Professional Documents
Culture Documents
***
7
Metafisica gắn liền với tác phẩm cùng tên của Aristote và
với hướng đích của tất cả các tác phẩm của ông.
Aristote qua đời để lại toàn bộ thư viện của mình (gồm
các tác phẩm của chính mình và của các triết gia khác) cho
Teofrasto. Trong số các tác phẩm của Aristote, có một số luận
đề chuyên khảo sau này được biết với tên gọi metafisica.
Teofrasto truyền thư viện của mình và của Aristote cho
Neleo. Ông này chuyển thư viện về xứ mình là Scepsi, tại
Troade. Những người thừa kế của ông sau này vì muốn chiếm
thư viện này phục vụ cho việc nghiên cứu của các vua chúa
miền Pergamo và Alessandria, đã thu lấy những tác phẩm
quan trọng, rồi sau đó giấu tất cả các sách vở dưới hầm sâu.
Vì thế mà các tác phẩm quý giá của thư viện này bị bỏ quên
cho đến mãi năm 100 tr. CN, khi nhà thư viện học là
Apellicone khám phá ra chúng, đã thủ đắc và chuyển thư viện
này về Athen.
Năm 86 tr.CN, C.Silla chiếm đóng thành phố này và đưa
nhiều thủ bản quý giá về Roma giao cho Andronico di Rodi
biên soạn thành một bộ toàn thư. Nhà biên soạn này đã thu
tập, phân chia các thủ bản thành từng phần. Sau khi thu tập
các tác phẩm về vật lý lại với nhau thì ông thấy còn 14 tiểu
phẩm không tên, nên ông quyết định gọi các sách này là “các
8
sách đến sau vật lý” (tà metà tà physikà). Tên gọi này tình cờ
thực sự rất phù hợp với nội dung của các tập sách vì chúng
bàn đến thực tại, phẩm tính, hoàn thiện tính, bản thể, hữu
thể… vốn không thiết yếu có hoặc không nhất thiết phải bàn
tới trong thế giới vật lý, nhưng nó vượt qua cả thực tại vật lý,
nghĩa là “siêu hình”. Theo Aristote, tất cả những đề tài này
hình thành nên “triết học đệ nhất” (prote philosophiae).
Tên “siêu hình” trở thành thuật ngữ diễn tả một phần triết
học bàn tới những nguyên nhân tối hậu, những nguyên lý cấu
thành tối hậu của các sự vật.
1. 2 Định nghĩa
Đối với con người, siêu hình là một đòi hỏi “sinh học”,
nghĩa là một đòi hỏi tự nhiên, nguyên thuỷ và nền tảng, như
ăn mặc, ngủ nghỉ.
Tự bản chất con người mang tính siêu hình, animale
metaphysicum (Schopenhauer) vì ngoài thân xác, con người
còn có linh hồn, tinh thần.
Tinh thần đẩy con người vượt những rào cản của vật lý,
vật chất, tự nhiên, không-thời gian để thâm nhập vào siêu
nghiệm.
Cơn khát tự nhiên không bao giờ thoả mãn: lý trí muốn
giải mã những bí ẩn của thế giới
Con người loại bỏ siêu hình sẽ sa vào thú tính. Tự do tự
bản chất là một khả thể của sự mở rộng và sự lựa chọn: con
12
người mở ra với siêu việt, không đóng kín nơi những chân
trời nhỏ hẹp để bị đè nén đến ngạt thở trong những sức mạnh
của vật lý, trong độ ngột ngạt của những giá trị luân lý sai
lầm, những nông nổi, tuỳ tiện.
Phủ định siêu hình đồng nghĩa với sự chiến thắng của tầm
thường tính, vô vị tính. Đời sống con người còn vượt trên
những mô phỏng của những cái thường ngày, để mở ra với
mầu nhiệm vốn luôn đang bao bọc con người trong mọi nơi,
mọi lúc.
Nghiên cứu siêu hình là tự hỏi về cái tại sao của các sự
vật, của các biến cố của thế giới: hoạt động đặc thù, đầu tiên
của con người.
Nghiên cứu siêu hình chính là thực hiện điều này: đặt ra
những câu hỏi triệt để, tối hậu, dứt khoát và tìm cách đưa ra
những lối giải quyết có thể chấp nhận trên bình diện lý trí.
Kant: siêu hình không là sự phát minh tuỳ hứng của nhân
loại trong một thời nào đó, cũng không phải sự phát triển
ngẫu nhiên trong tiến trình của các kinh nghiệm, nhưng là đòi
hỏi căn bản của lý trí. Khuynh hướng tự nhiên của lý trí sinh
ra siêu hình như một người con yêu dấu.
Dầu siêu hình học phải đương đầu với nhiều biến động
trong thời hiện đại và hậu hiện đại nhưng không có trào lưu
triết học nào có thể loại trừ được nó: từ khoa phân tích ngôn
ngữ, thông diễn học, hiện tượng luận, nhân vị thuyết, Mác-xít.
Ngược lại, những vấn đề chính yếu của những trào lưu
trên cũng là những đối tượng của siêu hình: cách nói, sự kiện,
ngôi vị, xã hội.
Trước hết, thế giới các tiêu chuẩn giá trị cần có sự can
thiệp của siêu hình để trang bị cho mỗi nhân phẩm lý hữu của
họ trong thế giới. Hiểu biết khoa học quan tâm đến sự kiện,
13
siêu hình quan tâm đến những giá trị tuyệt đối: ngôi vị, chân-
thiện-mỹ, hiện hữu…
Simon Weil: “siêu hình là một khả thể và còn hơn một
khả thể vì nó tồn tại trong mọi tinh thần và trong mọi tâm
hồn”
Siêu hình không là một xa xỉ phẩm nhưng là nhu cầu cần
thiết tiên quyết.
1. 4 Các ngành tiếp cận gần với siêu hình
Ý kiến chung: hữu thể học và siêu hình chỉ là một loại:
siêu hình nghiên cứu về ens như nó là, vốn cũng là hữu thể
học.
Nhưng cũng có ý niệm khác (Platon và Aristote), siêu
hình học là nghiên cứu về Một. Có những loại siêu hình khác:
về Chân Lý, về Thiện Hảo, về Tinh Thần, về Ngôi vị… Nên
hữu thể học phân biệt với siêu hình.
Thật ra, siêu hình không phải là một sáng tạo của Aristote,
nhưng là của Parmenide (VI-V tr.CN).
Khoa học về hữu thể mới đáng là một khoa học duy nhất
có thể có vì khoa học là việc tìm kiếm chân lý, nhưng chân lý
tất cả đều ở nơi hữu thể, vì ngoài hữu thể không có gì khác
ngoài hư vô. Với chủ trương hữu thể bất động và toàn kết
(onniconclusivo), Parmenide là tác giả của khuôn mẫu siêu
hình đầu tiên.
Bước quyết định: Hữu thể là đối tượng của siêu hình
Ông nhận thấy điều trước ông chưa ai nhận ra: sự vĩ đại,
sức mạnh, sự hoàn hảo, giá trị, sự hấp dẫn của hữu thể, và ý
niệm diễn tả hữu thể.
Không có gì vĩ đại hơn hữu thể, không có gì ngoài hữu
thể. Ý niệm hữu thể bao hàm tất cả và nói lên tất cả.
Không qua con đường của các giác quan nhưng của lý trí:
lý trí nhận thức rằng chỉ hữu thể là, và ngoài hữu thể, không
có gì là.
“Không thể nói hoặc suy tư cái không là”.
Những đặc tính của hữu thể: không được tạo thành, bất
diệt, trọn vẹn, vĩnh cửu, vô thuỷ vô chung, bất động, bất khả
tách, không chia thành từng phần, tất cả trọn vẹn, không quá
khứ, không tương lai, thâm nhập tất cả: tất cả đều tràn đầy
hữu thể”.
22
Parmenide là một trong những người khai lối quan trong
cho siêu hình học về hữu thể.
Cha đẻ của một phần lớn những thuật ngữ và nguyên lý
siêu hình (nguyên lý đồng nhất và bất mâu thuẫn).
Hegel viết về Parmenide: “ông hình thành nên vương
quốc các ý tưởng, với ông, người ta mới thực sự bắt đầu làm
triết học. Một con người thoát khỏi mọi mô hình và quan
điểm, phủ nhận mọi sự thật của chúng và khẳng định rằng chỉ
sự cần thiết, hữu thể mới là chân thật”.
2. 2 Mô hình Platon (427-347)
Không là cha đẻ của siêu hình nhưng là Cha của siêu hình
“khoa học”: nâng siêu hình trở thành một khoa học
(episteme), khoa học chắc chắn và cao quý nhất trong tất cả
các ngành khoa học: prote philosophia.
a. Đối tượng: hữu thể như nó là (yếu tính và những đặc
tính), chứ không là hữu thể như một vật tạo nên một đối
tượng vật lý hoặc như cái có thể đo lường, một đối tượng toán
học. Ba đối tượng đặc biệt: các nguyên nhân tối hậu, các bản
thể riêng biệt và Thiên Chúa.
Siêu hình cũng là khoa hữu thể học và thần học. Giữa hữu
thể và Thiên Chúa, theo Aristote, không có mâu thuẫn, nhưng
Thiên Chúa, thực tại hoàn toàn tách biệt, lại là chóp đỉnh của
24
tất cả các hữu thể, là sự thể hiện sung mãn của hữu thể, và là
nguyên nhân của sự năng động của tất cả các hữu thể.
b. Nền tảng: nghiên cứu về “hữu thể tự thân”, là bản thể,
để khám phá ra nền tảng của nó là Nguyên nhân tối cao vốn
không là gì khác bản thể đệ nhất: prote ousia, bản thể thần
linh, Động Cơ bất động. Những bản thể vật chất, biến dịch
được cắm rễ, được đặt nền tảng nơi Bản thể vĩnh cửu, bất
biến, Mô thể không chất thể, Hiện thể thuần tuý và sự hiểu
biết chiêm niệm, chiêm niệm chính mình: là tư tưởng của tư
tưởng (noesis noeseos).
c. Phương pháp: ngược với phương pháp của Platon (từ
trên xuống, có tiền đề và suy diễn), phương pháp của
Aristote: từ dưới lên, quy nạp, đi từ hiệu quả đến nguyên
nhân, từ hiện tượng đến những nguyên lý đệ nhất.
Cầu nối giữa Nền tảng và các hiện tượng: hướng đích luận
(teleologia: hướng trở nên, một chuyển động vì có một mục
đích, cùng đích là Thiên Chúa, Động Cơ bất động) và đồng
tương quan hiện thể-tiềm thể.
Nơi Aristote, có một hữu thể học rất phong phú, phân tích
những yếu tố cấu thành của hữu thể (bản thể và tuỳ thể, mô
thể và chất thể, hiện thể, tiềm thể, bản tính, yếu tính...; lại có
một triết học tự nhiên để qua việc đào sâu hiện tượng của thực
tại trở nên, và cuối cùng là bước đi siêu hình hướng tới Siệu
việt.
Ảnh hưởng rộng rãi đến thánh Toma Aquino, Duns Scoto,
Phanxico Suarez và Anton Rosmini.
2. 4 Mô hình tân Platon
✓ Nguồn gốc của mỗi lãnh vực hạ cấp đều phát xuất từ
lãnh vực thượng cấp theo một tương quan không thuộc loại
nhân quả, nhưng cấu trúc bao hàm-tiến hành (implicazione-
esplicazione).
✓ Siêu việt tính tuyệt đối của Nguyên Lý Đệ nhất: Một.
Ki-tô giáo mở ra những chân trời mới cho triết học và siêu
hình với những suy tư về chân lý. Chân lý không những mang
chiều kích tôn giáo mà còn mang độ dày suy lý. Các chân lý
đó là: giá trị của nhân vị, tự do tâm lý và luân lý, sáng tạo tự
hư vô, sự quan phòng của Thiên Chúa, sự dữ luân lý...
Thánh Augustino (354-430) sáng tạo mô hình vững chắc
đầu tiên về siêu hình Ki-tô giáo. Sau khi trở lại Ki-tô giáo,
thánh nhân khám phá chủ thuyết Platon, chính xác là tân
Platon, và lấy làm say mê học thuyết Platon. Augustino nhận
ra những người Ki-tô hữu cũng chịu ảnh hưởng và muốn thừa
hưởng những giá trị của học thuyết Platon. Đối với ngài, điểm
phân biệt giữa hai bên không phải là siêu hình mà là cứu độ
học. Siêu hình của Ki-tô giáo có nhiều điểm tương đồng với
Platon.
Triết học Platon muốn cứu con người bằng triết lý, nhưng
đối với Ki-tô giáo, Đức Ki-tô là Đấng cứu độ duy nhất.
Không có triết lý hay siêu hình nào có khả năng cứu độ con
người.
Qua bàn tay Augustino, mô hình siêu hình của Platon
được sửa đổi ở nhiều điểm quan trọng và thiết yếu.
27
a. Đặc tính của Nền tảng không là Một, mà là Chân lý:
không xây dựng siêu hình trên hữu thể, Ý tưởng, Bản thể,
nhưng là Chân lý.
b. Nguyên lý của thế giới khả giác, vật chất, được quan
niệm cách tích cực, không nhị nguyên, như một thực tại tốt
đẹp, thụ tạo của Thiên Chúa.
c. Mối dây hữu thể học (cầu nối) liên kết Nguyên Lý đệ
nhất và những hiệu quả của Người là mối dây kinh thánh về
sáng tạo.
Nguyên Lý của vạn vật tự do sáng tạo. Lý trí và ý chí
cũng là một thành phần của chính bản tính Thiên Chúa. Thụ
tạo không là kết quả của một sự trào tràn cần thiết nhưng từ
một quyết định có chủ hướng.
Theo thánh nhân, tham dự là sự tham dự qua việc sáng tạo
(creatio ex nihilo).
Phương pháp: siêu hình về nội tâm: “Noli foras ire, in te
ipsum redi, in interiore homine habitat veritas (không đi ra
ngoài, trở về với chính bạn, vì trong nội tâm của con người là
nơi cư ngụ của chân lý).
Tiến trình khởi đi từ chính mình như chủ thể chân lý: tra
vấn chính mình, đặt câu hỏi cho chính mình, và tìm câu trả lời
ngay trong thâm sâu của nội tâm. Phương pháp nội tâm-siêu
nghiệm, gắn kết việc hiểu biết con người và việc hiểu biết
Thiên Chúa, đem lại sự thống nhất vững chắc cho suy luận
triết học của Augustino: liên kết tri thức học và siêu hình học,
nhân học và thần học, suy lý và thực hành.
2. 6 Mô hình của thánh Tô-ma (1225-1274)
Siêu hình của Scotus thể hiện trong mô hình hữu thể học.
Ông có ý niệm đơn nghĩa về hữu thể (ens). Toà nhà siêu hình
gồm ba cột.
a. Đơn nghĩa tính của hữu thể
Đối tượng: “hữu thể như hữu thể là”, vì ý niệm đầu tiên
của tâm trí ta và ý niệm phổ quát nhất của tất cả là ý niệm về
hữu thể phổ quát nhất (ens communissimum).
Theo Scotus, ý niệm này phải đơn nghĩa, độc nghĩa. Tại
sao hữu thể phải được hiểu cách độc nghĩa chứ không phải
cách loại suy? Lý do mang tính thần học: “mỗi việc tìm kiếm
Thiên Chúa giả thiết rằng trí năng có cùng một ý niệm đơn
nghĩa thu được từ những thụ tạo”.
Theo E. Bettoni, lý thuyết đơn nghĩa của Scotus hình
thành nên xu hướng biện minh cho tính khẳng định của ngôn
từ thần học, đóng góp vào việc chống lại khuynh hướng bất
khả tri vốn đánh giá cao thần học phủ định cách quá đáng.
Còn về khả năng loại suy, Scotus có ý niệm khá lập dị vì
cho rằng ý niệm loại suy là không đúng vì loại suy là đơn
nghĩa, trong khi các chủ thể lại khác nhau, mỗi chủ thể lại áp
dụng theo cách thức của mình.
30
Về hữu thể: đưa ra những phân chia giữa thực tại và khả
thể, vật chất và phi vật chất, tiềm thể và hiện thể, hữu thể giới
hạn và hữu thể vô hạn.
b. Lối đi từ hữu thể hữu hạn đến hữu thể vô hạn trong
hiện thể
Trong khi Aristote để đạt đến Nền tảng qua con đường
hướng đích và hướng lai (finalismo, divenire), còn Thánh Tô-
ma lại chọn con đường phân biệt hữu thể giữa yếu tính và
hiện thể, lại thêm đường lối tham dự và các cấp bậc hoàn
thiện, Scotus đi trên con đường cách thức của hữu thể và con
đường hiệu lực tính.
Có hữu thể giới hạn: hữu thể giới hạn không tự biện minh
cho chính mình, nó cần đến hữu thể vô hạn hiện thể là Thiên
Chúa. Không có hữu thể giới hạn nào là toàn năng, là đầu, là
cuối cùng trong số các hữu thể. Các hữu thể giới hạn có hiệu
lực nhưng không tự đủ: để hiện hữu, phải nhờ đến một
Nguyên nhân, trong trật tự các nguyên nhân, người ta không
thể lui vào đến vô hạn, vì tiến trình vô hạn trong các nguyên
nhân thiết yếu là không thể. Nguyên nhân đệ nhất là cần thiết.
c. Tính ưu việt của ý chí trong các thuộc tính của Nền
Tảng.
Với Động cơ bất động (Aristote) và Esse ipsum subsistens
(thánh Tô-ma), ưu việt tính đặt nơi trí năng, còn qua Hữu thể
vô hạn, Scotus mang tính ưu việt lại cho ý chí.
Rõ ràng trước khi tạo dựng, muôn loài đã hiện diện trong
trí năng của Thiên Chúa. Scotus tự hỏi những ý tưởng về các
sự vật thành hình trong trí năng Thiên Chúa theo cách nào?
Để giải thích cho việc hình thành những ý tưởng trong Thiên
Chúa, quả là không đủ khi chỉ dựa vào tác động của trí năng
31
thần linh chiêm ngưỡng tính mô phỏng đa dạng về chính bản
tính Thiên Chúa, như thánh Tô-ma đã dạy.
Nhưng theo Scotus, công trình sáng tạo thế giới là kết quả
của sự lựa chọn tự do của ý muốn của Thiên Chúa. Theo
Scotus, các “triết gia” không thể đạt tới điểm này vì ý niệm về
sáng tạo nằm ngoài việc nghiên cứu thuần lý trí, vì nó thuộc
về lãnh vực của đức tin.
2. 8 Mô hình của Suarez (1548-1617)
Lập trường dung hoà giữa hai lập trường của thánh Tô-ma
và Scotus. Nhưng lại bỏ qua những điểm nền tảng của siêu
hình thánh Tô-ma (ý niệm chặt chẽ về hữu thể, phân biệt yếu
tính và hiện hữu, Esse ipsum subsistens). Do đó, siêu hình
Suarez gần gũi với siêu hình của Scotus hơn của thánh Tô-
ma. Còn khi nói về “hiện tượng học” về hữu thể, thì ông duy
trì lập trường của Aristote.
Tác phẩm vĩ đại, một khảo luận vô cùng quan trọng về
siêu hình của Đệ Nhị Kinh viện, ảnh hưởng lâu dài cho đến
thời của Kant: Disputationes metaphysicae.
Tác phẩm này mở ra một cách mới để nghiên cứu siêu
hình và mở siêu hình ra với thời hiện đại.
Tên đầy đủ: Tranh luận siêu hình để theo thứ tự trình bày
toàn bộ thần học tự nhiên, và thảo luận cách cẩn thận về
những vấn đề xác đáng liên quan đến tất cả 12 cuốn trong bộ
Siêu hình của Aristote.
✓ Thuộc tính: cái nhờ đó trí năng nhận biết được bản thể,
như cái cấu thành nên yếu tính của nó.
✓ Thiên Chúa: hữu thể hoàn toàn vô hạn, một bản thể
thường tại với những thuộc tính vô hạn, mỗi thuộc tính biểu
hiện cho bản chất vô hạn và vĩnh cửu.
✓ Tự do: cái hiện hữu cho duy sự cần thiết của bản tính
nó mà thôi, và tự mình ấn định hành động của mình theo một
cách thức được ấn định nào đó.
Thiên Chúa hiện hữu cách cần thiết. Natura naturans:
Thiên Chúa và những thuộc tính của Thiên Chúa, còn natura
naturata: các cách thức.
Con người là một cách thức của Bản Thể Thiên Chúa,
cũng là tổng hợp của hai cách thức: linh hồn là một cách thức
của thuộc tính của Tư Tưởng, còn thể xác là một cách thức
của thuộc tính của trương độ (estensione). Điều gì xảy ra nơi
thân xác cũng xảy ra cho linh hồn.
Con người không là Bản thể mà chỉ là một cách thức nên
không tự do. Sự tự do, theo Spinoza, đồng nhất với khoa học,
còn nô lệ đồng nghĩa với vô tri vốn là mẹ đẻ của những đam
mê. Thoát ra khỏi những đam mê và vô tri, nhận được amor
intellectualis Dei và nhìn thấy những mọi sự vật sub lumine
aeternitatis là lý tưởng mà Spinoza đề nghị với những ai
muốn đạt đến đời sống phúc thật.
Nhà siêu hình hiện đại đưa siêu hình học đến sự độc lập
khỏi thần học.
Tất cả thực tại quy về một nguyên lý duy nhất vốn đồng
nhất với Bản thể (thay vì Đơn Nhất như các nhà tân Platon).
Có sự hoán đổi như thế là vì trong khi Đơn Nhất vượt mọi ý
37
niệm và mọi định nghĩa thì Bản Thể hoàn toàn định nghĩa
được qua các ý niệm rõ ràng và minh bạch.
Mô hình siêu hình là mô hình duy bản thể thay vì duy đơn
nhất.
Phương pháp hình học đưa Spinoza đến việc thực hiện
một chủ thuyết duy lý tuyệt đối: ông tin rằng mình thực sự
nhìn thấy các sự vật sub specie aeternitatis. Tất cả những lãnh
vực liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa đối với ông đều
biến mất.
Hệ thống siêu hình duy lý, thuần lý và hoàn hảo.
Mặc dù nói đến amor intellectualis Dei, nhưng không có
hình bóng của vấn đề thần bí của tân Platon trong siêu hình
của Spinoza. Ông cho rằng không có lý trí không thể có thị
kiến, không thị kiến nghĩa là không có sự hợp nhất, nghĩa là
không có tình yêu.
2. 11 Mô hình của Gotfried Wilhelm Leibniz (1646-1716)
Mô hình chủ trương vượt qua những giới hạn của mô hình
do Descartes trình bày (gánh nặng chết người của res
extensa), và cả mô hình của Spinoza, nhằm bảo vệ tính độc
lập và tự do của những thực tại giới hạn và tính chất riêng biệt
của chúng.
Leibniz đổi mới siêu hình ở hai nhánh: vũ trụ hoc (triết
học về tự nhiên) và thần học tự nhiên, dung hoà giữa thuyết
duy nhất thể của Spinoza và thuyết nhị nguyên của Descartes.
Với học thuyết về đơn tử (monade), ông đặt thế giới vật
chất trên nền tảng của nguyên lý tinh thần năng động.
Qua chủ thuyết duy lạc quan bẩm sinh, ông cho rằng thế
giới này là tốt đẹp nhất trong các thế giới.
38
Đóng góp vĩ đại của Leibniz là nguyên lý về cá thể. Học
thuyết về đơn tử đưa ra một hệ thống cổ điển về thuyết cá thể,
thuyết này khẳng định giá trị tuyệt đối của từng cá thể và
quyền ưu tiên tuyệt đối của chúng đối với bất cứ nguyên lý
phổ quát nào (Đơn Nhất, Trí năng, sự Thiện, Bản Thể, Hữu
Thể).
Cái phổ quát luôn là một sự trừu tượng, không bao giờ là
thực tại, thực tại có tính chất cá thể, đơn lẻ, đặc thù. Cá thể
không mọc lên từ tính phổ quát.
Mỗi cá thể được cá thể hoá bởi chính hữu thể của nó. Thế
giới thật tuyệt vời không bởi vì là một bản thể duy nhất,
nhưng vì là hợp thể hài hoà giữa các cá thể vô hạn và những
đơn tử.
Mô hình siêu hình học vừa mang tính đơn nhất
(enologico) vì nền tảng của tất cả là đơn tử bản thể (monade
ousiologico) vì đơn tử được định nghĩa như là bản thể
Nguyên lý siêu hình của tất cả là đơn tử, một bản thể đơn
giản, duy nhất trong thứ hạng của nó (không có hai đơn tử
tương tự nhau). Mỗi đơn tử là “bức gương của vũ trụ” và có
mối tương “đại diện” với các đơn tử khác (không theo tương
quan nhân quả hoặc mỗi đơn tử là một đại diện ít nhiều rõ nét
của những đơn tử khác). Tất cả là bức gương của tất cả.
Mỗi sự vật của thế giới này được cấu tạo bởi entelechia-
tinh thần (nguyên lý tác động) và vật chất đệ nhất (nguyên lý
thụ động).
Với con người, entelechia là linh hồn. Giữa linh hồn và
xác liên kết với nhau không theo luật nhân quả nhưng bởi “sự
hài hoà được đặt định” do Thiên Chúa muốn.
Như mô hình tân Platon, lý chứng hữu thể học cũng dựa
trên định nghĩa Thiên Chúa như một hữu thể khả thể.
39
Thiên Chúa chỉ mình Người mới có đặc quyền này: phải
hiện hữu. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, không gì có thể
làm Người hiện hữu và như thế Thiên Chúa sẽ trở nên thực tại
không thể, và như vậy là trái với giả thiết.
Nguồn gốc của vạn vật đều từ Thiên Chúa: tia sáng flash.
Tất cả thực tại và tất cả sự hoàn hảo của thục tạo đến từ
Thiên Chúa trong khi sự bất hảo đến từ sự giới hạn (sự dữ
hữu thể học) làm nên nguyên nhân tối cùng của sự dữ.
Dựa trên nguyên lý về lý do đủ, ông khẳng định trong số
các thế giới, Thiên Chúa chọn một thế giới tốt đẹp nhất, trong
đó sự dữ ít nhất.
Mô hình Leibniz là một hệ thống siêu hình Platon thái
quá: hai thế giới của Platon chỉ còn giữ lại một: thế giới vô
chất. Để xoá bỏ nền tảng duy vật, Leibniz phủ nhận hiện hữu
của vật chất.
Bắt đầu từ thế giới này nhưng không để phủ định nó mà
để cắm rễ nó vào một thế giới vững chắc hơn, là Nền tảng của
thế giới này.
2. 12 Mô hình của Kant (1724-1804)
Sau Kant, việc xây dựng bất kỳ một siêu hình học thuần
lý nào đều hoàn toàn là không thể. Khát vọng siêu hình của
con người được thoả mãn nơi nghệ thuật và tôn giáo chứ
không nơi siêu hình. Chủ thuyết của Kant dường như đã ghi
một dấu chấm kết thúc cho siêu hình.
Những trào lưu triết học nổi tiếng của thế kỷ XX đều là
bài siêu hình: thuyết phê bình, tân Hegel, thuyết sức sống,
thuyết lịch sử, thuyết hiện sinh, mác-xít, thuyết duy cấu trúc,
thuyết tân thực nghiệm, thuyết phân tích ngôn ngữ, tân thông
diễn học. Từ cội rễ, bài siêu hình là tư tưởng yếu, một kinh
nghiệm triết học của thế kỷ XX.
Chỉ có những cuộc trở lại với siêu hình cổ điển
(Parmenide, Aristote) và siêu hình Ki-tô giáo (thánh
Augustino và thánh Tô-ma).
Heidegger đẩy mạnh cuộc trở về với mô hình Parmenide.
Tuy nhiên, lập trường của Heidegger đối với siêu hình rất
mập mờ. Một mặt, ông có ý niệm rất cao về một dạng hiểu
biết có thể khơi gợi, trổi vượt và xác định mọi vấn nạn và mọi
đánh giá; mặt khác, việc ông trở lại với Parmenide cũng là
một sự vượt qua chính siêu hình.
Siêu hình học luôn luôn là điểm trọng tâm trong những
mối quan tâm suy tư của Heidegger. Hàng loạt tác phẩm: Hữu
thể và thời gian; Siêu hình học là gì?; Kant và vấn đề siêu
hình; dẫn vào siêu hình học; yếu tính của chân lý; trên con
đường về với ngôn ngữ… đều bàn đến vấn đề hữu thể.
42
Sau Kant không có triết gia hiện đại nào say mê siêu hình
như Heidegger. Khác với Kant, Heidegger quan niệm nhiệm
vụ trên hết của siêu hình là: nghiên cứu về hữu thể.
Trong Hữu thể và thời gian, Heidegger chủ trương rằng
chúng ta không thể thủ đắc giải pháp cho tất cả các vấn đề về
hữu thể, ngay chính vấn đề đã rất rắc rối và tối tăm. Cần phải
đặt lại vấn đề từ đầu. Để đặt nền móng cho siêu hình một cách
đúng đắn, cần phải trở về những nguồn cội, cần trở về với
Parmenide. Thật vậy, siêu hình, từ Platon đến Aristote, đã
“phản bội” hữu thể, làm giảm đi đẳng cấp của nó với một vài
những biểu hiện quan trong của nó (Ý tưởng, Bản Thể, Thiên
Chúa), nhưng chỉ là những biểu hiện đặc thù của hữu thể chứ
không phải là hữu thể.
Để tìm lại chân lý của hữu thể, Heidegger thực hiện hai
cuộc hành trình ngược chiều: phân tích hiện sinh:
- đi từ con người đến hữu thể (Sein und Zeit: một ngõ
cụt bởi thay vì đạt tới hữu thể thì đến với hư không (cái chết);
- đi từ hữu thể đến con người (Dẫn vào siêu hình học,
Trên con đường hướng tới ngôn ngữ): hữu thể tự mạc khải
mình cho con người, con người trở thành “mục tử của hữu
thể”, sự cảnh giác và lắng nghe chắm chú của con người gìn
giữ hữu thể. Cho nên, cách diễn tả của con người về hữu thể
là cách diễn tả đến từ cách diễn tả nguyên thuỷ của chính hữu
thể. Nhưng những mạc khải của hữu thể luôn là những mạc
khải lịch sử, nên phiến diện; sự để-lộ-ra (aletheia), chân lý
của hữu thể không bao giờ là chung cuộc, dứt khoát. Theo xu
hướng hiến mình cho sự hiển lộ của mầu nhiệm hữu thể, con
người tìm cách thực hiện việc làm hiển lộ chính hữu thể, đặt
chân lý nơi chính sự hiển lộ thay vì nơi chính hữu thể. Vượt
qua hữu thể trong tổng tính của nó là quên lãng chính hữu thể
43
vốn là trascendens tuyệt đối, đặt con người vào trạng thái
thường xuyên âu lo.
Điều mà chúng ta thường quen nghĩ đến như là hữu thể,
phải nhường chỗ cho hữu thể. Con đường để gặp hữu thể:
“Từ ‘hữu thể’ xuất hiện mọi chỗ như một từ trống rỗng, ý
nghĩa mờ nhạt. Nó xuất hiện như một sự kiện có thể nhận
thức được như những sự kiện khác. Nhưng, cuối cùng… nó
xuất hiện như cái đang được nghiên cứu nhất
(Fragwurdigste). Hữu thể và sự hiểu biết về hữu thể không
phải cùng một thứ. Hữu thể hình thành nên sự kiện nền tảng
trên đó chỉ hiện-sinh-người-lịch-sử mới được ở lại trong cung
lòng của sự mở rộng của hữu thể trong toàn thể tính của nó”
(Dẫn vào siêu hình).
Khởi đi từ hiện tượng học và với tính tri thức luận,
Heidegger đã hướng mối quan tâm triết học đến chiều sâu
thăm thẳm của Hữu Thể, và đối diện với sự tự phụ và hời hợt
của tri thức thuần lý trí tưởng chừng như đã thuần hoá được
tất cả thực tại thì ông đã can đảm chọn lựa con đường bất-
thuần-lý-trí, con đường nhận thức bi kịch của thân phận con
người trong chính cấu trúc hữu-thể-tại-thế của nó.
Ban đầu, mô hình của Heidegger tự bản chất là duy-quy-
nhân-loại, nhưng sau đó trở thành mô hình duy-quy-hữu-thể.
Trong Hữu thể và thời gian, ông có hướng xây dựng siêu
hình từ dưới lên (phát xuất từ hiện-sinh-người, Dasein), còn
trong những tác phẩm khác từ cuốn Dẫn vào siêu hình, ông
xây dựng siêu hình từ trên xuống (khởi đi từ Hữu Thể). Trong
giai đoạn đầu, ông theo mô hình của Aristote, nhưng sau ông
theo mô hình của Parmenide: hữu thể là tất cả, ngoài hữu thể
không thể xuất ra gì cả. Hữu thể theo Heidegger không phải là
một hữu thể bất động, tĩnh tại của Parmenide được thể hiện
44
trong tự nhiên, mà là hữu thể năng động, biến đổi để tự mạc
khải mình trong lịch sử.
Heidegger lịch sử hoá hữu thể học và cùng lúc cũng hữu
thể hoá lịch sử. Không có một hữu thể học nào khác ngoài sự
tỏ-mình-hoá-lịch-sử (epifanizzazione storica) của hữu thể;
ngược lại trên nền tảng của mình (Grund) không có lịch sử
nào khác ngoài sự tỏ-mình của hữu thể.
Lịch sử hoá hữu thể rõ ràng là sẽ đưa tới một nội tại tính
triệt để của hữu thể và đến một thể thức của thuyết phiếm-
thần-hữu-thể-học (panteismo ontologico).
2. 14 Mô hình mới: hữu thể học và nhân vị học
Một trong những lý do chính yếu của các triết gia theo
thuyết nhân vị (Scheler, Buber, Levinas, Ricoeur…) chống lại
siêu hình vì theo họ, siêu hình học bỏ quên ngôi vị người
(nhân vị) khi nó bàn quá nhiều về hữu thể, hiện hữu, nền tảng
của hữu thể, và các đặc tính siêu nghiệm, nhưng không có
ngôi vị người.
Rất tiếc các nền siêu hình vĩ đại của Platon (Đơn Nhất, Sự
Thiện) và của Aristote (Bản thể đệ nhất, Động Cơ Bất động)
đều mang nền móng phi-nhân-vị.
Hải trình thứ hai không được lấy lại con đường đi từ thế
giới phi-nhân-vị của các sự vật vật chất và của hướng-lai vũ
trụ học, nhưng là thế giới của những ngôi vị con người để
hướng về thế giới của những ngôi vị thần linh.
Do đó, mô hình siêu hình học mà ta cần hướng đến vừa
mang tính hữu thể học và tính ngôi vị học (nhân vị).
45
✓ Ý niệm mạnh về hữu thể quan niệm hữu thể như một
sự thiện hảo lớn nhất và như nguồn suối của mọi sự hoàn hảo
khác. Như thế, các hữu thể được sắp xếp theo cấp bậc tuỳ vào
độ tham dự của hữu thể vào sự hoàn hảo của hữu thể esse
ipsum. Hữu thể cần thiết có tính chất loại suy nghĩa là các sự
vật sở hữu hữu thể từ theo mức độ khác nhau (esse ut actus
hay actus essendi).
49
Điểm phát xuất để tìm kiếm hữu thể: ý niệm mạnh để
khám phá Nền Tảng.
Theo thánh Tô-ma
*Hữu thể là sự hoàn hảo lớn nhất và là cội rễ của mọi sự
hoàn hảo khác: “esse est inter omnia perfectissimum”.
*Hữu thể là một giá trị tuyệt đối, trổi vượt những phẩm
tính và sự cao trọng của bất kỳ giá trị nào khác. Sự cao trọng
của mọi sự vật đều tuỳ vào hữu thể.
*Hữu thể là hành động tối thượng, luôn luôn và chỉ là
hành động (cái được thực hiện), là hàng động của mọi hành
động, hiện thể của mọi hiện thể, hiện thể của chính mô thể.
Hữu thể là hành động, là hiện thể của hiện hữu (ens), như việc
chiếu sáng là hành động của cái chiếu sáng. Hữu thể là thực
tại tính của mọi hành động (hiện thể). Hiện thể của hữu thể rất
cá biệt, tự lập hữu, là hiện thể do bản tính chứ không do tham
dự.
“Hiện thể đệ nhất là hữu thể lập hữu tự chính mình (per
se), do đó mỗi sự vật nhận sự hoàn hảo tối hậu qua việc tham
dự vào hữu thể. Cho nên, hữu thể là sự hoàn thành của mọi
mô thể. Mô thể đạt tới sự hoàn hảo chỉ khi nó có hữu thể, và
chỉ có hữu thể khi ở trong hiện thể. Không thể hiện hữu bất kỳ
mô thể nào mà không qua hữu thể. Hữu thể thiết yếu của một
sự vật không phải là một thuộc chất, nhưng là thực tại tính
của mọi mô thể hiện hữu (actualitas cuiuslibet formae
existentis)”.
Trong trật tự của thực tại, hữu thể trở nên nguồn mạch của
tất cả những gì là hiện thể theo một cách thức nào đó, nên hữu
thể trở nên nguồn mạch và nguyên nhân của tất cả những hiện
hữu đón nhận và tham dự vào hành động của hữu thể.
*Hữu thể là yếu tố mật thiết nhất và sâu xa nhất đã thẩm
thấu vào tất cả thực tại của sự vật và làm cho chúng hiện hữu.
50
Trong mỗi hiện hữu, yếu tố sâu kín nhất là chính hữu thể; sau
hữu thể (theo trật tự về độ tương quan mật thiết), phải kể đến
mô thể qua đó mà sự vật ở trong sự sở hữu hữu thể; sau nữa là
chất thể.
*Hữu thể cũng là mục đích tối hậu của mọi hoạt động,
hành động. Hành động tối hậu là hữu thể, là hiện hữu, là một
tiến trình đi từ tiềm thể đến hiện thể. Hữu thể là hành động
sau cùng mà cái trở nên phải hướng về.
3. 4 Những đặc tính của siêu hình
Theo Aristote, siêu hình bao gồm những đặc tính sau:
- Triết học đệ nhất: prote philosophia.
- Phổ quát (katholou), toàn diện, nghiên cứu về tất cả thực
tại, nghiên cứu về hữu thể như hữu thể là.
- Suy lý (theoreticé), không phải thực hành vì hướng về
chân lý, tri thức về chân lý, chiêm ngưỡng chân lý.
- Tự do: khoa học tự thân, nghĩa là chỉ có nó có mục đích
nơi chính nó. Những khoa học khác có mục đích thực tiễn
hoặc thực nghiệm; nên không mang giá trị tự thân mà được
đo lường ở hiệu quả.
- Khó khăn vì nhắm đến những giá trị phổ quát tối cao,
các nguyên lý, các bản thể biệt lập.
- Tính lãnh đạo: vượt trên các ngành khác và hướng dẫn
chúng vì nhận thức được những nguyên nhân đệ nhất và mục
đích tối hậu.
- Thần linh: vì bàn tới các thực tại thần linh: các thực tại
biệt lập, Thiên Chúa.
- Con đường cứu độ, hạnh phúc: khôn ngoan, tri thức,
chiêm ngưỡng chân lý là con đường cứu độ (chứ không chỉ có
tôn giáo). Con đường duy nhất chắc chắn để tự độ và đạt hạnh
phúc là con đường nhân đức, mà một điều rõ nét nhất trong
51
các nhân đức là sự chiêm niệm. Khi chiêm niệm, con người
đạt tới sự thể hiện sung mãn đặc tính cao trọng nhất của mình
là nous, nghĩa là đạt tới sự thể hiện chính mình ở mức độ cao
nhất.
Các giáo phụ đầu tiên ứng dụng thuật ngữ của Platon và
Aristote: “triết học như con đường cứu độ” để nói về triết học
của mình: “triết học về Đức Ki-tô”.
52
Các triết gia đồng thuận rằng ý niệm về hữu thể là ý tưởng
đầu tiên mà trí tuệ chúng ta hình thành nên.
Theo thánh Tô-ma, hữu thể là khái niệm đầu tiên, đáng kể
nhất và phổ quát nhất mà ta có, một khái niệm bao hàm các
khái niệm khác.
Rosmini cũng cho rằng ý tưởng về hữu thể là trưởng nữ
của tất cả các ý tưởng của chúng ta.
Theo Heidegger, chúng ta luôn có một sự hiểu biết sơ
khởi về hữu thể dù chỉ thuần mập mờ, vô định, nhưng ý niệm
về hữu thế ấy luôn hàm chứa và là điều giả định phải có trước
trong ý niệm về bất cứ sự vật nào.
Thông thường, người ta phân biết ba loại ý niệm: ý niệm
mơ hồ, ý niệm chung và ý niệm cường mạnh.
a. Ý niệm mơ hồ
Đối với tất cả những ai chưa quen với việc suy tư siêu
hình, ý niệm về hữu thể vẫn còn ở mức độ thô, sơ cấp và mơ
hồ. Đó là ý tưởng rằng có sự vật đấy ngay cả khi ta không biết
xác quyết gì về yếu tính của sự vật đó. Đó là một khái niệm
có được cách trực giác, ngay cả khi đó không phải là một trực
giác rõ ràng, chính xác.
b. Ý niệm chung
Mức độ thứ hai của khái niệm triết học là ý niệm về hữu
thể như hữu thể là. Đây là một ý niệm chính xác, rõ ràng, xác
định cái hiện hữu. Những xác quyết về tính chất của hữu thể
53
đến sau hữu thể nhưng được thêm vào từ nội tại chứ không
bởi ngoại tại vì ngoài hữu thể không có gì ngoài hư vô. Do
đó, trong tất cả các sự vật, hữu thể là yếu tố chung nhất. Ý
niệm này không còn là bởi trực giác nữa, nhưng là kết quả
của suy từ và trừu xuất.
Khái niệm hữu thể vượt trên những phạm trù, rộng rãi và
bao quát bất cứ phạm trù nào, vì thế nó bao hàm tất cả những
khái niệm khác.
Ý niệm hữu thể không chỉ hàm chứa trong các ý niệm về
sự vật mà còn trong những ý niệm về các xác quyết, về các
phẩm tính của sự vật, về thực tại bất kỳ nào đó.
Vì thế, ens commune không thể là một loại, vì loại được
xác định bởi những khác biệt vốn không bao hàm trong ý
niệm về loại.
Hữu thể nội tại ở mỗi hiện hữu và ở mỗi khía cạnh của
hiện hữu. Như thế ta không thể quan niệm hữu thể một cách
phiến diện, vì ngoài hữu thể không có gì hơn hư vô.
c. Ý niệm cường mạnh
Mức độ mới trong ý niệm về hữu thể: hữu thể được quan
niệm như sự hoàn hảo và là thực tại của tất cả các hiện thể.
Những vấn đề mới nảy sinh: làm sao đến được hữu thể
cường mạnh, đến được esse ut actus? Đạt được một cách trực
giác hay qua tiến trình suy tư? Ta nhận thức qua một ý niệm
hoặc chỉ được khẳng định trong phán đoán?
Lịch sử khám phá ý niệm cường mạnh về hữu thể qua ba
giai đoạn chính.
a. Giai đoạn tiền Socrate
Thời này, con người sống thô sơ, nên họ tin rằng không
hiện hữu gì khác ngoài những xác thể khả giác. Bản thể của
54
các xác thể không phải được dựng nên, chúng hình thành nên
các nguyên nhân gây ra những biến đổi ngẫu nhiên như tình
bạn, xung đột, trí tuệ hay những vấn đề tương tự như thế.
b. Giai đoạn thời của Platon và Aristote
Phân biệt cách luận lý mô thể cốt yếu và chất thể.
Nhấn mạnh hữu thể dưới một khía cạnh đặc biệt hoặc như
nó thuộc về một loại hoặc nó được xác định bởi những thuộc
tính của nó.
Platon và Aristote nhấn mạnh những nguyên nhân tác
thành nơi các sự vật.
c. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn mà thánh Tô-ma trải qua
Khám phá nguyên lý duy nhất và phổ quát của tất cả sự
vật: chính hữu thể.
Đến thánh Tô-ma, ngài nghiên cứu hữu thể không chỉ
dưới một khía cạnh đặc thù (các tương quan của chúng với
yếu tính, với bản thể, với các tuỳ thể, với chất thể, với mô
thể..), nhưng còn như hữu thể, nghĩa là như sự tham dự vào sự
hoàn hảo của hữu thể (là cái có hữu thể).
Đây là giá trị đặc biệt của hữu thể: chỉ có hữu thể mới làm
cho hiện hữu của sự vật nên thực hữu, chỉ hữu thể mới đem
lại cho hiện hữu hiện hữu tính, cao trọng tính, hoàn hảo tính
và năng động tính.
Thánh Tô-ma khám phá về ý niệm cường mạnh về hữu
thể và đặt nó làm nền tảng cho toà nhà siêu hình của mình.
Chuyển từ ý niệm yếu về ens commune sang ý niệm
cường mạnh về esse ut actus? Thánh Tô-ma trả lời rằng hữu
thể mạnh không được quan niệm như cái gì đó tham dự vào
hữu thể nhưng như chính hữu thể lập hữu, như hữu thể đệ
nhất được đồng hoá với hữu thể, sau khi đã loại bỏ bất kỳ
55
phân biệt nào giữa yếu tính và hữu thể. Đào sâu vấn đề này
thế nào?
a. Cách giải quyết của Maritan
Người đầu tiên đào sâu vấn đề tri thức về hữu thể qua
những cách thức và mức độ khác nhau: nguỵ-ý niệm, ý niệm
mơ hồ, ý niệm chung và ý niệm mạnh.
Ý niệm mạnh là một ý niệm, là kết quả của một trực giác
có được không qua chiêm ngưỡng hữu thể cách trực tiếp
nhưng suy tư về hữu thể chung. Qua hữu thể chung mà ta
nhận thấy được hữu thể như nó là.
Thật hữu lý khi Maritain khẳng định rằng ý niệm mạnh về
hữu thể là kết quả của trừu xuất-trực giác, nhưng “chất liệu”
để thực hiện việc trừu xuất không phải là ý niệm hữu thể
chung nhưng là hữu thể hiện hữu: trong hữu thể hiện hữu mà
trí năng nắm bắt được hữu thể với sự sung mãn của hoàn hảo
tính, trong khi phải nhớ rằng hữu thể hiện hữu là một sự tham
dự vào hữu thể.
b. Cách giải quyết của Gilson
Gilson cho rằng có thể tới được thực tại hữu thể. Tri thức
về hữu thể chỉ có trong phán đoán, do đó hữu thể esse không
đem lại ý niệm nào. Bởi vì phán đoán về một hiện sinh, trong
cách thức chung nhất của nó “x là”, trở nên khả tri, chúng ta
phải cho rằng một thực tại bao hàm một yếu tố siêu vượt trên
chính yếu tính của nó và rằng tri thức lý trí của chúng tự bản
chất có khả năng bắt được yếu tố đó.
Như vậy, đối với chúng ta, cũng như với Platon và Plotin,
sẽ có một cái “hơn cả” yếu tính, chính là hiện thể của hiện
hữu, thay vì Sự Thiện hoặc Một. Nếu nó vượt hơn cả yếu tính,
thì cũng vượt trên ý niệm. Khả thể của phán đoán về hiện sinh
được giải thích rằng trí năng về hữu thể khả tri nắm bắt đối
tượng ngay lúc đầu tiên, nơi nó sẽ có cái còn mật thiết và sâu
56
sắc hơn nữa, đó là actus essendi. Ta hiểu nó cũng như nắm
bắt nó.
Do đó, hiện thể của hiện hữu là một quan niệm về yếu
tính trong hữu thể, phán đoán về hiện hữu không thể là gì hơn
là hoạt động tương ứng; với hành động này, hữu thể tri thức
khẳng định hiện thể này. Vì vượt trên yếu tính nên hiện thể đó
không thể là đối tượng của ý niệm.
Lập trường của Gilson gặp nhiều phê bình:
✓ coi thường tầm quan trọng hữu thể học của yếu tính và
của tri thức về mặt ý niệm.
✓ Những thuật ngữ loại suy được áp dụng cho nhiều chủ
thể dù chúng không cùng loại và hạng, nhưng chúng tương
quan với nhau qua “một sự tương đồng nào đó”.
✓ Trong siêu hình về hữu thể, hữu thể loại suy đóng một
tầm quan trọng nền tảng.
✓ Hữu thể theo bản thể và chín phạm trù (phẩm tính,
lượng tính, tương quan, hành động, đam mê, nơi chốn, thời
61
gian, trì lực, sở đắc)
✓ Hữu thể theo hiện thể và tiềm thể: hiện thể và tiềm thể
của hiện hữu liên hệ với những cách thức hiện hữu, nghĩa là
các phạm trù.
✓ Hữu thể như đúng và sai: hữu thể định cái là đúng và
cái không-hữu-thể định cái là không đúng, nhưng sai.
✓ Hữu thể như tuỳ thể hoặc hữu thể ngẫu nhiên (điều này
dính dáng đến điều khác).
8. 1 Khái niệm
Trở nên trái ngược với thường hằng: “không luôn là như
thế”. Trở nên có nghĩa rộng hơn “thay đổi”, “chuyển động”.
Trở nên bao hàm một hành trình của hữu thể (ente) đi từ
tình trạng hiện hữu (essere) này sang tình trạng khác: chuyển
động về nơi chốn, chất lượng, số lượng và bản thể.
Chân lý bất biến và sự thay đổi.
Parmenide (quan niệm tĩnh và hữu thể) > < Heraclite và
những triết gia hiện đại (quan niệm năng động về hữu thể).
a. Học thuyết của Aristote
Trở nên (kinesis) rất khó định nghĩa do tính bất định. Trở
nên là hiện thể nhưng là hiện thể không hoàn chỉnh. Học
thuyết của Aristote về sự trở nên được thể hiện rõ nét trong
khảo luận về vũ trụ luận, trong đó ta thấy rằng trở nên là một
nét cốt yếu của bản thể vật chất: không bất biến nhưng do nội
tính, vật chất luôn thay đổi dưới nhiều dạng thức: nơi chốn,
chất lượng, số lượng, thời gian và bản thể.
Bản thể vật chất không là bản thể đơn giản nhưng đa
phức: chất thể, mô thể. Cái hình thành nên chất thể là hữu thể
trong tiềm thể, tiềm thể bất định có thể đón nhận nhiều mô
thể. Trong khi đó, cái làm nên mô thể là hữu thể hiện thể
quyết định trên chất thể. Hai yếu tố hình thành nên cấu trúc
tương quan (chất thể hay mô thể không thể tự mình hiện hữu)
nhưng liên kết nên một tổng thể (sinolo).
Trở nên không là thuần hiện thể hoặc thuần tiềm thể
nhưng là hiện thể của một hữu thể trong tiềm thể khi hữu thể
85
này còn trong bất toàn tính của mình, nghĩa là trong tiềm thể
tính của nó. Như vậy, trở nên là “hiện thể của hữu thể trong
tiềm thể như nó là (tou dynamei ontos entelekeia, ê toiuton,
kinesis estin) (Vật lý III,2,201a11).
Trở nên không là hiện thể cũng chẳng là tiềm thể nhưng là
hiện thể của cái vẫn còn trong tiềm thể (không là hiện thể theo
nghĩa trọn vẹn).
Có bốn loại chính: có những thay đổi liên quan đến bản
thể, số lượng, chất lượng, nơi chốn.
Trở nên không chỉ là một sự kiện, nhưng là một sự cần
thiết, nó là một phần của tính hư vô, chóng qua của chủ thể,
của chất thể; vừa là một phần của việc thực hữu hoá của mô
thể cách tiệm tiến chứ không tức khắc. Giữa chất thể và mô
thể, không chỉ có sự tổng hợp mà còn có diaresis (chia tách),
một sự lệch pha, lạc lỏng mà cái trở nên tìm cách để lấp đầy.
Là một hoạt động, nên trở nên cũng có một mục đích.
Cùng đích này đưa Aristote đến việc khẳng định có một Động
Cơ Bất Động như là cùng đích tối hậu của cái trở nên của vũ
trụ. Động Cơ Bất Động là bản thể hoàn toàn vô chất và vĩnh
cửu, hiện thể hoàn hảo nhất, Trí Tuệ tự chiêm ngưỡng nên
miễn nhiễm khỏi mọi đổi thay.
b. Học thuyết của Hegel
Hành trình suy lý của Hegel trái ngược với Aristote ở hai
điểm:
- đối tượng của suy lý không là tự nhiên mà là lịch sử.
- điểm phát xuất không là thực tại vật chất nhưng là thực
tái ý tưởng: Ý tưởng tự tại (in se) trở thành Ý tưởng ngoại tại
(extra se), rồi trở nên Ý tưởng tự thân và nguyên thường (in
se, per se). Trong khi đối với Aristote, Ý tưởng, Trí Tuệ tự
86
chiêm ngưỡng là điểm tới thì nơi Hegel, Ý tưởng, Lý Trí tìm
kiếm chính mình là điểm khởi hành. Như thế, theo Hegel, cái
trở nên không còn là cấu tố của bản thể vật chất như theo
Aristote nhưng là thành phần của chính bản chất của Ý tưởng,
Tư Tưởng, Tinh Thần.
Theo Hegel, cái trở nên không phải là kết quả của tiến
trình xuất sinh nhưng của tiến trình biện chứng. Biện chứng
không là gì khác việc Lý Trí được phát triển, Ý niệm được
triển khai, Tinh Thần từng bước được thể hiện: những cấp bậc
này là những giai đoạn của sự trở nên. Những giai đoạn này
đan xen nhau cách biện chứng, thể hiện trong sự vươn lên của
chúng, một cấu trúc tri thức tự thân của tinh thần.
Tương quan biện chứng nền tảng này là cơ sở của mọi cái
trở nên là tương quan biện chứng của hữu thể và hư vô. Dù
nơi nào và dù sao đi nữa, khi nói đến hữu thể và hư vô, ta
phải nói đến cái trở nên vốn vượt trên hữu thể và hư vô.
Trong hệ thống duy tâm Hegel, cái rất bé nhỏ: con người,
lịch sử, sự trở nên, hư vô lại trở thành quá vĩ đại; còn những
thực tại vĩ đại như Thiên Chúa, Tinh Thần, hữu thể lại trở nên
quá bé nhỏ.
c. Học thuyết của thánh Tô-ma
Thánh Tô-ma lấy lại những nguyên lý căn bản về vấn đề
trở nên, nhưng áp dụng vào những trường hợp mới của sự trở
nên (sáng tạo) và trong những tương quan mới của tiềm thẻ và
hiện thể (tương quan giữa bản chất và hiện hữu).
Trở nên là hành trình từ hư vô đến hiện hữu. Ngoài cái trở
nên của tuỳ thể và bản thể, thánh Tô-ma nói đến một loại trở
nên thứ ba: sự trở nên hữu thể (entitativo). Sự trở nên này có
nguyên nhân tác thành là Thiên Chúa. Thế nên, theo thánh
87
nhân, trở nên là hiện tưởng quan trọng cốt yếu để hoàn thành
tiến trình đến Siêu Việt.
8. 2 Những vấn đề siêu hình về sự trở nên
Trở nên là dữ kiện của một sự kiện không thể phủ nhận.
Trong thế giới và trong lịch sử, tất cả đều hướng tới cái trở
nên. Trở nên cắm rễ sâu trong hữu thể, phát triển trên cây hữu
thể, chảy hướng về hữu thể, nhưng không bao giờ tương đồng
với tiềm thể của hữu thể. Trở nên là một thể thức của hữu thể,
nhưng là một thể thức của hữu thể chưa thực hữu cách sung
mãn, và đang có xu hướng, có sự vượt qua hướng đến sự sung
mãn của hữu thể.
88
Cách giải quyết vấn đề về sự lan rộng của những hữu thể
từ Nguyên lý chỉ có hai hướng: lưu xuất hoặc sáng tạo.
11. 1 Học thuyết về lưu xuất
Học thuyết về lưu xuất phát xuất từ Plotin (sau đó tiếp tục
với Porfirio, Proclo, Avicenna) để giải thích nguồn gốc của sự
vật từ Một. Một của Plotin có trước tri thức (Nous) và hữu
thể, do đó nó không biết cũng không chọn các sự vật từ nó
phát sinh cách tự phát như những con sông chảy từ một nguồn
nước, hay như như những tia sáng phát ra từ mặt trời. Nhưng
hữu thể xuất sinh từ Một nhờ sự phong phú và phong phú siêu
vượt của Một.
Quá trình lưu xuất: từ Một phát sinh Trí Tuệ (Nous). Nous
suy tư về chính mình, tách biệt khỏi Một và là căn nguyên của
hữu thể. Từ Trí Tuệ (hoá thân thứ II), linh hồn vũ trụ được
phát sinh, và từ đây linh hồn của các cá nhân cũng được phát
sinh. Việc xuất sinh cuối cùng từ Một sẽ sinh ra vật chất vốn
đối nghịch với Một, với Sự Thiện nên nó được đồng hoá với
sự dữ.
Các triết gia Ki-tô giáo không đồng ý với cách giải quyết
của học thuyết lưu xuất vì học thuyết này trái ngược với học
thuyết sáng tạo của kinh thánh mà bắt đầu từ Filone
Alessandrino, học thuyết sáng tạo có một bề dày suy lý. Ý
niệm Thiên Chúa trong Ki-tô giáo hoàn toàn khác với Một
huyền bí của Plotin vì Thiên Chúa của Ki-tô là Thiên Chúa
ngôi vị, có trí tuệ, ý chí và tự do (Ipsum esse subsistens). Các
hữu thể không nhất thiết phải được phát sinh từ Người. Theo
98
thánh Tô-ma, hành động cách nhất thiết là đặc tính của các
nguyên nhân tự nhiên, nhưng Thiên Chúa không là một
nguyên nhân tự nhiên (x. Tổng luận thần học,I, q.19,a.4).
Cũng như các hữu thể hướng lên Hữu Thể lập hữu phải
qua những lối đi được bảo đảm bởi nguyên lý nhân quả, tham
dự và mục đích thì trong chiều hướng đi xuống, những lối đi
này cũng được bảo đảm bởi những nguyên lý mang tính loại
suy với các nguyên lý trên: sáng tạo, thông giao, tham dự. Chỉ
ba nguyên lý này mới đem lại ánh sáng cho việc “lan rộng”
của Hữu Thể lập hữu.
11. 2 Học thuyết về sáng tạo
Sáng tạo hàm ý một sự sản sinh từ hư vô (production rei
ex nihilo sui et subiecti). Ý niệm sáng tạo đã hiện diện trong
triết học Ki-tô giáo từ thời Clemente Alessandrino và
Origene, nhưng siêu hình học về hữu thể của thánh Tô-ma,
sáng tạo có một giá trị sâu sắc. Nguyên lý sáng tạo nhấn mạnh
đến điểm khởi đầu là hư vô (ex nihilo). Hiệu quả của sáng tạo
là hữu thể, và hiệu quả này không thể có một căn nguyên nào
khác ngoài Hữu Thể lập hữu là chính Thiên Chúa (x. Tổng
luận thần học,I,q.45,aa.2-3). Tất cả những gì hiện hữu đều
nhận hữu thể từ Thiên Chúa.
11. 3 Học thuyết về thông truyền
Nguyên lý thông truyền khẳng định rằng hữu thể là một
quà tặng hoàn toàn nhưng không, mà người nhận không có
quyền đòi hỏi gì và người cho cũng không bị ràng buộc bởi
bất cứ nhiệm vụ nào. Thông truyền (comunicazione) nghĩa là
trao ban chính mình cách tự nhiên và quảng đại của Hữu Thể
lập hữu cho các hữu thể, bởi thế chính hiện hữu và toàn thực
tại của “cái” nhận tặng ân sẽ tuỳ thuộc vào Hữu Thể lập hữu:
với sự tự trao của Hữu Thể lập hữu mà hữu thể trổ bông trong
sa mạc hư vô.
99
Hữu Thể truyền thông cho các hữu thể khác theo mức
thiện hảo các hữu thể có thể đón nhận (x. Tổng luận thần
học,I,q.19,a.2). Học thuyết thông truyền cho thấy tất cả đều
do sự trao ban quảng đại của Hữu Thể lập hữu chứ không
phải do sự lưu xuất (tân Platon) hoặc do sự vong thân của
Tuyệt đối (duy tâm)
11. 4 Học thuyết về tham dự
Theo nghĩa chủ động, tham dự có nghĩa là truyền thông
“một phần” cái gì đó cho thực tại khác; còn theo nghĩa bị
động, tham dự có nghĩa là nhận cách phiến diện cái gì đó
(partem capere).
Nguyên lý tham dự, theo nghĩa bị động, có nghĩa là: “tất
cả những gì được tham dự đều là do được tạo nên”; còn theo
nghĩa chủ động, thì có nghĩa là “Hữu Thể lập hữu tham dự
vào những hữu thể bằng chính hữu thể của mình”.
- Hữu Thể lập hữu vô hạn, nên không thể bị quan niệm
như một tham dự viên. Hữu Thể có thể được các hữu thể khác
tham dự vào chứ nó không tham dự vào bất cứ sự vật nào,
hữu thể tham dự vào Hữu Thể, không như cái phổ quát nhất
tham dự vào cái ít phổ quát hơn, nhưng tham dự vào Hữu Thể
như cái cụ thể tham dự vào cái trừu tượng.
- Việc tham dự của Hữu Thể lập hữu là một sự tham dự
siêu nghiệm (trascendentale), chứ không là tham dự theo tuỳ
thể thuộc tính (predicamentale) vì có vị trí cho bình diện hữu
thể (actus essendi), chứ không phải bình diện bản thể/tuỳ thể;
là một sự tham dự hữu thể học (ontologica), chứ không là sự
tham dự theo luận lý học vì hiện thể được thông truyền là một
hiện thể thực hữu chứ không là hiện thể luận lý trong trí khôn.
- Tham dự không là sự phân chia hữu thể. Cũng như
thông truyền không làm vong hoá Hữu Thể lập hữu, nên sự
100
tham dự cũng chẳng làm phân tách, đổ vỡ, rạn nứt Hữu Thể.
Tham dự không có nghĩa là trao ban một phần hữu thể, vì
trong Hữu Thể không có thành phần, nhưng ở đây muốn nói
tới một sự thông truyền cách “đặc biệt”, “phiến diện”, cách
giới hạn sự thiện hảo vô biên của Hữu Thể.
Do đó, Hữu Thể lập hữu không bị các sự vật tham dự vào
như một phần, nhưng theo sự lan rộng và “nhiệm xuất” chính
mình (x. Tổng luận thần học,I,q.75,a.5,ad1: Deus
participatur a rebus non sicut pars, sed secundum
diffusionem et processionem ipsius”).
- Những giới hạn về độ hoàn hảo của hữu thể được quy
định bởi chính Hữu Thể lập hữu chứ không bị áp đặt từ ngoại
tại hay bởi hư vô. Qua việc tham dự, Hữu Thể ấn định những
cấp bậc hữu thể và phân phát cho các hữu thể theo trật tự và
thứ bậc trong vũ trụ.
101
Siêu hình luôn là con đường hướng về Siêu Việt Thể. Lối
thoát của con đường này luôn dẫn ta đến Nền tảng, Nguyên
Lý đệ nhất…
Có bao nhiêu và thế nào là siêu việt phẩm? Có ba dạng
thức: duy nhất tính, chân lý và sự thiện (x. De potential, q.9,
a7,ad 6; De veritate, q.21,a.4).
12. 1 Duy nhất tính
Sự thiện (bonum) nói lên sự tương hợp giữa hữu thể với
khả năng ước muốn (convenientiam entis ad appetitum). Sự
thiện là cái mà mọi vật đều ước muốn. Nơi sự thiện, ta thấy có
mối tương quan giữa hữu thể và ước muốn (ý chí).
Sự thiện hữu thể học-yếu tính: ước muốn tính hữu thể từ
phía esse ipsum subsistens (Thiên Chúa) là Đấng làm hữu thể
103
thành hiện thể: là mối tương quan yếu tính vì không có tương
quan này thì hữu thể sẽ thành hư không.
Sự thiện hữu thể học-thuộc tính là ước muốn hữu thể từ
phía ý chí con người hoặc từ một hữu thể có trí tuệ khác: là
thuộc tính vì Hữu Thể của hữu thể không tuỳ thuộc vào ước
muốn của chúng ta.
Thánh Tô-ma cho thấy rằng tất cả các sự vật đều được ban
cho, không những sự thiện hữu thể học thuộc tính mà còn cả
sự thiện hữu thể học yếu tính nữa. Tất cả đều là hoa trái của ý
muốn Thiên Chúa nên chúng không thể không có mối tương
quan thích hợp, ước muốn và tình yêu với ý Chúa. Sự thiện
cũng là một đặc tính của hữu thể.
Tóm lai, học thuyết về các siêu việt phẩm đóng vai trò tối
quan trọng vì giá trị suy lý nội tại của chúng và vì những mối
quan hệ mật thiết của chúng trong trật tự thực tế. Chúng diễn
tả những khía cạnh nền tảng của hữu thể và nền tảng của tất
cả các hoạt động nhân loại. Hữu Thể năng động và lôi kéo tất
cả các hữu thể hành động qua những đặc tính siêu nghiệm:
duy nhất, chân thật, thiện hảo, vẻ đẹp, giá trị. Hành động là
đặc tính siêu nghiệm của Hữu Thể, là sự tỏ hiện của Hữu Thể.
104
Ý niệm sự dữ được trình bày trong tất cả các nền văn hoá
(từ sơ khai đến tiến bộ).
Những biểu hiện: bệnh tật, chết chóc, đau khổ, độc ác, sai
lầm, dối trá, tội lỗi, sức tàn phá của thiên nhiên, thiên tai,
động đất, lũ lụt, bão tố, bất công, chiến tranh, bạo lực…
Sự thiện và sự dữ trong thiên nhiên và trong thế giới được
xem như cặp đối lập tương khắc: ánh sáng/bống tối, thể
xác/linh hồn; vương quốc của các thần dữ/ thần lành...
Trong truyền thống triết học Platon, Aristote hay khắc kỷ,
sự dữ không là một đề tài trọng tâm vì cấu trúc vũ trụ về căn
bản là một trật tự, nên không đào sâu vấn đề này. Cho nên,
Thiên Chúa không bị lên án về những vấn đề sự dữ xảy ra
(như sau này trong lịch sử thần lý học). Thế giới mà Platon,
Aristote, phái Khắc Kỷ giải thích như là kosmos trật tự không
đòi hỏi một sự biện minh nào. Không thể trút trách nhiệm sự
sữ lên Đấng Sáng Tạo (Demiurgo theo Platon) vì vị này nhào
nặn nên thế giới theo những ý tưởng vĩnh cửu, thế giới đạt tới
một mức hoàn hảo với vật chất và quy luật cần thiết mù
quáng.
Trong thế giới cổ đại, triết gia duy nhất đặt vấn đề sự dữ
cách nghiêm túc phải là Plotin và đưa ra định nghĩa như một
“sự thiếu thốn, thiếu vắng sự thiện”. Nguyên nhân của việc
thiếu sự thiện là vật chất. Và đây chính là cơ sở cho chủ
trương khổ chế của Plotin, trước hết phải nói tới sự chia tách
linh hồn khỏi vật chất, khỏi thể xác.
Ki-tô giáo tin Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn loài,
Người là Đấng quyền năng, toàn tri, Đấng quan phòng. Ki-tô
105
giáo đưa ra những góc nhìn mới, cũng như những giải đáp
cho những câu hỏi nan giải về vấn đề sự dữ: sao sự dữ có thể
làm ô nhiễm công trình của Thiên Chúa? Thiên Chúa không
quan tâm đến các thụ tạo hay Người quá yếu đuối? Hoặc sự
dữ có tính bẩm sinh như thiên nhiên? Phải chăng Thiên Chúa
không bao giờ sáng tạo nên sự dữ, nếu có thì nay Người
không đủ khả năng để ngăn cản sự dữ siêu hình (những giới
hạn của hữu thể thụ tạo) và sự dữ luân lý (tự do của con người
muốn làm điều dữ) hay sao?
13. 2 Những hướng giải quyết chính
a. Thánh Augustino
Thiên Chúa không thể nào tạo ra sự dữ, Người không là
nguyên nhân của sự dữ.
Sự dữ không thể nào tự đứng một mình, “không thể hiện
hữu độc lập”, nhưng phải hiện hữu trong một bản thể mà tự
bản chất là tốt. do đó, sự dữ là thiếu sự hoàn thiện mà bản thể
phải có và nay nó không có; cho nên sự dữ không là một thực
tại tích cực, nhưng là một sự thiếu thực tại (est privation
boni).
“Hữu thể khi ở cấp bậc thấp thì tự bản chất là một sự
thiện…và bởi vì mỗi hữu thể phải nhận biết một mô thể, dù
nhỏ nhất hoặc xoàng nhất thì luôn là một sự thiện và đến từ
Thiên Chúa; nếu Thiên Chúa, sự Thiện tối cao và cũng là mô
thể tối cao, thì mọi sự thiện hoặc là từ Thiên Chúa hoặc đến
từ Thiên Chúa; cho nên ngay cả mô thể xấu nhất cũng là từ
Thiên Chúa” (De vera religione, 39).
Nhận biết rõ rằng sự dữ không thể bắt nguồn từ Thiên
Chúa hoặc từ một nguyên lý ác thần tối cao, khi thăm dò cách
cẩn thẩn vấn đề, thánh Augustino đã rút ra kết luận rằng sự dữ
phát xuất từ tự do của những thụ tạo thiêng liêng như các
106
thiên thần và con người: sự dữ bùng phát khi những thụ tạo
này xa lìa Thiên Chúa và quy hướng về các thụ tạo. Như thế,
sự dữ cốt yếu bao gồm trong việc aversion a Deo và trong
việc conversion ad creaturas.
Theo thánh nhân, có một mối tương quan khăng khít giữa
sự dữ thể lý (đau khổ, bệnh tật, chết chóc…) và sự dữ luân lý:
sự dữ thể lý là hậu quả của sự dữ luân lý. Sau khi phạm tội,
con người sa vào tình trạng sợ hãi, ham muốn, âu lo, đam mê,
đau khổ. Con người đau khổ vì đánh mất đi cái gì đó vốn là
nguồn vui, nên đau khổ vì bị dày vò bởi các đam mê, ham
muốn vì họ đã đánh mất sự khôn ngoan, chối bỏ sự thiện và
không yêu mến Thiên Chúa.
Nhưng theo thánh Augustino, Thiên Chúa biết cách rút sự
thiện từ chính sự dữ. Mặc dù sự dữ không bắt nguồn từ
Người, nhưng với sự toàn trí và toàn năng, Thiên Chúa đưa sự
dữ vào trong trật tự phổ quát của các sự vật vì “không có gì
có thể xảy ra ngoài sự sắp xếp của Thiên Chúa. Sự dữ ngay từ
nguồn gốc đã ở ngoài sự sắp xếp của Thiên Chúa, nhưng sự
công bình của Thiên Chúa không để cho nó cứ ở mãi ngoài sự
sắp xếp của Người và đã bắt buộc nó để đưa nó trở về trong
quy luật mà Người có thẩm quyền toàn quyết” (De ordine,
II,7,23).
b. Thánh Tô-ma
Thánh Tô-ma bàn luận về vấn đề sự dữ trong những tác
phẩm: Commento alle Sentenze (I,d.46,q.3; II,d.34,qq.1-2);
Summa contra Gentiles (III, cc.4-15); De veritate (q.3,a.4);
Tổng luận thần học (I,qq.48-49); Compendium Theologiae
(c.115), đặc biệt trong tác phẩm Quaestio disputata de Malo.
Tác phẩm gồm 16 câu hỏi về: bản chất sự dữ, bản chất và
nguyên nhân của tội, tội nguyên tổ và những hậu quả của nó,
tự do tuỳ ý, tội nhẹ, tội trọng, ma quỷ.
107
Theo dấu chân thánh Augustino, thánh Tô-ma định nghĩa
sự dữ như “việc thiếu sự thiện mà một sự vật được đặt định và
được cho để sở hữu (malum est defectus boni quod natum est
et debet haberi) (x. Tổng luận thần học, I,q.49,a.1). Sự thiếu
này không phải là tuyệt đối, sự dữ bao gồm trong một cái
thiếu tương đối làm cho “một cách thức hiện hữu” đặc thù của
hữu thể hữu hạn trở thành sự dữ. Thánh Tô-ma cho rằng sự
dữ không ở trong các sự vật nhưng là sự thiếu vắng sự thiện
đặc thù nên gắn liền với một sự thiện đặc thù” (De malo,
q.1,a.1).
Sự dữ có hai dạng chính: thiếu vắng yếu tố tự nhiên (vật
lý) và thiếu và thiếu vắng trật tự hướng đích (tội lỗi, sự dữ
luân lý là sự dữ trầm trọng nhất).
Thánh Tô-ma nhấn mạnh rằng sự dữ tuyệt đối, hay
nguyên lý tối cao của sự dữ không hiện hữu. Thật vậy:
- trong khi có Sự Thiện tối cao, Sự Thiện tự bản tính
chính là Esse subsistens, sung mãn mọi sự hoàn hảo thì sự dữ
chỉ là một sự thiếu thốn tương đối sự thiện hảo, nên không có
sự dữ tuyệt đối.
- Sự dữ không là sự hư nát toàn diện của chính chủ thể,
nếu không thì chủ thể đó không thể tồn tại được: nên không
có sự dữ toàn diện.
- sự dữ có nguồn gốc từ sự thiện, nên không là nguyên lý
nhưng chỉ là cái được phát sinh, nên không là nguyên nhân đệ
nhất, vì nguyên nhân tuỳ thuộc luôn đến sau nguyên nhân tự
thân.
c. Leibniz
Leibniz bàn về sự dữ trong tác phẩm Khảo luận về thần lý
học, trong đó, ông phân biệt ba hình thức sự dữ: siêu hình, vật
lý và luân lý: sự dữ siêu hình bao hàm trong sự bất toàn đơn
108
giản, sự dữ vật lý hàm ẩn trong đâu khổ và sự dữ luân lý ở
trong tội lỗi.
Sự dữ không có một sự tự lập hữu thể học, không là một
đặc tính thực sự mà Đầng Sáng Tạo đặt để nơi các sự vật. Sự
dữ đơn giản chỉ là sự thiếu sự hoàn hảo tuyệt đối. Sự thiếu
thốn này không thể tách rời khỏi thụ tạo nên nó là sự dữ siêu
hình. Đây là điều Thiên Chúa muốn vì ngay khi sáng tạo,
Người đã ban cho các thụ tạo những sự hoàn hảo giới hạn.
Ngược lại, sự dữ thể lý và tội lỗi thì được Thiên Chúa “cho
phép” xảy ra, nhưng Người không muốn. Tội lỗi tuỳ thuộc
vào ý chí tự do của con người. Đau khổ, sự dữ thể lý là hậu
quả của tội, bắt đầu từ khi có tội nguyên tổ. Nhưng từ những
sự dữ thể lý, Thiên Chúa có thể rút ra những sự thiện, nhờ
chúng, Thiên Chúa thanh luyện kẻ tội lỗi.
Leibniz cho rằng Thiên Chúa không chỉ có thể làm cho sự
dữ trở về với trật tự chung của các sự vật, nhưng theo sự khôn
ngoan vô hạn Người biết trong tất cả các thế giới đâu là thế
giới tốt nhất, Người sẽ lựa chọn thế giới ấy và cho nó hiện
hữu.
Tuy nhiên, lý thuyết này không vững vì các thế giới có thể
có là vô hạn, luôn có một thế giới tốt hơn cái đã thực tại hoá.
Hơn nữa, những thế giới có thể có ấy không có được sự kiên
vững hữu thể học vì chúng không là gì khác hơn những mô
phỏng bản tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa không “mất thời
gian” để nghĩ tới vô vàn những thế giới có thể có, rồi sau đó
phủ nhận sự hiện hữu của chúng: Thiên Chúa nghĩ điều
Người muốn và muốn đều Người nghĩ. Thế giới mà Thiên
Chúa nghĩ tới luôn là thượng hạng, ngay cả khi không là tốt
nhất trong các thế giới có thể có.
Sau Leibniz, chủ thuyết quy nhân triệt để của nhân bản
thuyết vô thần không hề bỏ quên vấn đề sự dữ (Feuerbach,
109
Marx, Engels, Nietzsche, Freud) nhưng đào sâu nó như một
vấn đề nhân học chứ không là vấn đề siêu hình học hay thần
học. Cho nên, các nguyên nhân của sự dữ được đào bới nơi
con người và trong xã hội. Các nguyên nhân có thể là chính
trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, cấu trúc, tâm lý. Con người là
nguyên nhân duy nhất của hạnh phúc và sự bất hạnh của
mình. Đối với Ki-tô hữu, họ biết rằng chỉ có Đấng Cứu Độ
mới có thể giải thoát con người khỏi sự dữ.
***
PHẦN III
Siêu hình học về ngôi vị tạo nên đỉnh cao của siêu hình
học. Nó nghiên cứu về nguyên lý phổ quát nhưng không xóa
bỏ cá vị tính của các hữu thể. Giờ đây, mục đích này sẽ dễ
dàng được chinh phục khi thực tại sở hữu những tính chất
ngôi vị, vì ngôi vị cùng lúc vừa là những cá vị trong hiện hữu
riêng của mình nhưng cũng phổ quát trong ý hướng tính của
nó. Tuy nhiên, chúng ta không đi trên con đường ngôi vị như
một sự thay thế cho con đường hữu thể, nhưng như là sự toàn
nhập của nó. Chúng ta không cho rằng con đường hữu thể chỉ
dẫn tới một tổng thể bất khả thể và phi lý, tới một tri thức
toàn khối, nặng nề và ngột ngạt, dẫn tới một siêu việt tính làm
nghẹt thở. Không có điều này trong siêu hình học về hữu thể
mà chúng ta đang nghiên cứu, một siêu hình học muốn bảo vệ
hữu thể khởi đi từ hữu thể ưu tú nhất là hữu thể ngôi vị. Trong
siêu hình học về hữu thể, chúng ta đã trình bày rằng đặc tính
của một ngôi vị được quy chiếu trước tiên về Hữu Thể lập
hữu, một hữu thể lý tính, tự do và tự tri.
Tuy nhiên, để thực hiện một siêu hình học về ngôi vị,
trước tiên cần phải nhận thức rõ đối tượng siêu hình chúng ta
nghiên cứu không phải chỉ là hữu thể, chân lý, đơn nhất, tự
do, vẻ đẹp, sự trở nên... nhưng là chính ngôi vị. Thế nhưng,
một nghiên cứu về ngôi vị sẽ không còn là siêu hình học khi
ta thực hiện với những dụng cụ khoa học và những mục đích
thuần túy khoa học (những dụng cụ của tâm lý học, phân tâm
học, hoặc xã hội học...); và không còn là hữu thể học nếu ta
chỉ hài lòng với những khảo sát hiện tượng học về ý niệm
ngôi vị và những nội dung của nó. Ta chỉ thực hiện một hữu
thể học đích thực khi ta nhận thức được thế giới ngôi vị của
chúng ta, thế giới của cái Tôi (không chỉ cái Tôi của chúng ta
mà của tất cả những cái Tôi được thành hình như chúng ta),
111
nên cũng là thế giới của con người như con người là, “không
là tất cả”, nên cần thiết phải vượt trên thế giới này để đạt tới
một thế giới ngôi vị vững bền và chắc chắn hơn. Nhờ đó, ta
hoàn thành việc nghiên cứu về Nguyên lý Đệ Nhất, khám phá
hiện tượng nhân sinh, “hiện tượng về ngôi vị”, và tìm hiểu sự
biện minh chung cuộc cho sự hiện hữu của chúng.
Phương pháp để theo đuổi một siêu hình học về ngôi vị có
những nét chính yếu như Platon và Aristote đã ấn định, một
“phương pháp thuần túy lý trí”, không có nghĩa là những suy
tư trừu tượng nhưng là những suy tư chặt chẽ, nghiêm túc về
những sự kiện và những nguyên lý để dần dần đưa ra những
kết luận cần thiết về ngôi vị.
Sự kiện chúng ta nghiên cứu chính là ngôi vị được đào
sâu để làm nổi bật những nét hoàn thiện và những nét giới hạn
của ngôi vị. Những nguyên lý trên đó suy tư siêu hình được
đặt nền tảng là nguyên lý luận lý bất mâu thuẫn, giúp bảo đảm
giá trị tính của suy tư; và nguyên lý siêu hình về nhân quả,
nguyên lý này bảo đảm cho chúng ta rằng những thực tại nào
không tự mình tự tức thì phải có một nguyên nhân làm phát
sinh ra nó.
Trong siêu hình học về ngôi vị, ta có thể sử dụng phương
pháp phản tỉnh, một sự phản tính mang tính suy tư chứ không
theo trực giác. Nhưng trước khi khám phá ngôi vị ta cần hiểu
về bản chất của ngôi vị qua hai chiều kích lịch sử và hiện
tượng luận.
14. 1 Ý niệm ngôi vị trong dòng lịch sử triết học
Thánh nhân có một ý niệm rất cao về ngôi vị, một thực tại
hoàn hảo nhất trong tất cả những loài hiện hữu trong vũ trụ:
“persona significa quod est perfectissimum in tota natura”
(S.Th. I,q.20,a.3). Trong vũ trụ, chỉ bản thể lý trí mới được
muốn cho chính mình, trong khi những loài thụ tạo khác lại
đước muốn do loài có lý trí. Thánh Tô-ma nhìn ngôi vị từ góc
nhìn hữu thể học, xem ngôi vị như một tình trạng của hữu thể,
của sự hoàn hảo, mà trong siêu hình học, người ta gọi là
perfectio omnium perfectionum, nobilitas omnium
nobilitatum, actualitas omnium actuum và với sự hoàn hảo
116
này, ngôi vị giữ một cấp bậc cao nhất. Thật sự, hữu thể nơi
ngôi vị đạt tới sự hiện hữu sung mãn nhất, xuất sắc nhất và
toàn vẹn nhất. Vì thế, những hữu thể nào được mang danh
hiệu là ngôi vị đều có một phẩm giá vô hạn, một giá trị tuyệt
đối. Ở đây, ngôi vị có thể hiểu là Thiên Chúa, các thiên thần
hoặc con người.
Ý niệm ngôi vị cũng như ý niệm về cá thể là một khái
niệm loại suy: không thể nói về Thiên Chúa, thiên thần và con
người cùng một thể cách hoặc theo đơn nghĩa, nhưng theo trật
tự ưu tiên (secundum prius et posterius), tuy vậy, khái niệm
này cùng nói đến một sự hoàn hảo nền tảng: một lập hữu cá
thể trong trật tự của tinh thần. Thánh Toma dùng ngôn ngữ
thanh thoát, nhưng cốt yếu và chính xác: “omne subsistens in
natura rationali vel intellectuali est persona (mọi hữu thể lập
hữu với bản tính lý trí hoặc có trí khôn là ngôi vị). Công thức
này là một sự đơn giản hoán định nghĩa nổi tiếng của Boezio:
“rationalis naturae individua substantia”. Thánh nhân muốn
nhấn mạnh đến tính chất hiện sinh và cụ thể của ngôi vị. Bốn
từ này không thể thiếu nếu ta muốn có một định nghĩa phù
hợp về ngôi vị.
Về thuật ngữ substantia, thánh Tôma ghi chú rằng nó vừa
có nghĩa là bản thể đệ nhị (yếu tính phổ quát – quiddità –
ousia – yếu tính), vừa là bản thể đệ nhất (chủ thể đơn lẻ). Giờ
đây, trong định nghĩa về ngôi vị, thuật ngữ bản thể được sử
dụng theo nghĩa bản thể đệ nhất, vì ngôi vị luôn là một bản
thể lập hữu cá thể, chứ không theo nghĩa bản thể đệ nhị (một
yếu tính phổ quát nào đó).
Đối với thuật ngữ cá thể, thánh Tô-ma nhận thấy rằng nó
có thể nói đến bản thể cũng như những thuộc tính, nhưng
cũng như Aristote, ngài thấy rằng trước hết và chính xác nhất
là nó nói đến một bản thể. Thật vậy, mỗi bản thể tự bản chất
117
luôn cá thể hóa, trong khi đó thuộc tính lại được cá thể hóa
bởi chủ thể của nó vốn là bản thể. Những cá thể bản thể có
một tên gọi đặc thù của nó và được gọi là ipotasi hoặc các bản
thể đệ nhất. Cá thể đặc biệt có một cách thức hiện hữu hoàn
hảo như những bản thể có lý trí, làm chủ chính hành động,
không bị thúc đẩy bởi những hữu thể khác mà tự mình hoạt
động: và các hoạt động minh chứng chính thực tại đặc trưng
của nó. Nó được gọi là ngôi vị.
Con người, xét như một tổng thể của một hữu thể đơn
nhất, là một ngôi vị bao hàm vật chất, mô thể bản thể (linh
hồn), dạng thức tùy thể và tác động hiện hữu (actus essendi).
Cấu tố mô thể của một ngôi vị chính là tác động hiện hữu vì
tác động hiện hữu là sự hoàn hảo tối đa, là cái gán tính năng
hoạt động cho bản thể và cho những sự vật xác định. Do đó,
ngôi vị tính cần phải thuộc về phẩm tính và hoàn hảo tính của
một thực tại hiện lập hữu. Tác động hiện hữu actus essendi
quy cho ngôi vị đặc tính bất khả thông (incomunicabilità):
“de ratione personae est quod sit incommunicabilis” (S.T.,
I,q.30, a.4, ob.2). Nhờ tác động hiện hữu, ngôi vị trở thành
bản thể tự bản chất toàn vẹn, đầy đủ trên bình diện hữu thể
học.
Thánh Tô-ma khẳng định rằng ngôi vị hưởng dụng một
bất-khả-thông-tính gồm ba chiều kích: “cá thể là một ngôi vị
không thể thông liên với những sự vật khác như một thành
phần vì nó là một bản thể toàn vẹn, nó cũng không thể thông
liên với những thể cá biệt như một cái phổ quát vì ngôi vị
luôn là thực tại lập hữu; cuối cùng nó không thể thông liên
với cái có thể đảm nhận, bởi vì cái có thể đảm nhận chuyển
sang trong ngôi vị tính của thực tại đảm nhận và ngôi vị tính
không còn đặc tính của chính mình” (In III Sententiarum,
d.5,q.2,a.1,ad 2).
118
Do bất khả thông tính, ngôi vị phân biệt rạch ròi với yếu
tính cũng như với bản tính. Khái niệm ngôi vị bao hàm việc
diễn tả cái gì đó phân biệt, lập hữu và toàn diện, bao hàm tất
cả những gì có trong sự vật; còn khái niệm bản tính chỉ hàm
chứa những yếu tố thiết yếu mà thôi.
Vì thế, không phải một lý trí trừu tượng hoặc một bản tính
nhân loại chung chung nào đó, nhưng là lý trí và bản tính
được thủ đắc bởi một hữu thể cụ thể, lập hữu quan một actus
essendi đem lại phẩm giá bất khả rút gọn của ngôi vị con
người vốn sở hữu “has carnes et haec ossa et hanc animam,
quae sunt principia individuantia hominem (thân xác này,
xương này, linh hồn này là những nguyên lý cá thể hóa một
con người)” (S.T, I,q.29,a.4). Như vậy, thánh Tô-ma có thể
khẳng định cách hữu lý rằng cách thức hiện hữu hình thành
một ngôi vị là cách thức thích đáng nhất trong tất cả các cách
thức, vì ngôi vị là thực tại hiện hựu lập hữu (modus existendi
quem importat persona est dignissimus, ut scilicet aliquid per
se existens – De potentia, q.9,a.4).
Con người đơn lẻ như một “cá thể” so với “tổng thể” của
vũ trụ và nhân loại “sicut pars ad totum”. Nhưng con người
như một ngôi vị là chủ thể đối với các vì sao. Con người cũng
không lệ thuộc vào các cộng đoàn chính trị vì con người với
lý trí nằm trong hữu thể mình có thể lớn lên trong tự do và tự
bản thân thành toàn cuộc hiện hữu của mình. Nhờ lý trí tính,
con người mở ra với vô biên và có khả năng thông giao với
những thực tại khác. Với bất khả chuyển nhượng tính trong
lập hữu tính, con người vẫn mở ra để vào tương liên chủ thể
hoặc liên hiệp thông. Cái tính chất “chính mình” của ngôi vị
không loại trừ thực tại khác nhưng mời gọi chúng. Ngôi vị
thuyết của Tô-ma loại trừ mọi hình thức của cá nhân chủ
nghĩa.
119
14. 5 Descartes và Leibniz
Tư tưởng hiện đại bao hàm những yếu tố của khái niệm cổ
điển về ngôi vị, đặc biệt tính chất bất khả thông tính, nhưng
nó cũng đưa ra những quan điểm mới.
Descartes giới thiệu một định nghĩa tâm lý học về ngôi vị;
không còn định nghĩa ngôi vị trong tương quan với tính tự lập
của hữu thể nhưng trong tương quan với tự thức. Con người
có một bảo đảm trong chính sự hiện hữu của mình, hiện hữu
cách hiệu quả, không như một giấc mơ nhưng như một thực
tại bất tất: “cogito ergo sum”. Cái tôi bao gồm trong sự tự
thức (autocoscienza). Duy nhất tính của ngôi vị được khẳng
định cách rõ ràng qua “chứng từ” bất khả ngộ này, đến nỗi
một con quỷ hùng mạnh và xảo quyết nhất cũng không thể
xuyên tạc.
Tự thức phản tính là một năng khiếu đặc biệt của hữu thể
người. Định nghĩa của Descartes có thể mở toang những cánh
cửa bị thu hẹp và cả những khẳng định phủ nhận ý niệm ngôi
vị. Những xu hướng rút gọn nguy hiểm nhất như của Hume,
Freud, Watson và những khẳng định nghiêm trọng của Hegel
và Nietzsche.
Xu thế hướng về cá nhân chủ nghĩa, vốn đã hiện diện
ngay trong định nghĩa của Descartes về ngôi vị, được Leibniz
làm nổi bật. Trong siêu hình học, đối thủ chính của Leibniz là
Spinoza, còn trong phạm vi tri thức học, đối thủ nặng ký của
ông là Locke. Do đó, mối bận tâm chính của ông là cứu lấy
phẩm giá và tự tri tính của các cá thể khỏi sự bất phân biệt và
phi ngôi vị của bản thể duy nhất mà Spinoza chủ trương.
Hegel cho rằng cái vĩ đại trong học thuyết của Leibniz là
nguyên lý về cá thể tính. Thật sự, học thuyết đơn tử đã đưa ra
một hệ thống kinh điển về cá nhân chủ nghĩa. Cái đơn lẻ, cá
120
biệt trong siêu hình học về đơn tử là một khẳng định về giá trị
tuyệt đối của cá thể và đặc tính của nó so với bất kỳ nguyên lý
phổ quát nào như Duy Nhất, Trí Năng, Sự Thiện, Bản Thể, Ý
Chí, Hữu Thể. Đối với Leibniz, phổ quát tính luôn trừu tượng,
không bao giờ là một thực tại; ngược lại cá thể luôn luôn cá
biệt, đơn lẻ, luôn là nguyên lý của hành động ý thức và tự do.
Cá thể không thể phát xuất từ phổ quát tính, cũng không qua
sự thêm thắt, cũng chẳng qua những phủ định. Mỗi cá thể
được cá thể hóa bởi tất cả hữu thể của nó. Cá thể không phải
là sự biểu hiện chóng phai mau tàn của phổ quát tính, nhưng
là một thực thể trong vũ trụ. Và thế giới tuyệt điệu không phải
vì nó là một bản thể duy nhất nhưng vì nó là một tổng thể hài
hòa với vô số các cá thể hoặc đơn tử. Theo quan điểm của
Leibniz, cực đối nghịch với một nền triết học thực sự được
tượng trưng bởi chủ nghĩa duy nhất linh thể (monopsichismo)
của Averroè, vốn chủ trương có một linh hồn phổ quát
(universale) như một đại dương linh thiêng nuốt chửng các
linh hồn đơn lẻ, cá thể. Đối chiếu với duy nhất linh thể
Averroè và duy nhất bản thể (monismo usiologico) của
Spinoza, Leibniz đề ra chủ trương duy cá nhân đa nguyên
(individualismo pluralistico) để trình bày về một vũ trụ - tốt
nhất trong những vũ trụ có thể - như một cấu trúc gồm vô hạn
những bản thể sống động, hiểu biết và năng động.
Khái niệm ngôi vị còn được Kant bảo vệ cách mạnh mẽ
khi ông minh thị rằng phẩm giá của nhân vị là tuyệt đối vì
không nhân vị nào có thể bị xét như một phương tiện nhưng
như cùng đích. Sự suy thoái của khái niệm ngôi vị mang lại
hậu quả vô cùng tai hại trên bình diện chính trị, luân lý và xã
hội: những cuộc thảm sát kinh hoàng, sự phân biệt, kỳ thị
chủng tộc, việc thao túng qua khoa học, kỹ thuật, những đạo
luật dã man, trái luân thường đạo lý... không phải chỉ xảy ra
121
bởi sự xấu xa của con người mà con do sự suy thoái của khái
niệm nhân vị trên bình diện triết học.
14. 6 Các nhà nhân vị thuyết: Mounier, Buber, Levinas
Nhũng nhà nhân vị học đương đại cũng đưa ra những suy
tư mới mẻ về nhân vị để làm sáng rõ phẩm giá và giá trị tuyệt
đối của nhân vị. Thông thường, các triết gia này bỏ đi nhãn
quan hữu thể học của thời trung cổ vốn rất trừu tường, cũng
như nhãn quan tâm lý học của các học giả hiện đại thường
quá duy cá nhân chủ nghĩa, để rồi đảm nhận một viễn tượng
đối thoại: Mounier, Nedoncelle, Lavelle, Ricoeur (Pháp),
Scheler, Buber, Guardini (Đức), Berdjaiev (Nga), Stefanini
(Ý), Ortega y Gasset (Tây Ban Nha) và Brihtman (Mỹ),
Wojtyla (Ba Lan).
a. Mounier
Ông đúc kết tư tưởng mình trong bản văn nổi tiếng mang
tựa đề Nhân vị thuyết (1949). Trong bài nghiên cứu này, ông
đã chống lại những nhà duy kinh nghiệm, phân tâm học,
những nhà duy lý và chống lại những triết học quan niệm
nhân vị như một hiện tương đơn giản thuần tâm lý, một thực
tại hoàn toàn khách quan và duy cá nhân chủ nghĩa. Ông cho
rằng đây là một cách nhìn vô lý và không thể chấp nhận vì “
tôi không thể suy tư mà không cần hữu thể, và một hữu thể
không cần thân xác tôi: qua phương thế này, tôi được thể hiện
là chính mình đối với thế giới, với người khác; qua phương
thế này, tôi thoát ra khỏi sự cô đơn của tư tưởng...”.
Ngôi vị không thể bị giải quyết dứt khoát trong tư tưởng,
trong nhận thức, cũng như trong vô thúc, nhưng trái lại được
quan niệm như một “hiện sinh nhập thể”, “hiện hữu mặc lấy
xác phàm”. Đặc tính của nhân vị gồm có:
122
-Ơn gọi: mỗi nhân vị có một ý nghĩa mà nó không thể bị
thay thế trong chỗ mà nó đảm nhận ở trong vũ trụ các nhân vị.
-Hành động: đời sống của nhân vị là hành động liên lỷ, là
một cuộc tìm kiếm cho đến chết một sự thống nhất mà không
bao giờ được thành tựu.
-Thông giao: gặp gỡ người khác: chuyển động đầu tiên
cho thấy những biểu hiện của một hữu thể người là chuyển
động hướng đến người khác. Đứa trẻ từ 6-12 tháng tuổi dần ra
khỏi đời sống thực vật, khám phá chính mình nơi những
người khác, học tập được những thái độ thường ngày từ cái
nhìn của người khác. Đến khoảng 3 tuổi, đứa trẻ bắt đầu có
làn sóng đầu tiên của khuynh hướng bản ngã trung tâm có ý
thức... Kinh nghiệm đầu tiên về nhân vị là kinh nghiệm về
một nhân vị thứ hai: một bạn, và như thế là chúng ta, đến
trước cái tôi, hoặc ít ra là xuất hiện cùng lúc.
Đấu tranh bảo vệ nhân vị là đấu tranh chống lại vô số
những hình thức vong thân có nguy cơ hư vô hóa con người
trong một chủ nghĩa xu thời phá hoại con người cách thiêng
liêng. Đấu tranh cho nhân vị nghĩa là đấu tranh cho cộng đoàn
vì cộng đoàn đích thực là cộng đoàn nhân vị nơi mà tương
quan sâu xa nhất ở trong nội tại tính của các hiện sinh nhập
thể, sống trong sự hiệp thông, đồng thanh và đồng lòng xây
dựng một xã hội công bằng để giải phóng con người khỏi sự
thất vọng, nhất là những con người nghèo đói và đau khổ
đang dần chết mòn trong nản lòng, buồn chán. Cộng đoàn của
những nhân vị là cộng đoàn của tha nhân, giữa tôi và người
khác có khả năng tạo nên cái chúng ta. Để đạt được điều đó,
cần phải trải qua một cuộc cách mạng văn hóa chống lại một
chủ nghĩa cá nhân phi ngôi vị hóa chính đối thủ của mình.
Cần phải hiểu chúng ta là ai, trở về với chính mình. Những ai
123
đánh mất ý nghĩa của hữu thể, ai đề cao sự vật chứ không
phải con người thì vẫn còn trên con đường của vong thân.
b. Martin Buber
Ông nhấn mạnh ý niệm đối thoại của nhân vị. Triết gia
đối chiếu tương quan giữa con người với sự vật (Ich-Es = tôi-
nó) với tương quan giữa con người với người khác (Ich-Du =
tôi-bạn). Trong khi tương quan thứ nhất đảm nhận đặc tính sở
hữu, độc quyền; thì tương quan thứ hai thiết yếu có đặc tính
đối thoại. Nhưng có những khía cạnh khác phân biệt hai loại
tương quan cũng rất quan trọng, như đối với Ich-Es là thử
nghiệm, khách quan, thực dụng, tùy tiện, nhưng ngược lại, đối
với tương quan Ich-Du thì là gặp gỡ, hiện diện, tình yêu, tự do
và hữu thể.
Trong cấu trúc Ich-Es, con người sống trên vai của các sự
vật, sử dụng chúng, sở hữu chúng, lợi dụng chúng, thao túng
chúng, xyên tạc và làm biến chất chúng; ai mang nơi mình
thái độ này cùng với những điều tương tự như thế thì người
ấy trở thành loại “sự vật- nhân vị” nên người ta bị sử dụng
như người ta nghĩ. “Je serai ton esclave et ta chose” như
Elettra nói với Giove như trong một kịch bản của Sartre. Theo
Buber, câu này là một thành ngữ biểu trưng cho tương quan
Ich-Es : nhân vị không còn là một ngôi vị, nhưng bị đối sử
như một sự vật. Buber khẳng định « không có Nó, con người
không thể sống. Hoặc người chỉ sống với Nó thì không phải là
con người ». Như thế, con người, một ngôi vị phải là người
quan tâm đến người khác để hiểu và tôn trọng cái Tôi của họ :
« Tôi có nguồn gốc từ tương quan của tôi với Bạn : khi Tôi
trở thành Tôi, lúc đó Tôi nói Bạn ».
c. Emmanuel Levinas
Theo vết chân của Buber, nhà triết gia vĩ đại gốc Do Thái
của Tk XX đã phát triển ý niệm đối thoại về nhân vị, theo đó
124
toàn bộ trọng tâm được chuyển dịch sang Bạn. Cái Bạn này
trở thành cái Khác, và với khuôn mặt của mình, người ấy thể
hiện cho tôi biết và đòi hỏi tôi những quyền lợi xuất phát từ
quyền được sống, cái Khác đó thét lên với Tôi: « xin đừng
giết tôi ». Như thế, theo Levinas, nguyên lý cá thể hóa của
nhân vị không còn là cái Tôi với sự tự thức của mình, nhưng
là cái Khác với quyền bất khả xâm phạm. Cái tự Thân (Tôi) là
Subiectum theo nghĩa của subiectum : là mang lấy gánh nặng
của người Khác, mang lấy trách nhiệm về người khác. «Tôi
nói rằng trước hết, trách nhiệm là cho người khác. Điều này
có nghĩa là tôi chịu trách nhiệm về chính trách nhiệm của
người đó. Chủ thể tính không là cái cho chính mình ; nhưng
thiết yếu nó là cái cho người khác ». Trước tiên, trách nhiệm
là cho người lân cận của tôi.
Trong tác phẩm vĩ đại nhất của Levinas Nếu không là, lân
cận tính của những « người khác » được thể hiện như thể là
« những người khác » không đơn giản ở bên cạnh tôi trong
một không gian hoặc gần gũi như một người họ hàng, nhưng
thiết yếu là gần tôi theo mức độ tôi nhận thấy mình có trách
nhiệm với người ấy. Đây là một cấu trúc mà tính chất cốt lõi
của nó là đạo đức học, không giống như tương quan ý hướng
tính nối kết chúng ta với đối tượng, với bất kỳ đối tượng nào
được đề cập, ngay cả con người ; nó bao hàm không phải
trong việc phản chiếu những cái khác, nhưng trong việc mang
gánh người khác « như có một người khác trong chính da thịt
mình ».
Những hình thức nhân vị thuyết trên không thể trình bày
rốt ráo các loại hình của khái niệm nhân vị đã được xác minh
triết học đương đại. Nhân vị còn có tự-siêu-việt-tính. Nhân vị
không phải là một thực tại tĩnh, không bao giờ bị đóng kín
trong những vị trí của mình, nhưng tiếp tục tiến lên phía
trước, liên lỉ vượt qua những đích đã đạt được, tìm kiếm một
125
tình trạng hiện hữu cao hơn, với tự do, niềm vui, bình an ngày
càng lớn hơn, mở rộng tầm hiểu biết và tri thức ngày càng bao
quát hơn. Nhân vị luôn trong tình trạng trở nên, không chỉ
đơn giản một sự trở nên về mặt sinh học, nhưng trước tiên là
mặt tinh thần (M. Blondel, K.Rahner, B.Lonergan, J.De
Finance).
Ngoài ra, người ta còn nói tới một nhân vị dự phóng, một
loại hình như tác phẩm nghệ thuật. là một dự phóng vô cùng
rộng mở, có khả năng đón nhận nhiều định nghĩa và vô vàn
cách giải quyết khác nhau. Nhiệm vụ của văn hóa và giáo dục
là giúp nhân vị định nghĩa chính dự phóng của mình và thành
tựu nó (L. Stefanini, N.Abbagnano và A.Rigobello).
15CHƯƠNG XV: HIỆN TƯỢNG HỌC VỀ NGÔI VỊ
Đây là đặc tính đầu tiên của ngôi vị. Ngôi vị của tôi hoặc
của người khác luôn là thực tại sở hữu chính tác động hiện
hữu làm nó hiện hữu độc lập nhờ chính mình chứ không nhờ
vào một thực tại nào khác. P. Ricoeur có lý khi cho rằng cái
đáng kể nhất của một nhân vị không là Cogito nhưng là Sum.
Mỗi người là một bản thể lập hữu, toàn diện, một cá thể
không là thành phần của của những bản thể khác, không bị
thẩm thấu hoặc bị đảm nhận bởi những bản thể khác. Vì là
một bản thể toàn vẹn nên nhân vị phát sinh từ trung tâm và từ
126
dấn thân của mình mọi đặc tính, phẩm chất và hoạt động
khác. Mỗi người là vùng đất riêng của hữu thể: một hữu thể
sống động, năng động, hoạt động, không trì trệ, tĩnh lự và bất
động. Và tác động hiện hữu nâng đỡ tất cả con người, chắc
chắn không phải là một tác động thuộc trật tự vật lý, vật chất
nhưng thuộc tinh thần vì tác động này vận hành cả những hoạt
động tinh thần nơi con người (tự thức, thông tin, tự do, tư
tưởng...). Đây là điều kiện thiết yếu để là một nhân vị, bởi vì
nhân vị luôn là một lập thể trong trật tự tinh thần. Cấu trúc lập
hữu không tạo bất kỳ nguy cơ nào làm sơ cứng hoặc làm khô
héo nhân vị như Bergson, Scheler và một số triết gia khác vẫn
lo sợ.
15. 2 Liên định tính (insistenza) và nội giới tính
Là những lập hữu, nhân vị cũng được trao ban cho một
nội tại tính sâu xa, tức là một sự liên kết khắng khít với chính
con người: con người ở trong và với chính mình. Nhưng đây
không phải là một thực tại trong suốt, không là một nội giới
tính tỏa sáng, chưa phải là một sở hữu tròn đầy, sung mãn và
bình thản. Để là mình mà không phải người khác, không đơn
giản như việc soi gương. Tác động hiện hữu của chúng ta thì
hoàn toàn là của chúng ta, bất khả thông tính, bất khả thẩm
thấu, bất khả thay thế, hoán đổi bởi thành phần của những
thực tại khác. Tôi có thể nhường nhiều thứ, có thể trao tặng
những thành quả của hành động tôi làm, nhưng tôi không thể
tha hóa chính tác động hiện hữu của tôi vì nó là duy nhất,
hoàn toàn là của tôi. Tôi không tự trao ban nó cho mình
nhưng nhận từ Thiên Chúa, tôi cũng không thể vay mượn nó
từ ai đó. Nhờ liên định tính, tôi trong hữu thể của tôi, không
thể sống nhờ một người khác, nhưng trong tương quan với
tôi, chỉ tôi với chính tôi, tôi không thể được biểu trưng bởi bất
127
kỳ ai, nhưng tôi lại bảo đảm cho chính mình; tôi không thể bị
thay thế bởi ai cả, nhưng tôi là độc nhất.
Nội giới tính sâu thăm thẳm nhưng nó không là vực thẳm
tối tăm và trống rỗng: nó cũng không là vực thẳm của hư vô,
nhưng được đong đầy bằng nội giới tính vĩ đại, phong phú,
vững chắc, sung mãn, mãnh liệt sống động nhất; đó là nội giới
của Thiên Chúa, Đấng còn gắn bó chặt chẽ với ta hơn cả
chính ta. Tác động hiện hữu làm chúng ta lập hữu nhờ Thiên
Chúa, và nội giới tính cũng làm ta nên trong sáng trước mặt
Người và có thể liên kết ta với Người. Trong tất cả các tôn
giáo, suy niệm chẳng hạn, luôn tác động đến nội giới tính, tác
động đến tiến hình hướng về nội tại tâm hồn con người. Như
vậy chốn Thiên Chúa cư ngụ không chỉ là nơi các tầng trời
nhưng là tinh thần của chúng ta. Thiên Chúa ở trong chúng ta.
Ai “liên định” nơi chính mình sẽ khám phá ra Thiên Chúa ở
cùng họ.
Liên định tính cũng được gọi là “vị thân tính” (perseità).
Nhân vị không lập hữu không vì cái gì nhưng là vì chính
mình. Đây chính là ân ban vĩ đại mà Thiên Chúa ban cho thụ
tạo có lý trí như thánh Tô-ma đã từng xác quyết (Summa
contra Gentiles, III, 112). Thao Kant, bản tính lý trí của con
người hiện hữu như cùng đích của chính nó. Nên trong đạo
đức học, Kant đưa ra châm ngôn: hãy kính trọng nhân vị con
người như một cứu cánh, không bao giờ đối xử với nó như
một phương tiện.
Đối với thánh Tô-ma, cũng Kant, nhân vị hiện hữu như
cứu cánh tự thân, vì lý trí tính có liên quan đến việc làm chủ
những hành động và tự do trong hành động, khác với những
bản tính vô lý trí thường bị tất định cách thụ động để hành
động. Tự thân tính có nghĩa là nhân vị tự thể hiện chính mình,
128
đồng nhất với mình cách tự do và trách nhiệm về chính mình,
gánh vác những dấn thân khác nhau trong thế giới này.
15. 3 Tự tri tính (autocoscienza)
Nội tại tính đã mặc nhiên hàm ý tự tri tính, một đặc tính
cá biệt của nhân vị, các hữu thể động vật không có. Động vật
có nhận thức theo bản năng, nhu cầu (như Teilhard de
Chardin nói) của nó nhưng không có ý thức phản tỉnh, không
có tự thức. Tự thức là khả năng trở lại với chính mình, với
chính những hành động của mình, nội tại tính của mình,
những động lực cho các hành động bản thân, những dự phóng
của nhân loại để định nghĩa, hướng dẫn và thực hiện nó, thâm
chí trở lại với những tội lỗi, trách nhiệm của mình. Từ sâu
thẳm, tác động hiện hữu của con người là một tác động thuộc
trật tự tinh thần. Nhờ tinh thần, con người tự tri. Nhìn lại
mình, suy tư về chính mình, trở lại với mình qua một cuộc
« hoán cải » phi vật chất. Tinh thần biết chính mình.
Có hai cấp độ tự tri : cấp độ nhận thức đồng thời và cấp
độ của nhận thức phản tỉnh. Cấp thứ nhất là cấp độ diễn ra
đồng thời suốt tất cả những hành động của con người (làm
việc, chơi đùa, học tập, ăn uống…), chú tâm chính yếu hướng
về những đối tượng và hành động, và chỉ có « đuôi mắt » là
hướng về nội tại, về chính mình. Đây là tự tri thinh lặng
nhưng thường kỳ. Trái lại, trong cấp độ thứ hai, tất cả chú ý
tập trung vào chính mình, rút cái nhìn khỏi các đối tượng.
Nhận thức đồng thời hình thành nên hậu cảnh cho những nhận
thức khác, không có nhận thức này thì không có nhận thức
phản tỉnh. Tự tri thinh lặng là tiếng xì xào sâu thẳm từ đáy sâu
của tinh thần chúng ta, một tác động nhận thức thường kỳ. Tự
tri thinh lặng hiểu cả những điều mà lý trí nghi vấn. Trong
nhận thức đồng thời, không có sự đối nghịch giữa chủ thể và
đối tượng. Hoạt động của nhận thức là toàn diện và toàn bộ.
129
Nhận thức được đặt trên nền tảng của việc suy nghĩ về chính
mình, hiểu biết chính mình. Tự thức không chấp nhận việc
phân tách nhưng làm tất cả với chính cái Tôi : là một cái Tôi
luôn ở với chính mình. Tự tri là minh chứng trung thành của
hữu thể chúng ta, nó bảo đảm nội tại tính của con người. Nó
luôn vận hành nhưng cũng luôn vững chắc.
Tự tri được bao bọc xung quanh nó bởi một bầu khí tối
đen là tiềm thức. Tiềm thức là một chiều kích vĩ đại của tâm
lý con người được Freud khám phá với phân tâm học để tìm
cách dò thám, gọi tên và hiểu biết những quy luật của nó.
Tiềm thức là một thực tại huyền nhiệm. Freud diễn tả nó như
một « yếu tính mầu nhiệm của con người được cấu thành bởi
các xung lực thúc đẩy từ thời tuổi thơ vốn đã trở thành một
tiền sử; và qua phân tích giấc mơ, người ta có thể biết được
gia sản của một người, khám phá nơi họ những yếu tố tâm lý
bẩm sinh.
Đối với Freud, tiềm thức có vị trí ưu tiên trên cả nhận
thức, Es trên của Tôi. Tiềm thức như một vòng tròn lớn đóng
kín bao trọn lấy vòng nhỏ hơn là nhận thức. Tất cả những gì
là nhận thức đều có một cấp độ của tiềm thức. Câu hỏi đặt ra :
đâu là nguồn gốc của những chất liệu tâm lý nằm trong tiềm
thức. Các nhà chủ trương luân hồi (Platon, Plotin và các tư
tưởng Ấn Giáo) cho rằng chúng đến từ một hiện hữu tiền
kiếp. theo Freud và các môn đệ của ông, thì tiềm thức là kho
lưu trữ của những kinh nghiệm trước kia của nhân vị, những
kinh nghiệm này rất xa với nhận thức để nhằm mục đích tự
vệ. Theo Jung và nhiều học giả, những « thông tin » của tiềm
thức là đóng cặn của truyền thống của một dân tộc hoặc một
nhóm mà một ai đó là thành viên. Theo Jung, tiềm thức là kho
chứa tất cả những kinh nghiệm nhân loại, nó không phải là
một kho chứa chết chóc, cô lập nhưng là một hệ thống sống
động và mở rộng, sẵn sàng hành động. Tiềm thức tập thể là
130
gia tài tinh thần của một đám đông hùng mạnh cho sự phát
triển của con người được tái sinh trong cấu trúc trí tuệ của cá
nhân. Ngược lại, nhận thức là hiện tượng phù du để giúp cho
những thích nghi và định hướng tạm thời.
Người ta đều công nhận những tác động và gánh nặng mà
tiềm thức để lại ảnh hưởng trên nhân vị. Tuy người ta có thể
tìm ra phần nào đó sự thật về cuộc sống con người qua những
bóng tối tiềm thức nhưng quả là vô cùng khó khăn để nắm
bắt, khám phá bóng tối ấy. Thật là không thận trọng khi người
ta muốn giải quyết những vấn đề của nhân vị mà chỉ đi theo
một hướng của tiềm thức, để rồi bỏ quên chính chiều kích
tinh thần của nhân vị, một chiều kích giúp nhân vị định hướng
và thành tựu cuộc hiện sinh của mình. Thật ra, khi tự tri, ta
khám phá ra trong nhận thức của ta luôn có những bất toàn,
khốn khổ, đổ vỡ, thất vọng bên cạnh hàng nghìn những tham
vọng, khát khao, mơ ước, dự phóng. Nhận thức cho ta biết
một đường nứt, sự chệch hướng vô cùng lớn giữa cái tôi hiện
tại và cái tôi lý tưởng.
15. 4 Tự do và tự quyết
Tự do là đặc tính cốt lõi, nguồn cội của một ngôi vị. Con
người tự do và tự do là một bản tính của tinh thần. Tự do là sự
thông thạo, làm chủ những tình huống nội tại và ngoại tại, tự
chủ và tự quyết. Tự do là một chân lý quá rõ ràng không cần
phải diễn tả. Tự do bảo đảm cho luân lý một conditio sine qua
non ; Kant đánh giá nó lại như conditio essendi moralitatis.
Chức năng của tự do không chỉ bảo đảm ý nghĩa đạo đức
trong hành vi của nhân vị nhưng còn có thể đáng giá thế nào
là tốt, xấu, đúng, sai. Tự do đối với con người còn hơn cả
chức năng đạo đức và pháp lý, nó còn có chiều kích nhân học
và hữu thể học : tự do được trao ban cho con người để nó có
thể thể hiện chính mình, chính hữu thể mình. Sartre nói chí lý
131
rằng tự do cho phép con người thành người làm nên chính
mình.
Thế nên, con người phải thận trong khi thực hành tự do vì
một chọn lựa sai lầm sẽ dẫn tới những hậu quả vô cùng tai
hại. Một sự tự do đúng đắn phải là biết chọn một dự phóng
nhân sinh giá trị và dấn thân hoàn thành nó. Tự do đích thực
là tự do đảm nhận để Thiên Chúa, Đấng vô hạn hướng dẫn.
Tự do chính thực là thứ tự do hành động để thể hiện imago
Dei, để con người trở nên icon của Thiên Chúa. Thế nên,
nguyên lý nền tảng của đạo đức là : tự do được ban cho con
người để làm cho con người nên như icon của Thiên Chúa.
Đây là dấn thân vô cùng khó khăn của ngôi vị con người, dấn
thân cả đời người.
15. 5 Nhập thể, cộng sinh, hiệp thông, tha tính
Con người không phải là thực thể thuần túy tinh thần mà
là một tinh thần kết hiệp với vật chất, với thân xác. Con người
là nhân vị nhập thể. Qua thân xác, con người liên kết chặt chẽ
với thế giới.
Con người cần đến người khác vì hiện hữu với và thành
tựu chính mình trong sự cộng tác với người khác: để đến
trong thế giới, để trưởng thành, giáo dục… con người không
là hữu thể tự nhiên nhưng là hữu thể văn hóa, mà văn hóa
không bao giờ là công trình của cá thể nhưng là của cộng thể
xã hội. Cộng sinh là một đặc tính quý báu nơi nhân vị nhưng
cũng là đặc tính khó hiểu. Nhân vị mang tính chất thông giao
và mở ra với người khác: sống với và cho người khác.
Thuật ngữ « tha tính » trình bày điều kiện một người, xét
về mặt hữu thể, phân biệt với «của tôi », nhưng đồng thời
cũng chia sẻ với tôi tất cả những phẩm chất của bản tính nhân
loại. Bất cứ nhân vị nào phân biệt với «của tôi » đều là
132
«người khác ». Người khác là một hữu thể có lý trí, ý chí, có
thể khẳng định hiện hữu của họ như tôi khẳng định hiện hữu
của mình. Họ cũng có những quyền, nhu cầu, phẩm giá, giá
trị tuyệt đối như tôi. Người khác là một ngôi vị mà tôi có thể
thông giao, tôn trọng, kết bạn, liên đới thân thiết, nhưng cũng
có thể ghen tị, ganh ghét, lăng nhục, xử tồi, làm tổn thương,
bách hại và giết chết. Người khác như tôi, cũng là một bản thể
lập hữu tự bản chất : không là một bóng ma, một sản phẩm
của trí khôn mà tôi có thể làm xuất hiện hoặc che mất với
những cảm xúc tùy tiện của mình. Người khác là một Tôi
khác, hoàn toàn được cá vị hóa như tôi. Họ là một dự phóng
rộng mở để định nghĩa và để hoạt động.
Levinas đã dùng ý niệm tha tính để xây dựng nhân triết
học và tư tưởng đạo đức của ông, lập trường của triết gia làm
đổ nhào chủ ngũ duy ngã trung tâm của triết học hiện đại
(Descartes : cái tôi đóng kín trên chính mình ; Hume : người
khác là một cấu trúc của tưởng tượng ; Kant : người khác
thuộc về thế giới của những hiện tượng như tôi thực nghiệm ,
còn xét như cái tự thân thì chỉ là noumenon bất khả thấu
hiểu ; Fichte : người khác là kết quả của việc diễn dịch được
xây dựng trên nền tảng của nguyên lý của sự mạch lạc Ngã-
Phi Ngã).
Kinh nghiệm về người khác là kinh nghiệm mạnh mẽ và
khẩn thiết để phủ định những xu hướng duy ngã. Khi đón
nhận người, ta đón nhận tất cả tha tính, khác-tính cụ thể của
họ, nhận thức những quyền và nhu cầu của họ. Ta sẽ có kinh
nghiệm về tha nhân như tha nhân là chứ không như một đối
tượng hoặc một sự vật nào đó : đó là một kinh nghiệm căn
nguyên, triệt để, tức thời chứ không tùy phụ, thứ yếu. Từ đó,
hai thái độ đối với tha nhân : hoặc từ chối hoặc đón nhận.
133
15. 6 Cận tính
Cận tính có nghĩa là rất gần gũi, liên hệ thân thiết, nó diễn
tả mối tương quan liên ngôi vị. Phạm trù của cận tính vô biên
giới, bao gồm tất cả mọi người, không phân biệt (Lc 10,29).
Trong khảo luận Ngôi vị và hành động, Karol Wojtyla minh
định rằng phạm trù của cận tính làm khả thể hóa con người
thành « một thành viên trong cộng thể » : « hữu thể thành
viên của một cộng thể giả thiết rằng con người là người thân
cận với nhau : «trong ý niệm người cận thân, ta cần lưu ý
tương quan hỗ tương nền tảng của tất cả mọi người trong
nhân loại. Ý niệm cận thân nói đến một thực tại phổ quát hơn,
nền tảng của cộng đồng nhân loại. Cộng thể nhân loại là nền
tảng của tất cả các cộng thể khác. Nếu một cộng thể bị tách
khỏi cộng thể nền tảng này thì nó đánh mất tính chất « nhân
bản » của nó ».
Levinas cũng nhấn mạnh đến ưu việt tính của cấu trúc cận
tính : cận tính đến trước mọi hình thức đại diện, hiệp thông,
phán xét, dấn thân, quyết định. Cận tính đảm nhận một khía
cạnh của sự ám ảnh : « người thân cận liên đới với tôi trước
cả những đảm nhận, trước cả những dấn thân hoặc từ chối.
Tôi liên kết với người ấy, đó là sự kiện đầu tiên, không bao
gộp cũng không chia rẻ, trước mọi tương quan giao kết. Nó
làm cho tôi được nhận biết… Cộng đoàn với cận nhân bắt đầu
trong bổn phận của tôi trong cái nhìn của họ. Cận nhân là anh
em, là bất khả thể xa tránh mà không bị mặc cảm, không bị
vong thân, mà không phạm tội, không bị mất ngủ… Cận nhận
mời gọi tôi trước cả khi tôi muốn đến, họ không là một thể
thức để nhận thức nhưng là một sự ám ảnh, một cái run rẩy về
người hoàn toàn khác mình » (Altrimenti che essere).
K. Wojtyla cũng khẳng định : « hệ thống quy chiếu về
« cận nhân » đồng thời cũng ám chỉ sự sung mãn của sự tham
134
dự, chứ không đơn giản là một thành viên của một cộng đoàn.
Hệ thống quy chiếu về « cận nhân » giải thích cách sâu xa tất
cả những gì bao hàm trong bất kỳ hệ thống nào mang dáng
dấp tựa như kiểu « thành viên của cộng đoàn… ý niệm cận
tính được liên kết với con người… sáng tạo ra một mặt bằng
cộng thể luôn vượt qua bất cứ ‘khác biệt’ nào».
Tất cả các triết gia đã khám phá cấu trúc của cận tính đều
đồng thanh cho rằng cấu trúc đó là một tương quan đầu tiên
được cắm rễ trực tiếp trong chính yếu tính của con người, nên
nó cần thiết trong cuộc gặp gỡ với người khác, và nó cấu trúc
nên nền tảng tối hậu của luân lý. Điều này ta có thể thấy rõ
trong lời Đức Chúa phán dạy trong Cựu Ước : « chớ giết
người », còn Tân Ước cũng dạy : « yêu người thân cận như
chính mình ngươi ».
Về mặt hữu thể, cận tính cắm rễ sâu trong giá trị tuyệt đối
của nhân vị. Là một lập hữu trong trật tự tinh thần, mọi hữu
thể nhân loại đáng được tôn trọng. Là một dự phóng của nhân
loại trên hành trình định nghĩa và thực hiện, con người đáng
được quan tâm, hiểu biết, được chăm sóc và được đón nhận
với tình yêu.
Cấu trúc của cận tính cho thấy con người không đơn giản
là một hiện hữu, một Dasein bị ném vào trong lịch sử cũng
không là một cộng sinh bị bủa vây bởi những đối thủ nguy
hiểm, nhưng cốt yếu, con người là một hữu thể có lý trí và tự
do thực hiện chính mình và yêu thương cận nhân.
15. 7 Dự phóng tính
Con người không đi vào trong thế giới này như một công
trình hữu hạn nhưng như một thực tại phong phú với nhiều
khả thể và tiềm năng. Nhân vị không sinh ra là đã hoàn thiện,
nhưng nó như một « dự phóng mở rộng » và nhiệm vụ của
135
toàn bộ hiện sinh của từng người định nghĩa chính dự phóng
của con người và thực hiện chúng. Tự do, một hồng ân quý
báu Thiên Chúa ban cho con người, Ngài làm cho con người
nên dominus sui, chủ nhân của chính các hành vi của mình,
nhưng còn là causa sui, người làm nên chính cuộc đời mình.
Nhưng con người không thể thực hiện điều này một mình.
Chúng ta nhận ra rằng người ta không thể sống trong thế giới
này cách hoàn toàn cô độc, tự đủ : dự phóng tính của con
người được định nghĩa và được thực hiện trong phức tính của
cấu trúc ngôi vị. Văn hóa, giáo dục và luân lý là những con
đường chính yếu giúp cho các nhân vị định nghĩa và thành
tựu chính dự phóng nhân sinh của mình.
15. 8 Siêu việt tính
Hải trình thứ nhất đi từ hữu thể thể lý để đến với Nguyên
lý phi vật chất, vĩnh cửu, vô hạn : Nguyên Nhân Đệ Nhất
Hải trình vũ trụ luận.
Hải trình thứ hai : đi từ hữu thể xét như là hữu thể để đạt
tới tri thức về Hữu Thể Đệ Nhất, hữu thể lập hữu, hoàn hảo
nhất, cao trọng nhất, thực hiện mọi tác động, trao ban hiện
hữu cho những hữu thể khác Hải trình hữu thể học
Cả hai cuộc hải trình này mang tính ab extra : đi từ những
hiện tương ngoại tại chúng ta, không hướng trực tiếp về nhân
vị.
Cuộc hải trình mới sẽ có tính chất ab intra : hữu thể của
chúng ta đảm nhận như khởi đầu của tiến trình hải trình
nhân vị học. Nhân vị không những là điểm xuất phát mà còn
là điểm đến của hải trình này. Ta bắt đầu với con người như
một ngôi vị để đi đến Ngôi Vị Đệ Nhất. hành trình suy tư này
khởi đi từ nhân vị hữu hạn, được phát sinh, lệ thuộc, bất tất,
mỏng dòn ngay trong chính hữu thể và phẩm chất nhân vị của
mình, để hướng tới một Ngôi Vị Đệ Nhất không chỉ không bị
giới hạn bởi bất cứ biên giới nào, mà còn là nguồn mạch của
hữu thể của tất cả các nhân vị.
Siêu hình học về Ngôi Vị Đệ Nhất không phải là để diễn
tả sự hiện hữu của Thiên Chúa (vì đây là nhiệm vụ của thần-
triết-học hoặc thần lý học). Điều mà siêu hình học này chứng
minh không phải là Nguyên Nhân, Nguyên Lý, Nền tảng,
nhưng chính là cái được phát sinh, bất tất ; đó là những tinh
thần giới hạn, nhập thể. « Tại sao hiện hữu mà không phải hư
vô ? ». Đây là câu hỏi siêu hình căn bản. Dưới dạng thức ngôi
138
vị học, ta có thể hỏi : « tại sao là những tinh thần nhập thể mà
không là hư vô ? ». « Tại sao là bất tất giam cầm các nhân vị
để rồi đòi Ngôi Vị Đệ Nhất bẻ gãy xiềng xích bất bất ? ».
16. 1 Con đường hiện hữu
Nơi nhân vị chúng ta, yếu tính không trùng khớp với hiện
hữu, nhưng giữa chúng là sự phân biệt và tồn tại một tương
quan hiện thể và tiềm thể. Hiện hữu của con người là hiện
hữu được trao tặng, nên Đấng trao tặng không thể thấp hơn
con người. Cuối cùng ta phải nhận ra rằng tất cả các nhân vị
đều có nguồn là Ngôi Vị Đệ Nhất, từ đó phát sinh những ngôi
vị khác.
16. 2 Con đường tự siêu việt
Tự siêu việt cho thấy con người là chủ thể có một sức đẩy
nội tại sâu xa trong mình để đưa con người tiến về phía trước,
hướng về vô biên và vĩnh cửu. Con người khao khát đạt tới sự
sung mãn không phải trong trật tự sở hữu, quyền lực, khoái
lạc nhưng trong trật tự hữu thể. Thánh Tô-ma cũng viết : «con
người cảm thấy một khao khát nóng bỏng là luôn sống và
không bao giờ chết ». Tự siêu việt là dấu hiệu của tinh thần
tính và bất toàn tính của nhân vị, nhưng cũng diễn tả sức thúc
đẩy liên lỉ đưa con người hướng về thế giới tinh thần cách vô
hạn. Đó là thế giới của Ngôi vị Đệ Nhất, sự sung mãn của hữu
thể, sự sống, tri thức, tự do, quyền năng, chân lý và tình yêu.
16. 3 Con đường tự do
Chỉ có Ngôi Vị Đệ Nhất như là sự tự do vô hạn, mới có
thể sáng tạo và bảo đảm tự do hữu hạn của con người. Tự do
của con người là một nghịch lý: tự do là khả năng chọn lựa, là
sự làm chủ chính bản thân, chính các hoạt động, làm chủ trên
các sự vật thế giới. Tự do cũng là sáng tạo tính. Tuy nhiên, vì
là tự do của con người giới hạn nên ta nhận ra sự bất lực trong
việc làm chủ thế giới nội và ngoại tại, bất lực trong việc chọn
139
lựa cái có thể hoàn thiện hóa con người cách hiệu quả. Nghịch
lý được giải quyết chỉ khi ta nhận ra rằng tự do giới hạn là
một hồng ân của tự do vô hạn của Ngôi Vị Đệ Nhất. Nếu
không có sự nhưng không từ Ngôi Vị đệ Nhất thì không có tự
do, mà chỉ toàn là tình cờ hoặc tất yếu.
16. 4 Con đường dự phóng
Ngay cả khi con người nỗ lực thì tất cả những cố gắng của
ngôi vị, dự phóng của nó chỉ ở trong tình trạng tìm thể.
Không ai tự mình hoàn thành những công trình hoàn thiện.
Mọi dự phóng nhân sinh phải được hoàn hảo hóa bởi nghệ sĩ
tối thượng. Cái chạm quyết định không thể đến từ đâu ngoài
Ngôi Vị Đệ Nhất, Đấng sáng tạo tối cao của mọi dự định, dự
phóng và tất cả các công việc.
16. 5 Con đường bổn phận
Bổn phận là một gánh nặng nhưng cũng là một người
hướng dẫn, giúp đỡ con người trong những khó khăn thực
hiện dự phóng nhân sinh. Bổn phận không tổn thương nhưng
hỗ trợ con người. Lương tâm là tiếng nói của bổn phận.
Nhưng tiếng nói không đến từ con người đối thoại với chính
mình, nhưng đến từ rất xa ; là tiếng nói của một ngôi vị khác
không đồng đẳng nhưng vượt trên chúng ta, đó là tiếng nói
của Ngôi Vị Đệ Nhất. Đối với Kant, bổn phận là một trong
những con đường chắc chắn để chứng minh sự hiện hữu của
Thiên Chúa, Ngôi Vị Đệ Nhất. Kant khẳng định không thể
đạt được đều này bằng lý trí suy tư thuần túy nhưng bằng lý
trí thực hành, và nhiệm vụ của nó là nghiên cứu những nền
tảng của luân lý và bổn phận. Bây giờ Kant cũng chỉ ra rằng
không thể gán cho luân lý và bổn phận một nền tảng vững
chắc mà không nại đến Thiên Chúa.
140
16. 6 Con đường các giá trị
Giá trị là những gì vì lý do này hay lý do khác, nó quý báu
và đáng trân trọng. Có những thực tại quý giá tự thân nên nó
là giá trị tuyệt đối (sự sống, khoa học, sự thiện, chân lý, công
bình). Nhưng cũng có những giá trị phương tiện tức những
điều có thể quý giá trong tương quan với những cái khác như
đồ đạc, nhà cửa, xe cộ, thể thao… Ta có thể nói rằng con
người cần Ngôi Vị Đệ nhất vì những giá trị tuyệt đối. Một
trong những giá trị tuyệt đối là tối cao và không xuất phát từ
con người, nghĩa là con người không là đấng sáng tạo các giá
trị tuyệt đối. Những giá trị này quá nâng nề so với đôi vai của
cá thể nhân vị hoặc của nhóm cộng thể xã hội, cho nên để đạt
được giá trị vững chắc này, đòi hỏi phải được cung cấp một
nền tảng siêu việt, mà không thể là thực tại nào khác hơn
Ngôi Vị Đệ Nhất.
16. 7 Con đường phẩm giá con người
Dù con người không phải là hữu thể tuyệt đối nhưng nó
có phẩm giá vì nó có giá trị tuyệt đối, giá trị này đến từ chính
Đấng tuyệt đối, Đấng làm cho những hữu thể bất tất tham dự
vào những giá trị tuyệt đối của Người. Sau tính tuyệt đối của
con người là Đấng Tuyệt đối thần linh. Sau giá trị - con người
có Giá trị - Thiên Chúa, Đấng với tuyệt đối tính hữu thể-giá
trị học, ban tuyệt đối tính và giá trị tính cho con người. nhận
thức giá trị tuyệt đối của nhân vị, chúng ta đi tìm chính nền
tảng của giá trị ấy và chúng ta khám phá ra rằng nền tảng duy
nhất thích hợp không là gì khác hơn Giá trị tuyệt đối lập hữu,
nghĩa là Thiên Chúa.
Kết luận
Tất cả những con đường siêu hình trên là những con
đường của sự khác biệt triệt để giữa cách thức hiện hữu của
nhân vị và Ngôi Vị lý tưởng. Chúng thúc đẩy ta tìm kiếm hiện
141
hữu của ta nơi cấp độ tối cao. Để đạt tới Ngôi Vị Đệ Nhất,
siêu hình học về ngôi vị phải đẩy mạnh việc contemplatio
Primae Personae và sau đó là khảo sát những công trình của
Ngôi vị ấy.
142
Siêu hình học về các siêu việt phẩm, xét về mặt chất thể
cũng là siêu hình học về các giá trị vì các siêu việt phẩm này
là những giá trị tuyệt đối. Nhưng xét về mặt mô thể, các siêu
việt phẩm này được quan niệm như những đặc tính của hữu
thể, chứ không hoàn toàn như những giá trị hoặc như những
tiêu chuẩn đầu tiên để đáng giá. Thật sự, siêu hình học về các
giá trị là một vấn đề rất thời sự. Có thể nói chưa bao giờ
người ta bàn về các giá trị nhiều như ngày nay. Nhưng ngày
nay lại không có một bảng giá trị nền tảng chung để hướng
dẫn con người. rất nhiều giá trị mà những thế hệ trước quan
niệm như những giá trị tuyệt đối (như chân lý, nhân đức,
quảng đại, bổn phận, tôn nghiêm, khiết tịnh, trung thành, tôn
trọng sự sống…) dần bị mất đi tầm quan trọng và trở nên
những chọn lựa mang tính thuần túy cá nhân. Khủng hoảng
lớn nhất của con người ngàn năm thứ ba là khủng hoảng các
giá trị.
Segio Vertuone cho thấy xã hội ngày nay như là tháp
Babel của những mật mã, và của những giá trị và thái độ đối
nghịch nhau nhưng lại có thể thay đổi cho nhau : đó là một
nền văn hóa in đậm dấu của chủ nghĩa tương đối toàn diện về
giá trị, nó cho phép mọi người tôn trọng những giá trị phù hợp
với nó. Đó là một thứ chủ nghĩa tương đối dù rất rõ ràng,
minh bạch, mạch lạc trong trí năng nhưng sẽ biến đổi hoàn
toàn thành chủ nghĩa hư vô.
Hậu quả của sự đổ vỡ chiều kích giá trị học mang lại hậu
quả kinh hoàng : cơ cấu xã hội bị xói mòn nhanh chóng và
nguy cơ tan rã là điều không thể tránh; văn hóa hướng dần về
sự suy đồi và con người thoái lui trước những đòi hỏi sống
143
theo sự tinh tuyền ban sơ để lao vào tình trạng man di của một
homo brutalis. Vấn đề giá trị không đơn giản là vấn đề thực tế
(chính trị, xã hội, văn hóa, luân lý) mà còn là một vấn đề học
thuyết. Triết học mang nhiệm vụ tìm hiểu bản chất, yếu tính,
quy tắc hữu thể học và sự minh chứng về các giá trị.
17. 1 Giá trị thuyết trong dòng lịch sử
Vấn đề triết học về các giá trị trở thành đối tượng của một
ngành phân tích hệ thống mang tên là giá trị học. chỉ sau đó,
Nietzsche có khuynh hướng thực hiện một công cuộc thay đổi
các giá trị qua việc thay đổi hệ thống cấp bậc các giá trị đã
được truyền lại từ văn hóa Hy Lạp (Platon, Plotin) và từ Ki-tô
giáo (Tô-ma, Bonaventura, cũng như Pascal, Kant).
Heidegger đánh giá tư tưởng của Nietzsche như « siêu hình
học về các giá trị », gồm hai giai đoạn : giai đoạn phủ định
(những giá trị tối cao bị phá đổ, bị tước lấy ý nghĩa nền tảng
đã có từ những thế kỷ trước như hữu thể, chân thật, sự thiện,
vẻ đẹp…),và giai đoạn thực chứng (Nietzsche thực hiện cuộc
đảo ngược hướng các giá trị về thế giới vật chất và lịch
sử).Nietzsche tìm cách để phá hủy tất cả những giá trị tuyệt
đối của luận lý (chân lý), luân lý (nhân đức), siêu hình (hữu
thể) và tôn giáo (Thiên Chúa), chỉ ra rằng chúng chỉ là những
giá trị suy đồi, vong hóa : một vật cản thực sự trên hành trình
đưa con người đến với viễn tượng siêu nhân. Thay cho nhũng
giá trị bị lật đổ, Nietzsche đặt ra những giá trị năng động và
thay đổi của cuộc sống, một cuộc sống chấp nhận chính nó
cách tất định và cách đơn sơ trong tất cả những thể hiện của
nó.
Cho nên, có thể nói giá trị học phát sinh với Nietzsche dù
cha đẻ của ngành này là Rudolf H. Lotze (1817-1881). Trong
tác phẩm Microcosmo, triết gia phân biệt ba phạm vi nghiên
cứu : phạm vi các sự kiện, các luật phổ quát và các giá trị. Hai
144
phạm vi đầu là phương tiện (được nghiên cứu bởi lý trí, với
phương pháp phân tích, có thể quan niệm trong viễn tương
duy cơ), phạm vi thứ ba là cùng đích (được học bởi cảm giác
và mặc nhiên hàm chứa viễn tượng tinh thần). nền tảng tối
hậu của tất cả các giá trị và giá trị tuyệt đối là Thiên Chúa :
« Thực tại đích thực không phải là vật chất và cũng chẳng là ý
tưởng như Hegel chủ trương, nhưng là tinh thần sống động và
có tính ngôi vị của Thiên Chúa ». Theo dấu chân duy thực của
Lotze, Rickert, Eucken và Hartmann tiếp bước.
Nicolai Hartmann (1882-1950) khi bàn đến quy tắc hữu
thể học về các giá trị đã tuyên bố một thứ duy thực cực đoan.
Theo triết gia, các giá trị không có nền tảng nơi Thiên Chúa
cũng như nơi con người, nhưng là nơi chính mình: chúng là
những lập hữu tương tự như những Ý tưởng của Platon ; được
phú bẩm tự thân tính (aseità, Ansichsein). Giá trị tồn tại cách
độc lập khỏi hữu thể được nhận thức, như thể hai cộng hai
bằng bốn dù người ta không hề quan tâm để ý điều đó. Để
khẳng định tính tự lập của các giá trị, Hartmann cho rằng có
những sai khi người ta đánh giá về các giá trị. Không phải giá
trị sai lầm nhưng là nhận thức về các giá trị có nhiều sai biệt.
Tuy nhiên, ông từ chối việc gán cho các giá trị tính chắc chắn
hữu thể học và đặt chúng trên nền tảng là Thiên Chúa vì
Thiên Chúa không hiện hữu cũng không thể hiện hữu nếu con
người tự do. Theo Hartmann, sự hiện hữu của Thiên Chúa
làm cho tự do, trách nhiệm của con người và giá trị luân lý
của con người đi vào bất khả thể.
Theo Christian von Ehrenfelds (1859-1932), các giá trị là
những tình trạng đơn giản, chủ quan. Triết gia đồng hóa nó
với ước muốn rồi sau đó bao hàm ước muốn và cả sự khát
khao như một yếu tố thiết yếu. Vì thế giá trị bao hàm ước
muốn về cái mình chưa sở hữu và cả kháo khát tính, tức là
ước muốn mãnh liệt thúc đẩy ta tìm hiểu một đối tượng nào
145
đó hoặc cái ta thiếu. Ehrenfelds khẳng định giá trị là một
tương quan giữa đối tượng và chủ thể nhờ đó chủ thể hoặc
ước ao đối tượng cách hiệu quả, hoặc ước ao nó trong trường
hợp được thông tin về sự hiện hữu của nó.
Max Scheler (1874-1928) phê bình mạnh mẽ và nghiêm
khắc lập trường quan niệm các giá trị là những trạng thái chủ
quan. Theo Scheler, các giá trị như « những đối tượng khách
quan một cách chính thật, được đặt vào trong trật tự vĩnh cửu
và có cấp bậc ». Cho nên, giá trị học của Scheler mang tính
chất duy thực và phẩm trật và hơn thế, còn mang tính nhân vị
và thần-trung-tâm thuyết.
Để ấn định cấp bậc các giá trị, Scheler đề nghị những tiêu
chuẩn sau đây: thời gian, bất khả phân chia tính, trung tâm
tính, làm thỏa mãn và mức độ tương quan tính. Các giá trị
càng cao thì càng bền bỉ theo thời gian, càng bất khả phân
chia, nghĩa là trong khi sự tham dự của nhiều cá thể vào một
tài sản vật chất chẳng hạn thì người ta phải phân chia vốn tài
sản ấy cho các cá thể, có những công trình văn hóa, nghệ
thuật như qua hoa trái của nhiều cá nhân nhưng họ không cần
thiết phải phân chia công trình ấy. Các giá trị càng cao thì
càng làm thỏa mãn sâu xa. Hơn nữa những giá trị nền tảng thì
cao hơn những giá trị được xây dựng trên nền tảng đó. Cuối
cùng có những giá trị tương quan với những lãnh vực nhất
định nào đó, chẳng hạn như các giá trị của sự sống, và những
giá trị tuyệt đối, nghĩa là những giá trị độc lập với một lãnh
vực nhất định, như những giá trị luân lý. Qua những tiêu
chuẩn này Scheler ấn định bậc thang các giá trị và bao gồm
chúng trong bốn cấp sau đây : những giá trị cảm giác (thích
thú-khó chịu), những giá trị sự sống (sức khỏe-bệnh tật),
những giá trị tinh thần (đúng-sai, tốt-xấu), những giá trị tôn
giáo (thánh thiêng-phàm tục, hạnh phúc-bất hạnh).
146
Đặc tính thứ ba trong giá trị học của Scheler là tính chất
nhân vị. Lời tựa tác phẩm xuất bản lần 2 : « chủ nghĩa hình
thức trong đạo đức và đạo đức chất thể của các giá trị », viết
rằng : « nguyên lý nền tảng nhờ đó các giá trị phải tùy thuộc
vào giá trị nhân vị…, quả là quan trọng khi tác giả đã xác
định nghiên cứu của mình như ‘một hướng mới mẻ của nhân
vị thuyết ». Tính chất nhân vị trong giá trị học của Scheler
phát sinh từ lý thuyết về các mẫu nhân vị. Theo triết gia, để
tôn trọng và bước theo giá trị công chính, thì cần phải nhìn
vào sự Công chính qua giá trị đi từ sức mạnh đến anh hùng,
qua giá trị - từ sự thánh thiện đến Đấng Thánh…
Tính chất thứ tư của giá trị học Scheler mang tính quy-
thần-trung tâm. Đối với ông, Thiên Chúa đảm nhiệm vị trí đệ
nhất như một ngôi vị và như một giá trị, nơi Người, ta tìm
được nền tảng để xây dựng trên đó những nhân vị và giá trị
khác nữa. Tất cả các giá trị có thể có, được đặt nền trên giá trị
của một Tinh Thần vô hạn và trên ‘thế giới của các giá trị’ đối
diện với Tinh Thần ấy. Những hành động hàm chứa các giá trị
khách quan thì cũng được thành tựu « trong » Người, và các
giá trị là những giá trị tuyệt đối chỉ khi xuất hiện trong « thế
giới » này. Từ khóe nhìn hiện tượng học, Thiên Chúa đặt nền
tảng cho các giá trị cho nên chỉ Người mới bảo đảm khách
quan tính tuyệt đối của chúng, khách quan tính này không thể
được bảo đảm ngang qua một mức độ đánh giá của con
người : chỉ có giá trị thánh thiêng mới làm cho giá trị học siêu
việt trên lãnh vực nhân hình thuyết và a fortiori lãnh vực sự
sống.
Những phát triển quan trọng nhất của ngành giá trị học
tập trung nhiều ở Đức. Sau đó, vấn đề này được nhiều triết gia
quan tâm : Steganini và Prini (Ý), Lavelle và Le Senne
(Pháp), Ortega y Gasset (Tây Ban Nha), Derisi (Argentina) ,
Moore (Anh), Dewey (Mỹ)…
147
Louis Lavelle (1883-1951), vấn đề giá trị học có đặc tính
chính yếu là siêu hình học. Nguyên lý tối hậu của siêu hình
được lý thuyết hóa bởi Lavelle là hữu thể mà yếu tính của hữu
thể này là hành động, được quan niệm như sự hoàn hảo tuyệt
đối, hữu hiệu, thuần túy, nguồn mạch của mọi quyết định và
giá trị. Đây là nguyên lý cột trụ cho tòa nhà giá trị học của
Lavelle : không thể tách rời hữu thể học khỏi giá trị học và
ngược lại : un sé = per sé. Giá trị không được đồng nhất với
sự thiện nhưng nó có tương quan loại suy với sự thiện như
tương quan giữa hiện hữu (esistenza) và hữu thể. Như hiện
hữu là hữu thể nhập thể và trở thành cụ thể thì giá trị là sự
thiện được quy về một đối tượng, về một ý chí đang cố gắng
nắm bắt giá trị đó. Như hiện hữu là hữu thể nhận một dạng
thức nội tại và cá thể thì giá trị cũng là sự thiện bao hàm một
hành động có xu hướng thực hiện giá trị đó. Do đó, trong khi
sự thiện luôn có đặc tính vĩnh cửu, giá trị lại có đặc tính tương
quan : trong các sự vật, giá trị là cái diễn tả tương quan của
các sự vật với tuyệt đối ; là cái nâng mọi cái tương đối lên với
tuyệt đối. Do đó, giá trị không phải là một đặc tính tĩnh nhưng
rất năng động : giá trị thúc đẩy chủ thể và lôi kéo chủ thể đến
hành động. Khiếm khuyết nghiêm trọng nhất là nghĩ rằng giá
trị là một đối tượng được chiêm ngưỡng, trong khi đó nó luôn
luôn là một hành động và một thực hành để theo đuổi.
Còn đối với Réne Le Senne (1882-1954), trong tác phẩm
về Siêu hình học về giá trị, ông không chấp nhận tự nhiên chủ
nghĩa, hư vô chủ nghĩa và cả chủ thuyết duy xã hội, duy tâm
lý, nhưng khẳng định tính siêu việt và nội tại, tính khách quan
và chủ quan của các giá trị. Về nguồn gốc, giá trị phải siêu
việt, nhưng ngoại tại tính đó sẽ cằn cỗi nếu giá trị không được
thực hiện để đi vào trong kinh nghiệm của chúng ta.
148
17. 2 Định nghĩa về giá trị
Giá trị mang ba nghĩa : kinh tế, đạo đức và hữu thể học.
Giá trị theo nghĩa hữu thể học nói rằng giá trị như phẩm chất
nhờ đó một sự vật sở hữu phẩm giá, đáng được tôn trọng, quý
mến. Giá trị bao hàm trong phẩm giá của một vật hoặc một
hành động. Đặc tính cốt yếu của giá trị là quan trọng và sự
quan tâm.
Những đặc tính thẩm định giá trị : phẩm giá, quan trọng,
quan tâm (hoặc ích lợi).
17. 3 Phân loại
Có nhiều cách phân loại khác nhau :
- J.De Finance : 4 nhóm : tiền-nhân loại (những giá trị
sinh học), tiền-luân lý (những giá trị kinh tế), giá trị luân lý
(cách thức thực hiện tự do trong trật tự bổn phận và sự thiện),
giá trị tinh thần (lãnh vực thánh thiêng, Thiên Chúa).
- E. Fromm : 2 loại căn bản : giá trị kinh tế (lãnh vực
có), giá trị hữu thể (lãnh vực của cái là, của hữu thể)
- Hai loại giá trị : tuyệt đối (giá trị tự thân : giá trị mọi
thời, mọi nơi) và tương đối hoặc tương quan (trong tương
quan với giá trị khác, cuối cùng là tương quan với giá trị tuyệt
đối). Các giá trị tương quan này có nhiều sai khác đối với
người này hoặc người kia, từ nơi này đến nơi kia, thời này
đến thời kia, văn hóa với văn hóa kia).
- Thánh Augustino từng phân biệt giữa uti và frui (cái có
thể dùng và cái có thể hưởng dùng). Ta có thể hưởng nếm
những giá trị tuyệt đối.
17. 4 Quy tắc hữu thể học của giá trị
Vấn đề về quy tắc hữu thể học của giá trị là câu hỏi giá trị
tự thân là gì. Từ lịch sử của khoa giá trị học, có thể tìm thấy
149
ba giải pháp chính cho vấn đề trên.
*Khẳng định thứ nhất cho thấy giá trị thuộc về một thực
tại hoàn toàn khách quan, độc lập với bất kỳ hữu thể trí tuệ
khảo sát nó (Lotze, Scheler, Hartmann).
*Khẳng định thứ hai lại chủ trương một lập trường hoàn
toàn ngược lại: giá trị không có một thực tại riêng biệt, nhưng
chỉ hiện hữu như một hiện tượng chủ quan như một tình
trạng, một xu hướng hoặc một khát vọng của tâm lý
(Meinong, Ehrenfelds, Freud).
*Khẳng định thứ ba cho rằng giá trị không phải như một
hữu thể tự thân tồn hữu, cũng không phải là một hiện tượng
chủ quan, nhưng như một đặc tính siêu việt của hữu thể và
đồng nhất nó với siêu việt phẩm sự thiện (De Finance,
Lavelle, Derisi, Maritain).
Thật ra cả ba khẳng định trên đều không thích hợp, tuy
nhiên chúng cũng thể hiện « một phần » chân lý trong đó.
Lập trường I nhấn mạnh đến khách quan tính của giá trị.
Lập trường II lại nói tương quan của giá trị với chủ thể -
con người .
Lập trường III làm nổi bật tương quan của giá trị với sự
thiện. Thực ra đây chính là ba khía cạnh của giá trị. Vậy tự
thân giá trị là gì ?
Giá trị là một siêu việt phẩm, là một phẩm chất phổ quát
của hữu thể, cần thiết phải luôn đi theo hữu thể « mọi nơi mọi
lúc » ; nên nó hiện diện trong mọi sự vật như những siêu việt
phẩm khác (chân-thiện-mỹ). Nó là một đặc tính siêu việt, chứ
không phải là tùy thể thuộc tính: nghĩa là một đặc tính phổ
quát luôn đi kèm theo tất cả các sự vật và không bị giới hạn
vào duy một cấp bậc hữu thể nào cả, hoặc bị giới hạn vào duy
150
chỉ một phạm trù nào. Giá trị là một siêu việt phẩm vì người
ta có thể hỏi một cách đúng đắn rằng đâu là giá trị của không
khí, cũng như của nước, của mặt trời hay của các vì sao, của
đôi giày hay của quả bóng, của cuốn sách cũng như của cây
bút, của con kiến hoặc của con voi… Chứ người ta không thể
hỏi một cách đúng cách khi nói liệu dòng sông có là một dãy
núi…
Trong lãnh vực của những siêu việt phẩm, tự bản chất, giá
trị cũng giữ một vị trí quan trọng, phân biệt với vị trí được
đảm nhận bởi siêu việt phẩm chân- thiện-mỹ. Thật thế, giá trị
là một diện mạo của hữu thể, phân biệt với những diện mạo
lớn khác. Nếu chân lý vận hành tri thức, cái đẹp vận hành sự
cảm phục và sự vui thích, sự thiện vận hành ước muốn và ý
chí thì đối với giá trị, phẩm giá của một sự vật khơi gợi nơi
con người sự quý trọng và đánh giá.
Như một siêu việt phẩm, giá trị cũng như những siêu việt
phẩm khác cũng có một số đặc tính quan trọng. Trước hết,
phải kể đến đồng-bao-quát-tính (coestensività) với hữu thể :
nơi nào có hữu thể, nơi đó có giá trị và nơi nào có giá trị, nơi
đó có hữu thể. Giá trị không tách rời hữu thể (nghĩa là khỏi
«sự nhập thể» của hữu thể) cách vật lý, cách vật chất và cách
thực tiễn, bởi vì tách biệt giá trị ra khỏi hữu thể cũng có nghĩa
là hủy bỏ và nhận chìm giá trị vào vực thẳm hư vô.
Giá trị được phân tách khỏi hữu thể theo cách lý luận
thuần lý; đây là một sự tách về mặt khái niệm được đặt nền
trên chính hữu thể, trong đa chiều kích tính của nó đối với
những khả năng của chúng ta và những khả thể của chúng ta.
Giá trị thể hiện cách thức của hữu thể và « đồng hành » với
hữu thể một cách tất yếu chư không phải một cách tùy thuộc;
phẩm giá, cách thức của hữu thể hay của các siêu việt phẩm
khác vẫn không bày tỏ ra.
151
Đặc tính thứ hai của giá trị, như một việt phẩm, là có thể
chuyển đổi được với hữu thể và với những siêu việt phẩm
khác. Đồng-bao-quát với hữu thể thì cũng cần thiết đồng-bao-
quát với những siêu việt phẩm khác, vì đến lượt mình những
siêu việt phẩm này đồng-bao-quát với chính hữu thể. Các siêu
việt phẩm khác và hữu thể cũng chỉ phân biệt nhau về mặt
luận lý chứ không phải về mặt thực tại. Do đó, liên quan đến
thực tại thì tất cả các siêu việt phẩm trùng hợp nhau mặc dù
về mặt luận lý chúng phân biệt và cần phải có sự phân biệt
này để suy lý về chúng. Vì thế, nhờ vào hoán chuyển khả tính,
trong hữu thể cũng như trong các thực thể, khi có chân tính
thì cũng có thiện tính, khi có thiện tính thì cũng có mỹ tính,
càng có chân-thiện-mỹ tính thì cũng có giá trị tính.
Một đặc tính khác của giá trị là tương quan lưỡng cực :
giá trị có hai cực: khách quan và chủ quan. Do đó, người ta có
thể nói rằng giá trị là đồng tương quan : đồng tương quan
giữa phẩm giá và sự quý trọng, cũng tương tự đồng tương
quan giữa chân lý và tri thức, giữa thiện tính và khao khát,
giữa mỹ tính và cảm phục. Ngoài cực khách quan, giá trị cần
đến cực chủ quan. Điều này dẫn đến sự kiện là giá trị không
chỉ nhú mầm từ hữu thể tựa như một nhánh cây mọc lên một
thân cây, nhưng chỉ trong tương quan với chủ thể có tuệ trí và
với hoạt động đặc biệt của hữu thể này. Như chân tính phát
sinh từ tương quan của hữu thể với tri thức, thiện tính từ
tương quan của nó với khao khát hoặc ý chí, mỹ tính từ tương
quan của nó với sự thán phục, thì giá trị cũng phát sinh từ
tương quan của nó với sự quý trọng.
Thật thế, giá trị phát sinh khi có một chủ thể - con người
-, hoàn thành một hành động thực tiễn : đánh giá, quý trọng,
và như vậy, nhận thức phẩm giá của sự vật, của con người,
của hành động ( một cách loại suy đối với vấn đề chân tính :
chân lý phát sinh khi một trí tuệ nhận thức một sự vật). Giá trị
152
mà không có con người thì sẽ không bày tỏ ra được, vẫn ở
trong mờ tối, ẩn khuất, không tỏa sáng.
17. 5 Nền tảng của các giá trị
Trong triết học, đặt nền tảng có nghĩa là hình thành nên
một thể thức biện minh cho một số sự kiện hoặc nhưng quyết
đoán. Tìm hiểu nền tảng của các giá trị có nghĩa là làm rõ nền
tảng mà sự biện minh tối hậu và dứt khoát về các giá trị phải
dựa vào đó. Đối với các giá trị tương đối, nền tảng là cái gì đó
khá dễ dàng : ta tìm ra nền tảng này qua việc liên lết các giá
trị tương đối với một giá trị cao đẳng nhất định, và các giá trị
tương đối hướng về nó như một chức năng dụng cụ (Vd : sách
vở, công việc, quần áo… tìm thấy sự biện minh của mình như
là những giá trị tương đối theo mức độ nó giúp ích cho con
người).
Vấn đề nền tảng trở thành nhiệm vụ rất phức tạp, gay go
khi có sự vào cuộc của những giá trị tuyệt đối (như chân,
thiện, công bình, lương thiện, tình bạn…), nghĩa là những giá
trị được quý trọng tự bản chất của nó vì chúng có một phẩm
giá đích thực, hoàn thiện và tuyệt đối. Làm sao tìm ra nền
tảng của những giá trị này.
Trong tác phẩm Giá trị của con người, Battista Mondin
trình bày hai con đường để đến đích điểm trên : con đường
tôn giáo và con đường siêu hình.
Con đường thứ nhất vay mượn lại nền tảng vững chắc cho
các giá trị tuyệt đối, tập hợp chúng trong tính thánh thiêng nội
tại nơi thần linh tính, hoặc nơi các hữu thể thần linh, hoặc quy
gán cho Thiên Chúa. Con đường thứ hai làm phát sinh bình
diện siêu việt biện minh cho sự thực hiện, thể hiện bất tất của
các giá trị tuyệt đối.
153
*Nền tảng tôn giáo: các giá trị tuyệt đối là linh hồn của xã
hội, văn hóa. Con đường ngắn nhất và hiệu lực nhất để bảo
đảm sự thực hiện của các giá trị này là mặc cho chúng tính
chất thánh thiêng, tôn giáo tính và thần linh tính. Các giá trị
tuyệt đối phải xây dựng trên một nền tảng siêu việt, siêu
nhiên, mang tính tôn giáo, nên không thể quy cho thực tại nào
khác ngoài Thiên Chúa, Hữu thể thần linh.
*Nền tảng siêu hình theo con đường suy lý thuần túy và
khắc nghiệt. Hành trình này đi từ việc ghi nhận rằng con
người khi đối diện với các giá trị vốn không phải do nó quy
ước và sáng tạo ra, nhưng lại là thực tại mà chính con người
phải tôn trọng (chân lý, công bình, thiện hảo, mỹ tính…). Do
đó, những giá trị này có lúc nó ở trong chúng ta, nhưng có
nhiều khi nó ở ngoài chúng ta hoặc vượt trên chúng ta. Ta
nhận thấy nơi ta, những giá trị này chỉ ở dạng thức bất tất,
không tuyệt đối, hoàn hảo, trọn vẹn. Chính sự thể hiện bất tất
của chúng nơi con người cho thấy rằng chúng đã từng hiện
hữu tự bản chất trong sự biểu hiện sung mãn, tuyệt đối, toàn
diện. Với sự suy lý, các nhà siêu hình học bám chặt vào nền
tảng vững chắc mang tính siêu hình này để biện giải về các
giá trị tuyệt đối.
Platon đã từng nói rằng suy lý tối hậu về tất cả những cái
đẹp là Cái Đẹp lập hữu tự thân, ban phát hiện hữu cho những
cái đẹp nhờ tham dự (x. Convivio). Thánh Augustino cũng
nhấn mạnh đến lập hữu tính của giá trị « chân lý » (x. De
libero arbitrio).
Bàn về quy tắc hữu thể học của chân lý, thánh nhân đưa ra
ba khả năng: hơn, bằng hoặc thấp hơn trí khôn con người.
Chân lý không thể thấp hơn hoặc bằng trí khôn con người, nó
phải luôn luôn cao hơn trí khôn con người. Trí khôn phải
được hiểu biết hơn khi tiếp cận chính chân lý bất động. Chân
154
lý chính là hữu thể cao hơn tác động thuần túy suy tư của con
người.
Nhờ vào nền tảng siêu hình hoặc tôn giáo, các giá trị tuyệt
đối đạt tới được sự tự lập (absolutus có nghĩa chính cái này)
trong những thay đổi tùy tiện, ngẫu hứng của nền văn hóa
hiện đại, bởi những ước lệ của xã hội hoặc cảm tính của con
người.
Như vậy, những hệ luận hữu thể-nhân học của chiều kích
giá trị là gì ? Chiều kích giá trị nói gì về hữu thể người ?
Chiều kích này cho thấy con người nổi bật trên động vật, con
vật không biết các giá trị, còn con người thì có : biết những
giá trị tuyệt đối. Chiều kích giá trị thể hiện rõ nét sự vĩ đại của
con người, một sự vĩ đại trung gian chứ không tối cao, nghĩa
là con người là vua của thế giới vật chất nhưng phải lệ thuộc
vào những giá trị tuyệt đối. Và ta cũng khám phá ra sự tương
phản không phải chỉ ở phương diện hữu thể (tương phản giữa
yếu tính và hiện hữu), nhưng là sự tương phản, bất nhất của
các giá trị ( giá trị tuyệt đối và giá trị dụng cụ). Chính sự xung
khắc, không nhất quán này là con đường dẫn tới Nguyên Lý,
tới Ngôi Vị Đệ Nhất vốn là giá trị tuyệt đối lập hữu, đem lại
sự quý giá cho mọi giá trị khác.
17. 6 Những nẻo đường tìm kiếm hữu thể
Siêu hình học theo Aristote là học về những nguyên nhân
tối hậu, những nguyên lý đệ nhất. Siêu hình học là con đường
của lý trí đúng đắn, biết tránh những nguy hiểm ẩn giấu nơi
kẻ thù nguy hiểm nhất của nó là chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa
duy tín.
Vấn đề nền tảng của siêu hình là làm sáng tỏ tương quan
giữa các thực thể và hữu thể vì các thực thể là sự thể hiện,
thực hiện của hữu thể. Công việc này có thể thực hiện theo
hai cách : phân tích những đặc tính tổng quát của thực hữu và
155
của hữu thể ; đặt thế giới kinh nghiệm trên nguyên lý siêu
việt, qua một tiến trình tổng hợp hoặc quyết định.
Cách thức thứ nhất chỉ cung cấp « văn phạm tính » của
thực hữu và hữu thể, về mặt thực tiễn, cách thức này đồng
nhất với hữu thể học. Trừ Heidegger, tất cả các triết gia, đều
chấp nhận siêu hình học này. Cách thức thứ hai vượt trên lãnh
vực kinh nghiệm và tìm kiếm lý hữu tối hậu của hữu thể của
các thực hữu. Người ta có thể thấy hai giải pháp chính cho
vấn đề tương quan giữa các thực hữu và hữu thể.
*Đồng nhất : điều bày có thể xảy ra theo hai cách : các
thực hữu được thu hút ở lại trong hữu thể hoặc sự hòa nhập
của hữu thể trong các thực hữu. Cách giải quyết này mang xu
hướng nội tại (immanentismo).
*Tham dự : tương quan giữa các thực hữu và hữu thể
được giải thích theo các học thuyết như: lưu xuất ( Plotino,
tân Platon) và sáng tạo ( các triết gia Ki-tô giáo).
Tính đa dạng của siêu hình học được thể hiện qua những
con đường mới trong hành trình nghiên cứu hữu thể.
a.Hành trình Aristote của Enrico Berti
Không những là một sử học chuyên nghiên cứu về tư
tưởng của Aristote, ông còn là người đề cao giá trị của siêu
hình Aristote. Tác phẩm nổi tiếng Dẫn vào siêu hình (1993)
của ông gồm ba phần. Phần I bàn tới tên gọi và những phê
bình về siêu hình học (từ Aristote đến Heidegger), trình bày
các loại hình nghiên cứu siêu hình học thích ứng với ba xu
hướng chính yếu: xu hướng nội tại, xu hướng tham dự và xu
hướng kinh nghiệm.
Xu hướng nội tại thuộc về những siêu hình học duy vật,
duy tâm, phiếm thần và những siêu hình học vô thần.
156
Xu hướng tham dự thuộc về các loại siêu hình học của
Platon, tân Platon, và cả siêu hình học của Tô-ma.
Xu hướng kinh nghiệm thì thuộc về siêu hình học của
Aristote.
Berti chọn con đường siêu hình mang tính chất Aristote
để thành tựu tiến trình lên tới Nguyên lý đệ nhất. Hành trình
siêu hình Aristote được hoàn toàn xây trên kinh nghiệm nên
được gọi là siêu hình học về kinh nghiệm. Đặc tính của siêu
hình học này là phát xuất từ kinh nghiệm về sự trở nên với tất
cả những gì mang tính tiêu cực vì sự trở nên cũng bao hàm sự
bất tất, mỏng dòn, bất ổn, tạm thời, đa phức và giới hạn... Sự
hiện hữu của Nguyên Lý được trình bày khởi đi từ kinh
nghiệm này. Triết gia tóm tắt hành trình siêu hình theo những
giai đoạn sau:
1.Hiện tượng luận về kinh nghiệm toàn diện, nghĩa là về
hữu thể xét như nó là với tất những ý nghĩa, đặc tính và các
nguyên lý của nó.
2.Vấn-đề-tính của sự trở nên của kinh nghiệm.
3. Cách giải quyết: lập trường về một Nguyên Lý siêu
hình và về sự quyết định các đặc tính của nó.
Vấn đề tính của kinh nghiệm mang nơi mình tính siêu việt
của Nguyên Lý. Thực tại duy nhất có khả năng cứu sống cái
trở nên, bất kỳ loại trở nên nào, đặc biệt sự trở nên hữu thể
học, là chính hữu thể. Sự trở nên quả là một vấn đề vì tự bản
chất nó được quan niệm là không có cũng không đòi hỏi
quyền cho hữu thể. Nó ở đó, hiện hữu, nhưng không thể phô
bày bất cứ biện minh nào thích hợp cho việc nó ở đó, hiện
hữu: hữu thể của nó dao động liên tục và có nguy cơ rơi vào
trong hư vô. Sự trở nên đặt ra câu hỏi nền tảng: tại sao hữu
thể mà không là hư vô? Và câu trả lời đã rõ: vì hư vô không
157
thể xác định được gì; bắt nguồn từ hữu thể: trở nên là một quà
tặng của hữu thể.
b.Hành trình tân-Tôma của Aniceto Molinaro
Trong tác phẩm Siêu hình học gồm 10 chương của mình,
triết gia đã dành chương I để bàn về lịch sử siêu hình học: lịch
sử này được quan sát như sự nối tiếp những khuynh hướng
muốn rút từ hữu thể nền tảng luận lý và hữu thể học của thực
thể (ente).
Trong chương hai, tác giả đưa ra một định nghĩa về siêu
hình mang đậm nét của trường phái Tô-ma: “theo nghĩa riêng,
siêu hình học quan niệm mọi sự kiện, đối tượng, sự vật của
kinh nghiệm, hình thức tổng quát, là thực tại, là thực thể
(ente): nên quan niệm thực thể (ente) (mọi sự vật hiện diện
trong kinh nghiệm) như nó là, có thể nói là, quan niệm hữu
thể của tất cả những gì là và quan niệm nó như là hữu thể”.
Rõ ràng, chính thánh Tô-ma quan niệm siêu hình như việc
nghiên cứu về thực hữu (ente) trong tương quan với hữu thể
chứ không phải trong tương quan với các ý tưởng, bản thể,
mô thể, với một, với chân lý... Nhưng liệu triết gia có hoàn
toàn trình bày về siêu hình học của thánh Tô-ma.
Triết gia đã thiếu ý niệm quan trọng về esse, esse được
khảo sát như actus omnium actuum, như perfectio omnium
perfectionum, cũng như inter omnia magis intimum rebus.
Thánh Tô-ma phân biệt esse comune (ý niệm rất khái quát, và
thực tế chỉ là một ý niệm, không là thực tại) với esse ipsum
(trực giác về một thực tại vô cùng hoàn hảo khả dĩ thu tập nơi
nó mọi sự hoàn hảo khác nên được gọi cách trực tiếp và ngay
lập thức là Thiên Chúa, esse ipsum subsistens). Thánh nhân
hình thành siêu hình của mình trên esse ipsum chứ không phải
trên esse comune.
158
Hơn nữa, triết gia Molinaro cũng thiếu một giai đoạn nền
tảng của siêu hình: giai đoạn đi lên, từ những hữu thể giới
hạn, được hợp thành, được tham dự, lên tới esse ipsum. Đây
là giai đoạn giải quyết. Resolutio là chính phương pháp của
siêu hình học, chứ không phải compositio. Siêu hình học biện
minh cho thực hữu (ente), một thực tại mỏng manh, dễ bị tan
vỡ bởi hư vô, nên phải cắm neo chắc chắn vào chính hữu thể
vốn là actus (tác động), hiện thể thuần túy và vô cùng tất yếu,
trước khi là một trực giác hoặc phán đoán của trí năng con
người.
Triết gia đã không quan tâm đến resolutio, bỏ qua thực
hữu (ente) để đi vào hữu thể để nghiên cứu về các đặc tính
siêu việt, những nguyên lý đệ nhất, sự phát triển (trở nên), sự
khác biệt (loại suy), hành động và mục đích tính của hành
động. Như vậy, siêu hình học trở thành sự giải thích về hữu
thể.
Molinaro nhấn mạnh rằng tham dự là yếu tính siêu hình
của thực hữu (ente), và làm sáng tỏ về mỹ tính siêu việt của
hữu thể như là sự hài hòa của ba siêu việt phẩm: chân, thiện,
duy nhất. Theo thánh Tô-ma, cái đẹp đòi hỏi 3 yếu tố: toàn
diện tính, cân xứng, rõ ràng. Nên toàn diện tính chính là duy
nhất, sự rõ ràng là chân tính và sự cân đối là thiện tính.
c.Hành trình Levinas của Paul P. Gilbert
Hành trình mà Gilbert thực hiện trong tác phẩm Đơn giản
tính của nguyên lý. Dẫn vào siêu hình học, không phải là con
đường khách quan tính, đi từ thực hữu đến hữu thể, con
đường của Parmenide, Aristote, thánh Tô-ma; nhưng cũng
không phải là con đường chủ thể tính, đi từ nhận thức hữu hạn
đến nhận thức vô hạn, con đường của Descartes, Fichte,
Hegel; nhưng lại là chính con đường của tha tính, do Levinas
mở ra và tiếp nối với Ricoeur. Con đường này tìm kiếm để
159
vượt qua giới hạn tính, ra khỏi cái Tôi và gặp gỡ người khác.
Cách lý luận chặt chẽ của Gilbert giúp ta nhận ra rằng trong
cuộc gặp gỡ với người khác một cách luyện tập khả dĩ hình
thành nên hữu thể sâu xa nhất của con người. Tinh thần con
người đạt tới yếu tính của nó với điều kiện là nó không hiện
hữu chỉ cho bản thân nhưng cho và với người khác.
Nghiên cứu của tác giả sâu sắc, nhưng lối thoát cho suy tư
không mang nặng tính siêu hình nhưng lại đậm dấu ấn đạo
đức học và hiện tượng luận (như Levinas). Siêu việt tính của
tha nhân thúc đẩy tôi ra khỏi chính mình. Nhưng vẫn còn đó
một hành trình từ “cái hang” (Platon) sang một “cái hang”
khác. Lý hữu của hữu thể tha nhân cũng tạm bợ, phù du như
Tôi. Vẫn còn thiếu một lôi thoát đưa người ta đến với mặt trời
rạng ngời ánh sáng của thực tại Hoàn Toàn Khác.
d.Hành trình Heidegger của Angelo Crescini
Trong tác phẩm Bí ẩn của hữu thể, tác giả bàn về siêu
hình học tổng quát. Còn trong tác phẩm Cuộc trở về với hữu
thể, triết gia bàn về siêu hình học về hữu thể được áp dụng
vào triết học tôn giáo, thực hữu (ente), nhân học và vũ trụ
học. Trong 4 chương của phần I bộ sách gồm ba phần Sự trở
về của hữu thể, Crescini đề cập đến:
-Hữu thể của nhận thức tôn giáo
-Hữu thể của nhận thức luận lý
-Hữu thể của nhận thức thẩm mỹ
-Hữu thể của nhận thức lịch sử
Chúng ta biết rằng siêu hình học về kinh nghiệm đi theo
con đường giải quyết chứ không phải hợp thành, nghĩ là từ
hiệu quả đến nguyên nhân, từ thực hữu (ente) đến hữu thể.
Nhưng có hai cách thức khác nhau để thực hiện tiến trình này:
160
khởi đi từ đối tượng (những thực hữu ngoài ta) hoặc từ chủ
thể, nhận thức, Ngã.
Cách thức thứ I được các triết gia thời cổ chọn theo như
Aristote, Tô-ma; còn cách hai được các triết gia hiện đại thực
hành.
Crescini hình thành siêu hình học của mình trên, sự trở về
của hữu thể theo con đường của các nhà hiện đại. Crescini đạt
tới hữu thể khởi đi từ Ngã, từ nhận thức, nhưng bến đỗ cho
hữu thể không nhanh chóng và trực tiếp như nơi Descartes
(khởi đi từ Cogito, một Cogito nghi ngờ nhên do đó bất hảo –
nhưng đạ tới nguyên lý của mình, nền tảng của mình: Đấng
Hoàn Thiện, Thiên Chúa.
Con đường siêu hình của Crescini rất dài. Ông thực hiện
việc trình bày về hữu thể, kiểm tra nhận thức trong những
dạng thức phong phú của nó: nhận biết có ý thức (về triết học,
tôn giáo, luân lý, hữu thể); nhận biết phi ý thức về hữu thể
người, nhận thức “đơn giản” về sự sống sinh học và “tiềm
thức” về thế giới vật lý.
Tuy có những điểm đặc thù của riêng mình nhưng nhìn
chung, siêu hình học của Crescini mang màu sắc Heidegger.
Phong cách “rất Heidegger” được thể hiện qua cả trong ngôn
ngữ (“tỏ lộ”, “không che đậy”, “ẩn dấu”, “hiện diện”, “khác
biệt”, “lịch sử”...) và trong nội dung: sự hiển lộ, sử tính của
hữu thể.
Cũng như Heidegger, nơi Crescini, hữu thể chỉ được nhìn
trong tương quan với những sự thể hiện của nó, với những sự
hiển lộ của nó, nó hoàn toàn tương quan với nhận thức. Như
vậy, hữu thể theo Crescini được giải thích trong “sự nhận thức
toàn diện về hữu thể, hoặc về cái hoàn toàn hiện diện”. Hữu
thể đồng nhất với cái không-che-đậy của nó, và với “nhận
thức toàn diện” về nó.
161
Hữu thể được rút gọn vào lịch sử của sự “không che đậy”
của nó, và của những sự hiển lộ của nó, một lịch sử mà kết
cục chung cuộc là bất khả dự kiến:
“Cuộc chiến siêu hình giữa sự biểu lộ của hữu thể và tối
tăm của nó luôn luôn ở nơi cội rễ của tất cả những sự xâm
chiếm và tất cả những thất bại của lịch sử thế giới, của sự
sống và đặc biệt của con người. Không có giai đoạn nào ghi
dấu hành trình không mệt mỏi của lịch sử này, có thể đạt
được một sự tiên đoán về kết cục chung cuộc của nó, hoặc
một khả thể của một kết cục chung cuộc”.
Hành trình siêu hình viện dẫn một nguyên lý mới là một
tái định nghĩa nguyên lý đồng nhất. Trong khi định nghĩa
truyền thống về nguyên lý đồng nhất được quan niệm như sự
trùng khớp của thực tại với chính nó (A=A), thì Crescini định
nghĩa sự đồng nhất như là “sự đồng nhất của tương quan” nơi
mà tương quan đến trước các bên có tương quan. Cái thiết
định tương quan này chính là nhận thức và sự đồng nhất trong
tương quan quả là cái hình thành nên nhận thức. Nhận thức về
mỗi vật hình thành bản thể thâm sâu của chính sự vật, và
không còn là một loại thùng chứa các sự vật làm cho sự vật xa
lạ với thế giới nó trong sống trong đó. Crescini quan niệm
rằng mối tương quan như thế bẩm sinh nơi các sự vật để trở
nên dấu hiệu về tình trạng hữu thể học của nó.
Vì vậy, sự trở lại của hữu thể là thế này: “đạt tới nhận
thức về một sự hiện diện phổ quát của hữu thể là ý nghĩa của
“cuộc trở về với Hữu Thể”. Hữu Thể chắc chắn hiện diện
trong tất cả các hữu thể; nhưng nó là một nhận thức về sự
hiện diện của Hữu Thể, nhưng chính Hữu Thể thì lại vắng
bóng... Hữu thể được mạc khải như hữu thể cụ thể, chính thức
của mỗi sự vật và trước tiên là của mỗi nhận thức. Trong nhận
162
thức này, nội dung chính là bí mật về sự phá hủy của vô-hữu
thể trong hữu thể chính thực của nó, là bí mật về vô thể”.
Mỗi dạng nhận thức là sự biểu lộ phiến diện của nhận
thức về Hữu Thể. Nguy hiểm thường xuyên của siêu hình học
là tuyệt đối hóa chính nhận thức về Hữu Thể. Triết gia khảo
sát sự diễn tả của hữu thể trong nhận thức siêu hình, tôn giáo,
luân lý và thẩm mỹ.
“Hữu Thể cần thiết phải được suy tư như một tổng thể
hữu thể vượt trên những hữu thể giới hạn mà một cách nào đó
những hữu thể này ẩn giấu chính Hữu Thể, nên Hữu Thể phải
được luôn luôn thấy qua bức màn của những hữu thể giới hạn
như chúng có thể là Hữu Thể chỉ một cách phiến diện”.
Như vậy, Crescini gán cho hữu thể những thuộc tính mà
ta có thể gọi như là coincidentia oppositorum của Cusano:
siêu việt tính-nội tại, chuyển động-bất khả động, vĩnh cử-
thoáng chốc và tức khắc, vô hạn-tự lập thể.
Crescini trình bày bề dày hữu thể học của nhận thức tôn
giáo, luân lý và mỹ thuật.
Nhận thức tôn giáo được được mô tả bởi sự kiện là nhãn
quan về Hữu Thể và nhất là ý thức và sự sống của Hữu Thể
trong tổng thể của nó phần lớn đều được trao phó cho đức tin.
Trong trường hợp này, ta nói tới một nhận thức vô hạn, do đó
mọi sự tổng thể hóa của một nhận thức tôn giáo đều trở nên
cuồng tín và bất khoan dung. Có sự phân biệt giữa nhận thức
tôn giáo tự nhiên và mạc khải. Qua bản chất vô cùng rộng lớn
và bất định của nó, nội dung của tôn giáo tính tự nhiên là:
được hình thành bởi sự nhận thức về sự khai mở
(nascondimento) của Hữu Thể và bởi đòi hỏi khám phá nó.
Như mục đích chính yếu của chúng, các tôn giáo mạc khải có
nhiệm vụ xác định những nội dung ẩn khuất của chúng trên
bình diện học thuyết cũng như trên bình diện thực tiễn.
163
Thêm vào đó, Hữu Thể luôn bất khả thấu đạt không chỉ
trong nhận thức siêu hình mà ngay cả trong các dạng nhận
thức khác. Hữu Thể vẫn đóng kín trong sự ẩn giấu của nó đối
với nhận thức tôn giáo: “sự tỏ lộ hoàn toàn là một điều không
thể... mọi nhận thức, tự nơi cội rễ bản tính của nó, đều mang
theo với nó sự trống rỗng triệt để, một vực thẳm bất khả lấp
đầy, một tội nguyên tổ chống lại cái sẽ luôn luôn bị kết án
phải đấu tranh”.
Trong tất cả những biểu lộ của nó, nhận thức nhân loại về
Hữu Thể vẫn bị ngưng trệ giữa chính sự giới hạn và vô giới
hạn tính lập hữu.
“Hữu Thể, qua siêu việt tính của nó, không thể nào là một
nhận thức giới hạn, nên cả ý tưởng có xu hướng nắm bắt nó
và nhìn xem nó mà không thể không làm hỏng nó phần nào.
Đây là một nhiệm vụ vô cùng cần thiết của mọi nhận biết có ý
thức, một nhiệm vụ bẩm sinh trong chính bản thể của nó, là
tìm kiếm Hữu Thể và cho phép bất cứ ai có thể tìm kiếm Hữu
Thể trong tự di để rút ngắn ngày càng nhiều hơn khoảng cách
phân tách nhân thức với Người: siêu việt tính của người chỉ là
sự quá mức của nội tại tính”.
Tóm lại, siêu hình của Crescino cốt yếu mang phong cách
Heidegger: hữu thể không bao giờ được nhìn nơi tại thân của
nó, nhưng chỉ trong sự trình bày của nó và trong sự tối tăm
của nó; nỗ lực của siêu hình là rút hữu thể ra khỏi sự ẩn giấu
của nó. Nhưng nhiệm vụ này rõ ràng là không thể vì hữu thể
chỉ tự trao ban mình cho nhận thức trong lịch sử, một lịch sử
không là gì khác hơn một sự bày tỏ tiệm tiến của hữu thể,
nhưng sự tỏ bày này luôn luôn phiến diện.
Tuy nhiên, có hai khó khăn phát sinh từ lập trường siêu
hình này.
164
Thứ nhất, liên kết hữu thể với nhận thức và làm hữu thể
thành một cực khách quan của nhận thức, ta không thấy được
cách nào mà người ta có thể cứu lấy siêu việt tính của hữu
thể; siêu việt tính này không phải cách đơn giản là tính siêu
việt luận lý và ngôn ngữ nhưng trước tiên đó là tính siêu việt
hữu thể học, bao hàm trong sự khác biệt vô hạn về phẩm tính
vốn tách biệt hữu thể khỏi những thực hữu và cũng không đơn
giản tách biệt hữu thể khỏi nhận thức.
Thứ hai nói về lịch sử tính của hữu thể. Tất nhiên chủ thể
của siêu hình là một chủ thể lịch sử, nhưng siêu hình cũng
hoàn toàn là một nỗ lực, là thành tựu hữu thể này để bẻ gãy
những xích xiềng của lịch sử (như Platon nói về xiềng xích
trong hang động), để ra ngoài ánh sáng mặt trời và đứng trong
thực tại vĩnh cửu.
Sau khi nghiên cứu về những tác phẩm siêu hình học
mang tính hệ thống như Berti, Molinaro, Gilbert, Crescini...,
ta nhận thấy còn những đào sâu các khía cạnh khác nhau của
siêu hình học như khía cạnh tri thức luận, ngữ nghĩa học và
thông diễn học.
e.Chủ nghĩa hư vô và siêu hình học về hư vô
Có một loại siêu hình học về hư vô bên cạnh siêu hình
học về hữu thể. Đây là một lập trường siêu hình mang tính hư
vô thuyết: đề cao vị trí tối cao của hư vô trên hữu thể để
khẳng định rằng khởi đầu và cùng đích của mọi sự kiện, thực
tại không phải là hữu thể nhưng là hư vô. Chủ nghĩa hư vô,
siêu hình về hư vô trở thành một triết học thịnh hành thời hậu
hiện đại. Thời hiện đại, sau khi người ta ca tụng ánh sáng
tuyệt diệu của lý trí, dần sa vào sự thất vọng mang tính phi lý
trí, nên không những chủ trương giết chết Thiên Chúa, như
Nietzsche muốn, mà còn dập tắt luôn mọi niềm hy vọng. Con
người dần có nguy cơ ngã vào vực thẳm của hư vô.
165
Như thế, từ siêu hình học về hữu thể, người ta nhanh
chóng trượt vào đường băng của siêu hình học về hư vô. Bây
giờ, Nguyên Lý không còn là hữu thể mà là hư vô. Sau cuộc
sụp đổ của nhiều ý thức hệ của thế kỷ XX, chủ nghĩa hư vô đã
hình thành như một đặc tính chiếm ưu thế của thời đại chúng
ta, thành một yếu tố tinh thần bao trùm mọi nơi, đụng chạm
cách sâu sắc đến cuộc sống, thái độ, hành động của con
người. Tất cả những điều này khơi lên một sự tái sinh mối
quan tâm đến tư tưởng của Nietzsche, cha đẻ của chủ nghĩa
hư vô, một đại thù nhân của siêu hình học về hữu thể và giá
trị.
Để đẩy mạnh một hữu thể học, cần phải đối thoại với hư
vô thuyết. Vittorio Possenti, người bảo vệ siêu hình học cổ
điển và của Tô-ma, đã đưa ra những phê bình sắc bén về hư
vô chủ nghĩa. Theo Possenti, “yếu tính của chủ nghĩa hư vô
và sự lan rộng của nó mà ta có thể hiểu được khởi đi từ yếu
tính của tri thức và từ những ý niệm phổ biến về siêu hình.
Điều trước tiên, đối với chúng ta, chủ nghĩa hư vô không phải
là một sự kiện trong đó những giá trị tối cao đều bị hủy bỏ, lời
loan báo “Thiên Chúa đã chết”, hoặc rằng sống là vô nghĩa,
nhưng là sự gãy đổ trong tương quan ý hướng tính trực tiếp
giữa tư tưởng và hữu thể” (x.Chủ nghĩa hư vô lý thuyết và cái
chết của siêu hình học). Do đó, để chữa lành chủ nghĩa hư vô
không gì hơn sự khôn ngoan về hữu thể (ontosofia), triết học
về hữu thể.
f.Tương lai cho siêu hình học: tái sinh hoặc phục hồi?
Possenti có lý khi nhận định rằng siêu hình học như một
sản phẩm văn hóa, luôn là một hoạt động tự do: không có một
định mệnh nào dẫn đứa siêu hình đến cái chết. Cũng giống
như những sản phẩm văn hóa khác, siêu hình có thể nảy sinh,
phát triển, suy thoái hoặc biến mất, rồi lại tái sinh và trổ sinh
166
hoa trái cách mới mẻ; vì một mặt, siêu hình thuộc về lãnh vực
của tự do, nhưng mặt khác, nghiên cứu về siêu hình là một
nhu cầu nền tảng của tinh thần nhân loại, một nhu cầu tự chất
vấn về tại sao lại có các sự vật, và chất vấn về chính lý hữu
tối hậu của thế giới này.
Ngoài ra, Possenti khẳng định rằng không thể nói đến cái
chết của siêu hình, vì thật sự nó không bao giờ chết. Siêu hình
học là một đòi hỏi chính đáng, tối cao của tinh thần con
người. Cái chết của siêu hình không chỉ là “cái chết của
Thiên Chúa” nhưng là cái chết của tinh thần, cái chết của con
người. Siêu hình học là sự thể hiện của văn hóa; nó luôn đồng
hành với tất cả các nền văn minh vĩ đại: tuy có lúc ở dạng
huyền thoại, những có lúc ở dạng thức lý trí. Việc tái sinh của
siêu hình học là một thành phần của đại chương trình cho một
nền văn hóa toàn cầu mới đậm nét nhân văn-tôn giáo. Đây
chính là nền văn hóa cho ngàn năm thứ ba.
g.Nhân vị thuyết và hữu thể học về tự do: L. Pareyson
(1918-1991)
*Từ vực thẳm tính của tự do nguyên thủy
Triết gia nhấn mạnh về sự gặp gỡ giữa hữu thể học và
kinh nghiệm tôn giáo. Vấn đề hiện sinh về tự do của con
người cũng được nhìn trong tương quan với tự do nguyên
thuỷ. Pareyson không chỉ nói đến một thứ tự do trong chọn
lựa, tự quyết, mà còn bàn đến một thực tại của tự do vượt trên
cả chiều kích luân lý: tự do triệt để, sâu thẳm. Tự do ở nơi
trung tâm của hữu thể.
*Bất khả phân tách giữa tự do và hữu thể
Hữu thể là tự do vì chỉ có tự do mới đến trước tự do (tự do
của con người phát xuất từ Tự do). Tự do chỉ có thể hiện
mình trong sự hiện diện của hữu thể (tự khẳng định hoặc tự
167
phủ định). Tự do chỉ tự huỷ diệt mình bằng một hành động tự
do. Thế nên, ở đây ngưởi ta có thể nói rằng tự do thì vô hạn
(ngay cả khi tự do luôn gắn liền với hoàn cảnh): phản đối mọi
giới hạn, luật lệ, hữu thể... Tự do được thể hiện ngay trong
quyết định phủ nhận chính mình vì phủ nhận cũng là hình
thức của khẳng định.
Tự do là một điều nghịch lý vì tự do bao hàm một điều
khó hiểu, đó là sự bất khả phân chia giữa khởi đầu và chọn
lựa. Tự do là một sự bắt đầu tuyệt đối:không có gì đến trước
nó; nhưng tự do cũng là lựa chọn, lựa chọn được là chính
mình. Con người là một sự khởi đầu được khởi đầu: tự do của
con người như một quà tặng và sự chấp nhận. Vì thế, tính chất
bất khả tách rời giữa tự do và hữu thể sẽ đưa tới sự hoán đổi
của cả hai: hữu thể là tự do và tự do là hữu thể. Hữu thể là tự
do vì nó là một lời mời tự do chọn lựa: chọn lựa để là hoặc
không-là (hư vô). Pareyson đã chuyển từ biện chứng tự do-
hữu thể sang biện chứng tự do-hư vô.
Nghiệm thấy hữu thể như là tự do nghĩa là bỏ đi tính trung
tâm của hữu thể và thay hữu thể bằng chính tự do. Tự do thì
bất khả phân chia: tự do của con người và tự do nguyên thuỷ.
Các loại tự do có thể khác về tiềm thể hoặc hiệu quả, nhưng
không xung khắc nhau vì hữu thể là tự do. Tự do nguyên thuỷ
và tự do được phát sinh tuy có thể được phân biệt để khảo cứu
trên bình diện luận lý nhưng không phân tách. Hữu thể như là
tự do không là một hữu thể siêu hình – Nguyên nhân, Bản thể,
Nguyên lý, Nền tảng – vì từ tự do là không-nền-tảng, là một
sâu thẳm tính khôn cùng. Tự do là trái tim của thực tại, là độ
sâu khôn dò: là một vực thẳm vô hạn, vô nền tảng.
Thực tại không bởi vì không thể không là (cần thiết), cũng
chẳng là bởi vì có thể là (khả thể), nhưng là bởi vì là. Thực tại
là nhưng không, không nền tảng: hoàn toàn bị treo trên tự do.
168
Thực tại không là một nền tảng nhưng là vực thẳm, nghĩa là
một nền tảng luôn tự phủ định mình như một nền tảng. Qua
vực thẳm khôn dò của tự do nguyên thuỷ, tăm tối tính được
chèn vào trái tim của thực tại, đem lại cho nó một bản tính
biện chứng giữa hữu thể và hư vô, giữa sự thiện và sự dữ,
giữa tích cực tính và phủ định tính. Thế nên, thực tại đồng
thời vừa là thực tại kép, vừa hai mặt vì có một khuôn mặt vừa
hấp dẫn vừa kinh khủng, vừa ghê sợ vừa tuyệt vời. Nghịch lý
tính của thực tại như là vực thẳm tính của tự do.
*Thiên Chúa là tự do tuyệt đối
אֶ ְהי ֶה ֶא ְהי ֶה ֲאשֶר:’ehjeh ’aśer ’ehjeh (Xh 3,14): Thiên Chúa
là sự tự do và ý chí nguyên thuỷ, tự do bất khả thấu, tự do
ngôi vị: tự do tuyệt đối. Pareyson giải thích “Ta là Đấng Ta
là” theo nhiều nghĩa khác nhau: “Ta là Đấng như Ta xuất
hiện, Ta là Đấng như Ta muốn, Ta là ĐấngTa muốn là, muốn
là cái Ta là; Ta tự do ngay cả tự do khỏi hữu thể, yếu tính và
hiện hữu của Ta”. Thiên Chúa không thể là một hữu thể tất
yếu, đóng kín, bất động như một thực tại trì trệ, mù quáng
nhưng là Thiên Chúa hằng sống và năng động. Tự do nguyên
thuỷ của Thiên Chúa là sự bắt đầu, chọn lựa tuyệt đối.
*“Sự dữ trong Thiên Chúa”
Đây là một mệnh đề táo bạo gây nhiều tranh luận vì bị
hiểu lầm. Mệnh đề này được hiểu trong lựa chọn ban đầu của
tự do (nguyên thủy) qua một hành động kép: - ở vị thế phải
chọn lựa: hữu thể-sự thiện / hư vô-sự dữ; - cách giải quyết:
chọn hữu thể-sự thiện. Như vậy, sự dữ đã hiện diện trong thế
chọn lựa nguyên thủy, nhưng nó chỉ là một khả thể, nó không
thực hữu mà chỉ là một khả thể không bao giờ thành hiện thể
vì thực tại là sự chọn lựa hữu thể-sự thiện. Đây là sự chiến
thắng của hữu thể trên hư vô, của sự thiện trên sự dữ. Thiên
169
Chúa trong chọn lựa nguyên thủy đã chọn hữu thể, nghĩa là sự
thiện.
Nói “sự dữ trong Thiên Chúa” không có nghĩa là sự sữ
phát sinh từ Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa như nguồn gốc của
sự dữ. Mệnh đề này chỉ muốn nói đến sự dữ chỉ là một khả
thể trong chọn lựa nguyên thủy của Thiên Chúa. Thế nên, “sự
dữ trong Thiên Chúa” chỉ là một khả thể của tự do chọn lựa.
Với lựa chọn hữu thể-sự thiện, “sự dữ trong Thiên Chúa” đã
bị chôn vùi trong hang động tăm tối của vực thẳm thần linh.
“Sự dữ trong Thiên Chúa” không là một thực tại tăm tối, thực
tại của bóng đêm sự dữ hiện diện trong Thiên Chúa, nhưng
chỉ là một khả thể trong tự do chọn lựa nguyên thủy. Pareyson
muốn nhấn mạnh đến bất khả thấu hiểu tính của sự dữ. Mầu
nhiệm sự dữ cắm rễ sâu trong chính tự do tuyệt đối. Sự dữ
vượt trên những giới hạn của lý trí con người. Thật ra, tự do
của Thiên Chúa cũng là một thực tại khó hiểu. Làm sao dung
hòa hình ảnh một Thiên Chúa nổi giận và giàu lòng xót
thương?
“Sự dữ trong Thiên Chúa” muốn nói rằng Thiên Chúa chỉ
là nguồn gốc của sự-dự-khả-thể, còn tác giả của sự -sữ-thực-
hữu không ai khác ngoài con người: sự dữ hiện diện trước con
người, gắn liền với tự do chọn lựa nguyên thủy; nếu có sự dữ
lịch sử-luân lý thì cũng có sự dữ vĩnh cửu-hữu thể học.
Sở dĩ triết gia đưa ra một mệnh đề gây sốc như thế là vì
những lý do như sau:
- vượt trên ý niệm truyền thống về tương quan giữa Thiên
Chúa và sự dữ.
- vượt trên ý niệm truyền thống quan niệm Thiên Chúa là
nguyên nhân của mọi sự và sự dữ được xem như là không
thực hữu mà chỉ là tình trạng thiếu sự thiện (privatio boni),
không-hữu thể.
170
- tránh được cặp nguyên lý nhị nguyên của chủ thuyết
Maniche.
Thật vậy, sự dữ hiện hữu trong thế giới và có khả năng tàn
phá đến vô hạn, làm gia tăng bi đát tính trong cuộc hiện sinh
của nhân loại và vũ trụ. Theo Pareyson, chính con người đánh
thức “sự dữ trong Thiên Chúa” khi phạm tội, sa ngã (tội
nguyên tổ); từ đó, hư vô, sự dữ được “đánh thức từ vực thẳm
thần linh đã trào vọt và phủ lấp lấy con người: tự do bị chiếm
đoạt, con người bị nô lệ hóa bởi sự dữ và bị hư vô hóa…
Thảm họa tàn khốc không chỉ ập trên con người mà cả trên vũ
trụ: bao tai ương, đau khổ, tội lỗi…
Đau khổ không chỉ bao trùm con người, đi sâu vào trong
thế giới, trong vũ trụ, mà còn là một thực tại nơi Tiên Chúa:
“Divinum est pati”. Đau khổ như mối liên kết sống động
Thiên Chúa với con người như một copula mundi. Copula
mundi nối kết Thiên Chúa, con người, vũ trụ trong một tấn bi
kịch thần-nhân-vũ-trụ. Do đó, chỉ đau khổ mới mạc khải bí
mật của hữu thể, chỉ Thập giá mới nói hết bí ẩn của hữu thể
và sự dữ. Đau khổ của Thiên Chúa và đau khổ của con người
(nhất là đau khổ của những người vô tội) có thể làm phát sinh
ơn cứu độ cho nhân thế. Chẳng phải đau khổ của Đức Ki-tô
bao hàm giá trị đền tội, cứu độ và mạc khải sao? Chẳng phải
tình yêu thập giá của Thiên Chúa, và tình yêu hy sinh tử đạo
của con người phản chiếu sự toàn thắng của mầu nhiệm Phục
sinh trên sự dữ và tội lỗi sao? Thập giá và niềm hy vọng Phục
sinh không chỉ là chìa khóa mở toang những mật mã của sự
dữ và đau khổ, mà con là phương thế hóa giải chúng.
h.Luật của hữu thể (νόμος τοῦ όντος: hữu thể tương hòa
luật): R. Panikkar
Thực tại là gì? Làm sao để tiếp cận thực tại? Làm sao để
tham dự vào Thực Tại? Đây là những câu hỏi căn bản, hiện
171
sinh của mỗi hữu thể người. Câu trả lời cho những câu hỏi
dường như đơn giản này lại không hề đơn giản. Panikkar đã
dành trọn cuộc đời để suy tư, để kinh nghiệm, để sống Thực
Tại hiện hữu của mình trong sự sung mãn của nó, nên chính
vị triết-thần học gia công giáo này có thể đưa ra những lời
giải đáp cho những câu hỏi căn bản về hiện hữu, hay nói đúng
hơn nhà triết học của đối thoại liên tôn và liên văn hóa này sẽ
chú giải Mầu Nhiệm tính và hiện sinh tính của Thực tại dưới
cái nhìn đa tôn giáo, đa văn hóa. Nhãn quan và kinh nghiệm
về Thực Tại được thu kết trong một ý tưởng chủ đạo, chi phối
toàn diện ngôi nhà tư tưởng của vị triết gia, đó là “νόμος τοῦ
όντος: sự hài hòa hữu-thể-tương-luật như nhịp điệu của Thực
Tại và của Kinh Nghiệm”.
Nhờ khảo sát lịch sử tư tưởng, chúng ta sẽ khám phá ra sự
phát triển mang kairos tính của nomos, etero-nomos, auto-
nomos và nomos tou ontos. Ý tưởng nomos tou ontos nảy sinh
trong Sitz im Leben của kinh nghiệm về Nhịp điệu. Nhịp điệu
là một hình ảnh ẩn dụ thú vị để diễn tả một đóng góp vĩ đại
của Panikkar cho lịch sử tư tưởng qua ý tưởng νόμος τοῦ
όντος “hữu-thể-tương-hòa-luật”.
Ngoài ra, chúng ta sẽ khảo sát năm topoi hoặc năm chiều
kích của “hữu-thể-tương-hòa-luật”: hữu thể học, thần thoại-
biểu tượng học, tôn giáo học, thần bí và văn hóa-hiện sinh.
“Hữu-thể-tương-hòa-luật” không phải là một khái niệm trừu
tượng nhưng là sự năng động của thực tại đời sống con người.
*Hữu-thể-tương-hòa-luật và Nhịp điệu
Panikkar trình bày một con đường triết học mới để tiếp
cận Thực Tại: không phải qua một tổng luận biện chứng
nhưng qua một sự tiếp xúc, “giao thiệp” trực tiếp với Tất Cả:
lắng nghe Nhịp điệu của Hữu Thể. Nhịp là một hằng số mà tất
cả mọi hữu thể người đều chia sẻ. Nhịp là điệu nhảy của Hữu
172
Thể. Nhịp của Hữu Thể (sở hữu-chủ cách) là nhịp điệu mà
con người tham dự vào và đồng sáng tạo. Nhịp điệu được liên
kết cách nội tại với hoạt động của Thiên Chúa, của Con
Người, và của Thiên Nhiên. Kinh nghiệm về Nhịp là một kinh
nghiệm vô đồng nhất, vô dị biệt về Thực tại, nghĩa là kinh
nghiệm advaita (bất nhị nguyên) bởi vì Nhịp vượt trên những
rạn nứt tri thức luận giữa chủ thể và đối tượng, sự phân tách
nhân học giữa tri thức và tình yêu, cũng như vượt qua nhị
nguyên siêu hình giữa nhân loại tính và thần linh tính. Kinh
nghiệm về Nhịp là kinh nghiệm về Tổng Thể, về sự hài hòa
bởi vì sự hài hòa không phải là duy nhất tính, không phải là
đa dạng tính, nhưng là đối cực tính. Nhịp là bản chất sâu xa
nhất của Thực Tại.
Nhịp Điệu là sự năng động của chính Hữu Thể, là Sự Trở
Nên của nó. Trật tự của Hữu Thể là một trật tự hữu-thể-
tương-hòa-luật trong đó mỗi hữu thể khám phá ra nomos nội
tại trong Tất Cả. Panikkar định nghĩa ý niệm nomos tou ontos
như sau:
“Ý niệm “hữu-thể-tương-hòa-luật” (nomos tou ontos) diễn
tả một nomos nội tại và cấu thành của mỗi hữu thể, tôi tin
rằng ý tưởng này góp phần vào sự thấu hiểu và kết tinh của
nhiều lãnh vực đời sống con người và những phạm vi của hữu
thể, đem lại khoảng không gian cho sự phát triển (hữu-thể-
tương-hòa-luật, ontonomy) mà không làm sứt mẻ sự hài hòa.
Theo tôi, ý niệm này đóng vai trò mấu chốt trong lãnh vực
chính trị, kinh tế, khoa học, siêu hình, tôn giáo và trong cuộc
sống. Ý niệm này không nhấn mạnh đến sự tự lập phân tách
và rời rạc của các lãnh vực (tự luật, autonomy), cũng không
nhấn mạnh đến sự thống trị của cái gọi là các lãnh vực cao
đẳng trên các lãnh vực yếu hơn hay hạ đẳng (tha luật,
heteronomy), nhưng đề cao mối tương quan có tính hỗ tương,
tương-quan-tính-gốc (pratītyasamutpāda) khả dĩ giúp cúng ta
173
hiểu rằng thực tại tối hậu biểu lộ một đối-cực-tính bất nhị
nguyên, cho nên đối với mỗi lãnh vực đặc thù của hữu thể,
thực tại tối hậu là một sự hòa nhập hài hòa trong tất cả
(ontonomy)”1.
Νόμος của mỗi hữu thể không phải là luật tự lập như thể
chính hữu thể ấy là luật tự thân cho chính mình hay tự luật ấy
đến từ bản tính độc lập và cô lập của hữu thể đó, nhưng cũng
không phải là luật ngoại tại và xa lạ bị áp đặt từ một hữu thể
K/khác. Hữu-thể-tương-hòa-luật biểu lộ luật sâu xa đến từ
hữu thể, được xem xét trong tổng thể của nó và trong tương
quan đặc thù mà nó có đối với nguồn gốc và căn nguyên của
mọi hữu thể. Hữu-thể-tương-hòa-luật không bao giờ là một
luật tùy hứng, thất thường hay một chủ nghĩa tự do nào đó.
Mỗi hữu thể có tự do trong mối tương quan với Tất Cả. Cho
nên hữu-thể-tương-hòa-luật là một trật tự liên/nội-tự-tùy
thuộc (inter/intra-in-dependence), cho nên một hữu-thể-
tương-hòa-luật của nhân-thần-vũ trụ (cosmoteandric
ontonomy) là bộ ba liên-tự-tùy thuộc (triple inter-in-
dependence). Bộ ba liên-tự-tùy thuộc là một thuật ngữ triết
học được khởi hứng từ περιχωρησις Ba Ngôi của Ki-tô giáo,
từ pratītyasamutpāda của Phật giáo và từ karman vũ trụ của
hindu.
Ý niệm hữu-thể-tương-hòa-luật phát sinh và tìm thấy
miền đất sinh sống của mình trong ý niệm nomos và những
tương đương đồng hình thể (homeomorphic equivalents) của
nó là dharma, Tao; và cả ba hình thể tương đương này đều
nói đến một trật từ (ordo), một sự hài hòa. Cho nên nomos tou
nomos là kết tinh của những ý tưởng về nomos, karma,
pratītyasamutpāda, perichoresis, qua đó mà hữu-thể-tương-
hòa-luật được quan niệm như một trật từ liên-tự-tùy thuộc. Có
Website
http://catechesis.net/index.php/triet-hoc/triet-kinh-vien/
sieu-hinh
http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/sieu-hinh-hoc