You are on page 1of 109

Các bước để giải đoán tử vi

Bài sưu tầm - Tác giả: Châu Anh

Để giải đoán lá số tử vi, cần thực hiện qua các bước sau:

1. Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao

+ Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm
Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu hãm của các sao.

+ Thế đứng của các ngôi: mệnh tài quan nằm ở đâu, phu thê ở đâu...

+ Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh:

Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh Long, Quang Quý,
Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã.

Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính
tinh.

Kế đó phải kể tới vòng Tràng sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể
để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.

Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:

- Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào

- Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu.( Các ưu điểm và nhược điểm)

- Mức độ tốt xấu của từng yếu tố, ví dụ mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc
trong gia đình...Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.

2. Xem xét riêng lẻ từng cung, từng sao

Về các cung: đầu tiên là cung mệnh, sau đó là cung hạn. Các cung còn lại thì tuỳ vào vấn đề
muốn biết mà xem xét kỹ lưỡng hơn: ví dụ muốn hỏi về con cái thì căn cứ chính là cung Mệnh
và cung Tử. Nhiều quan niệm coi cung Phúc là quan trọng khi xét bất cứ yếu tố nào của lá số,
theo tôi thì không hẳn.

Về các sao: Phải xem chính tinh trước khi xem trung tinh và phụ tinh, nhất là chính tinh thủ
trong những cung quan trọng đối với vấn đề cần luận đoán.

Từ chính tinh mà đánh giá tác dụng của trung tinh, cũng như từ sự kết hợp của chính tinh, phụ
tinh, cung, ta mới xét đến các tiểu tinh ( phụ tinh).
Ví dụ: Tả Hữu phò tá cho Tử Phủ, Tam Minh phò tá cho Nhật Nguyệt. Tôi giỏi phải gặp vua
hiền, mọi thứ phải đặt đúng chỗ của nó thì mới có tác dụng.

Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, nên không phải chỉ
một sao hay một cung quyết định lá số hay một vấn đề, mà là tương tác phối hợp giữa các sao,
các cung.

Tương tự như vậy, cung mệnh và cung hạn phải được tính làm đầu trong mọi luận giải.

Nếu không xác định được thứ tự ưu tiên, thứ tự quan trọng thì việc giải đoán tử vi sẽ rơi vào một
mớ bòng bong, và dẫn đến mất độ chính xác.

3. Tập trung vào từng câu hỏi, từng vấn đề

Nghĩa là phải xác định được câu hỏi là gì để tập hợp và xử lý dữ liệu. Chỉ một câu hỏi nhưng có
khi phải xem xét cả một lá số.

Sự tập trung và dứt khoát trong giải quyết vấn đè sẽ giúp luận giải được chính xác, vi tế hơn.

4. Định giờ sinh

Thực ra đây là thao tác quan trọng hàng đầu trước khi trả lời bất cứ câu hỏi nào đặt ra cho một lá
số. Tuy nhiên vì việc làm này không phải dễ, nên tạm thời PC không trình bày trong khuôn khổ
cuốn sách.

Với các bạn đọc có trình độ , hoàn toàn các bạn có thể xác định được và nên xác định giờ sinh.
Sau khi trải qua ba bước noí trên, thì có thể xác định được tới 70% giờ sinh đã chọn là đúng hay
sai.

Thao tác định giờ sinh được dựa chủ yếu trên:

- Hình dáng của đương số

- Đặc trưng về thân nhân

- Các sự kiện quan trọng trong từng niên hạn ( năm), nguyệt hạn (tháng)

Người giải đoán số cần có kinh nghiệm và sự nhạy cảm cần thiết. Có lúc chỉ nhờ có 1 sự kiện,
một dấu vết để biết là có đúng giờ đó hay không.

Biểu tượng của các sao

1. Chính tinh

- Âm dương biểu tượng cho đôi mắt, thần thái, khả năng tình dục, sự thể hiện tình cảm và nhân
sinh quan.Có cả khả năng điều hoà nữa.
- Tử Phủ biểu hiện dáng người, cân nặng, thế đi đứng, oai phong.Lục phủ ngũ tạng.

- Tham Lang thể hiện nhu cầu vật chất, nhu cầu tình dục, lòng tham. Phần thân dưới, những bộ
phận nở nang như mông, ngực.

- Thiên Cơ thể hiện trí tuệ, khả năng tính toán, tổ chức.Tượng là cái trán, phần mày mắt.

- Vũ Khúc: Khả năng nghệ thuật, tài chính. Cái mũi, phần lườn, cánh tay.

- Cự Môn: Khả năng kháng cự, khả năng ngôn ngữ.Miệng, hậu môn, bộ phận dưới.

- Liêm trinh: Lập trường, cá tính, uy nghiêm. Phần xương cốt trên khuôn mặt, thần thái uy
nghiêm trên toàn bộ cơ thể.

- Thiên tướng: Khả năng lãnh đạo, sai khiến người khác, năng lực quân sự. Cái đầu.

- Thiên đồng: Lượng mỡ trong người, phần dưới hai gò má ( thịt bao xương quai hàm), cái bụng.

- Thiên Lương: Lương tâm. Cột sống. Nhân trung.

- Thất sát: Tính cương quyết, dám làm dám chịu, có thể trả đũa hay sát phạt. Hàm răng. Xương
và tính chất của bàn tay.

- Phá quân: Tính quật cường, làm phản, lập dị. Ấn đường và hai chân mày.

2. Trung tinh, phụ tinh

- Tả Hữu:Khả năng nhường nhịn, vị tha, thích ứng. Đôi vai, đôi tay.

- Hoá Khoa: Tư duy tri thức .Bộ não, sự đầy đặn rộng rãi của trán.

- Hoá Quyền: Khả năng quyết định, làm chủ. Gò má.

- Hoá Lộc: Khả năng buôn bán, kiếm lợi từ thiên hạ.Tóc, râu

- Hoá Kỵ: Tính đố ky, nghi ngờ, đối nghịch. Cái lưỡi, đôi môi.

- Khôi Việt: Vẻ sang trọng. Khu vực đầu mặt.

- Xương Khúc: Tình cảm, năng lực tưởng tượng. Xương, khớp.

- Kình Dương, Mộc dục: Bộ phận sinh sản của nam nữ.

- Thai: Tử cung
......
Một vài cách cục

a. Giàu

- Thái Âm, Vũ Khúc, Tham Lang, Thiên Phủ, Hoá Lộc, Thiên Mã, Lộc tồn được sinh vượng hay
đóng tại mệnh mà hợp cách.

- Các sao tài tinh nói trên hội tụ cùng nhau.

- Tham ngộ Hoả Linh

- Tài, Phúc, Điền tốt.

- Riêu Lộc Trù đều vượng và bổ trợ cho mệnh.

b. Sang

- Âm Dương Xương Khúc Khôi Việt Khốc Hư đắc địa, phối hợp.

- Chính tinh hãm mà nhiều phụ tinh mạnh mẽ hỗ trợ, đặc biệt là Tam hoá.

- Vô chính diệu đắc cách: có trụ cột ( triệt tuần hay hung tinh đắc), có cát tinh chầu.

- Thanh Long Lưu hà, Thanh Long Hoá Kỵ, Tứ Linh đắc thời, đắc địa.

- Tử Vi, Phá Quân có nhiều trung tinh phò tá hợp cách.

- Sinh Vượng ở nơi vô chính diệu hay đất thuỷ mộc.

c. Uy quyền

- Thiên Tướng, Vũ Khúc, Thất Sát có khí thế mà ứng với mệnh hay hạn.

- Cô, quả, đẩu quân, thái tuế

- Hoá Quyền.

- Mã Khốc Khách, Hoa cái.

- Khôi Việt vượng và có cặp.

d. Hạnh phúc

- Đào Hồng Hỉ, Thiên Trù, Hoa cái, Thanh Long, Thiên Riêu, Âm Dương, Long Phượng,Thai
Toạ, Quang Quý.Những sao này chỉ niềm hạnh phúc trong tâm hồn. Nếu chúng đóng tại cường
cung, nếu được sinh vượng và hội cùng nhiều cát tinh thì hạnh phúc được hưởng sẽ rõ nét, ngược
laị thì dễ bất hạnh.

-Cung Mệnh và cung Phúc có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trạng thái tâm lý chính của
đương số. Hai cung này tốt thì dù đời có nhiều gian khổ, đương số vẫn cảm nhận được nhiều
hạnh phúc.

e. Sức khoẻ, tuổi thọ

- Cách xấu: Xương Khúc với Hoá Kỵ, Cơ với Hoả Linh, Lương Tham với Kình, Nhật Nguyệt
với Kình Đà Riêu Kỵ, vô chính diệu mà không có người trông giữ ( triệt tuần, thanh long, lục sát
vượng), Tử Phủ với kiếp không thêm sát tinh...

- Cách tốt: Chính tinh miếu địa, sát tinh không khắc với chính tinh và bản mệnh. Vòng tràng sinh
tốt. Phúc tinh được vượng và ở cường cung.

- Sao Bệnh, Tuyệt, Kiếp sát và Hoá Kỵ đặc biệt không tốt cho sức khoẻ. Có nó thì tiêu chí bệnh
tật tai nạn rõ nét, và dai dẳng.

Bàn về 12 cung

1. Cung mệnh

Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Phái tử vi phúc tông cho rằng cung Phúc là quan trọng
nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi vấn đề trong lá số.

Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:
- Vị trí của cung mệnh trên lá số: nằm ở cung nào trong số 12 cung từ Tí đến Hợi. Nhị hợp, tam
hợp, xung chiếu, giáp các cung nào.
- Các sao đóng trong mệnh, chiếu hợp vào mệnh. Có xem xét cả miếu vượng của sao.
- Tương tác giữa các sao có ảnh hưởng, giữa sao với cung mệnh, giữa cung mệnh với bản mệnh (
gồm mệnh nạp âm, can chi tuổi).

Thông tin có được từ cung Mệnh:


- Cách cục chính của đương số
- Hình dáng, tính cách, tài năng
- Một phần sự thành công trong cuộc đời: về tiền tài địa vị hay hôn nhân, thậm chí cả con cái.
- Mối tương quan giữa bản thân đương số với thân nhân và với xã hội xung quanh.

Thế nào là một cung mệnh tốt?


Cung Mệnh tốt là một cung mệnh thể hiện sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với các cung
khác. Mệnh nam thì cần chỉ huy được các cung khác, thu hút được nguồn lực từ tam phương tứ
chính., còn mệnh nữ chủ yếu cần nhu thuận, giúp đỡ cho các cung khác đặc biệt là cung chồng
và cung con, tức cung Phu và cung Tử.

Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:


- Chi của cung hoà hợp với bản mệnh: tương sinh hay ngang hoà với mệnh nạp âm. Nếu chi của
cung trùng với chi của tuổi, thì rất tốt trong việc hỗ trợ cho những người mệnh yếu. Đây cũng là
một chỉ dấu thuộc quý cách.

- Sao chính tinh thủ mệnh được sinh vượng, có ứng hợp với bản mệnh thì càng tốt.

- Cung mệnh hội tụ được các quý cách, phú cách. (Tham khảo các sách tử vi đã xuất bản).

Vì có ảnh hưởng tới nhiều cung trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với
thân nhân.

2. Cung Phúc

Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số.

Tôi trong nghiên cứu thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được chính xác lắm. Vì trong một họ
có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác
nhau huống chi cả dòng họ.

Ý chủ yếu của cung Phúc là thể hiện sự may mắn, được che chở hay không. Nếu một cung Phúc
tốt thì đương số dễ gặp thuận lợi, an nhàn, được quý nhân giúp đỡ. Phúc vì tam hợp với Phu Thê
nên tất nhiên có ảnh hưởng quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý
nghĩa hỗ trợ để xem về con cái và bản mệnh thọ yểu của chính đương số.

Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra hạnh phúc và phúc đức của đương số phụ
thuộc vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì hạnh phúc có được về tình duyên
là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên.

3. Cung Tài

Cung này chủ tiền bạc và các vấn đề liên quan tới tiền bạc của đương số. Nó không phải là cung
duy nhất quyết định giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng.

Nó cũng có thể là một cung chỉ tài năng, năng lực và công việc. Bởi vì những thứ này đều liên
quan chặt chẽ tới tiền bạc. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả tài năng, năng
khiếu.

Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp
cách.... Có hung tinh cũng có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm
tiền hay dựng nghiệp sẽ vất vả hơn người khác.Thêm các sao có tính tích trữ, che giấu thì thường
là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh.

Tài cung toàn sao rực rỡ sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì
chỉ giàu bề ngoài mà thực chất nghèo, hay ít của chìm.
4. Cung Phu hay Thê

Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả tính chất, kết quả của mối quan hệ giữa đương số với
người khác pháì.

Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu
Thê tốt thì tuy vẫn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người ưng ý, cảm nhận được hạnh
phúc và thuận lợi trong hôn nhân.

Cung Phu Thê không thể xem tách biệt mà phải kết hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và các
sao tình duyên để đoán.Tuy nhiên cung này đặc biệt có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác định các
điểm đặc biệt, sự kiện đặc biệt về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v....

Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do
vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê.
Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng.... Người
phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được
trong mắt người đàn ông khác.
Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác
quyết .

5. Cung Tử Tức

Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên khả năng sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ
đó mà khi các sao Thiên Hình Kiếp sát xuất hiện, thì người mẹ dễ phải mổ xẻ lúc lâm bồn.

Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất cứ cung nào trong lá số, theo đúng tinh thần của
câu : "con hơn cha là nhà có phúc". Cung Tử tức tốt có nghĩa là các sao đúng cách cục, thể hiện ý
nghĩa thấp nhất là con cái dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cái phú quý làm rạng rỡ tổ tông.

Quan niệm truyền thống thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát
tinh nếu xuất hiện nhiều thì có thể là hoạ, có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con,
con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu đuối: đây là đứa con khắc cha mẹ.

Quý tinh là gì? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt... Phúc tinh thì
có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý...

6. Cung Điền Trạch

Có câu: An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung.

Cung Điền chỉ nhà cửa, tài sản lớn, sự nghiệp lớn . Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường
cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách vách nát, thậm chí không có nhà . Thế nên cứ ngắm
cung Điền thì biết được nhiều việc về sự giàu có hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, lãnh
đạo cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng
chỉ là danh tiếng suông, không có thực lực.
Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ.
Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm,
sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc... để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp.
Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi,
bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn
với sản phẩm nhỏ .

7. Cung Quan Lộc

Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên công việc của đương số, những công việc mà đương
số có duyên làm, có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan.

Đương nhiên một cung Quan tốt thì công việc dễ dàng, thuận lợi. Có nhiều sao chủ quyền quý tài
năng thì chuyên môn cao, có thể có khả năng lãnh đạo. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết
định tại đây. Chính vì vậy ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về chuyên môn nhưng vẫn
có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì các cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt.
Trường hợp Quan tốt và các cung kia cũng tốt thì địa vị có được do thực taì. Quan tốt cũng
thường là công chức, làm cho chính quyền, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều
hơn, và vẫn có thể thành đạt.

Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và biểu tượng của các sao trong các cung Mệnh Tài Quan mà quyết
định về nghề nghiệp, cung Phu Thê có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho
Quan Lộc.

Cung Quan còn thể hiện những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này
người ta gọi là " được lộc". Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài.

8. Cung Thiên Di

Cung này chỉ khả năng thích ứng với xã hội và hoạt động trong xã hội . Với ý nghĩa đó thì nó sẽ
gồm cả: khả năng kết giao bè bạn, lãnh đạo, thích ứng hay chỉ huy hoàn cảnh.... Và như vậy rõ
ràng là một cung Di tốt sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành công của cuộc đời. Người Di tốt thì
khả năng giao tế đa số tốt.

Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về các hoạt động di chuyển, di cư của người đó trong
đời. Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không.

Cũng từ các lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh hoạt, bén nhạy,
mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa ... hẳn nhiên là
tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên: li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc
Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt cho cung Di.

9. Cung Tật Ách

Có quan điểm cho là Tật ách thể hiện bản chất con người , còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý
luận này có nhiều điểm mâu thuẫn.

Rõ ràng có những người thể hiện không khác nhiều với bản chất.

Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng
chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách. Tuy cung này không
phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo lắng cho đương số, nên
cung Tật xứng đáng được xem xét kỹ càng.

Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về các sao biểu
tuợng cho bộ phận cơ thể và các phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật.
Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh. Chính tinh vượng địa, Quang
Quý Quan Phúc Tứ Đức lúc nào cũng được chào đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu
cũng là cách tốt.

Muốn đoán cụ thể hơn thì từ tượng hình của các sao mà luận, không có gì phức tạp.

Có một vai trò bổ sung khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là
người giả dối, thì người ta có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng
ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng.

10. Cung Phụ Mẫu

Phụ mẫu cung chủ yếu chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là
ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số . Chứ không nhất thiết là nó có
thể cho thấy chính xác cuộc đời của cha mẹ.

Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất nhiên phải phối hợp với Nhật
Nguyệt . Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không
nhận được hỗ trợ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa
khác: khắc phụ mẫu.

Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có tác dụng phối hợp để luận
giải những cung này.

11. Cung Huynh Đệ

Huynh đệ cung chỉ số lượng anh em, sơ lược về cuộc đời của anh em và quan hệ của anh em với
đương số. Cung này không quan trọng lắm.Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi
như vậy là mất hết tinh hoa của các cung khác.

12. Cung Nô Bộc

Cung này chỉ bạn bè, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa: nếu cung Nô vượng
cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác.
Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do các cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ
không phải từ cung Nô.

Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, hỗ trợ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát
tinh và các sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ
đời sống tình ái phong phú, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .

Vài sao quan trọng

1. Thái Dương, Thái Âm

Sao Thái Dương chủ về người cha, người chồng, con trai, yếu tố dương trong cơ thể đương số.
Ngược lại Thái Âm chủ người mẹ, người vợ, con gái, yếu tố âm.

Âm Dương cả bộ cho biết hệ thần kinh, khả năng điều hoà, thích ứng, mối quan hệ vợ chồng,
đồng thời còn là biểu tượng của đôi mắt.

Trong số các chính tinh thì Âm Dương có vẻ ngoài dễ nhìn nhất. Nét đẹp của Âm Dương sáng
sủa, thanh tú. Nếu cùng với các cát tinh, đào hoa tinh thì nghiêng nước nghiêng thành.

Hai sao Âm Dương nếu được sinh vượng, hội cùng nhiều cát tinh phò tá là một sự may mắn lớn .
Trong trường hợp này thì dù công danh tiền bạc, thân nhân hay hạnh phúc nói chung của cuộc
đời đều được thêm phần tốt đẹp. Người có Âm Dương như vậy không bao giờ là kẻ bần cùng,
cuộc sống được mức trung bình trở lên.

2. Hoá Khoa

Thật chẳng ngoa khi các nhà nghiên cứu đi trước tôn xưng Khoa tinh là Đệ nhất giải thần. Nhiều
sao lúc cát lúc hung, nhưng riêng Hoá Khoa lúc nào cũng ban phúc. Đã có Hoá Khoa ở Quan hay
Mệnh, hay Di, thì bất luận phú quý hay không, đều là người có trình độ, có hiểu biết, tính tình
không đến nỗi tồi tệ.

Nếu Hoá Khoa được hợp cách, kết hợp cùng các sao tốt và cách cục tốt, thì nó đưa đương số đến
tuyệt đỉnh vinh quang. Ý nghĩa của Khoa tinh không thiên về quyền chức, mà thiên về sự sang
cả, học vấn, sự thông thái, thuộc hàng quý nhân văn chức trong xã hội. Sự thành công của Hoá
Khoa trong trường hợp này là thành công đi kèm với công nhận và nổi tiếng, chứ chẳng thể là
trọc phú hay anh hùng áo vải.

Cũng chính vì vậy mà Khoa tinh không nên bị hãm địa hay gặp Triệt Tuần, để đảm bảo tài năng
được thi thố và thừa nhận, thi cử dễ dàng.
Khoa tinh còn biểu thị cho khả năng nghiên cứu chuyên môn, cho người đa tài, hiểu rộng, có tầm
ảnh hưởng đến nhiều người.Khi giải hoạ nhờ Hoá Khoa, tai nạn được giải đi do chính nỗ lực hay
phúc đức của đương số tạo ra, chứ không phải do tiền bạc, do người thân, v.v...Vì lẽ đó Khoa
tinh đồng thời cũng đem lại tính cách tự chủ, có lập trường, có tự trọng mà không phải là ương
ngạnh.
3. Thanh Long

Tuy thường bị coi là một sao nhỏ nhưng Thanh Long lại khá quan trọng.

Nguyên do là sao này chỉ khả năng linh tính, giác quan thứ 6. Nó đồng thời biểu tượng cho
quyền uy của người lãnh đạo, của bậc thần linh, với biểu tượng con rồng. Những phản vi kỳ cách
nhiều trường hợp là do Thanh Long, những điểm xấu được giải hoá một cách khó hiểu cũng lại
do Thanh Long.

Bạn cứ kiểm lại những lúc mình may mắn do được linh tính, do trực giác, thì sẽ biết tác dụng của
Thanh Long hữu ích như thế nào.

4. Đào Hồng

Hai sao này luôn phải để ý trong quá trình giải số. Vì tình yêu và hôn nhân quyết định một phần
lớn cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh trong đời người . Đào Hồng vừa chỉ tình cảm, cách yêu của
chính đương số, vừa là hình bóng của người yêu đương số.

Đào Hồng tốt nhất là tránh xa sát tinh, được sánh cùng cát tinh. Đào Hồng không nên tụ cùng các
sao tình ái, tính dục khác vào một chỗ, vì sự thái quá này sẽ gây nên tai hoạ hay dâm dục. Các
sao đó là: Mộc dục, Thai, Thiên Hỉ, Thiên Riêu, Tham Lang, Kình dương, chính tinh hãm đặc
biệt là Thiên Đồng hãm. Thái Âm hãm, Thất sát hãm.

5. Quang Quý

Tương đương với Hoá Khoa về tính cứu giải, nhưng Quang Quý hiệu lực khác biệt ở chỗ nó thể
hiện bàn tay của đấng linh thiêng, trời phật, thể hiện công đức tích tụ lâu dài mà có, ngoài ra
tượng trưng rõ ràng nhất cho thần phật.

Quang Quý chỉ thực sự tác dụng nếu đi kèm với hình tượng thần phật hay hoạt động tích phúc
trong thực tế. Liên hệ tới việc cầu cúng, làm lễ tại chùa để xin lộc, hay giải nạn.

Quang Quý còn mang ý nghĩa ơn huệ, ưu ái, ưu tiên.

6. Hoá Kỵ

Sao này đúng là "đáng gờm" mỗi khi mở số ra. Về mặt xã hội, Hoá Kỵ chủ thị phi miệng tiếng,
tai bay vạ gió. Về tình cảm Hoá Kỵ là sự bất hoà, cãi vã, bực dọc ngấm ngầm về nhau. Về sức
khoẻ, Hoá Kỵ biểu trưng cho bệnh tật, đau ốm lâu dài, tiêu hoá kém. Nếu cách cục xấu thì còn bị
bệnh tật về mắt, phụ nữ kinh nguyệt kém .Về tính cách, Hoá Kỵ phần nhiều đa nghi, thủ đoạn.

Chỉ được mỗi một cái là nó không tác dụng nhiều lên nhan sắc. Có Hoá Kỵ vẫn có thể xinh đẹp
như thường.

Hoá Kỵ không nên gặp Nhật Nguyệt, Liêm Trinh, Cự Môn. Nên gặp Thiên Tướng, Thanh Long,
Lưu Hà, Hoá Khoa thì mới có thể cứu giải.
Gặp cách tốt thì Hoá Kỵ là người kín đáo, giỏi tính toán hoạch định, biết nghề y dược, có thể có
thành tựu lớn trong nghiên cứu, tham mưu, luật pháp.

Những trường hợp 2 sao đồng cung (sao đôi)

Bài sưu tầm - Tác giả: Thanh Y - VDTT (viết theo ý ông Lý Phật)

Tất cả những ai nghiên cứu Tử Vi đều biết có 14 sao chính (còn gọi là chính tinh hoặc chính
diệu) là Tử Vi , Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thất Sát , Phá Quân, Liêm Trinh, Tham
Lang, Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, Cự Môn, Thái Dương .

Mười bốn sao trên 12 cung, tạo thành 14x12 = 168 cách. Nhưng vì phân phối không đồng đều
nên có cung không có sao, có cung lại có đến hai sao . Có 24 trường hợp đồng cung , đều xảy ra
ở 2 vị trí xung chiếu, tính thành 24x2 = 48 trường hợp. Vì mỗi trường hợp liên quan đến 2 sao,
tổng cộng những trường hợp đồng cung chiếm tới 48x2 = 96 cách, tức là đa số (57%) của 168
cách .

Cứ xét 3 sao Tử Vi, Vũ Khúc , Liêm Trinh thì thấy rõ những cách đồng cung nhiều đến thế nàọ
Tử Vi chỉ đứng một mình ở Tý Ngọ, còn thì đồng cung với Phá Quân ở Sửu Mùi, với Thiên Phủ
ở Dần Thân, với Tham Lang ở Mão Dậu, với Thiên Tướng ở Thìn Tuất; Vũ Khúc chỉ đứng một
mình ở Thìn Tuất, còn thì đồng cung với Thiên Phủ ở Tý Ngọ, với Tham Lang ở Sửu Mùi, với
Thiên Tướng ở Dần Thân, với Phá Quân ở Tỵ Hợi; Liêm Trinh chỉ đứng một mình ở Dần Thân,
còn thì đồng cung với Thiên Tướng ở Tý Ngọ, với Thất Sát ở Sửu Mùi , Phá Quân ở Mão Dậu,
với Thiên Phủ ở Dần Thân, với Tham Lang ở Thất Sát . Tóm lại, tính theo toán học thì xác suất
để Tử Vi , Vũ Khúc, Liêm Trinh đứng một mình chỉ là 1/6 (1)

Vậy mà khi bàn đến cung Mệnh, tức là cung quan trọng nhất, gần như chẳng thấy sách nào do
người Việt biên soạn chú ý đến trường hợp hai chính tinh đứng đồng cung . Ý nghĩa các chính
tinh chỉ được trình bày riêng rẽ, thảng hoặc ta gặp những câu phú nhắc đến vài trường hợp hai
sao cùng cung một cách hết sức đại khái . Thiếu sót trầm trọng này khiến người nghiên cứu Tử
Vi không khỏi bối rối . Trường hợp Tử Vi Tham Lang chẳng hạn . Đọc "Tử Vi đẩu số tân biên"
của Vân Đằng Thái Thứ Lang - được coi như sách gối đầu giường của những người nghiên cứu
đẩu số - ta thấy Mão Dậu là bình địa của Tử Vi, hãm địa của Tham Lang . Đọc trang 60 thấy Tử
Vi bình hòa "kém thông minh nhưng trọn đời cũng được no cơm ấm áo, và chắc chắn là sống
lâu", trang 116 thấy Tham Lang hãm địa ở Mão Dậu "làm việc gì cũng thất bại và hay gặp những
sự chẳng lành . Chỉ có tu hành mới mong được yên thân và hưởng phúc thọ" . Vậy người có Tử
Tham ở Mão Dậu không đi tu thì có được no cơm ấm áo không, có được sống lâu không?Thật
chẳng biết tính thế nào cho phải.

May mắn làm sao , gần đây Đài Loan có xuất bản quyển "Đàm thiên thuyết địa thoại Tử Vi" của
ông Lý Phật (2), trong đó vấn đề hai sao cùng thủ mệnh được phân tích khá tỉ mỉ (3). Nhận thấy
rằng đây là một tài liệu quí giá , người viết đã tóm lược các ý chính cộng thêm một chút ý kiến
riêng thành bài viết này, mong góp phần nào lợi ích cho quí vị nghiên cứu Tử vi đẩu số .

1/ TỬ VI THIÊN PHỦ (Tử Phủ)


Hai sao Tử vi Thiên phủ chỉ cùng cung tại Dần Thân, đều được coi là vị trí cực tốt, tạo thành "Tử
Phủ đồng cung cách".

Mệnh được cách này tất có khả năng lãnh đạo, kiến thức, mưu trí, tài năng xuất chúng, phản ứng
mẫn tiệp, xử thế hòa hợp mà vẫn giữ khoảng cách với mọi ngườị Ngoài ra lại có tinh thần trách
nhiệm cao độ, nhiệt tâm phục vụ công ích, bất chấp trở ngại khó khăn.

Nhưng vì Tử vi và Thiên Phủ là hai lãnh tụ của hai chùm sao khác nhau, khi cùng cung ví như
hai hổ cùng ở một rừng tất phải có xung đột; nên sự tốt đẹp không được hoàn hảo . Tử Vi có tính
động trong khi Thiên Phủ thiên về tĩnh . Tử Vi có tính khai phá, Thiên Phủ có tính bảo thủ. Tử
Vi đại diện ước vọng cao vời, Thiên Phủ đại diện mục đích thực tế. Hai sao hợp lại, mâu thuẫn
không thể nào tránh được.

Nên người có Tử phủ đồng cung thường mang ước vọng quá cao vời, dễ trở thành uổng công phí
sức . Vì tự phụ thông minh, họ bướng bỉnh chỉ hành động theo ý riêng . Khi gặp thất bại lại đổi
chiều hướng quá sớm, nên kết quả khó được như ý . Nói chung, nếu các phụ tinh không được tốt
đẹp để giúp họ gặp nhiều may mắn, người có Tử Phủ đồng cung rất dễ trở thành kẻ có tài , sống
đời bất đắc chí.

2/ TỬ VI THIÊN TƯỚNG (Tử Tướng)

Chỉ đồng cung tại Thìn Tuất, tạo thành cách "Tử Tướng đồng cung" . Hai cung này mệnh danh là
Thiên la Địa võng, ám chỉ sự khó khăn, khó nhọc, bị nhiều trói buộc phải vượt qua mới thành
công được.

Tử Vi nhiều năng lực, đòi hơn người khác. Thiên Tướng có khuynh hướng phục vụ tha nhân,
hành sự suy tính cẩn trọng . Tử Vi mang quí cách , Thiên Tướng hòa hợp với người . Hai sao hợp
lại biểu lộ thành cá tính bên ngoài thân thiết ôn hòa, dễ được người kính mộ, nhưng lại không
hợp với những nghề như thầy giáo, thầy thuốc v.v. . .

Ưu điểm : Chịu khó nghiên cứu học hỏi, phong thái tao nhã, nhiệt tâm phục vụ công ích, hành
động cẩn trọng, có khả năng hòa giải, biết tiến thủ tùy lúc.

Khuyết điểm : Tâm tính bất chợt , ý muốn vượt hơn khả năng, trọng hư danh hơn thực chất . Cá
tínhh bướng bỉnh, dễ hành động sai lầm rồi hối hận. Khả năng phán đoán thị phi không mấy xuất
sắc . Hay vì lợi nhỏ mà mất lợi lớn.

3/ TỬ VI THẤT SÁT (Tử Sát)

Chỉ cùng cung tại Tị Hợi, tạo thành cách "Thất Sát ngưỡng đẩu".

Tử Vi có tính cách lãnh đạo, Thất Sát có phong cách hùng dũng, thích đảm đương việc khó
nhọc . Hai sao cộng lại hơn Tử Vi đơn thủ ở chỗ chịu khó hơn, hơn Thất Sát đơn thủ ở chỗ cẩn
trọng hơn . Ở cùng cung thì không chịu nhượng bộ người.
Hai sao cùng cung ở Tỵ Hợi là nơi ngụ của sao Thiên Mã (Dần Thân Tỵ Hợi thường được gọi là
tứ mã địa) , tức vị trí của biến động , thay đổi . Nên thường có những gặp gỡ, duyên nghiệp phức
tạp, thành bại khó lường . Cá nhân sẽ có nhiều cơ hội đi lại, biết nhiều chuyện thiên hạ, nhiều sức
sống , được hưởng nhiều thú lạ trên đời.

Tử Vi phong cách uy nghiêm, Thất Sát tính khí cương cường . Nên cá nhân có khả năng lãnh đạo
. Dù trải nhiều thay đổi nhưng con đường đã định thường đi đến nơi đến chốn. Thất Sát cố chấp,
Tử Vi nhiều suy nghĩ, nên bổ túc khuyết điểm cho nhau, có thể là người vô cùng hợp lý.

Ưu điểm : Trí dũng kiêm toàn , độc lập hành sự, có khả năng chịu đựng lao khổ, có tinh thần
trách nhiệm, biết sửa những sai lầm của mình . Có chí lớn hơn đời, ân oán phân minh, không sợ
nghịch cảnh, quả cảm dũng mãnh.

Khuyết điểm : Tâm tính sôi nổi bất thường. Mơ ước quá cao, suy tính không trọn vẹn vấn đề nên
dễ làm hỏng việc . Lâm sự độc đoán, không chịu nghe lời thật mất lòng, lại dễ tin lời dối của kẻ
xấu xa . Đời sống thiếu ổn định, thiếu kế hoạch lâu dài.

4/ TỬ VI PHÁ QUÂN (Tử Phá)

Chỉ cùng cung tại Sửu Mùi, tạo thành "Tử Phá Mộ cung cách".

Nếu đứng riêng đặc điểm của Tử Vi là tính khai phá, của Phá Quân là bất chấp hậu quả. Nhưng
khi đứng chung Tử Vi bị Phá Quân lấn át, ngược lại Phá Quân cũng kính trọng khí độ của Tử vi .
Hậu quả là hai bên cùng tự chế mà sinh ra mâu thuẫn.

Hai cung Sửu Mùi là Âm Thổ, đồng thời là Mộ địa, biểu tương sự cẩn trọng, nhiều suy tính . Vì
thế mà có khả năng giữ mọi sự ở trạng thái bình hòa, giảm thiểu những biến động do khuynh
hướng của Phá Quân gây ra.

Tử Vi có khuyết điểm là suy nghĩ quá nhiều, cô độc, trái tim dễ xúc động . Phá Quân dũng mãnh,
cố chấp . Hai sao cộng lại, hay khởi sự bất chợt (do ảnh hưởng của Phá Quân) rồi khi lâm sự lại
do dự, nhiều khi sắp thành công lại để cho thất bại (vì ảnh hưởng của Tử Vi ngăn chận đường lối
tàn nhẫn của Phá Quân).

Ưu điểm : Phong cách đặc biệt khác người . Kiến văn quảng bác, hành sự cẩn trọng, khả năng
phán đoán cao, chịu khó học hỏi , có khả năng tự học tự biết không cần người giảng dạy . Tiến
thủ có suy tính, coi thường những thành bại ở đời.

Khuyết điểm: Cố chấp, nhưng khi lâm sự lại hay thối nhượng . Đời sống bất định, ở tuổi thanh
niên thiếu phương hướng để cuốn theo chiều gió, sống đời sôi nổi theo khuynh hướng Phá
Quân . Đến tuổi 30, 40 thường đổi tính, trở thành gần Tử Vi mà xa cách Phá Quân (4).

5/ TỬ VI THAM LANG (Tử Tham)

Chỉ cùng cung ở Mão Dậu, tạo thành "Tử Tham Mão Dậu cách".
Xét vòng Trường sinh của 4 hành Kim, Mộc , Thủy, Hỏa trên địa bàn (tức lá số Tử Vi) thì Mão
Dậu là hai cung thuộc vị trí "Mộc Dục", biểu tượng những ham muốn tầm thường, nên còn gọi là
"Đào hoa" cung.

Tử Vi vốn đã có khí phái phong lưu, Tham Lang lại là sao của lòng tham vật dục , nên trường
hợp thông thường là đời sống buông thả. Nhưng chú ý ! Vì khuynh hướng của hai sao quá tương
phản nên liên tục khắc chế nhau, mà tùy hoàn cảnh kết cuộc có thể hoàn toàn trái ngược .

Đó là lý do tại sao Tử Tham Mão Dậu cũng là cách của nhiều bậc chân tu, coi thường mọi thú
vui của đời sống.

Ưu điểm : Đa tài đa nghệ, học hỏi rất nhanh, kiến thức phong phú, ngôn ngữ có phong cách nho
nhã, thân thiết với nhiều người, xử sự khéo léọ Nếu sống đời buông thả thì đáng gọi là tay chơi .
Nếu sống đời ẩn dật lại đáng gọi là bậc chân tu.

Khuyết điểm : Thiếu tính nhẫn nại, thiếu khả năng chịu đựng thất bại, nhiều chủ kiến, (thường)
tham lam hưởng thụ, dễ đổi thay ý kiến, quan điểm. Sống vô kỷ luật , qui củ, gây ra những hoàn
cảnh phức tạp tự mình không giải quyết nổi, thường vì tình mà khổ lụy, đời sống thành bại khó
lường.

6/ VŨ KHÚC THIÊN PHỦ (Vũ Phủ)

Chỉ đồng cung tại Tý Ngọ, tạo thành "Phủ Vũ đồng cung cách"

Tý Ngọ là hai cung thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa" . Thiên phủ có khả năng giữ gìn tiền bạc,
Vũ Khúc có khả năng phát triển những gì có sẵn thành lớn mạnh hơn . Hai sao lại cùng có khả
năng lãnh đạo . Nên có Phủ Vũ đồng cung nếu thiên về thương mại tất phải thuộc hàng chủ nhân,
không chịu ở vị trí thừa hành kẻ khác.

Đây là một trường hợp đặc biệt của Vũ Khúc , dù có hội họp với Văn Khúc đi nữa cũng không
thể nào là nhân tài văn học . Ngoài ra cũng tối kỵ nghề y dược, nếu cố theo đuổi chỉ đạt mức tầm
thường mà thôi.

Ưu điểm : Khoan hòa thận trọng, tiến thủ khéo léo, làm việc đến nơi đến chốn, cá tính quả quyết,
được bạn bè yêu mến, khoan dung đại độ, xử thế tích cực lạc quan, suy nghĩ kỹ lưỡng, có khả
năng chịu đựng thất bại, đời sống phong phú, biết đồng cam cộng khổ với người khác.

Khuyết điểm : Mơ ước quá cao vời, thích ở nơi cao, được người trọng vọng, hay bắt ép người,
thiếu khả năng nhẫn nại, chủ quan tính quá caọ Mặc dù tỏ ra dũng cảm , khi gặp kẻ cường ngạnh
thường hay mau chóng chịu thua.

7/ VŨ KHÚC THIÊN TƯỚNG (Vũ Tướng)

Chỉ đồng cung tại Dần Thân, tạo thành "Vũ Tướng đồng cung cách".

Vũ khúc là sao mang nhiều đặc tính khác nhau . Có phần năng động như Thái Dương, phần suy
nghĩ như Thiên Đồng, phần mưu tính như Thiên Cơ, phần thụ động như Thái Âm; tuy vậy nói
chung vẫn ngã về phía tĩnh, có tinh thần trách nhiệm, nhưng cầu mong sự an ổn . Thiên Tướng
cũng mang đặc tính thụ động , muốn giảm thiểu mọi sự đổi thay . Hai sao hợp lại gây ra khuynh
hướng bảo thủ, thiếu tính sáng tạo, không phát triển cái mới mà chỉ giữ những gì có sẵn . Người
có Vũ Tướng cùng cung không phải lo vật lộn với miếng cơm manh áo, nhưng vì tâm lý thụ
động, lại thiếu những vận may lớn nên rất khó trở thành đại phú.

Ưu điểm : Nhiều khả năng , chịu học hỏi, không quản lao khổ, lời nói đi đôi với việc làm, ra
công hết sức .

Khuyết điểm : Tính ương nhạnh, hành sự nôn nóng, không chịu nghe lời khuyên bảo, nhiều bệnh
tật, ít gặp may mắn . Thiếu khả năng sáng tạo, đời sống thường khổ tâm vì hay so sánh với người
khác mà sinh bất đắc chí.

8/ VŨ KHÚC THẤT SÁT (Vũ Sát)

Chỉ đồng cung tại Mão Dậu.

Vũ Khúc cương cường, quả quyết, nhưng thận trọng. Thất Sát dũng mãnh, cố chấp, hành sự
muốn gì làm nấy, ít nghĩ đến hậu quả . Vũ Khúc nhẫn nại, Thất Sát nóng nảy . Vũ khúc bảo thủ,
Thất Sát xông xáo . Nên cá nhân có hai sao cùng cung tâm lý luôn luôn dẫy đầy mâu thuẫn.

Mão Dậu thuộc đào hoa địa nên người nặng cảm tình, sống nhiều về nội tâm . Về tài chánh khá
giả, đổi nghề nghiệp nhiều lần, thường làm nghề buôn bán . Thiếu niên gian khổ, trung niên tạo
nghiệp, lão niên bền vững.

Ưu điểm : Thông minh ưu nhã, trí dũng song toàn, có khả năng chịu đựng gian khổ, biết tiến
thối, ý chí mạnh mẽ, làm việc đến nơi đến chốn, chăm chỉ, kiến thức rộng rãi, biết tự khắc chế,
có khả năng tổ chức, lãnh đạo.

Khuyết điểm : Ương ngạnh, không hợp với đám đông, cô độc, ít có người thân, không chịu nhận
cái sai của mình, chỉ làm theo ý muốn, có tâm lý phản kháng những gì người khác đề ra, thiếu
tính nhẫn nại lâu dài . Vì chỉ biết đến mình, rất dễ thành kẻ xấu xa, độc ác.

9/ VŨ KHÚC PHÁ QUÂN (Vũ Phá)

Chỉ cùng cung tại Tỵ Hợi, tạo thành Vũ Phá đồng cung cách.

Nếu Vũ Khúc chỉ đứng một mình ở cung Mệnh thì cá nhân là người cô độc, thông minh sáng trí,
biết phân định lẽ tiến thối công thủ đúng lúc . Nhưng khi cùng cung với Phá Quân thì mọi tính
chất đều bị chiết giảm có đến hơn phân nửa . Cá nhân vẫn có tâm lý cô độc, tâm sự phức tạp
không có người chia sẻ . Thiếu tính nhẫn nại, hành xử mâu thuẩn nên dễ bị hiểu lầm.

Tỵ Hợi thuộc "tứ sinh tứ mã địa", nên đời bôn ba trôi nổi, đi lại nhiều duyên lạ . Thiếu thời sống
xung động , về già thích an tĩnh (xem chú thích 2) . Hợp nhất với nghề buôn bán.
Ưu điểm : Không ngại gian khổ, biết tự trọng, không để người khác phải coi thường . Có khả
năng tự tạo cơ nghiệp, làm việc không mệt mỏi . Có thể đảm nhiệm trọng trách.

Khuyết điểm : Chủ quan tính quá lớn, lại quá tự tôn, hay phản kháng , hành sự nóng nảy, hay bỏ
việc hiữa chừng, không chịu nhường kẻ khác, nội tâm thường bị dằn vặt bởi sự cô đơn, không
làm việc được với người khác, không chịu nghe lời hay của kẻ khác.

10/ VŨ KHÚC THAM LANG (Tham Vũ)

Chỉ cùng cung tại Sửu Mùi , tạo thành Tham Vũ đồng hành cách.

Sửu Mùi cùng là âm Thổ mộ cung , thiếu niên chỉ tích tụ kinh nghiệm mà khó phát huy khả năng
. Từ trung niên trở đi, nhờ kiến thức có sẵn, cộng thêm may mắn mới tạo thành sự nghiệp, vì thế
mới có câu "Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân ".

Vũ khúc chủ sự uy nghiêm, Tham Lang chủ sự buông thả . Hợp nhất là nghề buôn bán , nghệ sĩ
trình diễn v.v. . .Nhất định không hợp với các nghề như thầy giáo, bác sĩ , nhà văn v.v. . .

Ưu điểm : Biết sống hòa với người, nhiều khả năng, biết thu nhận kinh nghiệm trải qua trong đời
sống, dám bỏ cũ theo mới , không ngại gian lao khốn khó, dám làm dám chịu.

Khuyết điểm : Tâm tính cô độc, xem mình quá cao nên hay bất mãn, đời sống không qui củ, tình
cảm thay đổi luôn luôn, thiếu tính nhẫn nại, thích tranh cường háo thắng, không chịu dưới tay kẻ
khác . Dù có đạt mọi điều kiện mong muốn, vẫn vì ham muốn nhiều thú vui mà không tìm được
bình an.

11/ LIÊM TRINH THIÊN PHỦ (Liêm Phủ)

Chỉ cùng cung tại Thìn Tuất, thường gọi là "thiên la địa võng" , thúc bó, khiến năng lực khó phát
huy, thường phải buông bỏ nhiều ước mơ, nhưng bù lại có nhiều kinh nghiệm đời sống.

Liêm Trinh không sợ thành bại, Thiên Phủ bất chấp tiểu tiết, hai sao này hợp lại, tất được nhiều
người yêu, ít kẻ ghét . Nên thiên về kỹ thuật, phát triển khả năng chuyên nghiệp thì có thể thành
tựu . Còn như theo đuổi chính trị, thương mại thì e là khó lòng tránh khỏi thất bại.

Ưu điểm : Tâm địa khoan hòa, không để dạ thù oán, đối xử dễ chịu và được lòng nhiều người,
biết đồng cam cộng khổ, có trí thông minh và chịu khó học hỏi, có khả năng tự lực, không nhờ
cậy kẻ khác, lại không hay tranh quyền đoạt lợi, biết tự chế những ham muốn của mình.

Khuyết điểm : Không có mơ ước cao, thiếu khả năng sáng tạo, tâm hồn ít được bình an, hay đổi
khuynh hướng, do dự khi lâm sự, lắm khi vận dụng sở đoản thay vì sở trường, khả năng phán
đoán yếu kém nên xử trí dễ sai lầm, ít được thân nhân hổ trợ.

12/ LIÊM TRINH THIÊN TƯỚNG (Liêm Tướng)

Liêm Trinh có tính cuồng phóng, không chịu nghe lời phải . Ngược lại Thiên Tướng bình hòa
nhỏ nhẹ, biết tôn trọng quan điểm của người khác . Hai sao cùng cung là người tao nhã, có khả
năng hấp dẫn người xung quanh , nhất là người khác phái, dễ vướng mắc vào những cuộc tình
rắc rối.

Chỉ cùng cung tại Tý Ngọ , thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa", đời sống lắm sóng gió, khó lòng
ổn định , hôn nhân không được hoàn mỹ, lý trí và con tim có nhiều mâu thuẫn . Việc đối xử với
người khác cũng thay đổi thất thường . Mặt ngoài bình tĩnh nhưng trong lòng luôn luôn bất ổn .
Tuy thế lại được hưởng nhiều lạc thú trên đời.

Ưu điểm : Không sợ thất bại, làm việc tận lực, có cá tính đặc biệt, biết sống phù hợp với hoàn
cảnh, không vì nghịch cảnh mà ngã lòng, tự tìm được hạnh phúc cho mình.

Khuyết điểm : Ước vọng quá cao, ham muốn quá nhiều, việc gì cũng muốn có kết quả nhanh
chóng, không đủ nhẫn nại, suy nghĩ đổi thay nhanh chóng, dễ bị ganh ghét nhòm ngó . Dễ khốn
khổ vì tình cảm, không biết tự lượng sức mình, dễ gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn.

13/ LIÊM TRINH THẤT SÁT (Liêm Sát)

Liêm Trinh có khả năng làm thân với người mau lẹ, được người xử sự thật tình, như có ma lực .
Dễ vượt hơn người khác, dễ bị người ghét.

Thất Sát tính nóng, thích làm kẻ anh hùng trượng nghĩa, bất kể hậu quả. Hai sao hợp lại thành
người xung động, nhất định đạt mục tiêu bất kể phương pháp, tạo thành cảnh ngoài tốt đẹp trong
chẳng có gì, khổ tâm không dám tiết lộ . Đời sống vì thế chỉ đạt được vật chất, còn tinh thần
thiếu thốn . Chỉ đạt mục tiêu ngắn hạn, mà không chịu nhìn xa . Nên sống như nước chảy mây
trôi, đời khó lòng định hướng.

Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, là "mộ địa" , tạo nhiều trở ngại, nên đối với người thường không hòa
thuận, hay gặp nhiều khó khăn về tiền bạc . Cả hai sao cùng thích động, không chịu nổi tĩnh .
Nên nếu không có yếu tố cứu giải tất đời sống gặp rất nhiều phiền toái . Nếu tôn sùng tôn giáo
thì đỡ đi nhiều.

Ưu điểm : Tính tình hào phóng, bất chấp tiểu tiết, dám làm dám chịu, khi lâm sự bất kể gian khổ,
hiểm nguy, xử sự đơn giản mau chóng, có tình thần hiệp nghĩa, biết tôn trọng danh dự kẻ khác,
đầu óc rộng rãi.

Khuyết điểm : Tự tung tự tác, thích gì làm nấy, không suy nghĩ cặn kẽ nên lâm vào nhiều cảnh
khó khăn . Thiếu may mắn về đường hôn nhân, thường bị miệng tiếng thị phi, thường vô tình
đụng chạm kẻ khác mà bị phiền toái.

14/ LIÊM TRINH PHÁ QUÂN (Liêm Phá)

Liêm Trinh có trí óc nhanh, làm thân với người mau lẹ, có khả năng hòa giải, làm việc tận tâm,
có lòng khoan dung kẻ khác, lạc quan, dễ tự tìm thấy sự thoải mái . Phá Quân thích cô độc,
không phục kẻ khác, biết sai cũng không nhận sai, hay cưỡng từ đoạt lý . Nói chung đối với
người luôn có khoảng cách, có hòa cũng bất đồng.
Hai sao hợp lại nhu hỏa diệm sơn ngoài nhỏ nhẹ mà trong cương cường, một khi bùng nổ khó
lòng ngăn cản . Hành sự không thuận kẻ khác , nên khó thành tựu . Thường tìm thú vui cô độc,
sách vở, ngao du sơn thủy, để mặc đời trôi trong quên lãng.

Chỉ cùng cung tạo Mão Dậu, thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa" . Khả năng xét đoán người và
việc nhậm lẹ, nhưng thành bại khó lường, thường bỏ ra nhiều mà thu về ít . Tính cực đoan khó
đoán, khi xung động như điên cuồng, khi suy tư trầm mặc . Cuộc đời bất định, biết nhiều thứ
nhưng không đạt mức tinh thông . Bù lại có tính tự lập, biết đấu tranh để tìm hạnh phúc cho
mình.

Ưu điểm : Phân rõ trắng đen, phản ứng linh mẫn, làm việc tận lực, nhiều tình cảm cũng như lý
trí, kinh nghiệm duyệt lịch phong phú . Có khả năng khắc phục lao khổ, biến việc nhỏ thành kết
quả lớn.

Khuyết điểm : Tính ngang bướng, muốn gì làm nấy, háo thắng, không gần gũi người thân, tính
do dự bất quyết, chủ quan tính quá mạnh, không biết nghe lời người khác. Hay thay đổi đường
lối, thiếu tính nhẫn nại.

15/ LIÊM TRINH THAM LANG (Liêm Tham)

Liêm trinh đồng cung với Tham Lang là người tâm linh mẫn cảm, ý tứ thâm trầm, ngoài nhu
trong cương, không dễ bị áp chế, thay đổi liên miên, ví như mây bay nước chảy.

Hai sao chi đồng cung tại Tị Hợi, là "tứ sinh tứ mã địa", bao hàm ý nghĩa đột biến . Lúc thuận
thời cũng có điều bất đắc ý, khi gặp nghịch cảnh lại thường tìm ra sinh lộ để phát triển rực rỡ bất
ngờ. Tuổi niên thiếu gặp nhiều khó khăn, đời sống bất định, trung niên hậu vận nhờ tùng trải
kinh nghiệm phong phú mà sự nghiệp có thể hanh thông.

Liêm Trinh Tham Lang là hai sao đào hoa, nên quen biết nhiều người, nhiều khi gặp người lạ
cũng trở thành thân thiết mau lẹ . Nhưng tình cảm ít khi giữ được lâu dài . Thời lên, lúc xuống
cũng thường ngắn ngủi, nhưng vẫn tìm được sự tự tại, vui thú . Nếu theo nghiệp doanh thương
thì dễ thành công.

Ưu điểm : Biết điều hay lẽ phải, biết độc lập tự cường , quen nhiều hiểu rộng, kiến văn quảng
bác, ứng biến mau lẹ, tìm được sự lạc quan trong mọi hoàn cảnh của đời sống, có khả năng thấy
ít hiểu nhiều.

Khuyết điểm : Quá nhiều ham muốn, biến đổi nhanh chóng , dễ vì tình mà mang phiền toái, thiếu
tính nhẫn nại, không bằng lòng với những gì đang có, dễ bỏ cũ theo mới . Thiếu thực tế, ít khi
nghe lời hay của kẻ khác.

16/ THÁI DƯƠNG THÁI ÂM (Nhật Nguyệt)

Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, tạo thành "Âm Dương Sửu Mùi cách ", còn gọi là Nhật Nguyệt đồng
lâm cách".
Thái Dương là trung đẩu đế tinh, nên mặc dù thuộc nhóm sao tĩnh (Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự
Nhật ) mà vẫn có nhiều tính chất xung động, mãnh liệt như nhóm "Tử Phủ Sát Phá Tham ".
Ngược lại, Thái Âm là sao nhu nhuyễn, thích sự bình lặng, làm việc gì cũng muốn đạt sự toàn
mỹ, mang nhiều lãng mạn tính . Hai sao hợp lại, không khỏi có nhiều mâu thuẫn.

Sửu Mùi là hai cung mộ địa mang đặc tính bảo thủ, nên khuynh hướng đấu tranh của Thái
Dương bị biến hóa, trở thành bất chợt, nhưng cá nhân vẫn hiếu thắng, cố chấp.

Thái Dương nhiều năng lực, hăng hái xông pha, trong khi Thái Âm thích sự nhàn tản, lãng mạn .
Hai sao hợp lại thường có bề ngoài mềm dẻo bề trong cứng cỏi, nhưng có lúc hoàn toàn ngược
lại, rất khó xác định . Thích ở vị trí thủ lãnh, nhưng rất khó đóng trọn vai trò này là vì những mâu
thuẫn như đã kể.

Ưu điểm : Không tham danh lợi, thích làm việc nghĩa, thích đóng vai người hùng cứu khổn phò
nguy, đầu óc thông minh, học hỏi hiểu biết nhanh .

Khuyết điểm : Nhiều mâu thuẫn, nhiều khi suy nghĩ trước sau trái ngược, ý chí không cứng cỏi,
tình cảm bất định . Luôn cho rằng mình hơn người khác , dễ trở thành bệnh tưởng . Hôn nhân
thiếu hòa thuận, không gần gủi người thân.

17/ THÁI DƯƠNG CỰ MÔN (Cự Nhật)

Thái Dương là biểu hiệu của ánh sáng, Cự Môn là ám tinh như mây che ánh sáng, đứng cùng với
Thái Dương có tác dụng cản ngăn những đặc sắc của Thái Dương.

Hai sao cùng cung ở Dần Thân . Xét về thời gian thì Dần trời chưa sáng, Thân trời đã ngã về
chiều, Thái Dương không đủ sức mạnh vượt thắng ảnh hưởng của Cự Môn, nên hai sao cùng
cung gây ra tình trạng bất toàn. Nếu thành đạt tất phải có chuyện không ổn trong gia đình, như
vợ chồng bất hòa, hoặc sức khỏe suy yếu, hoặc con cái bất hiếu v.v . . Cá nhân vẫn có thể đạt
công danh, hạnh phúc, nhưng không có đủ khả năng và may mắn để đối phó với những khó
khăn, nên công danh hạnh phúc bao năm đạt được chỉ cần gặp một vài chuyện không may nho
nhỏ là có thể vỡ tan bất cứ lúc nào.

Ưu điểm : Tính khí cương cường, dũng cảm . Có tài miệng lưỡi, mưu trí, nhờ đó có khi biến họa
thành may, biết nắm thời cơ . Có khả năng lãnh đạo.

Khuyết điểm : Khá bướng bỉnh, háo thắng . Suy tính chuyện ngoài tầm tay . Tham vọng lớn, lại
quá chủ quan, nên khó đạt thành công theo ý muốn.

18/ THÁI DƯƠNG THIÊN LƯƠNG (Dương Lương)

Thái Dương là "trung thiên đế vương tinh" uy cường, Thiên Lương là phúc tinh ôn nhã, hai sao
cùng cung tất phải tương nhượng nhau mà hướng về trung đạo.

Hai vị trí cùng cung là Mão Dậu, thuộc "tứ chính đào hoa địa". Mão là đất vượng của Thái
Dương , nên Thái Dương lấn áp Thiên Lương; Dậu là phương hãm của Thái Dương , nên ảnh
hưởng của Thiên Lương có phần trội vượt . Vì đặc tính đào hoa, ở cả hai nơi cá nhân sẽ có nhiều
duyên may mắn . Nếu chọn ngành thương mãi thì dễ đạt mục tiêu vật chất . Nhưng trong mọi
trường hợp, e là khó tìm được hạnh phúc gia đình.

Cá nhân sẽ có nhiều điểm cố chấp nhưng lại có trái tim dễ bị xúc dộng nên khả năng quyết định
không chuyên nhất, thành bại vì thế khó lường.

Ưu điểm : Quang minh chính dại, tích cực, hiền hòa, thích phục vụ xã hội, không sợ mệt nhọc,
hiểm nguy, thất bại . Có phong thái quí phái , làm việc cẩn trọng suy tính . Biết trọng người trên,
nhường kẻ dưới.

Khuyết điểm : Tâm lý do dự, khả năng phán đoán thiếu sót, không biết mình biết người, nên dễ
lao tâm vô ích . Không biết lẽ tiến thủ nên hay kẹt vào những hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh tình
cảm, không thể tìm đường giải quyết.

19/ THIÊN CƠ THÁI ÂM (Cơ Âm)

Chỉ cùng cung tại Dần Thân, tạo thành "Cơ Nguyệt tương phùng" cách.

Thiên Cơ thuộc Mộc biểu tượng mưu trí, tính toán , nhẫn nại; Thái Âm thuộc thủy biểu tượng
cung cách nho nhã, tình cảm lãng mạn . Luận về ngũ hành thì hai sao tương hợp . Nhưng Dần
Thân thuộc "tứ mã địa" chủ sự dời đổi, biến chuyển; nên có thể thấy từ đặc tính của hai sao rằng
đây không phải là vị trí thích hợp lắm .

Ở Dần Thái Âm hãm, ở Thân Thái Âm vượng, nên có Cơ Âm đồng cung ở Thân thì gặp nhiều
may mắn hơn ở Dần; nhưng cả hai cung vẫn có chung một số tính chất . Cá nhân có "Cơ Nguyệt
tương phùng cách" nội tâm ít khi thỏa mãn với hoàn cảnh hiện tại, hay thay đổi bất chợt, nhưng
lại e sợ hậu quả, nên mọi đổi thay đều ở mức lưng chừng, thiếu dứt khoát, nên dễ khốn khổ vì
lâm vào những hoàn cảnh khúc mắc, khó giải quyết.

Người có Cơ Nguyệt ở Dần Thân thiếu uy nghiêm nên không hợp với vai trò lãnh đạo . Nên tìm
những công việc chuyên môn, hoặc buôn bán độc lập . Nếu không lượng sức mình mà đi vào
những địa hạt cần quyền biến mau lẹ thì khó lòng tránh khỏi thất bại.

Ưu điểm : Cốt cách, phong tư nho nhã, dễ chiếm cảm tình của người khác (đặc biệt là người khác
phái). Thông minh, hiểu chuyện mau lẹ . Có trực giác linh mẫn. Có cơ may gặp nhiều duyên lạ
trong tình cảm cũng như sự nghiệp.

Khuyết điểm : Thiếu nghị lực, ý chí, khả năng điều hànhg . Nhiều mơ mộng, thiếu thực tế .
Trọng hư danh . Nội tâm nhiều mâu thuẫn, và (trừ khi có nhiều sao chế hóa) khá ích kỷ . Tình
cảm biến đổi, trước trọng sau khinh . Khó được người đời kính trọng.

20/ THIÊN CƠ CỰ MÔN (Cơ Cự)

Chỉ cùng cung tại Mão Dậu, tạo thành "Cự Cơ Mão Dậu" cách.
Thiên Cơ trí tụê mẫn cảm , nho nhã thư sinh, dễ gây cảm tình; Cự Môn thành kiến chủ quan, cố
chấp, dễ khiến người khác khó chịu . Hai sao cùng cung chế hóa nhau, kết quả là cá tính vẫn chủ
quan , nhưng biết xử thế, được người yêu nhiều hơn ghét.

Mão Dậu là đào hoa địa, nên cá nhân có khuynh hướng liên quan nhiều với xã hội, có khả năng
biến lạ thành quen, sinh hoạt hăng hái, xử sự nhậm lẹ . Mặc dù thỉnh thoảng ngôn ngữ bất cẩn
làm kẻ khác phiền lòng, nhưng nói chung được nhiều sự yêu mến.

Chỉ tiếc là thiếu sự nhẫn nại, nên mặc dù bỏ nhiều năng lực và sáng kiến , ít khi được kết quả
tương xứng, có tiếng mà không có miếng, ngay cả khi thành công cũng thường là dọn cỗ cho
người còn mình chẳng được hưởng bao nhiêu.

Ưu điểm : Quyết định nhanh chóng, trí tuệ mẫn cảm, biết chịu đựng khó khăn, làm việc tận lực,
biết lẽ tiến thối, liên tục học hỏi, quân bình tình cảm và lý trí . Nếu theo các nghề doanh thương,
buôn bán thì rất dễ thành công lớn, vì có sự ứng hợp với cách "Cự Cơ Mão Dậu".

Khuyết điểm : Cá tính bướng bỉnh, sinh cường hiếu thắng, dễ mắc vào vòng thị phi, đời sống tình
cảm không được ổn định.

21/ THIÊN CƠ THIÊN LƯƠNG (Cơ Lương)

Chỉ đồng cung tại Thìn Tuất, là đất miếu vượng của hai sao . Nên do ảnh hưởng tốt của Thiên Cơ
mà có đầu óc mưu cơ, do ảnh hưởng tốt của Thiên Lương mà có sự quan tâm đến bối cảnh xung
quanh, muốn phục vụ, làm lợi cho kẻ khác . Vì Thìn Tuất là "thiên la địa võng" , lại là mộ địa,
nên đời sống có nguyên tắc . Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể là cộng sự viên đắc lực cho lãnh tụ,
tài ba hoặc trở thành bậc hiền nhân danh sĩ.

Nói chung gặp nhiều may mắn, dễ đạt thành công về vật chất cũng như tình cảm. Nhưng tham
vọng rất cao nên ngay cả khi thành công cũng khó bằng lòng với hoàn cảnh của mình.

Ưu điểm : Tốt bụng, thông minh, chịu học hỏi, xử thế hòa nhã với mọi ngườị Có thủy có chung,
có khả năng đảm nhận trọng trách (miễn là không đòi hỏi ứng biến nhậm lẹ ).

Khuyết điểm : Tham vọng quá cao, nên dễ trở thành trí xảo . Nhiều tình cảm nên hay dính líu
vào những hoàn cảnh phức tạp, khó tháo gỡ . Nếu gặp quá nhiều cảnh ngoài ý muốn , rất có thể
trở thành người vô cùng giả dối.

22/ THIÊN ĐỒNG THÁI ÂM (Đồng Âm)

Cả hai sao đều thuộc Thủỵ Chỉ cùng cung tại Tý Ngọ, thuộc "đào hao địa" . Cá nhân ôn nhu, u
mặc, đa tình . Ước vọng cao, nhiều cơ hội đi lại , nhiều nhân duyên kỳ diệu , lịch duyệt phong
phú . Thiên đồng chủ phúc, Thái Âm chủ điền trạch, nên bất luận vượng hãm nhất định không sợ
thiếu ăn thiếu mặc . Từ nhỏ đã được yêu quí. Tóm lại phúc phận tốt . Nhưng nếu ở Ngọ không
bằng Tý vì Ngọ là chốn hãm của Thái Âm, nên ảnh hưởng lây Thiên Đồng, phần may mắn
không thể bằng cung Tý được.
Về mặt xử thế, không hay cạnh tranh với người, nên có nhiều người thương , ít kẻ ghét.

Ưu điểm : Thông minh hiếu học, đa tài đa nghệ . Phong thái mềm dẻo, không tranh dành hơn
thua với người . Có ý muốn phục vụ, được thân nhân bằng hữu ưa thích . Dễ đạt hạnh phúc.

Khuyết điểm : Thiếu uy, quá dễ tin người, nhận xét sự kiện hay sai lầm . Thiếu khả năng quyết
định, hay ỷ lại kẻ khác . Trốn tránh sự thật đau lòng, mơ mộng quá nhiều . Không chịu nổi hoàn
cảnh khó khăn . Hay dính líu đến những hoàn cảnh tình cảm rắc rối.

23/ THIÊN ĐỒNG CỰ MÔN (Cự Đồng)

Hai sao chỉ cùng cung tại Sửu Mùi, là mộ địa, biểu tượng sự bảo thủ, lại cùng tĩnh diệu, chủ sự
bình hòa, không mang tham vọng lớn . Cá tính thiếu chuyên nhất, nên khó phát huy khả năng,
thường chỉ đạt mức trung bình về mọi mặt.

Sửu Mùi là vị trí hãm của cả hai sao . Thiên đồng hãm gây ra khuynh hướng thay đổi đường lối
không đúng lúc; Cự Môn hãm gây ra khuynh hướng hay lo nghĩ vẩn vơ . Cá nhân có hai mặt :
Bên ngoài là sự xung động, bên trong là sự cô độc không tìm được người chia sẻ.

Cách xử sự không được phân minh, rất dễ khiến người khác hiểu lầm. Hay nhất là yên phận thủ
thường thì đời sống có thể ổn cố bình an.

Ưu điểm : Hầu hết đều có tâm lý bằng lòng với thực tại, ít tham lam, không tranh dành với kẻ
khác . Đối xử dung hòa với mọi người.

Khuyết điểm : Nhiều mơ ước ấu trĩ . Thiếu tự tin, không dám biểu lộ quan điểm riêng của mình .
Cách suy nghĩ cũng như hành động đều bất định. Lý trí yếu, không đủ kềm hãm con tim; dễ bị
thua thiệt trong tình cảm . Thiếu khả năng lãnh đạo, điều hợp . Không thể đảm nhận việc quan
trọng.

24/ THIÊN ĐỒNG THIÊN LƯƠNG (Đồng Lương)

Chỉ cùng cung tại Dần Thân, thuộc "tứ mã địa", đại biểu của khuynh hướng chuyển biến, nên
mặc dù có tính bảo thủ đời sống lại có nhiều thay đổi.

Thiên Đồng vốn thụ động, an phận thủ thường; trong khi đó Thiên Lương mang nhiều ước vọng
cao vời, cá nhân vì vậy có tâm lý rất phức tạp, nhiều khi đổi thay chỉ vì cá tính, nhiều khi đổi
thay vì muốn thăng tiến sự nghiệp . Nói chung, những đổi thay thường có đắn đo kèm theo, nên
thiếu sự bình tĩnh vốn là đặc tính của cả hai sao khi đứng riêng rẽ . Nhưng số may mắn, đổi thay
đa số dẫn đến kết quả tốt, vô hình chung khiến con người trở thành kinh nghiệm , lịch duyệt.

Đây là loại người dấu kín nội tâm . Bề ngoài mềm mỏng, ít gây thù oán.

Ưu điểm : Có lòng tốt, thích giúp đỡ kẻ khác, thị phi phân minh . Biết chỗ đứng của mình , ít giữ
thù hận trong lòng . Không tranh chấp. Đối xử hòa đồng với mọi người.
Chịu khó học hỏi . Cá tính kiên nhẫn . Có duyên gặp gỡ và hòa hợp với nhiều loại người, già
cũng như trẻ.

Khuyết điểm : Lòng tự tôn quá caọ Tâm tư bất định . Ước muốn không rõ ràng . Thường hành sự
cô độc . Cho dù có ý muốn hợp tác với người khác, thì khi vào việc vẫn có khuynh hướng chạy
làng . Có nhiều duyên với người khác phái, nhưng vì vậy mà tình cảm thường gặp phức tạp .
Trong khi đó tâm giao , tri kỷ thì lại hiếm hoi.

Chú thích của Thanh Y:

(1) Xác suất đồng cung của 11 chính tinh còn lại đều là 50%.

(2) "Luận thiên thuyết địa thoại tử vi", Lý Phật, Dân sinh báo Phụ nữ Tùng thư, Đài Loan, 1993
(Hán văn) . Sách gồm 2 tập, tài liệu được sử dụng nằm trong tập 2.

(3) Trường hợp thủ cung Thân hoặc cung Phúc đức cũng tương tự, nhưng dĩ nhiên nhẹ hơn, vì bị
chế hóa bởi đặc tính của cung Mệnh.

(4) Đây là đặc điểm của mọi trường hợp có Phá Quân cùng cung . Ở buổi thiếu thời Phá Quân là
khuynh hướng lấn át , nên đời sống nhiều xung động, nhưng từ tuổi lập thân (30 trở đi) khuynh
hướng của cá nhân sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sao còn lại . Về già người Tử Phá sống theo
khuynh hướng cô độc của Vũ khúc, người Liêm Phá sống theo khuynh hướng khắc kỷ của Liêm
Trinh chính vì lẽ ấy.

10 cách hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng


Bài viết này dành cho những người có cung phu thê (đường vợ chồng) không được hoàn hảo hay
khiếm khuyết về 1 mặt nào đó (mà tôi tin số này chiếm đa số chúng ta).

Còn với những người sinh ra đã được định sẵn là sau này sẽ lấy được 1 người bạn đời tâm đầu ý
hợp và 2 người sẽ sống hạnh phúc cho đến đầu bạc răng long mà không cần phải cố gắng gì (tôi
tin số này chiếm thiểu số rất nhỏ), thì bài viết sau hy vọng cũng bổ ích để làm cho cái duyên nợ
vợ chồng tốt đó càng được tốt hơn.

1. Lấy chồng/vợ già (lớn tuổi)

Thông thường người ta càng lớn tuổi càng có xu hướng chiều chuộng người bạn đời hơn. Càng
lớn tuổi, ta càng bớt đi tính “ngựa non háu đá”, bớt đi những ý thích, ham muốn bồng bột thời
trẻ, bớt đi tính nhõng nhẽo, trẻ con, bớt đi tính “sớm nắng triều mưa”, bớt đi tính tự ái, nông nối,
bất cần... Đây là những điều tối kỵ cho 1 hạnh phúc gia đình bền vững.

Theo tôi vợ chồng chênh nhau từ 4-11 tuổi là hợp lý, từ 12 trở lên là bắt đầu cách nhau 1 thế hệ,
sẽ dẫn đến khó nói chuyện và chia sẻ tâm tư, tình cảm, sở thích với nhau.

2. Lấy chồng/vợ muộn


Thông thường việc lập gia đình muộn sẽ tránh được việc lập gia đình nhiều lần (2, 3 đời
chồng/vợ). Tôi thành thực tin rằng nếu tôi lập gia đình sớm (ở độ tuổi 20-30) thì bây giờ xác suất
sẽ rất cao là tôi đã ly dị (lý do tôi giải thích ở trên và ở dưới đây)

Hiển nhiên khi lập gia đình muộn mình càng có nhiều kinh nghiệm sống hơn. Lúc này mình đã
đạt được độ chín về mặt tâm lý, tình cảm, càng biết rõ mình muốn gì, mình cũng có xu hướng
biết nhường nhịn hơn. Đây là những phẩm chất rất cần có ở 1 người bạn đời để cả 2 cùng gây
dựng 1 gia đình hạnh phúc.

Vậy muộn là bao nhiêu? Theo tôi con gái trên 28 tuổi, con trai trên 30 tuổi thì được coi là muộn.

3. Lấy chồng/vợ xa

Ai biết qua về bói toán đều biết 1 trong những cách để hóa giải lá số có cung Phúc Đức (cung
quan trọng nhất trong 1 lá số) xấu là nên rời quê hương bản quán để lập nghiệp ở phương xa.

Có lẽ đó cũng là lý do các ông thầy bói khuyên các cô/các anh có cung phu thê xấu là nên lấy
chồng/vợ và lập gia đình ở phương xa để thay đổi vận mệnh của mình. Vậy thế nào là xa? Người
hôn phối có quê hương bản quán khác với quê hương bản quán của mình thì gọi là xa, thậm chí
theo tôi lấy chồng/vợ ngoại quốc cũng được (tất nhiên với điều kiện người chồng/vợ ngoại quốc
đó yêu thương mình thật lòng).

4. Mình là người đến sau (lấy người đã từng lập gia đình)

Với người có quá khứ không vui về cuộc hôn nhân cũ, khi mình là người đến sau, người ta
thường có xu hướng yêu thương trân quý những đức tính của mình hơn. Có mất 1 lần rồi, có cay
đắng 1 lần rồi mới biết trân quý cái mình đang có.

Với người đã từng lập gia đình thì những cái xấu (trong cung phu thê của người đó) hy vọng là
đã rơi hết vào người hôn phối trước đó. Giờ đến lượt mình (là người đến sau) thì hy vọng mình
sẽ được hưởng phần tốt đẹp trong cung phu thê của người đó.

5. Trải qua nhiều trắc trở trước khi đến được với nhau

Cái xấu của cung phu thê thường hoặc là ứng với trước hoăc ứng với sau hôn nhân. Vậy thì hãy
để cho những cái xấu đó ứng với trước hôn nhân còn hơn là ứng với sau hôn nhân.

Những lời nói xấu, dị nghị, dèm pha, ngăn cản… của bố mẹ, của bạn bè... khi 2 người đang yêu
nhau không phải là điều đáng buồn đâu mà là đáng vui đấy, nó góp phần làm giảm bớt cái xấu và
tăng thêm phần hạnh phúc khi 2 người sau này chung sống với nhau. Và hãy để cho những hiểu
lầm, xích mích... giữa 2 người xảy ra trước hôn nhân, để 2 người hiểu được lòng nhau và tự vấn
lòng mình xem là liệu mình có chấp nhận được người kia hay không.

6. Lấy chồng/vợ có hình thức (tài năng) bình thường, chấp nhận khiếm khuyết của người
bạn đời
"Vợ đẹp là vợ người ta". "Chồng đẹp trai và tài hoa cũng khó là chồng của riêng mình". Những
câu nói này được đúc kết từ xưa đến nay không phải là không có lý. Vậy thì giữa 2 giải pháp bạn
có thể lựa chọn cho mình giải pháp an toàn hơn là lấy người bạn đời có hình thức (và tài năng) ở
mức trung bình. Người có hình thức trung bình và dưới trung bình thường biết mình là ai và ít
đòi hỏi người khác phải chiều chuộng mình.

Chấp nhận những khiếm khuyết của người bạn đời như khiếm khuyết về gia cảnh, về học thức,
về quá khứ... theo tôi là một cách để ta làm phúc trong cuộc đời này và cũng là một cách để hóa
giải nghiệp xấu về đường vợ chồng. Đi xa hơn, với những cô gái/chàng trai cực kỳ cao số, các
ông thầy bói xưa thậm chí còn khuyên những người đó nên lấy chồng/vợ tàn tật để tránh hình
khắc sau này.

7. Thời gian tìm hiểu đủ dài

Những mối tình sét đánh 2 người gặp nhau, yêu nhau một thời gian ngắn và sau đó lấy nhau sống
hạnh phúc đến đầu bạc răng long ít tồn tại trên thực tế. Ở thái cực ngược lại, nhiều cặp đôi yêu
nhau, tìm hiểu nhau 5-7 năm vậy mà sau khi cưới nhau chỉ vài tháng vẫn ly dị như thường. Yêu
nhau 5-7 năm thì dễ, sống với nhau 5-7 năm mới là khó.

Thức lâu mới biết đêm dài, cần phải có đủ thời gian mới hiểu được lòng người, và càng trải qua
nhiều gian khổ người ta càng có điều kiện hiểu lòng nhau. Việc trải qua thời gian tìm hiểu đủ dài
(theo tôi tối thiểu là 6 tháng) sẽ giúp cho quyết định lập gia đình trở nên chín chắn và đỡ rủi ro
hơn cho sau này. Tất nhiên thời gian tìm hiểu nên hướng vào chất (tức là hiểu về tính nết nhau
được nhiều hay ít) chứ không phải hướng vào lượng (dài bao lâu).

8. Nhường nhịn, nhường nhịn, nhường nhịn!

Một điều nhịn chín điều lành. Theo tôi cho dù cung phu thê có xấu bao nhiêu, trong cuộc sống
vợ chồng mình cứ chịu nhường đi một chút thì thường mọi việc sẽ ổn thỏa. 1 người bạn của tôi
so sánh cũng hay:

"Hãy tưởng tượng hạnh phúc như 1 sợi dây, nếu cả 2 cùng cương cả (cùng kéo cả) thì chắc chắn
sẽ đứt. Chi bằng khi bạn đời mình cương thì mình trùng xuống, khi mình cương thì bạn đời mình
trùng xuống, để duy trì sợi dây hôn nhân."

9. Thay đổi chính mình

Đây là cách khó nhất nhưng cũng là cách công hiệu nhất để hóa giải nghiệp xấu về đường vợ
chồng. Thay đổi chính mình tức là thay đổi quan niệm của mình về người bạn đời lý tưởng, thay
đổi cách nhìn của mình về tình yêu.

Ví dụ nếu mình là người trọng hình thức (là cái sẽ phai nhạt theo thời gian) thì nên thay đổi để
hướng tới việc tìm hiểu tính nết và cách cư xử của người bạn đời (là những giá trị mang tính bền
vững khi chung sống với nhau sau này). Nếu mình là người có xu hướng quan trọng hóa chuyện
tình cảm thì cũng nên thay đổi, nên kết hợp tình yêu với lý trí để cho tình yêu được lâu bền hơn.
10. Các cách hóa giải khác

Tôi cũng nghe nói và chứng kiến một số “thủ thuật” nhằm trách chuyện 2, 3 đời chồng/vợ như
trả lại cau trầu, giả cưới 2, 3 lần… Theo tôi những “thủ thuật” này cũng có tác dụng nhất định,
tuy không “công hiệu” bằng các cách đã đề cập ở trên.

Kết luận

Nào bây giờ bạn hãy thử kiểm nghiệm xem người bạn đang tìm hiểu đạt được mấy điều trong 10
điều "hóa giải" đề cập ở trên? Không phải là tuyệt đối, nhưng tôi tin rằng càng đạt được nhiều
điều, khả năng hạnh phúc sau này của 2 người là càng cao.

Liêm Trinh tọa thủ và cách Hùng tú triều viên

Liêm Trinh thuộc Âm Hỏa kiêm Mộc, hóa khí là ‘tù’ trong hệ Bắc Đẩu, còn mang tên Đào Hoa
thứ hai (sau Tham Lang). Nói theo Tử Vi hệ phái Việt Nam là Đào Hoa thứ ba vì Tử Vi Việt có
hẳn một sao Đào Hoa mà Trung Quốc thường gọi bằng ‘Hàm Trì’. Với Trung Quốc chỉ có 4 chỗ
đương nhiên Đào Hoa ở đây là Tí, Ngọ, Mão, Dậu mà họ gọi bằng bại địa.
Hình dáng Liêm Trinh gầy nhiều xương hơn thịt, mắt lộ hầu lộ. Liêm Trinh cát hung vô định hội
hợp với nhiều sao tốt thì công danh địa vị cao, trong chính giới phát triển tốt, gặp các hung sát
tinh hay bị hoạn nạn tai ách.
Đời Hán nhà dịch học Dực Phụng viết :’Tham Lang thiện hành, Liêm Trinh ác hạnh’. Hai sao ấy
phẩm hạnh đi ngược chiều nhau. Liêm Trinh chủ về phẩm chất sự vinh nhục trên địa vị khi lên
thì tốt, khi xuống thì xấu, Liêm Trinh mang hóa khí là ‘Tù’
Liêm Trinh trên cảm tình, tính tình khi thân cảm tình hòa hiệp, lúc ghét giận thì hung dữ bất
thường. Chất Đào Hoa của Liêm Trinh cũng căn cứ trên tình trạng đổi thay ấy mà định. Liêm
Trinh với nữ nhân biến thái của tình cảm mau và mạnh hơn với nam nhân.
Trường hợp Liêm Trinh đứng với Hóa Kị hoặc gặp Hoá Kị chuyện hôn nhân không tránh khỏi
gãy đổ.( Bản thân tôi cũng chưa kiểm chứng được điều này nếu bạn nào đã có kinh nghiệm luận
giải các lá số có bộ cách này xin chia sẻ cùng tôi ) Liêm Trinh đi với Tham Lang, Thất Sát, Phá
Quân nữ mạng vợ chồng lấy nhau tự nhiên không nghi lễ, hoặc lấy chồng người.
Có câu phú: Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ ( Liêm Trinh ôm chặt khối tình )
Liêm Trinh độc tọa ở Dần Thân
Liêm Trinh đứng bên Thiên Phủ ở Thìn Tuất
Đứng cùng Thiên Tướng ở Ngọ Tí
Đứng cùng Thất Sát ở Sửu Mùi
Đứng cùng Tham Lang ở Tỵ Hợi
Thanh bạch năng tương thủ có hai kết cấu:
- Liêm Trinh đứng một mình ở Dần cùng với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
- Liêm Trinh đứng một mình ở Thân với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
Nói tóm lại, chỉ ở trường hợp Liêm Trinh độc tọa gặp Lộc Tồn mới thanh bạch thôi. Năng tương
thủ có nghĩa là yêu mà bị xa nhau, yêu mà bị thất bại trong tình yêu nhưng vẫn giữ được mối tình
ấy mãi mãi..
Tính chất của Lộc Tồn là đôn hậu, tâm địa chân thành, trân trọng, cẩn thận. Khi đã đi cùng với
các sao khác thì cái điều thanh bạch năng tương thủ của Liêm Trinh, Lộc Tồn bị trộn không còn
thuần khiết nữa. Cách này chỉ áp dụng đối với nữ mạng.
Cách Liêm Sát phú viết : Liêm Trinh Mùi cung vô sát, phú qúy thanh dương phan viễn danh
(Liêm Trinh đóng Mùi – bên cạnh Thất Sát – không gặp hung sát tinh thì phú quí tiếng tăm).
Điểm đáng chú ý không thấy nói tới Liêm Trinh đóng Sửu. Nếu chỉ đóng ở Mùi chưa đủ, cần
phải có Tả Hữu nữa mới thực sự ăn to như câu phú trên đây.
Liêm Trinh tọa thủ hợp cách ở cung Thân và cung Mùi không có sát tinh còn được coi là cách ‘
Hùng tú triều viên’ đời nếm trải gian tân, ngoài tuổi trung niên thành công, thêm Quyền Lộc dĩ
nhiên như gấm thêu hoa, nhưng căn bản cần Tả Hữu đã. Liêm Sát vào Mùi hay Sửu bị Hóa Kị
hay Linh Hỏa Kiếp Không sẽ biến thành cách ‘Mã cách lý thi’ ( Da ngựa bọc thây) đa số vào võ
nghiệp có địa vị cao và rồi chết với nghề. Liêm Sát như thế vào nữ mạng vất vả bôn ba và chết
đột ngột. Liêm Sát ở Mùi sách chỉ nói là con người làm ăn có của ( Tích phú chi nhân ).
Đọc trong ‘Cốt Tủy Phú’ của Đẩu Số toàn thư khi luận về sao Liêm Sát có mấy câu cho ta cảm
tưởng như mâu thuẫn. Những câu ấy là : ‘Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phu chi nhân; Liêm
Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.’ Rồi ở ‘Thái vi phú’ lại viết câu: ‘Thất Sát Liêm Trinh đồng
vị, lộ thượng mai thi’, thật ra những câu phú ấy không mâu thuẫn vì Liêm Sát đồng vị bao giờ
cũng xuất hiện ở hai cung Sửu và Mùi, Liêm Sát ở Mùi mới là miếu địa, Liêm Sát ở Sửu bị vào
thế hãm nhược. Vì Mùi là Mộc cục và Hỏa khố trong khi Sửu là Kim cục và Thủy khố. Liêm Sát
tại Mùi miếu địa nên tích phú, phấn đấu gian khổ thành công.
Liêm Sát Sửu nếu không hội tụ được những cát tinh mà lại bị hung sát kị vây bọc thành ra lữu
đãng thiên nhai, lộ thượng mai thi. Liêm Trinh vào Sửu cung Hỏa bị Thủy khắc.
Cách Liêm Tham (Tỵ hoặc Hợi) cách này đưa đến tình trạng hình tù hay khách tử tha hương.
Liêm Trinh vốn là Đào hoa tinh, Tham Lang cũng lại là Đào hoa tinh. Trước hết tình trạng hình
tù ở tình trường đã, mê đắm sắc dục, bài bạc ăn chơi, mang công mắc nợ, bệnh tật triền miên.
Hình tù có mấy loại:
- Cảnh sát bỏ tù
- Nợ bỏ tù (suốt đời nợ nần)
- Bệnh bỏ tù (đau ốm hoài)
- Vợ hoặc chồng bỏ tù (cuộc duyên giao hãm)
Không cứ phải vào nhà giam mới bị gọi là tù.
Liêm Trinh không ưa Hóa Kị, nhưng ở cách Liêm Tham mà được Hóa Kị lại giảm bớt hẳn
chuyện hình tù. Hỏa hay Linh cũng tạo chuyện tốt hơn cho Liêm Tham. Liêm Tham ở Hợi hội
với Kình Dương Mão, đàn ông tù tội, đàn bà phong trần, hoặc Kình Dương Dậu hội với Liêm
Tham ở Tỵ cũng thế. Có lập luận cho rằng Liêm Tham Tỵ nặng hơn Hợi, lập luận này không
vững lắm.
Tham Lang là Đào hoa tinh, Liêm Trinh cũng là Đào hoa tinh. Nay hai đào hoa tụ lại một chỗ ở
Hợi, cổ nhân gọi bằng phiếm thủy đào hoa (hoa đào trên sóng nước) thường là con người đam
mê tửu sắc, bài bạc khác với ở Tỵ ưa mạo hiểm vướng vít vào những rắc rối luật pháp. Bởi thế
Liêm Tham Tỵ dễ bị tù hơn ở Hợi. Cũng có thuyết cho rằng Tham Lang cung Tí mới gọi bằng
phiếm thủy đào hoa. Tí hay Hợi đều thuộc thủy nhưng ở Hợi có lý hơn vì ở Tí chỉ có Tham Lang
đứng độc thủ. Tham Lang tại Tí cũng đam mê sắc tình nhưng nhẹ hơn Liêm Tham Hợi. Tham
Lang Tí ưa phét lác hơn thực sự hành động.
Trường hợp người tuổi Giáp lại gặp cách Liêm Tham Hợi lại thường phong lưu vì một Lộc ở
Mệnh môt Lộc theo thế nhị hợp chưa kể đến hai sao Quyền Khoa hội tụ.. Tại Tí tuổi Giáp không
phong lưu như Hợi (thiếu mất Lộc Tồn), công danh lận đận nhưng cũng đáng nể.
Liêm Trinh đứng ở bốn cung vượng Tí Ngọ Mão Dậu thế nào? Đứng Mão Dậu với Phá Quân,
đứng Tí Ngọ với Thiên Tướng. Liêm Phá là con người tinh thần mạo hiểm cao, ưa xông xáo,
thông tuệ nhưng học hành thường thôi, hay làm liều, lợi mình trước đã dù có hại người. Liêm
Phá có thể là tay sai đắc lực, nhưng không thể thành người bạn tâm giao với ai, có nhiều nghị lực
phấn đấu.
Liêm Phá hợp với tuổi Giáp và Ất. Ất tốt hơn Giáp nếu Liêm Phá đóng ở Mão cung. Liêm Phá
sợ gặp Hỏa Tinh, nếu gặp dễ bị tai nạn hoặc ốm đau dữ dội với những bệnh hiểm nguy. Phú có
câu: Liêm Phá Hỏa cư hãm địa tự ải đầu hà (Liêm Phá hội Hỏa Tinh bị tai nạn đến độ phải tự
sát). Cái nghĩa đâm đầu xuống sông, treo cổ chỉ nói lên tình trạng hiểm nguy chứ không nhất
định phải vậy.
Liêm Hỏa Không Kiếp Phá Quân
Hãm cung thắt cổ nợ trần hết duyên
Liêm Phá tại Mão Dậu cung
Sát tinh cùng hội công danh khó màng
Sát tinh ý chỉ Kình Đà Không Kiếp. Tuy nhiên đối với các tuổi Giáp Ất lại không thể ứng dụng
những lời ca trên. Tử Vi đẩu số toàn thư có đưa ra một câu phú:
Liêm Trinh Tham Sát Phá Quân phùng
Văn Khúc Thiên Di tác cự nhung
( nghĩa là Liêm Trinh hội Tham Lang, Thất Sát hay Phá Quân, nếu tự cung Thiên Di lại xuất hiện
Văn Khúc thì…)
Mấy chữ ‘tác cự nhung’ không thể giảng giải ra được. Chỉ khả dĩ ghép hai chữ ‘cự nhung’ thành
chữ tặc (làm giặc) thì mới có lý thôi. Ý chỉ nếu Liêm Tham Sát Phá gặp nhau lại thêm Văn Khúc
xung chiếu Mệnh thì có khuynh hướng làm loạn, làm giặc. “Cự nhung’ cổ nhân tách chữ tặc ra
cho vần điệu với âm thanh ‘phùng’ ở vế trên.
Liêm Phá vào nữ mạng tháo vát, nhưng tính không nhu thuận đưa đến những khó khăn trong
cuộc sống duyên tình. Liêm Trinh hợp với hai sao Thiên Tướng và Thiên Phủ. Chỉ đi với hai sao
này Liêm Trinh không gây tác hại.
Phú trong Tử Vi đẩu số viết :”Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ sinh nhân phú vạn kim”
(Thiên Phủ đóng ở Tuất mà người Giáp Kỷ giàu có).
Thiên Phủ ở Tuất đương nhiên phải đứng với Liêm Trinh. Tuổi Giáp Hóa Lộc ở Mệnh. Lộc Tồn
cung Dần hội tụ theo thế tam hợp. Tuổi Kỷ Lộc Tồn chiếu từ Ngọ, Hóa Quyền chiếu từ Dần.
Thiên Phủ tại Thìn với tuổi Giáp không có Song Lộc, với tuổi Kỷ Tử Vi hãm. Xem như vậy thấy
rằng Liêm Trinh phải đi với Lộc mới hay. Câu phú chỉ nhắc đến Thiên Phủ, không nhắc đến
Liêm Trinh, đó là một lối ẩn ý của cổ nhân. Sự thật là Liêm Trinh đóng vai chủ chốt.
Liêm Trinh hội Lộc tiền bạc hoạnh phát, Thiên Phủ thành ông thần giữ kho. Liêm Phủ khi đã nên
công thì cơ nghiệp bền không thăng trầm. Liêm Trinh đứng cùng với Thiên Tướng tại Tí Ngọ thì
Ngọ hay đẹp hơn cho tuổi Giáp vì Giáp có Song Lộc ở Ngọ.
Kỷ Lộc Tồn tại Mệnh cung, cái thế gần cận mạnh hơn chiếu. Tuy nhiên cách Liêm Phủ với Liêm
Tướng có một khác biệt ấy là: Liêm Phủ trong cuộc phấn đấu gặp may nhiều hơn như thuyền đi
gió đẩy. Trong khi Liêm Tướng dùng mồ hôi sức lực để thành công như thuyền phải chèo.
Liêm Tướng nữ mệnh đàn bà giỏi trị gia gánh vác tự tay gây dựng cơ nghiệp và ít được nhờ
chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh phúc. Liêm Tướng nếu không phải tuổi Giáp Kỷ thì
vất vả hơn. Liêm Phủ nếu không phải tuổi Giáp Kỷ chỉ ở mức tiểu phú quí thôi.
Về Liêm Trinh còn những điều cần biết như sau:
- Phú viết: Liêm Trinh Bạch Hổ hình tượng nan đào (Liêm Trinh gặp Bạch Hổ hay bị dính vào
pháp luật, tù tội hoặc bị phạt tiền). Bạch Hổ ở câu phú này chỉ lưu niên Bạch Hổ chứ không phải
Bạch Hổ đóng ngay tại Mệnh.
- Riêng Quan Lộc tinh mà Liêm Trinh gặp Kình Dương thì thường bị thưa gửi, kiện tụng hoặc
mất quyền chức.
- Liêm Phá, Liêm Sát vào cung Thiên Di tất phiêu lãng quê người như phú có câu: Liêm Trinh
Phá Sát hội Thiên Di tử ư ngoại đạo”, phiêu lãng hoài, đương nhiên không phải chết nơi quê
hương bản quán, chứ không phải tử ư ngoại đạo là chết đường chết chợ.
- Liêm Trinh ở hãm cung mà gặp Hóa Kị Văn Khúc biểu thị con người tham lam vô độ, chỉ ưa
tiện nghi không chịu được kham khổ, dễ vì tiện nghi mà phản bội. Liêm Trinh đứng cùng với các
sao đào hoa như Tham Lang, Đào Hoa đàn bà hay có bệnh máu huyết, đàn ông bệnh thận.

Người đời sau đưa thêm ra một số phú đoán về Liêm Trinh:
- Liêm Trinh Phá Quân hiểm phòng vô hạn.
(Số có Liêm Phá ở Mệnh luôn luôn phải đề phòng những hiểm nguy)

- Liêm tại Cấn, Khôn cung, nữ mệnh trích lệ thương phu, nhược lại cô quả không môn tiềm ẩn;
nam nhân bất đa truân tai ách ư thương lê
(Liêm Trinh độc thủ Dần hay Thân, số gái dễ xa chồng phải nhỏ nước mắt thương nhớ, nếu lại
gặp phải Cô Thần Quả Tú thì xa hẳn hoặc góa chồng. sống đơn độc, trai được vợ hiền mà vợ lại
chết sớm)

- Liêm tọa Thân cung phùng Phụ Bật


Cách kiêm Hóa cát phúc quang vinh
(Liêm Trinh tọa thủ ở Thân có Tả Phụ hay Hữu Bật mà được Hóa Lộc, Hóa Quyền hay Hóa
Khoa thì giàu sang)

- Liêm Sát Sửu Mùi, Ất Kỷ âm nam khí hùng trí dũng, Tuần Triệt vô xâm kiêm hữu Khoa Sinh
hạn đá danh tài tốc phát
(Liêm Trinh Thất Sát đồng Sửu hay Mùi không bị Tuần Triệt anh hùng trí dũng tuổi Ất, tuổi Kỷ
gặp vận hạn có Hóa Khoa Tràng Sinh thì phấn phát mau chóng)

- Liêm phùng Văn Quế cánh bôn ba


(Liêm Trinh đứng bên Văn Khúc càng bôn ba)

- Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu hội Tướng Quân


(Liêm Trinh đứng miếu địa cùng sao Tướng Quân là người anh hùng dám đương đầu như thầy
Trọng Do học trò Khổng Tử)

- Vương Lương ải ngục Liêm Trinh hãm Địa Kiếp ư Hỏa cung
(Liêm Trinh đóng Tỵ gặp Địa Kiếp như vl ngộ nạn trong ngục thất)

- Liêm Trinh Tỵ Hợi chớ bàn


Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục trường

- Công danh đợi tuổi tác cao


Giáp Liêm giáp Sát đoán nào có sai
(Mệnh cung bị Liêm Trinh, Thất Sát giáp thì về già mới nên công danh)

- Liêm Hao Tài Bạch cùng ngồi


Phá tan tổ nghiệp ra người lãng nhân
(Liêm Trinh Phá Quân vào Tài Bạch phá tổ nghiệp bỏ quê hương mà đi)

- Tham Liêm đồng độ đảo điên


Trai thì phiêu lãng gái duyên dâm tàng

Bàn luận thêm về cách Hùng tú triều viên


“Hùng Tú triều viên cách” – Tức là Liêm Trinh tại hai cung Mùi-Thân thủ mệnh. Cổ ca nói
rằng :"Thân Mùi liêm trinh đắc địa phương, túng gia thất sát bất vi hung, thanh danh hiển đạt
phong vân viễn, nhị hạn ưu du phú quý trung."

Tức là : Liêm trinh đắc địa tại hai cung Thân – Mùi, dù cho có gia Thất sát thì cũng chẳng thành
hung cách được. Thanh danh ắt sẽ hiển đạt, tiếng tăm vang xa. Nhị hạn đi đến đấy chắc sẽ được
phú quý cả hai đằng.

Liêm Trinh được gọi là Hùng Tú, là bởi vì nó có tính uy vũ, nguyên do Phá Quân là “Anh Tinh”
sát khí lớn hơn tính chất “hùng tú” của Liêm Trinh. Phản ánh trên cuộc đời, người gặp phải Liêm
trinh thủ mệnh thì tính tình bình hòa hơn, cuộc đời cũng ít bôn ba trắc trở.

Tại cung Liêm trinh đóng mà gặp Thất sát, bởi vì Liêm Trinh là Âm Hỏa, có khả năngrèn đúc
cho Thất sát Âm Kim, biến Thất sát thành dụng cụ. Khi Liêm trinh và Thất sát đồng cư ở Mùi thì
cố nhiên là có năng lực rèn đúc. Còn nếu Liêm trinh cư tại Thân, Thất sát cư Ngọ cũng có năng
lực luyện kim, vì thế mà cổ nhân cho đó là cách đẹp.

Nguyên nhân tại Sửu cung cũng có Liêm Sát đồng cung như lại không được cho là đẹp, là bởi vì
tại Mùi là đất Mộ của hành Mộc, Mộc sinh Hỏa, có lợi cho Liêm Trinh ( tam hợp Mộc cục là Hợi
– Mão – Mùi, trong đó Mùi là Mộ) còn Sửu là Mộ của hành Kim bất lợi đối với Liêm Trinh.

Nếu Dần cung mà gặp Liêm Trinh thì Thất Sát đóng tại Tý, cũng không phải là cách đẹp, nguyên
do là vì nếu tại Thân thì Thân thuộc Kim mới có lợi cho cái sự rèn luyện của Liêm trinh (còn
cung Dần thuộc mộc – bất lợi cho Liêm).

Cổ nhân luận đẩu số, đôi khi rất coi trọng Ngũ hành sinh khắc, mà cách này (hùng tú triều viên)
là một ví dụ. Tuy nhiên, người sinh vào cách này, tất phải trải qua giai đoạn gian nan nguy hiểm
rồi sau mới thành. Đây là đặc điểm cơ bản của cách này.

Cách xem hạn hôn nhân


Những sao thể hiện hôn nhân: Đào hoa, Hồng loan, Long trì, Phượng các, Song hao, Thiên hỉ,
Hỷ thần.

Những sao trợ giúp hôn nhân: Tả Phù, Hữu bật, Thiên riêu, Thai

Những sao cản trở hôn nhân : Thái Tuế, Thiên hình, Phá Toái, Kiếp sát, Hoá Kỵ, Tang Môn,
Địa kiếp, Địa không.
Những sao góp phần dẫn đến việc khó kết hôn: Lộc tồn (chậm trễ), Đẩu quân, Cô thần - Qủa tú,
Thiên hư, Thiên khốc.

Một số hạn hôn nhân:

Hạn (kết hợp cả Đại hạn, tiểu hạn, Lưu niên đại hạn) gặp: Đào hoa (Hồng loan), Long trì,
Phượng các, Thiên hỉ, Hỷ thần (hiện nay các hạn diễn ra kết hôn thường kèm theo cả Tấu thư -
đăng ký kết hôn). Có thêm Tả phù, Hữu bật khi kết hôn thường được nhiều sự trợ giúp (nếu thêm
Hoá kỵ thì hôn nhân sẽ bị nhiều người cản trở - nhất là khi Hoá kỵ đóng cung Phu (thê), thêm
Đại - tiểu hao sẽ có lợi trong việc chi thu tài chính (nếu có Địa không, Địa kiếp thì sẽ gặp nhiều
khó khăn về tài chính).

Hạn đến hôn nhân cho dù hội đủ các sao tốt nhưng kèm theo Thái tuế, Hoá kỵ, Địa Không, Địa
kiếp thì cũng khó thành nhất là gặp thêm cả Tang môn, Bạch hổ, Thiên khốc, Thiên hư.

Hôn nhân thường thể hiện rõ khi Lưu niên Thái tuế rơi vào cung Phu( thê) hoặc cung Tài (khi
cưới vợ thường phát tài), hoặc Đại hạn, Lưu niên đại hạn, niên hạn đến cung Phu thê kết hợp với
những sao hôn nhân hoặc trợ hôn.

Trường hợp Mệnh có Đào hoa, Hồng loan thì khi hạn hội tụ nhiều những sao trợ hôn hoặc hạn
đến cung Phu (thê) mà không gặp sao cản trở, dễ diễn ra chuyện kết hôn.
Khi luận cung Phu (thê) cần chú ý đến Tuần - Triệt, nếu cung Phu (thê) có những dấu hiệu nhiều
lần kết hôn, hoặc xung khắc nhưng bị Tuần -Triệt ngăn cản: Tả phù, Hữu bật, Tang môn, Thiên
Mã, Thiên khốc, Thiên hư không xâm phạm được để tạo thành cách cục rõ ràng thì chỉ kết hôn
một lần và không khắc. Ngược lại, cung Phu thê có nhiều sao tốt hội tụ mà bị Tuần - Triệt ngăn
cản thì cũng giảm tốt.

Ở đây tôi xin bàn thêm về sự liên quan giữa sự nghiệp của vợ (chồng) sau khi lập gia đình. Trên
lá số tử vi cung Quan lộc (chỉ công việc, sự nghiệp) bao giờ cũng ở vị trí chính chiếu với cung
Phu thê. Khi cung Quan và cung Phu thê không bị Tuần - Triệt thì sẽ xảy ra những khả năng sau:

- Cung Phu thê tốt, tại bản cung có nhiều cát tinh hội tụ về cung Quan thì sau khi lập gia đình sự
nghiệp của người đó sẽ thăng tiến hơn nhờ sự trợ giúp của vị hôn phu. Ngược lại, cung Phu thê
có nhiều sao xấu thì sau khi lập gia đình, sự nghiệp của người đó sẽ đi xuống do sự cản trở của vị
hôn phu hoặc phải lo lắng nhiều về vị hôn phu mà dẫn đến công việc không được thuận lợi.

- Cung Phu thê không quá tốt nhưng cũng không có nhiều hung sát tinh đóng tại bản cung thì
thường là người lấy được vợ (chồng) hiền nhưng không trợ giúp được cho chồng (vợ) trên con
đường sự nghiệp. Và nếu cung Quan, cung Mệnh tốt thì chính người vợ (chồng) sẽ được vinh
hiển nhờ vào địa vị của đương số. Trường hợp này thường thấy ở những người có quyền cao
chức trọng nhưng lấy vợ (chồng) hiền, có địa vị bình thường. Hoặc cung Phu (thê) tuy không tốt
nhưng có nhiều cát tinh ở các cung Quan, Di, Phúc đức hội tụ làm cung Phu (thê) trở nên tốt đẹp
thì đó là số của những người có tướng vượng phu hoặc giúp vợ.

Trường hợp cung Mệnh tốt, cung Quan tốt, cung Phu thê tốt, thể hiện cuộc hôn nhân đó là sự kết
hợp xứng đôi vừa lứa, cả hai vợ chồng đều là những người thành đạt, có danh tiếng. Nhưng nếu
trong cung Phu thê có kèm theo nhiều sao chỉ sự hình khắc, bất hoà như Thái tuế, Phá Toái...thì
vẫn có sự khắc khẩu, tranh cãi. Cung Phu thê lại nằm trong thế Long đức - trực phù - thiếu âm
thì tuy lấy được vị hôn phu phú quý nhưng cũng không cảm thấy hạnh phúc về mặt tinh thần.

Cung Phu thê cũng như cũng Mệnh thay đổi theo từng vận trình, không cố định. Những tính chất
thể hiện trong cung Phu thê chỉ mang tính ước định khái quát chứ không nhất thiết cố định như
vậy. Muốn biết rõ hơn về cung Phu thê phải kết hợp với các cung vận. Nếu cung Phu thê thể hiện
sự phú quý nhưng vận gặp Địa kiếp, Thiên không, Đà la thì cũng vẫn phải gian lao vất vả.
Ngược lại cung Phu thê yếu kém nhưng hạn gặp Khoa - Quyền - Lộc thì vợ (chồng) cũng là
người có địa vị....

Lược trích từ Tử Vi Chân Thuyên

Giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN : Một vài khía cạnh cần nhớ ...!?

Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về Tử-Vi, tôi có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn (tức
là Đại Tiểu Hạn) khó khăn, phức tạp, nhất là vì ta phải cân nhắc và phối hợp qúa nhiều yếu tố,
mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này, nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và
không được rõ ràng. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp
sao kia phát tài, hoặc Đại hạn nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt
cũng không hay … như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản dị,
dễ dàng và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần Tử-vi.

Vi vậy tôi cố gắng thử triển khai cách giải đoán Đại Tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập đến
Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng
sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra để cho khỏi rườm rà.
I/- ĐẠI HẠN :

Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đoán hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10
năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở
một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy
nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô
cùng.

Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :

- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc
các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)

* Ghi chú :
– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng,
Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá
Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã
có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy
bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :

1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao,
hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với
các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi
thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng
ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt
Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu
thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có
cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều
kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của
chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu
đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ
khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục
(nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay
nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không
phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi
nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là
Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung
khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc
phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề
gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên
dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ
Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc
thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm
sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn
chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.
Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên
Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương
số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh)
cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng
Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ
hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao
phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống
không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn,
đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới
nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung
Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm
Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả
giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi
khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có
thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là
trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là
nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có
Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! ,
nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa
tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách
chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải
đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới
xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi
nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .

Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương
diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là
cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân,
Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-
Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái
đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị
các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một
không chừng !?..

6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và
tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống
như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy
phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung
xung chiếu, nhị hợp ...
* Cách Lưu Đại hạn hàng năm : Bạn đọc tham khảo các sách Tử vi (tôi không nhắc lại)

* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba
yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.
II- TIỂU VẬN

Bàn về Tiểu-Hạn (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn Đại-
Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.

Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu,
Dần, Mão ….) Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc
thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh, và Lưu Đại Hạn
không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công
danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì
đáng phải lo ngại, bởi vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu,
nhị hợp....

Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì Tiểu-Hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy
tắc đã được các sách đã nêu ra) :

- Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn


- Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
- Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
- Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu
Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách
thường nêu ra.
- Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)

Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng :
1- Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn
theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng,
cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc
dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này
tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng.

Ví dụ : Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động.
Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ
về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị,
Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn
dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …

Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :

– Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn
phát tài, dễ dàng.
– Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh
mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc …
thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …

- Nếu thấy các sao nhập Đại Hạn & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh
(không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của
Tiểu-Hạn hay không.

- Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng
chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong
sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế
Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.

- Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp
đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc )

Ví dụ : Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức
thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ
Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như
vô vọng ?) mới hạnh thông được.

- Sau hết, tôi xin nêu ra một trường hợp rất khó đóan : Đương số Mệnh có Tham Lang cư Thìn,
tức là tổng quát sống lả lướt và Đào-Hoa. Cung Thê có Đào-Hồng, Tả-Hữu chiếu tức là có sự lựa
chọn, mai mối nhiều và Đại-Hạn lại đi tới cung Thê như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân.
Do đó các thày Tử-vi đều đóan đương số lấy vợ ở các Tiểu-Hạn có : Đào-Hồng-Hỷ, Tả-Hữu,
Xương-Khúc … nhưng ai ngờ rằng, đương số lại lập gia đình trong Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Tang-
Hổ, Nhật-Nguyệt hãm địa hội Hóa-Kị và lại không ngó thấy ở cung Thê (vì thường thường các
nhà Tử-vi hay lựa Tiểu-Hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cùng Phối để
đóan hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận một chút là thấy hợp lý vì
theo nguyên tắc “ Tổn hữu dư, bổ bất túc “ trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân qúa
nhiều (tức là dư) thì cần phải có các sao tiết giảm như Cô-Qủa, Tang-Hổ, Kị … thời con thuyền
mới có bến đậu được, chứ không “Trăm mối tối nằm không” nhất là Tiểu-Hạn vào cung Giải-
Ách, tức là tránh né không nhìn thấy cung Thê là cung Đại-Hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng
qúa mạnh của các sao Hỷ. Trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp, nên quý bạn đừng qúa
hoang mang, cứ đóan như thường lệ đi !!!...

2- Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã
hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ
nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai
chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình
có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá
(như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng
cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con
đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần
sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các
sao ở Tiểu-Hạn.

- Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là
tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như
Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.

Ví dụ : Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho
con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì
con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu,
chết non hay con cao bồi du đãng, ăn chơi, hút chích, sì ke ma túy ….. mà mình vẫn thương yêu
chúng )

- Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi
tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như
Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu
xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây quý bạn cũng có
thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).

3- Về vần đề Lưu Đại-Hạn, Địa bàn (tức là Tiểu-Hạn theo vị trí cố định của các cung - tức Lưu
Thái tuế theo từng năm, như năm nay Đinh Hợi xem Địa Bàn ở cung Hợi-tức Lưu Thái Tuế ở
cung Hợi kích động) và Thiên Bàn (tức là Tiểu-hạn theo hàng Chi an ở ô giữa lá số. Tôi thấy
không quan trọng lắm. Vì thực ra chỉ xét kỹ Thiên Bàn là đủ và đỡ rắc rối qúa mức. Chỉ trừ khi
nào ta thấy Thiên bàn qúa xấu hoặc không rõ chút nào, lúc đó ta mới cần kết hợp thêm Lưu Đại-
Hạn, và địa bàn để xem có yếu tố gì cưu giải hoặc soi sáng thêm hay không ..?? Về cách Lưu
Đại-hạn trong các sách như Tử-vi đã có ghi rõ và nêu rồi, tôi không nhắc lại nữa.

Bởi thế ngay khi rảnh rang ngồi cân nhắc kết hợp cũng chưa chắc đã giải đóan được chính xác.
Vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố kia sẽ đưa đến những kết luận khác nhau. Dù có biết đủ
các dữ liệu để giải đoán Tiểu-hạn cao hay thấp còn tùy thuộc rất nhiều vào óc kết hợp tinh vi và
kinh nghiệm của người giải đóan.

4- Về ngũ hành của hàng Can. Năm nhập hạn cũng ảnh hưởng tới Tiểu-hạn nhiều hay ít .

Ví dụ dễ hiểu như sau : Một người mạng Kim có Cự Môn, Hóa-kỵ tọa thủ tại Mệnh. Đại-hạn có
Không-Kiếp, Tả-Hữu, Sát Phá Tham (tức là hạn Trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm-
Thân. Vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim là sinh
Thủy cho nên nước qúa nhiều thì Kim phải chìm lỉm !?..

Suy ra những trường hợp khác cũng vậy. Ví dụ như Tiểu-Hạn đến cung Điền có Tang-Hỏa và
nhiều sao Hỏa. Nếu gặp năm Nhâm, hoặc Qúy (đều là Thủy) thì vẫn không đáng ngại về hỏa
họan vì đã được Thủy dập tắt rồi !. Như vậy mục 4 này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đóan
tiểu hạn, và đây cũng là một điểm cho thấy hai tiểu hạn (12 năm trở lại ) cùng 1 cung đã có sự
khác biệt rồi.

5- Phần chót là về các phi tinh (tức là các sao Lưu như Lưu Thái-Tuế, Lưu Lộc Tồn …) Tôi thấy
các Phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định thêm một chút những yếu tố đã tìm ra. Ví
dụ như biết hạn xấu rồi, thì nếu có thêm Lưu Kình-Dương gặp Kình-Dương cố định đồng cung ta
có thể tin chắc là nguy nan. Nếu Tiểu-Hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có
Nhà Tử-vi căn cứ vào vòng Tràng Sinh (Lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực
tiếp với mình như cha, mẹ, vợ con … Nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin
miễn bàn trong mục này.

Qua những điều tôi trình bày trên đây về Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn
rất rắc rối và khó khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra
thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới thấy rõ cái hay
của Tử-vi, và vì thế tôi thấy học Tử-vi không gì hay bằng chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà
mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách
đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ có thể giải đoán vững vàng./.

XÉT VỀ ĐẠI TIỂU HẠN

Những cách tính đại hạn


Đại hạn lưu niên là gì và các lưu tinh là gì?
(Anh-Việt)
Trong số các thư của bạn đọc hỏi về Tử Vi, chúng tôi có tiếp nhận được hai loại:
- Một loại nêu lên một vài sự khác biệt về những điều chúng tôi nêu lên với những điều bạn đọc
thấy trong các sách. Xin quý bạn theo dõi hai bài của ông Ân Quang trong tập trước và trong tập
này, nói về những khác biệt trong các sách và tùy theo thầy Tử Vi. Xin kể như đó là câu trả lời.
- Quý bạn hỏi về cách giải đoán đại hạn và tiểu hạn, điều mà con người thích biết hơn hết. Thắc
mắc của quý bạn cũng do chỗ đọc các bản giải đoán những lá số nêu sẵn, thấy có ghi đại hạn, đại
hạn lưu niên và các lưu tinh (phi tinh) mà các bạn chưa rõ đó là những gì. Dưới đây là bài đầu
tiên để trả lời các bạn về câu hỏi đó.

Đại hạn
Xét vận mạng của con người, có cung Mạng, cung Thân, cung Quan, và luôn cả các cung khác,
ngoài ra, về thời gian cuộc đời, có chia ra từng khoảng 10 năm. Các bạn biết cách đặt các cung
đại hạn đó, đặt số đầu là số Cục, và cứ mỗi cung thêm 10, kể từ cung Mạng, theo chiều thuận nếu
là Dương Nam, Âm Nữ, và theo chiều ngược nếu là Âm Nam, Dương Nữ.
Thí dụ: Thủy nhị Cục (2) Âm Nam, thì đề số 2 tại cung Mạng, và theo chiều nghịch, các cung
sau là các số 12, 22, 32, 42, 52, v.v…

Như vậy có nghĩa là xem đại hạn 2-11 tuổi tại cung Mạng, 12-21 tuổi tại cung Huynh Đệ, 22-31
tuổi tại cung Thê, 32-41 tuổi tại cung Tử Tức, 42-51 tuổi tại cung Tài Bạch, 52-61 tuổi tại cung
Giải Ách, v.v… (Dĩ nhiên, xem cung chánh và 3 cung chiếu).

Tiểu hạn
Tiểu hạn là vận hạn trong 1 năm. Chúng tôi đã có nêu cách ghi tiểu hạn, mỗi năm ăn vào 1 cung
chánh và 3 cung chiếu. Cách tính như sau:
- Nếu năm sinh là Dần, Ngọ hay Tuất thì để tên năm sanh của mình vào cung Thìn, ở khoảng
vành trong.
- Nếu năm sanh là Thân, Tý, Thìn, để tên năm sanh của mình vào cung Tuất.
- Nếu năm sanh là Tị, Dậu, Sửu, để tên năm sanh của mình vào cung Mùi.
- Nếu năm sanh là Hợi, Mão, Mùi, thì để tên năm sanh vào cung Sửu.
- Rồi cứ thế mà ghi các năm theo đúng hàng địa chi, mỗi cung một năm, Nam theo chiều thuận,
Nữ theo chiều nghịch.
- Thí dụ: Đàn ông tuổi Kỷ Mùi, bạn đề chữ Mùi vào cung Sửu, rồi viết tiếp theo chiều thuận theo
hàng địa chi, mỗi cung một tên: Thân, Dậu … cho đến Hợi, rồi lại đến Tý, cho đủ 12 năm. Như
thế, năm Tý thuộc cung Ngọ, muốn xem tiểu hạn thì xem cung chánh ở Ngọ, và cung chiếu.

Lưu đại hạn


Mạng, Thân, Phúc, là nền tảng cuộc đời.
Đại hạn là nền tảng cuộc đời 10 năm.
Tiểu hạn báo những biến cố trong 1 năm.
Tuy nhiên, nếu chỉ xem như vậy thì chưa đủ để biết được hướng vận hạn của 1 năm, mà còn phải
xem thêm Lưu đại hạn. Cái ý nghĩa của Lưu đại hạn được giải thích như sau: Trong khi đại hạn
là nền tảng chính trong 10 năm, thì tiểu hạn cho biết vận trong 1 năm dựa trên nền tảng của đại
hạn, nhưng còn Lưu đại hạn để cho biết cái hướng thật của đại hạn dành cho năm đó, có xem như
vậy mới rành.
Thí dụ:
- Đại hạn báo 10 năm phát tài, giầu có.
- Nhưng không phải năm nào cũng giầu, vì đại hạn chỉ có biết trong vòng 10 năm có lúc giầu.
- Xét tiểu hạn: gặp một tiểu hạn có nhiều sao thịnh vượng phát tài, có thể cho rằng năm đó phát
tài thật.
- Nhưng còn phải được xác nhận bằng cung Lưu đại hạn và các cung chiếu. Nếu Lưu đại hạn báo
sự phát tài giầu có thật, thì kể như sự giầu có trong đại hạn báo cho năm đó. Nếu tiểu hạn tuy có
những sao phát tài, nhưng Lưu đại hạn lại báo sự tán tài, nghèo khó, thì sự phát tài ở tiểu hạn chỉ
nhỏ, ít thôi, không đáng kể, không phải là năm làm giầu.

Cách tính Lưu đại hạn


Khởi tính từ cung của Đại Hạn. Cung Đại Hạn báo hiệu cho 10 năm. Còn Lưu Đại Hạn thì tính
từng năm:
Âm Nam, Dương Nữ
Lấy cung gốc đại hạn làm năm khởi tính.
- Lưu đại hạn năm đầu của đại hạn: chính là cung gốc đại hạn.
- Lưu đại hạn năm thứ 2 của đại hạn: chính là cung đối diện của cung gốc.
- Lưu đại hạn năm thứ 3 của đại hạn: là cung kế theo chiều thuận của cung vừa tính.
- Lưu đại hạn năm thứ 4 của đại hạn: trở về cung đối diện của cung gốc.
- Lưu đại hạn năm thứ 5 của đại hạn: là cung kế theo chiều nghịch. Cứ thế mà tính đi.
Thí dụ cụ thể: Tuổi Kỷ Mùi, Thủy Nhị Cục, đại hạn 52 (52 đến 61 tuổi) tại cung Thân, Lưu đại
hạn năm 52 tuổi tại Thân, năm 53 tuổi tại Dần, năm 54 tuổi tại Mão, năm 55 tuổi tại Dần, năm 56
tuổi tại Sửu, năm 57 tuổi tại Tý, v.v…

Thí dụ cho Dương Nam, Âm Nữ, cũng tính như cách trên, nhưng sau khi lấy cung đối diện,
chuyển sang 1 cung theo chiều nghịch, rồi mới lại đi theo chiều thuận.
Như tuổi Canh Dần, 23 tuổi, Dương Nam, Thủy nhị cục, đại hạn 22 ở cung Tuất thì lưu đại hạn
22 tuổi ở Tuất, 23 tuổi ở Thìn (đối diện), 24 tuổi ở Mão, 25 tuổi lại ở Thìn, 26 tuổi ở Tị, 27 tuổi
ở Ngọ, v.v…
Những cách để xét đại, tiểu hạn
Xét đại tiểu hạn, có những cách để biết hay dở.
- Cung Hạn sinh cho hành của sao chính
- Hành của Cung sinh cho hành của Mạng
- Hành của sao chính sinh cho hành của Mạng
Được sinh tốt, khắc là xấu.
Đó là một cách đầu tiên để xét.
Kế đó, xét đến nhóm chính tinh của hạn có phải cùng loại với nhóm chính tinh của Mạng không.
Nếu cùng loại là hạn tốt, không cùng loại là hạn xấu.
Cách xét thứ ba, là những sao xấu và những sao tốt. Nhiều sao tốt, nhiều sao xấu. Tuy nhiên,
cũng còn nhiều chi tiết phức tạp để xét, thí dụ như gặp một sao thật xấu, thì vẫn phải chịu xấu,
chỉ nhờ các sao khác gỡ được phần nào, ngoài ra, có thể có những sao giải. Cũng có những cách
mà người giải đoán trông thấy, là có thể biết được sẽ có biến cố nào xảy ra trong năm. Có thể
đoán trong chi tiết của tai nạn, xem là tai nạn gì, hoặc là việc tốt, là việc gì, rồi sau đó có thể tính
ngày giờ của việc theo cách tính tháng, rồi tính ngày (sẽ trình bày sau).
Cũng để tính đại tiểu hạn, lại phải tính cả các sao lưu, hay là các phi tinh.

Các sao lưu


Đó là những sao lưu động, những phi tinh, gồm có:
- Lưu Thái Tuế.
- Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ
- Lưu Thiên Khốc, Lưu Thiên Hư
- Lưu Lộc Tồn, Lưu Kình Dương, Lưu Đà La.
- Lưu Thiên Mã
Mỗi sao lưu có những ảnh hưởng như nhau:
- Nếu gặp sao tốt thì làm cho tốt, hưng vượng: nếu gặp sao xấu, càng gây thêm họa hại.
- Đóng ở cung nào, thì tạo ảnh hưởng về cung đó. Thí dụ, Lưu Thiên Mã đóng ở Tử Tức, thì con
cái có sự đi xa. Lưu Kình Dương đóng ở Phụ Mẫu thì cha mẹ có gặp những tai ách (dĩ nhiên, còn
phải xem những sao giải của Phụ Mẫu) tức là chính số của đương sự, mới rõ được.
Chúng tôi đã xin trình bày về các yếu tố Đại tiểu hạn. xin quý bạn đọc theo dõi đề mục “Tự điển
Tự Vi”, khi đến Đại Tiểu Hạn, chúng tôi sẽ xin trình bày cách chấm các sao lưu cho từng năm,
và các cách để giải đoán về vận hạn.
Các bài trích trong tạp chí Khoa học huyền bí trước năm
1975
Muốn kinh doanh buôn bán cần có những yếu tố nào?

Xem các bộ sao trên lá số Tử Vi để biết trước mình làm nghề kinh doanh buôn bán được không?

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài,
quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật,
Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền
bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ
mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.). Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là
sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu
có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta
thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn. Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho
quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà
tôi đã gặp trong các lá số. Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ
không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các
trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.

Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):

Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương),
nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn
vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì
càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được
Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì
không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ).
Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người
dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu
chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là
tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.

Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì
Lộc Mã tiền tài đầy kho”)

Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy
cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa
mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý
bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn
ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức
là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam,
Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ
hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.

Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ

Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là
Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất
là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn
nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt,
nhất là Song Lộc. Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc
mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không
có ai cộng tác.

Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc)

Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu
không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu
chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két
bạc mà thôi. Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là
Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị
cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp
Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh)

Cự Nhật dần thân

Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú
“Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp
“trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư.
Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên: Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật
hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần
thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm
chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải
hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương
(hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng
trọn.

Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi
câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài,
nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc
trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.

Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão

Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham
đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire”
lặt vặt thì chắc ăn hơn.

Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt

Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý
bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là
người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.

Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc

Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể
tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô
Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với
người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị
chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân
đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng
cách.

Cơ Cự mão dậu

Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng
thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường. Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn
là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái
lại phải đồng cung với Cự Cơ. Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối
hiềm Hóa Lộc” chứ !

Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ

Cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống
gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh
hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc
ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một
hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu
bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy
người có cách này.

Phú Tử Vi Đông Thư


Vân Hồ sao lục

Người xưa học và xem, đoán tử vi với vài câu phú ngâm nga đơn giản, sao vẫn hay, vẫn đúng ?
Ngày nay ,chúng ta với bộ óc phân –tích, đem quá nhiều lý luận vào Tử- Vi làm môn này “ mọc”
thêm quá nhiều nguyên tắc giải đoán , kết quả chẳng hơn ngày xưa bao nhiêu, mà chỉ thêm mệt
óc, chán nản.
Vậy xin đề nghị như thế này : Chúng ta cứ giở tài liệu xưa kia mà nghiên cứu kỹ : thế mà lại hay.
Một bài thuốc bí- truyền, nếu dùng thấy hay, xin cứ để nguyên như vậy, xin đừng gia giảm quá
nhiều vị khác vào làm mất tính chất hay của vị thuốc kia đi.
Tử vi cũng vậy. Xin tạm trình bày bài phú này, tóm tắt cách giải đoán 12 cung thành một loại
tóm tắt, như vậy thật dễ nhớ, dễ áp dụng, đỡ phiền hà rắc rối, coi cho ai cũng được. Xin các bạ
thử áp dụng bài phú 683 câu này
Luận về số mệnh con người, có hay không có số mệnh? Quan điểm của mỗi người một khác cho
nên vấn đề này còn đang trong vòng bàn cãi. Hiện có hai phe rõ rệt: một số cho rằng phàm
những sự xảy ra trong một đời người, ngay cả đến những sự nhỏ mọn như việc ăn uống, đi lại
đều có định trước. Đó là những người tin theo thuyết tiền định. Tử vi, Bói dịch … dựa vào lẽ số
mệnh đã được an bài, định trước.
Một số khác lại không cùng quan niệm như vậy. Họ cho rằng muôn sự xảy ra chẳng qua là do
luật nhân quả. Cũng như ngồi đánh một ván cờ vậy, hai người ngồi đánh cờ với nhau mà còn có
ngẫu biến, người nọ đi một nước cờ rồi, người kia tùy theo địch thủ đỉa sao rồi mới còn có thể ấn
định nước cờ của mình được. KHông ai ngồi vào đánh một ván cờ mà có thể biết chắn chắn được
rằng thua hay thắng. Cuộc đời cũng vậy, nhân sự tùy thuộc vào biết bao biến cố ngẫu nhiên, biết
thế nào mà dám đoán trước? Đó là thuyết ngẫu biến, cho rằng mọi sự, mọi vật, hình thành mà
biến chuyển tùy theo các duyên ngẫu nhiên mà nên, không sao có thể định trước được.
Xét ra hai thuyết trên đều có lẽ phải. Số người tin theo mỗi thuyết cũng khá đông. Học lực chúng
tôi còn kém , chưa thể hiện ra được những lý lẽ cao xa cho rằng thuyết này đúng, thuyết kia sai,
chỉ xin nêu ra để mọi người cùng suy ngẫm. Được đến đâu hay đến đó. Chỉ xin ghi lại sau đây ít
dòng về phú Tử- Vi mà thôi. Về bộ môn này, Trung Hoa là nước phát xuất ra trước tiên ở Á-
Đông. Bên Trung Đông, khoa lý số Ả-rập ( chiêm tinh) cũng dùng tinh tú để luận số mệnh người
ta. Cả khoa Tử vi của Trung Hoa và Chiêm tình của Ả rập, tuy xuất phát từ hai nơi riêng biệt, lại
có chung một điểm đồng ý với nhau là : “ phàm một người lấy số thấy thiệt hay, không phải bó
buộc người đó sẽ có một cuộc đời rực rỡ, có khi còn thường hoặc kém là khác nữa. Nhưng
những bậc anh hung cái thế, khi bấm số họ, thấy chắc chắn là phải hay.”
Như vậy là cả hai khoa trên đều áp dụng phương pháp nhìn tướng hoặc căn cứ vào sự nghiệp rồi
mới luận số mệnh được, không bao giờ chỉ luận mệnh suông, căn cứ vào năm tháng ngày giờ
không mà thôi.
Hiện chúng ta chưa đi đến chỗ tinh vi như vậy. Tuy nhiên, lấy một lá số Tử Vi theo phương pháp
an sao đồng nhất mà nhiều người đã công nhận, thì khi bấm số , dầu ai cũng vậy, đều có một là
số như vậy. Duy có cách đoán, thì có người đoán thấp, kẻ đoán cao, tùy theo học lực và kinh
nghiệm của thầy đoán, nhưng có điều chung, ai cũng phải công nhận là không thể đen đoán ra
trắng, và trắng đoán ra đen được. Như vậy, tất cũng là kinh nghiệm rồi, cho nên mới tồn tại được
mấy ngàn năm như vậy. Vậy xin cứ chép ra đây, ai tin thì dùng, ai không tin thì cũng xin để dung
làm tài liệu nghiên cứu một môn lý học cổ do cha ông để lại.
Phú Tử Vi Thông Thơ
( 683 câu )

1) Mệnh viên

Một là bàn đến mệnh viên,


Có sao thủ mệnh đoán bên tính tình.
Tử vi trọng hậu dung hình
Thiên phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà,
Thiên tư ôn thuận thiệt là tốt ghê
Lòng thành tính gặp Thiên Cơ,
Vũ tinh nhập miếu , anh kỳ tài năng.
Thái âm viên mãn ai bằng
Thiên đồng phi mãn, tính hằng ôn lương,
Phá , Liêm to nhỏ khác thường,
Tính tình cương trực, kết đường tà gian,
Thiên Lương từ hậu dung nhan
Sát – Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng
Tham Lang bản tính thung dung
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon
Thái Dương tính khí thực khôn
Thanh kỳ bậc nhất, từ lương khác thường
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương
Tư nhan khả ái , thông đường văn chương.
Cự môn tính khí bất thường
Hễ khi sử sự, tìm đường đảo điên
Thiên Tướng long thẳng, mặt hiền
Thiên tư mỹ lệ : Khoa, Quyền hẳn hoi
Thanh bần ấy thật Việt- Khôi
Lại gia Thai phụ là nòi khoan dung
Phụ - Bật tuấn tú vốn dòng
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không
Phụ Bật đơn thủ mệnh cung
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà
Phượng Long đều hợp mệnh ta
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay
Tuế - Riêu họa xướng ư nhời
Nhận –Hư , lòng gió là người sai ngoa
Mây mưa ấy thật Đào Hoa
Lông kia đỏ kệch, Kỵ Đà xấu trông
Trán đen, tính nóng , Kiếp, Không
Hỏa Linh mặt mũi hình dung bi sầu
Tuế Phá lạc hãm một âu
Tiếng tăm như sấm ra màu vẻ vang
Kìa như nói chẳng há răng
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng
Phúc , Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn, lưng ong.
Hỷ Thần dai dọng, tâm hung, tràng đầu,
Triệt, Không tính những chẳng âu
Hung trung vô định ra màu gian nan,
Tuế , Tham lòng dạ đa đoan,
Kỵ, Diêu tửu sắc, một đoàn ngao du,
Hổ, Tang chẳng việc mà lo,
Quan Phù , Điếu Khách hay phô rộng nhời,
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người,
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu,
Quý, Ân phong độ trượng phu
Chẳng hay quân tử hình thù cũng xinh,
Tướng Quân chỉ thích dụng binh,
Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không
Cô , Qủa thiết kỵ riêng lòng,
Tràng sanh, Đế Vượng, vốn dòng thiện lương.
Đào Hoa, Mộc Dục điểm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng,
Triệt mà gặp được Kim cung
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần,
Tuyệt phùng hỏa địa một khi,
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy, Bệnh, Tử ba dòng,
Gặp vào nước ấy, ai dùng? Ai mang?
Hóa Lộc tính khí dịu dàng,
Bác Sỹ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp Sát xử sự ba đào mênh mông
Xem trong nhân tính đã xong
Lại tính cho thấu các cung ngũ hành
Tướng chân tính, nhận chân hình,
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy
Ví như thuộc Thổ Tử Vi
Tính trì mà gặp hỏa thì lại nhanh
Thiên phủ vốn tính hòa lành
Song gặp Không, Kiếp thời ranh khắc thầm

2) Phụ mẫu cung

Cả hai phụ mẫu kể tường.


Âm, Dương ngộ hãm là đường khắc xung
Hãm Dương khắc phụ đã xong
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy
Lưu Dương lại gặp đoán rầy khắc cha
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi
Cáo, Phong có chức, có ngôi
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng
Khôi, Quyền chính trưởng đường đường tốt thông
Thanh bần ấy phải Hóa, Không
Nhược bằng Lộc , Mã phú ông ai tày
Phụ mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.

3) Phúc đức cung

Số ba phúc đức kề liền.


Lộc, Quyền đóng đó trong miền bản cung,
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng , Lương, Tử, Phủ bốn sao,
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn
Âm, Dương, Xương, Khúc , Lộc Tồn,
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh thần.
Thọ thì được ngoại thất tuần
Miếu thì thong thả, ham thì tân toan,
Liêm, Cự ta lại phải bàn,
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la,
Việt , Khôi, Tả, Hữu, Quyền, Khoa
Lộc, Tham, Đế Vượng, thật là tràng sinh,
Đà La, Dương Nhận, Hỏa Tinh,
Vào thì ba bốn rành rành không sai.
Kiếp, Không, Hư, Khốc cùng bầy.
Thiên Hình, Hóa Kỵ, mới loài bạch tang,
Nhị Phù tổn thọ một phương,
Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai.
Sát, Liêm, Tứ Sát cùng bầy
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ ,Qúy, Ân Quang,
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Lại thấy Thân, Mệnh mà suy
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương,
Đã xem hưởng thọ đoán tường,
Lại xem phúc đức đoán phương âm phần,
Tràng Sinh chính phát thập phần,
Gặp sao Quan, Phúc, Qủy thần chầu trông
Phúc, Liêm, nội ngoại thung dung
Khoa , Quyền, Xương , Khúc vốn dòng văn gia
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa
Đấy là đất phát đề ra anh hung
Cự Môn, Lộc, Lộc tương phùng
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Nay là đoán trước mấy lời,
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là,
Lại xem hướng mạch kể ra,
Trước lấy khởi tổ ấy là Tràng Sinh
Thanh Long lấy làm long hành
Đến đâu nhập đó xem hình chiếu lâm
Phải lấy chi tự ( Địa Chi) phân kim
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan,
Trước có Dương Nhận, Hồng Loan,
Nga mi tác án an bàn chẳng sai
Thanh (Long) Hồng ( Loan) thủy nhập hoài,
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không,
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau,
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long,
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên
Bên hữu Bạch Hổ đã yên,
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này,
Lại xem tinh tú an bầy.
Thái Dương, Vũ Tướng cùng rày Phá Quân,
Khoa, Quyền, Khôi, Việt tinh thần
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai
Còn như đoán mã đàn bà
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời
Tử, Phụ mộ tổ chẳng sai
Lạc nhàn thì đoán xa rời mà thôi
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm, Đồng tứ, chẳng sai chút nào
Liêm Trinh bảy tám đời cao
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin
Cha còn thì đoán ông liền
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh
Thiên Phủ viễn mộ đã đành
Tham sáu , Cự bảy, Lương rành tám thôi
Phá Quân, Thất Sát xa đời
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà
Nếu còn thì kể đến bà
Ấy là âm mộ thuộc Tòa âm cung
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng
Mộ phần thiên tang ắt cùng chẳng sai
Suy xem linh tính hẳn hoi
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này
Lại tùy chính diệu suy bầy
Lại nhân Không , Kiếp đoán rày lạc phân
Hoa Cái , Phượng Các tân phần
Tấu thư, Xương , Khúc là thần đồng ra
Hoặc khôi, Việt gia Hóa Khoa
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng,
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng
ấy là phú quý vốn dòng chẳng không
Tử Vi nhập miếu vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ
Lương, Tham thọ khảo kỳ di
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào,
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng Đào,
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh
Tuế , Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô Quả độc đinh thường thường,
Tang Môn, Qủa Tú bất thường,
Ấy là trong họ gái thường quả phu
Phục binh ngộ Tử phải lo,
Có người bị trận chết co ngoài đường,
Mộ mà cư phúc đường đường,
Lại gia Thai, Tọa ấy Trường sinh ta
Hỷ thần, Thiên Hỷ hoặc gia,
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu,
Lại bàn hình thế mọi mầu ( ngũ hành các sao)
Tổ sơn là Tử, Phủ chầu kể ra
Mộc tinh là Thiên Cơ gia,
Kim Tinh vũ Khúc, Mộc là Tham Lang,
Văn khúc là thủy đáo đường
Liêm Trinh là hỏa, Thiên Lương Thổ này,
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm,
Thất Sát cùng Hỏa tinh lâm.
Phá Quân là thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng, Thiên Tướng đất binh,
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy
Mộc, Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp, Không lộ táng dương phần,
Kỵ, Riêu là thủy, sát nhân hoàng tuyền,
Thanh Long có suối lưu triền.
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường,
Khoa, Quyền là bản văn chương,
Lộc : kỳ, Việt : kiếm, rõ ràng đóng đây,
Ấy là phần mộ đoán bầy.
Cốt xem Phúc đức mới hay mọi đường.

4) Điền trạch cung

Bốn là bàn đến cung Điền,


Phủ, Vi đóng đấy, Tài Điền vượng thay,
Vũ, Cơ tài sản cũng hay,
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen,
Âm , Dương miếu ấy đa điền,
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân
Thiên Đồng hậu dị, tiêu nan,
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành
Cự Môn tổ nghiệp tan tành,
Sinh ra đổi chác sau rành được yên
Sát sinh bỗng chốc mà lên,
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường,
Phá Quân của khéo dở dang,
Nhược bằng ngộ hãm là phường khó khăn.
Tướng , Lương, Tả, Hữu khoa văn.
Việt , Khôi, Quyền , Lộc, Mã gần Trường sinh,
Điền viên đế vượng tậu tành,
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Đà, Kình lục tinh,
Nhị Hao, Kiếp Sát, Phục Binh,
Không Vong, Tang, Tứ, Phù tinh vô điền,

5) Quan lộc cung

Năm là quan lộc đoán ngay,


Thái Dương, Xương, Khúc ở đây cung này,
Điện rồng chầu trực đêm ngày,
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường,
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Cơ, Lương,
Khoa, Quyền, Tử, Phủ họp cùng Trường Sinh,
Tướng, Đồng, Lộc, Mã,Vũ tinh
Đều là cát tú được mình hiển vinh.
Âm, Dương, Quyền, Lộc được rành,
Như đành hãm địa ắt thành lại hao,
Liêm Trinh vũ chức ,quyền cao,
Như bằng ngộ hãm,khỏi nào hình danh,
Tham Lang mà gặp Hỏa ,Linh,
Miếu thì phú quý,hãm bình mà thôi,
Sát, Cự tý ngọ , ở ngôi,
Vượng thì vũ chức , hãm thời hình thương,
Phá Quân lao khổ trăm đường,
Nhược ngồi Tý, Ngọ tài thường vượng thay,
Tham Lang, Xương, Khúc ngày rày
Ngộ cung tỵ hợi quan này, làm ru,
Liêm , Tham, Đà, Nhận phải lo
Phải mang dan díu , quanh co bận mình
Phù , Tang, Không, Kiếp ,Hỏa, Linh
Khốc, Hư, Đà, Nhận, Kiếp, Kình Nhị Hao,
Phục Binh , Phá Tú xúm vào
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn

6) Nô Bộc Cung

Sáu là nô bộc đoán tường


Tử , Phủ, Tả, Hữu, Âm, Dương, Lương, Đồng
Việt , Khôi, Tam Hóa tương phùng
Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh,
Quý, Quang, Xương, Khúc cũng lành
Vũ Tinh mà đóng rành rành bản cung
No thì nó ở hầu ông
Đói thì nó bước chẳng mong nỗi gì
Liêm Trinh kia nó càng ghê
Làm ơn nên oán bấc chì mỉa mai
Tham Lang vì nó hao tài
Cự Môn báo oán những lời thị phi
Sát thì sinh sự thị phi

7) Thiên Di Cung

Bảy là bàn đến Thiên Di


Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai
Vũ, Lương, cự phú chẳng sai.
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền,
Âm Dương, Tả, Hữu rất hiền,
Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân,
Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân,
Nhược bằng ngộ cát, mười phần tốt thay,
Liêm Trinh nội trở, ngoại bay,
Đi thì cũng lợi, mới tày Tham Lang.
Lại thêm dâm dục , hoang tàn,
Vũ Tinh xuất ngoại thường thường được yên
Cự Môn khẩu thiệt đảo điên,
Nhị Phù, Phá, Tú cùng miền Thiên Di,
Đoán rằng lộ thượng, mai thi,
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền,
Quán rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu
Cự Môn, Linh,Hỏa xung nhau
Tử ư đạo mộ ra mầu xo ro,
Liêm phùng Quan Phủ, Quan Phù,
Ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu
Kìa như đạo lộ phải âu,
Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di
Kìa ai ký ngụ, phong tư ( đời sương gió)
Bởi chưng Thất Sát, Nhị Phù, Kình Dương
Tứ Sát đóng chính cung tường,
Ách nguy thêm lại hại đường tổ tông
Vũ , Liêm chẳng khá đồng cung
Luận rằng số ấy bần cùng đi qua
Hỏa, Linh, Không, Kiếp,Dương, Đà,
Tham, Hình, Hóa Kỵ cùng là Khốc Hư
Phá Quân phương ấy phải lo,
Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng.

8) Tật Ách cung

Tám là Tật Ách chẳng âu,


Âm, Dương phản bội làm màu bất minh,
Mệnh cung lại có Không tinh
Nhãn manh mục tật, rành rành phải mang,
Phá , Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương,
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên
Khúc , Xương, Tả, Hữu vào miền.
Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa , Quyền, Đồng, Lương
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương.
Ốm thì gặp thuốc thang, sợ gì,
Thiên Cơ phải chứng thấp tê.
Nhược bằng gia Sát mặt thì vết ngan,
Phong đàm bệnh ấy liền liền,
Bởi sao Cơ ,Vũ đóng miền Ách phương
Nhược bằng gia Sát trĩ sang.
Thái Âm đau bụng, Thái Dương buốt đầu,
Gia Đà, Kỵ, Sát cũng rầu
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau.
Phá Quân Khí huyết bất điều,
Đồng , Lương hàn , nhiệt là điều phải lo.
Tướng Tinh đau ở bì-phu,
Cự, Liêm, Nhật, Nguyệt , hình thù cơ nghinh
Đà La, Dương Nhận ít yên,
Đâu chân nhức mắt, chẳng hiền được đâu,
Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau,
Bởi đường sao ấy gặp hầu Tham Lang.
Sát Tinh thấp khí yếu đau.
Tứ Sát có bệnh bởi hầu Sát gia,
Tham Lang tật ách xông pha,
Lưng, chân có bệnh chẳng hòa được chăng,
Cự Môn mặt vết rõ ràng,
Chứ chi đới tật, xấu chàng hổ ai,
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai,
Dương, Đà, Linh, Hỏa cùng ngồi một phương.
Mặt kia có vết rõ ràng,
Lại thêm bệnh trĩ thường thường phải e.

Đoán tiểu hạn phải linh động


Những trường hợp : THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN

Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất. Tôi chỉ xin khép
lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông
vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên. Qua một
số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa
nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc
giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẩu..... ;
thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công
tác ...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v.... Tôi rất đồng
ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần
phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì
thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn ... Vậy đặc tính
của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và
nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý
nghĩa riêng của chúng nữa.

Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều
trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để
giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và
thực tập mới có thể thành thạo được.

1- THIÊN HÌNH NHẬP HẠN

Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là
mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn .... trong cơ khí làm tổn
thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....),
đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là
vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông
ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ !
Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp.

Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một
vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư
Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng
chiếu) thì khó tránh được tai nạn. Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho
nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào : búa, đục, dao, kéo .... tức là đồ nghề
chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương
Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế
làm sao chẳng hạnh thông.

Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà
lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình. Cũng như trường hợp
các nhà Luật (như : Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư .... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm
uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra ... miễn là không gặp nhiều hung sát
tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh)
mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án,
nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như
hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục ... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy
ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một
điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày ... khiến cho ruộng đất trở nên phì
nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương
số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh,
Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc .. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là
Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc
biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên
Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin ...

2- THIÊN MÃ NHẬP HẠN

Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp
thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh ... Tin tưởng như thế
cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính
xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã
giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ
Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.

Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão , Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng
thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn
năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu
hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó
đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có
nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng
tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến
cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào.
Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã)
như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên
Mã đã chuyển biến hoàn toàn :

- Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn
lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không
xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay
đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa ... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá
số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao ?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của
đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà
Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn
ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào. Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là
người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây.
Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi
hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện
di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng
trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay
đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều
lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người
xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không ? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra
được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không ? Nếu đều không cả, thì gặp
Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp. Và khi đó thường
thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ , như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn
hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại
Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận
lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không
khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại.

Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố
định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các
yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc)

Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ ! Đó là trường hợp lá số có
cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa
v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là
Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay
đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng
nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi
là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá
nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp
trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải
là " hố " nặng nề không ?.

3- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN

Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là
một đề tài sôi nổi và gay cấn cho những người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực
tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi
ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy ... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v...
Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý
nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa.

Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt,
mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến
cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái ... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai,
Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm,
chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn , đàng hoàng, chí
thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường
hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay
đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giường tủ, đồ đạc, xe mới ....
Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu
Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không
sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể
trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất
là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ
hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn.

Mệnh Vô chính diệu có “ PHI YỂU TẮC BẦN “ không ?...


Cụ Quản Văn Chính (Trích trong Báo KHHB)

Trong số những độc gỉa đã gửi thư. Tôi để ý nhất đến BS Hoàng Đình Hiển ở Quảng Ngải. BS
Hiển có một cậu con trai, và khi lập xong lá số Tử-Vi, ông hơi băn khoăn khi thấy cháu có Mệnh
Vô chính diệu. Nhiều sách và nhiều thầy Tử-Vi cho rằng cung Mệnh Vô chính diệu không có sao
chính diệu thủ mệnh đóng thì :” Nếu không nghèo tất chết sớm”

BS Hiển nhờ tôi gỉai tỏa nỗi băn khoăn. BS có cho tôi biết thêm là từ nhiều năm qua, kể từ khi
còn là sinh viên Y-Khoa, Ông vẫn cố gắng làm tròn nhiệm vụ và luôn luôn lấy cái lý tưởng “Cứu
nhân độ thế” của các bậc lương y làm kim chỉ nam cho cuộc đời, thế mà không hiểu tại sao cháu
bé lại Mệnh Vô chính diệu ?.

Theo BS Hiển, đó là một điều hết sức phi lý, vì sách thường bảo rằng những người có Mệnh Vô
chính diệu đều thường là con thứ, hoặc mẹ là vợ lẽ nàng hầu.

Tôi đã nói với BS Hiển rằng : Sách thường chỉ nêu những nét đại cương còn người xem số phải
đem kinh nghiệm ra đối chiếu và phải tham bác các vị tiền bối ngõ hầu tìm ra được một sự thật
tương đối !

Kế đó, tôi có kể ra những lá số Tử-Vi Vô Chính Diệu, mà người có số như thế đều :

- Không phải là con thứ;


- Không phải là con thứ thiếp hay nàng hầu;
- Cũng vẫn khá giàu, có địa vị và thọ gần 70 tuổi.

Đó là trường hợp của một Cụ sanh năm Mậu Tý (sinh năm 1888) và mất năm 1955, thọ được 68
tuổi có 10 con, 5 trai và 5 gái, người nào bây giờ cũng khá giả.

Cụ sinh năm Mậu Tý, tháng 3, ngày 30, giờ Thìn

Mệnh Vô Chính Diệu tại cung Tý, có Thiên-Đồng, Thái Âm cư Ngọ và Cự-Nhật cư Thân chiếu
vào Mệnh cùng với Tả-Hữu và Xương Khúc. Như thế Mệnh Vô Chính Diệu đâu có “Phi yểu tắc
bần”. Cụ này lại là con đầu của một gia đình trung lưu. Nhờ được cụ thân sinh thức thời, khéo
uyển chuyển để thích nghi với tình trạng đất nước vào những năm đầu của thế kỷ thứ 20. Cụ
Mậu Tý vào năm 1910, năm cụ 22 tuổi, đã bỏ bút lông, chuyển sang học quốc ngữ và Pháp ngữ
nên khi chế độ thi cử bị Chính phủ Bảo Hộ bãi bỏ vào năm 1918 tại Miền Bắc để :

Ông Nghè, Ông Cống cũng nắm co


Ước gì đi học làm Ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng lại sữa bò.

Thì Ông Cụ Mậu Tý đã nghiễm nhiên là một “Chef Comptable” tại một hãng buôn lớn ở Hải
Phòng, có lương cao, bổng hậu, tậu được nhiều nhà lớn cùng nuôi được con học thành tài !

Nhưng nếu Cụ Mậu Tý Mệnh Vô chính diệu này chỉ là bậc trung phú và gần thượng thọ, thì Lá
số sau đây mới chứng minh được một cách thật rõ ràng rằng Mệnh Vô chính diệu mà vẫn Đại
Phú Quý và Đại Thọ. Tôi muốn nói đến lá số của một nhân vật tại Sài Gòn trước đây mà hầu hết
giới trí thức và giới sinh viên Luật Khoa đều biết đến. Đó là Giáo sư Đại Học Luật Khoa Vũ
Quốc Thông đã từng làm Bộ Trưởng Bộ Y Tế dưới thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là
người có bằng cấp cao như thế mà Mệnh Vô chính diệu thì đủ cho qúy vị độc giả thấy rằng
không một câu “Phú” nào trong khoa Tử-Vi Đẩu Số cũng có gía trị tuyệt đối cả.

GS Vũ Quốc Thông sinh ngày 22 tháng 11, năm Đinh Tỵ, giờ Tý :

Sở dĩ ông đỗ đạt cao như thế, đạt được “công khanh” như vậy là vì ông gần được như có được
“cách” ở trong sách. “Mệnh Vô chính diệu đắc Tam không Hữu Song Lộc phú qúy khả kỳ” tức
là Mệnh không có chính tinh tọa thủ cần phải có Tam Không thủ và chiếu, lại cần có hai sao Lộc
Tồn và Hóa Lộc thủ hay chiếu nữa mới có thể một ngày kia được giàu sang hơn. Căn cứ vào câu
phú này, tôi thấy GS Thông có được :

1- Nhị không, tọa, chiếu :

Tuần Không ở hai cung Tí , Sửu và Thiên Không ở cung Thiên Di chiếu thẳng vào Mệnh, tức là
GS Thông được cách Mệnh Vô chính Diệu đắc Nhị Không. Cái Không thứ ba là Địa Không, mà
trên lá số này, đóng ở Cung Hợi, cung Huynh Đệ, giáp Mệnh, có người lại cho rằng trường hợp
của GS Thông lại còn tốt đặc biệt, vì “Chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp”.

2- Song Lộc triều viên :

“Thân vinh quý hiển” nghĩa là Mệnh cung có Lộc Tồn và Hóa Lộc chiếu vào thì cuộc đời đỗ đạt
lớn và làm nên sự nghiệp vẻ vang.

Áp dụng câu phú trên vào Lá số của GS Vũ Quốc Thông, tôi thấy ông tuổi ĐINH nên Lộc Tồn ở
cung Ngọ, cung Thiên Di, chiếu thẳng vào Mệnh, mà cung Thiên Di lại có Thiên Đồng, Thái Âm
đóng và theo lối:”Đinh Nguyệt, Đồng Cơ Cự” thì Hóa Lộc và Hóa Quyền đều ở Thiên Di chiếu
Mệnh cho nên lá số Tử vi của GS Thông đúng là được cách ” Mệnh Vô Chính diệu đắc Nhị
không, hữu Song Lộc, phú qúy khả kỳ”.

So với Lá số tuổi Mậu Tý nêu trên thì Lá số này thua Lá số tuổi Đinh Tỵ ở 2 điểm chính sau :

– Chỉ có Tuần Không ở Ngọ, Mùi chiếu mệnh.


– Không có Song Lộc tọa hay chiếu mệnh.

Nếu nay cho TRIỆT cũng là một KHÔNG lấy cớ là người ta thường gọi “Triệt Lộ Không Vong”
thì lá số tuổi Mậu Tý được NHỊ KHÔNG, dù không thua Lá số của GS Thông qúa nhiều. Bởi lẽ
có Xương, Khúc, Tả Hữu chiếu Mệnh, trong khi của GS Thông thì có Hữu Bật không có Tả Phù,
có Văn Khúc không có Văn Xương.

Nếu tiếp tục thảo luận thêm thì tôi lại còn thấy như sau :

Khi cung Mệnh Vô Chính Diệu hay qúa xấu phải căn cứ cung Thiên Di mà đoán

Điều này quan trọng lắm, nhiều sách đã nói đến và kinh nghiệm cá nhân cho biết đôi khi tôi chỉ
nhìn cung Thiên Di không cần nhìn vào cung Mệnh mà đoán gần trúng mọi việc chính.

Lá số của GS Thông tốt đặc biệt như thế là do cung Thiên Di có Lộc, Quyền, có Song Lộc, có
Đào Hoa, Thiên Không đồng cung (thông minh) học giỏi là ở hai sao này, mà nhờ có Song Lộc,
có Hóa Quyền nên ông không hoạnh phát, ông đi học mỗi năm một lớp rồi dần dần tiến đến địa
vị cao sang, mà ông có tài, có học nên sự giàu sang, phú qúy của ông phải bền, chứ không lúc
nổi, lúc chìm. Sở dĩ, tôi nói thế là tôi vừa nói theo các sao, lại vừa nói theo tướng mặt và chỉ tay
nữa ! về các sao tôi nghĩ, số ông cung Mệnh không ngộ Địa Không và Địa Kiếp vì tôi thường
thấy chỉ có những Lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà có Địa Không, Địa Kiếp mới phát lên một
cách đột ngột, để rồi cũng xuống một cách bất ngờ.

Lại nữa, Không, Kiếp tọa thủ Mệnh thì người không khoẻ mạnh mấy. Đằng này, nhờ là sinh vào
giờ Tý, mà Mệnh đóng tại cung Tý nên GS Thông người trông thật phúc hậu, đẫy đà với đôi má
dày, tức là nơi Địa Khố sung mãn tức là số giàu có lớn.

Bây giờ chỉ còn xét xem GS Thông sẽ thọ được bao nhiêu ? Trước hết, nếu hai cụ thân sinh ra
giáo sư đã trên 80 tuổi mà còn tại đường, thì GS cũng hy vọng được thọ lắm. Tôi xin đan cử một
ví dụ để chứng minh rằng Mệnh Vô Chính Diệu không những đại phú, mà còn đại thọ, hay
thượng thọ nữa.

Cách đây đã lâu tình cờ , ở Sở Thú tôi đã được gặp một ông cụ đầu râu, tóc bạc, cho tôi mượn
một quyển sách Tử-Vi bằng chữ Hán, trong đó có ghi một lá số Vô Chính Diệu thọ đến 92 tuổi.
Đó là Lá số :Tuổi Đinh Hợi, sinh tháng 9 ngày 20 giờ Dần. Lá số minh họa Đại Thọ

Mệnh lập tại cung Thân, Vô chính Diệu, có Cự Nhật ở cung Dần và Đồng Âm ở cung Tý
chiếu lên “Hư không chi địa”. Tôi chú ý đặc biệt lá số này. Bởi vì tác giả quyển sách đã
không biết là lá số của ai, nên tôi đã đánh dấu một dấu hỏi to tướng thay cho chỗ vẫn dùng để
ghi tên người có số như Khổng Minh, như Hán Cao Tổ.

Vì thế đến năm 1964, khi sang Đài Loan tôi có đem ra bàn với các bạn đồng nghiệp tại Bộ
Giáo Dục của THQG thì được biết đó là lá số của Tử-Vũ mà phú Thái Vi có viết ”Tử-Vũ tài
năng, Cự Tú Đồng Lương, xung thả hợp”.

Ông Tử-Vũ có tài vì Mệnh vô chính diệu ở cung Thân, có Cự Môn, Thái Dương (chứ không
phải là Qủa Tú như có sách đã giảng) và Đồng, Âm. Cơ Lương chiếu, cùng với Tả, Hữu,
Khoa, Quyền, Lộc. Số Đinh Hợi này thọ đến 92 tuổi là nhờ :
– Không có Điạ Không, Địa Kiếp chiếu vào Mệnh, Thân.

– Có Thanh Long ở cung Thìn hợp với tuổi Đinh, đi cùng Hóa Kị ở cung Dần chiếu vào
Mệnh. Nhân dịp này tôi xin nói thêm rằng Cụ Ba La , rất thích những lá số “Thanh Long
Thìn Thổ, Đinh Kỷ Âm Nam, gia hội Kỵ tinh, công danh toại mãn”. Cụ Ba La thường chỉ cho
tôi biết là chỉ một cách này là đủ để giảng sự giàu sang, phú quý và thượng thọ của lá số tuổi
Đinh Hợi nêu trên.

Giáo sư Vũ Quang Thông cũng tuổi Đinh Hợi cũng có Thanh Long ở cung Thìn, lại có Hóa
Kị ở cung Thân chiếu vào Mệnh như lá số tuổi Đinh Hợi nên tôi chắc GS Thông vừa về lá số,
vừa về truyền thống gia đình, ắt cũng sẽ được sống lâu, giàu bền như Tử-Vũ.

Lời giải đoán trên cũng là sự trả lời những thắc mắc của BS Hiển cũng như những ai có lá
số Mệnh Vô chính diệu có “PHI YỂU TẮC BẦN” không ?.
LUẬN GIẢI NÉT TƯỚNG THANH NGA
Nữ nghệ sĩ tài danh đệ nhất trong hiện tại

[b]Một bản chất ưa nghiên cứu


Nhìn về toàn thể gương mặt, thấy thuộc loại trái dưa vàng nét mặt đó biểu lộ một bản chất ưa
nghiên cứu. Thí dụ như người có bộ óc và thần mắt hướng về văn học mà có gương mặt ấy,
thì họ có thể đọc sách bên đống lửa hoặc giữa lúc tuyết lạnh; nói vậy có nghĩa là họ ham mê
nghiên cứu không sao tả hết.
Nét mặt Thanh Nga cũng biểu lộ sự ham mê nghiên cứu như vậy. Thanh Nga hẳn đã ham mê
tìm hiểu về nghệ thuật sân khấu, thí dụ như quan sát các nghệ sĩ diễn xuất để mà học hỏi, tìm
hiểu và tự tạo cho mình một tài năng vượt trên mọi mức bình thường.
[b]Một vài thắc mắc
Chúng tôi đã mấy lần được coi Thanh Nga trên tivi. Bởi thế mà khi coi tấm hình, tự mình
thấy hơi bỡ ngỡ. Vì hình và vẻ mặt theo nhận xét trước kia trên tivi có khác nhau. Ở thật tế,
nét mặt Thanh Nga có một đặc điểm: hai má không dầy. Nhưng tấm hình mà tôi được coi, thì
lại rõ ràng là má đã dầy… Phải chăng là do sự điểm trang đặc biệt? Hay phải chăng là đường
nét đã thay đổi tùy theo với thời gian và nếp sống. Có nghĩa là cuộc sống đã bớt sự tập luyện
và diễn xuất cực nhọc, cho nên cặp má cũng trở nên phinh phính biểu lộ sự dư thừa vật chất?
Cho nên thoạt đầu có hơi khó đoán, cũng như nhiều trường hợp khác tương tự chúng tôi gặp
được. Chắc quý bạn cũng thấy biết bao nhiêu trường hợp nữ nghệ sĩ, mới vào nghề thì gầy
gò, nhưng khi thành danh và sống sung sướng thì người và mặt trở nên mập mạp.
[b]Từ cặp má đến đôi mắt…
Căn cứ vào hình tướng thật của cô Thanh Nga, chúng tôi có thể đoán rằng đôi má kém dầy
của cô trước kia biểu lộ một cuộc sống thiếu sung túc lúc ấu thời, cũng có thể là gặp cảnh gia
đình kém an vui nữa.
Đôi mắt cô, thoáng trông qua trên hình, thấy đượm vẻ mơ mộng, u buồn, bất mãn, biểu lộ cái
tâm tư của cô vào giai đoạn chụp tấm hình, có thể là lúc cô đang buồn, đang tức tối vì một
hoàn cảnh trái ngang nào đó. Biết đâu là vì một hoàn cảnh nào mà con chim họa mi xinh đẹp
không còn được tự do bay bổng thả lên những khúc ca tuyệt vời, để rồi phải giảm hẳn sinh
hoạt sân khấu, mà nàng buồn như vậy?
[b]Những lần coi tận mắt
Tôi cũng căn cứ vào những lần coi người nghệ sĩ tài danh Thanh Nga trên tivi để giải đoán.
Một lần cô đóng vai Điêu Thuyền, sanh vai với chàng Lữ bố Phùng Há. Một lần khác, cô
đóng vai nữ chúa rừng xanh, một vở tuồng trinh thám mà tôi quên mất tên.
Khi cô ở vai Điêu Thuyền, tôi thấy cặp mắt của cô nhí nhảnh và long lanh, biểu lộ một cố tình
lôi cuốn để làm cho ông tướng Lữ Bố phải bị hớp hồn. Trong vở tuồng Phụng Nghi Đình, cô
Thanh Nga thật là điêu luyện vô song.
Trong vai một nữ chúa rừng xanh, cô Thanh Nga có cái nhìn soi mói, đầy sâu sắc. Tuy là cô
diễn xuất trên sân khấu, nhưng các nhà tướng pháp có thể đã đủ yếu tố để định luận về cuộc
đời của cô về phương diện tình duyên.
Rõ là những cái nhìn của cô Thanh Nga có những luồng nhơn điện nẩy lửa: cặp mắt của cô
biểu lộ sự sâu sắc đầy vẻ thăm dò, như thể một ngọn đèn cực sáng xuyên vào một cái hang
sâu thẳm và trong đó không có vật nào có thể ẩn nấp. Mặc dù là trên sân khấu cô đã ngự trị
hoàn toàn trên đám tướng bị hớp hồn; nhưng trong thực tế, suy ra cũng chẳng xa là bao, cô
có thể ở ngoài đời điều khiển vô khối kẻ khác cũng như vậy.
[b]Vấn đề nhân duyên
Tổng hợp mấy nét, nhất là cặp mắt sâu sắc, có thể luận về đường nhân duyên của cô Thanh
Nga như sau:
1.Cặp mắt của cô quá sâu sắc, dễ soi thấu tận đáy lòng của những người gần gụi, nên nhiều
mối thất vọng phát sinh ra, để rồi những chuyện trăm năm mà cứ như chuyện tầm phào nhất
thời trên sân khấu.
Về duyên số, nếu Thanh Nga gặp một vài trái ngang, đó là vì cặp mắt. Xin biện minh thêm về
điều đó. Cuộc đời của con người có những gắn bó là do những ước mơ khi chưa đạt, khi
đương đợi chờ. Mộ kho báu một họa phẩm, có những sức hấp dẫn từ xa xa. Khi gần, khi đã
nắm được, thì sức hấp dẫn lại khác. Luận ra thì cặp mắt của Thanh Nga đưa cô đến những
thất vọng. Các đấng trượng phu được gần cô, ở xa xa thì được, nhưng gần gụi và được xát lại
trên nghĩa đồng sàng, thì vẫn là những con người thiếu xót rất nhiều, khác với những sở
nguyện của cô. Ở đời, còn gì thất vọng cho bằng mỗi khi tìm ra ở những người yêu một sự
thật mà chỉ là một sự thật tầm thường mặc dù là về tiền tài hay danh vọng thì họ có thể là có
thừa.
Trên sân khấu, cuộc đời của các nhân vật đều ngắn ngủi, dù họ là vua chúa hay là những
ông tướng oai phong lẫm lẫm. Và tất cả đều là giả tạo trên sân khấu quá quen thuộc đã ảnh
hưởng vào tâm trí và khiến cho cô Thanh Nga quan niệm cuộc sống thực cũng như cuộc
sống trên sân khấu tuy có dài hơn?
Luận như vậy là thiên về tâm lý. Nhưng tướng chẳng phải một phần khá lớn là tâm lý hay
sao?
Dĩ nhiên, ngó trên hình thì hãy còn thiếu những yếu tố, như tóc tai, xương thịt, nhưng cũng
có thể phê rằng cuộc đời của người nghệ sĩ tài danh Thanh Nga có đôi phần hệ lụy. Nếu cô
có thể gạt bỏ được ở những người thân thuộc một số những yếu tố về ngọn nguồn dậy sóng
thì cuộc đời của cô mới gọi là vui tươi lên được
Phần tướng trên mặt còn cái mũi và cặp môi của cô, chúng tôi sẽ xin trình giải tiếp.

Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương


SAO THIÊN MÃ TẠI MỆNH, THÂN MỘT YẾU TỐ RẤT QUAN TRỌNG ĐỂ XÁC
ĐỊNH VỀ CÔNG DANH TRONG ĐỜI

Trần Việt Sơn


Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có
những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu,
trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải
chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng
có Thiên Mã – nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt. Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở
Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa.
Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải
đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh,
Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng
đúng.

Cách an sao Thiên Mã


Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba
tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ:
các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung
Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã


Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng
đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ
cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng
tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu
sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công
danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La:
người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai
họa.
Đi tìm ảnh hưởng của Mã
Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành
của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi
quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp
dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có
đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài
bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn
Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại
Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.

Thiên Mã tại cung Dần


Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh
và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.

Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi
lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi
cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc
mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì
không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:


-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tị


Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung
là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt
cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng
Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như
trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không
được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.

Thiên Mã tại cung Thân


Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là
Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì.
Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn
khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã
Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại
bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi


Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết
đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi
cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng
người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể
chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người
Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ


Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung
Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được
hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng
Mã một phần.

Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần


Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão,
Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để
chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:
1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông
mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc
đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và
có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp
khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng
chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi:
người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều
sau mới đạt thành.

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi


Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh
quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra
làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ
cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến
một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri
thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình
làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng
nhau chiêm nghiệm :
[b]1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

[b]1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế
(được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được
hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa
là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa
thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc
thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính
diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính
diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì
vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa
thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an
Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết
và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

[b]2- Đồng bệnh tương lân :

Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và
bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi
vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với
những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép
quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của
cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương
- Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc
xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi
chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này,
bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát
Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ
thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

[b]3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật
chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực
tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào,
gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả
truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên,
trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của
Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách
ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò
tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ :
Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp
Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn
nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn
đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ
xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong
kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai
họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

[b]4- Công ơn Tổ-Phụ :

Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều
cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày
là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi
thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12
giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm
Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh
đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao
Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn
hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là
cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn
phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được
Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất
trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở
cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa
“ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì
nhân sự thanh bình vậy.

[b]5- Đen như mõm chó

Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong
trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là
quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang
đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu
của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu
thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả
cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô
Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?


Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được
Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình,
khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

[b]6- Làm thân trâu ngựa


Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không,
Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ
kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ
hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất
nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần
Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô
cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy
là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành
phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp
Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

[b]7- Trắng tay sự nghiệp

Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong
ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng
nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối
đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà
gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường
hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên
Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng
của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi
Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham
cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
[b]
8- Sớm đầu tối đánh:

Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung
dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi
được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá
phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy
xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi
sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm
địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện
cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi,
chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản
chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa
Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung
Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị
em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này,
chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu
lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa
Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”,
nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã
tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và
mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy
(Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

[b]9- Được làm vua thua làm giặc

Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu).
Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó
người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá
Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp
thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách
Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và
ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia
ly.

[b]10.Anh hùng tạo thời thế

Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý
thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ
hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài
giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi
không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung
Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở
tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm
thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách
này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo
phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa
thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng
nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương


Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN

* Đại vận rất quan trọng, lấn áp cả Tiểu vận


* Ba bí quyết xác định sự tốt xấu của cung Đại vận, về ba phương diện: Thiên thời, Địa lợi,
Nhân hòa .

Trần Việt Sơn trình bầy

Trong việc giải đoán lá số Tử vi, đối với sở thích của những người đã lớn tuổi, có thể kể rằng
việc giải đoán đại vận là quan trọng nhất. Về phương diện tâm lý, với người đã lớn tuổi, người ta
rất mong được biết những dịp tốt hay những vận hạn sẽ đến, nếu biết dịp tốt đến, sẽ cố gắng khai
thác; nếu biết thất bại đến sẽ không dại bỏ tiền ra để rồi mất hết. Vả lại khi đã lớn tuổi, với nhiều
người, gần như số mạng đã an bài, chỉ còn trông vào những thay đổi phần nào ở vận hạn. Trong
thật tế có nhiều người chỉ ăn về vận. Đương là một người như mọi người, bỗng cơ may đưa đến,
vọt ngay lên ngôi cao chức cả, thế rồi hết vận, lại tụt đi đâu mất không ai hay.

Người ta có thể kể không biết bao nhiêu người như thế, như ông Diệm, ông Nhu, Ông Cẩn,
tướng Nguyễn Khánh, ông Trần Trọng Kim, cụ Phan Khắc Sửu, và gần đây hơn, có biết bao
nhiêu người đương là giáo sư công chức, kỹ sư, dược sĩ, nhẩy ngay lên chức lớn, và có một số đã
bỗng nhiên bỏ chức chức lớn mà trở về với cuộc sống bình thường; có những người đương làm
ăn bình thường, bỗng lời đổ đến tay như thác nước trong cả một thời kỳ, nhưng rồi quen ăn làm
tới, tiền lại ào ào đội nón ra đi. Những cuộc thay đổi lớn lao và bất thường đó là do Đại Vận, hơn
là do Tiểu vận.

-Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời. Đại vận mà khá thì cũng như có cái gốc khá.
Tiểu vận có kém cũng được khá theo, và nếu Tiểu vận được khá thì lại càng khá nhiều.

Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng
bởi thế, tính vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm
Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.

-Trong việc đoán số mạng đoán Đại vận là nắm được cái tốt xấu trong cả một cuộc đời, cho nên
đoán đại vận là một sự rất hứng khởi. Có một lần, một vị độc giả, hận vì đã bị đoán số lầm, nhất
định xin hỏi cụ Thiên Lương giải đoán cho vận hạn mấy năm. Vị độc giả đó không nói trước
điều nào. Cụ Thiên Lương tính toán rồi nói: “Mấy năm nầy, ông làm ăn thất bại, thiệt tiền của”.
Vị nọ thở phào, tự coi như an ủi vì số mạng đúng. Ông mới tâm sự: “Đó là mấy năm tôi phải bỏ
một số vốn lớn công ty vào một việc. Tôi đã hỏi kỹ mấy ông thầy. Mấy ông bảo tốt, cứ xúc tiến
công việc đi. Tôi yên trí bỏ tiền ra không ngờ mất tất cả. Nhưng tại sao lại hỏng việc được? Rõ
ràng hành của cung đại vận sinh cho hành mệnh của tôi như thế bước vào đại vận này là phải tốt
chứ? Cụ Thiên Lương trả lời rằng ông mới được địa lợi, nhưng Thiên thời lại hỏng.
Và bây giờ chúng tôi xin trình bày những kinh nghiệm của cụ Thiên Lương.

Ba yếu tố chính

Để xác định một cung Đại vận là tốt hay xấu, có ba yếu tố chính:
1.Hành của bộ Tam hợp cung Đại vận sinh cho hành của bộ Tam hợp cung tuổi, hay đồng hành,
là tốt. Khắc là xấu. Đó là yếu tố Thiên thời. Được Thiên thời là được thế thắng, được vận tốt do
số mạng dành cho mình là được khá hơn đại vận khác.

2.Hành của cung Đại vận sinh hay khắc cho Mệnh của mình. Sinh là tốt, khắc là xấu. Đây là yếu
tố chủ về thế thắng và vận tốt. Chắc các bạn thích Tử vi đã nhận ra rằng đây là yếu tố chủ chốt
mà các nhà giải đoán Tử vi thường dùng để xét đoán vận tốt xấu, (nhưng các ông lại không để ý
đến yếu tố là yếu tố Thiên thời).

3.Sự thích hợp hay không thích hợp của bộ sao tại Đại vận đối với bộ sao tại cung Mệnh. Có
những bộ sao mà quý bạn đều biết: Sát Phá Liêm Tham, Tử Phủ Vũ Tướng, Cự, Nhật, Cơ
Nguyệt Đồng Lương: Yếu tố này cũng được các sách cổ nói đến và các thầy Tử vi sử dụng,
nhưng không có sự hệ thống hóa đầy đủ, chỉ nói sơ trong vài trường hợp (tỷ dụ: Mệnh có bộ sao
này, đến cung đại vận gặp bộ sao này, thì tốt hay xấu). Yếu tố thứ 3 này là yếu tố Nhân hòa.

Yếu tố về Tuần Triệt đã được chúng tôi trình bầy, chúng tôi sẽ nhắc lại. Còn các trung tinh, hung
tinh là những yếu tố thêm vào cho các yếu tố chính, và chỉ rõ thêm về các trường hợp cá biệt,
như vận mạng về gì, hạn về phương diện nào. Thí dụ:

-Được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa là được đại vận rực rỡ. Nếu lại được các trung
tinh tốt và thoát được các hung tinh hãm, thì càng rực rỡ hơn.

-Bị cả 3 yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, cùng xấu, là bị đại vận xấu. Nếu lại bị những sao
hung xâm nhiễu, thì đó là đại vận rất nặng, gặp nhiều thất bại, và có thể đi đến cái chết.

Trong số giai phẩm này, chúng tôi xin trình bầy hai yếu tố Thiên Thời và Địa lợi. Các yếu tố
khác, sẽ xin trình bầy trong giai phẩm sau.

A-YẾU TỐ THIÊN THỜI

Trong Tử vi, đừng bao giờ quên yếu tố các bộ Tam hợp. Xin nhắc lại hành bộ Tam hợp trên lá
số:

1-Thân Tý Thìn: THỦY


2-Hợi Mão Mùi: MỘC
3-Dần Ngọ Tuất: HỎA
4-Tị Dậu Sửu: KIM

Nguyên tắc: Trước hết, ghi nhận hành của tam hợp cung tuổi. Như người tuổi Tý thuộc tam hợp
Thân Tý Thìn, hành Thủy.

Rồi muốn đoán cho mỗi đại vận cứ xét hành của tam hợp của cung Đại vận đó. So sánh hai hành
(Hành của tam hợp cung tuổi và hành của tam hợp cung Đại vận) thấy sự sinh khắc chế hóa thế
nào thì biết Thiên thời của Đại vận là xấu hay tốt.

-Hành tam hợp Đại vận sinh cho hành tam hợp tuổi: tốt, được Thiên thời.

-Hành tam hợp Đại vận đồng hàng với tam hợp tuổi (đây là trường hợp đại vận vào cung có Thái
tuế Quan phù, Bạch hổ): tốt. Thiên thời đến cho mình.

-Hành tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi (trường hợp mình bị khắc nhập) xấu nhất, thời gian và
hoàn cảnh chung đánh vào mình và thắng mình, mình bị nhiều thất bại và thua thiệt.

-Hành tam hợp Đại vận bị hành tam hợp tuổi khắc (trường hợp khắc xuất): mình khắc thời vận,
gặp nhiều khó khăn, nhưng mình cố gắng và chịu chật vật nhiều, có thể thắng được.

-Hành tam hợp Đại vận được hành tam hợp tuổi sinh (trường hợp sinh xuất): tuy sinh, nhưng
sinh xuất, cho nên lao đao, như người mất máu huyết, mất sức lực tiền bạc.

Ghi các trường hợp

Quý bạn cứ theo các giải đoán trên mà xác định về Thiên thời: sau đây, nên ghi các trường hợp.

1)Tuổi Thân, Tý, Thìn Tam hợp Thủy


Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn: được Thiên thời, tốt nhất của mình
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Thủy sinh Mộc, vậy bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Thủy khắc Hỏa khắc xuất. Mình khắc thời, phải chật vật
mới thắng
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim). Sinh nhập, Thiên thời.
2)Tuổi Hợi Mão Mùi Tam hợp Mộc
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi, tức đến tam hợp Thái tuế, tốt nhất.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình được sinh nhập. Tốt, mình có Thiên thời.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị sinh xuất, lao đao.
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim). Mình bị khắc nhập xấu.

3)Tuổi Dần Ngọ Tuất (Hỏa)


Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (tam hợp Thái tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình bị khắc xấu
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Mình được sinh nhập. Tốt.
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim) khắc xuất, phải chật vật mới thắng

4)Tuổi Tị Dậu Sửu (Kim)


Đại vận đến cung Tị Dậu Sửu (tam hợp Thái tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Khắc xuất
Đại vận đến Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị khắc nhập

Dàn bài cho đủ các trường hợp, chớ thật ra bạn nắm vững nguyên tắc các bộ tam hợp và hành
sinh khắc, là bạn giải đoán được ngay.

B-YẾU TỐ ĐỊA LỢI

Hành của cung Đại vận sinh cho mệnh của mình, là sinh nhập, tốt nhất.
Hành của cung Đại Vận đồng hành với Mệnh là tốt.
Hành của Mệnh mình sinh cho hành cung Đại Vận, là sinh xuất, lao đao.
Hành của Mệnh mình khắc hành cung Đại vận: Khắc xuất, bị chật vật nhưng có thể thắng.
Hành của cung Đại vận khắc hành của mệnh: Khắc nhập, xấu, thất bại.

Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương


Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN

* Yếu tố thứ ba: bộ sao gặp Đại vận có hợp với bộ sao tại Mạng không?

Trần Việt Sơn

Trong giai phẩm trước, chúng tôi đã trình giải kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về việc giải
đoán Đại vận. Chúng tôi đã nói đến hai yếu tố đầu, bây giờ xin nói đến yếu tố thứ ba, sau đó sẽ
xin nói đến những yếu tố phụ thuộc (nhưng cũng quan trọng).

Nhắc lại: Yếu tố Thiên Thời: được thời vận thì dù các yếu tố khác có kém, mình cũng khá. Xét
yếu tố này, phải cân nhắc tam hợp cung tuổi của mình và tam hợp cung đại vận: nếu đến tam hợp
Đại vận đồng hành với tam hợp tuổi, mình được khá nhất; tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp
tuổi, là có Thiên Thời tốt; tam hợp Đại vận khắc tam hợp cung tuổi: khó khăn nhất và hoàn cảnh
thắng mình. Tam hợp tuổi sinh cho tam hợp Đại vận là bị sinh xuất: mình bị lao đao, có khá
được cũng mệt mỏi tiêu hao nhiều.

-Yếu tố hai là yếu tố Địa lợi: phải ghi hành của Mệnh mình (tức là Mệnh của mình là người Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ) rồi xét xem Đại vận đến cung nào, hành của cung này sinh khắc cho
Mệnh thế nào. Tùy theo các thế sinh khắc mà ta đã biết: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy
sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy
khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, ta biết được cung Đại vận sinh khắc chế hóa như thế nào với Mệnh
của ta. Cung Đại vận sinh cho Mệnh của ta là tốt nhất. Cung Đại vận hòa với Mệnh của ta là
trung bình. Mệnh của ta sinh cho cung Đại vận, là ta bị sinh xuất, có đạt được cũng lao đao, cuối
cùng cung Đại vận khắc Mệnh của ta, là ta gặp khó khăn, hoàn cảnh chế ngự ta, ta không thể
thắng nổi. Nếu Mệnh bị cung khắc, còn có thể xét xem được yếu tố Âm Dương của cung giống
Âm Dương của Mệnh thì cũng dở.

Yếu tố thứ ba: bộ sao ta gặp ở Đại vận

Yếu tố thứ ba là bộ sao ta gặp ở Đại vận hợp hay không hợp với bộ sao ta có tại cung Mệnh. Đây
là yếu tố mà ta thường thấy ghi ở các sách cổ kim, nhưng các trường hợp này không được giải
thích và hệ thống hóa. Cụ Thiên Lương đã hệ thống hóa như sau:

Như trong sách “Tử vi nghiệm lý” cụ đã ghi, cụ phân các bộ chính tinh ra Âm và Dương, Dương
là thực hành mà Âm là lý thuyết. Các bộ Tử, Phủ, Vũ, Tướng và Sát, Phá, Liêm, Tham thuộc về
Dương và có tánh chất thực hành, các bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật thuộc về Âm và
có tánh chất lý thuyết. Hai bên Âm Dương phân ra như vậy là hình ảnh của Lưỡng nghi.

Phân biệt ra Tứ tượng, ta có 4 bộ với tánh chất như sau:


Sát Phá Liêm Tham: 100% thực hành.
Tử Phủ Vũ Tướng: 60% thực hành, 40% lý thuyết
Cự Nhật: 60% lý thuyết, 40% thực hành.
Cơ Nguyệt Đồng Lương: 100% lý thuyết.

Luận ra các thế của Đại vận

Sự khác biệt hay giống nhau là do chỗ thế Âm và thế Dương mà gặp nhau thì nghịch, thường
kém tốt; hoặc thế lý thuyết mà gặp thế thực hành thì có phát thêm, nhưng gặp họa lệch lạc, kém
tốt. Tuy nhiên, nếu lý thuyết 100% mà gặp thực hành 100% thì phát mạnh hoạt động nhiều
nhưng gặp họa nhiều hơn là những thế tuy khác biệt Âm Dương mà thế lý thuyết, thực hành
không khác nhau xa mấy (như có thế 60% lý thuyết, 40% thực hành mà gặp thế 40% thực hành
60% lý thuyết thì không khác nhau xa mấy). Cũng vậy, thế 100% thực hành mà gặp thế 60%
thực hành, 40% lý thuyết, cũng không khác xa nhau mấy.

Từ căn bản đó, luận ra các thế như sau:


-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương (yếu, Âm, 100% lý thuyết) gặp Đại vận Sát Phá Liêm Tham
(mạnh, Dương, 100% thực hành): phát mạnh thì lại bị nặng, nhiều khó khăn, có thể có những cái
rủi lớn.

-Mệnh Sát Phá Liêm Tham gặp Đại vận Sát Phá Tham – giống nhau hợp, tốt.
-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương đến đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương giống nhau, hợp, tốt.

-Mệnh Sát Phá Tham gặp đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương: kém, nhưng không hiểm nguy, mặc
sống kém hơn so với các đại vận Sát Phá Tham (tóm lại là kém đi).

-Mệnh Sát Phá Tham gặp đại vận Tử Phủ Vũ Tướng, cùng Dương, vậy là không có gì khó khăn
nặng, nhưng cũng giảm kém xuống một chút vì sự khác biệt về thế thực hành, lý thuyết ( Sát Phá
Tham đương hoạt động 100/100, gặp Tử Phủ Vũ Tướng hoạt động giảm đi, nhưng thêm lý
thuyết thế vào).

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Tử Phủ Vũ Tướng: tốt.

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp đại vận Sát Phá Tham, phải hoạt động thâm lên như cũng giảm
kém chút đỉnh.

-Tử Phủ Vũ Tướng với Cơ Nguyệt Đồng Lương: cũng luận như giữa Sát Phá Tham và Cơ
Nguyệt Đồng Lương, nhưng sự khắc biệt, sự giảm kém không quá mạnh, là vì Tử Phủ Vũ Tướng
còn có 40% lý thuyết so với Cơ Nguyệt Đồng Lương 100% lý thuyết.

-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Cự Nhật: khác về Âm Dương, nhưng sự chênh lệch trong tỷ lệ lý
thuyết và thực hành rất ít, nên sự giảm kém cũng rất ít. Mệnh Cự Nhật gặp Tử Phủ Vũ Tướng
cũng luận theo như thế.

Vài yếu tố khác

Luận ba yếu tố trên, đủ thấy được đại cương Đại vận tốt xấu, một cách rất chính xác.

Còn những yếu tố phụ khác, nhưng cũng quan trọng, là các trung tinh lớn và các hung tinh lớn.

Ngoài ra có yếu tố lớn và chúng tôi đã nêu lên trong một kinh nghiệm trước cũng của cụ Thiên
Lương, đó là kinh nghiệm về Tuần Triệt như một yếu tố để giải đoán Đại vận, Tuần hay Triệt nói
chung làm giảm kém các sao tốt, nhưng lại làm tốt những sao hãm.

Nếu ở cung Mệnh có Tuần giải chế Mệnh thì đến Đại Vận có Triệt, mệnh được cởi gỡ ra và khá
lên. Cũng vậy, nếu ở Mệnh có Triệt thì đến Đại vận có Tuần, vận mệnh được gỡ ra và khá lên.

Một lá số để thử nghiệm

Xin lấy một lá số để cụ thể hóa các nguyên tắc trên bằng một cuộc áp dụng thật tế, để dễ nhận
định hơn.

Lá số trên, Mệnh tại Sửu, cách Sát Phá Liêm Tham; Hỏa mệnh; Âm nam; tam hợp tuổi là Hợi
Mão Mùi thuộc Mộc.

Đại vận 12-21 tại Tý – Tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc Thủy, Thủy sinh Mộc, vậy là
được Thiên thời, yếu tố chính. Cung Đại vận tại Tý là cung Thủy, khắc mệnh Hỏa: mất Địa lợi.
Bộ chính tinh là Cơ Nguyệt Đồng Lương, lệch với bộ Sát Phá Liêm Tham, nhưng không nặng
bằng khi Mệnh là Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp đại vận Sát Phá Liêm Tham. Trong giai đoạn
này, đương số sống dưới bóng cha mẹ, được đầy đủ điều kiện ăn học, nhưng cũng gặp khá nhiều
vấp váp trong việc học thi trượt mấy lần, và lúc cuối đại hạn cũng lên được đại học. Bị một đau
tưởng chết.

Đại vận 22-31 tại Hợi – Được Thiên thời vì Đại vận tại Hợi thuộc tam hợp Hợi Mão Mùi đồng
hành với tam hợp tuổi. Cung Đại vận thuộc Thủy, khắc mệnh Hỏa, mất Địa lợi, nhưng cũng kéo
lại phần nào là vì cung Âm đồng mệnh Âm. Bộ sao nặng về Tử Phủ Vũ Tướng, thuộc Dương
cùng với bộ Sát Phá Liêm Tham được lợi lạc. Tuy hành cung Đại vận khắc hành Mệnh, nhưng
cũng được khá. Trong đại hạn này, đương số sống cuộc đời nhiều biến cô, chen lẫn tốt với xấu.
Đường công danh thi trượt nhiều lần, nhưng đi làm, thi đậu đi làm chức cao, nhưng rồi lại bỏ
việc, sống khổ một thời gian ngắn, rồi lại khá lên. Đường vợ con: lấy vợ, sanh con. Sức khỏe:
mang những bệnh nặng trong người tưởng khó thể qua khỏi, nhưng rồi vẫn sống được. Tóm lại:
nhiều bước thăng trầm, nhưng vẫn khá.

Đại vận 32-41 – Tại Tuất, tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa, vậy là tam hợp tuổi bị sinh xuất
(Mộc sinh Hỏa).
Đại vận ở cung Thổ, mạng Hỏa, vậy là Mạng bị sinh xuất. Hai yếu tố Thiên thời, Địa lợi bị kém,
chủ về sự lao đao. Về bộ sao thấy có Cơ Lương chiếu, Cự Nhật chiếu, chủ về sự giảm kém.
Đương số quả gặp những bước lao đao, gây được một ít tài sản lại phải bỏ đi cư gặp mấy lần hạn
nặng (vì chánh trị, cụ Ngô Đình Diệm cho đi nằm ấp), một lần đau nặng cả năm trời tưởng chết,
nhiều lần thay đổi chỗ ở. Mặc dầu làm việc nhiều nhưng chỉ đủ ăn.

Đại vận 42-51 – Tại Dậu, thuộc Tị Dậu Sửu hành Kim, khắc tam hợp tuổi thuộc Mộc, là mất
Thiên thời. Cung Đại vận thuộc hành Kim, hành Hỏa của Mạng khắc Kim, tuy là khắc xuất
không nặng bằng khắc nhập, nhưng cũng là xấu, tuy chế ngự được hoàn cảnh và có những thành
công, nhưng phải khổ công hoạt động rất nhiều. Được Nhân hòa đúng bộ Sát Phá Liêm Tham
như tại Mệnh. Lại được thêm một yếu tố quan trọng: sao Triệt tại đây cởi gỡ cái Tuần của Mệnh
nên vận mạng sáng ra, được ổn định hơn.
Đương số trải qua những phen hứng khởi, hoạt động nhiều, đường làm ăn đều hòa hơn, tuy có
vài trận đau ốm. Nhưng gọi là thành công như ý muốn thì không có. Tuy nhiên, việc làm ăn, hoạt
động và hứng khởi, đều hơn trước, khá hơn trước, cho phép sắm sửa trong nhà, sống sung túc
hơn.

Đại vận 52-61 – Đại vận tại Thân, thuộc Thân Tí Thìn, Thủy sinh cho Mộc của tam hợp tuổi.
Được Thiên thời, cung Đại vận thuộc Kim, so với mệnh Hỏa là khắc nhập: vẫn phải tranh đấu
nhiều để khắc phục hoàn cảnh. Chính tinh gặp thế Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật Đại vận
phải giảm kém. Mất yếu tố Triệt cởi gỡ Tuần trong Đại vận trước. Tuy nhiên, yếu tố Thiên thời
là quan trọng.
Trong đại vận này, đương số đã bị một vài tật bệnh tưởng nguy nhưng thoát cả. Việc làm ăn
được đều hòa và có phần sung túc nhờ được người tốt giúp đỡ. Nhưng đại vận này mới được
phân nửa, chưa cho biết rõ hơn.
Muốn rõ chi tiết, phải coi nhưng trung tinh và hung tinh khác trong các cung.
Sự quan trọng của yếu tố Đại vận

-Yếu tố Đại vận rất quan trọng vì nó đứng chủ cho các tiểu vận. Các tiểu vận khá hay xấu là do
Đại vận mà ra.

-Phần nào, Đại vận cho phép bốc lên một cách khốc liệt theo Mạng, hoặc có thể vùi dập xuống
đến đất đen.
Như một người Mệnh thường nhưng mấy chục năm, chỉ làm những công việc thông thường.
Nhưng gặp Đại vận được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, bổng bộc phát dữ dội.
Nhưng qua khỏi Đại vận đó, lại tụt thang, trở về nếp sống cũ.

-Một sinh viên có một cung mệnh rất tốt, tương lai huy hoàng. Gặp phải đại vận mà cả ba yếu tố
Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa cùng hỏng, thế là đương nhẹ bước thang mây và có tương lai hứa
hẹn huy hoàng, anh ta bị nạn lớn và từ trần. Xem lá số, không thấy Mệnh và Phúc chỉ sự yểu
vong – nhưng xem đến Đại vận, thấy hỏng cả mấy yếu tố, nên chết. Đại vận thật là ghê gớm vậy
(lá số của anh sinh viên này sẽ được cụ Thiên Lương dẫn giải trong số giai phẩm tới)

Đó chỉ là một yếu tố để ấn định tai họa nặng. Cũng có những lá số được Thiên thời hay Địa Lợi
hay Nhân Hòa, nhưng bị chết, là vì còn những yếu tố khác.

KHHB số 74G2

Kinh nghiệm tử vi

NHỮNG YẾU TỐ LINH ĐỘNG TRONG VIỆC GIẢI ĐOÁN TỬ VI

· Về lý thuyết và thực hành các sao Lộc tồn, Hóa lộc, Tang, hổ, Hóa Kỵ
· Vận hạn
· Sinh khắc giữa hành Mệnh và cung an Mệnh.

Phong Nguyên

Nhiều vị cao thủ về Tử vi đã từng tâm sự với tôi rằng khi mới biết sơ qua về cách giải đoán Tử vi
thường thường ta thấy khoa Tử vi cũng giản dị và rõ ràng nhưng khi đã đạt được mức thâm thúy
thì đôi lúc lại thấy việc giải đoán quả khó khăn, dễ bị sai lầm và có thể còn thấy mù mịt, không
còn biết đi tới kết luận nào nữa. Mới thoạt nghe tâm sự như vậy ai cũng tưởng các vị đó quá
nhún mình hoặc gián tiếp giấu nghề, nhưng sau khi nghe các vị đó giải thích và trình bầy nhiều
khía cạnh thì chúng ta không thể không dè dặt khi đoán số Tử vi. Đó là lý do đã thúc đẩy tôi viết
bài hôm nay để thảo luận cùng quý bạn về đôi lời tâm sự của các nhà Tử vi kể trên.

Thực vậy, sau khi đã qua được giai đoạn ABC về tử vi, tôi mới nhận thấy rằng có các sao tốt
hoặc các yếu tố Tử vi tốt cũng chưa thể cho là tốt, ngược lại cũng vậy, đành rằng tỷ lệ tốt của các
sao tốt vẫn luôn luôn cao hơn tỷ lệ tốt của các sao xấu. Điều khó khăn là chúng ta phải căn cứ
vào những yếu tố nào để biết sao xấu trở thành tốt và sao tốt trở thành xấu. Để tìm hiểu khía
cạnh đó, tôi tạm chia bài này làm hai phần, một phần về lý thuyết và một phần về thực tế.
1)LÝ THUYẾT

Có một vài nhà Tử vi đã thâu thập được khá đầy đủ những tài liệu nêu rõ tất cả các sao tốt trở
thành xấu và các sao xấu trở thành tốt khi kết hợp với những sao khác hoặc khi bị thay đổi về vị
trí, về Can, Chi của năm sanh hoặc năm xem hạn. Riêng về phần này mớ tài liệu đó đủ thành một
cuốn sách, nhưng rất tiếc các vị đó không thể cho phổ biến và cũng không thể cho tôi coi kỹ
càng, mà chỉ có bàn luận với tôi về một số sao, cho nên tôi cũng chỉ liệt kê sau đây một phần nhỏ
mà thôi mặc dầu trong tâm hồn luôn luôn mong mỏi phổ biến được tối đa những sở học về Tử vi.

Lộc tồn

Quý bạn đều biết sao này là “chân nhân chi tú”, một sao gần như không có gì đáng chê cả, ở
cung nào ban phúc cho cung đó, nhất là ở cung Phúc đức là “phúc lộc hà sa” thì cuộc đời của ta
tha hồ hưởng phúc của ông cha để lại dù cho các cung khác yếu kém nhiều, sau nữa là ở Mệnh
hoặc Thân là cách suốt đời được no cơm ấm áo, mặc dầu nhiều vị và nhiều sách chê cung Tử tức
có Lộc tồn vì cho đó là cách hiếm hoi hoặc hình khắc con cái nhưng tôi đã nghiệm nhiều lá số có
cách đó mà vẫn đông con (đủ cả trai gái) chỉ có điểm là cha mẹ cứ phải lo cho các con ngay cả
khi chúng đã trưởng thành, có lẽ xấu là chỗ cha mẹ hơi vất vả về con cái mà thôi. Đấy là nói về
khía cạnh tốt của sao tốt. Còn về khía cạnh xấu thì phải nói ngay rằng ở bất cứ vị trí nào, hoặc
cung nào (nhất là cung Tử tức nếu Lộc tồn đồng cung với Cự môn thì tối kỵ, vì không những
Lộc tồn không còn đặc tính bình thường mà còn tạo ra nguy nan nữa, ngay cả khi nhập hạn cũng
vậy, có nhiều người chỉ vì hai sao này thôi mà bị kiện cáo, đau ốm và có khi còn bị tù tội nữa
(nếu thêm cách xấu khác). Còn về cung Tử tức nếu chẳng may bị hai sao trên thì thực đáng ngại,
khó lòng có con hoặc nếu có cũng chẳng nuôi được. Chẳng thế mà có câu phú “Cự phùng Tồn tú
các xứ toàn hung, ưu nhập Tử cung, tống lão vô nhi” (quí bạn nên lưu ý là nhiều sách chép “cát
xứ tàng hung”. Nhưng nhiều vị Tử vi cho biết là “các xứ toàn hung” nghĩa là ở các cung hay vị
trí đều hung cả mới hợp lý).

Ngoài ra, Lộc tồn còn kỵ cả Thiên Cơ và Không Kiếp. Nếu gặp Không Kiếp mà xấu thì chúng ta
chẳng lấy làm lạ vì Không Kiếp là hung tinh đương nhiên phải phá hại Lộc tồn, còn đối Thiên
Cơ là sao tốt mà cũng kỵ thì có phải là kỳ lạ hay không? Nhưng nếu được biết rõ Thiên Cơ là cái
máy, tức là có sự chuyển động, thì làm sao tiền tài có thể tụ lại được vì cứ luôn luôn bị cái máy
hất tung ra. Nếu Thiên Cơ nhập hạn có Lộc tồn thì càng hao tán tiền bạc nữa vì Thiên Cơ chuyển
trong hạn lại càng chạy mạnh mẽ và thường xuyên hơn, như thế tiền không có lối vô, tức là
không thể tụ của được. Còn về Không Kiếp, chắc có bạn thắc mắc tại sao Lộc tồn lại không ngại
Thiên không. Chắc quý bạn đều biết Không Kiếp tượng trưng cho hung đồ, chứ Thiên không chỉ
tượng trưng cho hao tán chứ không bao hàm ý phá hoại. Do đó nếu Lộc gặp Thiên không có khi
vẫn hay vì như thế chứng tỏ mình được ăn tiêu rộng rãi và được hưởng thụ nhiều chứ không bo
bo giữ của, nhưng nếu gặp Kiếp Không thì không khác gì ông triệu phú, tỷ phú bị cướp bóc, tống
tiền hoặc bị phá sản đau đớn. Trong trường hợp này nếu không có Lộc tồn lại tốt hơn vì đỡ bị
mang họa vào thân mà còn hòa mình được với Không Kiếp để phát lên theo chiều hướng khác
(như buồn lậu, xưng bá đố vương một vùng…)

Hóa Lộc

Có thể nói từ khi tôi học Tử vi đến giờ, tôi chỉ được nghe nói là Lộc tồn còn có điểm xấu chứ
chưa thấy ai nói đến Hóa Lộc bị khía cạnh gì xấu, dù cho ở hãm địa cũng chỉ kém mà thôi.
Nhưng nay có vị cho biết là Hóa Lộc không nên đồng cung với Hóa Khoa mà chỉ nên đồng cung
với Hóa Quyền. Vì nếu gặp Hóa Khoa sẽ tán tài, trong khi gặp Hóa Quyền vừa mở miệng ra là
người khác đưa tiền cho mình vì tín nhiệm hoặc chịu ơn…Nếu Hóa Khoa ở cung khác chiếu về
thì vẫn hay như thường, chỉ ngại đồng cung mà thôi. Tại sao vậy? Vì Hóa Khoa chủ về hoạt động
(cũng tựa như Thiên Cơ một phần), chỉ hay cho thi cử, học hành chứ không lợi cho tài lộc. Cho
nên phú có câu “Khoa Lộc Tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng” tuy không nói về tài lộc
nhưng gián tiếp nói về Hóa Lộc gặp Hóa Khoa, vì khi Khoa phá Lộc thì rất cần sao Tuần chụp
giữ Khoa lại để cho ăn được Lộc mà thành sự nghiệp hiển hách. Nhiều sách chép là “Quyền
Lộc” tưởng không được đúng cho lắm, và nhất là không viết “Tuần” bằng chữ hoa thành ra ai
cũng tưởng là hạn gặp Quyền Lộc chứ đâu có nghĩ là gặp sao Tuần.

Ngoài ra, khi Hóa Lộc gặp Lộc tồn (đừng nên đồng cung, mặc dù nhiều vị vẫn cho là hay) thì
không nên gặp Tả phù, Hữu bật mà chỉ nên gặp Nhật Nguyệt đắc địa, vì khi đã có Song Lộc tức
là cách đại phú thì chỉ làm ăn lớn, tức là xứng với cách Nhật Nguyệt chứ lại gặp luôn cả Tả Hữu
là cách cái gì cũng làm thì có phải là không hợp cách hay không, và như thế tức là giảm cách
giàu sang đi nhiều.

Tang, Hổ

Trên đây là một vài sao tốt đã trở thành xấu, nhiều hoặc ít tùy theo trường hợp. Nay tôi xin đề
cập tới một vài sao xấu trở thành tốt. Tỷ dụ như hai sao Tang, Hổ, ai chẳng biết là bại tinh,
nhưng chúng vẫn có những điểm khá hay như sau:

Khi Tang môn gặp Thái Dương (ở Mệnh Thân cũng như nhập hạn) thì lại tốt vì mặt trời chiếu
qua cửa (Môn), tức là có công dụng đúng lúc và đúng chỗ, và do đó công danh, sự nghiệp tiến
triển. Còn gặp Thái Âm thì không hợp cách, vì Tang không hợp với đêm tối.

Tang Hổ tuy chủ về sự phiền muộn, trở ngại nhưng cũng có nghĩa là làm cho người khác đau
khổ, lo buồn khi hai sao đó đóng tại cung Quan lộc hoặc cung Mệnh. Và khi mình đã có khả
năng làm cho kẻ khác lo buồn tức là mình phải có chức phận cao có uy quyền sinh sát (như về
ngành Tư pháp, Cảnh sát, An ninh)…thì mới có thể gây “thất điên bát đảo” cho thiên hạ được.
Lẽ tất nhiên cũng cần phải có thêm một số sao khác bổ túc mới đạt được quyền uy đó, nhất là các
sao Khoa, Quyền, Lộc và …Khốc Hư. Hai sao Khốc Hư cũng vậy, tuy chủ về đau buồn, rơi nước
mắt nhưng khi đóng đúng chỗ thì chính là người khác chịu như vậy chứ không phải chính mình.
Tuy vậy hai sao Tang Hổ và cả Khốc Hư không nên tọa thủ tại Mệnh, Thân vì như thế chính
mình cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các sao đó, tức là cũng hay bị đau buồn, khổ não trong
lòng mặc dầu cũng gây ra được những điều đó cho người khác. Quý bạn hãy thử kiểm lại các lá
số của những vị làm lớn, thường thường có Tang Hổ tại Mệnh hoặc Quan lộc.

Khi bạch hổ tọa thủ tại mệnh nếu có Thiên hình đồng cung hoặc xung chiếu thì đó là cách oai
phong lẫm liệt, như ông tướng (Bạch Hổ) có kiếm báu (Thiên Hình) nhất là khi Bạch Hổ cư cung
Dậu hoặc Thân, nhưng với điều kiện không có các sao “hiền” kèm theo, tỷ dụ như Quan phúc, bộ
Tứ Đức, Thai, Tọa…vì các sao này làm giảm hẳn “nhuệ khí” của ông tướng, như thế khó thành
công, khó có uy quyền thực thụ.
Long là cách rất hay ( cụ Ba la hay khen cách này lắm, và hình như Cụ Quản Văn Chính cũng đã
nhắc lại trên KHHB rồi), nhất là được người Âm Nam và tuổi Đinh, Kỷ. Tôi nghiệm thấy nhiều
khi không được cách gì khác mà chỉ có mỗi cách trên, thế mà đương số vẫn có địa vị và sự
nghiệp cao trong xã hội.

Sinh khắc giữa bản Mệnh và cung an Mệnh

Đa số các sách Tử vi và các nhà Tử vi đều cho rằng cung Mệnh phải sinh bản mạng mới tốt,
nhưng có vị cho rằng có trường hợp sinh là xấu mà khắc mới hay. Đó là trường hợp người Âm
Nam hoặc Dương Nữ, cần phải có cung Mệnh khắc bản mạng mới tốt, chỉ vì lẽ thuận nghịch mà
ra. Chắc các bạn cũng để ý thấy rằng khi người nào thuộc Âm nam hoặc Dương Nữ thì đương
nhiên phải an đại hạn đi nghịch, và vòng Tràng Sinh, Lộc tồn cũng an nghịch. Do đó khi cho
rằng cung Mệnh khắc với bản mạng trong trường hợp này, mới tốt tưởng cũng không có gì là kỳ
lạ, mâu thuẫn mà thực ra như thế mới là thích hợp vì cùng theo lẽ “nghịch” cả.

Vận hạn

Về phương diện giải đoán đại tiểu hạn cũng vậy, tôi đã từng nhắc nhở quý bạn là cần nhận định
tương xứng là biết ngay được tốt xấu, chứ đừng bao giờ căn cứ vào đặc tính tốt xấu của các sao
mà giải đoán. Nhân dịp này, tôi lại xin nêu ra một vài thí dụ nữa cho đầy đủ: Tỷ dụ như hạn gặp
cách Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa Quyền Lộc Khôi việt sáng sủa ai mà không khen, thế mà vẫn có
những người gặp cách này lại khốn đốn chứ không nói là bình thường chỉ vì mạng người đó có
Không Kiếp hãm địa hoặc Sát Phá Liêm Tham hãm địa hội hợp. Chắc có bạn không đồng ý vì
nghĩ rằng gặp cách tốt nếu không hợp thì tốt ít chứ có khi nào trở lại nên xấu. Nhưng nếu quý
bạn thử so sánh nhóm sao tại Mệnh như những nhóm bất hảo, côn đồ và những sao nhập hạn như
những nhân vật cao cấp, đứng đắn, uy quyền thì các bạn sẽ thấy ngay là nhóm trên đương nhiên
bị nhóm sau áp đảo, không dung nạp nổi (như bắt bỏ tù hoặc dùng hình phạt nào đó). Cũng trong
trường hợp này nếu nhóm sao tốt Tử Phủ Vũ Tướng bớt được Khoa Quyền Lộc và bị thêm Tuần,
Triệt án ngữ thì lại lợi ích cho cách ở Mệnh vì khi đó các nhân vật ấy bị giảm uy quyền (tức là
thiếu Khoa Quyền Lộc) lại còn bị gò bó (Tuần, Triệt) làm sao đè ép được nhóm bất hảo kia, đành
để chúng mặc sức tung hoành. Nếu bình thường ta thấy cách Tử Phủ Vũ Tướng bị Tuần, Triệt
(nhất là Tử vi tối kỵ Tuần, Triệt) thì khó lòng ta dám cho là hay, nhưng riêng trường hợp trên
điểm xấu này đã dùng được, nếu không nói là tốt.

2)THỰC TẾ

Phần này hoàn toàn không dính dấp gì đến các nguyên tắc lý thuyết về Tử vi vì chỉ căn cứ vào sự
nhận xét sự kiện trước mắt, rồi phối hợp với các yếu tố Tử vi đã tìm ra, xem có sự tương hợp hay
không để đi đến kết luận tốt hay xấu. Để cho dễ hiểu xin quý bạn đọc vài thí dụ sau đây:

-Nếu tình cờ quý bạn xem Tử vi cho một bệnh nhân đau yếu liệt giường chỉ chờ ngày chết (nhất
là người bịnh đã già) thì quý bạn cần để ý xem đại tiểu hạn của người đó thật tốt hay không, nếu
còn xấu hoặc hơi xấu thì phải đoán là con bệnh chưa thể chết được cứ phải đau khổ chịu đựng
nữa. Nếu may được đại tiểu hạn thật tốt, như có Quan Phúc Khôi Việt Song Hỷ Tả Hữu Đào
Hồng Khoa Quyền Lộc thì có thể quyết đoán là mãn số vì lúc đó Trời, Phật (Quan Phúc Khôi
Việt) mới giúp (Tả hữu) bệnh nhân dứt được mối khổ đau triền miên để ngậm cười (Song Hỷ)
nơi chín suối. Phải chi bịnh nhân chỉ mới đau yếu đôi ngày hoặc đôi ba tuần thì việc giải đoán lại
phải theo như thường lệ, nghĩa là thấy đại tiểu hạn xấu mới chết được.

-Tôi có được coi khá nhiều lá số của trẻ sơ sinh và có nghiệm được trường hợp mâu thuẫn sau
đây: con của người lưu manh, du đãng, tứ chiếng cao bồi nếu có lá số Tử vi thật tốt (nghĩa là từ
cung Mệnh, Thân, Phúc đức cho tới Ngũ hành sinh khắc đều tốt đẹp và cũng không phạm giờ
xấu nào) thường thường không nuôi được mới lạ chứ! Phải chăng phúc đức của những người đó
không dung nạp được nổi một quý tử như vậy cho nên phải ra đi vĩnh viễn để đầu thai qua nhà
khác mới thích hợp. Vì vậy, mỗi khi xem số Tử vi cho trẻ sơ sinh quý bạn rất cần phải biết rõ gia
thế, cha mẹ của đứa bé thì mới có thể quyết đoán được vấn đề nuôi dưỡng được hay không. Tôi
xin nhấn mạnh là mình nên chú ý tới cái đức của gia đình đứa trẻ chứ không cần chú trọng tới sự
giàu sang, vì thiếu gì các vị lãnh tụ hoặc nhân vật lỗi lạc đã xuất thân từ một gia đình bần hàn,
nghèo khó hoặc từ một người nông dân lam lũ. Chỉ có điểm khó là làm sao chúng ta biết được
chính xác âm đức của gia đình đứa trẻ được tới mức nào. Đó là do nhận xét tinh vi của người
xem số hoặc nếu biết coi tướng mặt thì càng biết rõ hơn. Bởi vậy khi xem số cho trẻ sơ sinh
chúng ta không nên quyết đoán hấp tấp khi thấy có nhiều yếu tố cực kỳ tốt, vì chính những điểm
“cực kỳ” đó là con dao hai lưỡi đối với đứa trẻ, nếu gặp một gia đình có âm đức thật tốt thì
đương nhiên nó sẽ nên người và có công danh, sự nghiệp huy hoàng, còn trường hợp sinh ra
trong một gia đình thất đức, độc ác thì cần…hỏi lại.

-Có nhiều trường hợp giải đoán vận hạn, gặp đủ các yếu tố Tử vi tốt thực mà vẫn không đáp ứng
đúng sở nguyện của người liên hệ, như thế vẫn chưa có thể gọi là hạn tốt. Tỷ dụ như một người
tỷ phú tiền rừng bạc biển nhưng lại hiếm con, nhất là con trai, khi nhờ ta coi số mà thấy đại tiểu
hạn có toàn sao tài lộc, sự nghiệp thăng tiến (như có Phủ, Vũ hội Song Lộc, Long Phượng Hổ
Cái…) nhưng lại có sao ngăn cản sự sinh sản (như Cô Quả, Đẩu quân, Thiên hình, Thiên Hư,
Tang Hổ…) thì ta đừng nên vội mừng cho đương số, nếu ta đã được biết rõ sự thực như trên về
đương số. Cũng trường hợp này, nếu hội vừa đủ các sao khả dĩ báo hiệu sự sinh con (trai) thì dù
có buôn thua bán lỗ chắc đương số vẫn sung sướng, thỏa mãn như thường. Tuy khía cạnh này chỉ
là tâm lý và hoàn cảnh các nhân nhưng tôi thấy vẫn có thể áp dụng chung. Tôi xin nêu thêm một
thí dụ khác cho dễ hiểu hơn: Nếu một người có Mệnh hội đủ các sao thanh nhàn, thụ hưởng như
Thai Tọa, Quan Phúc, Đào Hồng, Song Hỷ, bộ Tứ đức mà lại gặp một đại tiểu hạn có đủ các sao
hoạt động hăng say, thành công vượt bực, uy quyền hiển hách thì đương nhiên nếu ta không cân
nhắc ta sẽ quyết đoán là đương số được hưởng một giai đoạn huy hoàng, sung sướng thực sự,
nhưng đối với đương số rất có thể lại là chuyện “không ham” vì bị gò ép vào môi trường trái
ngược với sở nguyện của mình, mặc dầu trước nhãn quang của thiên hạ đó là điều đáng ước mơ.

Qua những điều trình bầy trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy việc giải đoán Tử vi quá linh động,
uyển chuyển, nhất là về phương diện lý thuyết vì phương diện này đòi hỏi một căn bản thực sự
mà ít khi ta có vì các tài liệu giá trị không được ai phổ biến. Còn về phương diện thực tế có lẽ chỉ
quan trọng khi ta đặt nặng vấn đề tâm lý hoặc khi ta muốn tìm hiểu lá số của chính mình cho
thực khách quan, hoặc khi ta đang hành nghề Tử vi muốn chinh phục được hoàn toàn thân chủ
của ta mà thôi. Tuy nhiên, quý bạn cũng đừng bao giờ nên quá đa nghi các cách tốt để đến nỗi lá
số nào cũng chê là xấu, hoặc gặp lá số thật xấu lại khen là hay, như thế cũng không phải là linh
động.

KHHB số 74G2
HƯỚNG DẪN CÁCH LUẬN GIẢI TỬ VI

Muốn lập thành một lá số Tử Vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là Năm-Tháng-Ngày-Giờ sinh theo Âm
Lịch. Cách lập thành lá số Tử Vi nói chung có nguyên tắc chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương
cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm... của người giải đoán mà
sẽ có những lời giải đoán khác nhau.

Để giải đoán được Tử Vi giỏi, đại khái cần phải có 4 điều kiện sau:

Trí nhớ - Tử Vi là một khoa lý số cổ học rất phức tạp nên rất cần có trí nhớ tốt để thuộc các
nguyên lý của Âm dương, Ngũ hành, Can Chi và ý nghĩa tính chất của các Sao.
Suy luận - Phải suy luận để phân tích, phối hợp, chế hóa sự sinh khắc của âm dương ngũ hành và
xấu tốt của các sao đóng tại mỗi cung số.

Trực giác - Cần phải có trực giác bén nhạy để giúp ích cho những sự suy luận.

Kinh nghiệm - Phải thực hành cho nhiều, đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết để suy luận
ra những lời giải đoán cho súc tích, phong phú và chính xác.

Để giúp các bạn mới bắt đầu tự nghiên cứu Tử Vi được dễ dàng, dễ hiểu và có kết quả, chúng tôi
mạo muội xin đưa ra những phương pháp, hướng dẫn cụ thể để các bạn theo thứ tự học hỏi hầu
có thể tự giải đoán được lá số của mình.

Vào một trong các trang Web Tử Vi Đẩu Số - VietShare An Sao - Tinh Vân Horoscope hay Kinh
Dịch - Tử Vi để lấy và in ra lá số. Mỗi khi điền vào các ô ngày-tháng-năm sinh theo dương lịch,
chương trình lấy lá số Tử Vi sẽ tự động chuyển đổi ngày tháng và năm sang âm lịch mà không
phải nhờ đến software chuyển đổi hay tra cứu Vạn Niên Lịch.

Xem giải thích cách trình bày và hiểu ý nghĩa của lá số.

Những Nguyên Tắc Căn Bản phải nhớ

Những nguyên tắc căn bản về Âm Dương / Can Chi và Ngũ hành sinh khắc .

Những quy tắc phối chiếu của Tam hợp - Nhị hợp - Xung chiếu giữa các cung trong lá số Tử Vi.

Những Tiến Trình Luận Đoán Số phải theo:

Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt
xấu của cung cần giải đoán.

Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh

Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục


Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số

Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại
cương của cuộc đời cho lá số.

Những Đặc Tính của các Sao phải hiểu

Xem tổng hợp bộ cách của Chính tinh và các trung tinh tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an
Thân và cung Phúc Đức để biết tổng quát lá số của mình được các cách gì.

Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.

Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung
Mệnh-Thân.

Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số.

Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung
quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.

Xét tới giá trị và ảnh hưởng biến đổi của các sao theo thời gian của mệnh số.

Xem sự liên đới của các sao với nhau, nếu các sao này kết hợp thành cách cục hay bộ cách thì sẽ
có tác dụng mạnh mẽ hơn là đóng đơn lẽ hay lạc lỏng.

Nếu muốn xem cung nào thì phải phối hợp ý nghĩa, đặc tính và đặc điểm của các sao tọa thủ, hợp
chiếu và nhị hợp tại cung đó, quân bình số lượng các sao rồi đúc kết các yếu tố lại để đưa ra lời
lý giải kết luận về cung muốn xem.

Phải tập xem phần giải đoán qua các lá số mẫu để biết cách lý giải lá số. Phần này có thể xem
qua các bài sưu tập về "Vấn đáp Tử Vi < vdap_tv.html&g thienduc
thamluan.lysodongphuong.com" của Tướng Số gia Thiên Đức đăng lại trên trang Web này để rút
tỉa kinh nghiệm về cách thức giải đoán lá số. Mỗi câu vấn đáp nói trên đều có phần lược giải về
Tử Vi cho người đặt ra câu hỏi.
Hiện tại phần "Tính lý các sao" của trang Lý Số Đông Phương chưa được hoàn thành đầy đủ, nên
các bạn có thể qua trang Web của Vietshare , sau khi lấy xong lá số thì nhấn nút chuột trên tên
của mỗi sao tại cung nào muốn xem thì sẽ có ngay lời giải tóm tắt về đặc tính của sao đó ngay
trên màn ảnh.

Những cung cần phải xem

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến
bản thân mình là Quan lộc - Tài bạch - Tật ách - Thiên di - Điền trạch - Nô bộc.

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến
lục thân như Phối ngẫu - Tử tức - Phụ mẫu - Huynh đệ

Những Vận Hạn Trong Cuộc Đời phải biết

Cách Giải Đoán Vận Hạn

Xem các Đại vận 10 năm của lá số

Xem Tiểu vận từng năm

Luận về cung tam hợp

Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp,
cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.

Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chiùnh là quan
trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau
hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh
hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.

Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai
cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung
chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.

Dưới đây là 4 bảng Tam Hợp:

Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho
Tứ Sinh (Dần-Thân-Tỵ-Hợi) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính (Tý-Ngọ-Mão-Dậu) được đầy đủ
sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp.

Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác, rồi tập trung về lại nguồn cội
trung ương, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp
căn bản của Tử Vi Đẩu Số.

Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau
nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng các cục diện khác tranh đua biến
đổi sinh khắc lẫn nhau.

Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm
dương của tam hợp cục nữa. Lấy ví dụ người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-
Tuất. Nếu là Dương Nam/ Âm Nữ khởi theo chiều thuận đi từ cung Dần đến cung Tuất nên
những sao tam hợp đóng tại cung Dần sẽ ảnh hưởng nhiều hơn là những sao cùng tam hợp tại
cung Tuất. Còn với người Âm Nam/ Dương Nữ theo chiều nghịch đi ngược lại từ cung Tuất đến
cung Dần nên những sao tam hợp tại cung Tuất sẽ ảnh hưởng nặng hơn là những sao tại cung
Dần.

Thuyết Âm Dương theo kinh Dịch Chúng tôi xin sơ lược tóm tắt về thuyết Âm Dương:

Theo học thuyết cổ của Trung Hoa, nguồn gốc sơ khởi của vạn vật trong vũ trụ là Thái Cực.
Trong thái cực có hai động thể tiềm phục đó là hai khí Âm Dương - gọi là Lưỡng Nghi.

Âm và Dương là hai mặt tương phản đối lập, mâu thuẫn, ức chế lẫn nhau nhưng thống nhất,
nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau, trong Dương có mầm của Âm và trong Âm có mầm của Dương.
Vạn vật được sinh thành và biến hóa nhờ hai khí Âm Dương này phối hợp.

Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triễn và suy tàn
được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương - Thái Dương và Thiếu Âm - Thái Âm)

"Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành
Ngũ hành." (Đổng Trọng Thư)

Tứ tượng nhờ ảnh hưởng của hai khí Âm Dương thúc đẩy và biến hóa khai sinh ra:

4 mùa - Xuân Hạ Thu Đông

5 chất gọi là Ngũ hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ

8 hình dạng khác nhau của vũ trụ được gọi là Bát Quái
Càn chỉ trời, Khảm chỉ nước, Cấn chỉ núi non, Chấn chỉ sấm sét, Tốn chỉ gió, Ly chỉ lửa, Khôn
chỉ đất, Đoài chỉ đầm lầy.

Bài đọc thêm nói về thuyết Âm Dương:

Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hóa không
ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.
Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái
là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).

Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp
đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hóa không ngừng và qui luật của sự biến hóa đó, người xưa đặt ra "thuyết âm
dương". Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thế nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất
cả mọi sự vật. nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hóa và phát triển của sự
vật. Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô
hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.

Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo,
đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm. Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái
nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương.

Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam,
phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc,
phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.

Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí , vệ; Âm là mé trong,
trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.

Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở
nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại
có mầm mống của âm...

Hướng Dẫn Giải Đoán Vận Hạn

Muốn giải đoán được vận hạn của đời mình, cần phải theo các nguyên tắc được hướng dẫn sau:

Những Nguyên Tắc Căn Bản

Quan sát gốc Đại hạn 10 năm

Quan sát lưu Đại Vận từng năm

Quan sát lưu niên Tiểu hạn 1 năm

Nhận Định về Hạn

Liên hệ giữa Đại hạn và Tiểu hạn


Đại hạn 10 năm tốt đẹp nhưng bị Tiểu hạn một năm xấu thì cũng không đáng quan ngại vì ảnh
hưởng tốt của đại hạn đã giải trừ được những sự xấu của Tiểu hạn. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ
phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.
Đại hạn 10 năm xấu nhưng được Tiểu hạn một năm tốt thì sự tốt đẹp của Tiểu hạn cũng bị giảm
bớt.

Liên hệ giữa Mệnh-Thân và Hạn

Mệnh Thân và Hạn tốt - Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến
tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu
được Hạn tốt nữa thì ví như gấm thêm hoa.
Mệnh Thân tốt gặp Hạn xấu - Mệnh Thân tốt có thể giải trừ được một phần lớn ảnh hưởng xấu
của Hạn.
Mệnh Thân xấu được Hạn tốt - Được phát ví như lúa non gặp mưa thuận gió hòa, cây khô gặp
mùa Xuân, nhưng không bền.
Mệnh Thân và Hạn xấu - Rất xấu như sinh bất phùng thời.

Ảnh hưởng của Chính tinh là Nam hay Bắc Đẩu Tinh nhập hạn

Nam Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian sau của Đại và
Tiểu vận. Nếu bị Tuần Triệt thì đoán ngược lại.
Các Nam Đẩu Tinh là Thái Dương - Thiên Cơ - Thiên Đồng - Thiên Lương - Thiên Tướng và
Thất Sát. Các chính tinh trên hợp với người dương nam và âm nữ, nếu được miếu vượng hay đắc
địa thì càng thêm tốt đẹp.
Riêng hai chính tinh Tử Vi và Thiên Phuû là Nam Bắc Tinh
Bắc Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian đầu của Đại và
Tiểu vận.
Các Bắc Đẩu Tinh là Thái Âm - Vũ Khúc - Tham Lang - Liêm Trinh - Phá Quân và Cự Môn.
Các chính tinh trên hợp với người âm nam và dương nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì
càng thêm tốt đẹp.

Ảnh hưởng của Sao nhập hạn


Ảnh hưởng các Sao lưu động mỗi năm
Đại Tiểu Hạn trùng phùng
Cung gốc đại vận 10 năm với lưu niên tiểu vận đồng cung, sự việc tốt xấu hay dở của năm xem
hạn tại cung trùng phùng này sẽ gia tăng.
Thí dụ: hạn năm Ngọ 32 tuổi lưu niên chữ Ngọ trùng với cung gốc của đại vận 23-32 tuổi

Yếu tố thiên thời của đại-vận (10 năm)

Mỗi đại-vận là một thiên-thời, đắc được thiên-thời gặp vận hội tốt đời sẽ lên hương, còn mất
thiên-thời thì đời sẽ thấy khó-khăn để rồi đi xuống.

Lấy ngũ hành của tam hợp tuổi đem so-sánh với hành tam hợp của cung đại vận nhập hạn:

Tam hợp tuổi tương đồng hành tam hợp vận - đắc vận Thái-tuế (thiên-thời) là đại-vận tốt đẹp
nhất trong đời; thêm sao tốt nhập hạn thì được như gấm thêu hoa, nếu gặp ách-nạn thì cũng sẽ
được cứu-giải mà qua khỏi.

Trường-hợp bị Hung-sát-tinh phá cách như Không-Kiếp ... thì vẫn được lên nhưng rồi dễ xuống,
hay gặp khó-khăn và trở-ngại, vận hội tốt còn hưởng độ 50% mà thôi.

Đại-vận này cần phải được thêm tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ hổ trợ thì mới được hưởng vận
Thiên-thời một cách chính-đáng, trọn-vẹn và bền-bỉ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Dần-Ngọ-Tuất (đại vận hỏa
đồng hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-vận sinh-nhập hành tam-hợp-tuổi - được thuận-lợi và sức-khỏe tốt; tuy-nhiên vì nằm
trong tam-hợp Thiên-không nên cũng hay dễ xảy ra những sự thất-bại và buồn lòng, nếu đắc
Hóa-khoa có thể cứu-giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Hợi-Mão-Mùi (đại vận mộc
sinh hành tam-hợp tuổi hỏa)

Tam-hợp-tuổi khắc-xuất hành tam-hợp-vận - bị sa-lầy, nhiều vất-vả (Thiếu-âm), phải gắng công
tranh-đấu (Phá-Hư-Mã); có thể nhờ đến phần Nhân-hòa (sao) giúp-đỡ.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Tỵ-Dậu-Sữu (đại vận kim bị
hành tam-hợp tuổi hỏa khắc)

Tam-hợp-vận khắc-nhập hành tam-hợp-tuổi - khắc ngược rất xấu, cần phải có được nhiều sao tốt
để cứu giải.

Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Thân-Tý-Thìn (đại vận thủy
khắc hành tam-hợp tuổi hỏa)

Yếu tố địa lợi của Đại-vận (10 năm)

Địa-lợi là nơi an thân của bản mệnh tại đại vận. Nếu cung hạn tương sinh tất bản mệnh sẽ được
vững chắc an lành. Phần này phải lấy ngũ hành nạp âm của mệnh so-sánh với ngũ hành của cung
nhập-hạn :

Tương-Sanh - sức-khỏe dồi-dào và thường gặp may-mắn.


Thí dụ người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Dần-Mão thuộc mộc được tương sinh.

Tương-Khắc - sức-khỏe kém, thường gặp nhiều khó-khăn và bất trắc xảy ra.
Thí duï người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Hợi-Tý thuộc thủy bị tương khắc.

Nếu hành bản mệnh bị hành của cung đại-vận khắc rất xấu, nhưng được Chính-tinh tại cung đại-
vận sinh-nhập lại mệnh (tức cung sinh sao và sao sinh lại mệnh) là cách "tuyệt xứ phùng sinh"
rất tốt (ví dụ người mệnh hỏa bị hành của cung đại vận tại Hợi hay Tý thuộc thủy khắc, nhưng lại
được chính tinh Thiên Cơ hoặc Thiên Lương tại Hợi-Tý thuộc mộc sinh lại bản mệnh)

Yếu tố nhân hòa của đại-vận (10 năm)

Nhân-hòa là thứ cách quan trọng sau yếu-tố Thiên-thời, nếu được Thiên-thời và Địa-lợi nhưng
không được phần "Nhân-hòa" thì dù bản-thân có may-mắn đến đâu thì cũng phải bị nhiều vất-vả
mới được thành-công, vì ít được sự trợ-giúp của bên ngoài.

Phần này phải xem bộ Chính tinh Đại-vận có cùng hay khác thế lưỡng-nghi với bộ Chính tinh
của tam hợp Mệnh:
Nếu Chính tinh đồng bộ cùng phe phái lưỡng-nghi (như Tử-Phủ-Vũ-Tướng gặp Sát-Phá-Liêm-
Tham) thì khi chuyển vận gặp nhau ít thay-đổi, thêm Trung-tinh đắc cách tam-hợp thì được hòa-
thuận tốt đẹp.

Bằng như khác phe phái (như Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì hẳn là có sự
đụng-độ và khó-khăn, phần thiệt-hại vẫn là phần của phe yếu thế là Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương;
nếu gia thêm Sát-tinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may.

Tư-thế của bốn bộ Chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn-mỹ và thành-công thì cần
phải có tối thiểu:

- Bộ T-P-V-T cần nhất là Tả-Hữu, Thai-Tọa


- Bộ S-P-L-T cần nhất là Thai-Cáo và Lục-sát-tinh
- Bộ C-N-Đ-L cần nhất là Xương-Khúc và Khôi-Việt
- Bộ C-N cần nhất là Hồng-Đào, Quang-Quý

* So-sánh hành Sao nhập hạn sinh hay khắc với hành Mệnh, bộ Sát-Phá-Liêm-Tham mỗi khi
nhập hạn thường có những cuộc thăng-trầm khá quan-trọng xẩy ra.

Luận về Lưu niên đại hạn

Ngoài cách xem các đại vận 10 năm ra, nếu muốn xem đại vận một cách tường tận hơn thì phải
xem cả lưu đại hạn của từng năm một.

Nếu muốn biết xem lưu đại vận từng năm một của mỗi 10 năm đại vận thì phải khởi năm thứ
nhất từ con số đầu ghi ở cung gốc đại hạn muốn xem, tính tiếp sang cung xung chiếu của cung
gốc hạn là năm thứ hai, sau đó:

Dương Nam - Âm Nữ : Từ năm thứ hai ở cung xung chiếu lùi lại một cung (theo chiều nghịch
kim đồng hồ) là năm thứ ba, xong trở thuận lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp
tục theo chiều thuận ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn
sau.

Xem bảng thí dụ cách tính lưu đại vận của 10 năm đại vận từ 22 đến 31 tuổi của tuổi Dương
Nam / Thủy Nhị Cục bên trái dưới đây.

Âm Nam - Dương Nữ : Từ số của năm thứ hai ở cung xung chiếu tiến lên một cung (theo chiều
thuận kim đồng hồ) ghi số kế tiếp là năm thứ ba, xong trở lùi lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm
thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều nghịch ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung
gốc của đại hạn sau.

Luận về Lưu niên tiểu vận (1 năm)

Trong lá số Tử Vi, chung quanh phần địa bàn (trung tâm của lá số) kế bên ô mỗi cung đều được
ghi 1 địa chi (ví dụ Tý-Sửu-Dần-Mão ...) theo chiều nam thuận nữ nghịch, đó chính là năm tiểu
vận tại mỗi cung của đời người - ví dụ năm Kỷ Mão thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Mão,
năm Canh Thìn thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Thìn ...

Khi xem tiểu vận phải xem phối hợp với cung gốc của 10 năm đại vận của tiểu vận đó. Tiểu hạn
(dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.

Mỗi tiểu hạn, chúng ta cần phải so sánh đến các tương quan giữa Can Chi của tuổi với Can Chi
của năm nhập hạn vaø ngũ hành của các sao nhập hạn, sau đó phải so sánh hành bản mệnh với
hành của cung tiểu vận nhập hạn theo bảng dưới đây để biết được tiểu vận đó tốt hay xấu.

So sánh hành Can của tuổi và Can năm nhập hạn (gốc, quan hệ)

So sánh hành Chi của tuổi và Chi năm nhập hạn (ngọn, thứ yếu)

So sánh hành bản mệnh và hành của năm hạn (tính theo nạp âm) để biết mức độ đắc thất.

So sánh Can của tuổi và Hành sao nhập hạn phụ thêm để quyết định.

Phụ luận :

Trong đời người từ nhỏ đến 60 tuổi có 5 lần gặp năm Thiên khắc Địa xung nhưng chỉ có 2 lần
xung quan trọng là Năm 43 tuổi (hàng Can bị sinh xuất) và Năm 67 tuổi (hàng Can bị khắc nhập)
vừa là giai đoạn gặp Thiên thương hay Thiên sứ.

Còn Năm 49 tuổi thường xấu vì tuy hàng Can của năm được sinh nhập (hưng vượng) nhưng
hàng Chi lại nằm ở thế Phá Hư (không đắc ý) nên khiến cho từ chổ thành công mà lại đưa đến
chỗ thất bại bất mãn; chẳng khác gì cây bị úng nước, rể phải hư và ngọn bị héo tàn.

Từ 49 đến 50 tuổi, 53 đến 60 tuổi và từ 67 đến 70 tuổi là ba đoạn đường đổ dốc để lượn lên các
ngôi sơ thọ (50) - trung thọ (60) và thượng thọ (70) luôn luôn có Thương cung Nô và Sưù cung
Ách là hai đồn canh đứng chặn giữa ba đoạn đường đại vận này để kiểm soát suôi ngược.

Người lái xe phải lành nghề (vòng Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (Quyền Lộc)
thì mới mong được an toàn.

Thương (thổ cung Nô) phụ tá của Thiên Sứ, gây ra tổn hại; có phần nào nhẹ tay hơn Sứ (cho
người có đại vận đi xuôi gặêp Thương trước).

Sứ (thủy cung Ách) thi hành lệnh gieo tai ách

Mức độ nặng nhẹ của Thương-Sứ thi hành nhiệm vụ là tùy thuộc vào các Sát tinh nhập cuộc tại
cung Nô và Ách như Văn Xương, Kình Dương (cung Tứ chính / các tuổi Giáp Mậu Canh
Nhâm), Không Kiếp, Thiên Không, Tang Môn ...

Ngoài ra trong 3 đại vận liên tiếp trên, ít nào cũng năm sáu lần tiểu hạn đụng đầu Đào Hồng gặp
Thiên không, Lưu hà và Kiếp Sát rất dễ gây ra sức ép với tuổi già.
Trừ phi Mệnh hay Thân đắc Thọ tinh hợp hành làm nồng cốt và không bị nghiệp báo Hình Riêu,
Không Kiếp lũng đoạn.

Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa
là nặng nhất. Trong các năm nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro hoặc khó khăn
trong công việc. Ngoài ra không nên tu tạo hay tậu mãi nhà đất trong những năm hạn này. Còn
việc hôn nhân, cưới hỏi thì ít bị ảnh hưởng. Đây chỉ là những dự đoán về hạn xấu chung để mà
phòng tránh thôi chứ không chắc hẳn sẽ xảy ra như vậy.

Nếu năm nhập hạn trong lá số Tử Vi tốt thì hạn xấu của năm tam tai sẽ được giảm bớt, ngược lại
nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm năm tam tai thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.

Sao hạn Cửu Diệu :

Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh

La Hầu - còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng
Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị
phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng
7.

Thổ Tú - còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay
kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.

Thủy Diệu - còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi,
Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và
Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.

Thái Bạch - còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu
nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim
và mộc.

Thái Dương - Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành
công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.

Vân Hán - còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất
lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.

Kế Đô - được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng
những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những
mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao
Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng
tháng 3 và tháng 9

Thái Âm - Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số. Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh
đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.

Mộc Đức - Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu
giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và
12 tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.

Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp
hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt. Ngược lại nếu
năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu thì năm hạn xấu sẽ càng xấu
thêm.

Luận về Tuần (hỏa) / Triệt (kim)

Tuần Trung Không Vong là cây cầu nối tiếp giữa hai giai-đoạn, kiềm hãm bớt từ từ lại, là trung
gian kiềm chế, không cho quá trớn.

"Tứ chính giao phù kỵ nhất Không chi trực phá"

Triệt Lộ Không Vong là bao vây, ngăn cách từ cái xấu đến cái tốt, đã không cho xâm nhập từ
ngoài vào (xấu cũng như tốt) , mà còn phá đổ tất cả những gì trong cung bị nó phong tỏa.

"Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng"
(Không vong định yếu đắc dụng, nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ
công)

Tuần Triệt chỉ có thể làm giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh hay tiêu-tán bớt sự xấu của Hung-tinh,
chứ không thể biến đổi tính cách của sao được, như biến Cát-tinh trở thành Hung-tinh và ngược
lại.

Tuần-Triệt có thể làm cho bộ SPT thành hiền dịu lại đôi chút, còn đối với CNĐL thì làm cho bộ
này trở nên chậm rãi, phấn-đấu hơi khó-khăn chứ không thể biến đổi từ ôn-hòa trở nên hào hùng
và khí-phách như bộ SPT được.

Tuần-Triệt cũng không thể thay-đổi tính-cách của vòng Thái-tueá được, nhưng các sao trong
tam-hợp Thái-tuế bị Tuần-Triệt phải tùy thuộc vị-trí mà thay-đổi tư-cách.

Trường-hợp những người chẳng may bị đặt để vào những vị-trí bất mãn (tam-hợp Tuế-phá,
Thiếu-dương, Thiếu-âm) dễ tự thiêu thân, làm những việc xấu (nếu gặp SPT và Sát-tinh); được
Tuần hay Triệt đóng khiến tự hạn-chế những tham-vọng và hành-động của mình mà thuận theo
đường lợi-ích, nâng cao tư-cách không kém gì những người tam-hợp Thái-tuế.

Tuần-Triệt đóng giữa 2 cung, nghĩa là chỉ có liên-quan đến 2 cung đó mà thôi.

Dương-Nam / Âm-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 70% và tại cung Âm 30%

Âm-Nam / Dương-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 80% và tại cung Âm 20%
Mệnh bị Tuần hay Triệt thiếu-niên tân-khổ, luôn gặp trở-ngại lúc đầu thực-hiện công-việc.

Mệnh bị cả Tuần lẫn Triệt thì đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần-Triệt phá nhau để
cho đương-số được thong-thả.

Tuần-Triệt phá nhau dành cho những người thuận lý âm-dương:

Mệnh hay Thân có một Tuần hay Triệt, đến đại-vận từ 30 tuổi trở đi gặp Tuần hay Triệt hay
Triệt thì sẽ được tháo-gỡ cho hanh-thông, dầu chỉ là một vài năm (bất chấp đến vòng Thái-tuế).

Trường-hợp người Dương đóng cung Âm (hoặc ngược lại) mà Mệnh-Thân có một Tuần hay
Triệt, khi đến đại-vận gặp Tuần hay Triệt thì thời-vận tốt mở làm hai lần chậm chậm ở 2 cung
đại-vận có Tuần hay Triệt đóng (mỗi đại-vận là 5 năm).

Mệnh Tuần Thân Triệt (hoặc ngược lại) không còn gì để tháo-gỡ; ngay cả khi đến đại-vận Thái-
tuế, ảnh-hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% mà thôi.

Trên đây là kinh nghiệm về hai sao Tuần Triệt của học phái Thiên Lương, thật ra vấn đề đặc
tính, ngũ hành và tác dụng của Tuần Triệt hiện còn đang là những nghi vấn, đề tài gây ra nhiều
tranh luận, tùy theo mỗi người có lối tiếp thu, suy luận và khám phá riêng mà giải đoán.

Luận về Thiên Mã (hỏa)

Thiên Mã trong Tử-vi là một viên ngọc quí, viên ngọc quí này chỉ thấy ở trong hoàn-cảnh trái
nghịch mà số đã xếp đặt cho người cung Mệnh hay Thân nằm trong tam-hợp Tuế-phá (bất mãn,
đối kháng) của vòng Thái-tuế.

Thiên-mã là nghị-lực và khả-năng để giúp cho những người bất-mãn này đương đầu với những
ngang-trái của tâm-thức và cuộc đời mà họ phải chịu. Đây chính là hình bóng một Tống Giang,
một Đơn Hùng Tín, anh hùng hào hiệp chỉ phù suy chứ không tơ hào đến người thịnh. Còn tùy
theo Thiên-mã có phải là của họ hay không mới là việc thành-bại quyết định.

Thiên Mã chủ tháo vát, tài năng và khéo léo. Ảnh hưởng nhiều đến công danh, sự nghiệp. Ngoài
ra Thiên Mã còn chủ về sự di chuyển, thay đổi, đi xa và là phương tiện di chuyển như xe cộ, nếu
gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị xe cộ hay hư hỏng hoặc tai nạn.

Về cơ thể con người Thiên Mã là tứ chi, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị thương
tật.

Hành chính của Thiên Mã là hỏa, nhưng vì là dịch mã nên Mã đổi ngũ hành tùy theo phương vị
Mã đóng, muốn làm chủ được Mã này thì bản mệnh phải đồng hành với cung Mã đóng thì mới
có kết-quả được

Mã ngộ Tuần = Tuần là gạch nối liền giữa hai Giáp bắt cầu cho Mã trở nên đắc dụng. Tuy-nhiên
Mã phải chùng lại một bước trước khi nhảy thì mới được thành-công, có nghĩa là vào giai đoạn
đầu vẫn gặp những khó khăn, trở ngại nhưng rồi sau sẽ được hanh thông, nếu Thiên Mã hợp
Mệnh, còn Mã ngộ Triệt là ngựa què ăn hại.

Người dương-nam - âm-nữ đại vận an theo chiều xuôi :

Mã mộc cung Dần gặp Tuần trở thành Mã hỏa

Mã hỏa cung Tỵ vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã kim cung Thân gặp Tuần trở thành Mã thủy

Mã thủy cung Hợi vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Người âm nam - dương nưõ đại vận an theo chiều ngược :

Mã mộc cung Dần vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã hỏa cung Tỵ gặp Tuần trở thành Mã mộc

Mã kim cung Thân vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi

Mã thủy cung Hợi gặp Tuần trở thành Mã kim

Thí dụ tuổi Kỷ Tỵ (Mệnh mộc) Mã tại cung Hợi ngộ Tuần đóng hai cung Hợi và Tuất. Nếu là
người âm nam đại vận theo chiều nghịch thì Mã thủy sẽ theo cầu Tuần về lại cung Thân trở
thành Mã kim khắc lại Mệnh mộc xấu. Còn với người âm nữ đại vận theo chiều thuận Tuần đóng
sau lưng không thể bắt cầu cho Mã chạy nên Mã thủy sẽ sinh phò cho Mệnh mộc rất tốt.

Những cách tốt của Thiên Mã

Mã đắc Tràng-sinh = là giai-đoạn phát thịnh của tam-hợp Tuế-phá, Mã phải nằm trong tam-hợp
Sinh-Vượng-Mộ thì mới được gọi là thanh vân đắc lộ nhưng chỉ hanh-thông trong đại-vận đó mà
thôi và còn tùy thuộc vào Hành của Mã phù hay hại Mệnh nữa.

Mã-Khốc-Khách = Mã phải nằm trong tam-hợp Lộc-Tồn dành cho các tuổi Giáp/Thìn-Tý-Thân
và Canh/Tuất-Ngọ-Dần. Phần ngoại-lệ này ban phát cho người được nhiều nghị-lực bền bỉ, tùy
theo sự sinh-khắc của bản mệnh đối với Mã (xử-dụng và làm lợi).

Những cách xấu của Thiên Mã

Mã kỵ gặp Không Kiếp, Kình-Đà, Thiên-hình và Triệt là ngựa què, ngựa chết dễ bị trở ngại hay
tai họa.

Mã ngộ Tuyệt = Người mệnh kim-hỏa và thổ / dương nam hay âm nữ, mệnh có Thiên Mã gặp
Tuyệt (sao cuối cùng của vòng Tràng Sinh) tại cung Hợi là cách "Mã cùng đồ" ngựa cùng đường,
hết lối chạy chỉ sự bế tắc và thất bại.
Luận về bộ sao Tứ Hóa

Hóa-khoa (thủy) - văn-tinh chủ về phúc-quý, là Đệ Nhất Giải Thần hoán cải được tư-cách SPLT
và ngộ chế được Thiên-không, Lục-sát-tinh.

Hóa-quyền (mộc) - trung-lập chủ về uy-quyền và may-mắn, hay vụng tính sinh kiêu vì tự ái nên
gặp Sát-tinh dễ bị kết-quả xấu

Hóa-lộc (mộc/thổ) - tài lộc do công khó làm ra, tăng ảnh-hưởng cho Tài-cát-tinh và tốt cho cung
Điền-Tài.

Hóa-kỵ (thủy) - ám tinh hay đố kỵ, là sao Kế-đô của nữ mệnh. Giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh, tăng
ảnh-hưởng xấu của Sát-tinh.

Tam Hóa được áp đặt vào những chính-diệu theo hàng Can tuổi để đem lại sự hảnh-diện và phú
quý cho người được hưởng. Giá-trị thật sự của Tam-hóa chỉ là gấm thêu hoa cho những bộ
Chính-tinh dắc cách mà thôi chứ không phải là tư-cách, khả-năng và nghị-lực dùng để nâng cao
phẩm-giá thực-sự cho người chính phái.

Nhận xét bảng tóm luận trên, các tuổi Ất-Bính-Kỷ-Nhâm-Quý được những sao đầy-đủ tư-cách
hiền-lương nhân-hậu hẳn con thuyền khi ra khơi ít gặp phong ba bão lớn. Còn thuận buồm suôi
gió hay không tùy thuộc ở hàng Chi (vòng Thái tuế) và giòng nước theo chiều cuộc diện (vòng
Tràng-sinh).

Cách Tam hóa liên châu - ba sao đóng liên tiếp ba cung từ cung Dần đến Mùi / đắc vị nhất tại
cung Thìn được dành cho 6 tuổi Ất/Tỵ-Dậu-Sửu (Khoa giáp Quyền-Lộc tại vị-trí Thiếu-âm) và
Canh/Thân-Tý-Thìn (Quyền giáp Khoa-Lộc tại vị-trí Thái-tuế), còn các tuổi Ất-Canh khác chỉ là
vay mượn mà thôi

Thiên Tài & Thiên Thọ (thổ)

Thiên Tài có ý nghĩa là tài năng, đo lường cắt giảm, vì thế nên Tài có đặc tính như Tuần Không
là giảm ảnh hưởng xấu của các sao mờ ám và giảm bớt ảnh hưởng tốt của các sao sáng sủa.

Thiên Thọ là Phúc Thọ tinh chủ nhân hậu, từ thiện và gia tăng ảnh hưởng cho các phúc thọ tinh.

Ngoài những tính chất kể trên, Tài Thọ còn tượng trưng cho đạo lý Nhân Quả của đời người. Tài
được khởi từ cung Mệnh (định mệnh thừa trừ mà cắt giảm) và Thọ được khởi từ cung an Thân
(bản thân tự gây tạo) đến một cung nào đó để mách bảo cho biết là giữa Mệnh Thân và cung mà
Tài hay Thọ đến đóng đã có sự hoán cải do luật thừa trừ mình đã gây nên.

Thân (Thiên Thọ / Nhân) = cá nhân tự gây tạo, tùy theo vị trí "Thân" để quyết định hành động
theo cung mà Thiên Thọ đóng.

Mệnh (Thiên Tài / Quả) = định mệnh thừa hành mà cắt giảm, chịu ảnh hưởng cân quả do Thọ đã
làm ra, tại cung có Thiên Tài đóng.

Nếu như Thân (tam hợp Thái Tuế) có làm ra "Thọ" hay cư xử sao cho "Thọ" được toàn vẹn thì
Mệnh mới có đủ "Tài" năng lực hoán cải tạo ra những sự tốt đẹp để đền đáp. Còn như Thân xuất
phát chử "Thọ" bị Không-Kiếp hãm thì Mệnh "Tài" kia cũng sẵn sàng đem lại những kết quả là
hình thức như tranh vẽ mà thôi.

Người đời nhập thế ở khoảng thời gian nào thì sẽ thấy căn quả của mình phải mang nặng ở ngay
phần việc nào như:

Năm Tý (Tài ở Mệnh) căn quả do chính bản thân mình

Năm Sửu (Tài ở Phụ) phải làm sao với Đấng sinh thành

Năm Dần (Tài ở Phúc) căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ

Năm Mão (Tài ở Điền) căn quả chịu ảnh hưởng về nhà cửa điền sản

Năm Thìn (Tài ở Quan) căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm

Năm Tỵ (Tài ở Nô) căn quả chịu ảnh hưởng nơi bạn bè, kẻ dưới tay

Năm Ngọ (Tài ở Di) căn quả chịu ảnh hưởng nơi ngoại nhân

Năm Mùi(Tài ở Ách) căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn

Năm Thân (Tài ở Tài) căn quả chịu ảnh hưởng do tiền của thâu hoạch

Năm Dậu (Tài ở Tử) căn quả chịu ảnh hưởng nơi con cháu

Năm Tuất (Tài ở Phối) căn quả chịu ảnh hưởng ở vợ chồng

Năm Hợi (Tài ở Bào) căn quả chịu ảnh hưởng nơi anh em

Các cách tốt xấu của Thiên Tài

Thiên Tài + Nhật hay Nguyệt = Thiên Tài khi đồng cung với Nhật hay Nguyệt hãm sẽ gia tăng
sức sáng cho Nhật Nguyệt và sẽ làm giảm sự quang huy của Nhật Nguyệt một khi bộ sao này
sáng sủa tốt đẹp. Trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung thì Thiên Tài sẽ làm cho Nhật Nguyệt
thêm rực rỡ tốt đẹp.

Thiên Tài + Nhật hãm = Người không cẩn trọng lời nói, thiếu lòng tín ngưỡng về thần quyền

Thiên Khôi (dương hỏa đới kim)


Thiên Việt (dương hỏa đới mộc)
Nhận xét kỷ sẽ thấy Khôi Việt hoàn toàn gần như đứng nghịch lý âm dương với cung đóng, tức
là không bao giờ đứng chung trong tam hợp Thái Tuế hoặc Tuế Phá mà chỉ đứng trong tam hợp
Thiếu Dương (Thiên Không) và Thiếu Âm.

Theo nhận xét trên, nếu xét theo ngũ hành thì Thiên Khôi luôn luôn bị khắc nhập, phải sinh xuất
hay khắc xuất mà sa lầy bởi cung đóng và bị Triệt làm cho thất thế. Trong khi Khôi đóng vào
những hoàn cảnh không được thuận lợi như vậy thì Việt lại được ưu thế vững vàng hơn, nhất là
hai tuổi Đinh-Quí / Tỵ-Sửu được đứng chung tam hợp Thái Tuế như có ý là Việt ở ngôi vị thứ
"Ất" thay mặt cho Khôi là trưởng "Giáp" mà lo toan mọi việc.

Vậy Khôi Việt chính là Thiên Ất Quý Nhân luôn đóng trong những tam hợp bất đắc ý vì nghịch
lý âm dương và bị Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho
người có số biết suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích thiện hơn như hai chữ
Tài Thọ đã hướng dẫn.

Ngoài sứ mạng là Phúc tinh chủ về phúc thọ, cứu khổn giải nguy ra, Khôi Việt còn là Văn tinh
hổ trợ cho các sao văn chương, nghệ thuật như Xương Khúc và là Quý tinh chủ về khoa giáp và
quyền tước khi đứng chung với Khoa-Quyền-Lộc, Lộc Tồn, Thai Tọa...

Các cách tốt của Khôi-Việt

Khôi-Việt + Quý tinh = Gia tăng ảnh hưởng cho bộ Tử-Phủ-Vũ-Tướng và Xương-Khúc, Thai-
Cáo, Khoa-Quyền-Lộc ... Người được cách này thường thông minh, có tài thao lược, óc tổ chức
và nắm giữ các chức vị cao trong công quyền.

Người được Khôi Việt thủ mệnh thường là con trưởng hoặc đoạt trưởng.

Các cách xấu của Khôi-Việt

Khôi Việt + Triệt hay Ky-Hình = Khôi Việt bị Triệt án ngữ hoặc Sát tinh, nhất là các sao Không
là người thường bất đắc chí, công danh trắc trở không lâu bền. Dễ bị những tai họa đao thương
hay súng đạn và yểu mệnh.

Thiên Quan Quí Nhân (dương hỏa)


Thiên Phúc Quí Nhân (âm thổ)

Nhận xét kỷ bảng an sao sẽ thấy Quan Phúc được phân công chia đều cho cả hai phía âm dương
và có những vị trí hoàn toàn nghịch lý âm dương như Thiên Quan với các tuổi Giáp-Ất-Bính-
Đinh-Mậu-Canh-Quý và Thiên Phúc với những tuổi Giáp-Ất-Mậu-Kỷ.

Riêng 5 tuổiGiáp-Ất-Mậu-Tân-Nhâm được Quan Phúc và cả Thiên Ất Quí Nhân (Khôi-Việt)


đồng tụ lại đứng chung để ra công giúp đỡ, đem phân tích từng tuổi sẽ thấy:

Tuổi Giáp tại cung Mão của tam hợp Hợi-Mão-Mùi thường xuyên có Thiên Không và Kình
Dương lủng đoạn.
Tuổi Ất tại cung Thìn của người âm nam trong tam hợp Thân-Tý-Thìn có Đà La là lưới trời.

Tuổi Mậu tại cung Ngọ có Kình Dương là kiếm treo đầu ngựa bất lợi cho ba tuổi Dần-Ngọ-Tuất
và Thiên Không tung hoành tại cung Mão.

Tuổi Tân tại cung Dậu trong tam hợp Tỵ-Dậu-Sửu có Phá Toái phá hoại và cung Tỵ có Triệt
chặn đứng, với tuổi Tân Tỵ còn bị thêm Tuần tại Dậu.

Tuổi Nhâm bị mắc lưới tại cung Tuất với Đà La.

Tóm tại, chúng ta nên chú ý tại những cung mà có nhiều Phúc Thiện tinh như Quan Phúc, Khôi
Việt, Tứ Đức... tụ chung lại đều là những cung có sự hiểm nghèo vì nghịch lý âm dương và bị
Sát tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết sẽ có
những trở ngại và thử thách gay go trong cuộc sống, nhất là với bốn tuổi Mậu-Ất-Tân-Nhâm để
đương nhân suy gẫm và điều chỉnh lại cung cách sống sao cho có ích thiện hơn như hai chữ Tài
Thọ đã hướng dẫn, có kết quả tốt hay xấu còn tùy ở người có tuân theo mà cải thiện hay là bỏ
qua.

Vậy Quan Phúc Quý Nhân chính là những Phúc Thiện tinh chủ về sự đức độ, nhân hậu, thực
hiện từ thiện, giải trừ bệnh tật và tai họa...

Thiên Đức (hỏa) Phúc Đức (thổ)


Nguyệt Đức (hỏa) Long Đức (thủy)

" Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng,


cùng là Quan Phúc, một đoàn trừ hung"

Thiên Đức và Nguyệt Đức được an theo năm sinh. Còn Phúc Đức và Long Đức là hai sao thuộc
vòng Thái Tuế cũng được an theo năm sinh. Bộ sao Tứ Đức là phúc thiện tinh chủ về sự đức độ,
nhân hậu, từ thiện và có khả năng giải trừ bệnh tật và tai họa. Tứ Đức có thể chế giải một phần
nào ảnh hưởng xấu của các sao hung sát.

Bản chất của Tứ Đức là đức hạnh và đoan chính nên chế ngự được tính dâm đãng hoa nguyệt của
Đào Hồng và các dâm tinh.

Nhận xét về Thiên Đức, Phúc Đức và Nguyệt Đức chúng ta sẽ thấy ba sao này luôn đóng trong
tam hợp Thiếu Dương của vòng Thái Tuế để khuyên nhủ, chỉ đường và cứu giải cho các tuổi
nằm trong tam hợp Thiếu Dương vì quá tinh khôn đứng vượt lên trên Thái Tuế nên bị nghịch lý
âm dương và luôn luôn có Thiên Không tác hại. Còn lại một Long Đức trong tam hợp Thiếu Âm
để an ủi cho những tuổi bị bạc đãi và thua thiệt.

Chúng ta nên chú ý tại những cung mà có nhiều Phúc Thiện tinh như Quan Phúc, Khôi Việt, Tứ
Đức... tụ hợp chung lại đều là những cung có sự hiểm nghèo vì nghịch lý âm dương và bị Sát
tinh lủng đoạn hoành hành để giúp đỡ cứu tai giải họa và báo động cho người có số biết sẽ có
những trở ngại và thử thách gay go trong cuộc sống, để đương nhân suy gẫm và điều chỉnh lại
cung cách sống sao cho có ích, kết quả tốt hay xấu còn tùy ở người có tuân theo mà cải thiện hay
là bỏ qua.

Phá Toái (hỏa đới kim)

Phá Toái được an theo năm sinh (tứ chính, tứ sinh và tứ mộ) là hung tinh chủ sự phá tán, gây trở
ngại, hao tán tiền của, điền trạch. Gia tăng ảnh hưởng xấu của các sát tinh như Không Kiếp, Hỏa
Linh nếu kết hợp.

Phá Toái chỉ đóng tại 3 cung Tỵ-Dậu-Sửu trên địa bàn Tử Vi, tuy chổ đóng bị hạn chế như vậy
nhưng ảnh hưởng phá tán của Phá Toái cũng đủ làm ngang trái tư cách của các Chính tinh hiền
dịu như Tử-Phủ, Cơ-Lương và tăng thêm sức mạnh cho bộ Sát-Phá-Tham, nhất là Phá Quân.

Nhận xét về sao Phá Quân đóng tại ba cung Tỵ-Dậu-Sửu (vị trí thường trực của Phá Toái) đều
hãm địa hết như Vũ-Phá ở Tỵ và Liêm-Phá tại Dậu. Riêng Tử-Phá ở Sửu tuy đắc địa nhưng tư
cách xấu không hơn gì Vũ-Phá và Liêm-Phá tại hai cung Tỵ-Dậu.

Mệnh Vũ-Phá tuổi Tý-Ngọ-Mão-Dậu (tuổi Dậu đẹp nhất)

Mệnh Liêm-Phaù tuổi Dần-Thân-Tỵ-Hợi (tuổi Tỵ đẹp nhất)

Mệnh Tử-Phaùù tuổi Thìn-Tuất-Sửu-Mùi (tuổi Sửu đẹp nhất)

PháToái + Phá Quân = tạo thành cách "Toái Quân lưỡng Phá" dũng mãnh và hiển đạt về vỏ
nghiệp

Luận về Thiên-không và Hồng-Đào

Cung Dần-Thân-Tỵ-Hợi - vị-trí của Hồng-loan làm chủ, Đào và Không tam hợp, là vị-trí của
người thấy xa hiểu rộng, ít tham-vọng, đầy lòng đạo-đức, từ-tâm và cởi mở.

Tuổi Thìn-Tuất-Sửu-Mùi tại các vị-trí Dần-Thân-Hợi có thêm Cô-thần tam hợp nên được lòng
cởi mở sáng-suốt, biết thân hiểu phận yếu mềm, dễ khiến sinh ra nhạy-cảm đến yếm-thế.

Riêng tại vị-trí Tỵ có thêm Phá-toái tam-hợp, vì Hồng-loan hơi yếu nên Phá Toái thường gây ra
những sự ngang trái và khó-khăn cho mệnh số, như phải chịu ít nhiều những sự thử-thách.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị trí này nếu biết ngộ được chữ "không" của đời mình thì
sẽ tránh được mọi phiền-não do Thiên-không gây ra.

Cung Tý-Ngọ-Mão-Dậu - vị-trí chính của Đào-hoa, được Hồng Loan tam hợp phát tiết vẻ anh
hoa, sức quyến-rũ tạo nên sự mưu-sĩ , quỷ-quyệt và đạo đức giãkhiến phải sớm nở tối tàn vì
Thiên-không và Kiếp-sát.

Với tuổi Dương, Đào đắc Thiên-riêu như được một phần nào thanh cao, đỡ sa ngã và đồi trụy
hơn các tuổi Âm.
Tuổi Dần-Thân-Tỵ-Hợi tại vị-trí này đầy lòng tự-hào và có tham vọng cao nên rất dễ bị hãm vào
vòng di lụy.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị trí này thường khôn-ngoan, thích lấn-lướt hơn người; nếu
tại Mệnh thì đó là còn trong ý định, còn tại Thân thì lại tỏ ra bằng hành-động.

Cung Thìn-Tuất-Sữu-Mùi - vị-trí của Thiên-không một mình tung-hoành tác-hại và gieo tai-họa,
vì thường-xuyên vắng bóng tôi trung là Hồng-loan mà chỉ còn kẻ nịnh là Đào-hoa đưa đẩy.

Tuổi Tý-Ngọ-Mão-Dậu tại vị-trí này rất khẳng-khái, nhiều khi quá cứng-rắn nên thường bị
những kết-quả có phần ác liệt hơn các tuổi khác.

Người của tam-hợp Thiếu-dương tại vị-trí này thường hay đạp đổ để xây-dựng lại theo ý mình,
dễ bị sa vào đường gây ra tội ác, nếu có thêm Hung-tinh gây bè kết đảng xúi giục.

Nói chung bộ Đào-Hồng-Không dầu gì cũng có tính-cách là vạn sự giai không, những người
đạo-đức không màng tưởng đến phú-quý là cái "không" cao cả; kẻ mưu sĩ quỷ quyệt có xoay sở
cho lắm rồi cũng lảnh hậu-quả là cái "không" bù trừ. Còn hạng người tàn-ác thường gieo tai-họa
rồi ra cũng chỉ còn "không" trơ-trọi.

Chỉ còn người sáng suốt vẫn được sống yên lành là trường-hợp của Hồng Loan.

Thiên Hình (kim)

Thiên Hình là hung tinh chủ sự dũng mãnh, sát phạt phá tan, hình thuơng, gây trở ngại.

Thiên Hình hợp với Thiên Riêu là bộ sao đặc biệt cùng khởi theo tháng sinh từ tam hợp Tỵ-Dậu-
Sửu và cùng đắc địa tại các cung Dần-Thân-Mão-Dậu-Tuất. Vì thế cho nên nếu Hình-Riêu đứng
cặp với bộ sao nào hợp tình hợp cảnh sẽ gia tăng ý nghĩa cho các sao đó, tùy từng trường hợp.
Như Hình Riêu đứng cặp với Xương Khúc là hỷ thần chủ về học thành, công danh hiển đạt...

Ngoài ra, theo học phái Thiên Lương thì Thiên Hình cùng với cung an Thân còn có một liên
quan đặc biệt, như chúng ta đã biết Thân là hành động và Thiên Hình chính là sự phán xét, cùng
cấu kết với nhau như bóng với hình.

Thân cư Mệnh thì Hình ở Ách (giờ Tý) hoặc Phuï (giờ Ngọ)

Thân cư Quan thì Hình ở Tử (giờ Dần) hoặc Điền (Thân)

Thân cư Tài thì Hình ở Bào (giờ Thìn) hay Nô (giờ Tuất)

Thân cư Di thì Hình ở Phối (giờ Mão) hoặc Quan (giờ Dậu)

Thân cư Phối thì Hình ở Mệnh (Tỵ) hoặc Di (giờ Hợi)

Thân cư Phúc thì Hình ở Tài (giờ Sửu) hay Phúc (giờ Mùi)
Mặc dầu cùng một cung an Thân nhưng nếu khác giờ sinh thì Hình sẽ ở tại cung đối xung để cho
người có số biết sự chọn lựa như thế nào giữa hai cung.

Ví dụ Thân cư Quan nhưng nếu sinh giờ Dần thì Hình ở Tử và nếu sinh giờ Thân thì Hình sẽ ở
Điền (đối cung với Tử) để giúp ta dự kiến trước khả năng sẽ phải đương đầu (mất con hay phải
chịu thiệt hại về nhà đất) để mà tự do chọn lựa cách xử thế trong quá trình làm việc công ích xã
hội như Thân cư Quan đã cho biết.

Những Cách tốt của Thiên Hình

Hình + cung Dần = Hình đắc địa tại cung Dần là cách "Hổ hàm kiếm" dũng mãnh và hiển đạt về
vỏ nghiệp.

Hình + Binh + Tướng + Ấn = Hình là đại long đao, chủ sự sát phạt, có tài chỉ huy, thao lược và
hiển đạt về vỏ nghiệp. Nhất là người Kim cung Mệnh tại Ngọ có Thất Sát và Hình đồng cung.

Hình + Dâm tinh = Bản chất của Thiên Hình là ngay thẳng, đoan chính vì thế nên Thiên Hình
chế ngự được tính hoa nguyệt, dâm đãng của Đào Hồng và các dâm tinh khác.

Những Cách xấu của Thiên Hình

Hình hãm địa + Sát tinh = Gia tăng ảnh hưởng cho Sát tinh chủ tai họa, chém giết, hình thương
và tù đầy, nhất là khi Hình đồng cung với Tướng hoặc Maõ bị Triệt.

Hình hãm địa + Tù tinh = Hội với các tù tinh như Liêm Trinh, Kình-Kiếp, Thái Tuế... thì hay bị
quan tụng, hình ngục khó thoát.

Hình + Riêu + Không + Kiếp = Chủ oan trái nghiệp quả và chịu tai họa tập thể.

Thượng cách:

Tử-Phủ-Vũ-Tướng

Sát-Phá-Liêm-Tham

Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương

Cự-Nhật

Nhật-Nguyệt

Muốn được thượng cách, tuổi và cung Mệnh phải được hội đủ các yếu tố như Âm Dương thuận
lý, Mệnh Cục tương sinh.

Cung Mệnh-Thân của lá số phải được 1 trong 5 bộ Chính tinh trên, các sao trong bộ phải đầy đủ
và miếu vượng hay đắc địa, sinh hay đồng hành với bản mệnh. Được nhiều Trung tinh như
Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc, Khôi-Việt, Tả-Hữu, Thai-Tọa, Long-Phượng... đắc địa đồng
cung hay hội chiếu và không bị Hung Sát tinh phá cách.

Người được thượng cách thường là sinh phùng thời, đạt được những thành công lớn trong cuộc
đời, có tiền tài danh vọng hoặc là các bậc khoa bảng, có chức phận hay quyền tước cao trong xã
hội.

Trung Cách

Trung cách là cách không được hoàn toàn như thượng cách, một trong hai yếu tố là tuổi và cung
Mệnh âm dương bị nghịch lý hoặc Mệnh Cục khắc nhau.

Ngoài ra bộ cách của Chính tinh tại cung Mệnh-Thân của lá số không hội tụ đầy đủ và có sao bị
lạc hãm. Các trợ tinh đồng cung hay hội chiếu như Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc, Khôi-Việt,
Tả-Hữu, Thai-Tọa... không hội đủ hoặc lạc hãm và có Hung Sát hay Bại tinh xâm phạm.

Người được trung cách cũng đạt được những thành công trong cuộc đời nhưng không hiển hách
bằng thượng cách, thường nghề nghiệp trung lưu, có tiền tài hay chức vị nhỏ trong xã hội.

Hạ Cách

Lá số hạ cách một hoặc cả hai yếu tố là tuổi và cung Mệnh âm dương bị nghịch lý hoặc Mệnh
Cục khắc nhau.

Ngoài ra bộ cách của Chính tinh tại cung Mệnh-Thân của lá số không hội tụ đầy đủ và có sao bị
lạc hãm, khắc nhập lại bản Mệnh. Thiếu nhiều trợ tinh như Khoa-Quyền-Lộc, Xương-Khúc,
Khôi-Việt, Tả-Hữu, Thai-Tọa... đồng cung hay hội chiếu và bị nhiều Hung Sát hay Bại tinh phá
cách.

Người hạ cách thường suốt đời bị vất vả lận đận, bất như ý trong cuộc sống, nghề nghiệp không
nhất định và hay phiêu bạt.

* Ba cách (Thượng-Trung-Hạ) kể trên chỉ ảnh hưởng nhiều đến chính bản thân đương số mà
thôi.

(Trích từ Thư Viện Việt Nam)

Theo:Hướng dẫn cách luận giải tử vi [Lưu Trữ] - DIỄN ĐÀN LÝ SỐ PHƯƠNG ĐÔNG CỦA
HỘI TVLS HÀ NỘI

Bàn về sao Thiên không


Theo Thái Vi phú thì: "Không vong định yếu đắc dụng Thiên Không tối vi khẩn yếu". Nghĩa là
tác dụng không vong mạnh hơn hết là Thiên Không.

Còn theo Bí kinh:

"Giá tiền nhất vị thị Thiên Không


"Thân mệnh nguyên thị bất khả phùng
"Nhị chủ Lộc Tồn nhược phùng thủ
"Diêm vưong bất phạ hưu anh hùng"

Nghĩa là: Trước mặt Thái Tuế là Thiên Không, Thân Mệnh gặp nó thì khốn cùng, Tử Phủ hay
Lộc Tồn gặp thì như anh hùng gặp nạn.

Trong nhóm hung sát tinh của khoa Tử Vi, người ta ít chú trọng đến sao Thiên Không, một phụ
tinh luôn được coi là tạp diệu, chỉ được xếp vào hàng em út so với đại sát tinh Không Kiếp. Tuy
nhiên, tác dụng của sao này lại rất kỳ bí, đặc biệt rất đáng lưu ý khi giải đoán một lá số và nhất là
xem hạn.

Ngoài những ý nghĩa căn bản và đơn giản của một ác tinh, TK mang nhiều sắc thái đối nghịch
nhau đáng phải cân nhắc và thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên Không thủ Mệnh.

Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không
Kiếp, cho nên tại những vị trí này, TK sẽ có uy lực không kém gì Không Kiếp, và cũng như các
đàn anh, TK chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng. Tuy nhiên, so với Địa Không thì Thiên
Không uyển chuyển, mềm dẻo, thủ đoạn hơn.

Thiên Không không ồn ào như Không Kiếp, biết tiến thoái hơn Không Kiếp ở điểm "tác sự hư
không bất thành chính đạo", làm việc khó hiểu, không làm theo chính đạo. Người Thiên Không
thật sự khó hiểu hơn người Không Kiếp.

Theo các sách số phổ biến, người có TK HÃM ĐỊA thủ mệnh thì tính tình gian xảo, qủy quyệt,
chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng
không làm được việc gì. Người có TK ĐẮC ĐỊA thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí
đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh
hùng trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay.

Tuy vậy, đôi khi cũng không nên võ đoán. Nhà lý số Vương Đình Chi có nói về Thiên Không là
"Mục không nhất thiết" nghĩa là không màng chuyện đời hay không coi chuyện đời ra gì, nhưng
khi đảo ngược thì lại thật tha thiết với chuyện đời để chuyển thành mưu chước thủ đoạn.

Thiên Không có lúc đại lượng vô cùng, nhưng cũng có lúc chặt chẽ chu mật. Thiên Không dễ
mang căn bệnh thiên về ảo tưởng. Đại lượng, mưu chước hay ảo tưởng còn tùy thuộc đi với sao
nào.

Từ đây có thể thấy ý nghĩa 'NHỊ TRÙNG" lý thú của TK. Trong con người TK có vừa thiện, vừa
ác, vừa chính, vừa tà... Một lá số có cách cục tốt đẹp có thể là số anh hùng, nhưng anh hùng có
thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không thủ mệnh.

TK hiểu theo triết lý nhà Phật còn có mang ý nghĩa “sắc sắc không không”. Cho nên, người có
TK đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có
khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người
TK là sự dằn vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của TK, một thiện một ác, một chánh một tà, một
đời một đạo, lôi kéo, giằng co đương số suốt cả cuộc đời: "Mệnh tọa Thiên Không định xuất
gia", có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện
được hay không còn tùy thuộc vào những sao phối hợp.

Sỡ dĩ nói vậy vì Thiên Không luôn đi cùng Thiếu Dương và hợp cùng tứ Đức. Thiếu Dương và
Tứ Đức đại diện cái Thiện. Mặt khác, Thiên Không luôn luôn có Đào Hoa và hoặc Hồng hoặc Hỉ
hội tụ. Bộ ba Đào Hồng Hỉ chính là đại biểu "sắc". Bởi thế nên nội tâm người TK luôn bị dằn vặt
của sắc và không (Trong nhiều trường hợp, khuynh hướng của Thiên Không (gian hùng, mưu
chước, thủ đoạn) được thể hiện rõ hơn tính Thiện Lương của tứ Đức Thiếu Dương).

Có sách cho rằng TK thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng
quyến rũ người khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Nhưng nên phân ra hai trường
hợp:

Đối với nam mệnh, TK là biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo
đuổi. Cho nên nam phái có Đào Không ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm
trời phú cho mình như nhân dáng, lới ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…Nói chung
là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình đễ lợi dụng đàn bà vào một mục đích nào đó. Nếu gặp
thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ
dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng trợn.

Đối với phái nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn TK là lửa
trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người có
nhan sắc nhưng lại không mặn duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: Sự duyên dáng
từ cử chỉ đền cách ăn nói của người đàn bà, và cũng là ý nghĩa của duyên phận. Chúng ta thường
thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp
dẫn nào qua tính tình hay nội tâm. Họ cũng như cành hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì
vậy mà Đào Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ
nam phái.

Và tương tự, cũng nên thận trọng trong việc giải đoán với sao Hồng Loan, cùng ý nghĩa như Đào
Hoa. Mệnh có Thiên Không + Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật,
và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với quan niệm triết lý của
nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần? Người Hồng Không là người ít màng
chuyện đời, muốn tìm nơi vắng vẻ mà tu, hoặc sống nhiều với nội tâm, thích đóng cửa đọc sách,
cô quạnh hay tự đặt mình, làm cho mình cảm thấy cô quạnh kể cả ở nơi đông vui.

Trường hợp đi TK đi cùng cả Đào và Hồng thì trong con người đó mang cả Nho lẫn Đạo. Cuộc
đời sau khi phấn đấu hăng say rồi chán mà qui ẩn hoặc ngay cả khi làm việc, thành công mà lòng
vẫn u uất quạnh hưu.
Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có
Thiên Không thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lĩnh vực từ công danh, sự nghiệp
cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người TK thủ Mệnh là mẫu
người Bán Thiên Triết Xí (Lưng Trời Gãy Cánh).

Những người làm nên sự nghiệp, Mệnh có Thiên Không thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng
phải một lần thất bại đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi là số, có người đổ vỡ
trên đường công danh, có người gãy đổ trên đường tình ái… Và cho đến việc tu hành cũng
không phải là con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng
họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.

Đặc tính lưng trời gãy cánh thể hiện rõ khi TK nhập hạn. Cũng như theo sách cổ, một tay chọc
trời khuấy nước như Hạng Võ mà hạn gặp TK cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn
bên dòng Ô Giang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính
chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là đầu
voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia
bại sản hay gia đình ly tán.

Những tác hại của TK sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu vì cung
mệnh của họ vốn đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Những
người có Nhật Nguyệt thủ mệnh cũng không sợ Thiên Không vi hai vầng NN lại càng sáng tỏ
trong bầu trời không gợn áng mây che.

Trường hợp Thiên Không ở Dần Thân Tỵ Hợi thì thường có Cô Thần, Kiếp Sát đi cùng, thêm
Hồng Loan Thiên Hỉ hoặc cùng cung hoặc xung chiếu, lại tam hợp Đào Hoa; thành cách tam
minh Cô Quả Sát. Đây ví như cảnh tranh tối tranh sáng, như người vỡ lẽ ra rằng mọi sắc hương
của cuộc đời đều là giả dối nên nảy ra ý muốn cắt tóc đi tu. Tu được hay không dĩ nhiên còn đòi
hỏi nhiều điều kiện khác.

Thiên Không đi cùng Thiên Tướng thì mưu lược, quyền uy đặc biệt là khả năng quân sự võ
nghiệp hơn người, ở Thìn Tuất thì nhất hô bá ứng như đại tướng tung hoành thiên hạ, cánh đại
bàng vỗ cánh giữa trời không (uy trong quyền ngoài).

Thiên Không gặp Xương Khúc Hoa Cái thì tính chất ảo tưởng trở thành tư tưởng triết lý.

Thiên Không hay Hóa Kỵ cư Quan gây phiền nhiễu trong công việc, nhưng gặp Nhật Nguyệt thì
vãn tuế tất thành.

Nguồn: Sao Thiên Không [Lưu Trữ] - Diễn đàn Văn Hóa Phương Đông

Thiên Không ở Mệnh thì là người cả nghĩ, có khuynh hướng tìm hiểu về cuộc đời, ý nghĩa cuộc
sống, kiểu như hay dằn vặt với câu hỏi tại sao mình lại ở trên đời. Trong cuộc sống khi ham
muốn thì hừng hực, khi chán rồi thì như nước sông nước suối, chả thiết gì.

Thiên Không ở Phụ mẫu thì không gần cha mẹ hoặc không hợp lắm. Tình cảm với cha mẹ khi
đậm đà, lúc mờ nhạt, nhưng không phải là không có hiếu.

Thiên Không ở Phúc thì họ hàng không tụ.

Thiên Không ở Điền thì có nhà mà cũng dễ đi thuê nhà.

Thiên Không ở Quan thì hay chán việc kể cả có công việc tốt lành.

Thiên Không ở Nô thì bạn bè có như không, ít bạn thân.

Thiên Không ở Di thì trong quan hệ xã hội nhiều khi bằng mặt không bằng lòng. Khi cách mặt
thì như người dưng.

Thiên Không ở Tật thì tính tình đôi khi hơi lập dị, khó hiểu, tuy nhiên cũng ít tật bệnh hay ít bị
bệnh nặng.

Thiên Không ở Tài thì dễ bị gãy đổ, ít nhất một lần. Tuy nhiên làm giàu không khó, khi có tiền
cũng chả thiết tha gì lắm về kiếm tiền hay vật chất.

Thiên Không ở Tử thì về già ít trông cậy vào con.

Thiên Không ở Phối thì có chồng/vợ rồi nhưng cũng hững hờ, không thỏa mãn về hôn nhân.

Thiên Không ở Bào thì ít trông cậy vào anh em.

Thiên Không luôn đi cùng Thiếu Dương, trong vòng Thái Tuế là người Tứ Đức, có Thiếu Dương
nên thông minh lanh lợi nhưng hay chịu yếm thế, và vì vậy mà biết Tu. Đi cùng Thiên Không
luôn là Đào và Hồng hoặc Hỉ. Bộ này là bộ sao ngoài ý nghĩa về sắc, còn có ý nghĩa về may
mắn, cơ hội. Chả thế mà ở cung Quan thì ăn cách gặp hội rồng mây. Cho nên người có Thiên
Không cũng dễ có nhiều cơ hội lớn tới trong đời. Tuy nhiên vì bản tính của Thiên Không đa
phần vẫn là hung tinh nên cũng dễ đổ vỡ từ chính cơ hội này. Thiên Không còn có nghĩa là cái
hố của Trời, cái bẫy của Thiên, được giăng ra để người nào ham bả vinh hoa lọt xuống để thành
chim gãy cánh lưng trời.

Thiên Không lại luôn đứng trước Thái Tuế, nên nếu để ý, thì thấy với dương nam âm nữ, sau đại
vận Thái Tuế đến đại vận Thiên Không, nên người nào không để ý cũng dễ suy sụp đại vận này.
Còn với âm nam dương nữ thì phải qua gian lao rồi mới vào đại vận Thái Tuế (tạo thử thách).

Trước khi bàn đến sự cát hung thế Thiếu Dương Thiên Không, xin được phép nhắc lại câu nói
của Cụ Quản Xuân Thịnh là đừng sợ các sao hung nhập Mệnh nếu có đủ sao hợp cách, chính
những số phi thường mới làm nên chuyện phi thường, và vì phi thường thì chuyện lên xuống là
lẽ đương nhiên, vấn đề ở chỗ mình ăn ở cho phải đạo để giữ cái ĐỨC mới là điều trọng yếu.

Sao Thiên Không bao giờ cũng đóng trong cung Tam hợp nghịch Âm Dương với Tam hợp tuổi
của chính mình và SINH ra mình. Do nghịch Âm Dương nên nó khác mình, hoặc mình phải thay
đổì. Vì sinh ra mình nên nó là cha mẹ và xem như mình được tái sinh; mà muốn tái sinh thì cái
thân cũ phải chấm dứt.

Như vậy sao Thiên Không chủ sự đáo hạn (cái chết cũng là đáo hạn của cái sống), đến hẹn,
những gì có tính hạn kỳ thì nay xuất hiện, hạn kết thúc, hạn mở ra con đường mới. Vì mình được
sinh ra, được thành thân này nên nói tấm thân này của mình cũng đúng, nói là của cha mẹ cũng
đúng, từ đó ta suy ra được người có Thiên Không nhập Mệnh là người rất khôn ngoan, tinh tế và
sâu sắc vì chính bản thân họ có HAI người khác nhau trong một thân, suy đoán được đối phương
rất tài tình, giả ngây ngô cũng hay, trẻ tuổi mà óc như người lớn (nên có Kiếp Sát tam hợp), già
mà mà tâm hồn cũng ý nhị như thanh niên, tươi tắn (nên có Đào Hồng hợp chiếu), **a giỡn thiện
ác như KHÔNG!!!

Từ hai thân trong một, nên suy ra nghề nghiệp, tiền bạc là nghề cho vay, cầm đồ, bảo hiểm, thế
chấp, cho thuê nhà, phim ảnh, vì nói là tiền của mình cũng đúng mà nói tiền của người ta cũng
không sai. Đã là thuê thì phải có hạn kỳ, do đó sao Thiên Không mới mang ý nghĩa là đáo hạn
(và nhật hạn những ngày này thường có các chuyện đáo hạn như đi hớt tóc, đám giỗ, hạn trả tiền
điện, nước ...). Từ đó ta suy thêm được là chuyện cũ tái phát, gặp người xưa, chuyện cũ, họp mặt,
việc chờ đợi lâu ngày nay nó đến, ngày rút vốn, ngày đầu tư thêm ...

Vậy sao Thiên Không căn bản không mang ý nghĩa xấu, xấu la do khi gặp Không Kiếp. Bộ sao
này làm cho sự đáo hạn xảy ra ngoài ý muốn, muốn cái gì lâu dài thì nó làm cho chóng kết thúc,
muốn cái gì nhanh thì nó lại rề rà. Như vậy nó là sự phá ngang, dang dở, sai hẹn, lỡ hẹn, nói
ngược, tính toán sai lầm, tin tức thất thiệt, hụt ăn, hụt mánh, mua nhằm đồ giả, đồ dỏm, đồ tái
sinh ...

Theo đó, vào hạn Thiên Không là hạn hái quả qua những năm tháng gieo nhân, nên khi vào hạn
có tam hợp Thiên Không hoặc ở xung chiếu sẽ là hạn những gì từ việc làm cho đến những gì
mình vui thú, nghiên cứu nay sống trở lại, ngay cả những tổ nghiệp của cha mẹ mình làm gì lúc
trước sẽ quay lại để mình làm; có thể việc làm này không giống như tiền nhân làm ở quá khứ
nhưng cũng tương tự về phương cách, (vì khoa học hiện đại làm biến đổi phương thức và kỹ
thuật ứng dụng cùng điều hành). Ví dụ như ngành kiến trúc địa ốc ngày xưa khác với nay vì bây
giờ họ vẽ và thiết kế, buôn bán nhà cửa toàn trên mạng cả, kể cả việc xây dựng trang web cũng là
thiết kế kiến trúc một loại nhà ảo.

Người ta thường nghĩ nặng chữ KHÔNG trong sao Thiên Không nên sợ đủ thứ, nhưng thật ra
trước khi nó là KHÔNG thì phải là cái CÓ trước, có để mà không nên vào hạn Thiên Không là
phải có cái có, tức nó thúc đẩy ta có đủ mọi chuyện để mình làm, tạo ngành nghề, thêm mưu sự,
thay đổi quan niệm sống, chuyển đổi cư trú, tạo thêm cơ sở, vay mượn thêm, tu bổ, thuê mua
thêm máy móc. Tất cả những gì đã lâu không giải quyết được hoặc ta đã quên, hoặc nó nằm im
lâu ngày thì vào hạn Thiên Không sẽ xuất lộ, kể cả việc ly hôn, chữa bệnh, trả nợ, vay mượn, lục
lại hồ sơ cũ, tìm hoặc gặp người hoặc vật đã bị thất lạc ... tức cái có của cái không cũ xì nó tới.

Ngoài ra còn có nghĩa là Không của cái Có như lưu ngày có Thiên Không là nếu ngày được mời
ăn thì bận việc không đến được, hoặc đến trễ, thức ăn không vừa miệng, đang ăn phải bỏ về. Về
việc làm là làm cho nhiều nhưng không kết quả, hoặc dang dở hoặc giải quyết không đúng theo ý
...

Như vậy vào hạn Thiên Không, vào tam hợp có Thiên Không là ta nắm chắc một điều là vận hạn
công danh, tình cảm, tài lộc, nhà cửa, tai nạn sẽ phát sinh thay đổi nhanh chóng, tiên đoán về kết
quả định kỳ về học hành chức vụ, công việc sẽ đúng như dự tính, xong chuyện này là có ngay
chuyện khác để làm không cho ngơi nghỉ - nếu không có sao xấu hội họp.

Bằng trái lại, trong 10 năm đại hạn có Thiên Không sự lên xuống, thành bại sẽ đến nhanh chóng
một cách lẫn lộn, nó dằn vặt, hành hạ ta đủ điều, và thời hạn sớm muộn sẽ tùy thuộc vào Ba thế
Thiên Không mà trước đó từng đề cập đến.

Đối với tiểu hạn có Thiên Không cũng vậy, với điều này qua từng năm một ta phải lưu sao Thiên
Không thì mới rõ ràng hơn. Lúc này cái Không của nó mới mạnh, có bao nhiêu cũng hết, đôi khi
còn để lại dư âm không tốt về danh và tiền, vay rồi tra? , trả rồi vay, nhưng cái trả lãi xuất cứ dồn
đống cho đến phải khai phá sản là vì vậy. Như vậy Thiên Không còn nghĩa là nợ tiếp tục, thuê
tiếp tục, tái bảo hiểm, tái đầu tư; việc thành hay bại do các cách gặp gỡ, do nhiều sao tốt hay
không, và quan trọng là cung Ách tốt hay xấu. Cung Ách rất quan trọng vì nó cũng đoán định lối
thoát, sự giải vây được hay không của đương số.

You might also like