You are on page 1of 8

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÁC-LÊNIN

NHÓM 3

Câu hỏi: Thế nào là nhà tư bản. Có nên khuyến khích các nhà tư bản
phát triển ở Việt Nam hay không?

Mục lục
Khái niệm Tư bản 2

Khái niệm Nhà tư bản 5

Các nhà tư bản ở Việt Nam 6

Câu hỏi đặt ra là liệu có nên khuyến khích các nhà tư bản đầu tư và phát triển tại
Việt Nam hay không? 7

Thành viên:

1. Nguyễn Phú Qúy (Nhóm trưởng)


2. Huỳnh Chí Nguyên
3. Huỳnh Ngọc Trân
4. Trần Trúc Ly
5. Nguyễn Chí Hải
6. Nguyễn Phạm Yến Nhi
7. Võ Thị Thùy Chung

1
8. Nguyễn Thị Thủy Tiên
9. Lê Bích Phượng
10. Lê Cẩm Tú

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

I.Khái niệm tư bản


 Trong kinh tế học: Tư bản hay vốn là khái niệm để chỉ những vật thể có giá
trị, có khả năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. 
 Tư bản là sở hữu về vật chất thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội.
Tuy nhiên tư bản có nhiều định nghĩa khác nhau dưới khía cạnh
kinh tế, xã hội, hay triết học.
 Theo Các Mác: 

Theo những phân tích của ông, thì tư bản không phải là tiền, không phải là
máy móc, công cụ, nguyên liệu, hàng hóa. Bởi các tính chất phản ánh trên thị
trường thể hiện rõ với các đảm bảo nhất định cho nhà tư bản. Tư bản là quan
hệ sản xuất của xã hội hay một giá trị để tạo ra giá trị thặng dư bằng cách bóc
lột công nhân làm thuê. Trong đó nhà tư bản với những nắm giữ trong khả
năng chi phối thị trường cùng với các giá trị thặng dư
 Tư bản là thể hiện của những hoạt động được tạo ra với lĩnh vực hay tính chất
khác nhau. Trong đó có những sự tận dụng và khai thác nguồn vốn bên cạnh
sức lao động. Từ đó mà các giá trị thặng dư được tạo ra
 Trong kinh tế học cổ điển, vốn được định nghĩa là hàng hóa có thể được sử
dụng như một yếu tố sản xuất. Là một yếu tố của sản xuất, vốn có thể là bất
cứ thứ gì như tiền, máy móc, công cụ lao động, nhà nước, bản quyền, bí
quyết, nhưng không phải là đất đai và công nhân.
 Trong lĩnh vực tài chính và kế toán:

2
Tập trung vào các yếu tố phản ánh giá trị vật chất thông qua các nguồn
lực tài chính. Những giá trị này cũng như sự tích lũy đều tham gia vào các hoạt
động đầu tư trong tương lai. Vì vậy, vốn được hiểu là một nguồn lực trong tài
chính. Như một sự đảm bảo cho việc duy trì hoặc khởi nghiệp. Giá trị này đôi
khi được gọi là dòng tiền hoặc dòng vốn. Vì nó giải quyết các nhu cầu cụ thể để
đảm bảo hiệu quả tài chính.
 Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát
triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ
khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.
Ngày nay, các nước tư bản phát triển cũng đang đi đầu trong việc phát triển
nền kinh tế số, kinh tế tri thức, nền kinh tế thông minh với các ngành công
nghiệp thông minh, nông nghiệp, dịch vụ thông minh, hệ thống giao thông,
năng lượng, thông tin thông minh, hệ thống phân phối thông minh.. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất trên nền tảng những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra tiềm năng cho chủ nghĩa tư bản
phát triển. Trong nền kinh tế tư bản hiện đại, không chỉ hình thức sở hữu mà
cả đối tượng sở hữu cũng có những yếu tố mới. Cùng với đối tượng sở hữu là
các yếu tố của tư liệu sản xuất truyền thống, như đất đai, tài nguyên, máy
móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu..., xuất hiện nhiều đối tượng sở hữu mới,
như cổ phiếu, trái phiếu, thương hiệu của doanh nghiệp, nhất là sở hữu trí tuệ,
sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ.

Chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism): chúng ta có thể hiểu chủ nghĩa
tư bản thân hữu ở Việt Nam một cách khái quát qua việc tìm hiểu về quan hệ của
chúng, cụ thể là quan hệ giữa “quan chức” và “doanh nghiệp thân hữu” được Đảng
gọi là “Lợi ích nhóm”. Từ khi Đảng độc tài cai trị đã cởi trói cho dân, thì tư bản thân
hữu ra đời. Với cái quyền lực tuyệt đối ấy thì mỗi ông quan lãnh đạo đều sẽ có một
hoặc nhiều nhà tư bản núp sau để cướp tiền thuế dân qua các dự án công. Ông quan

3
chức càng lớn thì tư bản thân hữu phía sau càng lớn và nếu bóng một ông quan che
chắn không đủ thì sẽ có nhiều ông quan hợp tác lại để cùng che chắn thì đó gọi là
“Lợi ích nhóm”. Vậy là dự án công sẽ được kê lên gấp 3-4 lần so với giá bình
thường,chất lượng thi công dự án chẳng cần kiểm tra vẫn được nghiệm thu một cách
mau lẹ và tiền bạc thì được thanh toán một cách nhanh chóng.Vì vậy có thể thấy xây
dựng mối quan hệ giữa các quan chức là một điều rất quan trọng khi doanh nghiệp
muốn làm ăn dễ dàng, các doanh nghiệp còn coi đây là một cách đầu tư sinh lợi dễ
dàng và hiệu quả. Bởi vậy ta có thể thấy được rằng chúng không hoạt động theo
cạnh tranh trong quy luật thị trường ,mà ở đây, các doanh nghiệp dùng quan hệ
chính trị để tiếp cận các nguồn lực công( đất đai, tài nguyên, các gói thầu dùng tiền
ngân sách...).
Còn ở chiều ngược lại các quan chức lập ra các doanh nghiệp “sân sau” và sử dụng
các doanh nghiệp này để khai thác nguồn lực công, “làm chính sách” tạo ưu thế cho
mình. Quả thật đây là mối quan hệ hai chiều làm ăn rất có lợi cho hai bên, một số
doanh nghiệp có khi trực tiếp đứng ra vận động và mua phiếu cho không ít các quan
chức, các doanh nghiệp có thể xin phép được tài trợ mà các quan chức cũng có thể
kêu gọi tài trợ. Nghĩa là doanh nghiệp giúp các quan chức cạnh trạnh với các đối thủ
khác thì sau này khi được việc quan chức đó sẽ giúp đỡ lại các doanh nghiệp từ đó
hình thành nên các “doanh nghiệp sân sau”. Các chủ doanh nghiệp vì muốn làm ăn
thuận lợi nên rất chịu khó tìm hiểu sở thích của các quan chức, kể cả sở thích của
người thân quan chức để tặng quà lấy lòng, dựa dẫm làm phát triển mối quan hệ
hơn. Ngày nay càng có nhiều mối quan hệ giữa quan chức và doanh nghiệp hơn nên
phạm vi của tham nhũng càng diễn ra tràn lan hơn kết quả là tiền thuế của dân, tiền
quốc gia đi vay phần lớn đều chui vào túi bọn tư bản thân hữu ấy và quốc gia thì chỉ
còn lại những dự án kém chất lượng.
Chủ nghĩa tư bản thân hữu là thuật ngữ dùng để miêu tả mối quan hệ khăng
khít giữa doanh nhân với chính phủ ( kinh tế với chính trị) ."thân hữu" là mối quan
hệ hợp tác qua quen biết , nhờ vả đôi bên cùng có lợi hay là người nhà lập nghiệp.
Họ chỉ dựa vào mối quan hệ mà không cần phải đầu tư trí , lực , kĩ năng kinh doanh
4
nhiều, thậm chí là đầu tư vốn ít vẫn có thể đứng trên thương trường. Tuy rằng nền
kinh tế đó vẫn đang vận hành trên danh nghĩa là kinh tế thị trường nhưng mối quan
hệ với những người cầm quyền là điều quan trọng quyết định đến sự thành bại của
doanh nghiệp,chứ không phải nhờ vào sự cạnh tranh trên thương trường có được
và tuân thủ nghiêm chỉnh theo luật pháp. Do đó , sự thành công hay thất bại của
nhà tư bản phụ thuộc hoàn toàn hoặc phụ thuộc phần lớn vào nhưng ưu đãi , ân
huệ của những người có quyền thế trong nhà nước dành cho họ và trong đảng cầm
quyền dành cho doanh nghiệp hay một nhóm doanh nhân thân thiết với nhà nước.
Những ân huệ , ưu đãi của nhà nước trợ giúp các thành viên chính quyền bao gồm:
chính sách thuế ưu đãi, những khoản đầu tư từ ngân sách, hoặc những hình thức
trợ giúp kín đáo khác dành cho các nhóm thân quen, nhóm lợi ích mà các doanh
nghiệp bên ngoài khác không thể tiếp cận được.

II.Khái niệm nhà tư bản

Khái niệm nhà tư bản: Người dùng tiền của mình để kinh doanh nhằm bóc lột
giá trị thặng dư của công nhân.

Những hàng hóa có đặc điểm sau được coi là tư bản:

 Có thể sử dụng để tạo ra hàng hóa khác (đây chính là đặc điểm khiến hàng
hóa đó trở thành tư bản)
 Có để tạo ra được, đối lập với đất đai là nguồn lực tồn tại tự nhiên với các
đặc điểm như vị trí địa lý, khoáng sản dưới lòng đất.
 Không bị sử dụng hết ngay lập tức trong quá trình sản xuất như nguyên
liệu hoặc bán sản phẩm. (Có một ngoại lệ ở đây là khấu hao, giống như
bán sản phẩm, khấu hao được coi là chi phí doanh nghiệp).
 Kinh tế tư nhân ở nước ta hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chịu sự chi phối, điều tiết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có trách

5
nhiệm tham gia xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

III.Các nhà tư bản ở Việt Nam

 Phạm Nhật Vượng (sinh ngày 5/8/1968 tại Hà Nội, quê gốc Hà Tĩnh) hiện là
người giàu nhất Việt Nam – Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tập đoàn
VinGroup. Ông chủ Vingroup hơn một lần có tên trong danh sách 200 người
giàu nhất thế giới với khối tài sản tỷ đô. Với tổng tài sản 5,6 tỷ USD tính đến
tháng 4/2020. ông Phạm Nhật Vượng – Chủ tịch Tập đoàn Vingroup, hiện
đứng 286 trên bảng xếp hạng tỷ phú thế giới của Tạp chí Forbes, thấp hơn 47
bậc so với năm 2019. Nhưng tới ngày 26/10/2020 con số này hiện tại tăng
lên 6,6 tỷ USD khi thị trường giá cổ phiếu Vingroup liên tục tăng
 Ông Trần Đình Long sinh năm 1961 tại Hải Dương. Ông Long tốt nghiệp
trình độ Cử nhân Kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân (1986). Được xem
là một đại gia khá kín kẽ và rất ít xuất hiện trước giới truyền thông. Ông được
biết đến với vai trò Chủ tịch Hội Đồng quản trị Tập đoàn Hòa Phát.
 Hồ Hùng Anh sinh ngày 08/06/1970, tại Hà Nội là doanh nhân, tỷ phú USD
người Việt Nam tiếp theo được Forbes vinh danh top tỷ phú đô la sau
ông Phạm Nhật Vượng và bà Nguyễn Thị Phương Thảo. Ông chính là vị tỷ
phú giàu thứ 5 trên sàn chứng Việt Nam. Hiện nay, ông Hồ Hùng Anh đang
giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) sau khi rút khỏi Masan vào tháng 4
năm 2018.
 Nguyễn Thị Phương Thảo sinh ngày 7/6/1970 tại Hà Nội, là một nữ doanh
nhân, nữ tỷ phú đô la đầu tiên của Việt Nam được Forbes ghi nhận sau tỷ phú
Phạm Nhật Vượng. Hiện bà đang giữ chức vụ tổng giám đốc của VietJet Air,
Phó chủ tịch thường trực Hội đồng quản trị Ngân hàng HDBank. Bà là Cử
nhân Kinh tế và Tài chính, Tín dụng – Ngân hàng, Tiến sĩ Kinh tế

6
 Ông Nguyễn Đức Tài (sinh ngày 30/5/1969) quê gốc ở Nam Định. Ông tốt
nghiệp ngành Tài chính – Kế toán trường Đại học Kinh Tế Tp. HCM và Thạc
sĩ ngành Quản Trị Kinh Doanh tại Học viện Quản Trị Pháp Việt CFVG.
Nguyễn Đức Tài là một trong những nhà sáng lập và hiện đang giữ chức Chủ
tịch HĐQT CTCP Đầu tư Thế Giới Di Động. Ông là một trong top 10 người
giàu nhất sàn chứng khoán Việt Nam năm 2019.
 Đặng Lê Nguyên Vũ (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1971) là một doanh nhân nổi
tiếng Việt Nam. Ông là nhà sáng lập, đồng thời là chủ tịch, kiêm Tổng Giám
đốc của Tập đoàn Trung Nguyên, Việt Nam. Ông là người được National
Geographic Traveller và Forbes Asia vinh danh là “Vua Cà phê Việt Nam”.
Theo giới doanh nhân phương Tây, tài sản cá nhân của ông có thể lên tới 100
triệu USD . Khi được Forbes vinh danh “ Vua cafe Việt “ ông cùng với chủ
tịch Vinamilk Kiều Liên , là một trong số những doanh nhân Việt được
Forbes ca ngợi.
Các nước XHCN trước đây nhìn nhận những nhà tư bản là những người bóc
lột lao động làm thuê để làm giàu cho bản thân mình. Đó là ly do vì sao họ kiếm
được rất nhiều giá trị thặng dư( lợi nhuận) một cách dễ dàng. Khả năng phá sản của
các nhà tư bản lớn thấp. Họ cho rằng các nhà tư bản là xấu xa, độc ác; còn những
người lao động là những người tốt, lương thiện bị bóc lột. Chính vì lẽ đó mà các
nước XHCN trước đây ra sức xóa bỏ giai cấp tư sản.

Cách nhìn nhận về nhà tư bản của các nước TBCN thì lại khác. Họ cho rằng,
các nhà tư bản là những người tạo ra sự thình vượng cho xã hội. Các nhà tư bản tạo
ra nhiều giá trị thặng dư, tạo ra nhiều của cải, tạo việc làm,…Việc tìm kiếm giá trị
thặng dư( lợi nhuận ) là công việc khó khăn chứ không dễ dàng như quan điểm của
các nước XHCN. Vậy nên giá trị thặng dư chính là phần thưởng cho trí tuệ, công
sức, tài năng và chấp nhận rủi ro, lo lắng,…Trái với nhận định của các nước XHCN
thì các nước TBCN lại cho rằng các nhà tư bản luôn có khả năng phá sản vì tính
cạnh tranh cao. Luật pháp khuyến khích cái tốt, đánh đổ cái xấu, dù là nhà tư bản

7
hay lao động làm thuê. Vì vậy họ khuyến khích, ủng hộ các nhà tư bản chân chính
phát triển

Câu hỏi đặt ra là liệu có nên khuyến khích các nhà tư bản đầu tư và phát
triển tại Việt Nam hay không? Mọi đồng xu đều có hai mặt và nhà tư bản thì cũng
có hai bộ mặt. Những nhà tư bản tốt thì họ tạo ra giá trị mới cho xã hội, tạo thu nhập
công việc đông thời thúc đẩy xã hội tiến bộ văn minh. Họ chính là tài sản quốc gia,
đưa quốc gia phồn thịnh nền cần được ủng hộ, bảo vệ và khuyến khích phát triển,
đầu tư…ví dụ: trong nước chúng ta có những nhà tư bản nổi tiếng như: (ví dụ: các
nhà tư bản nước ngoài ở ý 1:…, các nhà tư bản tốt của VN ở trên)

Còn những nhà tư bản xấu thì gây hại cho xã hội, họ bóc lột sức lao động của người
làm thuê, vơ vét tài sản, giá trị của xã hội để trục lợi cho bản thân. Lợi ích của nhà
tư bản xấu thì tăng nhưng lại gây tổn thất cho xã hội, tàn phá tài nguyên môi trường,
méo mó luật pháp nên cần phải loại bỏ, lật đổ.

You might also like