được cung cấp thường
xuyên để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong tự do
ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói nhiều, làm ít hoặc nói nhưng
không làm.
- Công tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, còn một số biểu hiện trì trệ, yếu kém, bất
cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân
không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ còn bất
hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và
đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ, chưa thực hiện cơ chế
lựa chọn có số dư cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ
thực sự để tạo ra môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện công khai hóa, minh
bạch hóa các khâu trong công tác cán bộ để nhân dân được biết và có điều kiện theo dõi, giám
sát quá trình triển khai thực hiện( trích trang thông tin điện tử hội đồng lý luận trung ương)
Giải pháp/ Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình
độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ. Thứ hai, đích cuối cùng của thực hiện
dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
người dân. Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng phải là tấm gương về dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của mình. Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ
quan, đơn vị nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao vai trò
của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. ( trích tạp chí tổ chức nhà nước )
Liên hệ bản thân : phát huy tinh thần dân chủ , học tập phát triển bản thân nâng cao nhận thức ,
đóng góp ý kiến khi được yêu cầu , thực hiện tốt các hoạt động dân chủ.

Trong thực tiễn, bạn đã thực hiện và phát huy quyền dân chủ của bản thân
như thế nào? Theo bạn việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội ta tốt
chưa? Vì sao?
Việc thực hiện và phát huy quyền dân chủ của bản thântrong thực tiễn như thế nào ?
Ví dụ 1: Khi đủ 18 tuổi, tôi đã thực hiện quyền dân chủ bằng cách tham giabầu cử tại địa
phương.Ví dụ 2: Tham gia các chương trình tình nguyện, tuyên truyền, hỗ trợ giúpngười dân
hiểu hơn về quyền dân chủ, giữ gìn vệ sinh môi trường,…Ví dụ 3: Là một sinh viên tôi luôn có ý
thức rèn luyện học tập và luôn tuânthủ theo quy định của nhà trường đưa ra. Ví dụ 4: Bản thân
cũng được nêu ý kiến, góp ý về cách giảng dạy của các giảng viên,tham gia khảo sát, nêu ý kiến
về các vấn đề liên quancủa lớp của trường.Ví dụ 5:Bản thân đã tự quyết định, lựa chọn ngành
học cũng như là côngviệc của mình.Ví dụ 6: Bản thân đã tham gia các cuộc họp, sinh hoạt chi
đoàn theo kếhoạch.Ví dụ 7: Trong hoạt động nhóm, các thành viên đưa ra góp ý để bài đượchoàn
chỉnh hoặc đưa ra góp ý nhận xét cho bài thuyết trình của nhóm khác.
Việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội ta chưa tốt vì vẫncòn nhiều hạn chế và bất
cập.vì những lí do sau:Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảngviên và
nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trongviệc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ
sở.Thứ hai, thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủcủa nhân dân chưa được tôn
trọng và phát huy đầy đủ, thậm chíquyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh
vực cònbị vi phạm. Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận,lắng nghe
các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội vớiviệc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép
nước còn nhiều bất cập. Thứ tư, chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủthể
của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quannhà nước.Thứ năm, Trong hơn
30 năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có nhiều đổi mới, Nhà nước đã cố gắng xây dựng,
ban hành phápluật và đưa pháp luật trở thành công cụ quan trọng trong quản lý đấtnước, thực
hành dân chủ trong xã hội.Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng
bộ,không thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thihành pháp luật và nhân dân,
ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủtrong xã hội.
Sinh viên cần làm gì để thực hiện dân chủ?
- Khi đủ 18 tuổi -> thực hiện dân chủ bằng cách tham gia bầu cử tại địa phương.
- Cần có ý thức tuân thủ pháp luật.
- Cần đóng góp ý kiến trong việc điều chỉnh, bổ sung luật.
- Trong làm việc nhóm, cần mạnh dạn nêu lên quan điểm cá nhân, tránh thụ động, không
đóng góp ý kiến cho công việc chung của nhóm.
Một số biện pháp nâng cao tinh thần dân chủ cho sinh viên thông qua việc giảng dạy các học
phần lý luận chính trị
* Nâng cao nhận thức đúng đắn của SV về dân chủ và tinh thần dân chủ trong trường học:
- Trong trường học, GV cần là cầu nối để SV hiểu và nhận thức đúng đắn về dân chủ và tinh thần
dân chủ. Phát huy dân chủ trong dạy và học đồng thời phải chống dân chủ cực đoan, dân chủ
không tuân theo nội quy, quy định của trường học và môn học. Trong dạy học, mọi ý kiến khác
nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn và giáo viên cần là người điều hành cũng như kết
luận lại những vấn đề thảo luận. Ngoài việc nâng cao nhận thức cho SV, điều quyết định bảo
đảm thực hiện dân chủ trong dạy học một cách hiệu quả đó là phải có phương pháp đúng đúng,
có những quy định cụ thể và phải có công bằng trong hoạt động dạy học.
- GV cũng cần phải cho SV thấy được dân chủ và phát huy tinh thần dân chủ là quyền và nghĩa
vụ của người học nhằm xây dựng một môi trường học thuật, giáo dục và xã hội dân chủ thực sự.
* Dân chủ trong dạy học phải bắt đầu từ cách làm của người dạy học:
- Thường xuyên lắng nghe ý kiến của SV một cách công khai.
- Tạo môi trường dân chủ thật sự để SV sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến thông qua các hoạt
động dạy học, đối thoại với SV.
- Tạo quan hệ dân chủ, thoải mái giữa GV với SV thực sự là mối quan hệ dân chủ.
- Tạo điều kiện thuận lợi để SV phát huy hết các khả năng, vận dụng kĩ năng vào quá trình học.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động, hình thức dạy học với nhiều nội dung phong phú, có
không khí học thuật, đảm bảo tính khoa học để SV được trao đổi, chia sẻ thẳng thắn những quan
điểm và phương pháp của mình nhằm tìm ra những giải pháp tối ưu nhất cho quá trình dạy – học.
- GV công khai đề cương, bài giảng, giáo trình và hình thức đánh giá trước khi tiến hành dạy
học.
- Coi hoạt động dạy học là diễn đàn trao đổi, thảo luận. GV tôn trọng ý kiến của SV, tạo điều
kiện SV tham gia xây dựng phát triển bài học. GV tránh tư tưởng trù dập SV, coi mình là ông
vua có thể sát phạt SV một cách tùy tiện
- SV xác định rõ vai trò học tập của mình, tránh tư tưởng thụ động một chiều, dĩ hòa vi quý, có
quyền tranh luận với GV và SV để đi đến chân lí.
Dân chủ nhiều hay ít có phụ thuộc vào đa đảng hay 1 đảng không? Vì sao?
Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, cản trở sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ,
phát triển là luận điệu sai trái. Bởi đất nước có dân chủ hay phát triển không phụ thuộc vào chế
độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có mang bản chất cách mạng
hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích của đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận
thiểu số người trong xã hội đó.
Thực tiễn cho thấy, dân chủ và sự phát triển của một đất nước không tỷ lệ thuận với số lượng các
đảng mà quốc gia đó có. Vì nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay tuy đa đảng nhưng vẫn mất dân
chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển. Trên thế giới hiện nay vẫn có nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ chế độ chính trị chỉ có một đảng cầm quyền, điều này cho thấy rằng, chế độ chính
trị do một đảng cầm quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền TS và nhà nước pháp quyền XHCN.
1 - Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều phải thừa nhận phương
thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội
dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau
rất cơ bản. Rơ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu
nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và
Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Ṭ a án, Ṭ a án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền xă hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các
cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của
ḿ nh là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra
Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền
lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán
Chính phủ...

2 - Trong Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao
của pháp luật, vv pháp luật xă hội chủ nghĩa thể hiện ư chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong
Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng
pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ư chí, nguyện vọng của toàn
dân mà chỉ phản ánh ư chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư
sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và
gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt
cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản.

3 - Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực
hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa không thừa nhận
việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự
phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền
lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.

4 - Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản
cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xă hội chủ
nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một tŕnh tự và thủ tục
nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy
phạm pháp luật "bất thành văn".

VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. Đối với bản thânTăng cường củng cố nền tảng đạo đức, năng lực chính trị, cập nhật những
chính sách,đường lối mới của Đảng và chủ trương của Nhà nước trong công tác hoàn thiện và
xâydựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng vững mạnh. Chủ trương
thực hiện đúng các quy định của pháp luật, tích cực tham gia các hoạt độngtrưng cầu ý dân góp
phần giúp Đảng và Nhà nước sửa chữa các hạn chế trong cácchính sách, thực hiện quyền làm
chủ đất nước, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,dân kiểm tra, dân đánh giá, dân thụ hưởng”
3.2. Đối với xã hộiTham gia chống dịch ở địa bàn tại nơi mình ở, góp sức vào việc chống dịch
của địa phươngTham gia các công tác đoàn hội, tuyên truyền, vận động người dân chấp hành
đúng kỷcương, pháp luật mà Đảng và Nhà nước đề ra.Vận động người dân tham gia các buổi
tuyên truyền, họp tổ dân phố nâng cao nhậnthức về phòng chống dịch ở địa phương và phòng
chống các tệ nạn xã hội do hệ quảcủa dịch bệnh gây nên.Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi
người xung quanh nhằm tránh những xung độtxã hội không đáng có.

Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp công nhân. Phê phán những quan điểm sai trái xung quanh vấn đề này.
1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử giao phó cho một giai cấp để
nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một hình thái kinh tế – xã hội đã lỗi thời sang một hình thái kinh
tế – xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Phân tích một cách khách quan địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân, các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu một cách khái quát nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:
xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, không có người bóc lột người trên
cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi
áp bức, bóc lột, bất công.
Cụ thể có 3 nội dung cơ bản sau đây:
1. Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức để nhân dân lao
động giành chính quyền về tay mình, xoá bỏ chính quyền của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, xoá bỏ
giai cấp tư sản (và mọi giai cấp áp bức bóc lột khác); giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ,
xây dựng chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nội dung này có thể thực hiện bằng
biện pháp bạo lực là chủ yếu, tuy nhiên tranh thủ tối đa biện pháp hoà bình khi có điều kiện thuận lợi để
tránh đổ máu không cần thiết.
2. Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức nhân dân lao động
xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời tổ chức xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người…, để từng bước
hình thành xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế giới.
Đây là nội dung cơ bản quyết định cuối cùng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cũng là
nội dung rất khó khăn, phức tạp, vì nó rất mới mẻ và là quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện,
triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Do đó cần phải trải qua từng bước, lâu dài với yêu cầu ngày càng
cao đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, nhất là đối với Đảng cộng sản, với Nhà nước cả về trí
tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị. Không thể nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí… mà hoàn
thành được nội dung này.
3. Trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại để xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật, cơ sở kinh tế cho tất cả các nước theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
ngày càng cao. Không có giai cấp công nhân lớn mạnh, không một nước nào (kể cả các nước phát triển
nhất hiện nay) có thể tồn tại và phát triển trong thời đại hiện nay. Nội dung này là nội dung thường xuyên
và thực hiện suốt trong các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở tất cả các nước.
Những điều kiện khách quan qui định cho giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử trên, đó là:
- Do những địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân:
- Do đặc điểm chính trị – xã hội của giai cấp công nhân:

Trong chủ nghĩa tư bản đã có những mâu thuẫn cơ bản hình thành một cách khách quan, gồm 2 mặt:
- Mặt kinh tế: là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Mặt chính trị - xã hội: là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.
Cả 2 mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ của chủ nghĩa
tư bản, tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức. Đó là sự
qui định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Trí thức, nông dân và các tầng lớp khác là lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa chứ không thể là lực lượng lãnh đạo và tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì họ không
đại biểu một phương thức sản xuất riêng trong lịch sử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong chủ
nghĩa tư bản, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, do đó
cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân lãnh đạo để lật đổ giai cấp tư
sản nhằm giải phóng giai cấp công nhân, đồng thời giải phóng cho cả nông dân, trí thức và nhân dân bị áp
bức bóc lột

Câu 3: Những nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện được sứ
mệnh lịch sử của mình. Liên hệ với vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1) Những nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp là tất yếu khách quan, tức là không phụ thuộc vào ý muốn của bất kì
ai. Nhưng, cũng như các qui luật xã hội khác, nó không “tự động" diễn ra như các qui luật tự nhiên mà nó
chỉ diễn ra khi có những hoạt động chủ quan của số đông con người: ở đây là của bản thân cả giai cấp
công nhân, Đảng Cộng sản, toàn thể nhân dân. Có 3 yếu tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, đó là:
a/ Bản thân giai cấp công nhân phải trưởng thành về số lượng và chất lượng ngay trong quá trình
sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và trong các hoạt động chính trị - xã hội: có trình độ văn hoá,
khoa học công nghệ, tay nghề ngày càng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất; đời
sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn. Giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, có lập
trường giai cấp vững vàng; tích cực hoạt động nghiệp đoàn, công đoàn có chất lượng cao, tham gia tích
cực xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ… Đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, mọi âm mưu
của kẻ thù. Thực sự đi đầu trong quá trình sản xuất hiện đại, xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
b/ Đảng Cộng sản:
- Giai cấp công nhân muốn giành được thắng lợi phải nhận thức được vai trò, vị trí của mình, đề
ra được mục tiêu, con đường, biện pháp giải phóng mình, giải phóng xã hội.
- Muốn nhận thức được những vấn đề trên, giai cấp công nhân phải được trang bị lý luận tiền
phong - đó là chủ nghĩa Mác. Khi chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình
thành chính đảng của mình - đội tiền phong của giai cấp công nhân.
- Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cả giai cấp và cả dân tộc.
Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác - Lênin, (ở Việt
Nam còn kết hợp với phong trào yêu nước). Chỉ từ khi có Đảng, giai cấp công nhân mới chuyển từ tự
phát lên tự giác và trở thành giai cấp thực sự cách mạng
Đảng là nhân tố chủ quan hàng đầu, lãnh đạo và tổ chức quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Vì thế, Đảng Cộng
sản phải luôn luôn được xây dựng, củng cố, phát triển vững vàng về chính trị (đường lối cách mạng…),
về tư tưởng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…) và về tổ chức (nguyên tắc tập trung dân
chủ; sinh hoạt Đảng để có các quyết định đúng; cán bộ, đảng viên, cấp uỷ và tổ chức cơ sở đảng vững
mạnh, trong sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng lãnh đạo tốt).
c/ Mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng cộng sản:
+ Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, là bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân, bao gồm những người con ưu tú nhất, trung kiên nhất của giai cấp công nhân. Đảng mang
bản chất của giai cấp công nhân, đại diện về trí tuệ, lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động;
thay mặt giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giành độc lập và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
+ Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng. Giữa Đảng
và giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời.
+ Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân, nhưng phải là người giác
ngộ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
+ Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế: ý
chí, nhận thức và hành động thống nhất. Đồng thời đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và mọi âm
mưu phá hoại của kẻ thù của nhân dân, của chủ nghĩa xã hội
2) Liên hệ với vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam
đã giữ vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân và lãnh đạo xã hội trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin
nhằm mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, thống nhất, mọi người được bình đẳng và
có điều kiện để phát triển toàn diện.
Hơn 70 năm qua, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thử
thách và giành được nhiều thắng lợi to lớn, được giai cấp công nhân, nhân dân tin tưởng, ủng hộ. Vai trò
của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện cụ thể như sau:
- Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động; giành
độc lập cho dân tộc; thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại; đánh đổ tận gốc chế độ thực dân kiểu
cũ và kiểu mới; giành thống nhất đất nước và đưa cả nước bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới - thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước và đã giành được thắng lợi (tuy là bước đầu); đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ, hợp tác với các quốc gia
trên thế giới; thực hiện từng bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vì vậy, Đảng cộng sản và giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ mật thiết và khăng khít với
nhau. Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mênh lịch sử của mình khi được một chính đảng tiên
phong, có đủ năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị dẫn dắt, tổ chức và lãnh đạo. Ngược lại, Đảng cộng sản
Việt Nam chỉ có thể thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình khi đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng; lấy giai cấp công nhân là cơ sở vật chất để
tồn tại và phát triển.
So sánh chủ nghĩa Mác với các tôn giáo tín ngưỡng

- Điểm giao thoa: phản ánh khát vọng của nhân dân lao động về một XH tự do, bình đẳng, bác ái.
*Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại và phát triển có nguồn gốc từ sự phát
triển của khoa học và thực tiễn, khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chấttồn tại một
cách khách quan, độc lập với ý thức con ngời và không do aisáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế
giới khách quan vào trong bộ óccon người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
* Các tôn giáo là ý thức hệ duy tâm (cụ thể là duy tâm kháchquan) cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và
quyết định giới tự nhiên. Giớitự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức
Thứ nhất: Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng - còn các tôn giáo là ý thức hệ duy tâm (cụ thể
là duy tâm khách quan),khi các tôn giáo ấy cho rằng ý thức con người bị ảnh hưởng bởi ý thức siêu tự
nhiên như thượng đế hay chúa trời, và những ý thức siêu tự nhiên ấy, theo các tôn giáo là thứ xuất hiện
đầu tiên trong vũ trụ, tạo nên và quyết định tất cả, kể cả vật chất hay ý thức conngười, còn chủ nghĩa Mác
thì cho rằng ý thức nói chung sinh ra sau vật chất, và chịu quyết định bởi vật chất.
- Thứ hai, chủ nghĩa Mác không đề cao tôn giáo. Chủ nghĩa Máccho rằng tôn giáo là thứ ảo ảnh mà con
người tạo ra trong đờisống để gửi gắm niềm tin trong một thế giới đầy áp bức các nướchồi giáo lại luôn
tin vào thần linh
Phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo với mê tín dị đoan.

Tín ngưỡng, tôn giáo Mê tín dị đoan


Thỏa mãn mục đích tinh thần Mục đích kinh tế
Hoạt động không thường xuyên Hoạt động thường xuyên
Tổ chức ở nơi công cộng Tổ chức tại nhà

Chức năng của tôn giáo.

- Thế giới quan


- Đền bù hư ảo -> “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (C. Mác) vì tôn
giáo củng cố niềm tin cho con người, nhưng có thể làm mất đi khả năng sáng
tạo của con người.
- Điều chỉnh hành vi đạo đức
- Liên kết cộng đồng, truyền tải, bảo lưu văn hóa
(2 ý nghiêng là chức năng tích cực) → Tôn giáo vẫn còn đủ điều kiện tồn tại và
phát triển trong thời kỳ quá độ.

Vì sao tôn giáo VN tồn tại đan xen nhưng lại chung sống trong hòa bình?

- Đều bắt nguồn từ truyền thống dân tộc -> có điểm thống nhất
- Chính sách tôn giáo của Đảng -> các tôn giáo bình đẳng
- Đa thần (mỗi tôn giáo có 1 đức tin khác nhau) -> không liên quan, ảnh
hưởng lẫn nhau
- Sinh hoạt tín ngưỡng: không đặt nặng vấn đề bình giải giáo lý, chủ yếu thỏa
mãn nhu cầu về tinh thần.
Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
*Nguyên nhân kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã từng bước tạo dựng đời sống vật
chất và tinh thần ngày một nâng cao cho mọi thành viên trong xã hội. Mặc dù vậy, chưa thật sự đủ để tạo
ra sự biến đổi triệt để và sâu sắc trong đời sống ý thức, tư tưởng của mỗi người, khi mà sự biến đổi về ý
thức tư tưởng thường chậm hơn sự biến đổicủa các điều kiện kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với sự khác nhau về lợi
ích của các giai tầng trong xã hội, và những mặt trái như sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã
hội giữa các giai tầng, giữa các cộng đồng dân cư; phân hóa giàu – nghèo… những yếu tố ngẫu nhiên,
may rủi… vẫn tác động, chi phối đến đời sống con người

*Nguyên nhân chính trị - xã hội Trên thế giới, cuộc đấu tranh giai cấp, giữa các lực lượng xã hội khác
nhau diễn ra phức tạp, nhiều lực lượng chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo vào các mục đích chính trị khác
nhau. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tình trạng bạo loạn,
lật đổ, khủng bố… vẫn liên tục xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ của quần chúng nhân dân về chiến tranh, đói
nghèo, bệnh tật hiểm nghèo…, cùng với những mối đe dọa khác đang là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo
tồn tại. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi và thích nghi để
“đồng hành cùng dân tộc”. Hơn nữa, trong bản thân mỗi tôn giáo đều chứa đựng những giá trị đạo đức,
văn hóa phù hợp với mục đích, yêu cầu của xã hội mới

*Nguyên nhân văn hóa Ở một mức độ nào đó, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo có khả năng đáp ứng nhu
cầuvăn hóa, tinh thần và có ý nghĩa giáo dục về ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Nhiều
giá trị văn hóa của các tôn giáo (cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, cả tư tưởng văn hóa và đời
sống văn hóa) đang có những đóng góp to lớn và trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa mỗi
dân tộc, mỗi quốc gia. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ
phận dân cư nên sự tồn tại của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộinhư một hiện tượng xã hội
khách quan

- ➔ Trong thời kỳ quá độ, tôn giáo vẫn còn chức năng phù hợp để phát triển,
từ đó tiến đến CNXH nhanh hơn.

Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về đặc trưng của xã hội chủ
nghĩa. Làm rõ quan điểm của Đảng ta về đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam theo Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011
1) Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa: (giáo trình)
2) Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Tại Đại hội X, Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng1, đó là:
- Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- Do nhân dân làm chủ
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triển toàn diện
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
3. Cương lĩnh 2011
Về đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định: “Xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất (QHSX) tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”1.
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 bổ sung 2 đặc trưng mới.
Đặc trưng thứ nhất: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây vừa là mục tiêu,
vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của CNXH Việt Nam. CNXH phải làm cho dân giàu, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nghèo đói không phải là CNXH. Dân giàu là giàu cả đời sống vật
chất và văn hóa, tinh thần; dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, dân có giàu nước mới mạnh, phải
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia; dân giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội... Đây là thể hiện
tính ưu việt của CNXH. Trong Cương lĩnh 2011, cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ “công
bằng” so với Văn kiện Đại hội X của Đảng. Sự thay đổi này không đơn thuần là sắp xếp lại thứ tự mà
phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất
của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất nước. Dân chủ, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh: dân là chủ, dân làm chủ, dân là gốc; dân chủ là chìa khóa vạn năng. Do đó, dân chủ
phải được đặt ở một vị trí tương xứng với tầm vóc, giá trị của nó trong Cương lĩnh và khi đề cao dân chủ,
chúng ta không hề coi nhẹ kỷ luật, kỷ cương là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu kém. Càng coi trọng
dân chủ càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương trong quản lý đời sống xã hội. Cả dân chủ và kỷ
luật đều là những mặt chúng ta còn nhiều hạn chế, cần phải phấn đấu nâng cao.
Đặc trưng mới thứ hai là: “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đặc trưng này là kế thừa của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh
đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là
chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng “dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản” nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nên trong Cương lĩnh đã
thay từ “dưới” sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ “do” Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta khẳng định lại đặc trưng “do nhân
dân làm chủ” (bỏ cụm từ “lao động” trong Cương lĩnh 1991). Sự khẳng định đó nhằm phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mỗi người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm
xây dựng đất nước, dù sinh sống ở trong nước hay ngoài nước.
Về đặc trưng kinh tế của CNXH, kế thừa Văn kiện Đại hội X, Cương lĩnh xác định: “Có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp” (thêm từ “tiến bộ“ so với Văn kiện
Đại hội X và không có cụm từ “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” như trong Cương lĩnh
1991). Trong đặc trưng về kinh tế của CNXH, nếu như đặc trưng về LLSX có ý kiến khá thống nhất, thì
đặc trưng về QHSX vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đây
có thể hiểu QHSX tiến bộ phù hợp là QHSX được xét trong chỉnh thể trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu,
quan hệ quản lý và quan hệ phân phối và sự phù hợp không chỉ với trình độ phát triển của LLSX mà còn
với chế độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... QHSX tiến bộ phù hợp ở nước
ta chính là QHSX theo định hướng XHCN (trong thời kỳ quá độ) và là QHSX XHCN (trong CNXH).
Đến khi chúng ta xây dựng xong CNXH, QHSX tiến bộ phù hợp đó phải dựa trên chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong đặc trưng về con người, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song tách đặc trưng về phân
phối ra, Cương lĩnh xác định “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện”. Muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tất yếu phải giải phóng con người khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, coi sự phát triển con người là mục tiêu cao nhất của CNXH. Tất cả vì con người và do
con người; con người là trung tâm của chiến lược phát triển và là chủ thể phát triển.
Trong đặc trưng về quan hệ dân tộc, Cương lĩnh khẳng định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Việc bổ sung cụm từ “tôn trọng” so
với Cương lĩnh 1991 là rất có ý nghĩa, bởi vì tôn trọng là một trong những nguyên tắc cơ bản để giải
quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, nhất là sự tôn trọng của dân tộc đa số
đối với các dân tộc thiểu số; không tôn trọng thì không thể có bình đẳng, đoàn kết thực sự giữa các dân
tộc.
Về đặc trưng hợp tác quốc tế, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác không chỉ với nhân dân mà với cả các Nhà nước, các Đảng Cộng sản và công nhân, các
phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các đảng khác... nên Cương lĩnh 2011
khẳng định: “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đặc trưng này phản ánh xu thế
lớn của tình hình thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đó
cũng là nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chúng ta thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các đặc trưng của CNXH nêu trong Cương lĩnh là một hệ thống chỉnh thể bao quát các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, chúng có quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau - thể hiện các
mối quan hệ hợp quy luật giữa LLSX và QHSX, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế
và chính trị, kinh tế và văn hóa-xã hội, kinh tế và quốc phòng-an ninh-đối ngoại, giữa nội lực và ngoại
lực, giữa mục đích và phương tiện...; trong đó, mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người
thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện, thể hiện phẩm giá của mình. Đó là giá trị cao cả, nhân văn, nhân đạo của CNXH
theo đúng tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh.
Các đặc trưng của xã hội XHCN nêu trong Cương lĩnh 2011 vừa thể hiện tính ưu việt của CNXH
mà nhân dân ta đang xây dựng, vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Các đặc trưng này của CNXH không phải bỗng nhiên mà có, mà là kết quả của quá
trình phấn đấu gian khổ, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng nên. Các đặc trưng
của CNXH có quá trình hình thành, vận động, phát triển, ngày càng chín muồi tùy thuộc vào các điều
kiện khách quan và sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Đó cũng là quá trình vừa định hướng và từng
bước định hình trong hiện thực. Vì vậy, cần phải xem xét CNXH và các đặc trưng của CNXH bằng quan
điểm động, nó có quá trình sinh thành, phát triển theo quy luật khách quan.
Để thực hiện các mục tiêu của CNXH, điều có ý nghĩa quyết định nhất là phải kiên định con
đường XHCN, lý tưởng XHCN, tức phải “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH” - bài học lớn số
một mà Đảng ta đã rút ra trong Cương lĩnh 2011 qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng. Gắn kết độc lập
dân tộc và CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Cương lĩnh 2011 khẳng
định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”2. Hiện tại, tuy CNTB còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Vì vậy, đúng như Cương lĩnh
2011 khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”3. Sự lựa
chọn con đường XHCN của Đảng ta cũng chính là sự lựa chọn của lịch sử để thực hiện khát vọng của
nhân dân ta: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta không chỉ vạch ra các đặc trưng của CNXH mà còn chỉ ra con
đường để thực hiện những đặc trưng đó với lộ trình, bước đi phù hợp. Chúng ta phấn đấu đến năm 2020,
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, để đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN và đến khi kết thúc thời kỳ quá
độ ở nước ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị,
tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.
Phân tích tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa
- Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
V. I. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận liên minh công – nông của C. Mác và Ph. Ăngghen
vào thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V. I. Lênin
thường xuyên chủ trương và thực hiện củng cố khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa tới thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười.V. I. Lênin cho rằng, nếu không thực hiện liên minh chặt chẽ với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác thì giai cấp công nhân không thể giữ vững được chính
quyền nhà nước: “Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp
vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà
nước”. Mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải là duy trì giai cấp
và sự đối kháng giai cấp, duy trì nhà nước mà tiến lên xây dựng một xã hội không còn giai cấp,
không còn nhà nước. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng khối liên minh vững
chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
- Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng như nhiều
tầng lớp lao động khác đều là những người lao động, đều bị áp bứcbóc lột. Thứ hai, trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất của nhiều ngành,
nghề... nhưng trong đó công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất chính trong xã hội.
Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này cũng
như các ngành, nghề khác không thể phát triển được. Thứ ba, xét về mặt chính trị - xã hội, giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác là lực lượng chính trị to lớn
trong xây dựng, bảo vệ chính quyền nhà nước, trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Do vậy,
giai cấp nông dân và nhiều tầng lớp lao động khác trở thành những người bạn “tự nhiên”, tất yếu
của GCCN
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam theo tinh thần của Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm
2011
1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội
Về mặt lý luận:
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận giải sự ra đời của 5 hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao là
“lịch sử tự nhiên” xét theo toàn bộ lịch sử nhân loại, do lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất. Tuy nhiên, đối với mỗi nước, thực tế lịch sử nhân loại cũng cho thấy: không phải nước nào cũng lần
lượt trải qua 5 hình thái đó, do lịch sử cụ thể mỗi nước gắn với những điều kiện của thời đại. Ví dụ đã có
những nước “bỏ qua” một vài chế độ để lên chế độ cao hơn như: Nga, Ba Lan, Đức… từ nguyên thuỷ “bỏ
qua chế độ nô lệ” lên chế độ phong kiến. Nước Mỹ, “bỏ qua chế độ phong kiến” mà từ chế độ nô lệ “lên
thẳng” CNTB v.v… Do vậy, chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội cũng không
phải nằm ngoài lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về mặt thực tiễn:
- Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, đã có một số sĩ phu yêu nước cũng đã ra đi tìm
đường cứu nước (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh). Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn, do con đường họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử Việt Nam.
Chỉ khi Hồ Chí Minh tìm được Luận cương về vấn đề dân tộc của V.I.Lênin, được vũ trang bởi chủ nghĩa
Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả - giải phóng dân tộc khỏi mọi áp bức
bất công. Do vậy, sự lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là đúng đắn.
- Chủ nghĩa tư bản, tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu quả về phát triển
kinh tế, cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp bức bóc lột thì không thay đổi.
Quyền lực kinh tế nằm trong tay các tập đoàn tư bản, quyền lực chính trị chỉ giành cho thiểu số. Nền kinh
tế vẫn dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; khoảng cách giàu nghèo vẫn tiếp tục doãng ra;
phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố,
gây chiến tranh vẫn đang là vấn đề nan giải… Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà
tương lai của loài người muốn đạt tới.
- Từ khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, khủng hoảng kinh tế, xã hội ở các nước
này diễn ra ngày trầm trọng hơn. Đời sống nhân dân không được cải thiện, mafia gia tăng, xã hội rối loạn,
nhiều giá trị tốt đẹp bị đảo lộn; an ninh, trật tự không được đảm bảo… cũng đang là bài học cho chúng ta
khi lựa chọn con đường phát triển và tất yếu đây không phải là con đường mà nhân dân ta lựa chọn.
Điều kiện để lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam:
Điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, đó là: chúng ta đã có Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước của dân, do dân, vì dân, khối liên
minh công – nông – trí thức. Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở kinh tế nhà nước và tập thể; nhân
dân Việt Nam cần cù, yêu nước và yêu chuộng hoà bình.
Hiểu như thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?
- Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta chỉ rõ: “Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt về khoa
học, công nghệ để phát triển phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Đảng ta chỉ rõ cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như sau:
+ Không phủ nhận sạch trơn tất cả những gì mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa. Cần phải xác định rõ cái gì cần bỏ qua, cái gì cần phải kế thừa có chọn lọc.
+ Cần phải hiểu thực chất của bước quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” không phải là sự
nhảy cóc, đốt cháy giai đoạn và phủ nhận sạch trơn yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Mặt khác, kế thừa những yếu tố hợp lý của chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là đi lên chủ
nghĩa tư bản, bởi vì mục đích của chúng ta là sử dụng các yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa nhằm phục vụ
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời khi sử dụng các yếu tố này phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản chi phối đời sống xã hội.
- Thực chất của việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là bỏ qua:
+ Sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội; bỏ qua việc xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bởi vì những yếu tố này sẽ sinh ra áp
bức, bóc lột, phân hoá giàu nghèo.
+ Phải tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế, trình độ giáo
dục… mà loài người đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Bởi vì, đây không phải là thành tựu của riêng
chủ nghĩa tư bản mà là của chung nhân loại. Mặt khác, sinh thời, khi bàn về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội, V.I.Lênin đã chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội = chính quyền Xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật
và cách thức tổ chức quản lý kiểu các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ +. +… và Người nhấn
mạnh: người cộng sản phải biết sử dụng các chuyên gia tư sản.
Như vậy, quan điểm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Đảng ta chính là sự kế thừa và phát
triển lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội mà học thuyết Mác – Lênin đã đề cập và được vận dụng, bổ
sung trong điều kiện thực tiễn hiện nay
Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam theo tinh thần của Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011
a. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là
một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát
triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng
phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát
triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân
định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và
tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại,
có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển
nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát
triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện,
mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm
quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao
động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào
lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ
luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân
cách con người và nền văn hoá Việt Nam.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của
xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập
quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo
cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên
c. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ
vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn
chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực
lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân
vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh
nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của
quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây
dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên
hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết
hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ
cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất
hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp
quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
4. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong
cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm
quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển.
Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước
trên thế giới.
Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
. Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phương hướng
tăng cường khối liên minh
Liên minh công - nông - trí thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác… của công nhân, nông dân, trí
thức nhằm thực hiện lợi ích của họ, đồng thời góp phần vào sự phát triển chung của dân tộc, của chủ
nghĩa xã hội.
1. Nội dung của liên minh giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
a- Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong số các nội dung của liên minh, đây là nội dung cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất. Nội
dung kinh tế của liên minh được biểu hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã
hội, từ đó mới có hướng đầu tư và tổ chức hoạt động kinh tế đúng, tránh sự đầu tư không có hiệu quả và
lãng phí.
- Xác định đúng cơ cấu kinh tế (của cả nước, của ngành, địa phương, cơ sở sản xuất …). Ví dụ
Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của cả nước hiện nay là: công - nông nghiệp - dịch vụ. Từ đó, các
địa phương, cơ sở… vận dụng linh hoạt và phù hợp vào địa phương mình, ngành mình. Đồng thời, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức. Điều này thể hiện rõ nội dung kinh tế của
liên minh công – nông - trí thức, là môi trường và điều kiện để gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp với
nông nghiệp và khoa học - công nghệ, từ đó tăng cường hơn nữa khối liên minh công – nông - trí thức.
- Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp - nông nghiệp – khoa
học, công nghệ; giữa các ngành kinh tế; các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế; giữa trong nước và
quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã
hội.
- Đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ.
Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó, thực hiện công hữu hóa các tư liệu sản
xuất chủ yếu và kinh tế Nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo và cùng kinh tế tập thể trở thành nền
tảng kinh tế của nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chú trọng mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân thông qua hệ thống cơ quan nhà nước; hệ
thống pháp luật và chính sách khuyến nông; hệ thống kinh tế nhà nước và hệ thống tổ chức hỗ trợ khuyến
nông.
b- Nội dung chính trị của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện sự giải phóng triệt để
con người. Đây là nội dung chính trị cơ bản của liên minh. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, nội dung
chính trị của liên minh được thể hiện cụ thể như sau:
+ Liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nhằm xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng, củng cố khối liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí nhằm
bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng chính là ở mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân. Liên minh giai cấp được củng cố cũng chính là tạo cơ sở cho đường lối chính sách
của Đảng được thực hiện, góp phần tăng cường công tác xây dựng Đảng từ phía nhân dân.
+ Xây dựng, củng cố khối liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
trên cơ sở của hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
Ở Việt Nam hiện nay, nội dung chính trị cơ bản, xuyên suốt của liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho công cuộc đổi mới, là
việc xác lập hệ tư tưởng Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, từng bước thực hiện đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân
dân.
c- Nội dung văn hóa, xó hội của liờn minh giai cấp cụng nhõn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, xóa bỏ dần sự đối lập giữa thành thị và
nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược là nội dung xã hội chủ yếu của liên minh giai cấp công - nông -
trí thức. Nội dung xã hội của liên minh giai cấp được tiến hành từng bước và trong suốt quá trình phát
triển, thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo
ra cho mọi người có cơ hội bình đẳng trong sản xuất kinh doanh và sử dụng tốt năng lực của mình.
Thực hiện công bằng trong phân phối đòi hỏi phải đa dạng hóa các hình thức phân phối, trong đó
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý,
bảo hộ quyền lợi của người lao động. Thực hiện khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp đi đôi với
chăm lo xóa đói giảm nghèo, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn
đáp nghĩa”, nhân hậu, thủy chung.
Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam, nội dung xã hội của liên minh giai cấp công
nhân với nông dân và trí thức thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề xã hội sau:
+ Giải quyết việc làm và tạo việc làm có thu nhập cao cho người lao động nhằm giảm tình trạng
thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn.
+ Thực hiện xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ
thiện.
+ Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho nhân dân.
+ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ và
sự giải phóng về mặt xã hội giữa lao động trí óc và lao động chân tay, thu hẹp khoảng cách giữa các miền
dân cư, trên cơ sở phát triển mạnh khoa học - công nghệ.
+ Đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, thực hiện gia đình hạnh phúc, bình đẳng và
xây dựng gia đình văn hóa, thực hiện bình đẳng giới trong nhân dân lao động và trong xã hội.
+ Đẩy lùi tệ nạn xã hội, thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp
luật, đề phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mại dâm.
Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội các liên minh giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau, tác
động và quy định lẫn nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, chỉ trên cơ sở thực hiện tốt các nội dung này
thì khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức mới được củng cố, tăng cường, nhà
nước xã hội chủ nghĩa và toàn bộ hệ thống chính trị mới được kiện toàn, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
mới được hoàn thiện, quyền lực mới thuộc về nhân dân lao động.
Phương hướng củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay
a. Thực trạng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức ở Việt Nam thời gian qua
- Về chính trị, với mục tiêu đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, sự kết hợp lợi ích chính trị của
các giai tầng trong xã hội đã được thực hiện từng bước. Quá trình giải quyết nhiệm vụ chiến lược gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã đáp ứng được nguyện vọng, lý tưởng của các giai tầng trong xã hội.
Bởi vậy, trước sự khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,
làm cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, song không làm ảnh hưởng đến con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; trái lại, thông qua việc thực hiện nghị quyết các kỳ từ Đại hội VI đến Đại
hội XI của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ. Điều đó khẳng định
sự trưởng thành của Đảng ta, vai trò quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
được phát huy, quyền làm chủ của nhân dân được đảm bảo. Sự thống nhất về chính trị và tinh thần ngày
càng tăng, hệ tư tưởng Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được xác lập vững chắc trong đời
sống xã hội. Tuy nhiên, ở một số địa phương, do việc thực hiện chính sách của Nhà nước, nhất là chính
sách về ruộng đất, chính sách khuyến nông không nghiêm đã làm nảy sinh một số “điểm nóng”, gây ảnh
hưởng đến quan hệ nhà nước và nông dân.
- Về kinh tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI với việc đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa trên cơ sở thực hiện ba chương trình: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, và thực hiện chính sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, nội dung kinh tế của liên minh giai cấp đã từng bước được thực hiện. Tiếp theo,
trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, VIII về lĩnh vực kinh tế, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được khẳng định và cùng với việc thực hiện
chính sách mở cửa, quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự kết hợp lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp
xã hội bảo đảm cho khối liên minh giai cấp được tăng cường. Song, cũng do nhận thức chưa đầy đủ về
đường lối phát triển kinh tế của Đảng, nên việc chăm lo hoàn thiện quan hệ sản xuất còn chưa tốt, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế còn chưa thật sự đúng định hướng... quan hệ công - nông nghiệp chưa gắn bó; việc
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ còn chậm.
- Về mặt xã hội, từ Đại hội VI đến nay, với việc thực hiện chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con người đã tạo nên động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với phương châm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
từng bước chúng ta đã giải quyết tốt vấn đề việc làm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân,
thực hiện xóa đói giảm nghèo, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội một cách có hiệu quả. Đó chính là việc
giải quyết đúng đắn sự kết hợp giữa lợi ích xã hội của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, góp phần
củng cố khối liên minh giai cấp thêm vững chắc. Bên cạnh những thành tựu to lớn, trên lĩnh vực xã hội
vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị
ngày càng có xu hướng mở rộng; mặt trái của cơ chế thị trường có xu hướng phát triển, chưa bị ngăn
chặn; việc thực hiện chế độ dân chủ, công khai, công bằng còn nhiều thiếu sót, lòng tin của nhân dân nói
chung, nông dân nói riêng vào đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bị giảm
sút.
b. Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu tăng cường khối liên minh của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay
- Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện nhất quán, lâu dài
chính sách kinh tế nhiều thành phần
Suy đến cùng, nội dung kinh tế đóng vai trò quyết định việc xây dựng, củng cố khối liên minh
giai cấp. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay đối với việc củng cố khối liên minh là phải tập trung sức
phát triển lực lượng sản xuất nhằm tạo ra những bảo đảm kinh tế - kỹ thuật cho liên minh.
Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam cần và có thể
rút ngắn so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, mở cửa đã mở ra khả năng
gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc kết hợp khoa học - công nghệ với
công, nông nghiệp, thúc đẩy quá trình nâng cao trình độ “dân trí” cho nhân dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần chính là phương
thức kết hợp lợi ích kinh tế - chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
- Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội
Đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị. Đổi mới
Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, có đủ năng lực, bản lĩnh hình thành đường lối, chính sách
phù hợp với quy luật, xu thế, lợi ích của nhân dân và điều kiện cụ thể của xã hội; đủ năng lực để tổ chức
thực hiện thắng lợi đường lối, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới Đảng gắn liền với đổi mới
nhà nước, đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Đồng thời góp phần tích cực đổi mới các tổ chức quần chúng nhằm phát huy đầy đủ vai trò
làm chủ của nhân dân. Đổi mới các chủ thể trong hệ thống, nhằm bảo đảm sự hoạt động nhịp nhàng, có
hiệu quả của hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế thực hiện quyền dân chủ của nhân dân.
- Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao động
Quá trình xây dựng, củng cố khối liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức là quá trình cách mạng đòi hỏi tính tự giác cao của Đảng, Nhà nước và các giai tầng trong xã
hội. Tính tự giác trong quá trình cách mạng, phần quan trọng tùy thuộc vào trình độ dân trí của nhân dân -
trình độ tư duy lý luận, trình độ nắm bắt quy luật, nhu cầu thực tiễn, năng lực hoạt động sáng tạo và năng
lực ứng xử có văn hóa, trình độ nhận thức pháp luật, ý thức công dân, tri thức về khoa học - công nghệ và
chuyên môn nghiệp vụ...
Để nâng cao trình độ dân trí, đòi hỏi quán triệt sâu rộng, toàn diện quan điểm giáo dục - đào tạo
khoa học công nghệ là quốc sách, là nền tảng cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ
dân trí góp phần nâng cao tính tích cực chính trị - xã hội, tích cực lao động cho nhân dân, không chỉ đáp
ứng nhu cầu nhận thức của nhân dân mà nhằm thực hiện lợi ích tinh thần trong xã hội.
Kết hợp việc nâng cao dân trí là việc đổi mới thực hiện các chính sách xã hội nhằm xóa bỏ dần
khoảng cách giàu nghèo, từng bước trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng phúc lợi cho nhân dân, tạo điều
kiện để các giai tầng xích lại gần nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây chính là phương hướng
quan trọng để củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đã hội nhập ngày càng sâu, ngày càng đầy đủ vào đời sống kinh
tế, chính trị của thế giới, phương hướng cụ thể, cơ bản trong nâng cao dân trí cho các giai cấp, tầng lớp
nhân dân lao động được Đảng ta xác định như sau:
Thứ nhất, “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong
công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế; bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân”1.
Thứ hai, “... nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích nông dân học
nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; nâng cao chất
lượng cuộc sống để giai cấp nông dân thực sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn
và xây dựng nông thôn mới”2.
Thứ ba, “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức
trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng
vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật
thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước”1.
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của khối đoàn kết dân tộc
Dân chủ là bản chất của chế độ ta. Mở rộng và thực hiện dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
cho cách mạng, cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, để khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng nguồn lực trong
đó quan trọng nhất là nguồn lực con người, điều có ý nghĩa quyết định nhất là phải tạo ra cơ chế, điều
kiện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây cũng chính là mắt khâu cơ bản để đấu tranh có kết quả
đối với hành động tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó góp phần củng cố,
tăng cường liên minh công - nông - trí thức và niềm tin của dân đối với Đảng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cần phải được tiếp tục mở rộng và tăng cường trên cơ sở
thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong khối đại đoàn
kết dân tộc ấy, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức
nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần
tích cực vào những thành tựu của đất nước”1.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin về dân chủ và bản chất của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. (giáo trình) Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở VN hiện nay
* Thực trạng dân chủ ở VN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước". Vì vậy, xây dựng nền dân chủ XHCN là vấn
đề quan trọng xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta.
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nhất quán chủ trương,
đường lối trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân
dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thông
đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN dựa trên cơ sở kế thừa
nền dân chủ nhân dân đã có, phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN mà mục
tiêu xuyên suốt là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Sự phát triển dân chủ XHCN ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Nguyên nhân chính là do Đảng
và Nhà nước ta luôn tuân thủ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ XHCN là
thường xuyên củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong Đảng là “hạt nhân” của dân chủ
XHCN và lấy dân chủ trong Đảng thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội và quán triệt sâu sắc quan điểm dân
biết, dân bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
Mặt khác, dân chủ XHCN ở nước ta cơ bản đã thể hiện rõ quan điểm: vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta
đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ
nghĩa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ XHCN là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể
chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và
công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trải qua 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận. Về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành
công từ mô hình kinh tế quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay đang từng bước phát triển và hoàn
thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xây
dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt đẹp.
Đặc biệt, trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay các cơ chế và chính sách mới đã mở
rộng quyền tự chủ và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong sinh hoạt tư tưởng, người dân
được tự do thảo luận nhiều vấn đề; sự thảo luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; nhân
dân được tham gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật quan trọng đã được nhân dân tham gia góp ý kiến trước khi quyết định... Nội dung và phương thức
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị được đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan dân cử, nâng cao
hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp.
Một số kinh nghiệm đượ Đảng ta rút ra đó là: trong quá trình mở rộng dân chủ phải luôn luôn
đề phòng và chủ động ngăn chặn dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan; xác định rõ dân chủ phải đi liền
với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Một mặt phát huy dân chủ, mặt
khác cần có sự lãnh đạo đúng đắn, lãnh đạo để ổn định chính trị - xã hội và phát huy dân chủ tốt hơn.
Nhất là hiện nay, các thế lực chống đối chủ nghĩa xã hội đang lợi dụng vấn đề dân chủ để thực hiện chiến
lược thay đổi chế độ chính trị ở nước ta nhằm bài bác vai trò lãnh đạo của Ðảng - nhân tố quyết định việc
thực hiện quá trình dân chủ hóa.
Với sự thẳng thắn và ý thức tự phê bình nghiêm túc, chúng ta thấy rằng việc xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng có những khó khăn, hạn chế, thiếu sót đó là:
- Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quan
liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không chấp hành nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc
phê bình và tự phê bình trong Ðảng.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính còn chậm trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân; một số
bộ, ngành không thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được giao phó.
- Tổ chức các đoàn thể nhân dân nhìn chung khắc phục chưa tốt tình trạng hành chính hóa trong
hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng và vướng mắc của quần chúng để kịp thời
giải quyết hoặc báo cáo với tổ chức đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
- Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các đoàn thể còn bộc lộ
nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới; một bộ phận không nhỏ
cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền dẫn đến quan liêu, tham
nhũng, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân tuy đã được
nâng lên một bước, nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương,
kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn còn tiếp tục diễn ra.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân chưa được phát huy đầy đủ.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ
còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh
hưởng đến trật tự, an toàn xã hội… Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các
phong trào, cuộc vận động của MTTQ, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế…”
Ðứng trước tình hình đó, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của Đảng đề ra là một nhiệm vụ to lớn đặt ra cho tất cả các
cấp, các ngành. Trước mắt, để làm tốt được nhiệm vụ đó, theo chúng tôi cần phải nắm vững một số vấn
đề có tính giải pháp sau đây:
- Phải luôn luôn quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
xã hội. Bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân để tránh tình trạng người dân thờ ơ, lãnh đạm đối với
xã hội. Khi dân chủ được bảo đảm, con người và các quan hệ xã hội sẽ trở nên cởi mở và năng động hơn -
động lực sâu xa cho mọi sự phát triển chính là nhân tố con người.
- Phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước và các đoàn thể xã hội; đồng thời
không ngừng nâng cao hiệu quả vận hành của cả hệ thống chính trị. Phải thực hiện dân chủ hóa và xóa bỏ
bệnh hình thức. phải luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, mà trong đó
cơ bản nhất là đối với nhà nước.
- Phải bảo đảm các thể chế dân chủ được chế định bằng nguyên tắc, luật pháp và các chuẩn mực
văn hóa đạo đức. Việc thực hiện dân chủ điều quan trọng là phải hoàn thiện các chế định dân chủ để buộc
các chủ thể cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tuân theo.
- Phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ. Quá trình dân chủ
hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần, tư
tưởng hành động của con người đến các thiết chế xã hội.
- Phải đẩy mạnh dân chủ ở cơ sở: cần phải xây dựng chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, từ nền tảng
của hành chính với sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước.
- Phải không ngừng nâng văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của
quần chúng nhân dân lao động.
- Trong xã hội hiện đại cần phát huy vai trò là cầu nối thông tin giữa dân với Ðảng của truyền
thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc tranh luận, thảo luận, trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn
hóa dân chủ trong xã hội. Ðây là một kênh quan trọng để hình thành dư luận xã hội nhằm thực hiện chức
năng góp phần mở rộng dân chủ XHCN.
Tóm lại: Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mở
rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
vì nó là một mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng
phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Quá trình này cần có thời gian và môi trường ổn định,
đặc biệt là ổn định chính trị, nếu không có sự ổn định thì không thể làm được việc gì. Muốn duy trì ổn
định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát
triển toàn diện xã hội./.

Các yếu tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện
nay. Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Các yếu tố tác động và vấn đề đặt ra với gia đình ở nước ta hiện nay
a. Những giá trị tích cực và những nhân tố tiêu cực của gia đình Việt Nam truyền thống
- Những giá trị tích cực
+ Tư tưởng coi trọng gia đình.
Việt Nam là một nước nông nghiệp ở phương Đông, gia đình từ xưa tới nay vẫn có một ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với cá nhân và xã hội. Với nền văn minh lúa nước, người dân Việt Nam về cơ bản
là sống định cư, lấy gia đình là đơn vị gốc. Tình cảm, tâm lý của người Việt gắn với gia đình rất sâu nặng,
bền chặt. Gia đình lại không tách rời họ hàng và làng xóm, cho nên, gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều
biến động cùng với sự phát triển của đất nước.
Gia đình truyền thống vẫn được coi là kiểu gia đình điển hình của văn hóa Việt Nam, nó có nhiều
mặt tích cực và đang ảnh hưởng tới gia đình Việt Nam hiện nay. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư
tưởng phong kiến, Nho giáo, gia đình được coi là rường cột của xã hội.
+ Tư tưởng trọng hiếu, trọng nghĩa.
Trong gia đình truyền thống Việt Nam đề cao nghĩa tình, sự thủy chung chồng - vợ; thờ phụng tổ
tiên, biết ơn cha mẹ, chữ hiếu được coi trọng hàng đầu; tôn trọng người già; con cái phải hiếu học, lễ
nghĩa, sống có trật tự, kỷ cương...
+ Đề cao đạo đức, bổn phận.
Với gia đình truyền thống ở Việt Nam, mọi thành viên phải ứng xử theo một tôn ti trật tự, có
khuôn phép chặt chẽ và nó chỉ đạo mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và hệ thống thân tộc;
mỗi người đều có bổn phận riêng và phải thực hiện đầy đủ bổn phận của mình; kính trên nhường dưới, lợi
ích cá nhân phục tùng lợi ích gia đình, lợi ích dòng họ.
Như vậy, gia đình Việt Nam truyền thống là loại gia đình gắn liền với dòng họ, với làng xóm, với
xã hội; coi trọng thờ cúng tổ tiên, thành hoàng; đề cao nghĩa tình, hiếu thảo, thủy chung... Những giá trị
đó đã làm cho độ cố kết của gia đình bền chặt, ít có sự chia ly, phân tán; người già được quan tâm, chăm
sóc. Mặt khác, trong gia đình truyền thống, mọi hành vi cá nhân phải phù hợp với lợi ích không chỉ của
gia đình mà còn của dòng họ, của làng xã, các thành viên trong gia đình có trách nhiệm gìn giữ truyền
thống của gia đình, làng, xóm. Mọi hành vi trái với truyền thống gia đình, với truyền thống dòng họ và
làng xóm đều không có cơ hội tồn tại. Nhờ đó, môi trường gia đình thường lành mạnh, trong sạch, ít có tệ
nạn xã hội, hoặc trẻ em hư.
Đây là những giá trị tích cực đối với việc xây dựng gia đình nói chung và đối với vấn đề dân số
và phát triển nói riêng, cần được giữ gìn, phát triển trong giai đoạn hiện nay.
- Những yếu tố tiêu cực của truyền thống tác động đến gia đình Việt Nam hiện nay
Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo sâu sắc, gia đình truyền thống Việt Nam cũng là kiểu
gia đình Nho giáo phong kiến, có nhiều mặt hạn chế sau đây:
+ Tư tưởng trọng nam, khinh nữ, bất bình đẳng giữa chồng và vợ khá rõ rệt.
Gia đình truyền thống Việt Nam là kiểu gia đình phụ quyền gia trưởng. Người đàn ông, người
chồng, người cha được coi trọng, có uy tín tuyệt đối trong gia đình; là người lo việc xã hội, sản xuất, kiếm
tiền và có quyền quyết định những công việc lớn như làm nhà, dựng vợ, gả chồng cho con cái, đối ngoại...
Tư tưởng trọng nam khinh nữ còn khá nặng nề trong xã hội. Trong gia đình đề cao vai trò của con trai
hơn con gái, nhất là con trai trưởng. Người con gái, con dâu, người mẹ thường chịu thiệt thòi, phải đảm
nhận hầu hết công việc hàng ngày trong sinh hoạt gia đình, không được tham gia ra quyết định công việc
gia đình, không được thừa kế tài sản ngang với anh em trai, không được ghi tên vào gia phả. “Nữ nhi
ngoại tộc”, người phụ nữ có vị trí thứ yếu trong gia đình và ngoài xã hội.
+ Tư tưởng cổ hủ lạc hậu.
Trong các gia đình Việt Nam trước đây, nạn đa thê được chấp nhận theo tư tưởng: “trai năm thê,
bảy thiếp; gái chính chuyên một chồng”, chỉ cần đảm bảo lợi ích cho người đàn ông hoặc cho dòng họ mà
không tính đến lợi ích của người phụ nữ; mặt khác, coi việc có nhiều con là phúc, lộc của gia đình với
quan niệm: trời sinh voi, trời sinh cỏ. Hơn nữa, trong gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống (tam, tứ, đại
đồng đường)...
Những tư tưởng tập quán cũ, lạc hậu trong các gia đình truyền thống đang có ảnh hưởng lớn tới
vấn đề dân số và phát triển cũng như sức khỏe sinh sản như: nạn đa thê, nhiều con và tâm lý phải có con
trai đang là những nguyên nhân chính cản trở việc thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình
ở Việt Nam. Mặt khác, do phải sinh đẻ nên sức khỏe của người phụ nữ không được đảm bảo an toàn; do
có nhiều con các gia đình không có điều kiện tốt cho việc ăn học, phát triển của con cái; do tư tưởng trọng
nam khinh nữ nên trẻ em gái được quan tâm ít hơn trẻ em trai về ăn, mặc, học hành, tài sản...; vị trí người
phụ nữ thấp kém nên họ ít có điều kiện để phát triển, luôn bị tụt hậu, tự ti, an phận; nạn đa thê càng làm
tăng sức ép dân số cũng như chất lượng dân số của quốc gia.
b. Những tác động của kinh tế thị trường, mở cửa, giao lưu và hội nhập đến gia đình Việt
Nam hiện nay
- Những tác động tích cực
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Việt Nam có rất nhiều đổi thay theo hướng tích cực có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng gia đình, đó
là:
+ Nền kinh tế phát triển nhanh, thu nhập và đời sống vật chất của đại đa số các gia đình đã được
cải thiện đáng kể. Nhiều gia đình đã vươn lên làm ăn kinh tế và trở nên giàu có, thậm chí trở thành tỷ phú.
+ Sự năng động, dám nghĩ, dám làm của các cá nhân tạo điều kiện cho họ mở rộng tầm nhìn, tiếp
thu những giá trị mới, tiến bộ, phù hợp để phát triển, như: tự do, dân chủ, bình đẳng...
Có thể nói, cơ chế thị trường, sự giao lưu, hội nhập đã tạo nhiều cơ hội cho các gia đình phát triển
kinh tế, nhờ đó, các thành viên của gia đình được chăm sóc về vật chất, sức khỏe, được giao lưu để nâng
cao hiểu biết. Đây cũng chính là điều kiện để nâng cao chất lượng dân số, sức khỏe sinh sản và góp phần
phát triển nguồn lực con người của Việt Nam.
- Những yếu tố tiêu cực
Tuy nhiên, cơ chế thị trường, giao lưu, hội nhập cũng đem đến nhiều yếu tố tiêu cực đối với việc
xây dựng gia đình văn hóa, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề dân số và phát triển, cũng như sức khỏe
sinh sản.
+ Một số gia đình quá đề cao chức năng kinh tế, xem nhẹ các chức năng khác, nhất là chức năng
giáo dục, chức năng cân bằng tâm sinh lý, tình cảm... do đó, trẻ em ít được quan tâm, giáo dục đầy đủ. Có
gia đình phó mặc con cái cho nhà trường hoặc người giúp việc, cho xã hội, trong khi đó, môi trường xã
hội hiện nay hết sức phức tạp. Sự thiếu hụt trong quan tâm, giáo dục của cha mẹ đối với trẻ em ở một số
gia đình đã đẩy các em tới gần hơn với các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm, trộm cướp.
Một nghịch lý đang diễn ra trong xã hội ta là, tỷ lệ trẻ em hư của gia đình giàu có ngày càng tăng cao hơn
so với gia đình nghèo.
+ Một số giá trị của gia đình truyền thống bị đảo lộn, một số người coi trọng kinh tế, coi trọng và
đề cao quyền lực vật chất, xem nhẹ, thậm chí bất chấp các quan hệ tình cảm khác. Mọi mối quan hệ trong
gia đình, dòng họ, làng xóm đối với họ đều được đem chiếu qua lăng kính đồng tiền; đạo lý thông thường
và những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình truyền thống nhiều khi bị chà đạp.
+ Lối sống thực dụng xuất hiện ngày càng tăng nhiều, đề cao lợi ích cá nhân, coi trọng sự hưởng
thụ cá nhân, đòi hỏi nhiều hơn cống hiến bất chấp điều kiện và đặc điểm của gia đình gây nên những mâu
thuẫn lớn giữa thế hệ già và thế hệ trẻ.
+ Các thành viên trong gia đình ít được quan tâm, chăm sóc (nhất là người già và trẻ em), do đó,
độ cố kết trong gia đình lỏng lẻo. Quan hệ cha mẹ - con cái; quan hệ vợ - chồng không bền chặt như trước
đây và đôi khi bị chi phối bởi giá trị vật chất; tình nghĩa vợ chồng, sự thủy chung chồng vợ; lòng kính
trọng, biết ơn; sự hiếu thảo, sự nhường nhịn giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng giảm dần.
+ Lối sống, cách ứng xử của phương Tây tràn vào các gia đình và xã hội ta; nhiều hiện tượng xã
hội trước đây bị lên án gay gắt thì nay dường như trở thành xu hướng phổ biến: nghiện hút, mại dâm,
ngoại tình...
Như vậy, cơ chế thị trường, giao lưu hội nhập cũng đang đem lại những mặt trái, mặt tiêu cực cho
gia đình Việt Nam, cần phải được quan tâm để hạn chế, tìm biện pháp khắc phục. Những yếu tố trên đang
ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dân số quốc gia, nhất là thế hệ trẻ - nguồn lực quan trọng của đất nước,
đòi hỏi trong quá trình xây dựng gia đình Việt Nam phải coi đó là những yếu tố cản trở lớn và có hướng
giải quyết kịp thời
5. Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Xây dựng gia đình Việt Nam theo tiêu chí của gia đình văn hóa: no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc. Những tiêu chí này dựa trên những định hướng cơ bản sau:
- Xây dựng gia đình trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống và kết hợp những yếu tố mới, tiến
bộ.
- Thực hiện hôn nhân tiến bộ một vợ, một chồng trên cơ sở tự nguyện.
- Xây dựng mối quan hệ bình đẳng yêu thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình.
- Đảm bảo quyền tự do ly hôn và tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã chỉ rõ phương hướng xây dựng gia đình Việt
Nam như sau: “Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những
đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp,
tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về vấn đề dân tộc và nội
dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Leenin. (giáo trình) Liên hệ với
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ dân
tộc ở Việt Nam hiện nay.
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là phát triển mọi
mặt về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng đồng
bằng, trung du, miền núi, để xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau trên
cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội dung, nhiệm vụ chủ
yếu như: Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, mở
rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và từng bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc ít người. Cụ thể là
các chương trình 135, chương trình Xóa đói giảm nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm để
phát triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn, đưa điện lưới quốc gia về
tận các vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho con em và đồng bào dân tộc được khám chữa
bệnh và đến trường… Chính phủ đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với
các vùng trong cả nước và trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi khách quan. Phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN phù hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm
khai thác tiểm năng thế mạnh của từng vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi mới chính
sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới; thực hiện vững chắc
công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi; sắp xếp bố trí lao động dân cư trên quy
mô cả nước.
Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người dân tộc. Tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp mới, cùng với quá
trình phát triển KT-XH miền núi, làm tăng thên chất lượng mới trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện
dân chủ hoá xã hội giữa các vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách quan
liêu mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc.
Bên cạnh, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân tộc. Với nội dung tư
tưởng là: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả song phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn
trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi. Đặc biệt, Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi mở. Tham gia tích cực vào tổ chức ASEAN,
tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào nội bộï của nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đối với các
quốc gia có những tộc người có quan hệ với các tộc người ở Việt Nam thì thái độ của Việt Nam đúng
mực, tôn trọng phong tục, tập quán, thói quen, tín ngưỡng của các tộc người đó, nhưng phải tuân thủ theo
quy định của Pháp luật VN (như đồng bào Khmer ở Nam Bộ, đồng bào Chăm, HMông ở Tây Nguyên…)
Trong Văn kiện Đại hội IV của Đảng có nêu: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, phát triển SX hàng hóa. Chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc
văn hóavà thống nhất tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền
núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm đến vùng gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng
chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động
viên phát huy vai trò của người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị chia rẽ
dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc
cảm dân tộc”.
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra Chiến lược lâu dài về vấn đề dân tộc.
Và như ta thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng Việt Nam
luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, yêu thương chống giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây dựng
thành công CNXH ở Việt Nam, bất chấp âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Từ đó càng khẳng định cho chân lý sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi”.
Các hình thức gia đình trong lịch sử.

Gia đình tập thể Gia đình cá thể


- Tồn tại trong XH nguyên thủy: gia - Tồn tại khi cá thể xuất hiện chế độ tư
đình huyết tộc, gia đình Puanluan, gia hữu và lao động của nam giới được đề
đình cặp đôi cao
- Xác định dòng dõi và quyền sở hữu - Sự thống trị của người đàn ông trong
tài sản dựa vào huyết thống của người gia đình
mẹ
→ Sự thất bại mang tính lịch sử của
người phụ nữ

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC THỜI KỲ QUÁ ĐỘ CNXH


CƠ HỘI

Thứ nhất, thực tiễn phát triển đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo cơ hội cho Việt Nam
phân tích, tổng kết, hình dung ngày càng rõ hơn mô hình, con đường đi lên CNXH. Chúng ta biết
rằng do sai lầm trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đã dẫn đến mô hình CNXH kiểu cũ ở Liên xô
và Đông Âu sụp đổ. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình CNXH hiện
thực phù hợp với sự phát triển trong điều kiện mới. Sự phát triển trên thế giới cho thấy, CNXH
không phải là sự đối lập với CNTB, mà là sự kế thừa phát triển theo hình vòng xoáy ốc ở nấc thang
cao hơn. Chính quan niệm đối lập giữa CNXH với CNTB trong thời gian những năm tháng chiến tranh
lạnh, đã đẩy đến việc xác định mô hình CNXH không phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa sự phát triển
của khoa học và công nghệ, của toàn cầu hóa đã góp phần hình thành nền kinh tế tri thức, được các
học giả xem như là cơ sở kinh tế của xã hội tương lai. Bản thân thực tiễn phát triển cũng chỉ rõ mô
hình kinh tế thị trường không phải là riêng có với CNTB, mà kinh tế thị trường - là thành tựu phát
triển chung của nền kinh tế thế giới. Chínhq thông qua nền kinh tế thị trường là phương thức phù
hợp cho phép chúng ta huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất của xã hội mới - xã hội
XHCN. Như vậy các xu hướng phát triển thế giới đã tạo ra cơ hội cho các quốc gia xác lập mô hình xã
hội mới phù hợp. Đối với Việt Nam đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây chính
là con đường phù hợp để Việt Nam thực hiện: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, cơ hội trong hợp tác giao lưu, tìm kiến nguồn vốn, công nghệ và quản lý đối với các nước đi
sau. Quá trình giao lưu, hội nhập, một mặt, tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn
nhau; mặt khác, tạo điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệm phát triển của những
nước đi trước, có trình độ phát triển cao, để tạo ra khả năng “đi tắt đón đầu”, phát triển rút ngắn
đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Đi lên từ nghèo nàn, lạc hậu, cái cần
thiết cho sự phát triển chính là nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý. Các nước muốn phát triển
trong điều kiện hiện nay không thể đóng cửa, mà phải hội nhập, tham gia quá trình phân công lao
động quốc tế. Chính trong quá trình này các nguồn lực được khai thác, phát huy và nâng cao giá trị.
Việt Nam ngày nay có thể thực hiện hội nhập cả ở cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Điều
đó cũng có nghĩa rằng, cơ hội tranh thủ các nguồn lực quốc tế rộng mở hơn đối với quá trình phát
triển của Việt Nam. Vấn đề chỉ còn ở chỗ chúng ta tranh thủ các nguồn lực đó như thế nào cho hiệu
quả. Thứ ba, điều kiện hiện nay mở rộng cơ hội tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và
CNXH.Chính thực trạng phát triển của thế giới, nhất là ở các nước TBCN cho thấy rõ không thể tiếp
tục cách thức phát triển truyền thống gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống của người dân. Chủ nghĩa tư bản thể hiện rõ sự bất lực trước nhiều vấn đề toàn cầu hiện nay.
Hàng loạt các vấn đề toàn cầu, như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,... đòi hỏi phải có sự chung
sức của cộng đồng quốc tế cùng nhau giải quyết. việc lợi dụng các thành tựu khoa học để tạo ưu thế,
đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, cũng đã và đang đặt thế giới trước nguy cơ hủy diệt bởi chiến tranh
nhiệt hạch. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau, cùng
nhau tìm kiếm các cơ chế kiềm chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Điều này rất có ý nghĩa
với các nước như Việt Nam chúng ta, nhằm tạo ra môi trường hòa bình và ổn định để phát triển,
đồng thời tranh thủ lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn
chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Nói tóm lại, sự ủng hộ của thế giới với sự phát triển của Việt Nam
ngày càng đa dạng hơn. Đó không chỉ là khả năng ủng hộ về cơ sở vật chất, công nghệ, mà còn là sự
ủng hộ về tinh thần, là sự đồng thuận về phương cách ứng xử của Việt Nam trước các vấn đề quốc
tế có liên quan. Chính những điều đó góp phần tạo lực và thế của Việt Nam trên con đường phát
triển, sánh vai với các cường quốc năm châu. Thứ tư, kinh nghiệm 30 năm đổi mới tạo tiềm lực, cả
về vật lực và trí lực. Đây chính là điều kiện và cơ hội cực kỳ quan trọng cho việc vững bước trên con
đường XHCN đã được lựa chọn. Quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt công cuộc đổi mới đất
nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua đã thu được những kết quả góp phần
nâng cao vị thế đất nước và cải thiện đời sống của người dân. Điều này, một mặt, củng cố và khẳng
định sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta; mặt khác,đó còn
là các điều kiện, cơ sở cho việc tiếp tục vững bước trên con đường đã chọqn. Thứ năm, truyền thống
yêu nước, cần cù, yêu lao động, hiếu học, đề cao tính cộng đồng - đề cao trách nhiệm xã hội và giá
trị gia đình trong bối cảnh hội nhập hiện nay cũng đã và đang mở ra những cơ hội cho tiếp thu
những giá trị tinh hoa của nhân loại, từ đó nhân lên sức mạnh của dân tộc trên con đường phát
triển. Bỏ qua chế độ TBCN, không có nghĩa là sự phủ định sạch trơn, mà vẫn tiếp thu, kế thừa những
thành tựu do nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Việc thực hiện đường lối đổi mới
chính là tạo ra cơ chế mới và nâng cao năng lực tiếp nhận thông qua phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- THÁCH THỨC Thứ nhất, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNXH lâm vào thoái
trào, CNTB tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ để điều chỉnh, thay đổi và đã tạo ra sự phát
triển nhất định. Tình hình đó đặt ra những suy luận, những nhận định ở một số người rằng hiện nay
có phải là thời kỳ quá độ lên CNXH, và phải chăng CNTB đã khắc phục được các hạn chế? Nếu vậy
các điều kiện về quá độ lên CNXH, cũng như khả năng lên CNXH không qua CNTB liệu có trở thành
hiện thực? Tình hình này được thể hiện khá rõ ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Và
trên thực tế, nhiều nước đã chuyển hướng phát triển theo mô hình CNTB, gia nhập vào quỹ đạo của
CNTB. Ở các nước đang tiếp tục, kiên trì con đường XHCN như Việt Nam và Trung Quốc cũng xuất
hiện các ý kiến trái chiều trước tác động của những thay đổi trên thế giới và những khó khăn tạm
thời trong nước. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự đồng thuận xã hội, đến việc tập trung lực
lượng và sức mạnh trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới. Điều cần thấy là, tuy CNTB
tạm thời khắc phục các hạn chế, tận dụng thành tựu khoa học công nghệ tạo bước phát triển nhất
định, song bản chất của CNTB không hề thay đổi, các mâu thuẫn trong quá trình phát triển của nó
ngày càng bộc lộ gay gắt, không thể điều hòa. Đó là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn cạnh tranh giữa
các nước tư bản và giữa các nước tư bản với các nước đang phát triển dưới tác động của quy luật
giá trị thăng dư và quy luật phát triển không đồng đều. Tình trạng phân hóa giàu nghèo trong các
nước TBCN có chiều hướng gia tăng, không thể khắc phục; hàng loạt vấn đề mang tính toàn cầu đặt
ra thách thức sự phát triển... Chủ nghĩa xã hội, một xã hội cộng đồng trách nhiệm, một xã hội mà ở
đó con người có điều kiện phát triển hài hòa cùng với tự nhiên. Tuy nhiên, những sai lầm trong phát
triển theo mô hình cũ đã để lại những tác động không hề nhỏ. Chính từ những sai lầm, từ thực tiễn
phát triển của thế giới cho phép các đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, ở một số
nước XHCN trước đây, kịp thời xác định con đường, mô hình xã hội XHCN phù hợp với điều kiện
phát triển của mỗi quốc gia, đang đổi mới, cải cách đi lên, khẳng định sức sống của con đường
XHCN. Thứ hai, cải cách đi lên trong điều kiện mới, các nước xác định con đường XHCN đứng trước
những thách thức vô cùng lớn trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới, khi mà bản thân điều
kiện vật chất nội tại còn hạn chế, thậm chí nghèo nàn. Bên cạnh đó là sự chống phá của các thế lực
thù địch. Trong điều kiện mới phải tự xác định cho mình mô hình phát triển, không có sẵn những
tấm gương và sự giúp đỡ to lớn của các nước đi trước, đồng thời tự mình hội nhập vào xu thế phát
triển chung vừa có cơ hội, vừa có thách thức để tranh thủ các cơ hội, tạo lập các cơ sở vật chất của
xã hội mới. Công việc này càng khó khăn và thách thức lớn hơn khi mà ngày nay các quốc gia đều
tìm cách tranh thủ vượt lên, lấy lợi ích quốc gia làm tiêu chí trong hợp tác. Nếu không có quyết tâm,
không có một đường lối, chiến lược phát triển phù hợp thì nguy cơ tụt hậu luôn luôn đặt ra trên
bước đường phát triển. Thách thức cao hơn khi mà chúng ta phải luôn cảnh giác với âm mưu “diễn
biến hòa bình”, sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Thông qua hợp tác trên các lĩnh
vực để tạo cơ hội xâm nhập, gây bất ổn từ bên trong là một trong những phương thức của các thế
lực thù địch. Thực tiễn diễn biến của các cuộc “cách mạng màu sắc” ở nhiều nước trên thế giới đã
cho thấy điều đó. Song không thể không mở cửa hợp tác. Trong bối cảnh hiện nay, đóng cửa đồng
nghĩa với nguy cơ tụt hậu, tự sát. Cho nên chủ trương tích cực và chủ động hợp tác là hoàn toàn
đúng đắn. Chúng ta không thụ động chờ đợi, phải có chiến lược, dựa trên tiềm lực và phát huy tiềm
năng để hợp tác, luôn quán triệt hợp tác đi liền với đấu tranh. Thứ ba, thách thức trong xây dựng
Đảng, trong tạo nền tảng chính trị xã hội vững chắc của xã hội mới, điều kiện quan trọng để thực
hiện sự phát triển đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, các quan hệ
thị trường thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt ra nguy cơ suy thoái đạo đức, lối
sống, nhất là khi các lối sống thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang từng ngày từng giờ tác động
đến cán bộ, đảng viên, nhất là tầng lớp trẻ. Thực tế cho thấy, trong những năm qua tình trạng suy
thoái đạo đức và lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đã và đang diễn ra, ảnh hưởng
đến uy tín và sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh sự tha hóa, hiện nay nguy cơ chuyển hóa cũng đang
đặt ra trước vấn đề xây dựng, bảo vệ uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. Có những cán bộ lãnh
đạo quan liêu, gia trưởng, độc đoán, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền,... Trong khi đó, không ít
cán bộ, đảng viên không dám thẳng thắn sử dụng quyền dân chủ mà Điều lệ Đảng đã quy định, sợ
làm trái ý cấp trên, sợ bị thành kiến, thậm chí có thái độ xu nịnh, cơ hội để hưởng lợi; sự cách biệt
trong mức sống, lối sống, cách nghĩ giữa người có chức có quyền và người dưới quyền ngày càng rõ
nét. Điều này tạo nguy cơ về sự không thống nhất, đồng thuận, nguy cơ dẫn đến mất đoàn kết. Cần
phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì mới nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, ngược lại. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là
điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức trước sự bảo đảm toàn
vẹn, chủ quyền lãnh thổ ngày càng phức tạp, khó khăn hơn. Trước sự nổi lên của chủ nghĩa bá quyền
nước lớn, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa nghiêm trọng. Việc xử lý vấn đề này đòi
hỏi phải hết sức khôn khéo và tế nhị, nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường phát triển
đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta. Xử lý tốt vấn đề này sẽ tạo ra sức mạnh nội tại tổng
hợp, đồng thời tạo cơ hội, điều kiện gắn lợi ích của ta với lợi ích của cộng đồng quốc tế, thông qua
đó thu hút sự quan tâm của khu vực và cộng đồng quốc tế, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng rãi
ủng hộ Việt Nam. Như vậy, từ thách thức về chủ quyền an ninh quốc gia, chúng ta không chỉ hóa giải
được nguy cơ, mà còn giúp tạo ra sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thế
và lực cho Việt Nam trên bước đường phát triển đi lên CNXH

Thực trạng vấn đề dân tộc : Thành tựu/Về kinh tế, vùng đồng bào DTTS có những bước phát triển
tiến bộ rõ rệt, đời sống đồng bào được nâng lên, diện mạo vùng DTTS khởi sắc với hệ thống kết cấu hạ
tầng ngày càng hoàn thiện. Các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên giới được làm
mới, mở rộng và nâng cấp. Về chính trị, quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quy định của Hiến pháp
được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các dân tộc chung sống hòa hợp, đồng thuận, tôn
trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và đều tích cực tham gia vào quá trình phát triển đất nước. Về phát
triển xã hội, sự nghiệp giáo dục và chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS có bước phát triển mới. Cơ sở vật
chất trường lớp được đầu tư nâng cấp, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được củng cố, phát triển
về quy mô và nâng cao chất lượng hoạt động. Các chính sách về giáo dục, đào tạo, chế độ cho giáo viên và
học sinh được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học,
thu hút con em đồng bào DTTS đến trường Tính đến tháng 7-2015, tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên
biết đọc, biết viết đạt 79,8%, tỷ lệ đi học cấp tiểu học đạt 98,6%, tỷ lệ đi học trung học phổ thông đạt
41,8%, tỷ lệ đi học cao đẳng, đại học đạt 6,5%

Hạn chế/Trong xây dựng và triển khai chính sách pháp luật về dân tộc còn thiếu quy định về quy trình xây
dựng chính sách; chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp trong ban
hành chế độ chính sách. Nhiều vấn đề của DTTS đã được Đảng xác định trong các văn kiện, nghị quyết nhưng
chưa hoặc thể hiện chưa đầy đủ trong các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết... Còn thiếu một số chính sách
phát triển bền vững cho vùng đồng bào DTTS. Mặt khác, nhiều nội dung chính sách dân tộc còn có sự chồng
chéo, chưa sát hợp với thực tiễn hoặc thiếu nguồn lực thực thi, làm hạn chế hiệu quả của hệ thống chính sách
pháp luật. Công tác kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách dân tộc chưa được thực hiện
thường xuyên. Việc rà soát xây dựng, chỉnh sửa, hoàn thiện một số đề án, chính sách dân tộc còn chậm, chất
lượng còn hạn chế. Trong phát triển kinh tế vùng dân tộc, những năm qua tuy tốc độ tăng trưởng khá nhanh
song đóng góp của khu vực này vào nền kinh tế quốc dân còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Hệ thống
kết cấu hạ tầng tuy được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm.

Giải pháp/ Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và xã hội về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề
dân tộc. Cần thống nhất nhận thức, tư tưởng từ Trung ương tới địa phương về vấn đề dân tộc; về vai trò, trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội trong công tác dân tộc, trong đó cán bộ, đảng viên là lực lượng
nòng cốt. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách và pháp luật về vấn đề dân tộc theo hướng bảo đảm tính toàn
diện, hiệu quả, bền vững và công bằng. Cần thường xuyên rà soát lại hệ thống chính sách dân tộc đang được
thực hiện, trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh, thậm chí loại bỏ những chính sách lỗi thời và bổ sung những chính
sách mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng chính sách cần theo hướng các chính sách bao quát
được tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vùng DTTS; không bị chồng chéo và có tác động tương hỗ; nguồn
lực thực hiện chính sách được tính toán đầy đủ và được phân bổ một cách công bằng cho các đối tượng có điều
kiện sống giống nhau. Đặc biệt, để bảo đảm tính hiệu quả và bền vững, việc hình thành chính sách phải dựa
trên cơ sở nhận thức đầy đủ về đặc điểm dân cư, tộc người, văn hóa, điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường ở
các vùng dân tộc. Xây dựng chính sách theo địa bàn và trình độ phát triển gắn với xây dựng nông thôn mới.
Mặt khác, trong điều kiện nguồn lực thực hiện chính sách hạn chế, cần xác định rõ những ưu tiên, trọng điểm
trong xây dựng chính sách, trong đó đặc biệt chú trọng đến chính sách giảm nghèo gắn với phát triển bền
vững; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các DTTS. Ba là, tăng
cường, đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân tộc. Các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đồng thời, tiếp tục tập trung lãnh đạo việc kiện
toàn hệ thống chính trị vùng đồng đồng bào DTTS, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ vùng dân tộc và cán bộ
làm công tác dân tộc; đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân tộc. Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong giải quyết vấn đề dân tộc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần
tích cực tham gia tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách dân tộc; phối hợp với các
cấp chính quyền tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào xóa bỏ tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xóa bỏ các tệ nạn xã
hội; đi sâu nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, quan tâm hơn nữa đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đồng bào, nhất là đối với những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội như phụ nữ, người già,
trẻ em, người nghèo. Đặc biệt, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động, chủ động xây dựng kế hoạch tham gia vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội thông qua
việc phản biện chính sách và giám sát quá trình thực hiện. Trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân và chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ và cần có biện pháp thực
hiện nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, nhân tố tích cực trong đồng bào DTTS.
Năm là, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc
thiểu số.( trích học viêjn dân tộc)

Thực trạng vấn đề tôn giáo : Thành tựu/ Thứ nhất, đã làm chuyển biến căn bản nhận thức của xã
hội, nhất là nhận thức của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở các cấp về tôn giáo và công tác tôn
giáo. Thứ hai, diện mạo tôn giáo khởi sắc, tăng thêm tiềm lực cho tôn giáo và cho đất nước. Thứ ba, ý
thức chính trị của tổ chức, chức sắc/chức việc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo ngày càng được nâng cao,
đồng bào các tôn giáo thực hiện tốt trách nhiệm của tín đồ và nghĩa vụ công dân đối với đất nước. Thứ tư,
chức sắc/chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây
dựng đời sống văn hóa. Thứ năm, các tổ chức, cá nhân chức sắc/chức việc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo
tích cực tham gia hoạt động an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo. ( trích Vietnamnet)

Hạn chế/ Các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam:các thế lực thù
địch xuyên tạc rằng, Việt Nam “đàn áp, sách nhiễu” các hội, nhóm tôn giáo chưa được thừa nhận, chưa
đăng ký hoạt động, không chấp nhận hoặc gây khó dễ trong việc đăng ký của các tổ chức, nhóm tôn giáo
chưa được công nhận. Như chúng ta biết, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 của Việt Nam và Nghị
định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30-12-2017, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo”, quy định rất rõ về điều kiện, thủ tục để được công nhận tư cách pháp
nhân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 được phổ biến rộng rãi cho tất cả các tổ chức tôn giáo, chức
sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Nếu như các tổ chức có đầy đủ các điều kiện, hồ sơ
hoàn chỉnh mà chính quyền vẫn không giải quyết hoặc không giải thích rõ lý do hoặc các cơ quan có thẩm
quyền có bất kỳ vi phạm nào trong quá trình quản lý hoạt động tôn giáo, các tổ chức đó có thể khiếu nại,
khởi kiện (theo Khoản 1, Điều 63 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016). Việt Nam không phải là quốc
gia duy nhất có chính sách công nhận các tổ chức tôn giáo, mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng thực hiện
chính sách này. Ở các quốc gia đó, những tổ chức tôn giáo chưa được công nhận cũng cần hội đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật và sau khi được các cơ quan thẩm định đạt yêu cầu mới được công nhận.
Các quan điểm xuyên tạc thường xuyên viện dẫn chính quyền ngăn chặn, hạn chế các hoạt động của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, các tổ chức Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, các hệ phái Tin Lành chưa
được công nhận, các hiện tượng tôn giáo mới như Pháp Luân Công, Dương Văn Mình,... Các thế lực thù
địch lập luận hàm hồ rằng Việt Nam bắt giữ, bỏ tù các cá nhân tôn giáo, và đó là hành vi vi phạm nhân
quyền, đàn áp tôn giáo,... Tuy nhiên, những cá nhân bị chính quyền bắt giữ đều là những người có hành vi
vi phạm pháp luật, hoặc là có hành vi tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi, kích động hận
thù, gây ra mâu thuẫn, xung đột, chia rẽ đoàn kết. Đó là những nhân vật, đối tượng cực đoan, có tư tưởng
chống đối hoặc bị chi phối, chỉ đạo bởi các lực lượng, tổ chức phản động, thậm chí có đối tượng là thành
viên của các tổ chức khủng bố. Những cá nhân này thường nhân danh tôn giáo, nhân danh đòi công bằng,
bình đẳng cho các tổ chức tôn giáo để nhằm mục đích chính trị. Thủ đoạn xuyên tạc tình hình tôn giáo ở
Việt Nam: Các thế lực thù địch, phản động đánh tráo khái niệm, gán ghép, quy chụp một sự kiện, vụ việc
không phải là mâu thuẫn hay xung đột về tôn giáo, nhưng bị quy chụp là mâu thuẫn, xung đột tôn giáo.
Trên thực tế, một số vụ việc không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo, chỉ là những sự việc vi phạm hành
chính, dân sự,... nhưng lại bị các lực lượng phản động quy chụp là mâu thuẫn tôn giáo. Chẳng hạn, các
quan điểm xuyên tạc thường đưa tin về các vụ biểu tình, tụ tập đông người của các tín đồ tôn giáo, liên
quan đến đất đai. Tuy nhiên, đây không phải là mâu thuẫn hay xung đột về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo mà chỉ đơn thuần là vấn đề đất đai do chiến tranh, do lịch sử để lại,... Xung đột trong lĩnh vực tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay chủ yếu do tranh chấp đất đai, do vi phạm trong xây dựng cơ sở thờ tự, truyền
đạo trái pháp luật, vi phạm pháp luật hiện hành về tôn giáo, chứ không phải xung đột do mâu thuẫn về
niềm tin tôn giáo. Nói cách khác, đây hoàn toàn không phải là những vụ việc xảy ra do bị hạn chế quyền
tự do tôn giáo, không phải do kỳ thị, xúc phạm niềm tin tôn giáo.Họ thường xuyên gặp gỡ, khai thác ý
kiến của các cá nhân tôn giáo, những thành phần chống đối trong các tổ chức tôn giáo, những nhân vật
tôn giáo đã bị chính quyền xử lý vì những vi phạm pháp luật, biện bạch rằng đó là những bằng chứng,
chứng cứ sinh động cho việc hạn chế, vi phạm quyền tự do tôn giáo của Việt Nam. Khai thác những điểm
hạn chế, đồng thời ít nhấn mạnh, thậm chí “lờ đi” những điểm sáng, những thành tựu của tình hình tôn
giáo ở Việt Nam. Đây thực chất là cách làm có chủ đích nhằm định hướng dư luận trong nước, quốc tế
theo quan điểm của mình

( trích tạp chí cộng sản)

Giải pháp: Trong Dự thảo, vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo được đề cập ở 4 nội dung, quan điểm cơ
bản sau: Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo. Hai là, phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Ba là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức
tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo trái quy định của pháp luật.Một là, không chỉ “chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo như văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra, mà còn phải “kiên quyết đấu tranh” với những hành
vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Khi đã chủ động phòng
ngừa, thuyết phục, tuyên truyền sâu rộng, mà một số thế lực phản động vẫn cố tình lợi dụng, lôi kéo, kích
động, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc…, thì chúng ta phải kiên quyết xử lý, bảo đảm cho tôn giáo phát
triển lành mạnh, đúng quy định của pháp luật, góp phần ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Hai là,
không chỉ phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đối
với cả “những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”. Điểm mới bổ sung này rất phù
hợp và cần thiết trong tình hình hiện nay, khi mà các tôn giáo và các hiện tượng tôn giáo mới phát triển
khá rầm rộ, khó kiểm soát, trong đó, có những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mới đi ngược lại, hoặc vi
phạm truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến đời
sống xã hội và tình hình an ninh chính trị của đất nước. Những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đó có thể
không, hoặc chưa bị kẻ xấu lợi dụng, nhưng đã trái với quy định của pháp luật, đạo đức, thuần phong mỹ
tục..., gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, thậm chí ảnh hưởng tới tình hình an ninh chính trị của đất
nước. Làm tốt công tác này góp phần rất quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước,
tăng cường đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc.( trích báo quân đội nhân dân Việt
Nam)

Thực trạng vấn đề gia đình : Thành tựu/ Ngày càng có nhiều gia đình văn hóa, khu phố văn hóa,
làng văn hóa, cụm dân cư văn hóa, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Công tác xóa
đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống.
Hai là, hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình và liên quan đến gia đình ngày càng hoàn thiện. Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo, đặc biệt khó khăn, gia đình có công với
cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh
phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và
quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Ba là, cùng với
sự phát triển dân số là quá trình hạt nhân hóa gia đình. Tốc độ gia tăng về tỷ lệ hộ gia đình qua các cuộc
tổng điều tra dân số và nhà ở các năm 1989, 1999 và 2019 cho thấy, số hộ gia đình vào ngày 1-4-1989 là
12.927.297, tăng 3,1% so với đợt tổng điều tra ngày 1-10-1979. Đến ngày 1-4-1999, số lượng hộ gia đình
cả nước là 16.661.666, tăng 2,5% so với ngày 1-4-1989. Tiếp đó, đến ngày 1-4-2009, Việt Nam có
22.444.322 hộ gia đình, tăng 3,0% so với ngày 1-4-1999. Và đến ngày 1-4-2019, cả nước có 26.870.079
hộ gia đình, tăng 4,4 triệu hộ so với cùng thời điểm năm 2009, tỷ lệ tăng là 1,8%(1). Như vậy, sau 30
năm, số lượng hộ gia đình nước ta năm 2019 tăng gấp 2,07 lần so với năm 1989.Việc thực hiện có hiệu
quả các chính sách xã hội về gia đình cùng với nhận thức của người dân được nâng cao đã tạo nên xu
hướng gia đình hạt nhân có quy mô nhỏ. Quá trình hạt nhân hóa gia đình, bên cạnh những ưu điểm của
gia đình hai thế hệ (cha mẹ - con cái), cùng với sự hình thành và phát triển của loại hình gia đình mới (gia
đình độc thân, gia đình cha/mẹ đơn thân, sống chung không kết hôn), thì cũng có những khó khăn nhất
định trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động, chuyển đổi nghề nghiệp và di cư hiện nay

Một số vấn đề trong gia đình Việt Nam hiện nay, đó là:Thư nhất, vẫn còn có hành vi vi phạm pháp luật
về hôn nhân và gia đình. Tảo hôn vẫn là hiện tượng đáng lo ngại ở nhiều dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó,
không ít gia đình dân tộc thiểu số ở một số địa phương thuộc vùng miền núi vẫn còn hôn nhân cận huyết.
Điều này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng giống nòi của thế hệ tương lai.Thứ hai,
một bộ phận các cặp vợ chồng vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam, dẫn đến mất cân bằng giới
tính khi sinh, để lại những hậu quả xã hội ở nhiều lĩnh vực kinh tế, hôn nhân gia đình, an ninh, trật tự xã
hội.Thứ ba, xu hướng sinh ít con và tuổi thọ gia tăng là các yếu tố thúc đẩy già hóa nhanh. Việt Nam hiện
đang là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á. Sự gia tăng
gia đình có người cao tuổi, đặc biệt là người cao tuổi sống một mình, là vấn đề xã hội rất cần có sự quan
tâm và hoàn thiện chính sách chăm sóc người cao tuổi, gia đình người cao tuổi.thứ tư, một số gia đình có
biểu hiện coi trọng chức năng kinh tế, sao nhãng chức năng giáo dục con cái. Gia đình có xu hướng
nhường dần chức năng giáo dục cho nhà trường. Mặc dù mức sống gia đình Việt Nam ngày càng được cải
thiện, nhưng việc chuyển hướng ngành, nghề đối với những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Hàng nghìn gia đình vẫn đang phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm nghìn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam
đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh
sau gần nửa thế kỷ vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn
nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.Thứ năm, mặc dù mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng dân chủ và bình đẳng
hơn trước, nhưng vẫn còn tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực của chồng đối với vợ. Bạo lực
gia đình là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, và bạo lực trên cơ sở giới không dễ giải quyết ngày một
ngày hai. Bên cạnh những nguyên nhân do bất bình đẳng giới, ngoại tình, rượu chè, cờ bạc, thì cần phải
nói thêm một nguyên nhân quan trọng nữa là đa số người vợ khi bị bạo lực lại tự nhận mình có lỗi, chứ
không phải lỗi của người chồng có hành vi bạo lực. Do đó, cần nâng cao nhận thức và tinh thần trách
nhiệm của các cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội cùng chung tay góp phần phòng, chống bạo lực gia
đình.Thứ sáu, vẫn còn hiện tượng làm mẹ ở tuổi vị thành niên. Trên phạm vi toàn quốc, phụ nữ chưa
thành niên sinh con chiếm tỷ trọng 3,3‰, trong đó cao nhất ở Trung du và miền núi phía Bắc (9,7‰), cao
hơn 8,5 lần so với vùng Đồng bằng sông Hồng (1,1‰). Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ phụ nữ từ 10 - 17
tuổi sinh con cao thứ hai (6,8‰). Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục
và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia
đình và xã hội. Tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm
sống, trẻ em vi phạm pháp luật vẫn là vấn đề xã hội nhức nhối. Các tệ nạn ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại
dâm vẫn đặt nhiều gia đình trước nguy cơ đổ vỡ.Thứ bảy, mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực
dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Nhiều giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên, nhường dưới đang có biểu hiện
xuống cấp. Những xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang
đặt ra những thách thức mới.Thứ tám, xuất hiện nhiều loại hình gia đình mới, trong đó có hộ gia đình độc
thân, làm mẹ đơn thân... Những loại hình gia đình này, ở các chiều cạnh khác nhau, cần có chính sách xã
hội và công tác gia đình phù hợp. Với những cặp vợ chồng hiếm muộn, Luật Hôn nhân và gia đình cho
phép người thân mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, tuy nhiên chính sách thấm đậm tính nhân văn này
cũng có thể nảy sinh phiền phức về mối quan hệ tình cảm mẹ con sau này, hoặc cũng có thể rắc rối liên
quan đến pháp lý.

Giải pháp/ Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình: Các cấp
ủy đảng, chính quyền, công đoàn và các đoàn thể xã hội cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia
đình. Cần lồng ghép công tác gia đình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và kế hoạch 5
năm của các bộ, ban, ngành, địa phương, từ trung ương đến cơ sở. Để công tác gia đình thực hiện được
hiệu quả, cần có đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác gia đình được nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ và nguồn kinh phí thích hợp với tầm quan trọng của gia đình, coi đầu tư cho
gia đình là đầu tư cho phát triển bền vững. Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách về gia đình: Cần rà soát lại hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến gia đình; sửa đổi, điều
chỉnh và hoàn thiện cho phù hợp với quá trình phát triển của xã hội và sự biến đổi gia đình. Xây dựng,
phát triển hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các loại
hình gia đình hiện nay. Có chính sách quan tâm đến những hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa, di dân để xây dựng các công trình thủy điện, đường cao tốc, khu công nghiệp, khu
chế xuất. Cần quan tâm hơn đến các gia đình chính sách (hộ nghèo, gia đình có công; thương binh, liệt
sỹ), nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán, thiên tai khắc nghiệt, bão lũ, đại dịch COVID-19.
Mở rộng và nâng cao hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; bảo đảm cho các gia đình có cơ hội tiếp
cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm s Thứ ba, đa dạng
quan điểm về gia đình: Bên cạnh quan niệm về gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (khoản 2, Điều
3), cần có những quan niệm đa dạng về gia đình cho phù hợp với thực tiễn sinh động với nhiều dạng thức
mới hiện nay (gia đình độc thân, gia đình đồng tính, làm mẹ đơn thân, sống chung không kết hôn...). Thứ
tư, xây dựng gia đình phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ: Bạo lực gia đình, mất cân bằng giới
tính khi sinh là những biểu hiện của bất bình đẳng giới vẫn đang hiện diện. Do vậy, xây dựng gia đình và
công tác gia đình cần phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, với tiến trình bình đẳng giới. Để làm
được điều này, không nên xem gia đình là lĩnh vực riêng của ngành nào, mà cần có quan điểm coi những
vấn đề của gia đình là vấn đề của cộng đồng, xã hội. Thứ năm, đa dạng hóa các loại hình tuyên truyền và
nâng cao chất lượng truyền thông, giáo dục gia đình: Trong bối cảnh phát triển của công nghệ thông tin,
với sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, cần kết hợp các loại hình truyền thông để tuyên truyền,
giáo dục hiệu quả. Cần chú ý sử dụng loại hình truyền thông, phương tiện truyền thông và nội dung
truyền thông phù hợp với gia đình ở từng vùng, miền, dân tộc khác nhau. Thứ sáu, tăng cường công tác
nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia đình: xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
liên quan đến gia đình, triển khai những nghiên cứu khoa học về gia đình một cách hệ thống để có cơ sở
đề xuất chính sách xã hội về gia đình. Nghiên cứu về gia đình không chỉ làm sáng tỏ cơ sở lý luận của
Đảng và Nhà nước về gia đình, các lý thuyết nghiên cứu về gia đình vận dụng thích hợp với bối cảnh kinh
tế - xã hội - văn hóa Việt Nam, mà còn tập trung nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình
cần gìn giữ, tiếp thu những giá trị mới, tiên tiến.

You might also like