Professional Documents
Culture Documents
( Vái 3 lần,rót trà 3 lần,rót rượu 3 lần,3 lần lạy/mỗi lần 3 lạy,rồi hóa vàng bạc & đồ thế ).
(A) : Là tên các vị Thần ứng theo từng năm như sau :
_ Năm Tý : Thần ĐỊA VONG , ngày 22 , lạy về hướng BẮC.
_ Năm Sửu : ĐỊA HÌNH 14 Đông Bắc
_ Năm Dần : THIÊN LINH Rằm Đông Bắc
_ Năm Mẹo : THIÊN HÌNH 14 ĐÔNG
_ Năm Thìn : THIÊN KIẾP 13 Đông Nam
_ Năm Tị : HẮC SÁT 11 Đông Nam
_ Năm Ngọ : ÂM MƯU 20 NAM
_ Năm Mùi : BẠCH SÁT 8 Tây Nam
_ Năm Thân : NHƠN HOÀNG 8 Tây Nam
_ Năm Dậu : THIÊN HỌA 7 TÂY
_ Năm Tuất : ĐỊA TAI 6 Tây Bắc
_ Năm Hợi : ĐỊA BẠI 21 Tây Bắc
Ví dụ như năm nay là năm hợi , ta sẽ vái " Mông Long Đại Tướng Địa Bại Tam Tai Thủy Ách Thần Quang ".
Chúc các anh chị , các bạn giải tai , giải nạn và gặp nhiều an lành nhé !
_____________________________
(A) : lÀ TÊN CÁC VỊ THẦN LINH ứng với từng năm , năm nào thì điền tên vị Thần ấy vào chỗ ấy.
_ Năm Tý : Chu Vương hành Khiển.Thiên Ôn hành binh chi thần , Lý Tào phán quan.
_ Năm Sửu : Triệu Vương Hành Khiển.Tam thập lục phương hành binh chi thần , Khúc Tào phán quan.
_ Năm Dần : Ngụy Vương Hành Khiển.Mộc tinh chi thần , Tiêu Tào phán quan.
_ Năm Mẹo : Trịnh Vương Hành Khiển. Thạch tinh chi thần , Liễu tào phán quan.
_ Năm Thìn : Sở Vương Hành Khiển. Hỏa tinh chi thần ,Biểu Tào phán quan.
_ Năm Tị : Ngô Vương Hành Khiển. Thiên Hải chi thần , Hứa Tào phán quan.
_ Năm Ngọ : Tần Vương Hành Khiển.Thiên hao chi thần , Nhân tào phán quan.
_ Năm Mùi : Tống Vương hành Khiển.Ngũ Đạo chi thần ,Lâm tào phán quan.
_ Năm Thân : Tề Vương Hành Khiển.Ngũ miếu chi thần ,Tống Tào phán quan.
_ Năm Dậu : Lỗ Vương hành Khiển.Ngũ Nhạc chi thần , Cựu Tào phán quan.
_ Năm Tuất : Việt Vương Hành Khiển. Thiên Bá chi thần, Thành tào phán quan.
_ Năm Hợi : Lưu Vương Hành Khiển.Ngũ Ôn chi thần , Nguyễn tào phán quan.
(B) : là TÊN CÁC VỊ ĐẠI KIẾT TINH như : Thiên Đức, Thiên Đức Hợp, Nguyệt Đức , Nguyệt Đức Hợp , Tuế Đức , Tuế
Đức Hợp , Thái Dương , Thái Âm , Tử Vi Đế Tinh
CÁC LỄ VẬT CÚNG :
Khi cúng động thổ , quý vị hãy chuẩn bị các lễ vật sau : ngũ quả ( là 5 loại trái cây ) , bông tươi , nhang
đèn ,1 bộ tam sên ( 1 miếng thịt luộc , 1 con tôm luộc , 1 trứng vịt luộc ) , xôi thịt , 3 miếng trầu cau ( đã têm
) , giấy vàng bạc , 1 dĩa muối gạo , 3 hũ nhỏ đựng muối-gạo-nước.
Sau khi cúng xong , đốt giấy vàng bạc và rải muối gạo hãy động thổ. Riêng 3 hũ muối-gạo-nước thì cất lại
thật kỹ. Sau này khi nhập trạch thì đem để nơi Bếp , nơi thờ cúng Táo Quân.
Nhớ mỗi kỳ đổ mái -đổ thêm tầng đều phải sắm lễ cúng vái.
CÁC ĐIỀU CẦN BIẾT KHI NHẬP TRẠCH ( DỌN VÀO NHÀ MỚI ):
Nếu là 1 gia đình có vợ chồng con cái thì đầu tiên là vợ gia chủ cầm 1 cái gương tròn đem vào nhà trước( mặt gương
soi vào nhà ) , kế đến là gia chủ tự tay bưng bát nhang thờ Tổ Tiên , rồi lần lượt các người trong nhà mới đem vào Bếp
lửa ( tốt nhất là Bếp còn đang cháy đỏ từ nhà cũ đem tới ) , chăn nệm , gạo , nước......vv...
Nếu nhà vắng đàn ông thì người mẹ bưng bát nhang thờ Tổ Tiên vào trước , kế đến là con cái lần lượt mang Bếp ,
gạo , nước...vv.....
Chuyển đồ đạc vào nhà trước , dọn đồ cúng sau.
Không ai được đi tay không vào nhà. Tuồi Dần không được phụ dọn . Phụ nữ có thai không được phụ dọn ( nếu
muốn phụ , thì mua 1 cây chổi mới , dùng chổi quét qua 1 lượt các đồ vật thì không sao). Trong giờ tốt , gia chủ tự tay
cầm tiền bạc nữ trang , tài sản quý giá cất vào tủ.
Lễ vật để đi Tân Gia mà người ta quý và có ý nghĩa tốt đẹp , mang lại điều lành cho gia chủ chính là : 1 nồi cơm
điện ( theo quan niệm bây giờ cho tiện ) , hay 1 bộ soong nồi ( bởi ngày xưa chưa có đồ điện mà ). Đây là những món
quà mang ý nghĩa sung túc, no đủ , nên ta hãy đem tặng cho người thân , bạn hữu thân tình khi họ Tân Gia nhé !
Ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với
những động tác vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái "xá", nhất là những người ăn mặc Âu phục. Rồi
đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng
cũng cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một chút cơ sở về sau.
Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp
đầu xuống gần bàn tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn lên chắp
trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp
xuống tì vào đầu gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng
lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nữa lạy,
cho nên người ta thường nói là lạy "bốn lạy rưỡi" là vậy.
Văn tế, văn khấn thật ra chỉ là những lời nói sửa soạn trước cho được nghiêm chỉnh với việc dùng từ ngữ cẩn
thận và cách thức kính cẩn trình bày lên các đấng thần thánh, với tổ tiên trong các lễ tế hay cúng giỗ. Cũng có một số
bài đã trở thành những áng văn chương tuyệt tác, ý nghĩa thâm trầm được làm ra do những văn tài xuất chúng. Chẳng
hạn như bài văn tế tiểu tường do thi sĩ Tản Đà làm giúp cho một vị tri huyện tế mẹ đã được dẫn ở đoạn trước. Thông
thường văn tế, văn khấn chia làm ba đoạn chính:
1. Đoạn thứ nhất gồm có ngày tháng, tên của người đứng ra chủ động việc cúng tế và nói về lễ vật.
2. Đoạn thứ nhì gồm tên tuổi, hiệu, thụy các vị được cúng tế.
3. Đoạn thứ sau cùng nói rõ mục đích của tế lễ, nhân dịp nào.
Văn tế thường theo một thể riêng như thể phú. Văn khấn có thể viết theo văn vần, gồm một đoạn theo thể phú,
hoặc bằng văn xuôi. Văn khấn cũng như văn tế, khi người hay giỏi chữ Nho thường dùng Hán văn, về sau người ta
chuyển sang Việt văn. Cần nhất là hay, có ý nghĩa và được đọc một cách trang trọng. Điều cần lưu ý là trong các lễ
giỗ kỵ, văn khấn nên viết sẵn ra giấy. Người chủ lễ đứng trước bàn thờ, vái bốn vái rồi cầm giấy đưa ra trước mặt
mà đọc. Đọc xong vái năm cái. Tiếp theo là thân nhân trong gia đình vào lễ theo thứ tự.
Sau đây là một bài văn khấn Nôm bằng thơ nhằm mục đích giúp đ àn bà, trẻ con có thể học và dễ nhớ theo một
thức giả xưa làm ra, dùng vào việc cúng lễ gia tiên:
Ngày ... tháng ... năm (âm lịch), tín chủ là ... tuổi ... sinh quán tại ... trú quán tại ... cùng toàn gia.
Cúc cung bái trước bàn thờ,
Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu.
Cùng là phẩm vật trước sau,
Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên.
Cao tằng tổ khảo đôi bên,
Cao tằng tổ kỷ dưới trên người người.
Cô dì chú bác kính mời,
Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường.
Cúi xin hưởng chút lễ thường,
Và xin phù hộ khang cường toàn gia.
Cẩn cáo
Thức ăn các thứ, nói chung là đồ lễ dâng cúng gia tiên bao giờ cũng thanh khiết và dành riêng, không được
để con cháu đứa nào đụng tới. Các thức ăn đã nấu nướng xong, phải đem cúng gia tiên trước rồi con cháu mới được
ăn. Cũng như lúc ông bà còn sống, ông bà cha mẹ chưa ăn thì con cháu không được phép động tới.
Để tránh tình trạng lỗi lầm do không biết của các cháu nhỏ, các thức ăn nấu nướng xong phải được múc ra dành cho
việc cúng lễ cho phải phép.
Trong việc cúng ông bà, chẳng nên làm lấy có hay chỉ để khoe khoang với thiên hạ. Phải lấy tâm thành, kính trọng làm
gốc. Người xưa quan niệm rằng trong lòng nghĩ thế nào quỷ thần đều biết rõ (Tâm động quỷ thần tri).
Cúng bái chỉ làm cho có hình thức, thiếu lòng thành kính tức là thiếu sự hiếu thảo ngay lành. Không một vị tổ tiên nào
chứng giám cho những con cháu có cúng mà không có kính. Thà chén cơm dĩa muối mà lòng thành hơn mâm cao cỗ
đầy mà tâm địa dửng dưng.
Quả thật ngày nay có nhiều người thắp hương khấn bái , thờ cúng mà chỉ theo rập như máy , mấy ai hiểu
được giá trị đạo lý của việc thờ cúng. Khi chúng ta cầm nén hương đứng trước bàn thờ gia Tiên , các hương án
của đình , chùa , miếu..., thốt lên câu " Thắp nén tâm hương" hay nói theo Việt ngữ " lòng thành thắp 1 nén
nhang" là trong đó đã bao hàm ý nghĩa Văn hóa và Đạo lý làm người của người Việt Nam , chứ không còn là
sự mê tín đơn thuần nữa.
Cái động tác đốt hương , thắp hương rồi cắm hương trên bát hương nếu nhìn qua thấy rất dễ , rất đơn giản.
Nhưng xin thưa, nó không chỉ đơn thuần là thế đâu. Như các bạn nói " ăn cơm" , " dùng cơm" , nếu chỉ là lùa ,
nhét vào miệng thì đó là con vật chứ không phải con người. Con người có 1 giá trị văn hóa , đạo đức của con
người.
Như khi ta mở miệng niệm " Nam -mô A-Di-Đà Phật ! ", hay như bên Công Giáo " Lạy Chúa lòng lành ! " ,
nhiều người cho rằng là mê tín dị đoan. Xin thưa rằng không phải thế , chỉ 1 câu niệm với lòng thành kính ấy
đã thể hiện 1 quan niệm , 1 giá trị văn hóa , đạo đức con người chân chính.
Dù cho là Phật Di Đà , Đức quán Thế Âm , hay Chúa Giê-su , Thánh Phêrô...đều là những danh hiệu tượng
trưng cho đại thừa giáo : Đại Từ , Đại Bi , Vị Tha , những Đức Ngài sẵn sàng vì sự khổ đau của con người mà
ra tay cứu độ. Bởi thế khi ta " vinh danh Người " cũng là cái TÂM luôn hướng tớiCHÂN-THIỆN-MỸ vậy, như
vậy , đâu còn là sự tín ngưỡng đơn thuần của Tôn Giáo , mà lời khấn niệm mang cả cái triết lý sống cao cả ,
cái nhân sinh quan tốt đẹp của con người rồi.
Nói đến văn tế , nhiều người đặt ra câu hỏi : Có cần thiết không? Thật ra , ở nơi thờ tự , cái "hồn"của những
nơi ấy không chỉ ở những nét rêu phong cổ kính , những kiến trúc đẹp đẽ , những cây cao bóng cả , những vật
thờ cúng sáng choang....Mà cái " hồn "của việc thờ cúng toát lên trong việc tưởng chừng như rất đơn giản qua
các nghi thức dâng hương , cúng bái , tế lễ. Chính những nghi thức này làm con người ta hòa nhập vào thế
giới Tâm linh của cộng đồng , trong giây phút ta thành kính khấn bái đó , tâm hồn ta như hòa quyện giửa thế
giới thực tại và mộng ảo , giửa cái tôi trần tục và bản ngã Thiêng liêng....tất cả như hòa làm một. Tất cả câu
văn khấn , cho đến cách bái lạy ngoài sự thể hiện tri thức của người hành lễ , nó còn thể hiện 1 sự phó thác
tuyệt đối cho Đấng Thiêng Liêng. Khi ta khấn " thắp nén tâm hương , dốc lòng bài thỉnh " là cái TÂM tín đã
được đưa lên đầu rồi vậy. Ông bà ta xưa có câu : Linh tại ngã , bất linh tại ngã. Kẻ thắp hương mà KHÔNG
TIN thì hơi đâu mà bạn nad nhọc tâm giáo huấn , bởi vì họ đã không nghe lời "ông bà xưa" của họ dạy , sao
nghe lời mình khuyên được nhỉ ? Những kẻ hô hào vô thần ,bài xích sự tín ngưỡng của người khác thật ra cũng
đáng thương , bởi có thể họ không có ông bà cha mẹ dạy dỗ những nét cao quý của việc thờ cúng Thiêng
Liêng không chừng. Mô Phật ! Tội lỗi ! Tội lỗi !
NCD mình lại quen tật "độc mồm" nữa rồi , cái này là tại nad 1 phần ,vì đã nêu ra vấn đề này cho NCD rủa sả
những người đó nghen. Nếu có bị Ơn Trên trách phạt , thì NCD sẽ kéo nad theo chịu 1/2 đó nghen , ai biểu....
Chia cho nad ly bia trước đó , uống đi rồi mai mốt cùng NCD xuống địa ngục vì tội rủa người. nad có đòi lên
thiên đàng cũng bị NCD tôi kéo xuống theo thôi.
Lưu ý :Nếu ghi ra giấy , thì lúc đốt giấy vàng bạc hãy hóa luôn tờ giấy vái cúng chung với giấy vàng bạc.
Do yêu cầu của anh hung_1305 , nên hôm nay NCd sẽ đăng bài về cách cúng Mụ cho các em bé. Thường thì
sau 7 ngày ( với bé trai ) hay 9 ngày ( với bé gái ) sau khi sinh thì người ta làm lễ cúng đầy cữ , để tạ ơn Bà
Mụ , và xin Bà phù hộ và tập dạy cho cháu biết cười , lật , bò , đứng , đi , ăn , nói...
Được 1 tháng thì có lễ đầy Tháng , cũng là để tạ ơn Bà Mụ , xin phép Bà Mụ đặt tên cho đứa trẻ
Khio trẻ đầy 1 năm thì làm lễ đầy tuổi , còn gọi là thôi nôi.
LỄ VẬT CÚNG MỤ :
_ Xôi gấc : 7 nắm nếu là bé trai , 9 nắm nếu là bé gái
_ Cua bể : 7 con nếu là bé trai , 9 con nếu là bé gái
( có thể thay cua bể bằng cua thường )
_ Trứng gà nhuộm đỏ luộc : 7 quả nếu là bé trai , 9 quả nếu là bé gái
_ Hoa tươi , trái cây , tiền vàng bạc , trầu cau , nến tùy tâm
Tất cả được bày trên mâm kê cao cúng Mụ
Hôm nay , nhân dịp Xuân về , Tết đến , NCD xin đăng lần lượt các bài văn cúng trong dịp Tết. Hy vọng giúp các
anh chị , các bạn phần nào. Các bài này NCD trích trong sách của Thượng Tọa Thích Thanh Duệ ( chứ NCD không
đủ tài viết được thế đâu ).
Nhân đây , NCD cũng xin đăng các ngày giờ , phương hướng Dâng hương , Xuất hành , Khai trương trong dịp Tết
Mậu Tý này.
_ DÂNG HƯƠNG : MÙNG 1 nên chọn giờ Tý ( 23g01p-1g01p) , Sửu ( 1g01p-3g01p) , Dần (3g01p-5g01p) , Thìn
(7g01p-9g01p) , Tị ( 9g01p-11g01p) là Đại Cát . MÙNG 2 nên chọn giờ Tý , Sửu , Mẹo , Thìn , Tị là Đại Cát.
_ XUẤT HÀNH : nên chọn giờ Tý , Sửu , Thìn , Tị. Phương hướng để xuất hành nên chọn : Tây Bắc phương để
đón Quý Thần. Phương Nam tuy là phương của Hỷ Thần , nhưng là phương Ngũ Hoàng Sát , Tam Sát , Đích Lưu
Sát không nên chọn.
_ KHAI TRƯƠNG : nên chọn Mùng 7 , Mùng 10 , 12 , 14 , 16 , 22 , 23 , 24 , 29. Ngày Khai Trương đây chỉ mới
là chung chung. Nếu các anh chị , các bạn muốn chọn ngày nào , xin nhớ so với tuổi mình xem Thiên Can , Địa Chi
, Nạp Âm khắc hay hạp nữa nhé !
_ CÚNG TẾ CẦU PHÚC : nên chọn Mùng 3 , Mùng 4 , Mùng 9 , Mùng 10 , 12 , 16 , 21 , 23 , 24 , 28. Ccác ngày
này cũng thế.
Nhân dịp đầu năm , mình biết có 1 số bạn hay đi Đền Bà Chúa Kho , Đền Đức Thánh Trần nên nay mình đăng
bài văn khấn tại Đền Bà Chúa Kho , Đền Đức Thánh Trần hầu giúp các bạn có thêm ý tưởng khi khấn vái cho
thêm phần trang trọng hơn.