You are on page 1of 6

31-Nguyễn Thị Khánh Ngọc

Câu 1: Tại sao nói dân chủ và nhà nước có quan hệ không thể tách rời? Là
sinh viên Đại học UEH, các em cần làm gì để góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam?

1.1. Tại sao nói dân chủ và nhà nước có quan hệ không thể tách rời?

- Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với
nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội. Dân chủ XHCN
là chế độ dân chủ cao nhất-dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất. Tăng cường pháp chế
là tăng cường quản lý mọi hoạt động của xã hội, không để một lĩnh vực nào thiếu
sự điều chỉnh của pháp luật hoặc không được pháp luật điều chỉnh; bảo đảm kỷ
cương xã hội là thực hiện những phép tắc nhà nước duy trì trật tự xã hội.Sẽ là cực
kỳ sai lầm và nguy hại nếu cho rằng, dân chủ đối lập với pháp chế, kỷ cương.
Dân chủ dù nghiên cứu ở góc độ nào, nhìn nhận ở bình diện nào cũng gắn bó chặt
chẽ và tự nhiên với pháp luật; còn pháp luật như là môi sinh, điều kiện không thể
thiếu để bảo đảm, bảo vệ dân chủ được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển. Dân
chủ vốn là một phạm trù chính trị và cũng không có thứ dân chủ nào tuyệt đối phi
chính trị hay vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội.
Thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi
và thực chất. Pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất
dân chủ.
Hiến pháp của nước Việt Nam đầu tiên được xây dựng theo những nguyên tắc dân
chủ và được hiến định trong lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946: “Đoàn kết toàn
dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự
do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Khẳng
định dân chủ,tự do trong khuôn khổ của pháp luật cũng có nghĩa cái đích vươn tới
của pháp luật kiểu mới ở Việt Nam là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc nhất quán trong xem xét, giải quyết các mối quan hệ lớn dựa trên quan điểm
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và từ đòi hỏi của thực tiễn, mối quan hệ giữa
thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội sẽ là mối
quan hệ quan trọng cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn được
thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là sự nhất quán quan điểm
của Đảng ta, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ
vững kỷ cương, pháp luật để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi vậy, nơi nào hoặc ai đó có
quan điểm đòi tách rời hoặc tuyệt đối hóa các mặt trong mối quan hệ giữa thực
hành dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm xã hội đều trở thành quan
điểm sai trái, cần bị lên án và phê phán.
1.2. Là sinh viên Đại học UEH, các em cần làm gì để góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam?
- Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện tốt đường
lối,chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước.
- Tích cực tham gia các hoạt động: Xây dựng củng cố, bảo vệ chính quyền; giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội.
- Phê phán, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật
- Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch.
- Chủ động đề xuất ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp
luật; tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
- Xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm; tham gia bảo vệ môi
trường và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội.
Câu 2 : Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu và hôn nhân tiến
bộ? Thế nào là một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
2.1. Hãy cho biết quan niệm của bản thân về tình yêu và hôn nhân tiến bộ?
Tình yêu và hôn nhân tiến bộ phải dựa trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng và được
đảm bảo về pháp lý.
- Hôn nhân tự nguyện
+ Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là
khát vọng của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây
dựng trên cơ sở tình yêu thì chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phc gia
đình sẽ bị hạn chế.
+ Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước
phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa
vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau
há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”. Hôn
nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người
kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện
không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức
đúng, có trách nhiệm trong việc kết hôn.
+ Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và
nữ không còn nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình
yêu mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì,
mới là hợp đạo đức mà thôi… và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một
tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho
xã hội”. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để
lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chông và đặc biệt là con cái. Vì vậy,
cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi
dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
+ Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân
một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù
hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
+ Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người,
khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy
nhiên,trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với
người phụ nữ.
“Chế độ một vợ một chồng sinh ra tự sự tập trung nhiều của cải vào tay một
người,
vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của
người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ
một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng”. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng
là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn
những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một
số nhu cầu khác v.v.. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những
vấn đề chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình
hạnh phúc.
+ Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
xu thế mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có
nghĩa vụ yêu thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính
trọng, nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch
tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong
gia đình là vấn đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
+ Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia
đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết
hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận
của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện
thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách
nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược
lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn,
tự do ly hôn để thảo mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc
của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản
quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực
hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
2.2. Thế nào là một gia đình hạnh phúc, chia sẻ một kinh nghiệm thực tiễn.
Một gia đình hạnh phúc được hiểu là sự hài lòng của các thành viên gia đình về
tổng hòa các yếu tố khách quan, chủ quan về đời sống vật chất, sức khỏe, đời sống
tinh thần, mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ của gia đình với dòng họ,
cộng đồng.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm “gia đình hạnh phc”, em xin được chia sẻ câu
chuyện thực tiễn đến từ chính “ngôi nhà” của mình. Rất nhiều yếu tố xoay quanh
chủ thể “hạnh phúc” của một gia đình, và tất nhiên gia đình của em cũng được xây
nên từ chính “nền móng” ấy.
- Đầu tiên đó chính là sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Tuy ba mẹ em đều có một công việc khá bận rộn nhưng trong những bữa ăn đơn
giản hàng ngày, những dịp lễ quan trọng, những lúc con cái gặp khó khăn trong
học tập,... ba mẹ vẫn dành thời gian xuất hiện, quan tâm, chia sẻ và đồng hành
cùng các con mà không dành thời gian quá nhiều cho công việc cá nhân.
- Yếu tố quan trọng thứ hai là sự tôn trọng và bình đẳng. Ba ẹm sẽ luôn muốn

tốt cho con cái cả về vật chất, tinh thần hiện tại và những dự định trong tương lai.
Để tránh gây áp lực giữa mối quan hệ vợ - chồng, ba mẹ - con cái thì việc tôn
trong và bình đẳng luôn luôn phải được ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, ba mẹ của em
thường rất ít khi áp đặt suy nghĩ quyết định tương lai cho các con. Thay vào đó sẽ
là những sự động viên, khích lệ, thúc đẩy con theo hướng tích cực và cố gắng hơn
mỗi ngày để đạt được điều tốt nhất có thể trong tương lai.
- Đảm bảo nguồn tài chính cũng là yếu tố góp vai trò không nhỏ để xây dựng cuộc
sống hạnh phúc. Tài chính vững mạnh là tiêu chí giúp các thành viên trong gia
đình có đủ điều kiện để học tập, phát triển toàn diện, thực hiện những ước mơ, dự
định của mình. Em đã được học cách tiết kiệm, sử dụng tiền đng cách từ khi còn
nhỏ. Từ phía ba mẹ, họ luôn dành ra một khoản thu nhập gửi tiết kiệm để đề
phòng những trường hợp khẩn cấp và suy xét cẩn thận trước khi chi tiêu.
Và còn nhiều yếu tố khác để góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình. Đạt được
“hạnh phúc” tức là đạt được một thành tựu lớn từ sự cố gắng nhỏ của các thành
viên trong một gia đình.
Câu 3 : Em hãy bình luận về tính đa văn hóa trong xã hội đa dân tộc ở Việt
Nam hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với sự đa dạng các truyền thống, sắc thái văn
hóa khác nhau. Sự đa dạng văn hóa ở Việt Nam thể hiện ở sự đa dạng trong các
hình thức biểu đạt văn hóa như nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, ẩm
thực, tri thức địa phương... Sự đa dạng, phong phú của các thực hành và biểu đạt
này là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại bền vững, giàu tính bản sắc và nhân văn của
các tộc người.
Dựa trên quan điểm văn hóa vừa là sự thể hiện của sự thích ứng của con người đối
với các điều kiện tồn tại của họ vừa là một hệ các điều kiện mà ở đó con người
phải thích ứng, các nhà khoa học nhận định: Nếu coi thống nhất văn hóa từ đa
dạng, muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa
dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn
hóa địa phương (văn hóa vùng). Sẽ không có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc
và lành mạnh lại dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật chung của sự
phát triển văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử, ngày
nay thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới với sự giao lưu và hội nhập vô cùng
sống động. Nó là một động lực thc đẩy sự phát triển văn hóa và rộng hơn nữa là
sự phát triển xã hội.
Mọi sự đóng kín, đoạn tuyệt hay cản trở giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng
đều làm mất đi sinh lực, sức sống và thậm chí dẫn tới sự thoái hóa về mọi mặt của
cộng đồng. Thực tế các tộc người như Chứt, Thổ, các nhóm thiểu số quen gọi là
“Xá lá vàng” sinh sống ở vùng núi giáp giới giữa nước ta và Lào,... đã chứng minh
điều đó. Ngoài ra, bản sắc văn hóa tộc người ở Việt Nam cũng đồng nhất với ngôn
ngữ, văn hóa và ý thức tự giác, nhưng chỉ có thể biểu hiện một cách rõ ràng trong
bối cảnh không gian cụ thể.
Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn
diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày
càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá
trị văn hoá
truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển.
Văn
hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả,
tích
cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao
lưu,
hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam
đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc
đấu
tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi
sai
trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong
phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn
hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân
dân
đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước
nói
chung.
bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chng ta cũng cần nhìn thẳng vào những
hạn
chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân và giải
pháp
để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá
chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm
một
cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong
xây
dựng con người chưa được xác định đng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức
năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng
về
hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn
học,
nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng
tích
cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn
bị ô
nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ
văn
hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di
sản
văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu
vong.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lng tng, chậm trễ, nhất là
trong việc
thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư
cho
văn hoá chưa đng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số
lượng đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
văn
hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước
ngoài
chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng
mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá
tốt
đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng,
phản
cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản văn hoá").

You might also like