You are on page 1of 4

Q: Lúc hai cô thiếu nữ bước vào phòng thì thấy một người đàn ông đang ngồi đọc

báo cạnh lò
sưởi.

Trúc: Em gái của anh đây mà. Em đã trở về nhà thực sự rồi đây nhé; còn đây là bạn em, chị
Sharp. Em đã có lần nói chuyện với anh về chị ấy. (Amelia cười, nắm lấy hai ngón tay anh trai
giơ ra nói)
“It’s only your sister, Joseph,” “I’ve come home for good, you know; and this is my friend, Miss
Sharp, whom you have heard me mention.”

K: Có đâu? Bao giờ? Tôi xin thề...nghĩa là…vâng...thưa cô, gớm, trời lạnh quá. (lắc quầy quậy
đáp, anh ta vội cúi xuống ra sức mà cời lửa trong lò sưởi)

Tuyền: Anh ấy đẹp trai quá nhỉ? (Rebecca thì thầm hơi to với Amelia)

Trúc: Chị thấy thế à? Em bảo với anh ấy nhé? (Amelia đáp)
“Do you think so?” “I’ll tell him.”

Tuyền: Ấy chớ, chị thân yêu; đừng đấy. (Baggy đáp) (Lúc trước cô ta đã kính cẩn nghiêng mình
chào cậu công tử một cách đúng kiểu gái trinh, đôi mắt e lệ cứ nhất định ngó chăm chăm xuống
tấm thảm; không biết sao cô ta lại có dịp nhìn được mặt anh chàng.)

Trúc: Anh ơi, cảm ơn anh cho em đôi khăn san đẹp quá. Có đẹp không, chị Rebecca?
“Thank you for the beautiful shawls, brother,” “Are they not beautiful, Rebecca?”

Tuyền: Ô, đẹp tuyệt trần đời. (đáp và đưa mắt nhìn từ tấm thảm sang đôi đèn trên lò sưởi)

Khánh: (Joseph vẫn tiếp tục loay hoay kỳ cạch với chiếc que cời và cái gắp than vừa phồng má
thổi lửa phù phù, bộ mặt vàng khè không thể nào đỏ ửng hơn được.)

Trúc: Anh Joseph ạ, em không tặng anh được những quà đẹp đến thế đâu; nhưng hồi còn ở
trường, em đã thêu cho anh một đôi quai đeo quần đẹp lắm cơ.
“I can’t make you such handsome presents, Joseph,” “but while I was at school, I have embroidered
for you a very beautiful pair of braces.

Khánh: Trời ơi! Amelia, em định nói cái gì thế? (vội kêu lên, vẻ mặt hoảng hốt thực sự)

Khánh: Lạy chúa, nhìn hộ anh xem chiếc “bớc-ghi” () có ngoài cửa không. Không sao đợi được
nữa; anh phải đi thôi. Cái thằng hầu khốn nạn. Anh phải đi đây. (nhảy xổ tới với lấy cái dây
chuông, lúng túng mãi không nắm được; trông điệu bộ anh chàng hiền lành lại càng thêm vẻ bối
rối)

Trang: Emmy, cái gì thế?(ông bố bước vào, vừa đi vừa lúc lắc mấy chiếc chìa khoá, rõ ra kiểu
một ông nhà buôn người Anh.) :“What’s the matter, Emmy?”

Trúc: Anh Joseph bảo con xem hộ cái...cái “bớc-ghi” có ngoài cửa không? Cái “bớc-ghi” là cái
gì thế, ba?
“Joseph wants me to see if his - his buggy is at the door. What is a buggy, Papa?
Trang: Ấy là “cái xe một ngựa”. (cũng ưa khôi hài đáp): “It is a one-horse palanquin/palənˈkēn/

Khánh: (Joseph cười phá lên. Đang cười gặp ngay đôi mắt của Sharp, anh chàng tịt mất, y như bị
một phát đạn chết đứng.)

Trang: Cô này là bạn của con à? Cô Sharp, tôi rất sung sướng được gặp cô. Cô và Emmy đang
cãi nhau với Joseph hả; sao nó lại muốn bỏ đi?: “This young lady is your friend? Miss Sharp, I
am very happy to see you. Have you and
Emmy been quarrelling already with Joseph, that he wants to be off?”

Khánh: Thưa cha, con đã hứa đi dùng cơm với Bonamy, bạn đồng sự của con.

Trang: Ồ, thôi. Anh đã bảo với mẹ anh rằng anh ăn cơm ở nhà cơ mà?
- Nhưng…ai lại ăn mặc thế này?: “But in this dress it’s impossible.”
- Cô Sharp, thử nhìn nó xem. Có phải nó diện cũng khá bảnh, có thể ăn cơm bất cứ đâu không?:
“Look at him, isn’t he handsome enough to dine anywhere, Miss Sharp?”

Tuyền: Dĩ nhiên (nhìn bạn và cả hai cùng phá ra cười)

Trang: Đã bao giờ cô trông thấy một đôi ủng như thế kia ở trường bà Pinkerton chưa? :“Did you
ever see a pair of buckskins like those at Miss Pinkerton’s?” continued he,
following up his advantage.

K: Trời đất ơi!

Trang: Đấy, đấy! Tôi đã làm nó phát tức lên đấy. Bà Sedley thân yêu của tôi ơi, tôi làm mếch
lòng con trai bà đây này. Tôi vừa nhắc đến chiếc quần da nai thuộc của nó. Có phải không, cô
Sharp. Thôi lại đây Joseph; lại đây làm quen với cô Sharp, rồi chúng ta đi ăn cơm thôi.
:“There now, I have hurt his feelings. Mrs. Sedley, my dear, I have hurt your son’s feelings. I
have alluded to his buckskins. Ask Miss Sharp if I haven’t? Come, Joseph, be friends with Miss
Sharp, and let us all go to dinner.”

Trúc: Có món “pi-lô” () nấu đúng theo ý thích của anh, ba lại mang về một con cá chim ngon
nhất Billingsgate.
“There’s a pillau, Joseph, just as you like it, and Papa has brought home the best turbot in
Billingsgate.

Trang: Xuống đi, xuống ăn thôi; anh dẫn cô Sharp xuống nhà. Tôi sẽ đi theo cùng hai cô tiểu thư
này đây. (nói vậy rồi khoác tay vợ và con gái vui vẻ bước ra khỏi phòng.)“Come, come, sir, walk
downstairs with Miss Sharp, and I will follow with these two young
women,

Q: Nếu Rebecca Sharp đã quyết định trong thâm tâm phải chiếm bằng được trái tim của anh
chàng đẹp trai hộ pháp kia thì không ai có quyền trách cô, ta phải nhớ rằng cô Sharp không có
một người bà con nào thương yêu cô và đỡ đần hộ cô trong công việc tế nhị này.
Q: Anh ta lười biếng, hay gắt song cũng vui tính (), và hễ thấy con gái là sợ co rúm người lại.
Tính Joseph đỏm dáng như con gái, mà có lẽ tại anh ta đỏm dáng như con gái, nên mới sinh ra
nhút nhát cũng quá đáng. Nếu Rebecca thắng được anh chàng ngay lúc mới đặt chân vào cuộc
đời thì quả thật trí thông minh của cô ta không phải là tầm thường.

Tuyền: Món gì đây nhỉ? Rồi đưa mắt van vỉ nhìn Joseph. (Trong bữa ăn, Rebecca được mời
dùng một ít. Cô hỏi Khánh)

Khánh: lơ Tuyền (mồm đầy những ca-ry mặt đỏ tía vì đã khoan khoái nốc bao nhiêu rượu)

Tuyền: Ồ, nếu là một món ăn Ấn Độ thì em phải ăn thử một tý mới được. Em tin chắc rằng cái gì
của Ấn Độ cũng phải tốt.

Trang: Con ơi, tiếp cô Sharp một ít ca-ry. (vừa cười vừa bảo)“Give Miss Sharp some curry, my
dear,

Trang: Cô có thấy tốt như bất cứ thứ gì của Ấn Độ không? (hỏi tiếp)“Do you find it as good as
everything else from India?”

Tuyền: Thưa, ngon tuyệt. (đang chết dở vì ớt cay nhưng cũng gượng đáp)

K: Cô Sharp, dùng thử một chút “chi-ly” xem. (thú vị lắm, nói)

Tuyền: Món “chi-ly” ạ? Xin vâng (đáp vậy, nhưng mồm vẫn cứ há ra vì cay)

Q: Cô ta nghĩ bụng tên là “chi-ly” thì món ăn này chắc phải hơi lạnh (), và được tiếp một ít.

Tuyền: Trông xanh và tươi quá nhỉ (Vừa nói cô vừa ăn một miếng, không ngờ còn cay hơn ca-ri)

Tuyền: Nước! Lạy Chúa, cho tôi tí nước? (không sao chịu đựng được nữa, cô bỏ chiếc đĩa xuống
bàn, kêu lên)

Trang: Tôi cam đoan với cô, chính cống Ấn Độ đấy. Sambo, lấy nước cho cô Sharp đây. (cười
phá ra) “They are real Indian, I assure you,” “Sambo, give Miss Sharp some
water.”

K, Trúc: (Joseph cũng cười theo)

Tuyền: Tôi lại nhớ đến món ớt nàng Công chúa Ba-tư bỏ vào bánh kem trong truyện “Nghìn lẻ
một đêm”. Ở Ấn Độ anh có cho ớt vào bánh kem không? (giả bộ vui vẻ)

Q: Ông cụ Sedley lại cười cho là Rebecca rất vui tính.

K: Bánh kem hả cô? Ở Bengal, kem tồi lắm. Thường chúng tôi phải dùng sữa dê; thế mà, cô có
biết không, dần dần tôi lại đâm thích cơ đấy.
Trang: Cô Sharp, bây giờ thì cô không thích mọi thứ Ấn Độ nữa chứ? “You won’t like
everything from India now, Miss Sharp

Q: đám đàn bà con gái đã ra khỏi phòng

Trang (tiếp): Này Joe coi chừng. Cô ả đang muốn chài anh đấy. (Lúc đám đàn bà con gái đã ra
khỏi phòng, ông lão khôn ngoan bảo con trai) ; “Have a care, Joe; that
girl is setting her cap at you.”

You might also like