You are on page 1of 7

THE THREE ESSENTIAL DIMENSIONS OF FAITH

Vatican II explains this faith-response as follows: “By faith man freely commits
his entire self to God, making ‘the full submission of his intellect and will to God
who reveals,’ and willingly assenting to the Revelation given by Him” (DV 5).
Christian Faith, then, touches every part of us: our minds (believing), our wills
(doing), and our hearts (trusting). Let us briefly examine each aspect in turn.
BA KÍCH THƯỚC CẦN THIẾT CỦA NIỀM TIN
Công đồng Vatican II giải thích phản ứng của đức tin này như sau: “Nhờ đức tin,
con người tự do phó thác toàn bộ bản thân mình cho Thiên Chúa, 'phó thác hoàn
toàn trí tuệ và ý chí của mình cho Thiên Chúa, Đấng mặc khải,' và sẵn sàng đồng ý
với Mặc khải do Ngài ban cho” (DV 5). Vì vậy, Đức tin Cơ đốc giáo chạm đến mọi
bộ phận của chúng ta: tâm trí (tin tưởng), ý chí của chúng ta (làm), và trái tim của
chúng ta (tin tưởng). Chúng ta hãy lần lượt xem xét ngắn gọn từng khía cạnh.

A. BELIEVING
Faith involves our basic convictions as Christians. “For if you confess with your
lips that Jesus is Lord, and believe in your heart that God raised him from the dead;
you will be saved” (Rom 10:9). John sums up his Gospel with: “These things have
been recorded to help you believe that Jesus is the Messiah, the Son of God, so that
through this faith you may have life in his name” (Jn 20: 31).
Faith, then, is knowing, but not mere “head knowledge” of some abstract truths. It
is like the deep knowledge we have of our parents, or of anyone we love dearly.
Christian Faith, then, is personal knowledge of Jesus Christ as “my Lord and my
God” (Jn 20:28). Christ solemnly assures each of us: “Here I stand knocking at the
door. If anyone hears me calling and opens the door, I will enter his house, and
have supper with him, and he with me” (Rv 3:20).
A. NIỀM TIN
Đức tin liên quan đến những xác tín cơ bản của chúng ta với tư cách là Cơ đốc
nhân. “Vả, nếu các ngươi dùng miệng xưng nhận Đức Chúa Jesus là Chúa, và tin
trong lòng rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại; bạn sẽ được cứu”
(Rô 10: 9). Gioan tóm tắt Tin Mừng của mình bằng: “Những điều này đã được ghi
lại để giúp anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, để nhờ đức
tin này, anh em được nhân danh Người mà được sống” (Ga 20, 31).
Vì vậy, đức tin là sự biết, nhưng không chỉ là “kiến thức sơ lược” về một số sự thật
trừu tượng. Nó giống như kiến thức sâu sắc mà chúng ta có về cha mẹ của chúng
ta, hoặc của bất kỳ ai mà chúng ta yêu quý. Vậy thì Đức tin Kitô giáo là sự hiểu
biết cá nhân về Chúa Giêsu Kitô là “Chúa của tôi và Thiên Chúa của tôi” (Ga
20:28). Chúa Kitô long trọng bảo đảm với mỗi người chúng ta: “Đây, tôi đứng gõ
cửa. Nếu ai nghe tiếng tôi gọi và mở cửa, tôi sẽ vào nhà người ấy, dùng bữa tối với
người ấy và người ấy với tôi” (Rv 3,20).

B. DOING
Besides believing, faith is also doing. As St. James writes: “My brothers, what
good is it to profess faith without practicing it?” (Jas 2:14). Christ himself taught:
“None of those who cry out ‘Lord, Lord’ will enter the Kingdom of God, but only
the one who does the will of my Father in heaven” (Mt 7:21). Faith, then, is a
commitment to follow (obey) God’s will for us. This we see exemplified in Mary’s
“I am the servant of the Lord. Let it be done to me as you say” (Lk 1:38).
PCP II brings out this “doing” dimension of faith as “witnessing” through “loving
service” of our needy neighbors. In our concrete situation, particularly urgent is the
call for: 1) deeds of justice and love; and 2) for protecting and caring for our
endangered earth’s environment (cf. PCP II 78-80).
Of course, we realize that we often do not do what we affirm in faith. But this
awareness of our failures emphasizes all the more the essential place of behavior in
authentic Christian Faith. It also makes us more conscious of our need for Christ’s
Spirit to live out our faith in our actions. “For apart from me you can do nothing”
(Jn 15:5). “Before this faith can be exercised, man must have the grace of God to
move and assist him; he must have the interior helps of the Holy Spirit, who moves
the heart and converts it to God” (DV 5).
B. LÀM
Bên cạnh việc tin thì niềm tin cũng đang làm. Như Thánh Gia-cô-bê viết: “Hỡi anh
em của tôi, có ích gì khi tuyên xưng đức tin mà không thực hành?” (Gia 2:14).
Chính Chúa Kitô đã dạy: “Không ai trong số những ai kêu lên ‘Lạy Chúa, lạy
Chúa’ sẽ được vào Nước Thiên Chúa, nhưng chỉ ai làm theo ý muốn của Cha Thầy
ở trên trời” (Mt 7,21). Vì vậy, đức tin là sự cam kết tuân theo (tuân theo) ý muốn
của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Chúng ta thấy điều này được minh chứng
trong câu “Tôi là tôi tớ của Chúa. Hãy để việc đó được thực hiện cho tôi như lời
anh nói” (Lc 1,38).
PCP II đưa ra chiều kích đức tin “đang làm” này như là “làm chứng” thông qua
việc “phục vụ yêu thương” những người hàng xóm nghèo khó của chúng ta. Trong
hoàn cảnh cụ thể của chúng ta, đặc biệt cấp bách là lời kêu gọi: 1) hành động công
lý và tình yêu thương; và 2) để bảo vệ và chăm sóc môi trường trái đất đang bị đe
dọa của chúng ta (xem PCP II 78-80).
Tất nhiên, chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi thường không làm những gì chúng tôi
khẳng định trong đức tin. Nhưng nhận thức về những thất bại này của chúng ta
càng nhấn mạnh đến vị trí thiết yếu của hành vi trong Đức tin Cơ đốc đích thực.
Nó cũng làm cho chúng ta ý thức hơn về sự cần thiết của chúng ta đối với Thánh
Linh của Chúa Kitô để sống đức tin của chúng ta trong hành động của chúng ta.
“Ngoài Thầy ra, anh em không thể làm gì được” (Ga 15: 5). “Trước khi đức tin này
có thể được thực hiện, con người phải có ân điển của Đức Chúa Trời để di chuyển
và trợ giúp mình; người ấy phải có sự trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần,
Đấng lay động trái tim và quy đổi nó về với Thiên Chúa” (DV 5).

C. ENTRUSTING/WORSHIPING
Beyond believing and doing, faith is also entrusting oneself into God’s hands.
Abraham, our father in faith, at God’s command left everything to set out for a
foreign land. Against all human odds, Moses trusted Yahweh to free the Hebrews
from their slavery in Egypt. In the New Testament, Jesus worked signs and cures
only with those who trusted in him. He promised the possessed boy’s father:
“Everything is possible to a man who trusts” (Mk 9:23).
Faith, then, is from the heart __ the loving, trusting and hoping in the Lord that
comes from God’s own love flooding our hearts. This trusting Faith “lives and
grows through prayer and worship” __ personal heartfelt conversation with God
that is the opposite of mindless, mechanical repetition of memorized formulas.
Genuine personal prayer and group prayer find both their inspirational source and
summit of perfection in the Liturgy, the Catholic community’s official public
Trinitarian worship of the Father, through Jesus Christ our Lord, in the Holy Spirit
(cf. PCP II 74-77).
C. NHẬP CẢNH / THƯ VIỆN
Ngoài tin và làm, đức tin còn là phó thác chính mình trong tay Đức Chúa Trời. Áp-
ra-ham, tổ phụ của chúng ta trong đức tin, theo lệnh của Đức Chúa Trời đã bỏ mọi
thứ để lên đường đến một vùng đất xa lạ. Chống lại mọi điều bất lợi của con người,
Môi-se tin cậy Đức Giê-hô-va giải thoát người Hê-bơ-rơ khỏi ách nô lệ của họ ở Ai
Cập. Trong Tân Ước, Chúa Giê-su chỉ làm dấu hiệu và chữa bệnh cho những ai tin
cậy nơi ngài. Ông đã hứa với cha của cậu bé bị quỷ ám: “Người nào tin cậy đều có
thể làm được” (Mc 9:23).
Vậy, đức tin đến từ trái tim __ tình yêu thương, tin cậy và hy vọng nơi Chúa đến từ
chính tình yêu thương của Chúa tràn ngập trái tim chúng ta. Niềm tin đáng tin cậy
này “sống và phát triển nhờ sự cầu nguyện và thờ phượng” __ cuộc trò chuyện
chân thành cá nhân với Đức Chúa Trời đối lập với sự lặp lại máy móc, vô tâm của
các công thức đã ghi nhớ. Cầu nguyện cá nhân chân chính và cầu nguyện nhóm tìm
thấy cả nguồn cảm hứng và đỉnh cao của sự hoàn hảo trong Phụng vụ, sự thờ
phượng Ba ngôi công khai chính thức của cộng đồng Công giáo đối với Chúa Cha,
qua Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, trong Chúa Thánh Thần (xem PCP II 74-
77).

FAITH AND THE THREE ESSENTIAL QUESTIONS


These three aspects of our Christian Faith __ believing, doing, prayerful trusting __
respond to the three classical questions posed to every person in life, and to St.
Augustine’s famous triple definition of faith. To the question “What can I know?”
Christian faith responds that we can know God as Our Father and Christ as Our
Lord (credere Deum/Christum). “Know that we belong to God . . . that the Son of
God has come and has given us discernment to recognize the One who is true” (1
Jn 5:19-20). Pagkilala sa Ama, sa Anak at sa Espiritu Santo.
“What should I do?” is answered curtly by “Keep His commandments” (1 Jn 2:3),
which means to “love in deed and truth and not merely talk about it” (1 Jn 3:18).
This demands acting on the credibility of God’s teachings in Christ as true and
dependable (credere Deo/Christo).
Finally, to the question “What may we hope for?” Christian Faith celebrates in
prayer and sacrament the unshakeable hope that “neither death nor life, neither
angels nor principalities, neither the present nor the future, nor powers; neither
height nor depth nor any other creature, will be able to separate us from the love of
God that comes to us in Christ Jesus, our Lord” (Rom 8:38-39). In brief, this hope
means to believe in God “with your whole heart, with your whole soul, and with all
your mind” (Mt 22:37), entrusting ourselves to Him in love (credere in
Deum/Christum).
NIỀM TIN VÀ BA CÂU HỎI CẦN THIẾT
Ba khía cạnh này của Đức tin Cơ đốc của chúng ta __ tin, làm, tin tưởng cầu
nguyện __ đáp ứng ba câu hỏi cổ điển đặt ra cho mỗi người trong cuộc sống và cho
ba định nghĩa nổi tiếng của Thánh Augustinô về đức tin. Đối với câu hỏi "Tôi có
thể biết gì?" Đức tin Cơ đốc đáp lại rằng chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời là
Cha của chúng ta và Đấng Christ là Chúa của chúng ta (credere Deum / Christum).
“Hãy biết rằng chúng ta thuộc về Chúa. . . rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban
cho chúng ta sự sáng suốt để nhận ra Đấng có thật” (1Ga 5, 19-20). Pagkilala sa
Ama, sa Anak tại sa Espiritu Santo.
"Tôi nên làm gì?" được trả lời cụt lủn là “Hãy tuân giữ các điều răn của Người” (1
Ga 2: 3), nghĩa là “yêu bằng việc làm và sự thật chứ không chỉ nói về điều đó” (1
Ga 3:18). Điều này đòi hỏi hành động dựa trên sự tin cậy của những lời dạy của
Đức Chúa Trời trong Đấng Christ là đúng và đáng tin cậy (credere Deo / Christo).
Cuối cùng, cho câu hỏi "Chúng ta có thể hy vọng điều gì?" Niềm tin Cơ đốc giáo
ca tụng trong lời cầu nguyện và bí tích niềm hy vọng không gì lay chuyển được
rằng “không phải cái chết cũng không phải sự sống, không phải thiên thần hay
nguyên thần, không hiện tại hay tương lai, cũng không phải quyền năng; cả chiều
cao, chiều sâu và bất kỳ tạo vật nào khác, sẽ không thể tách chúng ta khỏi tình yêu
của Thiên Chúa đến với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta ”(Rm 8,38-
39). Nói tóm lại, niềm hy vọng này có nghĩa là tin vào Thiên Chúa “hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn” (Mt 22:37), phó thác chính mình cho Ngài trong tình yêu
(credere in Deum / Christum).

FAITH AND SALVATION


But faith is not some “answer box” __ it is not some “thing” we have, keep, and
own. Rather, real faith is a force within us that by the power of Christ’s Holy Spirit
gradually works a transformation in our daily thoughts, hopes, attitudes and values.
In religious terms, we know that faith is necessary for salvation __ it is the
“beginning of our salvation” (cf. Trent, ND 1935; CCC 161). For “without faith it
is impossible to please God” (Heb 11:6). From experience we realize that faith
brings us fuller life which can be described by three basic values: genuine personal
maturity, freedom and happiness.
NIỀM TIN VÀ ĐÁNH GIÁ
Nhưng niềm tin không phải là một số “hộp trả lời” __ nó không phải là một số
“thứ” chúng ta có, giữ và sở hữu. Đúng hơn, đức tin thực sự là một sức mạnh bên
trong chúng ta mà nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh của Đấng Christ, dần dần
có tác dụng biến đổi trong suy nghĩ, hy vọng, thái độ và giá trị hàng ngày của
chúng ta.
Về mặt tôn giáo, chúng ta biết rằng đức tin cần thiết cho sự cứu rỗi __ đó là “sự
khởi đầu của sự cứu rỗi của chúng ta” (xem Trent, ND 1935; CCC 161). Vì “không
có đức tin thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11: 6). Từ kinh nghiệm,
chúng tôi nhận ra rằng đức tin mang lại cho chúng tôi cuộc sống đầy đủ hơn có thể
được mô tả bằng ba giá trị cơ bản: sự trưởng thành cá nhân đích thực, tự do và
hạnh phúc.

A. MATURITY
Faith in Christ frees us from preferring “darkness rather than light” (Jn 3:19), “the
praise of men to the glory of God” (Jn 12:43). Without faith in God, we are at the
mercy of “carnal allurements, enticements for the eye, the life of empty show” so
that “the Father’s love has no place in us” (1 Jn 2:15-16). As Scripture warns us:
“the world with its seductions is passing away, but the man who does God’s will
endure forever” (1 Jn 2:17).
A. SỰ TRƯỞNG THÀNH
Niềm tin vào Đức Kitô giải thoát chúng ta khỏi thích “bóng tối hơn là ánh sáng”
(Ga 3,19), “sự ngợi khen của loài người đối với vinh quang Thiên Chúa” (Ga
12,43). Không có niềm tin vào Thiên Chúa, chúng ta dễ bị “quyến rũ xác thịt, dụ
dỗ bằng mắt, đời sống phô trương trống rỗng” để “tình yêu của Chúa Cha không có
chỗ trong chúng ta” (1Ga 2,15-16). Như Thánh Kinh đã cảnh báo chúng ta: “thế
giới với những cám dỗ của nó đang qua đi, nhưng người làm theo ý Chúa sẽ trường
tồn mãi mãi” (1 Ga 2:17).

B. SPIRITUAL JOY
In so liberating us, faith in Christ fosters the value of spiritual joy. So Mary
proclaimed: “My soul proclaims the greatness of the Lord, and my spirit rejoices in
God my Savior” (Lk 1:46-47). John the Baptist was “overjoyed” to hear Christ’s
voice __ “that is my joy, and it is complete” (Jn 3:29). Christ himself taught his
disciples “so that my joy may be yours, and your joy may be complete” (Jn 15:11),
a “joy no one can take from you” (Jn 16:22). For Christian Faith is our response to
Christ’s “Good News,” lived in the Spirit whose fruits are “love, joy, peace,
patience, endurance, kindness, generosity, faith, mildness and chastity” (Gal 5:22).
B. NIỀM VUI TINH THẦN
Khi giải phóng chúng ta, đức tin nơi Đấng Christ nuôi dưỡng giá trị của niềm vui
thiêng liêng. Vì vậy, Đức Maria đã tuyên xưng: “Linh hồn tôi tuyên xưng sự cao cả
của Chúa, và tâm hồn tôi vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-
47). Gioan Tẩy Giả đã “vui mừng khôn xiết” khi nghe tiếng Chúa Kitô __ “đó là
niềm vui của tôi, và điều đó thật trọn vẹn” (Ga 3:29). Chính Chúa Kitô đã dạy các
môn đệ “để niềm vui của Thầy, niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 15:11),
một “niềm vui không ai lấy được khỏi anh em” (Ga 16:22). Vì Đức tin Kitô giáo là
sự đáp trả của chúng ta đối với “Tin mừng” của Đức Kitô, được sống trong Thần
Khí mà hoa trái của nó là “tình yêu, niềm vui, sự bình an, sự nhẫn nại, sự chịu
đựng, lòng nhân từ, độ lượng, đức tin, hiền lành và khiết tịnh” (Gl 5,22).

You might also like