You are on page 1of 58

Loạt bài giáo lý về cầu nguyện của Đức Phanxicô

Loạt bài giáo lý về cầu nguyện của Đức Phanxicô

Bài 1: Mầu nhiệm của lời cầu nguyện.

Bài 2: Lời cầu nguyện của một Kitô hữu.

Bài 3: Mầu nhiệm của Sáng tạo.

Bài 4: Lời cầu nguyện của người công chính.

Bài 5: Lời cầu nguyện của Abraham..

Bài 6: Lời cầu nguyện của Gia-cốp.

Bài 7: Lời cầu nguyện của Môsê.

Bài 8: Lời cầu nguyện của Đavít

Bài 9: Lối cầu nguyện của tiên tri Êlia.

Bài 10: Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh (1)

Bài 11: Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh (2)

Bài 12: Chúa Giêsu, Con Người Của Cầu Nguyện.

Bài 13: Chúa Giêsu, Thầy dạy cầu nguyện.

Bài 14: Cầu nguyện kiên trì


Bài 15: Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ cầu nguyện.

Bài 16: Lời cầu nguyện của Giáo hội sơ khai

Bài 17: Chúc lành.

Bài 18: Lời cầu nguyện khẩn cầu.

Bài 19: Lời cầu nguyện của sự chuyển cầu.

Bài 20: Lời cầu nguyện tạ ơn.

Bài 21: Lời cầu nguyện ngợi khen.

Bài 1: Mầu nhiệm của lời cầu nguyện

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em buổi sáng!

Hôm nay chúng ta bẳt đầu loạt bài giáo lý mới về chủ đề cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi
thở của đức tin, là cách diễn tả đúng nhất của đức tin; nó giống như tiếng kêu phát xuất
từ trái tim của người tin và tín thác vào Thiên Chúa.

Tiếng kêu của anh mù Ba-ti-mê

Chúng ta hãy nghĩ về câu chuyện của anh Ba-ti-mê, một nhân vật trong Tin Mừng (x. Mc
10,46-52) và tôi thú nhận với anh chị em, đối với tôi, đây là nhân vật dễ thương nhất
trong tất cả . Anh ta bị mù và ngồi ăn xin bên vệ đường ở ngoại ô thành phố Giê-ri-cô.
Anh ta không phải là một nhân vật vô danh, anh ta có một khuôn mặt, một cái tên: Ba-
ti-mê, nghĩa là “con của ông Ti-mê”. Một ngày nọ, ông nghe nói rằng Chúa Giêsu sẽ đi
qua. Trên thực tế, Giê-ri-cô là một ngã tư, nơi những người hành hương và thương nhân
liên tục đi ngang qua. Rồi Ba-ti-mê làm mọi cách để có thể gặp Chúa Giêsu. Nhiều
người cũng làm giống như vậy: chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu leo lên cây. Rất nhiều
người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, và anh ta cũng thế.

Như thế, người đàn ông này bước vào Tin Mừng như một tiếng kêu lớn. Anh không nhìn
thấy, không biết Chúa Giêsu ở gần hay ở xa, nhưng anh nghe, anh biết được nhờ đám
đông, khi tiếng ồn tăng lên và đến gần … Nhưng anh hoàn toàn cô độc, và không ai
quan tâm đến anh. Ba-ti-me làm gì? Kêu lớn. Gào lên, và tiếp tục hét lên. Anh sử dụng
vũ khí duy nhất mình đang có: đó là tiếng nói. Anh bắt đầu hét to lên: “Lạy ông Giêsu,
Con Vua David, xin rủ lòng thương tôi!” (c. 47). Cứ thế, anh tiếp tục hét to lên.

Tiếng kêu thét lặp đi lặp lại của anh gây phiền phức, và nhiều người mắng anh, bảo anh
im lặng: “Này, cư xử có giáo dục đi, đừng làm như thế!”. Nhưng Ba-ti-mê không im lặng,
ngược lại, anh còn hét to hơn: “Lạy ông Giêsu, Con Vua David, xin rủ lòng thương tôi!”
(c. 47). Sự bướng bỉnh rất dễ thương của những người tìm kiếm ơn lành và gõ cửa trái
tim của Thiên Chúa. Anh kêu to, gõ cửa. Câu nói “Con Vua David” rất quan trọng; nó có
nghĩa là “Đấng Thiên Sai” – tuyên xưng Đấng Thiên Sai –, đó là một lời tuyên xưng đức
tin xuất phát từ miệng của người bị mọi người khinh bỉ coi thường.

Lời cầu nguyện của anh Ba-ti-mê chạm đến trái tim của Chúa

Và Chúa Giêsu lắng nghe tiếng kêu của anh. Lời cầu nguyện của anh Ba-ti-mê chạm
đến trái tim của Chúa, trái tim của Thiên Chúa và cánh cửa cứu độ được mở ra cho
anh. Chúa Giêsu gọi anh. Anh nhảy lên và những người trước đây bảo anh giữ im lặng
thì giờ đây dẫn anh ta đến với vị Tôn sư. Chúa Giêsu nói chuyện với anh, yêu cầu anh
giải bày mong muốn của mình – điều này rất quan trọng – và sau đó tiếng kêu trở
thành một lời cầu xin: “Xin cho tôi nhìn thấy lại!” (x. 51).

Cầu nguyện xuất phát từ sự khiêm nhường

Chúa Giêsu nói với anh: “Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh” (c. 52). Chúa nhận ra
nơi người đàn ông đáng thương, bất lực, bị coi thường đó, tất cả sức mạnh của đức tin
của anh, điều thu hút lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin là giơ hai
tay lên trời và kêu lớn cầu xin ơn cứu độ. Giáo lý nói rằng “khiêm tốn là nền tảng của
cầu nguyện” (Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2559). Lời cầu nguyện phát sinh từ sự khiêm
hạ. Từ humus trong tiếng Latinh có nghĩa là bùn, từ này xuất phát từ “khiêm tốn”,
“khiêm nhường” trong tiếng Ý; Như thế, cầu nguyện xuất phát từ trạng thái bấp bênh
của chúng ta, từ nỗi khao khát Thiên Chúa không nguôi của chúng ta (x. Ibid., 2560-
2561).

Đức tin thì phản kháng và hy vọng, còn “phi đức tin” thì chịu đựng

Đức tin, như chúng ta thấy nơi anh Ba-ti-mê, là một tiếng kêu gào; điều không có đức
tin thì bóp nghẹt tiếng kêu đó. Đó là thái độ của dân chúng khi bảo anh mù im lặng: họ
không phải là người của đức tin, nhưng anh mù thì ngược lại. Bóp nghẹt tiếng kêu là
một loại “bưng bít “. Đức tin là sự phản kháng lại một tình cảnh đau đớn mà chúng ta
không hiểu tại sao; còn không có đức tin thì bị giới hạn trong việc chịu đựng một tình
huống mà chúng ta đã thích nghi. Đức tin là hy vọng được cứu; phi đức tin thì dần quen
với sự ác áp bức chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta bắt đầu loạt bài giáo lý này bằng tiếng kêu của anh Ba-
ti-mê, bởi vì có lẽ mọi thứ đã được viết trong một nhân vật như anh. Anh Ba-ti-mê là
một con người kiên trì. Xung quanh anh có những người giải thích rằng cầu xin là vô
ích, đó là tiếng kêu không được đáp lại, đó là một tiếng ồn làm phiền và đó là tất cả:
nhưng anh không im lặng. Và cuối cùng anh đã có được thứ mình muốn.

Tiếng nói khẩn cầu trong lòng người

Mạnh mẽ hơn bất kỳ lý lẽ trái ngược nào, trong lòng con người có một tiếng nói khẩn
cầu. Một tiếng nói phát ra một cách tự nhiên, không có ai ra lệnh cho nó, một tiếng nói
đặt câu hỏi về ý nghĩa của hành trình của chúng ta trên trái đất này, đặc biệt là khi
chúng ta đang gặp hoàn cảnh tăm tối: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Lạy Chúa
Giêsu thương xót tất cả chúng con!”. Một lời cầu nguyện tuyệt vời!

Con người là “hành khất của Chúa”


Nhưng có phải những từ này không được khắc sâu trong mọi loài thụ tạo? Tất cả cầu
khẩn và cầu xin để mầu nhiệm của lòng thương xót hoàn thành trọn vẹn. Không chỉ các
Kitô hữu cầu nguyện: họ chia sẻ tiếng kêu cứu cầu nguyện với tất cả mọi người nam
nữ. Nhưng thánh Phaolô nói rằng muôn loài thụ tạo “cùng rên siết và quằn quại như
sắp sinh nở” (Rm 8,22). Các nghệ sĩ thường trở thành người phiên dịch cho tiếng kêu
khóc thầm lặng của thụ tạo, điều in dấu nơi mọi sinh vật và đặc biệt trong trái tim con
người, bởi vì con người là một “hành khất của Thiên Chúa” (x. GLHTCG, 2559). Một định
nghĩa thật hay về con người: “người hành khất của Chúa.”

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-05/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-duc-tin.html

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về cầu
nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của đức tin, là tiếng kêu phát xuất từ ​trái tim của những
ai tin cậy vào Chúa. Chúng ta thấy điều này trong câu chuyện của Ba-ti-mê, người ăn xin
từ Giêricô. Dù mù, anh vẫn biết Chúa Giêsu đang đến gần, và kiên trì kêu gọi: “Lạy Chúa
Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!” (Mc 10,47). Bằng cách sử dụng cụm từ “Con
vua Đa-vít”, ông tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giê-xu là Đấng Mê-sia. Để đáp lại, Chúa
mời Ba-ti-mê bày tỏ ước muốn của mình, đó là có thể nhìn thấy lại. Sau đó, Đấng Kitô
nói với anh ta: “Hãy đi; đức tin của ngươi đã cứu ngươi ”(câu 52). Điều này cho thấy
rằng đức tin là một tiếng kêu cứu rỗi thu hút lòng thương xót và quyền năng của Đức
Chúa Trời. Không chỉ những Kitô hữu cầu nguyện mà tất cả những người nam và người
nữ đều tìm kiếm ý nghĩa trên cuộc hành trình trên trần thế của họ. Khi tiếp tục hành
trình đức tin, chúng ta cũng như Bartimaeus, xin cho chúng ta luôn kiên trì cầu nguyện,
nhất là trong những thời khắc đen tối nhất của mình, và tin tưởng cầu xin Chúa: “Lạy
Chúa Giêsu, xin thương xót con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con! ”.

Bài 2: Lời cầu nguyện của một Kitô hữu

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay chúng ta đi đến bước thứ hai trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện mà chúng
ta đã bắt đầu tuần trước.

Nếu trái tim cầu nguyện thì toàn thể con người cầu nguyện

Cầu nguyện thuộc về tất cả mọi người: mọi người thuộc mọi tôn giáo, và có lẽ cũng
thuộc về những người không tuyên xưng niềm tin của họ. Cầu nguyện xuất phát từ nơi
sâu kín của chính chúng ta, ở nơi nội tâm mà các tác giả thiêng liêng thường gọi là “trái
tim” (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 2562-2563). Do đó, cầu nguyện không phải là một
cái gì đó nằm ở bên ngoài chúng ta, nó không phải là một điều thứ yếu và bị xếp bên lề,
nhưng là mầu nhiệm thâm sâu nhất của chính chúng ta. Các cảm xúc cầu nguyện,
nhưng không thể nói rằng cầu nguyện chỉ là cảm xúc. Lý trí cầu nguyện, nhưng cầu
nguyện không chỉ là một hành động của lý trí. Cơ thể cầu nguyện, nhưng người ta có
thể nói chuyện với Thiên Chúa ngay cả trong tình trạng thương tật nghiêm trọng nhất.
Do đó, toàn thể con người cầu nguyện, nếu “trái tim” của người đó cầu nguyện.
Cầu nguyện là khao khát tìm kiếm “Ngài”

Cầu nguyện là một động lực, là một lời cầu khẩn vượt ra ngoài chính chúng ta: là một
điều gì đó phát sinh từ sâu thẳm con người chúng ta và vươn lên, bởi vì nó cảm thấy
nỗi nhớ của một cuộc gặp gỡ. Nỗi nhớ này còn hơn là một nhu cầu, nó là một con
đường. Cầu nguyện là tiếng nói của một cái “tôi” mò mẫm, cố gắng, tìm kiếm một Đấng
là “Ngài”. Cuộc gặp gỡ giữa “tôi” và “Ngài” không thể thực hiện bằng cách tính toán: nó
là cuộc gặp gỡ của con người và nhiều lần nó là một cố gắng để tìm “Ngài” Đấng mà
cái “tôi” của tôi đang tìm kiếm.

Lời cầu nguyện của Kitô hữu phát xuất từ một mạc khải

Còn lời cầu nguyện của Kitô hữu phát sinh từ một mạc khải: “Ngài” không bị che giấu
trong mầu nhiệm, nhưng đã đi vào tương quan với chúng ta. Kitô giáo là tôn giáo không
ngừng cử hành “sự tỏ mình” của Thiên Chúa, sự hiển linh của Người. Các ngày lễ đầu
tiên của năm phụng vụ cử hành một Thiên Chúa không ẩn dấu, nhưng là người mang
tình bạn của mình đến với con người. Thiên Chúa mặc khải vinh quang của Người trong
sự nghèo khó ở Bêlem, trong sự chiêm ngắm của Ba Vua, trong phép rửa tại sông
Giordan, trong phép lạ tại tiệc cưới ở Cana. Tin Mừng thánh Gioan kết thúc bằng một
tuyên bố ngắn gọn về bài thánh ca vĩ đại của Lời Mở đầu: ” Thiên Chúa, chưa bao giờ có
ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa
Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1,18). Chính Chúa Giêsu mặc khải Thiên
Chúa cho chúng ta.

Thiên Chúa có gương mặt dịu dàng nhất

Lời cầu nguyện của người Kitô hữu đi vào trong tương quan với Thiên Chúa có khuôn
mặt dịu dàng nhất, Đấng không muốn gieo rắc bất kỳ nỗi sợ hãi nào cho con người. Đây
là đặc điểm đầu tiên của cầu nguyện Kitô giáo. Nếu con người luôn quen đến với Thiên
Chúa với một chút sợ hãi, một chút kinh hoàng bởi mầu nhiệm hấp dẫn và kính sợ này,
nếu họ đã quen với việc tôn kính Người với thái độ của nô lệ, giống như một người
thuộc quyền không muốn bất kính với chủ của mình, ngược lại, các Kitô hữu hướng về
Người và dám tự tin gọi Người là “Cha”.

Tấm chi phiếu “trắng”, không giới hạn!

Kitô giáo đã loại bỏ mọi mối quan hệ “phong kiến” ra khỏi tương quan với Thiên Chúa.
Trong di sản đức tin của chúng ta không có các thành ngữ như “sự khuất phục”, “nô lệ”
hay “chư hầu”; nhưng là những từ như “giao ước”, “tình bạn”, “lời hứa”, “hiệp thông”,
“gần gũi”. Trong diễn từ dài từ biệt các môn đệ của mình, Chúa Giêsu nói: ” Thầy không
còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em
là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em
để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì
anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,15-16).
Đây là một tấm chi phiếu trắng”, không giới hạn! Mọi điều anh em xin với Chúa Cha
nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho anh em.

Thiên Chúa là bạn, là đồng minh, là hôn phu


Thiên Chúa là bạn, là đồng minh, là hôn phu. Trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể kiến
tạo một mối quan hệ tin tưởng với Người, đến nỗi trong kinh “Lạy Cha”, Chúa Giêsu đã
dạy chúng ta cầu xin Người nhiều điều. Chúng ta có thể cầu xin Chúa mọi thứ, giải thích
mọi thứ, kể lại mọi thứ. Không quan trọng nếu chúng ta cảm thấy khiếm khuyết trong
mối quan hệ với Chúa: chúng ta không phải là những người bạn tốt, chúng ta không
phải là những người con biết ơn, chúng ta không phải là người phối ngẫu chung thủy.
Người tiếp tục yêu thương chúng ta. Đó là những gì Chúa Giêsu bày tỏ cách dứt khoát
trong Bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu
đổ ra vì anh em.” (Lc 22,20). Trong cử chỉ đó, tại phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã tiên đoán
mầu nhiệm Thánh giá. Thiên Chúa là một đồng minh trung thành: nếu con người không
còn kính yêu Người, Người vẫn tiếp tục yêu thương con người, ngay cả khi tình yêu đưa
Người đến cuộc khổ nạn trên đồi Canvê. Thiên Chúa luôn ở gần cánh cửa trái tim của
chúng ta và chờ đợi chúng ta mở cửa cho Người. Nhiều lần Người gõ cửa trái tim
nhưng không xâm nhập, nhưng Người chờ đợi. Lòng kiên nhẫn của Chúa đối với chúng
ta là lòng kiên nhẫn của người cha, của người vô cùng yêu thương chúng ta. Tôi có thể
nói đó là lòng kiên nhẫn của cùng người cha và người mẹ. Chúa luôn ở gần bên lòng
chúng ta và Người gõ cánh cửa cách nhẹ nhàng, yêu thương.

Thiên Chúa chỉ biết yêu thương

Tất cả chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện như thế, bằng cách đi vào mầu nhiệm của
Giao ước. Hãy cầu nguyện bằng cách đặt mình trong vòng tay thương xót của Thiên
Chúa; hãy cảm thấy được bao bọc trong mầu nhiệm hạnh phúc, đó là cuộc sống của
Thiên Chúa Ba Ngôi; hãy cảm thấy như những vị khách không xứng đáng có vinh dự
được mời. Và lặp lại với Chúa, trong sự kinh ngạc của lời cầu nguyện: có phải là Chúa
chỉ biết yêu thương? Người không biết oán ghét. Đây là Thiên Chúa mà chúng ta cầu
nguyện. Đây là cốt lõi rực rỡ của mỗi lời cầu nguyện Kitô giáo. Thiên Chúa của tình yêu,
Cha của chúng ta, Đấng chờ đời và đồng hành với chúng ta.

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-05/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-thien-chua-ban-dong-minh.html

_________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem xét
những đặc điểm thiết yếu của nó. Cầu nguyện liên quan đến việc toàn bộ chúng ta
khao khát một số “khác” ngoài chính chúng ta. Cụ thể, lời cầu nguyện của Kitô hữu
được sinh ra từ việc nhận ra rằng “người khác” mà chúng ta đang tìm kiếm đã được
bày tỏ trong khuôn mặt dịu dàng của Chúa Giêsu, Đấng dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là
“Cha” và muốn cá nhân bước vào mối quan hệ với chúng ta. Trong bài giảng từ biệt tại
Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu không còn gọi các môn đệ là tôi tớ nữa mà là bạn bè. Khi cầu
nguyện với Thiên Chúa, chúng ta không cần sợ hãi, vì Ngài là một người bạn, một đồng
minh đáng tin cậy. Dù chúng ta có hoàn cảnh như thế nào, hoặc chúng ta có thể nghĩ
về bản thân mình kém cỏi đến mức nào, thì Thiên Chúa luôn thành tín và sẵn lòng ôm
chúng ta vào lòng thương xót. Chúng ta thấy tình yêu vô điều kiện này trên đồi Canvê, vì
Chúa không bao giờ ngừng yêu thương, dù cho đến cùng. Chúng ta hãy tìm cách cầu
nguyện bằng cách bước vào sự mầu nhiệm này của Giao ước bất tận của Thiên Chúa
với chúng ta. Đây là tâm tình cháy bỏng của mọi lời cầu nguyện của một Kitô hữu: phó
thác mình trong vòng tay yêu thương và nhân từ của Cha chúng ta trên trời.

Bài 3: Mầu nhiệm của Sáng tạo

Hồng Thủy – Vatican News

Trình thuật Kinh Thánh về Sáng tạo như là một thánh thi tuyệt vời tạ ơn sự tốt lành và
vẻ đẹp của sự sáng tạo. Công trình sáng tạo vĩ đại gợi lên một cảm giác kỳ diệu trong
trái tim con người và mong muốn cầu nguyện. Công trình sáng tạo vĩ đại là nguồn cảm
hứng, hướng chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm của chính mình, dù chúng ta có thể trải
nghiệm sức nặng về sự vô nghĩa của chúng mình. Cầu nguyện bảo đảm với chúng ta
rằng mọi thứ không chỉ tồn tại cách tình cờ và mối quan hệ của chúng ta với Thiên
Chúa là nguồn gốc của sự cao quý của chúng ta. Con người, nam và nữ, về bản chất, có
thể gần như không là gì; nhưng theo ơn gọi, họ là con của một vị Vua vĩ đại! Giữa những
khó khăn và thử thách của cuộc sống, cầu nguyện duy trì sự đánh giá cao và lòng biết
ơn của chúng ta, vì nó mang lại sức sống cho niềm hy vọng của chúng ta. Hy vọng của
những người cầu nguyện có thể giúp người khác nhận ra rằng cuộc sống là một món
quà từ Thiên Chúa; hy vọng đó mạnh hơn tuyệt vọng; tình yêu đó mạnh hơn cái chết.
Đức Thánh Cha mời gọi mọi người dâng lời khen ngợi và cảm Chúa Cha trên trời của
chúng ta vì niềm vui đơn giản là được sống.

Giáo lý của Đức Thánh Cha

Bắt đầu bài giáo lý Đức Thánh Cha nhận định rằng: Sự sống, sự kiện đơn giản là chúng
ta tồn tại, đưa tâm hồn con người đến với việc cầu nguyện.

Trình thuật Sáng tạo: bài thánh thi tạ ơn tuyệt vời

Đức Thánh Cha giải thích: Trang đầu tiên của sách Kinh Thánh giống với một bài thánh
thi tạ ơn tuyệt vời. Trình thuật Sáng tạo được nhấn mạnh bởi các điệp khúc không
ngừng lập đi lập lại sự tốt lành và vẻ đẹp của mọi sinh vật hiện hữu. Thiên Chúa dùng
lời của Người ban sự sống cho chúng và mọi sự hiện hữu. Người dùng lời của mình
tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, luân chuyển giữa ngày và đêm, xen kẽ các mùa với
nhau, tạo nên một bảng màu với sự đa dạng của các loài động thực vật. Trong khu
rừng phong phú đầy các sinh vật này, nơi sự hỗn loạn nhanh chóng bị đánh bại, con
người xuất hiện cuối cùng. Và sự xuất hiện này tạo nên một sự phấn khích vô cùng, gia
tăng sự hài lòng và vui mừng: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt
đẹp” (St 1,31).

Công trình Sáng tạo thúc đẩy con người cầu nguyện

Vẻ đẹp và mầu nhiệm Sáng tạo làm nảy sinh trong trái tim con người động lực đầu tiên
khơi dậy việc cầu nguyện (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 2566). Thánh vịnh 8 nói:
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là
chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (cc.4-5). Người
cầu nguyện chiêm ngắm mầu nhiệm hiện hữu ở xung quanh mình, nhìn thấy bầu trời
đầy sao phía trên mình – và điều mà vật lý thiên văn cho chúng ta thấy ngày nay trong
tất cả sự mênh mông của nó – và tự hỏi thiết kế tình yêu nào tạo nên một công trình vĩ
đại như vậy! … Và, trong sự bao la vô biên này, con người là gì? “Hầu như chỉ là phù du”,
một Thánh vịnh khác nói (x. 89,48): một sinh vật được sinh ra, một sinh vật sẽ chết,
một sinh vật vô cùng mong manh. Tuy nhiên, trong toàn vũ trụ, con người là sinh vật
duy nhất nhận thức được vẻ đẹp vô cùng như vậy.

Chỉ cần chiêm ngưỡng một bầu trời đầy sao để biết tạ ơn

Lời cầu nguyện của con người được liên kết chặt chẽ với cảm giác kinh ngạc. Kích
thước của con người vô cùng nhỏ bé nếu so với kích thước của vũ trụ. Thành tựu lớn
nhất của con người dường như là rất nhỏ nhoi ít ỏi … Thật ra con người chẳng là gì cả.
Trong lời cầu nguyện, chúng ta xác nhận cảm giác của lòng thương xót. Không có gì
tồn tại một cách tình cờ: bí mật của vũ trụ nằm trong một ánh mắt nhân từ mà ai đó
gặp thấy trong mắt chúng ta. Thánh vịnh nói rằng chúng ta được tạo ra chẳng thua kém
thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên (x. 8,6). Mối quan hệ với
Thiên Chúa là sự vĩ đại của con người: sự đăng quang của con người. Theo tự nhiên,
chúng ta gần như không là gì, nhưng theo ơn gọi, chúng ta là con của vị Quân vương vĩ
đại!

Đó là một kinh nghiệm mà nhiều người trong chúng ta đã trải qua. Nếu cuộc sống, với
tất cả sự cay đắng của nó, đôi khi có nguy cơ làm món quà cầu nguyện trong chúng ta
bị nghẹt thở, thì chỉ cần chiêm ngưỡng một bầu trời đầy sao, một hoàng hôn, một bông
hoa …, để thắp lại tia sáng của lời tạ ơn. Kinh nghiệm này có lẽ là điều căn bản của
trang đầu tiên của Kinh Thánh.

Cầu nguyện là sức mạnh của hy vọng

Khi trình thuật Kinh thánh tuyệt vời về Sáng tạo được viết, dân tộc Israel đang sống
những ngày không hạnh phúc. Một thế lực thù địch đã chiếm giữ đất nước, nhiều người
bị lưu đày, và họ đang làm nô lệ ở Mesopotamia. Không còn quê hương, không còn đền
thờ, không còn đời sống xã hội và tôn giáo, không còn gì.

Tuy nhiên, bắt đầu từ trình thuật vĩ đại về Sáng tạo, một người nào đó bắt đầu tìm lại
được lý do để tạ ơn, để ca ngợi Thiên Chúa vì sự hiện hữu. Cầu nguyện là sức mạnh
đầu tiên của hy vọng. Khi cầu nguyện, hy vọng gia tăng, và chúng ta tiến bước. Cầu
nguyện mở ra cánh cửa hy vọng. Hy vọng có đó, nhưng khi cầu nguyện, chúng ta mở
cánh cửa của hy vọng. Bởi vì những người cầu nguyện bảo vệ những chân lý cơ bản; họ
là những người lặp lại, trước hết là cho chính họ và sau đó là cho tất cả những người
khác: bất chấp mọi vất vả và thử thách, bất chấp những ngày khó khăn, cuộc sống này
tràn đầy ân sủng và làm họ kinh ngạc. Và như vậy nó phải luôn được bảo vệ và gìn giữ.

Cầu nguyện chiếu sáng tâm hồn, con tim, gương mặt của chúng ta

Những người nam nữ cầu nguyện biết rằng hy vọng mạnh mẽ hơn sự nản lòng. Họ tin
rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, và chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chiến thắng,
ngay cả khi trong những thời điểm và cách thế mà chúng ta không biết. Những người
nam nữ cầu nguyện mang ánh sáng phản chiếu trên gương mặt họ: bởi vì, ngay cả
trong những ngày u tối, mặt trời không ngừng chiếu sáng họ. Cầu nguyện chiếu sáng
tâm hồn chúng ta, trái tim và gương mặt của chúng ta, ngay cả những lúc tăm tối, ngay
cả trong thời gian đau khổ nhất.

Người mang niềm vui

Tất cả chúng ta đều là người mang niềm vui. Anh chị em có nghĩ như thế không? Bạn là
một người mang niềm vui? Hay bạn thích là người mang tin xấu khiến cho buồn sầu?
Cuộc sống này là món quà mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: và nó quá ngắn để
hưởng thụ nó trong nỗi buồn, trong cay đắng. Chúng ta hãy ca ngợi Chúa, hãy hạnh
phúc vì đơn giản là được sống. Chúng ta hãy ngắm nhìn vũ trụ, chiêm ngắm vẻ đẹp và
cũng ngắm nhìn các thánh giá của mình và nói: “Nhưng Chúa hiện hữu, Chúa đã tạo
nên chúng con như thế vì Chúa.” Và chúng ta cảm thấy sự thanh tĩnh của con tim, điều
khiến chúng ta tạ ơn và chúc tụng Chúa.

Cảm ơn là lời cầu nguyện đẹp nhất

Chúng ta là con cái của vị Vua vĩ đại, của Đấng Tạo Hoá, chúng ta có khả năng đọc dấu
ấn của Người trong toàn thể công trình Sáng tạo. Chúng ta chăm sóc công trình sáng
tạo đó nhưng trong nó có dấu ấn của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tạo dựng nó. Xin
Chúa giúp chúng ta luôn hiểu được điều này cách sâu sắc và giúp chúng ta nói lời “cảm
ơn”, và lời cảm ơn đó là một lời cầu nguyện tuyệt vời.

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-05/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-giup-hy-vong.html

Bài 4: Lời cầu nguyện của người công chính

Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Chúng ta dành bài giáo lý hôm nay cho lời cầu nguyện của người công chính.

Tội lỗi lan tràn trong thế giới con người

Kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người là tốt lành, nhưng trong cuộc sống hàng
ngày chúng ta lại nhận thấy có sự hiện diện của sự dữ. Những chương đầu tiên của
sách Sáng Thế miêu tả sự phát triển, lan rộng của tội lỗi trong cuộc sống con người.
Ông Adam và bà Evà (x. St 3,1-7) nghi ngờ ý định nhân lành của Thiên Chúa, nghĩ rằng
họ đang gặp một vị thần ghen tương, ngăn cản họ được hạnh phúc. Từ đó, họ nổi loạn:
họ không còn tin vào một Đấng Tạo Hóa quảng đại, mong muốn họ được hạnh phúc.
Tâm hồn họ chiều theo cám dỗ của kẻ xấu, bị ảo tưởng về sự toàn năng: “Nếu chúng ta
ăn trái của cây, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa” (x. c. 5). Đây là cám dỗ, là tham
vọng len vào tâm hồn. Nhưng họ đã gặp phải điều ngược lại: mắt họ mở ra và họ thấy
mình trần truồng (c. 7).
Sự dữ càng trở nên tàn phá hơn trong thế hệ con người thứ hai: đó là câu chuyện về
Cain và Abel (x. St 4,1-16). Cain ghen tị với em mình; mặc dù là con đầu lòng, anh coi
Abel là đối thủ, người đe dọa quyền trưởng tử của anh ta. Sự ác xuất hiện trong trái tim
Cain và anh ta không thể chiến thắng nó. Sự ác bắt đầu đi vào tâm lòng: nhìn người
khác với những ý tưởng xấu, nghi ngờ. “Tên này là người xấu, sẽ hại mình.” Và thế là câu
chuyện về tình huynh đệ đầu tiên kết thúc bằng một vụ giết người. Tôi nghĩ về tình
huynh đệ nhân loại ngày nay: chiến tranh ở khắp nơi.

Hậu duệ của Cain phát triển các nghề thủ công và nghệ thuật, nhưng cũng phát triển
bạo lực, được thể hiện qua bài ca độc ác của Laméc, nghe như một bài thi ca báo thù:
“Vì một vết thương, ta đã giết một người; vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy lần!” (St 4,23-24).
Báo thù là thế này: bạn gây ra thì bạn phải đền trả. Nhưng quan tòa không nói điều này,
mà là tôi nói. Tôi biến mình thành quan tòa. Và thế là tà ác lan truyền như dầu loang,
cho đến khi nó chiếm trọn bức tranh: ” Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của
con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu.” (St 6,5).
Các bức bích họa lớn về trận đại hồng thủy (chương 6-7) và tháp Babel (chương 11)
cho thấy rằng cần có một khởi đầu mới, như một sáng tạo mới, sẽ được hoàn thành
trong Chúa Kitô.

Lời cầu nguyện của những người công chính

Tuy nhiên, trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, một câu chuyện khác cũng được
thuật lại, ít nổi bật hơn, khiêm tốn và đạo đức hơn nhiều, đại diện cho sự cứu rỗi của hy
vọng. Ngay cả khi hầu hết mọi người cư xử một cách tàn bạo, tạo nên thù hận, vẫn có
những người có thể cầu nguyện với Thiên Chúa một cách chân thành, có khả năng viết
lại số phận của con người theo một cách khác. Abel dâng cho Thiên Chúa của lễ hy
sinh là những hoa trái đầu mùa. Sau khi Adam chết, ông Adam và bà Evà có người con
thứ ba, đó là Sết, người sinh ra Ênốt, và Sách Thánh nói: “Lúc đó, người ta bắt đầu kêu
cầu danh Đức Chúa” (4,26). Sau đó, Khanốc ra đời; ông là một người “bước đi với Chúa”
và được Thiên Chúa “bắt cóc” đưa lên thiên đàng (x. 5,22.24). Và cuối cùng là câu
chuyện về ông Nôê, một người công chính đã “bước đi với Chúa” (6,9); qua ông, Thiên
Chúa đã rút lại ý định xóa sổ loài người (x. 6,7-8).

Cầu nguyện giải thoát khỏi bản năng bạo lực, hướng về Thiên Chúa xin Người biến đổi
trái tim chúng ta

Đọc những câu chuyện này, chúng ta có ấn tượng rằng cầu nguyện vừa là bờ đê vừa là
nơi ẩn náu của con người trước làn sóng tràn đầy sự ác đang phát triển trên thế giới.
Quan sát kỹ hơn, chúng ta cũng cầu nguyện để được cứu khỏi chính mình. “Lạy Chúa
xin cứu con khỏi chính con, khỏi những tham vọng, đam mê của con.” Những người cầu
nguyện trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh là những người hoạt động vì hòa
bình: thực tế, khi lời cầu nguyện là đích thực, nó giải thoát khỏi bản năng bạo lực và nó
là một cái nhìn chăm chú vào Thiên Chúa, xin Người quay lại chăm sóc trái tim của con
người. Sách Giáo lý viết: “Phẩm chất cầu nguyện này được sống bởi vô số người công
chính trong tất cả các tôn giáo” (GLHTCG, 2569). Cầu nguyện vun trồng những bông
hoa tái sinh ở những nơi mà lòng thù hận của con người chỉ có thể làm cho sa mạc lan
rộng. Lời cầu nguyện có sức mạnh, bởi vì nó lôi kéo quyền năng của Thiên Chúa và
quyền năng của Chúa luôn ban sự sống. Đó là Thiên Chúa của sự sống và làm cho tái
sinh.

Đây là lý do tại sao vương quyền của Thiên Chúa đi qua những thế hệ con người nam
nữ này, những người thường bị hiểu lầm hoặc bị loại ra ngoài lề trên thế giới. Nhưng thế
giới sống và phát triển nhờ sức mạnh của Thiên Chúa được ban nhờ lời cầu nguyện của
những người phục vụ Người. Họ là những con người không ồn ào, hiếm khi trở thành
các tiêu đề, nhưng điều rất quan trọng là họ khôi phục niềm tin cho thế giới!

Hãy dạy trẻ em làm dấu Thánh Giá – lời cầu nguyện đầu tiên

Giải thích cho điều vừa nói, Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một nhà lãnh đạo vô
thần. Trong lòng ông không có cảm thức tôn giáo, nhưng ông đã nghe bà của mình cầu
nguyện từ khi còn nhỏ và lời cầu nguyện đó đọng lại trong lòng ông. Rồi trong một thời
điểm khó khăn trong cuộc sống, kỷ niệm đó trở lại trong lòng ông. Ông bắt đầu cầu
nguyện như bà của ông và ông đã tìm gặp được Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nhận
định: Lời cầu nguyện là một chuỗi cuộc sống. Nhiều người cầu nguyện và gieo rắc sự
sống…. Và ngài nhắc nhở: “Dạy cho trẻ em cầu nguyện là điều quan trọng. Tôi thấy đau
lòng khi gặp các trẻ em và bảo ‘con hãy làm dấu Thánh giá’ và các em không biết làm.
Hãy dạy các em làm dấu Thánh giá, đó là lời cầu nguyện đầu tiên. Có thể các em sẽ
quên, sẽ đi theo con đường khác. Nhưng điều đó lưu lại trong lòng các em, bởi vì đó là
hạt giống sự sống, hạt giống đối thoại với Thiên Chúa.

Hành trình của Thiên Chúa trong lịch sử đã đi ngang qua họ: nó đã đi qua một “phần
còn lại” của loài người, những người không khuất phục trước luật lệ của kẻ mạnh nhất,
nhưng cầu xin Thiên Chúa thực hiện các phép lạ của Người, và trên hết là biến đổi trái
tim bằng đá của chúng ta thành trái tim bằng thịt (x. Ed 36,26). Và điều này giúp cho
việc cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện mở lòng ra với Thiên Chúa, biến đổi trái tim cứng cỏi
của chúng ta thành trái tim con người.

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-05/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-cua-nguoi-cong-chinh.html

Bài 5: Lời cầu nguyện của Abraham

Thân chào anh chị em,

Buổi sáng tốt lành,

Có một giọng nói đột nhiên vang lên trong cuộc đời của Abraham. Một giọng nói mời
gọi anh ta thực hiện một cuộc hành trình mà anh ta biết là vô lý: một giọng nói thúc
giục anh ta nhổ bỏ bản thân khỏi quê hương, khỏi cội nguồn gia đình, để hướng tới một
tương lai mới, khác biệt. Và tất cả chỉ dựa trên một lời hứa, trong đó anh ta chỉ cần có
sự tin tưởng. Và để có được sự tin tưởng vào một lời hứa không phải là điều dễ dàng.
Cần có dũng khí. Và Áp-ra-ham đã tin tưởng.

Kinh thánh im lặng trên bước đi của tổ phụ đầu tiên. Logic của sự việc khiến chúng ta
cho rằng ông ấy đã tôn thờ những vị thần khác; có lẽ ông là một người thông thái, quen
quan sát bầu trời và các vì sao. Thật vậy, Chúa đã hứa với ông rằng con cháu của ông
sẽ đông đảo như những vì sao lốm đốm trên bầu trời. Và Abraham lên đường. Ông ta
lắng nghe tiếng nói của Đức Chúa Trời và tin cậy vào lời của Ngài. Điều này rất quan
trọng: anh ta tin cậy Lời Chúa. Và với sự ra đi này của ông ta, một cách hiểu mới về mối
quan hệ với Đức Chúa Trời đã nảy sinh. Chính vì lý do đó mà tổ phụ Abraham hiện diện
trong các truyền thống tâm linh lớn của Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo với tư cách là
người hoàn hảo của Đức Chúa Trời, có khả năng phục tùng Ngài, ngay cả khi ý muốn
của Ngài gian nan, nếu không muốn nói là hoàn toàn không thể hiểu được. Do đó,
Abraham là người của Lời. Khi Đức Chúa Trời phán, con người trở thành người tiếp
nhận Lời đó và sự sống của họ là nơi nó tìm cách trở nên xác thịt. Đây là một điều mới
lạ tuyệt vời trong cuộc hành trình tôn giáo của con người: cuộc sống của một tín đồ bắt
đầu được hiểu như một ơn gọi, như một sự kêu gọi, như một nơi thực hiện một lời hứa;
và anh ấy di chuyển trên thế giới không phải dưới sức nặng của một bí ẩn, nhưng với
sức mạnh của lời hứa đó, một ngày nào đó sẽ được thực hiện. Và Abraham tin lời Chúa
hứa. Anh ta tin và anh ta lên đường mà không biết mình sẽ đi đâu – như vậy là Thư gửi
người Hebrews (xem 11,8). Nhưng ông đã tin tưởng.

Gia-cóp: người biết sử dụng sự tinh ranh để thành công

Sách Sáng thế, thông qua những sự kiện trong cuộc đời của những người sống vào các
thời đại xa xôi, kể cho chúng ta những câu chuyện mà trong đó chúng ta có thể thấy
phản chiếu cuộc sống của chúng ta. Trong loạt truyện về các tổ phụ, chúng ta cũng
thấy chuyện một người đã biến sự tinh ranh thành năng khiếu nổi nhất của mình: đó là
ông Gia-cóp. Câu chuyện Kinh Thánh cho chúng ta biết về mối quan hệ khó khăn giữa
Gia-cóp với anh trai Esau. Ngay từ khi còn nhỏ, giữa họ đã có sự cạnh tranh và sự cạnh
tranh này sẽ không bao giờ được khắc phục. Gia-cóp là em của người anh song sinh
nhưng bằng sự lừa dối, ông đã cướp đi phước lành và món quà của cha mình là Isaac
dành cho người con trưởng (x. St 25,19-34). Đó chỉ là lần đầu tiên trong một loạt nhiều
thủ đoạn mà người thủ đoạn này có khả năng làm. Ngay cả tên gọi “Gia-cóp” có nghĩa
là tính cách của người biết hành động không thẳng thắn, nghĩa là gian xảo khi hành
động.

Thành công nhờ sự tinh ranh khéo léo

Buộc phải chạy trốn anh trai của mình, trong cuộc đời, ông dường như thành công
trong mọi nỗ lực. Ông có kỹ năng kinh doanh: ông trở nên rất giàu có, trở thành chủ sở
hữu của một đàn gia súc thật lớn. Với sự kiên trì và kiên nhẫn, ông có thể kết hôn với cô
con gái xinh đẹp nhất của Laban, người ông thực sự yêu. Gia-cóp – chúng ta sẽ nói với
ngôn ngữ hiện đại – là một người “tự mình xoay sở”, anh ta có thể chinh phục mọi thứ
anh ta muốn bằng tài khéo và sự tinh ranh. Nhưng ông thiếu mối quan hệ sống động
với nguồn cội của mình.

Cuộc vật lộn với Thiên Chúa

Một ngày nọ, ông nghe thấy tiếng gọi của quê nhà, của quê hương xa xưa của mình, nơi
người anh Esau có lẽ vẫn sống, người anh trai mà ông luôn có mối quan hệ rất tồi tệ.
Gia-cóp lên đường và trải qua một hành trình dài với một đoàn người và thú vật đông
đảo, cho đến khi ông đến điểm dừng chân cuối cùng, tại suối Jabbok. Ở đây, sách Sáng
Thế cung cấp cho chúng ta một trang đáng nhớ (x. 32,23-33). Sách nói rằng vị tổ phụ,
sau khi đã đưa tất cả người dân và gia súc của mình băng qua suối, một mình ở lại trên
bờ đất dân ngoại. Và ông nghĩ: điều gì chờ đợi ông vào ngày hôm sau? Anh trai Esau đã
bị ông cướp quyền trưởng nam sẽ có thái độ nào? Tâm trí của Gia-cóp là một cơn lốc
của những suy nghĩ … Và, khi trời tối, đột nhiên một người lạ tóm lấy ông và bắt đầu
chiến đấu với ông. Sách Giáo lý giải thích: “Truyền thống tu đức của Giáo hội đã thấy
trong câu chuyện này biểu tượng của việc cầu nguyện như một cuộc chiến của đức tin
và chiến thắng của sự kiên trì” (GLHTCG, 2573).

Cuộc chiến diện đối diện với Chúa

Ông Gia-cóp đã chiến đấu suốt đêm, không lúc nào buông tay đối thủ. Cuối cùng, ông
đã chiến thắng, bị đối thủ của mình tấn công vào dây thần kinh tọa, và kể từ đó ông bị
khập khiễng suốt đời. Vị đô vật bí ẩn đó hỏi tên vị tổ phụ và nói với ông: “Ông sẽ không
còn được gọi là Gia-cóp, mà là Israel. Ông không còn là người hành động như trước
nhưng thẳng thắn. Ông được đổi tên, thay đổi cuộc đời, thay đổi cách sống. Ông sẽ
được gọi là Israel bởi vì ông đã chiến đấu với Chúa và với con người và ông đã chiến
thắng!” (c. 29). Rồi Gia-cóp cũng hỏi người kia: “Hãy cho tôi biết tên của ngài.” Người
đó không tiết lộ cho ông biết tên, nhưng thay vào đó đã chúc lành cho ông và ông Gia-
cóp nhận ra rằng ông đã gặp Thiên Chúa “diện đối diện” (x. cc. 30-31).

Sau cuộc vật lộn, ông Gia-cóp được biến đổi

Vật lộn với Chúa là một ẩn dụ của việc cầu nguyện. Những lần khác, Gia-cóp đã cho
thấy mình có khả năng đối thoại với Chúa, cảm thấy Chúa hiện diện thân thiện và gần
gũi. Nhưng vào đêm đó, qua một cuộc chiến đấu kéo dài và thấy mình gần như không
chịu nổi, vị tổ phụ đã thay đổi. Đổi tên, đổi cách sống và đổi nhân cách. Ông được biến
đổi. Lần đó ông không còn làm chủ được tình hình – sự tinh ranh của ông không hữu
dụng, ông không còn là chiến lược gia và người biết tính toán nữa, Chúa đưa ông trở lại
với sự thật về con người phàm nhân, run rẩy và sợ hãi. Lần đầu tiên, Gia-cóp không có
gì khác để trình bày với Thiên Chúa hơn là sự yếu đuối và bất lực của mình. Và chính
ông Gia-cóp này đã nhận được phước lành từ Thiên Chúa, và với chúc lành này ông
khập khiễng đi vào miền đất hứa: dễ bị tổn thương và bị tổn thương, nhưng với một trái
tim mới. Có lần kia tôi nghe nói về một ông lão – một người tốt, một Kitô hữu tốt,
nhưng là người tội lỗi! – rất tin tưởng vào Thiên Chúa. Và ông nói: “Thiên Chúa sẽ giúp
tôi; Chúa không để tôi đơn độc. Tôi sẽ vào Thiên đàng, khập khiễng, nhưng tôi sẽ vào.”
Trước đây, ông tự tin, dựa vào sự khôn lanh sắc sảo của mình; ân sủng không thấm
nhập được vào con người ông; ông không cảm nhận lòng thương xót; không biết thế
nào là lòng thương xót. Ông nghĩ: “Tôi ở đây. Tôi ra lệnh” không cần lòng thương xót.
Nhưng Thiên Chúa đã cứu những gì đã mất. Người giúp ông hiểu rằng ông còn giới
hạn, ông là người tội lỗi cần lòng thương xót và Người cứu độ ông.

Cuộc hẹn trong đêm tối cuộc đời với Chúa

Tất cả chúng ta đều có một cuộc hẹn trong đêm với Chúa, trong đêm tối của cuộc đời
chúng ta, trong nhiều đêm của cuộc đời chúng ta: những khoảnh khắc đen tối, những
khoảnh khắc tội lỗi, những khoảnh khắc mất phương hướng … Ở đó, luôn luôn có một
cuộc hẹn với Chúa. Chúa sẽ làm chúng ta ngạc nhiên vào lúc chúng ta không mong đợi
Người, khi chúng ta thấy mình thực sự cô đơn. Cũng trong đêm đó, khi chiến đấu với
người lạ, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chỉ là những người nghèo hèn, nhưng ngay
lúc đó, khi cảm thấy mình nghèo hèn, chúng ta sẽ không phải sợ hãi: bởi vì lúc đó, Chúa
sẽ đặt cho chúng ta một cái tên mới, chứa đựng ý nghĩa của cả cuộc đời chúng ta, nó
sẽ thay đổi trái tim của chúng ta và ban cho chúng ta phước lành dành cho những
người để mình được Chúa biến đổi. Đây là một lời mời tốt đẹp hãy để chúng ta được
Chúa biến đổi. Chúa biết làm điều đó thế nào, bởi vì Người biết mỗi người trong chúng
ta. Mỗi chúng ta đều có thể nói: “Lạy Chúa, Chúa biết con. Lạy Chúa, Chúa biết con. Xin
hãy biến đổi con”.

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-06/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-to-phu-giacop.html

____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Tiếp tục bài giáo lý về sự cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem xét
lời cầu nguyện của Abraham. Trong cuộc đời của “người cha trong đức tin”, chúng ta
thấy một cách mới để liên hệ với Thiên Chúa. Abraham nghe tiếng Thiên Chúa và tin
cậy vào lời và những lời hứa của Ngài. Để tuân theo lời Chúa, Abraham bỏ lại cuộc sống
trước đây của mình để tiến vào hành trình đến bất cứ nơi đâu mà Thiên Chúa dẫn dắt,
thậm chí đến thử thách cuối cùng khi được yêu cầu hy sinh con trai mình, Isaac. Nhờ
sự trung thành như vậy, Abraham trở thành một thành viên trong gia đình của Thiên
Chúa, thậm chí có thể tranh cãi với Ngài, nhưng luôn trung thành. Việc Abraham tuân
theo lời này đánh dấu một bước tiến hoàn toàn mới trong sự phát triển tôn giáo của
con người. Từ nay trở đi, đời sống của các tín hữu được nhìn nhận dưới khía cạnh ơn
gọi, một lời kêu gọi cá nhân để sống cuộc đời của một người để thực hiện những lời
hứa của Thiên Chúa. Sau đó, Thiên Chúa của Abraham trở thành “Thiên Chúa của tôi”,
Chúa của lịch sử của chính tôi, Đấng hướng dẫn các bước đi của tôi và không bao giờ
bỏ rơi tôi. Mong sao chúng ta học được từ gương của Abraham cách cầu nguyện với
đức tin: lắng nghe, hành trình, trò chuyện và thậm chí tranh luận với Thiên Chúa, nhưng
luôn chuẩn bị để đón nhận lời và đem ra thực hành.

Bài 6: Lời cầu nguyện của Gia-cốp

Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Chúng ta hãy tiếp tục với bài giáo lý về chủ đề cầu nguyện. Thông qua sự xuất hiện của
những người đàn ông và phụ nữ từ thời xa xưa, Sách Sáng thế kể cho chúng ta những
câu chuyện mà chúng ta có thể phản ánh cuộc sống của mình. Trong chu kỳ của Tổ
phụ, chúng ta cũng tìm thấy câu chuyện về một người đàn ông đã biến sự khôn ngoan
thành tài năng nhất của mình: Jacob. Lời tường thuật trong Kinh thánh cho chúng ta
biết về mối quan hệ khó khăn mà Gia-cốp có với em trai mình là Ê-sau. Ngay từ khi còn
nhỏ, giữa họ đã tồn tại sự ganh đua mà sau này không bao giờ khắc phục được. Gia-
cốp là con trai thứ hai – họ là anh em sinh đôi – nhưng bằng cách gian dối, ông đã
giành được phước lành và quyền khai sinh của cha họ là Isaac (xem Sáng 25,19-34).
Đây chỉ là hành động đầu tiên trong một chuỗi dài những nỗ lực mà người đàn ông vô
lương tâm này có thể thực hiện được. Ngay cả cái tên “Jacob” cũng có nghĩa là một
người xảo quyệt trong các hành động của mình.

Bị buộc phải chạy trốn khỏi anh trai của mình, anh ta dường như thành công trong mọi
công việc trong cuộc sống của mình. Ông ta rất giỏi kinh doanh: ông ta làm giàu cho
bản thân rất nhiều, trở thành chủ nhân của một đàn chiên khổng lồ. Với sự bền bỉ và
kiên nhẫn, anh ta đã cưới được người con gái xinh đẹp nhất của Laban, người mà anh
ta thực sự yêu. Jacob – như chúng ta thường nói trong thuật ngữ hiện đại – là một
người đàn ông “tự lập”; với sự khéo léo, tinh ranh của mình, anh ta đã có được mọi thứ
mình muốn. Nhưng anh ấy thiếu một thứ gì đó. Anh ta thiếu mối quan hệ sống với cội
nguồn của chính mình.

Và một ngày nọ, anh nghe thấy tiếng gọi của quê hương, quê hương xa xưa của anh, nơi
người anh em Esau của anh, người mà anh luôn có mối quan hệ khủng khiếp, vẫn còn
sống. Jacob lên đường, thực hiện một cuộc hành trình dài với một đoàn lữ hành gồm
nhiều người và động vật, cho đến khi anh đến chặng cuối cùng, dòng suối Jabbok. Ở
đây Sách Sáng thế cung cấp cho chúng ta một trang đáng nhớ (xem 32,23-33). Nó kể
lại rằng sau khi đưa tất cả người của mình và tất cả gia súc – rất nhiều – vượt qua
dòng suối, tộc trưởng vẫn một mình trên bờ sông ngoại quốc. Và anh ấy suy nghĩ: Điều
gì đang chờ đợi anh ấy vào ngày hôm sau? Anh trai Ê-sau, người mà anh ta đã đánh
cắp quyền khai sinh, sẽ có thái độ như thế nào? Tâm trí của Jacob là một vòng xoáy
của những suy nghĩ …. Và, khi trời đang tối dần, một kẻ lạ mặt bất ngờ tóm lấy cậu và
bắt đầu vật lộn với cậu. Sách Giáo lý giải thích: “Từ lời tường thuật này, truyền thống
thiêng liêng của Giáo hội đã giữ lại biểu tượng cầu nguyện như một trận chiến của đức
tin và như chiến thắng của sự kiên trì” (ccc, 2573).

Jacob vật lộn cả đêm, không bao giờ buông tha cho kẻ thù của mình. Cuối cùng anh ta
bị đánh bại, dây thần kinh tọa của anh ta bị đối thủ tấn công, và sau đó anh ta sẽ đi lại
với tư thế khập khiễng trong suốt phần đời còn lại của mình. Đô vật bí ẩn đó hỏi tên tộc
trưởng và nói với ông ta: “Tên ngươi sẽ không còn được gọi là Gia-cốp, mà là Y-sơ-ra-
ên, vì ngươi đã chiến đấu với Thiên Chúa và loài người, và đã thắng thế” (Sáng 32:28).
Như thể muốn nói: bạn sẽ không bao giờ là người đàn ông đi theo hướng này, nhưng
thẳng thắn. Anh ấy thay đổi tên của mình, anh ấy thay đổi cuộc sống của mình, anh ấy
thay đổi thái độ của mình. Bạn sẽ được gọi là Israel. Sau đó, Gia-cốp cũng hỏi người
kia: “Hãy nói cho tôi biết, tôi cầu nguyện, tên của bạn”. Người kia không tiết lộ điều đó
cho anh ta, mà thay vào đó là chúc phúc cho anh ta. Sau đó, Gia-cốp hiểu rằng ông đã
gặp Đức Chúa Trời “mặt đối mặt” (câu 29-30).

Wrestling with God – Vật lộn với Thiên Chúa: một phép ẩn dụ cho lời cầu nguyện. Vào
những thời điểm khác, Gia-cốp cho thấy mình có khả năng đối thoại với Thiên Chúa,
cảm nhận ngài như một sự hiện diện thân thiện và gần gũi. Nhưng đêm đó, qua một
cuộc đấu tranh kéo dài gần như khiến anh không thể khuất phục được, vị tộc trưởng nổi
lên đã thay đổi. Thay đổi tên, thay đổi cách sống và thay đổi tính cách: anh ấy nổi lên
đã thay đổi. Vì một khi anh ta không còn làm chủ được tình hình – sự xảo quyệt của
anh ta không có ích lợi gì – anh ta không còn là một con người mưu lược và tính toán
nữa. Thiên Chúa trả ông về với lẽ thật của Ngài như một người phàm trần run rẩy và sợ
hãi, bởi vì trong cuộc đấu tranh, Gia-cốp đã sợ hãi. Vì một khi Gia-cốp chẳng còn gì
ngoài sự yếu đuối, bất lực, và cả tội lỗi của mình nữa, để trình diện với Thiên Chúa. Và
chính Gia-cốp này là người nhận được phước lành của Thiên Chúa, nhờ đó ông được
đưa vào đất hứa: dễ bị tổn thương và bị thương, nhưng với một trái tim mới. Có lần tôi
nghe một người đàn ông lớn tuổi – một người đàn ông tốt, một Kitô hữu tốt, nhưng là
một tội nhân rất tin tưởng vào Chúa – nói: “Chúa sẽ giúp tôi, sẽ không để tôi một mình.
Tôi sẽ vào Thiên đàng; khập khiễng, nhưng tôi sẽ vào ”. Lúc đầu, Gia-cốp là một người
tự tin; anh tin tưởng vào sự khôn ngoan của mình. Ông là một người không thấm vào
ân sủng, không chống lại lòng thương xót; anh không biết thương xót là gì. “Tôi đây, tôi
chỉ huy!”. Anh không nghĩ rằng anh cần sự thương xót. Nhưng Chúa đã cứu những gì đã
mất. Ngài làm cho anh ta hiểu rằng anh ta có giới hạn, rằng anh ta là một tội nhân cần
được thương xót, và Người đã cứu anh ta.

Tất cả chúng ta đều có một cuộc hẹn với Chúa trong đêm, trong đêm của cuộc đời
chúng ta, trong nhiều đêm của cuộc đời chúng ta: những khoảnh khắc tăm tối, những
khoảnh khắc tội lỗi, những khoảnh khắc mất phương hướng. Luôn luôn có một cuộc
hẹn với Chúa ở đó. Thiên Chúa sẽ làm chúng ta ngạc nhiên ngay lúc mà chúng ta
không mong đợi, khi chúng ta thấy mình thực sự đơn độc. Cũng trong đêm đó, vật lộn
với những điều chưa biết, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chỉ là những người đàn
ông và phụ nữ nghèo – “những thứ nghèo nàn”, tôi dám khẳng định – nhưng ngay lúc
đó, trong khoảnh khắc mà chúng ta cảm thấy mình là “những thứ nghèo nàn”, chúng ta
cần không sợ hãi: bởi vì Thiên Chúa sẽ đặt cho chúng ta một tên mới, chứa đựng ý
nghĩa của toàn bộ cuộc sống của chúng ta; Chúa sẽ thay đổi trái tim của chúng ta và sẽ
ban cho chúng ta phước lành dành riêng cho những ai đã cho phép mình được thay đổi
bởi anh ấy. Đây là một lời mời tuyệt vời để cho phép chúng ta được thay đổi bởi Thiên
Chúa. Thiên Chúa biết cách làm như vậy, bởi vì Chúa biết từng người trong chúng ta.
Mỗi người trong chúng ta có thể nói, “Chúa ơi, Chúa biết con”. “Chúa ơi, Ngài biết tôi.
Thay đổi tôi”.

_______________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem xét lời
cầu nguyện của Gia-cốp. Tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời, Gia-cốp – luôn
thông minh và tự tin – thấy mình đang ở ngã ba đường. Trở về nhà, anh phải đối mặt
với anh trai của mình là Esau, người mà anh đã nhận được phước lành từ cha của họ là
Isaac. Một đêm nọ, một mình và lo sợ cho mạng sống của mình, Gia-cốp gặp Chúa
trong vỏ bọc của một người lạ bí ẩn mà anh đã vật lộn suốt đêm. Truyền thống tâm linh
của Giáo hội coi “chiến đấu với Thiên Chúa” này như một phép ẩn dụ cho lời cầu
nguyện. Cầu nguyện không phải lúc nào cũng dễ dàng; thường nó đòi hỏi chúng ta phải
đấu tranh với Đức Chúa và nhận ra sự yếu đuối và yếu đuối của chúng ta trước Ngài và
ý muốn của Ngài. Tuy nhiên, chính trong cuộc đấu tranh đó và trong sự tổn thương của
chúng ta, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh chữa lành của ân sủng và lớn lên trong
đức tin. Chúng ta hãy cầu nguyện cho món quà luôn được mở ra cho cuộc gặp gỡ này
với Thiên Chúa, cho sự hoán cải của tâm hồn chúng ta, và nhiều ơn lành mà Chúa
muốn đổ trên chúng ta.

Bài 7: Lời cầu nguyện của Môsê


Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Trong hành trình của chúng tôi về chủ đề cầu nguyện, chúng tôi nhận ra rằng Thiên
Chúa không bao giờ thích đối xử với những người cầu nguyện theo cách ‘dễ dàng’. Và
Moses cũng không phải là một người nói chuyện ‘yếu ớt’, ngay từ ngày đầu tiên trong
ơn gọi của mình.

Khi được Thiên Chúa gọi ông, theo nghĩa loài người, Moses là ‘kẻ thất bại’. Sách Xuất
Hành miêu tả anh ta ở vùng đất Midian như một kẻ chạy trốn. Khi còn là một thanh
niên, ông đã cảm thấy thương dân của mình và đã tự đứng ra bảo vệ những người bị áp
bức. Nhưng anh sớm phát hiện ra rằng, mặc dù có mục đích tốt, nhưng đó không phải
là công lý, mà là bạo lực tuôn ra từ tay anh. Vì vậy, giấc mơ vinh quang của ông đã tan
thành mây khói: Môi-se không còn là một quan chức đầy triển vọng, được định sẵn để
thăng tiến nhanh chóng trong sự nghiệp, mà là một người đánh cược cơ hội, và giờ đây
chăn thả một bầy thậm chí không phải của mình. Và chính trong sự im lặng của sa mạc
Midian, Đức Chúa Trời đã triệu tập Môi-se đến để mặc khải về bụi cây đang cháy: “‘ Ta
là Đức Chúa Trời của cha ông, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác,
và Đức Chúa Trời của Gia-cốp ’. Còn ông Môsê thì giấu mặt đi, vì ông sợ nhìn Thiên
Chúa” (Xh 3, 6).

Môsê chống lại Đức Chúa Trời là Đấng đã nói, Đấng mời ông chăm sóc dân Isarel một
lần nữa, với nỗi sợ hãi và sự phản đối của ông: ông không xứng đáng với sứ mệnh đó,
ông không biết danh Chúa, ông sẽ không được dân Israel tin., anh ta có một cái miệng
lắp bắp … bao nhiêu phản đối. Câu nói thường xuyên nhất từ ​môi Môsê, trong mỗi lời
cầu nguyện mà ông nói với Thiên Chúa, là câu hỏi: ‘Tại sao?’ Tại sao ngài sai tôi? Tại
sao bạn muốn giải phóng những người này? Tại sao? Trong Ngũ Kinh, thậm chí còn có
một đoạn kịch tính mà Thiên Chúa khiển trách Môsê về sự thiếu tin cậy của ông, một
sự thiếu hụt sẽ ngăn cản ông vào đất hứa (xem Dân số Ký 20:12).

Với nỗi sợ hãi này, với trái tim thường xuyên dao động này, làm sao Môsê có thể cầu
nguyện? Thật vậy, Môsê xuất hiện con người như chúng ta. Và điều này cũng xảy ra với
chúng ta: khi chúng ta nghi ngờ, làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Chúng ta không
cảm thấy muốn cầu nguyện. Và chính vì điều này, điểm yếu cũng như sức mạnh của
anh ấy, chúng tôi rất ấn tượng. Được Thiên Chúa giao phó để truyền Luật pháp cho dân
Ngài, đấng sáng lập sự thờ phượng thiêng liêng, người trung gian cho những bí ẩn cao
cả nhất, Ngài sẽ không vì lý do này mà ngừng duy trì mối dây liên đới chặt chẽ với dân
Ngài, nhất là trong thời đại đầy cám dỗ và tội lỗi. Ngài luôn gắn bó với người dân của
mình. Môsê không bao giờ quên dân tộc của mình. Và đây là một đặc tính tuyệt vời của
các mục tử: không quên nhân dân, không quên cội nguồn. Đó là lời Phao-lô nói với
Giám mục trẻ Timôthê thân yêu của mình: “Hãy nhớ đến mẹ và bà của bạn, cội nguồn
của bạn, dân tộc của bạn”. Môsê thân thiện với Thiên Chúa đến nỗi ông có thể nói
chuyện trực tiếp với Ngài (x. Xh 33,11); và anh ta sẽ vẫn thân thiện với mọi người đến
nỗi anh ta cảm thấy thương xót cho tội lỗi của họ, cho những cám dỗ của họ, cho nỗi
nhớ bất chợt mà những người lưu vong cảm thấy về quá khứ, nhớ lại khi họ còn ở Ai
Cập.
Môsê không từ chối Thiên Chúa, nhưng cũng không từ chối dân tộc của mình. Ông ấy
trung thành với máu thịt của mình, ông ấy trung thành với tiếng nói của Thiên Chúa. Vì
vậy, Môsê không phải là một nhà lãnh đạo độc đoán và chuyên quyền; Sách Dân Số xác
định ông đúng hơn là “rất nhu mì, hơn tất cả những người ở trên mặt đất” (Dân số ký
12: 3). Bất chấp địa vị đặc ân của mình, Môsê không bao giờ ngừng thuộc vào hàng
ngũ những người nghèo về tinh thần, những người sống bằng cách tin cậy vào Thiên
Chúa như là cánh tay trong cuộc hành trình của họ. Ông ấy là người của dân tộc mình.

Do đó, cách thức cầu nguyện thích hợp nhất đối với Môsê là nhờ sự chuyển cầu (xem
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 2574). Niềm tin của ông ấy vào Chúa hoàn toàn là
một với ý thức về tình phụ tử mà anh ấy cảm thấy đối với dân tộc của mình. Theo thói
quen, Kinh thánh miêu tả ông với đôi tay dang rộng ra về phía Thiên Chúa, như thể cùng
con người của ông tạo nên một chiếc cầu nối giữa trời và đất. Ngay cả trong những
thời khắc khó khăn nhất, ngay cả vào ngày mà dân chúng từ chối Thiên Chúa và chính
Môsê là người lãnh đạo và biến mình thành một con bê vàng, Môsê không cảm thấy có
khuynh hướng gạt dân tộc của mình sang một bên. Họ là người của tôi. Họ là người
của bạn. Họ là người của tôi. Ông ta không từ chối Thiên Chúa cũng như dân tộc của
mình. Và ông nói với Thiên Chúa: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho
mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng
không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” (Xh 32: 31-32). Môsê
không trao đổi dân tộc của mình. Anh ấy là cầu nối; anh ấy là người chuyển cầu. Cả hai
người, con người và Chúa, và anh ấy ở giữa. Ông ấy không bán rẻ con người của mình
để thăng tiến sự nghiệp. Anh ta không leo lên thang; Người là Đấng chuyển cầu: cho
dân tộc, cho máu thịt, cho lịch sử, cho dân tộc và cho Thiên Chúa đã gọi Người. Anh ấy
là cầu nối. Thật là một tấm gương đẹp cho tất cả các mục sư phải là ‘cầu nối’. Đây là lý
do tại sao chúng được gọi là pontifex, những cây cầu. Các mục tử là cầu nối giữa con
người mà họ thuộc về, và Thiên Chúa, người mà họ thuộc về theo ơn gọi. Môsê là thế
này: “Lạy Chúa, xin hãy tha thứ cho tội lỗi của họ, và nếu Chúa không tha thứ, xin xoá sổ
con đã viết cho con. Tôi không muốn thăng tiến bằng cái giá của người của mình ”.

Và đây là lời cầu nguyện mà những tín đồ chân chính trau dồi trong đời sống tâm linh
của mình. Ngay cả khi họ cảm thấy những thiếu sót của con người và sự xa cách của
họ với Đức Chúa Trời, những người cầu nguyện này không lên án họ, họ không từ chối
họ. Thái độ cầu thay thích hợp đối với các thánh đồ, những người noi gương Chúa
Giêsu, là ‘cầu nối’ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Theo nghĩa này, Môsê là nhà tiên tri vĩ
đại đầu tiên của Chúa Giêsu, người bênh vực và cầu thay cho chúng ta (xem Sách Giáo
lý của Giáo hội Công giáo, 2577). Và ngày nay cũng vậy, Chúa Giêsu là vị thần; Ngài là
cầu nối giữa chúng ta và Chúa Cha. Và Chúa Giêsu cầu thay cho chúng ta; Ngài chỉ cho
Cha những vết thương là giá của sự cứu rỗi chúng ta, và Ngài cầu thay. Và Môsê là hình
bóng của Chúa Giêsu, người hôm nay cầu nguyện cho chúng ta, cầu thay cho chúng ta.

Môsê thúc giục chúng ta cầu nguyện với cùng một lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu,
cầu thay cho thế giới, để nhớ rằng dù có bao nhiêu yếu đuối, nó vẫn thuộc về Thiên
Chúa. Mọi người đều thuộc về Chúa. Những tội nhân tồi tệ nhất, những người gian ác
nhất, những nhà lãnh đạo đồi bại nhất, là con cái của Thiên Chúa, và Chúa Giêsu cảm
thấy điều này và cầu thay cho mọi người. Và thế giới đang sống và phát triển nhờ
phước lành của người công chính, nhờ lời cầu nguyện cho lòng thương xót, lời cầu
nguyện cho lòng thương xót này mà các thánh, người công chính, người chuyển cầu,
linh mục, giám mục, Đức Giáo hoàng, giáo dân, bất kỳ người nào đã được rửa tội không
ngừng tăng lên cho nhân loại, ở mọi nơi và thời gian trong lịch sử. Chúng ta hãy nghĩ về
Môsê, người cầu thay. Và khi chúng ta muốn lên án ai đó và bên trong chúng ta trở nên
tức giận – tức giận có thể làm điều tốt, nhưng lên án thì không tốt – chúng ta hãy cầu
bầu cho người đó; điều này sẽ giúp chúng tôi rất nhiều.

Hôm nay là “Ngày lương tâm”, được truyền cảm hứng bởi nhân chứng của nhà ngoại
giao Bồ Đào Nha Aristides de Sousa Mendes, người cách đây khoảng 80 năm đã quyết
định làm theo tiếng nói của lương tâm mình và cứu sống hàng nghìn người Do Thái và
những người bị bức hại khác. Cầu mong tự do lương tâm luôn được tôn trọng và ở mọi
nơi; và mong mọi Kitô hữu nêu gương kiên định với lương tâm ngay thẳng được Lời
Chúa soi sáng.

_________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến:

Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về sự cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem xét lời cầu
nguyện của Môi-sê. Sách Xuất hành miêu tả Môsê – theo quan điểm của con người –
là một kẻ thất bại. Tuy nhiên, tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời, ông gặp Chúa
trong đồng vắng. Từ một bụi cây đang cháy, Chúa kêu gọi Mosê trở về Ai Cập để dẫn
dắt dân tộc của mình đến tự do. Nhưng Môsê, đối mặt với sự uy nghi của Thiên Chúa
toàn năng và những yêu cầu của Ngài, đã từ chối lời kêu gọi, phản đối sự không phù
hợp của mình cho một nhiệm vụ lớn lao như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa giao cho ông
trách nhiệm truyền đạt luật pháp thiêng liêng cho dân Israel, và Môsê trở thành người
cầu thay vĩ đại của họ, đặc biệt khi họ bị cám dỗ hoặc phạm tội. Với đôi tay dang rộng
ra với Thiên Chúa, Môsê tự biến mình thành một chiếc cầu nối giữa đất và trời, cầu xin
mọi người khi họ gặp khó khăn nhất. Bằng cách này, anh ta mô phỏng Chúa Giêsu,
Đấng cầu thay vĩ đại và là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta. Kitô hữu chúng ta cũng
được kêu gọi chia sẻ kiểu cầu nguyện này, cầu thay cho những ai cần sự giúp đỡ của
Đức Chúa Trời và cho sự cứu chuộc của toàn thế giới.

Nguồn:
https://www.vatican.va/content/francesco/en/audiences/2020/documents/papa-
francesco_20200617_udienza-generale.html

Bài 8: Lời cầu nguyện của Đavít

Anh chị em thân mến,

Chào buổi sáng!

Trong hành trình của các bài giảng về sự cầu nguyện, hôm nay chúng ta gặp Vua Đavít.
Được Thiên Chúa ưu ái ngay từ khi còn trẻ, ngài được chọn cho một sứ mệnh duy nhất
đóng vai trò trung tâm trong lịch sử Dân Chúa và đức tin của chính chúng ta. Trong các
sách Phúc âm, Chúa Giêsu được gọi là “con vua Đavít” nhiều lần; trên thực tế, giống
như anh ta, Anh ta sinh ra ở Bethlehem. Theo lời hứa, Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi
Đavít: một vị Vua hoàn toàn theo lòng Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục Đức Chúa Cha,
người có hành động trung thành thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài (xem Sách
Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 2579).

Đa-vít: một mục tử

Câu chuyện của Đavít bắt đầu trên những ngọn đồi xung quanh Bêlem, nơi ông chăm
sóc đàn chiên của cha, ông Giêsê. Đavít vẫn là một cậu bé, người em út của nhiều anh
em. Đến nỗi khi tiên tri Samuel, theo lệnh của Thiên Chúa, lên đường tìm kiếm vị vua
mới, cha của Đavít dường như đã quên mất đứa con trai út đó (x. 1 Sm 16,1-13). Cậu
làm việc ngoài đồng: chúng ta nghĩ anh ấy là một người bạn của gió, của các âm thanh
của thiên nhiên, của những tia nắng mặt trời. Cậu chỉ có một người bạn để an ủi tâm
hồn mình, đó là cây đàn, và trong những ngày dài đơn độc, cậu ta thích chơi đàn và ca
hát ngợi khen Chúa. Cậu cũng thích chơi với cái ná.

Do đó, Đavít trước hết là một mục tử: một người chăm sóc các thú vật, người bảo vệ
chúng khi gặp nguy hiểm, người cung cấp thức ăn nuôi dưỡng chúng. Khi theo ý muốn
của Thiên Chúa, Đavít sẽ phải chăm sóc cho dân Chúa, việc ông làm sẽ không khác
lắm với những điều này. Đó là lý do tại sao hình ảnh người mục tử thường xuất hiện
trong Kinh Thánh. Chính Chúa Giêsu cũng định nghĩa mình là “mục tử tốt lành”, người
hành động khác với những người chăn thuê; Chúa hiến mạng sống mình vì chiên, Người
hướng dẫn họ, biết tên của từng con chiên (x. Ga 10,11-18).

Đa-vít đã học được rất nhiều từ công việc trước đây của mình. Vì vậy, khi Ngôn sứ
Nathan quở trách ông vì tội lỗi rất nặng nề của ông (x. 2 Sm 12,1-15), Đavít hiểu ngay
rằng ông là một mục tử xấu, rằng ông đã cướp lấy con chiên duy nhất, yêu quý của một
người khác, rằng ông không còn là một tôi tớ khiêm nhường, mà là một người điên
cuồng vì quyền lực, một kẻ săn trộm giết người và cướp bóc.

Đa-vít với tâm hồn thi sĩ

Một đặc điểm thứ hai cũng có trong ơn gọi của Đavít là tâm hồn thi sĩ của ông. Từ sự
quan sát đơn sơ này, chúng ta có thể suy luận rằng Đavít không phải là một người đàn
ông thô tục, như thường xảy ra với những người bị buộc phải sống cô lập với xã hội
trong thời gian dài. Ngược lại, ông là một người nhạy cảm, yêu âm nhạc và ca hát.
Chiếc đàn hạc của ông luôn ở bên ông: đôi khi để dâng lên Chúa một bài thánh thi vui
mừng với (x. 2 Sm 6,16), những lần khác để bày tỏ một lời than thở, hoặc thú nhận tội
lỗi của chính mình (x. Tv 51,3).

Chiêm niệm mầu nhiệm cuộc sống

Thế giới xuất hiện trước mắt ông Đavít không phải là một khung cảnh câm lặng: khi
mọi thứ được bày tỏ trước mắt ông, ông nhận thấy một mầu nhiệm lớn hơn. Đó chính là
nơi cầu nguyện phát sinh: từ xác tín rằng cuộc sống không phải là thứ bất ngờ xảy đến
với chúng ta, mà là một mầu nhiệm đáng kinh ngạc truyền cảm hứng cho thơ ca, âm
nhạc, lòng biết ơn, lời khen ngợi, thậm chí là than thở và cầu xin trong chúng ta. Khi một
người thiếu chiều kích thi ca thì tâm hồn người đó bị khập khễnh. Do đó, theo truyền
thống, Đavít là nghệ sĩ vĩ đại trong việc sáng tác các Thánh vịnh. Nhiều Thánh vịnh,
ngay từ đầu đã đề cập rõ ràng đến vị vua của Israel và đến một số sự kiện ít nhiều nổi
bật trong cuộc đời ông.

Do đó, vua Đavít có một giấc mơ: giấc mơ của một mục tử tốt. Đôi khi ông có thể thực
hiện tốt nhiệm vụ đó, đôi khi ít thành công hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong bối
cảnh của lịch sử cứu độ, chính ông là một lời tiên tri về một vị Vua khác, người mà ông
chỉ loan báo và là hình bóng.

Cầu nguyện: trò chuyện với Chúa về mọi điều trong cuộc sống

Chúng ta hãy nhìn ngắm vua Đavít, hãy suy nghĩ về ông. Thánh thiện và tội lỗi, bị bắt bớ
và là người bắt bớ, nạn nhân và kẻ giết người. Đavít là tất cả những điều này. Và trong
cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã ghi lại những sự kiện thường trái ngược nhau;
trong cuộc sống, tất cả mọi người thường phạm tội vì sự không nhất quán. Có một sợi
chỉ đỏ duy nhất chạy suốt cuộc đời vua Đavít, liên kết mọi thứ xảy ra: đó là lời cầu
nguyện của ông. Đó là tiếng nói không bao giờ bị dập tắt. Đavít thánh thiện, cầu
nguyện; Đavít tội lỗi, cầu nguyện; Đavít người bách hại, cầu nguyện; Đavít nạn nhân, cầu
nguyện. Ngay cả Đavít bạo chúa, cầu nguyện. Đây là sợi chỉ đỏ trong cuộc sống của
ông. Một con người cầu nguyện. Đó là tiếng nói không bao giờ tắt: nó là những giai
điệu tưng bừng hay than thở, nó luôn luôn là lời cầu nguyện, chỉ có giai điệu thay đổi.
Khi làm như vậy, vua Đavít dạy chúng ta hãy đưa mọi sự vào cuộc đối thoại với Chúa:
niềm vui cũng như cảm giác tội lỗi, tình yêu cũng như đau khổ, tình bạn cũng như bệnh
tật. Tất cả mọi thứ có thể trở thành một lời thốt ra với “Ngài”, Đấng luôn lắng nghe
chúng ta.

Cầu nguyện đặt chúng ta trong bàn tay Chúa

Vua Đa-vít, người đã biết về sự đơn độc, trong thực tế lại không bao giờ cô đơn! Cuối
cùng, đây là sức mạnh của lời cầu nguyện nơi tất cả những người biết dành chỗ cho
cầu nguyện trong cuộc sống của họ. Cầu nguyện làm cho bạn trở nên cao thượng, và
Đavít cao thượng bởi vì ông cầu nguyện. Nhưng ông là một đao phủ, ông cầu nguyện,
ăn năn và ông trở lại cao quý nhờ lời cầu nguyện. Cầu nguyện cho chúng ta sự cao quý:
nó có khả năng đảm bảo mối quan hệ của họ với Thiên Chúa, là Người Đồng hành thực
sự trên hành trình của mỗi người, giữa muôn ngàn nghịch cảnh của cuộc sống, tốt lành
hay xấu xa: nhưng luôn luôn cầu nguyện. Con cảm ơn Chúa. Con sợ Chúa. Lạy Chúa xin
hãy giúp con! Lạy Chúa, xin tha thứ cho con! Đavít rất tín thác đến nỗi khi bị bắt bớ và
phải chạy trốn, ông đã không để ai bảo vệ mình: “Nếu Chúa của tôi làm nhục tôi như
thế này, Người biết”, bởi vì sự cao quý của cầu nguyện để chúng ta trong tay Chúa. Đôi
tay chịu thương tích của tình yêu, và đôi tay an toàn duy nhất mà chúng ta có.

Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-06/dtc-phanxico-tiep-kien-
chung-cau-nguyen-cau-nguyen-cua-da-vit.html

_________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về sự cầu nguyện, giờ đây chúng
ta xem xét lời cầu nguyện của Đavít. Được Thiên Chúa kêu gọi trở thành Vua của Israel,
Đavít đã được hình thành sâu sắc bởi những kinh nghiệm ban đầu khi làm người chăn
cừu, mà ông sẽ rút ra khi lãnh đạo dân tộc của mình. Chàng trai trẻ Đa-vít cũng là một
người yêu thích âm nhạc và thơ ca, và chính nhờ sự cảm kích trữ tình đối với sự kỳ diệu
của sự sáng tạo của Thiên Chúa mà lời cầu nguyện của Đavít đã được sinh ra. Chúng
ta thấy điều này được phản ánh trong nhiều bài Thi thiên theo truyền thống là do ông
có quyền tác giả. Đavít – với tư cách là mục tử và là vua – mô tả Chúa Giêsu là Mục tử
nhân lành và là Vua vũ trụ, người có mối quan hệ cầu nguyện với Cha trên trời đã duy trì
suốt cuộc đời của ngài. Về phần mình, Đavít vừa là thánh vừa là tội nhân, đầy mâu
thuẫn, nhưng trong ơn gọi lãnh đạo của mình, ông luôn đối thoại cầu nguyện với Thiên
Chúa. Cuộc sống của chúng ta cũng thường bị đánh dấu bởi những lực lượng mâu
thuẫn và những thôi thúc không mạch lạc, nhưng nếu, giống như Đavít, chúng ta kiên trì
cầu nguyện – bất kể ơn gọi của chúng ta và những khó khăn chúng ta có thể gặp phải
– chúng ta sẽ biết đến sự gần gũi của Chúa và có thể chia sẻ. niềm vui này với những
người khác.

Bài 9: Lối cầu nguyện của tiên tri Êlia

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục bài giáo lý của chúng ta về cầu nguyện, loạt bài mà
chúng ta đã gián đoạn để nói về việc chăm sóc sáng thế, và bây giờ chúng ta sẽ tiếp
tục lại; và chúng ta hãy gặp gỡ một trong những nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ
Sách Thánh: tiên tri Êlia. Ngài vượt quá các giới hạn thời ngài, và chúng ta cũng có thể
thấy sự hiện diện của ngài trong một số tình tiết trong Tin Mừng. Ngài đã hiện ra bên
cạnh Chúa Giêsu, cùng với Môsê, vào lúc Chúa Hiển Dung (x. Mt 17:3). Chính Chúa
Giêsu nói đến ngài khi ghi công cho chứng từ của Thánh Gioan Tẩy Giả (x. Mt 17:10-
13).

Trong Kinh thánh, Êlia xuất hiện một cách đột ngột, một cách bí nhiệm, xuất phát từ
một ngôi làng nhỏ hoàn toàn ở bên lề (xem 1 V 17:1); và cuối cùng, ngài rời khỏi hiện
trường, trước mắt môn đệ Êlisa, trên cỗ xe lửa đưa ngài lên trời (xem 2 V 2: 11-12). Vì
vậy, ngài là một người không có nguồn gốc chính xác, và trên hết là không có kết thúc,
được đưa về thiên đàng: vì lý do này, sự trở lại của ngài được mong đợi trước khi Đấng
Mêsia đến, như một tiền hô. Sự trở lại của Êlia đã được chờ đợi cách như thế.

Kinh thánh trình bày Êlia như một người có đức tin trong sáng như phalê: chính tên của
ngài, có thể có nghĩa là “Giêhôva là Thiên Chúa”, chứa đựng bí quyết trong sứ mệnh
của ngài. Ngài sẽ như thế trong suốt phần đời còn lại của ngài: một người chính trực,
không thể có những thỏa hiệp nhỏ nhặt. Biểu tượng của ngài là lửa, hình ảnh quyền
năng thanh tẩy của Thiên Chúa. Ngài sẽ là người đầu tiên bị thử thách, và ngài sẽ mãi
trung thành. Ngài là tấm gương của tất cả những người có đức tin, biết cám dỗ và đau
khổ nhưng không thôi sống theo lý tưởng mà vì nó, họ đã sinh ra.

Cầu nguyện là huyết mạch không ngừng nuôi dưỡng đời ngài. Vì lý do này, ngài là một
trong những người yêu quý nhất đối với truyền thống đơn tu, đến nỗi một số người đã
chọn ngài làm cha thiêng liêng cho cuộc đời hiến dâng cho Thiên Chúa. Êlia là người
của Thiên Chúa, đứng đó như người bảo vệ quyền tối thượng của Đấng Tối Cao. Tuy
nhiên, ngài cũng buộc phải đối đầu với các yếu đuối của chính mình. Thật khó để nói
kinh nghiệm nào hữu ích nhất đối với ngài: sự thất bại của các tiên tri giả trên Núi
Carmel (xem 1 V 18: 20-40), hay sự bối rối của ngài khi ngài thấy mình “không tốt hơn
các tổ tiên [của ngài]”( xem 1 V 19: 4). Trong linh hồn của những người cầu nguyện,
việc cảm thức được sự yếu đuối của bản thân còn quý giá hơn những giây phút vinh
thăng, khi dường như cuộc sống là một chuỗi những chiến thắng và thành công. Điều
này luôn xảy ra trong việc cầu nguyện: những giây phút cầu nguyện mà chúng ta cảm
thấy được nâng lên, thậm chí hứng khởi, và những giây phút cầu nguyện đầy đau đớn,
khô cằn, thử thách. Cầu nguyện là như thế: để chúng ta được Chúa chở đi đâu thì chở,
và cũng để chúng ta bị đánh gục bởi những tình huống khó chịu và thậm chí bị cám dỗ.
Đây là một thực tại tìm thấy trong nhiều ơn gọi khác trong Kinh thánh, ngay cả trong
Tân ước; chẳng hạn, anh chị em hãy nghĩ đến Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Đời sống
của các ngài cũng giống như vậy: những giây phút vui mừng và những lúc tinh thần
xuống thấp, đau khổ.

Êlia là con người của đời sống chiêm niệm và, đồng thời, của đời sống hoạt động, bận
bịu với những biến cố của thời đại mình, có khả năng đụng độ với vua chúa và hoàng
hậu sau khi họ đã giết Nabót để chiếm vườn nho của ông (xem 1V. 21: 1-24). Chúng ta
cần biết bao các tín hữu, các Kitô hữu nhiệt thành, biết hành động, trước những người
có trách nhiệm quản lý, một cách can đảm như Êlia mà nói rằng: “Việc này không được
làm! Đây là tội giết người!”. Chúng ta cần tinh thần của Êlia. Ngài cho chúng ta thấy
không nên có sự phân đôi trong đời sống của những người cầu nguyện: một người
đứng trước mặt Chúa và đi về phía các anh em mà Người đã sai chúng ta đến với họ.
Cầu nguyện không phải là nhốt mình với Chúa để làm cho linh hồn mình trông đẹp đẽ:
không, đấy không phải là cầu nguyện, đấy là cầu nguyện giả. Cầu nguyện là một cuộc
đối đầu với Thiên Chúa và để mình được sai đi để phục vụ anh chị em mình. Bằng
chứng của cầu nguyện là tình yêu thương thực sự người lân cận của mình. Và ngược
lại: các tín hữu hành động trong thế giới sau khi trước nhất đã giữ im lặng và cầu
nguyện; nếu không, hành động của họ chỉ là bốc đồng, thiếu biện phân, vội vàng không
có đích đến. Các tín hữu hành xử cách này, họ gây ra nhiều bất công bởi vì họ đã không
đi cầu nguyện với Chúa trước, để biện phân điều họ phải làm.

Các trang Kinh thánh cho thấy đức tin của Êlia cũng có nhiều tiến bộ: ngài cũng lớn lên
trong lời cầu nguyện, ngài trau chuốt nó từng chút một. Khuôn mặt của Chúa trở thành
tiêu điểm đối với ngài khi ngài bước đi. Ngài đạt đến đỉnh cao trong kinh nghiệm phi
thường này, khi Thiên Chúa bày tỏ chính Người cho Êlia trên núi (xem 1V 19: 9-13).
Người tỏ mình ra không phải trong cơn bão, cũng không phải trong trận động đất hay
ngọn lửa hỏa hào, mà là trong “một âm thanh thì thào nhè nhẹ” (câu 12). Hoặc đúng
hơn, một lối diễn dịch phản ảnh tốt trải nghiệm này: trong sợi dây im lặng mà vang dội.
Đó là cách Thiên Chúa tỏ chính Người cho Êlia. Chính bằng dấu hiệu khiêm nhường này
mà Thiên Chúa đã thông đạt với Êlia, người vào thời điểm đó, đang là một tiên tri chạy
trốn, đánh mất bình an. Chúa đã đến trước để gặp một người mệt mỏi, một người
tưởng rằng mình đã thất bại trên mọi trận tuyến, và với làn gió nhẹ nhàng, với sợi dây im
lặng mà vang dội đó, Người đã mang thanh tĩnh và bình an trở lại trái tim ngài.
Đây là câu chuyện về Êlia, nhưng dường như nó được viết cho tất cả chúng ta. Trong
một số buổi tối nào đó, chúng ta có thể cảm thấy vô dụng và cô đơn. Chính lúc đó việc
cầu nguyện sẽ đến và gõ cửa trái tim chúng ta. Tất cả chúng ta có thể thu thập một góc
chiếc áo choàng của Êlia, giống như môn đệ của ngài là Êlisa đã thu thập một nửa
chiếc áo choàng của ngài. Và dù chúng ta đã làm một điều sai trái, hoặc nếu chúng ta
cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi, khi chúng ta trở lại trước mặt Thiên Chúa với lời cầu
nguyện, sự thanh thản và bình an sẽ trở lại như thể bởi phép lạ. Đó là điều gương sáng
của Êlia chỉ cho chúng ta thấy.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

__________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta tiếp tục loạt bài giáo lý về sự cầu nguyện bằng
cách suy ngẫm về cuộc đời của Tiên Tri Êlia vĩ đại. Trong các sách Kinh Thánh, Êlisa
xuất hiện cùng với Môise trên Núi Carmel, làm chứng cho Chúa Giêsu là sự ứng nghiệm
của các lời tiên tri trong Cựu ước. Trong truyền thống tu viện, Êlia được tôn kính trên
hết như một hình mẫu của sự cầu nguyện và đức tin vững chắc giữa những thử thách.
Sự cầu nguyện và chiêm niệm đã nâng đỡ Vị Tiên Tri không chỉ trong những thời điểm
thành công tốt đẹp mà còn khi đối mặt với nghịch cảnh và bắt bớ. Êlia dạy chúng ta
rằng sự cầu nguyện nhiệt thành và sự kết hợp với Thiên Chúa không thể tách rời khỏi
sự quan tâm đến nhu cầu của người khác. Trong lời cầu nguyện, anh ta lớn lên trong sự
phân biệt ý muốn của Chúa và tìm thấy can đảm để tố cáo sự bất công, ngay cả khi
phải trả giá đắt. Như chúng ta biết, kinh nghiệm của Êlia về Thiên Chúa trong lời cầu
nguyện đã lên đến đỉnh điểm khi Chúa hiện ra với ông không phải trong gió và lửa,
nhưng trong một tiếng thì thầm lặng lẽ. Mong sao chúng ta, giống như Vị Tiên Tri, kiên
trì cầu nguyện, cố gắng nhận biết ý muốn của Thiên Chúa mỗi ngày trong cuộc sống
của chúng ta, và cảm nghiệm được, ngay cả những lúc bất trắc và thử thách, sự an ủi
của sự hiện diện và chăm sóc quan phòng của Ngài.

Bài 10: Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh (1)

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Khi đọc Kinh thánh, chúng ta liên tục bắt gặp những lời cầu nguyện thuộc nhiều loại
khác nhau. Nhưng chúng ta cũng tìm thấy một cuốn sách chỉ gồm những lời cầu
nguyện, một cuốn sách đã trở thành quê hương, phòng tập thể dục và là tổ ấm của vô
vàn người đàn ông và người đàn bà cầu nguyện. Đó là Sách Thánh Vịnh. Có 150 Thánh
Vịnh để cầu nguyện.

Nó tạo thành một phần của các sách khôn ngoan vì nó truyền đạt “cách thức cầu
nguyện” qua kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa. Trong Thánh Vịnh, chúng ta tìm thấy
mọi tình cảm của con người: niềm vui, nỗi buồn, hoài nghi, hy vọng, cay đắng vốn lên
mầu sắc cho cuộc sống của chúng ta. Sách Giáo lý khẳng định rằng mọi Thánh Vịnh
“đều sở hữu sự đơn giản trực tiếp đến mức người mọi thời đại và mọi điều kiện có thể
cầu nguyện trong sự thật” (SGLCGHCG, 2588). Khi đọc đi đọc lại các Thánh vịnh, chúng
ta học được ngôn ngữ cầu nguyện. Quả thật, bằng Thần Khí của Người, Thiên Chúa là
Cha đã linh hứng chúng trong lòng Vua Đavít và những người cầu nguyện khác, để dạy
mọi người nam nữ cách ngợi khen Người, cách cảm tạ và khẩn cầu Người; làm thế nào
để cầu khẩn Người trong vui sướng và trong đau khổ, và làm thế nào để kể lại những
điều kỳ diệu trong công trình và Lề Luật của Người. Tóm lại, Thánh Vịnh là lời của Thiên
Chúa mà người phàm chúng ta dùng để nói với Người.

Trong cuốn sách này, chúng ta không gặp những con người mây gió, những con người
trừu tượng, những con người nhầm lẫn cầu nguyện với một kinh nghiệm thẩm mỹ hoặc
tha hoá. Thánh Vịnh không phải là những bản văn được tạo ra trên giấy; chúng là
những lời khẩn cầu, thường là cảm kích, nẩy sinh từ một hiện sinh sống động. Để cầu
nguyện với chúng, chỉ cần chúng ta là chính chúng ta. Chúng ta đừng quên rằng để cầu
nguyện tốt, chúng ta phải cầu nguyện bằng con người thực của chúng ta, không cần tô
điểm. Người ta không được tô điểm tâm hồn để cầu nguyện. “Lạy Chúa, con là như thế
này”, và hãy đi trước mặt Chúa bằng con người thật của chúng ta, với những điều tốt và
cả những điều xấu mà không ai biết, nhưng chúng ta biết trong lòng. Trong các Thánh
vịnh, chúng ta nghe thấy tiếng nói của những người nam và người nữ cầu nguyện bằng
xương bằng thịt, với cuộc sống, giống như tất cả chúng ta, đầy rẫy những khó khăn,
gian khổ và bất trắc. Tác giả Thánh Vịnh không triệt để thách thức sự đau khổ này: ông
biết rằng nó là một phần của cuộc sống. Tuy nhiên, trong Thánh Vịnh, đau khổ biến
thành một câu hỏi. Từ đau khổ đến nghi vấn.

Và trong số rất nhiều câu hỏi, có một câu vẫn lơ lửng ở đó, giống như một tiếng kêu
không ngừng xuyên suốt cuốn sách từ đầu đến cuối. Một câu hỏi mà chúng ta lặp đi
lặp lại nhiều lần: “Cho đến bao giờ, lạy Chúa? Cho đến khi nào?” Mọi đau khổ đều kêu
gọi sự giải thoát, mọi nước mắt đều kêu gọi sự an ủi, mọi vết thương đều đang đợi
được chữa lành, mọi vu khống đang đợi một phán xử ân giải. “Cho đến bao giờ, lạy
Chúa, con phải chịu đựng điều này? Lạy Chúa, xin lắng nghe con! ” Biết bao lần chúng
ta đã cầu nguyện như thế, với câu “Cho đến khi nào?”, Giờ đây đã đủ rồi, lạy Chúa!

Bằng cách liên tục đặt những câu hỏi như vậy, các Thánh Vịnh dạy chúng ta không nên
quen với nỗi đau, và nhắc nhở chúng ta rằng sự sống không được cứu trừ khi nó được
chữa lành. Sự hiện hữu của mỗi con người chỉ là một hơi thở, câu chuyện đời họ chỉ là
một thoáng qua, nhưng người cầu nguyện biết rằng họ quý giá trong con mắt Thiên
Chúa, và vì vậy thật có lý khi cất tiếng kêu lên. Và điều này là điều quan trọng. Khi cầu
nguyện, chúng ta làm như vậy vì chúng ta biết mình là quý giá trong con mắt Thiên
Chúa. Chính ơn Chúa Thánh Thần, từ bên trong, khơi dậy trong chúng ta ý thức này: trở
nên quý giá trong con mắt Thiên Chúa. Và đây là lý do tại sao chúng ta được khuyến
khích cầu nguyện.

Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh là bằng chứng của tiếng kêu này: một tiếng kêu đa
dạng, bởi vì trong cuộc sống, nỗi đau có muôn hình muôn dạng, và nó mang đủ thứ tên:
bệnh tật, hận thù, chiến tranh, bách hại, ngờ vực… Cho đến “tai tiếng” tối hậu, tức cái
chết. Cái chết xuất hiện trong sách Thánh Vịnh như kẻ thù phi lý nhất của con người: tội
ác nào đáng bị trừng phạt tàn nhẫn như vậy, bao gồm tận diệt và kết liễu? Lời cầu
nguyện của các Thánh Vịnh xin Thiên Chúa can thiệp nơi mọi cố gắng của con người
đều vô ích. Đó là lý do tại sao cầu nguyện, trong và tự nó, là con đường cứu rỗi và là
khởi đầu của ơn cứu rỗi.

Mọi người đều đau khổ trong thế giới này: dù họ tin vào Thiên Chúa hay từ chối Người.
Nhưng trong sách Thánh Vịnh, nỗi đau trở thành một mối liên hệ, một tương quan: một
tiếng kêu cứu chờ bắt được một đôi tai biết lắng nghe. Nó không thể mãi vô nghĩa,
không có mục đích. Ngay cả những nỗi đau chúng ta gánh chịu cũng không thể chỉ là
những trường hợp chuyên biệt của một quy luật phổ quát: chúng luôn là những giọt
nước mắt của “tôi”. Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: nước mắt không phổ quát, chúng
là nước mắt “của tôi”. Mọi người đều có nước mắt của riêng mình. Nước mắt “của tôi”
và nỗi đau “của tôi” thúc đẩy tôi tiến lên trong cầu nguyện. Chúng là những giọt nước
mắt của “tôi”, mà chưa ai từng để rơi trước tôi. Đúng, họ đã khóc, đã khóc rất nhiều.
Nhưng nước mắt “của tôi” là của tôi, nỗi đau “của tôi” là của riêng tôi, đau khổ của “của
tôi” là của riêng tôi.

Trước khi bước vào Đại sảnh này, tôi đã gặp cha mẹ của một linh mục thuộc giáo phận
Como, người đã bị giết: ngài bị giết chính trong lúc phục vụ người khác. Nước mắt của
những bậc cha mẹ đó là nước mắt của riêng họ, và mỗi người trong số họ biết rằng họ
đã đau khổ như thế nào khi nhìn thấy người con trai này đã hy sinh cuộc đời mình để
phục vụ người nghèo. Khi chúng ta muốn an ủi ai đó, chúng ta không thể tìm ra lời. Tại
sao? Vì chúng ta không thể chạm đến nỗi đau của họ, vì nỗi buồn của họ là của riêng
họ, nước mắt của họ là của riêng họ. Điều này cũng đúng đối với chúng ta: những giọt
nước mắt, nỗi buồn, những giọt nước mắt ấy là của tôi, và với những giọt nước mắt ấy,
với nỗi buồn ấy, tôi hướng về Chúa.

Mọi nỗi đau của con người đối với Thiên Chúa đều thánh thiêng. Vì vậy, anh chị em hãy
cầu nguyện lời cầu nguyện của Thánh Vịnh 56: “Bước đường con lận đận, chính Ngài đã
đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con. Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ
sách?” (câu 9). Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không phải là những người xa lạ hay
những con số. Chúng ta là những khuôn mặt, những cõi lòng, được biết từng người
một, từng tên một.

Trong các Thánh Vịnh, tín hữu tìm được câu trả lời. Họ biết rằng ngay cả khi mọi cánh
cửa của con người bị cấm cản, thì cửa của Thiên Chúa luôn luôn mở. Ngay cả khi toàn
thế giới đã ra phán quyết kết án, thì vẫn có sự cứu rỗi nơi Thiên Chúa.

“Chúa lắng nghe”: trong cầu nguyện, đôi khi, biết thế cũng đủ rồi. Các vấn đề không
phải lúc nào cũng được giải quyết. Những người cầu nguyện không có ảo tưởng: họ
biết rằng nhiều câu hỏi của cuộc sống dưới thế này vẫn chưa được giải đáp, không có
lối thoát; đau khổ sẽ đồng hành với chúng ta và, sau một trận chiến, những đau khổ
khác sẽ chờ đợi chúng ta. Nhưng nếu chúng ta được lắng nghe, mọi sự trở nên dễ chịu
hơn.

Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là phải chịu đựng sự bỏ rơi, không được nhớ đến. Lời cầu
nguyện cứu chúng ta khỏi điều này. Vì điều có thể xảy ra, và thậm chí thường xuyên xẩy
ra là chúng ta không hiểu các kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng tiếng kêu của chúng ta
không bị kẹt ở dưới thế này: chúng dâng cao tới Người, Đấng có trái tim của một người
Cha, và chính Người khóc cho mọi con trai và con gái đang đau khổ và chết chóc. Tôi
xin nói với anh chị em một điều: trong những thời khắc khó khăn, thật tốt cho tôi khi
nghĩ rằng Chúa Giêsu đang khóc; Người khóc lúc nhìn Giêrusalem, Người khóc trước
mộ của Ladarô. Thiên Chúa đã khóc cho tôi, Thiên Chúa đang khóc, Người khóc vì nỗi
buồn của chúng ta. Vì, như một nhà văn linh đạo hay nói, Thiên Chúa muốn làm cho
chính Người trở thành con người, để có thể khóc. Nghĩ rằng Chúa Giêsu khóc với tôi
trong những lúc buồn sầu là một niềm an ủi: nó giúp chúng ta tiếp tục tiến bước. Nếu
chúng ta duy trì mối liên hệ của chúng ta với Người, cuộc sống không buông tha đau
khổ cho chúng ta, nhưng chúng ta mở lòng ra chào đón một chân trời tốt lành rộng lớn
và cố gắng vươn tới sự thành toàn của nó. Anh chị em hãy can đảm lên, kiên trì cầu
nguyện. Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

______________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong bài giáo lý tiếp tục về cầu nguyện, giờ đây chúng ta chuyển
sang Thánh Vịnh, có thể được coi là một kho tàng lớn của những lời cầu nguyện. Thánh
Vịnh dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa bằng những lời mà chính Ngài đã ban
cho chúng ta. Ở đó, chúng ta bắt gặp toàn bộ cung bậc cảm xúc của con người, từ khen
ngợi, thỉnh cầu và vui mừng tạ ơn đến khẩn cầu đau khổ mong được giải thoát khỏi
những thất vọng và đau buồn cay đắng trong cuộc sống. Các Thánh Vịnh dạy chúng ta
rằng Thiên Chúa không điếc trước những lời cầu nguyện của chúng ta, đặc biệt là
những lời cầu nguyện phát xuất từ ​một trái tim tan nát và một tâm hồn khó khăn. Tiếng
kêu lặp đi lặp lại của tác giả Thánh Vịnh, “Còn bao lâu nữa, Chúa ơi?”, Bản thân nó là sự
thừa nhận rằng, giữa mọi chặng đường và gian khổ của chúng ta, Chúa vẫn nghe thấy
tiếng nói của chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Là một người Cha nhân từ,
Ngài khóc cho những đau khổ của chúng ta trong thế giới này, nhưng bằng sự khôn
ngoan của mình, Ngài có một kế hoạch cứu rỗi cho mỗi người chúng ta. Do đó, các
Thánh Vịnh là một hướng dẫn để tăng trưởng trong việc thực hành cầu nguyện. Họ mở
rộng tâm hồn chúng ta để đón nhận hy vọng sâu sắc hơn bao giờ hết vào sự chăm sóc
quan phòng của Thiên Chúa; chúng xác nhận sự tin tưởng của chúng ta vào những lời
hứa của Ngài, và chúng truyền cảm hứng cho chúng ta để chúng ta kiên trì trong cuộc
hành trình suốt đời với niềm tin vào lời Ngài.

Bài 11: Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh (2)

Vũ Văn An

Anh chị em thân mến,

chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Hôm nay, chúng ta cần thay đổi một chút cách cuộc yết kiến được tiến hành vì
coronavirus. Anh chị em bị tách biệt, để được bảo vệ bằng khẩu trang, và tôi ở đây, hơi
cách xa một chút và tôi không thể làm những gì tôi luôn luôn làm, là đến gần anh chị
em, vì mỗi khi tôi làm như vậy, tất cả anh chị em tụ lại gần nhau và không duy trì được
khoảng cách, và do đó, có nguy cơ lây nhiễm cho anh chị em. Tôi xin lỗi vì điều này,
nhưng đó là vì sự an toàn của anh chị em. Thay vì đến gần anh chị em và bắt tay chào
anh chị em, chúng ta phải chào nhau từ xa, nhưng anh chị em biết cho rằng tôi ở gần
anh chị em bằng tấm lòng của tôi. Tôi hy vọng anh chị em hiểu tại sao tôi làm điều này.

Ngoài ra, trong khi các người đọc đang đọc đoạn Kinh thánh, tôi thấy một bé trai hay
một bé gái ở đằng kia khóc, và bà mẹ thì ôm ấp và cho em bé bú và tôi nói: đây là
những gì Chúa làm với chúng ta, giống như bà mẹ đó. Với sự dịu dàng xiết bao bà đã
ráng an ủi và cho bé thơ bú. Đó là những hình ảnh đẹp đẽ. Và khi điều đó xảy ra tại một
nhà thờ, khi một bé thơ khóc, người ta biết ở đó, có sự dịu dàng của một bà mẹ, giống
như hôm nay, có sự dịu dàng của một bà mẹ vốn là biểu tượng cho sự dịu dàng của
Thiên Chúa đối với chúng ta. Đừng bao giờ làm một bé thơ đang khóc trong Nhà thờ
phải im lặng, không bao giờ, vì đó là tiếng nói lôi kéo sự dịu dàng của Thiên Chúa. Xin
cảm ơn sự chứng kiến của anh chị em.

Hôm nay chúng ta sẽ hoàn thành loạt bài giáo lý về lối cầu nguyện trong các Thánh
Vịnh. Trước hết, chúng ta thấy thường xuất hiện ra sao một nhân vật tiêu cực trong
Thánh Vịnh, được gọi là người “xấu”, tức người sống như thể Thiên Chúa không hiện
hữu. Đây là người không có bất cứ tham chiếu siêu việt nào, tính cao ngạo của họ
không có giới hạn, họ không sợ phán xét nào về những gì họ nghĩ hoặc làm.

Vì lý do này, Thánh Vịnh trình bày lời cầu nguyện như một thực tại căn bản của đời
sống. Việc nhắc đến thể tuyệt đối và thể siêu việt – mà các bậc thầy linh đạo gọi là “sự
kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa” – và là điều khiến chúng ta trở nên hoàn toàn
nhân bản, là ranh giới cứu chúng ta khỏi chính chúng ta, ngăn chúng ta phiêu lưu vào
cuộc sống một cách như săn mồi và phàm ăn. Cầu nguyện là sự cứu rỗi của con người.

Chắc chắn cũng có lối cầu nguyện sai lầm, lối cầu nguyện được nói lên chỉ để lôi kéo
sự ngưỡng mộ của người khác. Người đó hoặc những người đi dự Thánh lễ chỉ để cho
mọi người thấy họ là người Công Giáo hoặc để khoe những mốt thời trang mới nhất mà
họ mới mua được hoặc để tạo ấn tượng tốt trong xã hội. Họ đang hướng tới lối cầu
nguyện sai lầm. Chúa Giêsu đã hết sức khuyên răn chống lối cầu nguyện như vậy (x. Mt
6: 5-6; Lc 9:14). Nhưng khi tinh thần cầu nguyện đích thực được tiếp nhận một cách
chân thành và đi vào trái tim, thì nó giúp chúng ta chiêm ngưỡng thực tại bằng chính
con mắt của Thiên Chúa.

Khi người ta cầu nguyện, mọi sự đều có được “chiều sâu”. Điều này đáng lưu ý trong
cầu nguyện, có lẽ một điều gì đó tinh tế đã bắt đầu nhưng trong lối cầu nguyện có
chiều sâu, nó trở nên có chất lượng, như thể Chúa nắm lấy nó trong tay và biến đổi nó.
Việc phục vụ tồi tệ nhất mà một người có thể dành cho Thiên Chúa, và cho các người
khác nữa, là cầu nguyện một cách mệt mỏi, thuộc lòng. Cầu nguyện như những con
vẹt. Không, ta phải cầu nguyện bằng trái tim. Cầu nguyện là trung tâm của cuộc sống.
Nếu có cầu nguyện, thì ngay một người anh em, một người chị em, thậm chí một kẻ thù
cũng trở nên quan trọng. Một câu nói xưa của các đan sĩ Kitô giáo tiên khởi viết:
“Phước cho đan sĩ nào coi mọi người như Thiên Chúa, sau Thiên Chúa” (Evagrius
Ponticus, Trattato sulla preghiera, n. 122). Những ai tôn thờ Chúa, thì yêu mến con cái
Người. Những người kính tôn Thiên Chúa, thì tôn trọng con người.
Và vì vậy, cầu nguyện không phải là liều thuốc an thần để xoa dịu những lo lắng trong
cuộc sống; hoặc, dù sao, kiểu cầu nguyện này chắc chắn không phải là của Kitô hữu.
Đúng hơn, cầu nguyện làm cho mỗi chúng ta có tinh thần trách nhiệm. Chúng ta thấy rõ
điều này trong “Kinh Lạy Cha” mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Người.

Để học cách cầu nguyện theo lối này, Sách Thánh vịnh là trường học tuyệt vời. Chúng ta
đã thấy các Thánh vịnh không phải lúc nào cũng sử dụng ngôn ngữ tinh tế và nhẹ
nhàng, và chúng thường đề cập tới các vết thẹo của cuộc hiện sinh. Tuy nhiên, tất cả
những lời cầu nguyện này trước nhất được sử dụng trong Đền thờ Giêrusalem và sau
đó trong các hội đường; thậm chí những hội đường thân thiết và có tính bản thân nhất.
Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo diễn đạt điều đó như thế này: “Nhiều hình thức
cầu nguyện của Sách Thánh Vịnh được thành hình cả trong phụng vụ Đền thờ lẫn trong
tâm hồn con người” (số 2588). Và do đó, lời cầu nguyện bản thân rút tỉa từ và được
nuôi dưỡng trước hết bằng lời cầu nguyện của dân Israel, sau đó là lời cầu nguyện của
Giáo hội.

Ngay cả những bài Thánh vịnh ở ngôi thứ nhất số ít, những thánh vịnh bày tỏ các suy
nghĩ và vấn đề thân thiết nhất của một cá nhân, cũng là di sản tập thể, đến mức được
cầu nguyện bởi mọi người và cho mọi người. Lời cầu nguyện của Kitô hữu có “hơi thở”
này, có “sự căng thẳng” tâm linh này giữ cho đền thờ và thế giới hiện hữu với nhau. Cầu
nguyện có thể bắt đầu trong vùng nửa tối nửa sáng của gian giữa nhà thờ, nhưng sẽ
kết thúc ngoài đường phố thị thành. Và ngược lại, nó có thể nở rộ trong các hoạt động
trong ngày và đạt đến sự viên mãn trong phụng vụ. Cửa nhà thờ không phải là rào cản,
mà là “tấm màng” thấm qua được, sẵn lòng cho phép lời rên rỉ của mọi người lọt qua.

Thế giới luôn hiện diện trong lời cầu nguyện tìm thấy trong Sách Thánh vịnh. Thí dụ, các
bài Thánh vịnh nói về lời hứa cứu rỗi những người yếu đuối nhất của Thiên Chúa:..
“Trước cảnh người nghèo bị áp bức, kẻ khốn cùng rên siết thở than, giờ đây Ta đứng
dậy’, Chúa phán, ‘Ta ban ơn giải thoát cho kẻ mong chờ’” (12: 6). Hoặc một lần nữa,
chúng cảnh báo về sự nguy hiểm của sự giàu có của cải thế gian vì… ” Dù sống trong
danh vọng, con người cũng không hiểu biết gì; thật nó chẳng khác chi con vật một ngày
kia phải chết” (49:21). Hoặc điều này nữa, chúng mở chân trời cho quan điểm của
Thiên Chúa về lịch sử: “Chúa đảo lộn chương trình muôn nước, Người phá tan ý định
chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền vững, ý định của lòng Người vạn kiếp
trường tồn” (33: 10-11).

Tóm lại, ở đâu có Thiên Chúa, thì con người cũng phải ở đó. Sách Thánh rất dứt khoát:
“Chúng ta yêu thương, vì Người đã yêu thương chúng ta trước”. Người luôn đi trước
chúng ta. Người luôn chờ đợi chúng ta vì Người yêu chúng ta trước, Người nhìn chúng
ta trước, Người hiểu chúng ta trước. Người luôn chờ đợi chúng ta. “Nếu ai nói : ‘Tôi yêu
mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy”. Nếu anh chị em lần nhiều chuỗi Mân Côi mỗi ngày nhưng sau đó lại
tán gẫu về người khác, và nuôi dưỡng mối hận trong lòng, nếu anh chị em ghét người
khác, thì việc cầu nguyện ấy thật sự là giả tạo, nó không đúng sự thật. “Đây là điều răn
mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh
em mình” (1 Ga 4: 19-21). Kinh thánh thừa nhận trường hợp của người, mặc dù thành
tâm tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng không bao giờ gặp được Người; nhưng Kinh thánh
cũng khẳng định rằng người ta không bao giờ có thể bác bỏ nước mắt của người nghèo
nếu không sẽ không gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không ủng hộ chủ nghĩa “vô
thần” của những người phủ nhận hình ảnh của Thiên Chúa đã in sâu vào mỗi hữu thể
nhân bản. Chủ nghĩa vô thần thường ngày là thế đó: tôi tin vào Thiên Chúa nhưng tôi
giữ khoảng cách với người khác và tự cho phép mình ghét bỏ người khác. Đó là thuyết
vô thần thực tế. Không nhìn nhận con người như hình ảnh của Thiên Chúa là một sự
phạm thánh, một sự ghê tởm, một xúc phạm nặng nề nhất có thể có đối với đền thờ và
bàn thờ.

Anh chị em thân mến, ước chi các lời cầu nguyện trong Thánh vịnh giúp chúng ta
không rơi vào cơn cám dỗ của “kẻ xấu”, nghĩa là sống, và có lẽ cả cầu nguyện nữa, như
thể Thiên Chúa không hiện hữu, và như thể người nghèo không hiện hữu.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

_________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong phần tiếp tục dạy Giáo lý về cầu nguyện, hôm nay chúng ta
quay lại một lần nữa đến Thánh Vịnh. Trong Thánh Vịnh, lời cầu nguyện dường như cần
thiết cho một cuộc sống tốt đẹp và thực sự của con người, hướng dẫn các bước của
chúng ta theo ý muốn của Thiên Chúa và dạy chúng ta tránh khỏi cạm bẫy của điều ác.
Lời cầu nguyện chân chính giúp chúng ta, ngay cả trong những lúc khốn cùng, có thể
nhìn thấy thực tại bằng đôi mắt của Thiên Chúa và nhìn anh chị em của mình với lòng
trắc ẩn và tôn trọng. Trong Thánh Vịnh, sự cầu nguyện cá nhân và cộng đồng kết hợp
với nhau, và sự ngợi khen Thiên Chúa được kết hợp để quan tâm đến những người
khác, đặc biệt là những người nghèo và những người đang gặp khó khăn. Ngay cả
những Thánh Vịnh dường như cá nhân và riêng tư nhất cũng được cầu nguyện trong
phụng vụ của đền thờ và trong các giáo đường, và sau đó là trong các buổi họp của
cộng đồng Kitô hữu tiên khởi. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng lời cầu nguyện phải bao
trùm mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta trên thế giới này. Đôi khi, lời cầu nguyện
bắt đầu trong nhà thờ của chúng ta nhưng sau đó dẫn chúng ta đến việc phục vụ người
khác trên đường phố của thành phố của chúng ta. Vào những lúc khác, lời cầu nguyện
bắt nguồn từ công việc hàng ngày của chúng ta, và sau đó được hoàn thành trong
phụng vụ của Giáo Hội. Ước gì chúng ta học cách cầu nguyện các Thánh Vịnh một
cách ý thức hơn, để tiếng nói của chúng trở thành tiếng nói của chúng ta, khi chúng ta
tìm cách lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa, tin tưởng vào việc hoàn thành kế
hoạch cứu rỗi của Ngài, và lòng bác ái đối với tất cả anh chị em của chúng ta.

Bài 12: Chúa Giêsu, Con Người Của Cầu Nguyện

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!


Hôm nay, trong buổi yết kiến này, như chúng ta đã làm trong những buổi yết kiến trước,
tôi sẽ đứng ở đây. Tôi muốn xuống dưới và chào thăm từng người trong số anh chị em,
nhưng chúng ta phải giữ khoảng cách, vì nếu tôi đi xuống, thì một đám đông sẽ đến
chào tôi, và điều này trái với các biện pháp và phòng ngừa mà chúng ta phải thực hiện
để đương đầu với “mệnh phụ Covid”, rất có hại cho chúng ta. Vì vậy, xin phép cho tôi
không xuống chào anh chị em: Tôi xin chào anh chị em từ đây nhưng tôi giữ anh chị em
trong lòng, mọi người anh chị em. Còn anh chị em, xin hãy giữ tôi trong lòng, và cầu
nguyện cho tôi. Từ xa, chúng ta có thể cầu nguyện cho nhau… và xin cảm ơn sự thông
cảm của anh chị em.

Trong hành trình dạy giáo lý về cầu nguyện, sau khi lượt qua Cựu Ước, giờ đây chúng ta
đến với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu cầu nguyện. Việc Người khởi đầu sứ vụ công khai
của Người diễn ra với việc Người chịu phép ở sông Giođan. Các tác giả Tin Mừng nhất
trí trong việc gán tầm quan trọng nền tảng cho tình tiết này. Các ngài thuật lại việc mọi
người đến với nhau ra sao trong lời cầu nguyện, và nói rõ rằng cuộc tụ họp này có bản
chất thống hối rõ ràng (xem Mc 1,5; Mt 3, 8). Dân chúng đến gặp Thánh Gioan để chịu
phép rửa, để được tha tội: nó có tính cách thống hối, hoán cải.

Do đó, hành vi công khai đầu tiên của Chúa Giêsu là tham gia vào một buổi cầu nguyện
hợp đoàn của dân chúng, một lời cầu nguyện của những người đến để chịu phép rửa,
một lời cầu nguyện thống hối, trong đó mọi người đều nhận mình là người có tội. Đây là
lý do tại sao Thánh Gioan Tẩy giả muốn chống lại yêu cầu của Chúa Giêsu, ngài nói:
“Tôi cần được chịu phép rửa bởi Ngài, vậy mà Ngài lại đến với tôi sao?” (Mt 3:14).
Thánh Gioan Tẩy Giả hiểu rằng đó là Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định: hành
vi của Người là một hành vi tuân theo ý muốn của Chúa Cha (câu 5), một hành vi liên
đới với thân phận con người của chúng ta. Người cầu nguyện với các tội nhân của Dân
Chúa. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này một cách rõ ràng: Chúa Giêsu là Đấng Công
Chính, Người không phải là tội nhân. Nhưng Người muốn hạ mình xuống với chúng ta,
những kẻ tội lỗi, và Người cầu nguyện với chúng ta, và khi chúng ta cầu nguyện, Người
ở với chúng ta, trong cầu nguyện; Người ở với chúng ta vì Người ở trên trời, hằng cầu
nguyện cho chúng ta. Chúa Giêsu luôn cầu nguyện với dân Người, Người luôn cầu
nguyện với chúng ta: luôn luôn. Chúng ta không bao giờ cầu nguyện một mình, chúng
ta luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu. Người không ở lại phía bên kia sông – “Ta công
chính, các ngươi tội nhân” – để làm nổi bật sự khác biệt và khoảng cách của Người với
những kẻ không vâng lời, nhưng đúng hơn, Người dìm chân Người vào cùng một dòng
nước thanh tẩy. Người hành động như thể Người là một tội nhân. Và đây là sự vĩ đại
của Thiên Chúa, Đấng đã sai Con của Người đến và tự huỷ chính Người, và tỏ ra như
một tội nhân.

Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa cách xa, và Người không thể làm thế. Việc
nhập thể đã mạc khải Người một cách trọn vẹn và con người không thể tưởng tượng
được. Vì vậy, khi bắt đầu sứ mệnh của Người, Chúa Giêsu đã đặt chính Người lên tuyến
đầu của một dân tộc thống hối, như thể Người có trách nhiệm mở ra một lối đi mà tất
cả chúng ta, sau Người, phải can đảm bước qua. Nhưng con đường, cuộc hành trình,
khá khó khăn; tuy thế, Người luôn đi trước, mở đường cho ta. Sách Giáo lý của Giáo Hội
Công Giáo giải thích rằng đây là sự mới mẻ của thời viên mãn. Nó muốn nói: “Lời cầu
nguyện hiếu thảo của Người, lời cầu nguyện mà Chúa Cha vốn chờ đợi từ con cái của
Người, cuối cùng sẽ được Con Một trong nhân tính của Người thực hiện, với và cho loài
người” (số 2599). Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này
một cách rõ ràng trong tâm và trí của chúng ta: Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta.

Vào ngày đó, bên bờ sông Giođan, có toàn nhân tính, với niềm khao khát cầu nguyện
mặc nhiên của nó. Trước hết, có đám dân tội lỗi: những người nghĩ rằng họ không được
Thiên Chúa yêu thương, những người không dám bước qua ngưỡng cửa đền thờ, những
người không cầu nguyện vì họ không coi mình là người xứng đáng. Chúa Giêsu đến vì
mọi người, thậm chí cả vì họ nữa, và Người bắt đầu bằng chính việc tham gia với họ. Ở
tuyến đầu.

Đặc biệt, Tin Mừng Luca nêu bật bầu không khí cầu nguyện trong đó diễn ra phép rửa
của Chúa Giêsu: “Bây giờ khi mọi người đã chịu phép rửa, và khi Chúa Giêsu cũng đã
chịu phép rửa và đang cầu nguyện, thì tầng trời mở ra” (3,21). Bằng cách cầu nguyện,
Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng, và Chúa Thánh Thần ngự xuống từ chỗ mở đó. Và từ
trên cao, một tiếng nói công bố sự thật tuyệt vời: “Con là Con yêu dấu của Cha; với Con,
Cha rất hài lòng ”(c. 22). Cụm từ đơn giản này chứa đựng một kho tàng vô cùng to lớn;
nó giúp chúng ta trực giác được một điều gì đó về thừa tác vụ của Chúa Giêsu và tấm
lòng của Người, luôn hướng về Chúa Cha. Trong cơn lốc cuộc đời và thế gian sẽ đến để
kết án Người, ngay trong những kinh nghiệm khó khăn và đau khổ nhất Người sẽ phải
chịu, ngay khi Người cảm nghiệm Người không có chỗ tựa đầu (x. Mt 8: 20), ngay khi
hận thù và bách hại bùng phát xung quanh Người, Chúa Giêsu vẫn không bao giờ
không có nơi ẩn náu: Người ẩn náu đời đời trong Chúa Cha.

Đây là sự vĩ đại độc đáo trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần chiếm
hữu con người của Người và tiếng nói của Chúa Cha chứng thực rằng Người là Đấng
yêu dấu, là người Con được Người hoàn toàn phản ảnh trong đó.

Lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu, lời cầu nguyện mà bên bờ sông Giođan hoàn toàn
mang tính bản thân – và sẽ như thế trong suốt cuộc sống trần gian của Người – trong
Lễ Ngũ Tuần, sẽ trở thành ơn cầu nguyện cho tất cả những ai đã được rửa tội trong
Chúa Kitô. Chính Người đã nhận được ơn này cho chúng ta, và Người mời gọi chúng ta
cầu nguyện như Người đã cầu nguyện.

Vì vậy, nếu trong một buổi cầu nguyện ban tối, chúng ta cảm thấy uể oải và trống rỗng,
nếu đối với chúng ta cuộc sống đã hoàn toàn vô dụng, thì ngay lúc đó chúng ta phải
cầu xin để lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cũng trở thành lời cầu nguyện của riêng
chúng ta. “Hôm nay tôi không thể cầu nguyện, tôi không biết phải làm gì: Tôi không
cảm thấy thích nó, tôi không xứng đáng… Trong giây phút đó, cầu mong lời cầu nguyện
của bạn với Chúa Giêsu là lời cầu nguyện của tôi”. Và anh chị em hãy phó thác cho
Người, để Người cầu nguyện cho chúng ta. Trong lúc này, Người đang ở trước mặt
Chúa Cha, cầu nguyện cho chúng ta, Người là Đấng chuyển cầu; Người bày tỏ các
thương tích cho Chúa Cha, vì chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng vào điều đó, nó quả
tuyệt vời. Sau đó, chúng ta sẽ nghe, nếu chúng ta biết tín thác, chúng ta sẽ nghe thấy
tiếng nói từ trời, lớn hơn tiếng nói từ sâu thẳm của chúng ta, và chúng ta sẽ nghe thấy
giọng nói này thì thầm những lời dịu dàng: “Con là con yêu dấu của Thiên Chúa, con là
một người con, con là niềm vui của Cha trên trời”. Lời của Chúa Cha vọng lại cho chính
chúng ta, cho mỗi người chúng ta: ngay cả khi chúng ta bị mọi người bác bỏ, coi như
những tội nhân thuộc loại tồi tệ nhất. Chúa Giêsu không xuống nước sông Giođan vì
chính Người, nhưng vì tất cả chúng ta. Chính toàn thể Dân Chúa đã đến sông Giođan
để cầu nguyện, xin ơn tha thứ, lãnh nhận phép rửa đền tội đó. Và như nhà thần học kia
đã nói, họ tới sông Giođan với một “linh hồn trần và đôi chân trần”. Đây là đức khiêm
nhường. Cần có đức khiêm nhường để cầu nguyện. Người đã mở các tầng trời, như
Môsê đã mở nước Biển Đỏ, để tất cả chúng ta có thể đi qua phía sau Người. Chúa
Giêsu đã ban cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Người, đó là cuộc đối thoại yêu
thương của Người với Chúa Cha. Người đã ban nó cho chúng ta như một hạt giống của
Ba Ngôi, hạt giống mà Người muốn bắt rễ trong lòng chúng ta. Chúng ta hãy chào đón
Người! Chúng ta hãy chào đón hồng phúc này, hồng phúc cầu nguyện. Anh chị em hãy
luôn ở bên Người. Và chúng ta sẽ không sai lạc. Cảm ơn anh chị em.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

__________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong phần tiếp tục dạy giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta
hướng về cuộc đời và sự dạy dỗ của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn bắt đầu sứ vụ công
khai của mình bằng cách chịu phép rửa trên sông Giôđan. Điều quan trọng là sự kiện
trọng đại này đã diễn ra giữa một cộng đồng, trong một bầu khí cầu nguyện và thống
hối chung. Bản thân vô tội, Con Thiên Chúa hằng hữu đã được Gioan làm phép rửa như
một dấu hiệu của tình liên đới yêu thương của Người với nhân loại tội lỗi. Thánh Luca
cho chúng ta biết rằng, sau khi Chúa chịu phép rửa, như Chúa Giêsu cầu nguyện, các
tầng trời được mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và tiếng Chúa Cha tuyên
xưng Người là Con yêu dấu của Người. Bằng phép rửa của chính mình, chúng ta trở
thành những người thông phần vào quyền làm con của Đấng Kitô nhờ ân sủng Chúa
Thánh Thần. Do đó, chúng ta được phép chia sẻ trong lời cầu nguyện của chính Chúa
Giêsu, sự thể hiện vĩnh cửu của cuộc đối thoại tình yêu của ngài với Chúa Cha. Trong
mọi thời điểm của cuộc đời chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta cảm thấy sức nặng
của thập tự giá và gánh nặng tội lỗi của mình, xin cho chúng ta kiên trì trong lời cầu
nguyện, tin chắc rằng, với tư cách là anh chị em của Đấng Kitô, những người con yêu
dấu của Cha chúng ta trên trời, cổng thiên đàng luôn rộng mở với chúng ta.

Bài 13: Chúa Giêsu, Thầy dạy cầu nguyện

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Thật không may, chúng ta đã phải quay lại với việc tổ chức buổi yết kiến này trong thư
viện, để tự bảo vệ trước sự lây nhiễm của Covid. Điều này cũng dạy chúng ta: chúng ta
phải hết sức chú ý đến các quy định của các nhà cầm quyền, cả thẩm quyền chính trị
lẫn thẩm quyền y tế, để bảo vệ mình chống lại đại dịch này. Chúng ta hãy dâng lên
Chúa khoảng cách này giữa chúng ta, vì lợi ích của tất cả mọi người, và chúng ta hãy
nghĩ, chúng ta hãy nghĩ nhiều về những người bệnh, về những người đã bị gạt ra bên lề
khi họ phải vào bệnh viện, chúng ta hãy nghĩ đến các bác sĩ, các y tá, các thiện nguyện
viên, nhiều người đang làm việc với người bệnh vào thời điểm này: họ liều mạng sống
nhưng họ làm vậy vì tình yêu đối với người lân cận, như một ơn gọi. Chúng ta hãy cầu
nguyện cho họ.

Trong suốt cuộc đời công khai của Người, Chúa Giêsu không ngừng tận dụng sức
mạnh của lời cầu nguyện. Các sách Tin Mừng cho chúng ta thấy điều này khi Người lui
về những nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Đây là những nhận xét đúng mực và thận trọng,
giúp chúng ta chỉ hình dung những cuộc đối thoại cầu nguyện đó. Tuy nhiên, rõ ràng
chúng chứng tỏ rằng ngay cả những lúc tận tụy hơn trong việc chăm lo cho người
nghèo và người bệnh, Chúa Giêsu vẫn không bao giờ bỏ quên cuộc đối thoại thân mật
của Người với Chúa Cha. Càng đắm mình phục vụ nhu cầu của người ta, Người càng
thấy cần phải dựa vào sự Hiệp thông Ba Ngôi, trở về với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Do đó, có một bí quyết trong cuộc đời của Chúa Giêsu, được che giấu đối với đôi mắt
phàm nhân, một bí quyết vốn làm điểm tựa cho mọi điều khác. Lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu là một thực tại mầu nhiệm, mà chúng ta rất ít trực giác được, nhưng là điều
giúp chúng ta giải thích toàn bộ sứ mệnh của Người theo quan điểm đúng đắn. Trong
những giờ phút tĩnh mịch ấy – trước bình minh hoặc vào ban đêm – Chúa Giêsu đã
đắm mình trong tình thân mật với Chúa Cha, nghĩa là trong Tình Yêu mà mọi linh hồn
đều khao khát. Đây là điều xuất hiện ngay từ những ngày đầu trong sứ vụ công khai
của Người.

Thí dụ, vào một ngày Sabát, thị trấn Caphácnaum đã biến thành một “bệnh viện dã
chiến”: sau khi mặt trời lặn, họ mang tất cả những người bệnh đến với Chúa Giêsu, và
Người chữa lành họ. Tuy nhiên, trước bình minh, Chúa Giêsu biến dạng: Ngài rút lui vào
một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Simon và những người khác đi tìm Người và khi
thấy Người, họ nói: “Mọi người đang tìm kiếm Thầy!” Chúa Giêsu trả lời thế nào? “Chúng
ta hãy đi đến các thị trấn kế bên để thầy cũng có thể giảng dạy ở đó; vì thầy ra đi cốt để
làm việc đó” (xem Mc 1,35-38). Chúa Giêsu luôn đi xa hơn một chút, xa hơn để cầu
nguyện với Chúa Cha, và xa hơn nữa, đến những làng mạc khác, những chân trời khác,
đi và rao giảng cho các dân tộc khác.

Cầu nguyện là bánh lái dẫn đường cho Chúa Giêsu. Không phải thành công, không phải
sự đồng thuận, không phải cụm từ quyến rũ “mọi người đang tìm kiếm thầy”, đã chỉ
định các giai đoạn trong sứ mệnh của Người. Con đường mà Chúa Giêsu vẽ ra là con
đường ít thoải mái nhất, nhưng đó là con đường qua đó Người vâng theo sự linh hứng
của Chúa Cha, sự linh hứng mà Chúa Giêsu đã vâng nghe và nghinh đón trong lời cầu
nguyện thanh tĩnh của Người.

Sách Giáo lý nói rằng “Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã dạy chúng ta cách cầu
nguyện rồi” (số 2607). Do đó, từ gương sáng của Chúa Giêsu, chúng ta có thể rút ra
một số đặc điểm của lời cầu nguyện Kitô giáo.

Đầu tiên và quan trọng nhất, nó có địa vị hàng đầu: đó là ước nguyện đầu tiên trong
ngày, một điều được thực hiện vào lúc bình minh, trước khi thế giới thức giấc. Nó phục
hồi linh hồn trở lại điều mà nếu không có nó sẽ không có hơi sống. Một ngày sống mà
không có lời cầu nguyện có nguy cơ bị biến thành một trải nghiệm khó chịu hoặc tẻ
nhạt: tất cả những gì xảy ra với chúng ta có thể trở thành một số phận tồi tệ và mù
quáng. Thay vào đó, Chúa Giêsu dạy phải tuân theo thực tại và do đó, phải lắng nghe.
Cầu nguyện trước hết là lắng nghe và gặp gỡ Chúa. Nhờ thế, những vấn đề của cuộc
sống hàng ngày không trở thành các trở ngại, nhưng là các lời kêu gọi của chính Thiên
Chúa biết lắng nghe và gặp gỡ những người đang ở trước mặt chúng ta. Vì vậy, những
thử thách trong cuộc sống biến thành cơ hội để trưởng thành trong đức tin và đức ái.
Cuộc hành trình hàng ngày, bao gồm các gian khổ, nhận được viễn ảnh “ơn gọi”. Cầu
nguyện có sức mạnh biến đổi thành tốt đẹp điều, trong cuộc sống, có thể bị lên án; lời
cầu nguyện có sức mở rộng tâm trí đón chào một chân trời rộng lớn.

Thứ hai, cầu nguyện là một nghệ thuật cần được thực hành một cách kiên trì. Chính
Chúa Giêsu nói với chúng ta: hãy gõ, hãy gõ, hãy gõ mãi. Chính Chúa Giêsu nói với
chúng ta: hãy gõ, hãy gõ, hãy gõ mãi. Tất cả chúng ta đều có khả năng cầu nguyện đây
đó, xuất phát từ cảm xúc nhất thời; nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta một kiểu cầu
nguyện khác: kiểu cầu nguyện có kỷ luật, một thao tác, được thực hiện trong quy tắc
sống. Lời cầu nguyện kiên định tạo ra sự biến đổi tiệm tiến, làm chúng ta trở nên mạnh
mẽ trong lúc khổ sầu, mang lại cho chúng ta ơn thánh để được nâng đỡ bởi Đấng yêu
thương chúng ta và luôn bảo vệ chúng ta.

Một đặc điểm khác trong lối cầu nguyện của Chúa Giêsu là sự tĩnh mịch. Những người
cầu nguyện không trốn khỏi thế gian, nhưng thích những nơi vắng vẻ hơn. Ở đó, trong
im lặng, nhiều tiếng nói có thể vang lên từng bị chúng ta che giấu trong sâu thẳm nội
tâm của mình: những khao khát bị đè nén nhất, những sự thật mà chúng ta cố gắng
bóp nghẹt, v.v. Và, trên hết, Thiên Chúa nói trong im lặng. Mọi người cần có một khoảng
không gian riêng để có thể vun xới đời sống nội tâm, trong đó các hành động tìm được
ý nghĩa. Không có đời sống nội tâm, chúng ta trở nên hời hợt, giao động và lo lắng – lo
lắng làm hại chúng ta xiết bao! Đây là lý do tại sao chúng ta phải đi cầu nguyện; không
có đời sống nội tâm, chúng ta chạy trốn thực tại, và chúng ta cũng trốn chạy chính
mình, chúng ta là những người đàn ông và đàn bà luôn chạy hối hả.

Cuối cùng, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là nơi chúng ta tri nhận được rằng mọi điều
đều phát xuất từ Thiên Chúa và trở về với Người. Đôi khi con người chúng ta tin rằng
mình làm chủ mọi sự, hoặc ngược lại, chúng ta mất hết lòng tự trọng, chúng ta đi từ
phía này sang phía khác. Cầu nguyện giúp chúng ta tìm được chiều kích đúng đắn
trong mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, Cha của chúng ta và với mọi tạo vật. Và
lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, cuối cùng, có nghĩa là phó mình trong tay Cha, giống
như Chúa Giêsu trong vườn cây dầu, trong cuộc thống khổ đó: “Lạy Cha, nếu có thể…
xin cho ý Cha được thực hiện”. Phó mình trong tay Chúa Cha. Điều tốt là khi chúng ta bị
giao động, có chút lo lắng, và được Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ bên trong và
dẫn chúng ta tới việc phó thác trong tay Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thực
hiện”.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy khám phá lại Chúa Giêsu Kitô như Thầy dạy cầu
nguyện trong Tin mừng và gia nhập trường dạy của Người. Tôi bảo đảm bảo với anh chị
em rằng chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và bình an.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem xét cách
chính Chúa Giêsu cầu nguyện, vì điều này cho thấy những khía cạnh chính yếu về cách
chúng ta cầu nguyện. Ngay cả khi đắm mình trong việc chăm sóc dân chúng, Chúa Kitô
cũng không bao giờ bỏ qua cuộc đối thoại của Người với Chúa Cha, là điều đã hướng
dẫn tất cả những gì Người làm và giảng dạy. Trong lời cầu nguyện đơn độc, ngài đã
nuôi dưỡng một tình thân mật yêu thương với Cha của mình, một mối thân tình mà
chúng ta cũng khao khát. Từ gương của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rằng lời cầu nguyện
trước hết có nghĩa là lắng nghe và gặp gỡ Thiên Chúa: ước muốn chính của mỗi ngày.
Thứ hai, chúng ta cần kiên trì cầu nguyện để điều đó có thể trở thành một quy luật của
cuộc sống, dần dần biến đổi chúng ta và nhờ ân điển của Thiên Chúa, củng cố và nâng
đỡ chúng ta trong lúc hoạn nạn. Thứ ba, sự đơn độc và thinh lặng là điều cần thiết cho
sự cầu nguyện, không phải để trốn tránh thế gian, mà trái lại, giúp chúng ta mở lòng
mình một cách hữu hiệu hơn trước những nhu cầu của người khác. Cuối cùng, lời cầu
nguyện nhắc nhở chúng ta rằng mọi thứ đều tuỳ thuộc vào Đức Chúa Cha. Điều này
giúp chúng ta khôi phục lại cảm giác thích hợp về mối quan hệ của chúng ta với Thiên
Chúa và với toàn bộ tạo vật. Vậy, chúng ta hãy học từ Chúa Giêsu, bậc thầy của sự cầu
nguyện – người chỉ có thể ban cho chúng ta niềm vui và bình an đích thực.

Bài 14: Cầu nguyện kiên trì

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Chúng ta tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện. Có người nói với tôi: “Đức Thánh Cha nói
quá nhiều về sự cầu nguyện. Điều ấy không cần thiết”. Vâng, nó cần thiết. Vì nếu chúng
ta không cầu nguyện, chúng ta sẽ không có sức mạnh để tiến tới trên đường đời. Cầu
nguyện giống như dưỡng khí của sự sống. Cầu nguyện kéo xuống cho chúng ta sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn dẫn chúng ta về phía trước. Vì lý do này, tôi nói
rất nhiều về việc cầu nguyện.

Chúa Giêsu đã nêu gương về sự cầu nguyện liên tục, kiên trì thực hành nó. Đối thoại
liên tục với Cha của Người, trong im lặng và trong hồi tâm, là điểm tựa trong toàn bộ sứ
mệnh của Người. Các sách Tin Mừng cũng tường thuật những lời huấn dụ của Người
cho các môn đệ, để họ có thể kiên trì cầu nguyện không mệt mỏi. Sách Giáo lý nhắc lại
ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca nhấn mạnh đặc điểm này của lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu (xin xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 2613).

Trước hết, lời cầu nguyện phải kiên trì: giống như người trong dụ ngôn, phải tiếp đón
một người khách bất ngờ vào lúc nửa đêm, đến gõ cửa một người bạn và xin anh ta
một ít bánh. Người bạn trả lời: “Không!”, Vì anh ta đã ở trên giường rồi – nhưng người
bạn nhất quyết và nài nỉ cho đến khi buộc được bạn mình đứng dậy và cho anh ta một
ít bánh mì (xem Lc 11,5-8). Quả là một yêu cầu kiên trì. Nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn
với chúng ta hơn thế, và ai gõ cửa Trái tim Người một cách đầy đức tin và kiên trì sẽ
không thất vọng. Thiên Chúa luôn đáp ứng. Luôn luôn. Cha chúng ta biết rõ chúng ta
cần gì; sự nài nỉ là điều cần thiết không phải để thông tri cho Người hoặc để thuyết
phục Người, nhưng cần thiết để nuôi dưỡng ước muốn và kỳ vọng trong chúng ta.

Dụ ngôn thứ hai là về người đàn bà goá đến gặp quan toà để được giúp đỡ trong việc
đòi công lý. Quan toà này thật thối nát, ông ta là một người không chút áy náy lương
tâm, nhưng cuối cùng, bực tức trước sự nài nỉ của bà goá, ông đã quyết định chiều lòng
bà ta (xem Lc 18,1-8)… Ông ta nghĩ: “Nhưng, tốt hơn nên giải quyết vấn đề này và làm
cho bà ấy khuất khỏi lưng mình để bà ấy không tiếp tục đến làm phiền mình nữa”. Dụ
ngôn này làm chúng ta hiểu rằng đức tin không phải là một sự lựa chọn nhất thời, mà là
một thiên hướng can đảm trong việc kêu cầu Thiên Chúa, thậm chí “tranh luận” với
Người, chứ không cam chịu điều tệ hại và bất công.

Dụ ngôn thứ ba trình bày một người biệt phái và một người thu thuế đến Đền thờ để
cầu nguyện. Nhưng người đầu tiên hướng về Thiên Chúa khoe khoang công trạng của
mình; người kia thì cảm thấy không xứng đáng ngay cả việc bước vào đền thánh. Trong
khi Thiên Chúa không nghe lời cầu nguyện của người đầu tiên, tức là của những người
kiêu căng, thì Người đã chấp nhận lời cầu nguyện của người khiêm nhường (x. Lc 18, 9-
14). Không có lời cầu nguyện chân chính nào nếu không có tinh thần khiêm tốn. Chính
lòng khiêm nhường dẫn chúng ta đến việc cầu nguyện.

Giáo huấn của Tin Mừng rất rõ ràng: chúng ta cần cầu nguyện luôn luôn, ngay cả khi
mọi chuyện xem ra đều vô ích, khi Thiên Chúa dường như câm và điếc và dường như
chúng ta chỉ mất thì giờ. Cho dù bầu trời phủ mây đen, Kitô hữu cũng vẫn không ngưng
cầu nguyện. Lời cầu nguyện của một Kitô hữu luôn vững bước với đức tin của họ. Có
rất nhiều ngày trong cuộc đời chúng ta khi đức tin dường như là một ảo ảnh, một nỗ
lực vô dụng. Có những khoảnh khắc tăm tối trong cuộc đời chúng ta, và trong những
khoảnh khắc đó, đức tin dường như chỉ là ảo ảnh. Nhưng việc thực hành cầu nguyện có
nghĩa là chấp nhận cả nỗ lực này. “Thưa cha, con cầu nguyện nhưng không cảm thấy
gì… Cảm giác như trái tim con khô cằn, trái tim con khô khan”. Nhưng chúng ta phải
tiếp tục cố gắng trong những khoảnh khắc khó khăn, những khoảnh khắc trong đó
chúng ta không cảm thấy gì. Nhiều vị thánh đã trải qua đêm đen của đức tin và sự im
lặng của Thiên Chúa – khi chúng ta biết và Chúa không đáp lại – và những vị thánh này
đã kiên trì.

Trong những đêm đen của đức tin ấy, người cầu nguyện không bao giờ cô độc. Thật
vậy, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân chứng và là người dạy cầu nguyện; Người còn
hơn thế nữa. Người chào đón chúng ta trong lời cầu nguyện của Người để chúng ta có
thể cầu nguyện trong Người và qua Người. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Vì lý
do này, Tin Mừng mời gọi chúng ta nhân danh Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha.
Thánh Gioan cung cấp cho chúng ta những lời lẽ sau đây của Chúa: “Bất cứ điều gì các
con xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm, hầu cho Chúa Cha được vinh hiển trong Chúa
Con” (14,13). Và Sách Giáo Lý giải thích rằng “việc biết chắc các lời thỉnh cầu của
chúng ta sẽ được lắng nghe là dựa trên lời cầu nguyện của Chúa Giêsu” (n. 2614). Nó
đem lại đôi cánh mà lời cầu nguyện của con người luôn mong muốn sở hữu.

Ở đây, làm sao chúng ta có thể không nhớ lại những lời của Thánh vịnh 91, tràn đầy tín
thác, phát xuất từ một tấm lòng hy vọng mọi sự sẽ đến từ Thiên Chúa: “Chúa phù trì
che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn
đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí
hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa” (câu 4-6). Chính trong Chúa
Kitô, lời cầu nguyện tuyệt vời này được hoàn thành, và trong Người, nó tìm thấy sự thật
trọn vẹn của nó. Không có Chúa Giêsu, lời cầu nguyện của chúng ta có nguy cơ bị giản
lược thành nỗ lực của con người, phần lớn sẽ thất bại. Nhưng Người đã tiếp nhận vào
chính Người mọi tiếng kêu, mọi rên rỉ, mọi hân hoan, mọi khẩn cầu… mọi lời cầu nguyện
của con người. Và chúng ta đừng quên rằng Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng
ta; chính Người dẫn chúng ta tới việc cầu nguyện, Người dẫn chúng ta đến với Chúa
Giêsu. Người là hồng phúc mà Chúa Cha và Chúa Con đã ban cho chúng ta để phát huy
cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Và khi chúng ta cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần cầu
nguyện trong tâm hồn chúng ta.

Chúa Kitô là tất cả cho chúng ta, ngay cả trong đời sống cầu nguyện của chúng ta.
Thánh Augustinô đã nói điều này bằng một cách diễn đạt đầy soi sáng mà chúng ta
cũng tìm thấy trong Sách Giáo Lý: Chúa Giêsu “cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là
linh mục của chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là Đầu của chúng ta, và
được chúng ta cầu nguyện với trong tư cách là Thiên Chúa của chúng ta. Vì vậy, chúng
ta hãy nhìn nhận tiếng nói của chúng ta trong Người và tiếng của Người trong chúng ta
”(n. 2616). Đây là lý do tại sao Kitô hữu nào cầu nguyện sẽ không sợ gì cả, họ tín thác
vào Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta như một hồng phúc và là Đấng
cầu nguyện trong chúng ta, thúc đẩy việc cầu nguyện. Xin Chúa Thánh Thần, Thầy cầu
nguyện, dạy chúng ta con đường cầu nguyện.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

_____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong bài giáo lý về cầu nguyện, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu
đã kiên trì cầu nguyện với Cha ngài. Ba dụ ngôn trong Phúc âm Luca nhấn mạnh rằng
chúng ta cũng cần phải thường xuyên cầu nguyện như thế nào. Dụ ngôn đầu tiên, trong
đó một người đàn ông yêu cầu sự giúp đỡ của một người bạn vào lúc nửa đêm và
không bỏ cuộc cho đến khi người bạn của anh ta đáp ứng, dạy chúng ta cần phải cầu
nguyện một cách kiên quyết. Trong dụ ngôn thứ hai, chúng ta thấy ở người đàn bà goá,
người kiên trì yêu cầu thẩm phán bất chính thực thi công bình, tầm quan trọng của lòng
kiên nhẫn. Dụ ngôn thứ ba, về người thu thuế và người Pharisêu khi cầu nguyện trong
Đền thờ, cho thấy Thiên Chúa đáp lại những ai cầu nguyện với lòng khiêm nhường.
Chúng ta thấy ba thái độ này – kiên trì, nhẫn nại và khiêm nhường – được phản ánh nơi
các thánh tông đồ đã kiên trì cầu nguyện qua những khoảnh khắc tăm tối khi Chúa
dường như im lặng hoặc vắng mặt. Xin cho chúng con tiếp tục kiên trì cầu nguyện với ý
thức rằng chúng con không bao giờ cầu nguyện một mình, nhưng với chính Chúa Kitô,
trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như Thánh Augustinô diễn tả một cách cô
đọng: Chúa Giêsu “cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là linh mục của chúng ta,
Người cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là Đầu của chúng ta, và như Thiên Chúa
của chúng ta, Người là Đấng mà chúng ta cầu nguyện” (x. GLCG, 2616).
Bài 15: Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ cầu nguyện

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Trong quá trình dạy giáo lý về cầu nguyện, hôm nay chúng ta gặp gỡ Đức Trinh Nữ
Maria như người phụ nữ cầu nguyện. Đức Mẹ đã cầu nguyện. Khi thế giới vẫn chưa biết
gì về ngài, khi ngài còn là một cô gái đơn sơ đính hôn với một người đàn ông thuộc nhà
Đa-vít, Đức Maria đã cầu nguyện. Chúng ta có thể tưởng tượng cô gái trẻ Nazareth
được bao bọc trong im lặng, liên tục đối thoại với Thiên Chúa, Đấng sẽ sớm giao phó
cho ngài một sứ mệnh. Ngài đã tràn đầy ân sủng và vô nhiễm ngay từ khi được thụ
thai; nhưng ngài chưa biết gì về ơn gọi bất ngờ và phi thường của mình cũng như vùng
biển bão tố mà ngài sẽ phải vượt qua. Điều chắc chắn là: Đức Maria thuộc về đoàn rất
nhiều người có tấm lòng khiêm tốn mà các sử gia chính thức không bao giờ đưa vào
sách của họ, nhưng là người mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho Con của Người xuống
thế.

Đức Maria đã không tự ý tiến hành cuộc sống của mình: ngài chờ đợi Thiên Chúa cầm
cương con đường của ngài và hướng dẫn ngài đến nơi Người muốn. Ngài ngoan ngoãn,
và sẵn sàng chuẩn bị cho những biến cố lớn trong đó Thiên Chúa dự phần vào thế giới.
Sách Giáo lý nhắc đến sự hiện diện thường xuyên và đầy quan tâm của ngài trong thiết
kế đầy nhân từ của Chúa Cha trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu (xin xem Sách Giáo
Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 2617-2618).

Đức Maria đang cầu nguyện thì Tổng lãnh thiên thần Gabriel mang sứ điệp của Thiên
Chúa đến cho ngài ở Nazareth. Suốt trong lịch sử cứu độ, câu thưa “Tôi đây” nhỏ bé
nhưng bao la của ngài, một câu nói làm cho mọi tạo vật nhảy mừng hân hoan vào lúc
đó, đã theo sau nhiều câu “Tôi đây” khác, của nhiều người tin cậy vâng lời, của nhiều
người sẵn sàng mở lòng ra đón nhận thánh ý Thiên Chúa. Không có cách nào tốt để
cầu nguyện hơn là đặt mình vào một thái độ cởi mở, một tấm lòng rộng mở đối với
Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, Chúa muốn khi nào và Chúa muốn ra sao”. Tấm
lòng rộng mở đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thế đó. Và Chúa luôn đáp trả. Có biết bao
tín hữu đã sống việc cầu nguyện của họ như thế! Những ai có tấm lòng khiêm tốn nhất
đều cầu nguyện như thế này: với lòng khiêm nhường từ trong yếu tính, có thể nói như
thế; với lòng khiêm nhường đơn sơ: “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, Chúa muốn khi nào và
Chúa muốn ra sao”. Họ cầu nguyện như vậy và không buồn khi các vấn đề tràn ngập
ngày sống của họ, nhưng họ tiếp tục đối mặt với thực tại và biết rằng trong tình yêu
khiêm nhường, trong tình yêu dâng hiến theo mỗi hoàn cảnh, chúng ta trở thành công
cụ cho ơn thánh của Thiên Chúa. “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, Chúa muốn khi nào và
Chúa muốn ra sao”. Một lời cầu nguyện đơn giản nhưng là lời cầu nguyện trong đó
chúng ta đặt mình trong tay Chúa để Người hướng dẫn chúng ta. Tất cả chúng ta có
thể cầu nguyện như thế, hầu như không cần lời nói.

Cầu nguyện biết cách làm dịu những bồn chồn. Chúng ta bồn chồn, luôn muốn có
những sự vật trước khi yêu cầu được chúng, và chúng ta muốn có ngay. Sự bồn chồn
này làm hại chúng ta. Và việc cầu nguyện biết cách làm dịu sự bồn chồn, biết cách biến
nó thành sự sẵn sàng. Khi chúng ta bồn chồn, tôi cầu nguyện và lời cầu nguyện mở trái
tim tôi ra và khiến tôi cởi mở đón nhận thánh ý Thiên Chúa. Trong những khoảnh khắc
ngắn ngủi của Biến cố Truyền Tin, Đức Trinh Nữ Maria biết cách bác bỏ sự sợ hãi, ngay
cả khi cảm thấy lời “xin vâng” của mình sẽ mang đến cho mình những thử thách vô
cùng khó khăn. Nếu trong việc cầu nguyện, chúng ta hiểu rằng mỗi ngày Thiên Chúa
ban là một lời mời gọi, thì trái tim chúng ta sẽ mở rộng ra và chúng ta sẽ chấp nhận mọi
sự. Chúng ta sẽ học cách nói: “Chúa muốn gì, lạy Chúa. Chỉ cần Chúa hứa với con rằng
Chúa sẽ có mặt trên mỗi bước đường con đi”. Điều này rất quan trọng: cầu xin Chúa
hiện diện trên mọi bước đường ta đi: để Người không bỏ rơi chúng ta một mình, để
Người không bỏ rơi chúng ta trong cơn cám dỗ, để Người không bỏ rơi chúng ta trong
những giờ phút tồi tệ. Kinh Lạy Cha kết thúc thế này: Ơn thánh mà chính Chúa Giêsu đã
dạy chúng ta là cầu xin Chúa.

Đức Maria đã đồng hành suốt cuộc đời của Chúa Giêsu bằng lời cầu nguyện, cho đến
khi Người chết và phục sinh; và cuối cùng, ngài tiếp tục và đã đồng hành với những
bước đi đầu tiên của Giáo Hội sơ khai (xem Cv 1:14). Đức Maria cầu nguyện với các
môn đệ, những người đã chứng kiến tai tiếng thập giá. Ngài đã cầu nguyện cùng với
Thánh Phêrô, người đã sa ngã vì sợ và khóc lóc hối hận. Đức Maria ở đó, với các môn
đệ, giữa những người nam và người nữ mà Con của ngài đã kêu gọi thành lập nên Cộng
đồng của Người. Đức Maria không hành động như một linh mục giữa họ, không! Ngài
là Mẹ của Chúa Giêsu, người đã cầu nguyện với họ, trong cộng đồng, như một thành
viên của cộng đồng. Ngài cầu nguyện với họ và cầu nguyện cho họ. Và, một lần nữa, lời
cầu nguyện của ngài đi trước vào một tương lai sắp được ứng nghiệm: nhờ công trình
của Chúa Thánh Thần, ngài trở thành Mẹ Thiên Chúa, và nhờ công trình của Chúa
Thánh thần, ngài trở thành Mẹ Giáo Hội. Cầu nguyện với Giáo hội sơ khai, ngài trở thành
Mẹ của Giáo hội, đồng hành với các môn đệ trên những bước đầu tiên của Giáo hội
bằng lời cầu nguyện, trông đợi Chúa Thánh Thần. Trong im lặng, luôn luôn âm thầm. Lời
cầu nguyện của Đức Maria là lời cầu nguyện im lặng. Các sách Tin Mừng chỉ kể lại một
trong những lời cầu nguyện của Đức Maria tại Cana, khi ngài cầu xin Con của ngài cho
những người nghèo sắp gây ra ấn tượng kinh khủng trong bữa tiệc. Nào, chúng ta hãy
tưởng tượng xem: có một tiệc cưới và tiệc cưới này sẽ kết thúc bằng sữa vì không còn
rượu! Thật là một ấn tượng! Và ngài đã cầu nguyện và yêu cầu Con trai của ngài giải
quyết vấn đề đó. Trong và từ bản chất, sự hiện diện của Đức Maria là lời cầu nguyện, và
sự hiện diện của ngài giữa các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly, đang trông đợi Chúa Thánh
Thần, cũng là lời cầu nguyện. Như thế, Đức Maria sinh ra Giáo hội, ngài là Mẹ của Giáo
hội. Sách Giáo lý giải thích: “Trong đức tin của nữ tì khiêm nhường của Người, Hồng
phúc của Thiên Chúa”, tức là Chúa Thánh Thần, “đã tìm thấy sự chấp nhận mà Người
hằng mong đợi từ thuở khởi nguyên thời gian” (Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo,
2617).

Nơi Đức Trinh Nữ Maria, trực giác nữ tính tự nhiên được đề cao bởi sự kết hợp độc đáo
nhất của ngài với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Đây là lý do tại sao, khi đọc Tin
Mừng, chúng ta lưu ý điều này đôi khi dường như ngài biến mất, chỉ để xuất hiện trở lại
trong những thời điểm chủ chốt: Đức Maria đã mở lòng đón nhận tiếng nói của Thiên
Chúa vốn hướng dẫn tâm hồn ngài, hướng dẫn ngài từng bước khi sự hiện diện của
ngài được cần đến. Sự hiện diện âm thầm của ngài như một người mẹ và một người
môn đệ. Đức Maria hiện diện vì ngài là Mẹ, nhưng ngài cũng hiện diện vì ngài là môn đệ
đầu tiên, môn đệ đã học được nhiều nhất đường lối của Chúa Giêsu. Đức Maria không
bao giờ nói: “Hãy đến đây, tôi sẽ lo liệu mọi chuyện”. Thay vào đó, ngài nói: “Hãy làm
bất cứ điều gì Người sẽ nói với anh em”, luôn chỉ tay về phía Chúa Giêsu. Tác phong này
là điển hình của người môn đệ, và ngài là môn đệ đầu tiên: ngài cầu nguyện như Mẹ và
ngài cầu nguyện như một môn đệ.

“Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Thánh
sử Luca đã mô tả Mẹ của Chúa trong trình thuật tuổi thơ trong Tin Mừng của ngài như
thế. Mọi sự diễn ra xung quanh ngài đều kết cục được suy đi nghĩ lại trong sâu thẳm
trái tim ngài: những ngày tràn ngập niềm vui, cũng như những khoảnh khắc đen tối nhất
khi ngay cả ngài cũng phải vật lộn mới hiểu được ơn cứu chuộc phải đi qua những nẻo
đường nào. Mọi sự kết thúc trong trái tim ngài để có thể được sàng sẩy trong lời cầu
nguyện và được biến đổi bởi đó: bất kể là những món quà của các đạo sĩ Phương đông,
hay chuyến chạy trốn qua Ai Cập, cho đến ngày thứ Sáu khổ nạn khủng khiếp đó. Người
Mẹ luôn lưu giữ mọi sự và mang nó vào cuộc đối thoại của ngài với Thiên Chúa. Một ai
đó đã so sánh trái tim của Đức Maria với viên ngọc trai sáng láng không gì sánh kịp,
được hình thành và làm mịn bằng việc kiên nhẫn chấp nhận thánh ý Thiên Chúa qua
các mầu nhiệm của Chúa Giêsu được suy gẫm trong lúc cầu nguyện. Đẹp đẽ biết bao
nếu chúng ta cũng giống như Mẹ của chúng ta một chút! Với tấm lòng rộng mở đón
nhận Lời Thiên Chúa, với tấm lòng thầm lặng, tấm lòng vâng phục, tấm lòng biết cách
tiếp nhận Lời Chúa và để nó lớn lên cùng với hạt giống điều tốt cho Giáo Hội.

_____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta xem Đức Mẹ
là người phụ nữ của cầu nguyện và là mẫu mực cho đời sống cầu nguyện của chính
chúng ta. Từ thuở thiếu thời, Mẹ Maria luôn khiêm nhường cầu nguyện, mở lòng đến
bất cứ nơi đâu Chúa có thể dẫn dắt Mẹ. Chúng ta tìm thấy Mẹ khi đang cầu nguyện khi
sứ thần Gabriel thông báo rằng Mẹ là Mẹ của Con Thiên Chúa. Những lời đơn giản của
Maria, “Hãy để việc đó được thực hiện với tôi”, là khuôn mẫu cho mọi lời cầu nguyện,
bao gồm việc tin tưởng cởi mở với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Maria vẫn ở gần Con
của Mẹ trong lời cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng của cuộc đời Người, ngay
cả khi đến chân thập giá. Trong niềm vui phục sinh, Mẹ đã cầu nguyện đồng hành với
Giáo hội mới sinh. Nhờ sự cởi mở của mình với quyền năng của Chúa Thánh Thần, Mẹ
Thiên Chúa đã trở thành Mẹ của Giáo hội. Thánh Luca cho chúng ta biết rằng Đức
Maria “đã quý trọng tất cả những điều này và đã suy ngẫm chúng trong lòng” (Lc 2,19).
Trong sự kết hợp với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, xin cho tâm hồn chúng ta
cũng rộng mở đón nhận ý muốn của Thiên Chúa qua sự suy ngẫm của chính chúng ta
về những mầu nhiệm của cuộc đời và công việc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.

Bài 16: Lời cầu nguyện của Giáo hội sơ khai

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!


Những bước đi đầu tiên của Giáo hội trong thế giới được xen kẽ với lời cầu nguyện. Các
trước tác tông đồ và tường thuật tuyệt vời của Tông đồ Công vụ cho chúng ta hình ảnh
một Giáo hội hoạt động, một Giáo hội đang di chuyển, nhưng là một Giáo Hội, nhờ tụ
họp trong cầu nguyện, đã tìm thấy nền tảng và động lực cho hoạt động truyền giáo.
Hình ảnh của Cộng đồng Giêrusalem thuở ban đầu là điểm qui chiếu của mọi kinh
nghiệm khác của Kitô hữu. Thánh Luca viết trong Sách Công vụ: “Các tín hữu chuyên
cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ
bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (2:42). Quả là một cộng đồng kiên trì trong cầu
nguyện.

Ở đây, chúng ta tìm thấy bốn đặc điểm chủ yếu của đời sống giáo hội: trước hết là lắng
nghe sự dạy dỗ của các tông đồ; thứ hai, bảo vệ sự hiệp thông lẫn nhau; thứ ba, bẻ
bánh; và thứ tư, cầu nguyện. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng sự hiện hữu của Giáo hội
có ý nghĩa nếu biết kết hợp vững chắc với Chúa Kitô, nghĩa là kết hợp trong cộng đồng,
trong Lời của Người, trong Bí tích Thánh Thể và trong việc cầu nguyện – cách chúng ta
hiệp nhất với Chúa Kitô. Việc rao giảng và dạy giáo lý làm chứng cho những lời nói và
hành động của Thầy Chí Thánh; nỗ lực không ngừng tìm kiếm sự hiệp thông huynh đệ
che chở chúng ta khỏi tính ích kỷ và chủ nghĩa cá biệt; việc bẻ bánh làm nên trọn bí tích
Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta. Ngài sẽ không bao giờ vắng mặt – đặc biệt trong
Bí tích Thánh Thể, Người ở đó. Người sống và sánh bước với chúng ta. Và cuối cùng,
cầu nguyện, vốn là nơi đối thoại với Chúa Cha, qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Mọi điều trong Giáo Hội phát triển bên ngoài các “toạ độ” này đều thiếu nền tảng. Để
biện phân một tình huống, chúng ta cần tự hỏi mình về bốn tọa độ này: trong tình
huống này, bốn tọa độ này hiện diện như thế nào – rao giảng, liên tục tìm kiếm tình hiệp
thông huynh đệ, bác ái, bẻ bánh (nghĩa là sinh hoạt Thánh Thể), và cầu nguyện. Bất cứ
tình huống nào cũng cần được đánh giá dưới ánh sáng của bốn toạ độ này. Bất cứ điều
gì không thuộc các tọa độ này đều thiếu tính giáo hội, nó không phải là giáo hội. Chính
Thiên Chúa đã tạo ra Giáo hội, chứ không phải sự ồn ào của các công trình. Giáo hội
không phải là một cái chợ; Giáo hội không phải là một nhóm doanh nhân tiến hành một
công việc kinh doanh mới. Hội Thánh chính là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng
mà Chúa Giêsu đã phái đến để quy tụ chúng ta lại với nhau. Giáo Hội chính là công
trình của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng Kitô hữu, trong đời sống cộng đồng, trong
Bí tích Thánh Thể, trong việc cầu nguyện… luôn luôn. Và mọi điều phát triển ngoài
những tọa độ này đều thiếu nền tảng, giống ngôi nhà xây trên cát (x. Mt 7: 24-27).
Chính Thiên Chúa đã tạo ra Giáo hội, chứ không phải sự ồn ào của các công trình.
Chính lời của Chúa Giê-su đã làm các nỗ lực của chúng ta đầy ý nghĩa. Chính trong đức
khiêm nhường, chúng ta xây dựng tương lai của thế giới. Đôi khi, tôi cảm thấy buồn vô
cùng khi thấy một cộng đồng có thiện chí nhưng lại đi sai đường vì cho rằng Giáo hội
được xây dựng trong các cuộc hội họp, như thể đó là một đảng phái chính trị. “Nhưng,
đa số, thiểu số, họ nghĩ gì về điều này, điều nọ, điều kia… Và đây giống như một Thượng
hội đồng, con đường đồng nghị mà chúng ta phải đi…” Tôi tự hỏi: “Nhưng Chúa Thánh
Thần ở đâu trong đó? Cầu nguyện ở đâu? Tình yêu cộng đồng ở đâu? Thánh Thể ở
đâu?” Nếu không có bốn tọa độ này, Giáo hội sẽ trở thành một xã hội con người, một
đảng chính trị – đa số, thiểu số – các thay đổi được thực hiện như thể đây là một công
ty, theo đa số hay thiểu số… Nhưng Chúa Thánh Thần không ở đó. Và sự hiện diện của
Chúa Thánh Thần được bảo đảm chính bởi bốn tọa độ này. Để đánh giá xem một hoàn
cảnh có phải thuộc giáo hội hay không thuộc giáo hội, chúng ta hãy tự hỏi mình về bốn
tọa độ này: sống trong cộng đồng, cầu nguyện, Thánh Thể… cuộc sống phát triển như
thế nào dọc theo bốn tọa độ này. Nếu thiếu cái này, thì thiếu Chúa Thánh Thần, và nếu
thiếu Chúa Thánh Thần, chúng ta là một tổ chức cao đẹp, nhân đạo, làm nhiều điều tốt,
tốt, tốt… thậm chí một đảng Giáo hội, tạm nói như vậy. Nhưng nó không phải là Giáo
hội. Chính vì lý do này mà Giáo hội không phát triển với những điều này: Giáo hội không
phát triển nhờ chủ nghĩa cải đạo, như bất cứ công ty nào khác, nó phát triển bởi sự thu
hút. Và ai là người khơi gợi sự thu hút? Chúa Thánh Thần. Chúng ta đừng bao giờ quên
lời của Đức Bênêđíctô XVI: “Giáo hội không phát triển nhờ việc cải đạo, giáo hội phát
triển nhờ sự thu hút”. Nếu thiếu Chúa Thánh Thần, Đấng thu hút [người ta] đến với Chúa
Giêsu, thì Giáo hội không ở đó. Có thể có một câu lạc bộ hữu nghị tốt đẹp, tốt, với các ý
hướng tốt, nhưng không phải là Giáo hội, không phải là đồng nghị.

Khi đọc Tông Đồ Công Vụ, chúng ta khám phá ra các buổi họp nhau cầu nguyện có thể
là động lực mạnh mẽ xiết bao cho việc truyền bá Phúc Âm, trong đó, những người
tham gia thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Thánh thần
đánh động. Các thành viên của cộng đồng tiên khởi – mặc dù điều này luôn áp dụng,
ngay cả đối với chúng ta ngày nay – cảm thấy rằng câu truyện về cuộc gặp gỡ với Chúa
Giêsu không dừng lại ở giây phút Thăng Thiên, nhưng vẫn tiếp tục trong cuộc sống của
họ. Khi kể lại những gì Chúa đã nói và đã làm – lắng nghe Lời – khi cầu nguyện để hiệp
thông với Người, mọi sự trở nên sống động. Cầu nguyện truyền ánh sáng và sự ấm áp:
ơn Chúa Thánh Thần thông ban chúng một cách nhiệt thành.

Vì lý do ấy, Sách Giáo lý có chứa một lối diễn đạt rất quan trọng. Nó nói thế này: “Chúa
Thánh Thần… giữ cho ký ức về Chúa Kitô sống động trong Giáo hội của Người lúc cầu
nguyện, cũng dẫn Giáo hội đến sự viên mãn của sự thật, đến toàn bộ sự thật, và linh
hứng các công thức mới để bày tỏ mầu nhiệm khôn lường về việc Chúa Kitô đang hoạt
động trong đời sống Giáo hội của Người, trong các bí tích, và việc truyền giáo”(n. 2625).
Công trình của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh là: làm chúng ta nhớ đến Chúa
Giêsu. Và chính Chúa Giêsu đã nói điều đó: Người sẽ dạy anh chị em và nhắc nhở anh
chị em. Sứ vụ của ta là tưởng nhớ Chúa Giêsu, nhưng không phải là một thực hành giúp
trí nhớ. Các Kitô hữu, khi đang trên đường truyền giáo, nhớ đến Chúa Giêsu trong khi họ
làm cho Người hiện diện một lần nữa; và từ Người, từ Thần Khí của Người, họ nhận
được “sự thúc đẩy” để ra đi, công bố, phục vụ. Trong cầu nguyện, người Kitô hữu đắm
chìm trong mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Đấng yêu thương mỗi người, Đấng
Thiên Chúa luôn mong cho Tin Mừng được rao giảng cho mọi người. Thiên Chúa là
Thiên Chúa cho mọi người, và nơi Chúa Giêsu mọi bức tường ngăn cách đã dứt khoát
bị đạp đổ: như Thánh Phaolô đã nói: Người là bình an của chúng ta, nghĩa là “Người đã
làm cho chúng ta nên một” (Ep 2,14). Chúa Giêsu tạo ra sự hợp nhất, vâng, sự hợp
nhất.

Nhờ cách đó, đời sống của Giáo hội sơ khai có nhịp điệu của một chuỗi liên tiếp các cử
hành, các cuộc triệu tập, các thời gian cầu nguyện cả cộng đồng lẫn bản thân. Và chính
Chúa Thánh Thần đã ban sức mạnh cho những vị thuyết giảng lên đường, và những
người, vì tình yêu Chúa Giêsu, đã ra khơi, đối đầu với nguy hiểm, chịu sỉ nhục.

Thiên Chúa ban tình yêu, Thiên Chúa đòi hỏi tình yêu. Đây là gốc rễ huyền nhiệm trong
toàn bộ cuộc đời của tín hữu. Trong cầu nguyện, các Kitô hữu đầu tiên – và cả chúng
ta, những người đến sau nhiều thế kỷ – tất cả chúng ta đều sống cùng một kinh
nghiệm. Chúa Thánh Thần linh hứng mọi điều. Và tất cả những Kitô hữu nào không sợ
dành thì giờ để cầu nguyện có thể lấy làm của mình lời lẽ của Thánh Tông đồ Phao-lô,
người đã nói thế này: “Đời sống tôi hiện đang sống trong xác thịt, tôi sống bởi đức tin
nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã hiến mình vì tôi ”(Gl 2:20). Cầu
nguyện làm cho anh chị em ý thức được điều ấy. Chỉ trong sự im lặng thờ lạy, chúng ta
mới cảm nghiệm được toàn bộ sự thật của những lời này. Và chúng ta phải lấy lại cảm
thức thờ lạy này. Thờ lạy, thờ lạy Thiên Chúa, thờ lạy Chúa Giêsu, thờ lạy Chúa Thánh
Thần. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: tôn thờ. Trong im lặng. Cầu nguyện
thờ lạy là lối cầu nguyện làm chúng ta nhận biết Thiên Chúa như là khởi đầu và tận
cùng của toàn bộ Lịch sử. Và lối cầu nguyện này là ngọn lửa sống động của Chúa
Thánh Thần ban sức mạnh để chúng ta làm chứng và truyền giáo. Cảm ơn anh chị em.

Nguồn: vietcatholicnews.org

_______________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta suy ngẫm
về việc cầu nguyện liên tục là động lực thúc đẩy hoạt động truyền giáo của các Kitô
hữu đầu tiên như thế nào. Thánh Luca nói với chúng ta rằng họ “tận tuỵ với sự giảng
dạy và thông công của các tông đồ, cho việc bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42). Ngày
nay, đời sống của Giáo hội cũng tập trung vào sự cầu nguyện, điều này liên kết chúng ta
với Đấng Kitô, và truyền cảm hứng cho chúng ta chứng tá của Tin Mừng và sự phục vụ
bác ái của chúng ta cho những người đang cần. Trong lời cầu nguyện, chúng ta cảm
nghiệm được cuộc đời của Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng, với quyền năng của Thần Khí,
tiếp tục hiện diện với thế giới của chúng ta, đặc biệt trong giáo huấn và các bí tích của
Giáo hội, và nỗ lực của chúng ta để thúc đẩy vương quốc hoà giải, công lý và hoà bình
của Người. Sách Giáo Lý dạy rằng Chúa Thánh Thần “giữ cho ký ức về Chúa Kitô luôn
sống động trong Giáo hội của Người” (n. 2625), và ban cho tất cả những người truyền
giáo lòng can đảm và niềm tin tưởng, những người cũng phải đối mặt với những cuộc
hành trình gian khổ, nguy hiểm và bắt bớ vì lợi ích của Tin Mừng. Giống như những tín
đồ theo con đường Chúa Ki-tô ban đầu, qua việc trau dồi kinh nguyện cá nhân và cộng
đồng, chúng ta có thể học được cách kết hợp chặt chẽ hơn nữa với Thiên Chúa Ba Ngôi
của tình yêu, và mang tình yêu thương đó đến với thế giới chung quanh.

Bài 17: Chúc lành

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Hôm nay chúng ta sẽ suy gẫm về một chiều kích thiết yếu của việc cầu nguyện: chúc
lành. Chúng ta sẽ tiếp tục các suy tư về cầu nguyện. Trong các trình thuật tạo dựng
(xem St 1-2), Thiên Chúa liên tục chúc lành cho sự sống, luôn luôn. Người chúc lành
cho các loài động vật (St 1,22), Người chúc lành cho người nam và người nữ (St 1,28),
cuối cùng, Người chúc lành cho ngày Sa-bát, ngày nghỉ ngơi và vui hưởng mọi tạo vật
(St 2,3). Chính Thiên Chúa chúc lành. Ngay những trang đầu tiên của Kinh thánh, đã có
việc liên tục lặp lại các việc chúc lành.

Thiên Chúa chúc lành, nhưng con người cũng chúc lành, và chẳng bao lâu họ phát hiện
ra rằng chúc lành sở hữu một sức mạnh đặc biệt đi kèm người nhận được nó suốt cuộc
đời họ, và điều hướng trái tim người đó để Thiên Chúa có thể thay đổi nó (xem Công
đồng Vatican II Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 61).

Do đó, vào buổi khởi đầu của thế giới, đã có một Thiên Chúa “nói tốt”1 , Đấng chúc
lành. Người thấy mọi công việc bởi tay Người đều tốt và đẹp, và khi tạo dựng con
người, và việc tạo dựng hoàn tất, Người công nhận con người “rất tốt” (St 1,31). Ngay
sau đó, vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã ghi dấu trong công việc của Người đã bị thay đổi, và
con người đã trở thành một tạo vật thoái hoá, có khả năng gieo rắc điều ác và sự chết
trên thế giới; nhưng không điều gì có thể làm mất đi dấu ấn nguyên thuỷ của Thiên
Chúa về sự tốt lành mà Thiên Chúa đã đặt trên thế giới, trong bản tính con người, trong
tất cả chúng ta: khả năng chúc lành và được chúc lành. Thiên Chúa đã không phạm sai
lầm với việc tạo dựng cũng như với việc tạo ra con người. Niềm hy vọng của thế giới
hoàn toàn nằm trong việc chúc lành của Thiên Chúa: Người tiếp tục mong muốn điều
tốt đẹp cho chúng ta2, như nhà thơ Péguy đã nói3, Người là người đầu tiên tiếp tục hy
vọng điều tốt đẹp của chúng ta.

Phúc lành lớn nhất của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô; Con của Người là phúc lành vĩ
đại nhất của Thiên Chúa. Người là phúc lành cho toàn thể nhân loại, Người là phúc lành
cứu rỗi tất cả chúng ta. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu mà với Lời này, Chúa Cha đã chúc
lành cho chúng ta “khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5,8), Thánh Phaolô nói: Ngôi Lời
đã hóa thành xác phàm và hiến mình cho chúng ta trên thập giá.

Thánh Phaolô công bố kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa một cách cảm động. Và
ngài nói như thế này: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn
phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của
Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng
cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,3-6). Không có tội lỗi nào có thể xoá bỏ hoàn
toàn hình ảnh Chúa Kitô đang hiện diện trong mỗi người chúng ta. Không tội lỗi nào có
thể xoá bỏ hình ảnh mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta – hình ảnh Chúa Kitô. Tội lỗi
có thể làm biến dạng nó, nhưng không thể loại nó khỏi lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tội nhân có thể phạm lỗi trong một thời gian dài, nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn đến
cùng, hy vọng rằng trái tim của tội nhân cuối cùng sẽ mở ra và thay đổi. Thiên Chúa
giống như một người cha tốt, Người là một người Cha, và giống như một người mẹ tốt,
Người cũng là một người mẹ tốt: không bao giờ ngừng yêu thương con cái mình, cho
dù chúng có làm điều gì sai đi chăng nữa. Điều tôi nghĩ đến là đã bao lần tôi thấy người
ta xếp hàng dài để đi vào nhà tù, bao nhiêu bà mẹ xếp hàng để nhìn đứa con bị giam
cầm. Các bà không ngừng yêu thương đứa con của mình và họ biết rằng những người
đi qua trên xe buýt có thể nghĩ: “À, đó là mẹ của một tù nhân…”. Họ không xấu hổ về
điều này. Đúng, họ có xấu hổ nhưng họ vẫn tiếp tục. Cũng như đứa con của họ quan
trọng hơn sự xấu hổ của họ thế nào, thì chúng ta cũng quan trọng đối với Thiên Chúa
hơn tất cả những tội lỗi mà chúng ta có thể phạm phải như thế. Vì Người là Cha, Người
là Mẹ, Người là tình yêu tinh trong, Người đã chúc lành cho chúng ta mãi mãi. Và Người
sẽ không bao giờ ngưng chúc lành cho chúng ta.

Thật là một trải nghiệm gây ấn tượng khi đọc những bản văn Kinh thánh về việc chúc
lành trong nhà tù, hoặc trong một nhóm phục hồi. Để những người này nghe biết rằng
họ vẫn được chúc lành, bất chấp những lỗi lầm nghiêm trọng của họ, rằng Cha trên trời
tiếp tục mong muốn điều tốt lành của họ và hy vọng rằng cuối cùng họ sẽ mở lòng để
đón nhận điều tốt đẹp. Cho dù những người thân nhất của họ đã bỏ rơi họ – nhiều
người bỏ rơi họ, họ không giống như những người mẹ chờ đợi suốt đời để được nhìn
thấy họ, họ không quan trọng, người ta bỏ rơi họ – người ta bỏ rơi họ vì kể từ bây giờ
người ta đánh giá họ là không thể cứu vãn, nhưng họ luôn là con cái đối với Thiên
Chúa. Thiên Chúa không thể xoá bỏ trong chúng ta hình ảnh những người con trai và
những người con gái, mỗi chúng ta đều là con trai của Người, là con gái của Người. Đôi
khi chúng ta thấy phép lạ xảy ra: những người nam và người nữ được tái sinh vì họ tìm
thấy phúc lành này, phúc lành đã tấn phong họ thành con cái. Vì ơn thánh của Thiên
Chúa thay đổi các đời sống: chúng ta có thế nào, Người nhận chúng ta như vậy, nhưng
Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong con người hiện thực của chúng ta.

Chẳng hạn, chúng ta hãy nghĩ tới điều Chúa Giêsu đã làm với ông Dakêu (xem Lc 19,1-
10). Mọi người đều nhìn thấy sự xấu xa nơi ông; thay vào đó, Chúa Giêsu nhận rõ một
tia sáng tốt lành, và từ sự tốt lành này – từ sự tò mò muốn nhìn thấy Chúa Giêsu này –
Người đã để lòng thương xót cứu rỗi tuôn qua. Vì vậy, đầu tiên trái tim của Dakêu thay
đổi, và sau đó là cuộc đời của ông. Chúa Giêsu nhìn thấy phúc lành không thể xoá nhoà
của Chúa Cha trong những người bị bác bỏ và xua đuổi. Ông là một tội nhân công khai,
Ông đã làm rất nhiều điều khủng khiếp, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy dấu hiệu không
thể xóa nhòa đó là phúc lành của Chúa Cha và vì điều đó, Người có lòng cảm thương.
Cụm từ được lặp đi lặp lại thường xuyên trong Tin Mừng, “Người động lòng thương”, và
lòng thương này dẫn Người đến việc giúp đỡ và thay đổi tấm lòng của ông. Hơn nữa,
Chúa Giêsu còn tiến đến chỗ đồng hoá chính Người với mọi người đang gặp khó khăn
(xem Mt 25,31-46). Trong đoạn nói về qui thức cuối cùng mà tất cả chúng ta sẽ bị phán
xét, Mátthêu 25, Chúa Giêsu nói: “Ta ở đó, Ta đói, Ta trần truồng, Ta ở trong tù, Ta ở
bệnh viện, Ta ở đó”.

Đối với Thiên Chúa, Đấng chúc lành cho chúng ta, chúng ta hãy đáp trả bằng lời chúc
tụng – Thiên Chúa đã dạy chúng ta cách chúc tụng thì chúng ta phải chúc tụng – qua
lời cầu nguyện ngợi khen, thờ lạy, cảm tạ. Sách Giáo lý viết: “Lời cầu nguyện chúc tụng
là sự đáp trả của con người đối với các phúc lành của Thiên Chúa: vì Thiên Chúa chúc
lành, nên trái tim con người có thể chúc tụng Đấng là nguồn mọi phúc lành” (n. 2626).
Cầu nguyện là niềm vui và tạ ơn. Thiên Chúa không đợi chúng ta hoán cải trước khi bắt
đầu yêu thương chúng ta, nhưng Người đã yêu chúng ta từ rất lâu trước đó, khi chúng
ta vẫn còn sống trong tội lỗi.

Chúng ta không thể không chúc tụng đấng Thiên Chúa này, Đấng vốn chúc lành cho
chúng ta; chúng ta phải chúc lành cho mọi người trong Người, hết mọi người, chúc tụng
Thiên Chúa và chúc lành cho anh chị em của chúng ta, chúc lành cho thế giới – và đây
là gốc rễ của tính hiền lành Kitô giáo, khả năng cảm thấy được chúc lành và khả năng
chúc lành.

Nếu tất cả chúng ta đều làm điều này, chiến tranh chắc chắn sẽ không hiện hữu. Thế
giới này cần chúc lành, và chúng ta có thể ban chúc lành và nhận chúc lành.

Chúa Cha yêu thương chúng ta. Điều duy nhất còn lại đối với chúng ta là niềm vui được
chúc tụng Người, và niềm vui được cảm ơn Người, và học từ Người không phải nguyền
rủa, nhưng chúc lành.

Đức Giáo Hoàng đưa ra một số lời khuyên cho những người hay nguyền rủa, lưu ý rằng
chúng ta nên thừa nhận xem chúng ta có phạm phải điều này không, và nếu có, hãy xin
Chúa ban ơn để thay đổi thói quen này bởi vì chúng ta có một trái tim đã được chúc
lành và những lời nguyền rủa không thể xuất phát từ một trái tim đã được chúc lành.
Xin Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ nguyền rủa, nhưng hãy chúc lành.

Nguồn: vietcatholicnews.org

______________________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện, giờ đây chúng ta coi tầm
quan trọng của việc chúc lành như một chiều kích thiết yếu của cầu nguyện. “Chúc
lành” theo nghĩa đen có nghĩa là “nói điều gì đó tốt đẹp”. Khi tạo dựng và duy trì thế
giới, Thiên Chúa nói một lời tốt đẹp; anh ấy “chúc lành” cho sự sáng tạo của mình và
thấy rằng nó là “tốt”. Thiên Chúa đã không giữ lại phúc lành của mình ngay cả sau khi
chúng ta quay lưng lại với tội lỗi, nhưng vẫn tiếp tục mong muốn điều thiện của chúng
ta. Trong lịch sử cứu rỗi, phúc lành lớn nhất của Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đã chúc phúc cho
chúng ta trong Chúa Kitô, và đã cho chúng ta trở thành những người con yêu dấu của
Người (x. Ep 1, 3-6). Để đáp lại các phúc lành của Thiên Chúa, chúng ta lần lượt chúc
tụng Ngài, nguồn của mọi điều tốt lành, qua những lời cầu nguyện ngợi khen, tôn thờ và
cảm tạ của chúng ta. Như Sách Giáo lý dạy: “Lời cầu nguyện chúc lành là sự đáp lại của
con người đối với các ân sủng của Thiên Chúa” (số 2626). Xin cho chúng con luôn tìm
thấy niềm vui trong việc chúc tụng Cha với lòng biết ơn về lòng nhân từ vô biên mà
Ngài đã tỏ ra khi ban cho chúng con Con của Ngài.

Bài 18: Lời cầu nguyện khẩn cầu

Vũ Văn An

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Chúng ta hãy tiếp tục suy tư về việc cầu nguyện. Việc cầu nguyện của Kitô giáo hoàn
toàn có tính nhân bản – chúng ta cầu nguyện với tư cách là những con người, những
con người hiện thực – việc này bao gồm lời ngợi khen và khẩn cầu. Thật vậy, khi Chúa
Giêsu dạy các môn đệ của Người cầu nguyện, Người đã làm như vậy với “Kinh Lạy Cha
chúng con”, để chúng ta có thể đặt mình vào mối liên hệ tin cậy con thảo với Thiên
Chúa và hỏi Người mọi câu hỏi của chúng ta. Chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa ban cho
những ơn phúc cao nhất: việc tôn thánh danh Người giữa loài người, việc xuất hiện
quyền chúa thượng của Người, việc thực hiện thánh ý Người nhằm đạt điều tốt đẹp cho
thế giới. Sách Giáo lý nhắc lại rằng: “Có một thứ bậc trong những lời thỉnh cầu này:
trước hết chúng ta cầu nguyện cho Nước Trời, sau đó cho những gì cần thiết để chào
đón Nước ấy và hợp tác với Nước ấy trị đến” (số 2632). Nhưng trong kinh “Lạy Cha
chúng con”, chúng ta cũng cầu nguyện cho những ơn phúc đơn giản nhất, cho phần lớn
các ơn phúc hàng ngày, chẳng hạn như “bánh hàng ngày” – một điều cũng có nghĩa là
sức khỏe, nhà cửa, việc làm, những thứ hàng ngày; và cũng có nghĩa là Bí tích Thánh
Thể, cần thiết cho đời sống trong Chúa Kitô; và chúng ta cũng cầu nguyện để được tha
thứ tội lỗi – đây là một vấn đề hàng ngày; chúng ta luôn cần sự tha thứ – và do đó, sự
bình an trong các mối liên hệ của chúng ta; và cuối cùng, để Người có thể giúp chúng
ta đối đầu với cơn cám dỗ và giải thoát chúng ta khỏi điều ác.

Cầu xin, cầu khẩn. Đây là điều rất hợp nhân bản. Chúng ta hãy nghe lại Sách Giáo lý:
“Trong kinh nguyện khẩn cầu, chúng ta bộc lộ ý thức về tương quan giữa mình với
Thiên Chúa: Chúng ta là thụ tạo, không phải tự mình mà có, không làm chủ được những
nghịch cảnh trong đời, không phải là cùng đích đời mình; chẳng những vậy, là người
Kitô hữu, chúng ta biết mình tội lỗi, đã phản nghịch lại Thiên Chúa là Cha chúng ta. Khi
khẩn cầu, con người đã quay về với Thiên Chúa” (số 2629).

Khi ai đó cảm thấy xấu xa vì họ đã làm những điều xấu xa – họ là một người tội lỗi –
khi đọc “Kinh Lạy Cha chúng con”, họ đã đến gần Chúa. Đôi khi chúng ta dám tin rằng
chúng ta không cần bất cứ điều gì, chúng ta đã đủ cho chính chúng ta và chúng ta
sống hoàn toàn tự túc. Điều này đôi khi xảy ra! Nhưng sớm muộn gì ảo tưởng này cũng
sẽ tan biến. Con người luôn là một lời cầu khẩn, đôi khi trở thành một tiếng kêu, thường
bị kìm hãm. Linh hồn giống như một vùng đất khô cằn, nứt nẻ, như Thánh vịnh từng nói
(xin xem Tv 63,2). Vào lúc này hay lúc khác trong cuộc sống của mình, tất cả chúng ta
đều trải nghiệm thời gian u sầu, cô độc. Kinh thánh không xấu hổ khi cho thấy thân
phận con người của chúng ta, đầy những bệnh tật, bất công, phản bội bạn bè hoặc đe
doạ của kẻ thù. Có lúc tưởng chừng như mọi điều đều sụp đổ, cuộc đời sống từ trước
đến nay thật vô ích. Và trong những tình huống như thế, khi mọi điều dường như sắp
sụp đổ, chỉ có một lối thoát duy nhất: tiếng kêu, lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin cứu giúp
con!”. Cầu nguyện có thể mở ra một tia sáng trong bóng tối dày đặc nhất. “Lạy Chúa,
xin cứu giúp con!”. Điều này mở ra: nó mở ra con đường, nó mở ra nẻo đường.

Con người chúng ta chia sẻ lời kêu cầu giúp đỡ này với mọi tạo vật khác. Chúng ta
không phải là những người duy nhất “cầu nguyện” trong vũ trụ vô biên này: mọi mảnh
của tạo thế đều khát kháo Thiên Chúa. Và chính Thánh Phaolô đã phát biểu điều đó
theo cách sau đây. Ngài nói: “chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo
cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta
cũng rên siết trong lòng” (Rm 8, 22-24). Điều này tốt. Trong chúng ta đang vang lên
tiếng kêu đa dạng của các tạo vật: của cây, của đá, của động vật. Mọi loài đều khao
khát được nên trọn. Tertullianô từng viết: “Mọi tạo vật đều cầu nguyện; gia súc và thú
rừng cầu nguyện và bái quỳ; và khi chúng đi ra từ các tầng và hang ổ, chúng nhìn lên
trời miệng cất tiếng, làm cho hơi thở của chúng vang động theo cách riêng của chúng.
Hơn thế, chim chóc cũng vậy, bay ra khỏi tổ, nâng mình lên trời, và thay vì dùng tay, mở
rộng đôi cánh của chúng, và phần nào đó dường như như cầu nguyện ”(De oratione,
XXIX). Đây là một cách diễn đạt thơ mộng lời bình luận về những gì Thánh Phaolô nói:
“toàn thể tạo vật đang rên rỉ”. Nhưng chúng ta là những người duy nhất cầu nguyện
một cách có ý thức, biết rằng chúng ta đang nói chuyện với Chúa Cha, và đối thoại với
Chúa Cha.

Vì vậy, chúng ta không nên ngỡ ngàng nếu cảm thấy cần phải cầu nguyện, chúng ta
không nên xấu hổ. Và cầu xin, đặc biệt khi chúng ta cần. Nói về một người không trung
thực, người phải giải quyết các tài khoản với chủ nhân của mình, Chúa Giêsu nói thế
này: “xin, tôi xấu hổ”. Và nhiều người trong chúng ta có cảm giác này: chúng ta xấu hổ
khi phải cầu xin, xin sự giúp đỡ, xin điều gì đó ở người có thể giúp chúng ta, đạt được
mục đích của chúng ta, và chúng ta cũng xấu hổ khi cầu xin Thiên Chúa. “Không, điều
này không thể làm được”. Đừng xấu hổ khi cầu nguyện. “Lạy Chúa, con cần điều này”,
“Lạy Chúa, con đang gặp khó khăn”, “Xin cứu giúp con!”: Tiếng kêu, tiếng kêu từ trái tim
kêu lên Thiên Chúa là Cha. Và cũng phải làm như vậy trong những khoảnh khắc hạnh
phúc, không chỉ trong những lúc tồi tệ, nhưng cũng trong những lúc hạnh phúc nữa, để
cảm ơn Chúa vì tất cả những gì Người đã ban cho chúng ta, và không coi bất cứ điều gì
là hiển nhiên hoặc như thể người ta nợ chúng ta: mọi sự đều là ân sủng. Chúng ta phải
học điều này. Chúa luôn ban cho chúng ta, luôn luôn, và mọi sự đều là ân sủng, mọi sự.
Ân sủng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta không được bóp nghẹt lời khẩn cầu dâng
lên trong mình một cách tự phát. Lời cầu nguyện xin ơn cùng đi với việc chấp nhận giới
hạn của chúng ta và bản chất của chúng ta như các tạo vật. Người ta thậm chí có thể
không tiến tới chỗ tin tưởng vào Thiên Chúa, nhưng khó mà không tin vào lời cầu
nguyện: nó đơn giản có đó, nó hiện diện với chúng ta như một tiếng kêu; và tất cả
chúng ta đều biết tiếng nói bên trong này có thể im lặng trong một thời gian dài, nhưng
một ngày nào đó nó sẽ thức giấc và lớn tiếng kêu lên.

Và, thưa anh chị em, chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ đáp lời. Trong Sách Thánh Vịnh,
không lời cầu nguyện nào nói lên một lời than thở mà lại không được nhận lời. Thiên
Chúa luôn trả lời: có thể hôm nay, ngày mai, nhưng Người luôn trả lời, bằng cách này
hay cách khác. Người luôn trả lời. Kinh thánh lặp lại điều đó không biết bao nhiêu lần:
Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu của những ai cầu khẩn Người. Ngay cả những câu hỏi
miễn cưỡng của chúng ta, những câu hỏi vẫn còn ở trong vùng sâu thẳm của tâm hồn,
mà chúng ta xấu hổ không dám bày tỏ: Chúa Cha lắng nghe chúng và mong muốn ban
cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng mọi lời cầu nguyện và biến đổi mọi sự.
Thưa anh chị em, trong cầu nguyện, luôn luôn có một vấn đề kiên nhẫn, luôn luôn, hỗ
trợ sự chờ đợi. Nay, chúng ta đang ở trong thời gian của Mùa Vọng, một thời gian đặc
trưng mong đợi; mong đợi Lễ Giáng sinh. Chúng ta đang chờ đợi. Điều này thấy rất rõ.
Nhưng trọn cuộc sống của chúng ta cũng đang chờ đợi. Và cầu nguyện luôn mong đợi,
vì chúng ta biết rằng Chúa sẽ nhận lời. Ngay cả cái chết cũng run sợ khi một Kitô hữu
cầu nguyện, bởi vì nó biết rằng tất cả những ai cầu nguyện đều có một đồng minh
mạnh mẽ hơn nó: Chúa Phục sinh. Sự chết đã bị đánh bại trong Chúa Kitô, và ngày sẽ
đến khi mọi sự sẽ tận cùng, và nó sẽ không còn khinh thường sự sống và hạnh phúc
của chúng ta nữa.

Chúng ta hãy học cách ở thế chờ đợi; chờ đợi Chúa. Chúa đến thăm chúng ta, không
chỉ trong những ngày lễ trọng đại này – lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh – mà đúng hơn
Chúa đến thăm chúng ta mỗi ngày, trong tình thân thiết của tâm hồn chúng ta nếu
chúng ta biết chờ đợi. Và rất thường xuyên chúng ta không nhận ra rằng Chúa đang ở
gần, Người đang gõ cửa nhà chúng ta, và chúng ta để Người đi mất. Thánh Augustinô
từng nói: “Tôi sợ Thiên Chúa khi Ngài đi qua. “Tôi sợ rằng Người đi qua mà tôi không
nhận ra”. Và Chúa đi qua, Chúa đến, Chúa gõ cửa. Nhưng nếu tai bạn đầy những tiếng
ồn ào khác, bạn sẽ không nghe thấy tiếng Chúa gọi.

Thưa anh chị em, ở trong tư thế chờ đợi: đó là cầu nguyện. Cảm ơn anh chị em.

Nguồn: vietcatholicnews.org

__________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong phần tiếp tục dạy giáo lý về lời cầu nguyện, giờ đây chúng
ta chuyển sang lời cầu nguyện khẩn cầu. Sách Giáo lý giải thích rằng trong mỗi lời cầu
nguyện, chúng ta cầu xin Nước Thiên Chúa đến trong đời sống của chúng ta và trong
thế giới của chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Cha trên trời, thừa nhận
sự phụ thuộc hoàn toàn của chúng ta vào Ngài và tin tưởng hoàn toàn vào sự chăm
sóc quan phòng của Ngài, ngay cả vào những thời điểm đen tối nhất trong cuộc đời
của chúng ta. Lời cầu khẩn cầu xin nảy sinh tự nhiên trong lòng con người. Trong Kinh
Thánh, chúng ta thấy vô số lời cầu xin Chúa can thiệp khi chúng ta bất lực trước những
tình huống bệnh tật, bất công, phản bội và tuyệt vọng. Ngay cả tiếng kêu đơn giản, “Lạy
Chúa, xin giúp con!” tự nó là một lời cầu nguyện mạnh mẽ. Chúa luôn nghe thấy tiếng
kêu của những ai kêu cầu Ngài. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng những lời cầu
nguyện của chúng ta vang lên niềm khao khát của mọi tạo vật về việc Nước Trời đến
(xem Rm 8,22-24) và sự hoàn thành kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cầu
nguyện khẩn thiết với niềm tin tưởng nơi Người đã chiến thắng mọi sự dữ qua thập giá
và sự phục sinh của Con Người và sự sai đến của Chúa Thánh Thần, Đấng thay mặt
chúng ta cầu bầu và âm thầm hoạt động để biến đổi mọi sự.

Bài 19: Lời cầu nguyện của sự chuyển cầu

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Những người cầu nguyện không bao giờ quay lưng lại với thế giới. Nếu không thu thập
các niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và lo lắng của con người, lời cầu nguyện trở thành
một hoạt động “trang trí”, một cách hành xử hời hợt, đóng kịch, đơn độc. Tất cả chúng
ta đều cần có nội tâm tính: rút lui vào một không gian và một thời gian dành riêng cho
mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Nhưng điều này không có nghĩa chúng ta trốn
tránh thực tại. Trong lời cầu nguyện, Thiên Chúa “tiếp nhận chúng ta, ban phước cho
chúng ta, rồi bẻ bánh và ban cho chúng ta”, để thoả mãn cơn đói của mọi người. Mọi
Kitô hữu đều được kêu gọi trở nên bánh ăn, được bẻ ra và chia sẻ trong bàn tay Thiên
Chúa. Đó là, đó là lời cầu nguyện cụ thể, đó không phải là một việc trốn tránh.
Vì vậy, những người nam nữ cầu nguyện tìm kiếm sự thanh vắng và im lặng, không phải
để khỏi bị quấy rầy, nhưng để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa cách tốt hơn. Đôi khi
họ rút lui hoàn toàn khỏi thế giới, trong cảnh bí mật của căn phòng riêng của họ, như
Chúa Giêsu vốn khuyến cáo (x. Mt 6,6). Nhưng dù ở đâu, họ vẫn luôn giữ cho cánh cửa
tâm hồn họ rộng mở: cánh cửa rộng mở cho những ai cầu nguyện mà không biết phải
cầu nguyện ra sao; cho những người không cầu nguyện gì cả nhưng mang trong mình
một tiếng kêu ngột ngạt, một lời khẩn cầu tiềm ẩn; cho những người lầm đường lạc lối…
Bất cứ ai gõ cửa người cầu nguyện đều thấy một tấm lòng nhân ái không loại trừ một
ai. Lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim và tiếng nói của chúng ta và mang trái tim và
tiếng nói lại cho rất nhiều người không biết cách cầu nguyện hoặc không muốn cầu
nguyện hoặc không thể cầu nguyện: chúng ta là trái tim và tiếng nói của những người
này, vươn lên tới Chúa Giêsu, vươn lên tới Chúa Cha như những người chuyển cầu.
Trong cảnh yên tĩnh của những người cầu nguyện, cho dù sự yên tĩnh này kéo dài một
thời gian lâu hay chỉ nửa giờ, để cầu nguyện, những người cầu nguyện tách mình ra
khỏi mọi sự và khỏi mọi người để tìm thấy mọi sự và mọi người trong Thiên Chúa.
Những người này cầu nguyện cho cả thế giới, gánh trên vai những nỗi buồn và tội lỗi
của họ. Họ cầu nguyện cho mỗi người và mọi người: họ giống như những chiếc “ăng-
ten” của Thiên Chúa trong thế giới này. Người cầu nguyện nhìn thấy khuôn mặt của
Chúa Kitô nơi mọi người nghèo đến gõ cửa, nơi mọi người đã đánh mất ý nghĩa của sự
vật. Trong Sách Giáo Lý chúng ta đọc: “việc chuyển cầu, tức cầu xin cho người khác (…)
là đặc điểm của một tấm lòng cùng rung nhịp với lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Điều này thật đẹp đẽ. Khi cầu nguyện, chúng ta cùng rung nhịp với lòng thương xót của
Thiên Chúa; có lòng thương xót đối với tội lỗi của chúng ta, thương xót với chính chúng
ta, nhưng cũng thương xót với tất cả những người đã yêu cầu được cầu nguyện, những
người mà chúng ta muốn cầu nguyện cho cùng nhịp với trái tim của Thiên Chúa. Đây là
lời cầu nguyện đích thực: cùng nhịp với lòng thương xót của Thiên Chúa, với trái tim
thương xót của Người. “Trong thời đại của Giáo hội, sự chuyển cầu của Kitô hữu tham
dự vào sự chuyển cầu của Chúa Kitô, như một biểu thức của sự hiệp thông các thánh”
(n. 2635). Tham dự vào sự chuyển cầu của Chúa Kitô nghĩa là gì? Khi tôi chuyển cầu
cho ai đó hoặc cầu nguyện cho ai đó: thì Chúa Kitô ở trước mặt Chúa Cha, Người là
Đấng chuyển cầu, Người cầu nguyện cho chúng ta, Người cầu nguyện, cho Chúa Cha
thấy những vết thương trên tay của Người, thì Chúa Giêsu hiện diện trước mặt Chúa
Cha với nhiệm thể của Người. Và Chúa Giêsu là người chuyển cầu của chúng ta và cầu
nguyện là giống như Chúa Giêsu một chút: chuyển cầu trong Chúa Giêsu cùng Chúa
Cha, cho những người khác. Điều này rất đẹp đẽ.

Trái tim con người hướng về việc cầu nguyện. Điều này hoàn toàn nhân bản. Ai không
yêu thương anh chị em mình thì không cầu nguyện nghiêm túc. Ai đó có thể nói: người
ta không thể cầu nguyện khi chìm đắm trong hận thù; người ta không thể cầu nguyện
khi chìm đắm trong sự dửng dưng. Lời cầu nguyện chỉ được dâng lên trong tinh thần
yêu thương. Những người không yêu chỉ giả vờ cầu nguyện, họ tin họ đang cầu nguyện,
nhưng họ không cầu nguyện vì họ thiếu tinh thần thích hợp, đó là tình yêu. Trong Giáo
hội, những người quen với nỗi buồn và niềm vui của người khác đào sâu hơn những
người điều tra “hệ thống chủ yếu” của thế giới. Vì thế, kinh nghiệm của con người hiện
diện trong mọi lời cầu nguyện, vì bất kể người ta có thể đã phạm phải những lỗi lầm
nào, họ không bao giờ bị bác bỏ hoặc bị gạt sang một bên.
Khi các tín hữu, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, cầu nguyện cho những người tội lỗi,
họ không được lựa chọn, không được phán xét hay lên án ai: họ cầu nguyện cho tất cả
mọi người. Và họ cầu nguyện cho chính họ. Lúc đó, họ biết rằng họ không khác những
người được họ cầu nguyện cho. Họ nhận ra mình là những kẻ tội lỗi giữa những kẻ tội
lỗi và họ cầu nguyện cho mọi người. Bài học của dụ ngôn người Pharisiêu và người thu
thuế luôn sống động và có liên quan (xem Lc 18,9-14): chúng ta không tốt hơn ai hết,
tất cả chúng ta đều là anh chị em, những người mang thân phận mong manh, đau khổ
và tội lỗi chung.

Vì vậy, một lời cầu nguyện chúng ta có thể thưa với Chúa là: “Lạy Chúa, không ai công
chính trong tầm mắt Chúa” (xem Tv 143,2), đây là lời một trong các Thánh vịnh nói:
“Lạy Chúa, không ai đang sống mà công chính, trong tầm mắt của Chúa, không ai trong
chúng con: tất cả chúng con đều là những kẻ có tội – tất cả chúng con đều mắc nợ,
mỗi người đều có món nợ phải trả; không ai không có tội trong mắt Người. Lạy Chúa,
xin thương xót chúng con!” Và với tinh thần này, lời cầu nguyện sinh hoa trái vì chúng ta
khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện cho mọi người. Thay vào đó, người
Pharisiêu cầu nguyện cách tự đắc: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không giống
như những người khác, các kẻ tội lỗi: Con công chính, luôn luôn làm… ”. Đấy không phải
là cầu nguyện: đấy là nhìn chính mình trong gương, không phải là nhìn vào thực tại của
chính mình, không. Nó giống như việc anh chị tự trang điểm mình trong gương vì sự
kiêu ngạo của anh chị em.

Thế giới tiếp tục tiến bước nhờ vào chuỗi những người cầu nguyện này, những người
chuyển cầu, và là những người phần lớn không được biết đến … nhưng không phải
Thiên Chúa không biết đến! Có nhiều Kitô hữu vô danh, trong thời gian bị bách hại, đã
lặp lại lời của Chúa chúng ta: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ
đang làm”(Lc 23,34).

Vị Mục Tử Nhân Lành vẫn trung thành ngay khi biết tội lỗi của dân Người: Vị Mục Tử
Nhân Lành tiếp tục làm Cha ngay cả khi con cái của Người tách ra xa và bỏ rơi Người.
Người kiên trì trong việc phục vụ như chủ chăn ngay cả với những người đã vấy máu
tay Người; Người không đóng cửa trái tim của Người với những người thậm chí đã làm
cho Người phải đau khổ.

Trong tất cả các chi thể của mình, Giáo Hội có sứ mạng thực hành lối cầu nguyện
chuyển cầu: chuyển cầu cho người khác. Điều này đặc biệt đúng đối với những người
thực thi các vai trò trách nhiệm: cha mẹ, giáo viên, thừa tác viên thụ phong, cấp trên
của các cộng đồng… Giống như Ápraham và Môsê, đôi khi họ phải “bênh vực” dân đã
được giao phó cho họ trước mặt Thiên Chúa. Trên thực tế, chúng ta đang nói về việc
bảo vệ họ bằng đôi mắt và trái tim của Thiên Chúa, bằng lòng từ bi và sự dịu dàng bách
chiến bách thắng của Người. Cầu nguyện cho người khác một cách âu yếm.

Thưa anh chị em, chúng ta đều là những chiếc lá trên cùng một thân cây: mỗi chiếc rơi
xuống nhắc nhở chúng ta về lòng đạo đức cao cả cần được nuôi dưỡng trong lời cầu
nguyện cho nhau. Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau. Nó sẽ mang lại điều tốt
cho chúng ta và cho mọi người.

Cảm ơn anh chị em.


Nguồn: vietcatholicnews.org

_________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, trong bài giáo lý tiếp tục về cầu nguyện, giờ đây chúng ta chuyển
sang lời cầu nguyện chuyển cầu. Theo gương và sự dạy dỗ của Chúa Giêsu, bất cứ khi
nào chúng ta cầu nguyện trong thinh lặng và thanh vắng, để lắng nghe Chúa tốt hơn,
chúng ta không che giấu nhu cầu của người khác, nhưng mở rộng lòng mình với nỗi
buồn và nỗi sợ hãi của họ. Sách Giáo lý dạy rằng lời cầu thay của chúng ta, trong sự
hiệp thông với tất cả các thánh, tham dự vào lời cầu nguyện của chính Chúa Kitô (xem
số 2635). Trong khi toàn thể Giáo Hội có sứ mệnh cầu bầu cho tất cả mọi người – đặc
biệt là cho những người đau khổ, những người không biết cầu nguyện hoặc lạc lối trong
cuộc sống – thì bổn phận này đặc biệt dành cho những người có trách nhiệm, chẳng
hạn như cha mẹ, thầy cô. hoặc các linh mục. Mặc dù thường bị che giấu khỏi thế gian,
những lời cầu thay của chúng ta không bao giờ bị che giấu khỏi Thiên Chúa, Đấng luôn
luôn nghe thấy những người khóc với Ngài. Giống như Chúa Giêsu Kitô, Mục tử nhân
lành cầu bầu với Cha trên trời cho tất cả con cái của ngài, lời cầu nguyện của chính
chúng ta luôn được chú ý đến những người cần nhất, và góp phần vào mạng lưới cầu
thay vĩ đại duy trì sự sống của thế giới.

Bài 20: Lời cầu nguyện tạ ơn

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Hôm nay, tôi xin tập trung vào lời cầu nguyện tạ ơn. Và tôi lấy gợi ý từ một tình tiết được
Thánh sử Luca kể lại. Khi Chúa Giêsu đang trên đường đi, mười người phong cùi đến
gần Người và cầu xin Người: “Lạy Đức Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (Lc 17,13).
Chúng ta biết rằng những người mắc bệnh phong cùi không những phải chịu đựng về
thể xác mà còn bị gạt ra ngoài xã hội và tôn giáo. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa
Giêsu không lùi bước để gặp họ. Đôi khi, Người vượt qua các giới hạn luật pháp vốn áp
đặt và chạm vào, ôm ấp và chữa lành người bệnh – một điều đáng lẽ không nên làm.
Trong trường hợp này, không có việc đụng chạm. Từ xa, Chúa Giêsu mời họ đi trình
diện với các tư tế (câu 14), những người vốn được luật chỉ định để chứng nhận việc
chữa lành đã xảy ra. Chúa Giêsu không nói gì khác. Người nghe lời cầu nguyện của họ,
Người nghe tiếng họ kêu xin thương xót, và Người sai họ đến ngay các tư tế.

Mười người phong cùi tin cậy đó, họ không ở đó cho đến khi khỏi bệnh, không: họ tin
tưởng và họ đi ngay lập tức, và trong khi họ đang trên đường, họ đã được chữa khỏi, cả
mười người đều được chữa khỏi. Do đó, các tư tế có thể xác minh sự chữa lành của họ
và cho họ trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng đây là lúc điểm quan trọng xuất hiện:
chỉ một người trong nhóm, trước khi đến gặp các tư tế, đã trở lại để tạ ơn Chúa Giêsu
và ngợi khen Thiên Chúa về ơn thánh đã nhận được. Chỉ một người duy nhất, chín
người còn lại tiếp tục lên đường. Và Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người đó là một người
Samaritanô, một loại “dị giáo” đối với người Do Thái thời đó. Chúa Giêsu nhận định:
“Không có ai trở lại và ngợi khen Thiên Chúa ngoại trừ người ngoại quốc này sao?”
(17:18). Câu chuyện này thật cảm động.

Có thể nói, câu chuyện này chia thế giới ra làm hai: kẻ không tạ ơn và kẻ tạ ơn; những
người tiếp nhận mọi sự như thể chúng mắc nợ họ, và những người tiếp nhận mọi sự
như một hồng phúc, như một ơn thánh. Sách Giáo lý nói: “mọi biến cố và nhu cầu đều
có thể trở thành của lễ tạ ơn” (số 2638). Lời cầu nguyện tạ ơn luôn bắt đầu từ đây: nhận
biết ơn thánh đi trước chúng ta đó. Chúng ta đã được nghĩ đến trước khi chúng ta học
cách suy nghĩ; chúng ta đã được yêu thương trước khi chúng ta học cách yêu thương;
chúng ta đã được khao khát trước khi trái tim của chúng ta hình thành một khát khao.
Nếu chúng ta nhìn cuộc sống như thế, thì câu “cảm ơn” sẽ trở thành động lực trong
ngày của chúng ta. Và biết bao lần chúng ta thậm chí quên nói “cảm ơn”.

Đối với các Kitô hữu chúng ta, tạ ơn là tên được đặt cho Bí tích thiết yếu nhất hiện có:
Bí tích Thánh Thể. Thực vậy, chữ Hy Lạp này có nghĩa chính xác là: tạ ơn, eucharist: tạ
ơn. Các Kitô hữu cũng như tất cả những người tin, chúc tụng Thiên Chúa về hồng phúc
sự sống. Sống, trước hết, là đã nhận được. Sống, trước hết, là đã nhận được: đã nhận
được sự sống! Tất cả chúng ta được sinh ra bởi vì ai đó muốn chúng ta có sự sống. Và
đây chỉ là khoản nợ đầu tiên trong một chuỗi dài các khoản nợ mà chúng ta phải mắc
trong lúc sống. Các món nợ tạ ơn. Trong suốt cuộc sống của chúng ta, hơn một người
đã nhìn chúng ta bằng ánh mắt trong sáng, một cách nhưng không. Thông thường,
những người này là các nhà giáo dục, các giáo lý viên, những người đã thực thi các vai
trò của họ vượt quá và vượt ra ngoài những gì được yêu cầu nơi họ. Và họ đã khích lệ
chúng ta biết ơn. Ngay cả tình bạn cũng là một hồng phúc mà chúng ta nên luôn biết
ơn.

Lời “Cảm ơn” mà chúng ta phải nói liên tục này, lời cảm ơn này mà các Kitô hữu chia sẻ
với mọi người, phát triển khi gặp gỡ Chúa Giêsu. Các sách Tin Mừng chứng thực rằng
khi Chúa Giêsu đi ngang qua, Người thường khơi dậy niềm vui và sự ngợi khen Thiên
Chúa nơi những ai Người gặp. Các tường thuật Tin Mừng đầy những người cầu nguyện,
những người rất cảm kích trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Và chúng ta cũng
được kêu gọi tham dự vào niềm hân hoan bao la này. Tình tiết về mười người phong cùi
được chữa lành cũng gợi ý điều đó. Đương nhiên, tất cả bọn họ đều vui mừng vì đã
được hồi phục sức khỏe, cho phép họ kết thúc cuộc cách ly cưỡng bức không hồi kết
thúc từng loại trừ họ khỏi cộng đồng. Nhưng trong số họ, có một người được trải
nghiệm thêm một niềm vui nữa: ngoài việc được chữa lành, anh ta còn vui mừng được
gặp Chúa Giêsu. Anh ta không những được giải thoát khỏi sự ác mà giờ đây anh ta còn
có được sự chắc chắn này là được yêu thương. Đây là điểm mấu chốt: khi bạn cảm ơn
ai đó, cảm ơn, bạn nói lên sự chắc chắn này: bạn được yêu thương. Đó là một bước tiến
lớn: biết chắc chắn bạn được yêu thương. Đó là việc khám phá ra tình yêu như sức
mạnh điều khiển thế giới – như Dante đã từng viết: Tình yêu “di chuyển mặt trời và các
vì sao khác” (Paradise, XXXIII, 145). Chúng ta không còn là những người lêu lổng, đi
lang thang đó đây, không mục đích, không: chúng ta có một ngôi nhà, chúng ta ngụ cư
trong Chúa Kitô, và từ “nơi ở” đó, chúng ta chiêm ngưỡng mọi phần khác của thế giới
dường như đẹp đẽ hơn vô cùng đối với chúng ta. Chúng ta là con cái của tình yêu,
chúng ta là anh chị em của tình yêu. Chúng ta là những người đàn ông và đàn bà biết tạ
ơn.

Vì vậy, thưa anh chị em, chúng ta hãy tìm cách luôn ở trong niềm vui được gặp gỡ Chúa
Giêsu. Chúng ta hãy trau dồi niềm vui. Thay vào đó, ma quỷ sau khi đã lừa dối chúng ta
– bằng bất cứ cơn cám dỗ nào – luôn khiến chúng ta buồn bã và cô đơn. Nếu chúng ta
ở trong Chúa Kitô, không có tội lỗi và mối đe dọa nào có thể ngăn cản chúng ta tiếp tục
vui tươi trên đường đi của mình, cùng với nhiều bạn đồng hành khác cùng đi.

Trước hết, chúng ta đừng quên tạ ơn: nếu chúng ta là những người mang lòng biết ơn,
thì chính thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn, dù chỉ một chút tạ ơn thôi, cũng đủ để truyền
tải một chút hy vọng. Thế giới cần hy vọng. Và với lòng biết ơn, với thói quen nói lời cảm
ơn này, chúng ta sẽ truyền đi một chút hy vọng. Mọi sự đều hợp nhất và mọi sự đều có
liên kết với nhau, và mọi người cần làm phần việc của mình dù chúng ta ở bất cứ nơi
đâu. Con đường dẫn đến hạnh phúc là con đường mà Thánh Phaolô đã mô tả ở cuối
một trong những bức thư của ngài: “Hãy cầu nguyện không ngừng, hãy tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh; vì đây là ý muốn của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô dành cho bạn. Chớ
dập tắt Chúa Thánh Thần”(1 Tx 5: 17-19). Đừng dập tắt Chúa Thánh Thần, thật là một
dự án đẹp đẽ cho cuộc đời! Đừng dập tắt Chúa Thánh Thần mà chúng ta có bên trong,
Đấng dẫn chúng ta đến lòng biết ơn. Cảm ơn anh chị em.

_______________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Là một phần của việc tiếp tục dạy giáo lý về cầu nguyện, giờ đây
chúng ta chuyển sang lời cầu nguyện tạ ơn. Thánh Luca cho chúng ta biết trong số
mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người trở lại để tạ ơn
Chúa. Đoạn văn này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của lòng biết ơn. Nó cho
thấy sự khác biệt lớn giữa những tấm lòng biết ơn và những tấm lòng không biết ơn;
giữa những người coi mọi thứ là quyền lợi của họ và những người nhận mọi thứ là ân
huệ. Là Kitô hữu, lời cầu nguyện tạ ơn của chúng ta được khơi nguồn từ lòng biết ơn đối
với tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ trong sự tái lâm của Chúa Giêsu, Con ngài và
Đấng Cứu Rỗi của chúng ta. Những lời tường thuật trong Phúc Âm về sự ra đời của
Đấng Kitô cho chúng ta thấy sự xuất hiện của Đấng Mêsia đã được những tấm lòng tin
cậy và cầu nguyện thực hiện những lời hứa của Thiên Chúa như thế nào. Cầu mong cho
lễ kỷ niệm mùa Giáng sinh này của chúng ta được đánh dấu bằng lời cầu nguyện nhiệt
thành tạ ơn vì sự tuôn đổ ân điển cứu chuộc của Thiên Chúa trên thế giới của chúng ta.
Xin cho những lời cầu nguyện này mở rộng tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta có thể
mang niềm hy vọng và niềm vui của Tin Mừng cho tất cả những người xung quanh
chúng ta, đặc biệt là cho những anh chị em đang cần chúng ta nhất.

Bài 21: Lời cầu nguyện ngợi khen

Vũ Văn An chuyển ngữ

Anh chị em thân mến,


Chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Chúng ta hãy tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về việc cầu nguyện, và hôm nay
chúng ta sẽ dành chỗ cho chiều kích ngợi khen.

Chúng ta sẽ lấy một đoạn quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu làm điểm xuất
phát của chúng ta. Sau những phép lạ đầu tiên và việc các môn đồ tham dự vào việc
rao truyền Nước Thiên Chúa, sứ mệnh của Đấng Mêsia trải qua một giai đoạn khủng
hoảng. Thánh Gioan Tẩy Giả nghi ngờ và đặt cho Người câu hỏi này – Gioan lúc ấy
đang ngồi tù: “Ngài có phải là người sẽ đến, hay chúng tôi phải tìm Đấng khác?” (Mt
11,3), vì ngài cảm thấy lo âu, không biết mình có nhầm lẫn khi rao truyền hay không.
Luôn luôn có những khoảnh khắc đen tối, những khoảnh khắc của đêm đen thiêng
liêng, và Thánh Gioan đang trải qua khoảnh khắc này. Lại còn sự thù địch trong các
làng ven hồ nữa, nơi Chúa Giêsu từng thực hiện nhiều dấu lạ phi thường (x. Mt 11: 20-
24). Giờ đây, chính trong khoảnh khắc đáng thất vọng ấy, Mátthêu kể lại một sự kiện
thực sự đáng ngạc nhiên: Chúa Giêsu không cất tiếng than thở với Chúa Cha, nhưng
đúng hơn, Người cất lên một bài thánh ca hân hoan: Chúa Giêsu thưa “Con cảm tạ Cha,
lạy Cha, Chúa tể trời đất, vì Cha đã giấu kín những điều này đối với người khôn ngoan,
thông thái và đã mạc khải chúng cho các trẻ thơ” (Mt 11:25) Như thế, giữa cơn khủng
hoảng, giữa bóng tối tâm hồn của biết bao người, chẳng hạn như Gioan Tẩy giả, Chúa
Giêsu chúc tụng Chúa Cha, Chúa Giêsu ngợi khen Chúa Cha. Tại sao?

Trước hết và trên hết, Người ngợi khen Chúa Cha vì bản chất đích thực của Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất”. Chúa Giêsu vui mừng trong tinh thần của Người vì Người
biết và Người cảm thấy rằng Cha của Người là Thiên Chúa của Vũ trụ, và ngược lại,
Chúa tể của tất cả những gì hiện hữu là Chúa Cha, là “Cha tôi”. Ngợi khen nảy sinh từ
cảm nghiệm cảm thấy rằng Người là “Con của Đấng Tối Cao”. Chúa Giêsu cảm thấy
mình là Con Đấng Tối Cao.

Và rồi Chúa Giêsu ca ngợi Chúa Cha vì đã ưu đãi những người bé mọn. Đó chính là điều
Người từng cảm nghiệm, khi rao giảng trong các làng mạc: những người “thông thái” và
“khôn ngoan” luôn nghi ngờ và khép kín, họ là những người tính toán; trong khi “những
người bé mọn” tự mở lòng họ ra và đón nhận sứ điệp của Người. Đây chỉ có thể là ý
muốn của Chúa Cha, và Chúa Giêsu vui mừng về điều này. Chúng ta cũng phải vui
mừng và ngợi khen Thiên Chúa vì những người khiêm nhường và đơn sơ biết đón nhận
Tin Mừng. Khi tôi thấy những người đơn sơ này, những người khiêm tốn đi hành hương,
đi cầu nguyện, ca hát, ngợi khen, những người có lẽ thiếu thốn nhiều thứ nhưng lòng
khiêm nhường khiến họ ngợi khen Thiên Chúa… Trong tương lai của thế giới và trong
niềm hy vọng của Giáo hội có những “người bé mọn”: những người không coi mình tốt
hơn người khác, những người ý thức được những giới hạn của bản thân và tội lỗi của
họ, những người không muốn thống trị trên người khác, những người, trong Thiên Chúa
Cha, công nhận rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em.

Vì vậy, trong khoảnh khắc thất bại rõ ràng, nơi mọi sự đều tối tăm, Chúa Giêsu đã cầu
nguyện, bằng cách ngợi khen Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người cũng dẫn chúng
ta, những người đọc Tin Mừng, đến việc đánh giá sự thất bại của bản thân ta một cách
khác, phê phán một cách khác các tình huống trong đó chúng ta không thấy rõ ràng sự
hiện diện và hành động của Thiên Chúa, khi xem ra sự dữ đang thắng thế không có
cách nào để ngăn chặn nó. Trong những khoảnh khắc đó, Chúa Giêsu, Đấng vốn hết
sức khuyến cáo ta cầu nguyện bằng cách đặt câu hỏi, nhưng vào chính thời điểm lúc
đáng lẽ Người có lý do để xin Chúa Cha giải thích, thay vào đó, Người lại bắt đầu ca
ngợi Chúa Cha. Tưởng chừng như là một mâu thuẫn, nhưng sự việc là thế đó, sự thật là
thế đó.

Ngợi khen có ích cho ai? Cho chúng ta hay cho Thiên Chúa? Một bản văn của phụng vụ
Thánh Thể mời gọi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này; bản văn này viết
như sau: “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa
lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa,
nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ” (Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng chung IV).
Bằng cách khen ngợi, chúng ta được cứu rỗi.

Lời cầu nguyện ngợi khen phục vụ chúng ta. Sách Giáo lý định nghĩa nó như sau – lời
cầu nguyện ngợi khen “thông phần hạnh phúc của những tâm hồn trong sạch, những
kẻ yêu mến Người trong đức tin trước khi được thấy Người trong Vinh Quang” (số
2639).

Nghịch lý là nó phải được thực hành không những chỉ khi cuộc sống chúng ta đầy rẫy
hạnh phúc, mà trên hết ngay trong những thời điểm khó khăn, trong những khoảnh
khắc tăm tối khi đường đi trở thành một con đường leo dốc. Đó cũng là lúc để ngợi
khen. Giống như Chúa Giêsu [Đấng] trong giờ phút đen tối, đã ngợi khen Chúa Cha. Vì
chúng ta học được rằng, qua con đường đi lên ấy, con đường khó khăn ấy, con đường
mệt mỏi ấy, những đoạn đường đòi hỏi nhiều khó khăn ấy, chúng ta mới có thể nhìn
thấy một bức tranh toàn cảnh mới, một chân trời rộng lớn hơn. Dâng lời ngợi khen cũng
giống như hít thở oxy tinh khiết: nó thanh lọc linh hồn, giúp bạn nhìn xa hơn về phía
trước để không bị giam hãm trong khoảnh khắc khó khăn, trong bóng tối khó khăn.

Có một giáo huấn tuyệt vời trong lối cầu nguyện ấy mà trong tám thế kỷ chưa bao giờ
mất sức hấp dẫn, giáo huấn mà Thánh Phanxicô đã sáng tác vào cuối đời mình: “Ca
khúc Anh Mặt Trời” hay “ Ca khúc Tạo vật”.

Vị Thánh Nghèo không sáng tác nó trong lúc hân hoan, trong lúc vui sống, mà trái lại,
trong lúc khó khăn. Lúc đó, Thánh Phanxicô gần như bị mù, và cảm thấy trong linh hồn
mình sự nặng nề của cô đơn chưa từng trải qua: thế giới đã không thay đổi kể từ khi
ngài bắt đầu rao giảng, vẫn còn những người để bản thân mình bị xé nát bởi những
cuộc cãi vã, và thêm vào đó ngài nhận thức rõ: cái chết đang đến gần hơn bao giờ hết.
Đáng lẽ đó là khoảnh khắc vỡ mộng, vỡ mộng tột độ và tri nhận sự thất bại của mình.
Nhưng ngay lúc buồn bã, ngay lúc tăm tối đó, Thánh Phanxicô đã cầu nguyện: “Lạy
Chúa của con, xin hết lời ngợi khen Chúa”. Ngài cầu nguyện bằng cách ngợi khen.
Thánh Phanxicô ngợi khen Thiên Chúa vì mọi sự, mọi hồng phúc sáng thế, và ngay cả vì
sự chết, điều mà ngài can đảm gọi là “chị”.

Những tấm gương này của các thánh, của các Kitô hữu, và của cả Chúa Giêsu, về việc
ngợi khen Thiên Chúa trong những thời khắc khó khăn, đã mở ra cho chúng ta những
cánh cổng dẫn vào một con đường tuyệt vời hướng tới Chúa, và chúng luôn thanh tẩy
chúng ta. Ngợi khen luôn luôn thanh tẩy.
Các Thánh cho chúng ta thấy: chúng ta luôn có thể dâng lời ngợi khen, trong những thời
điểm tốt đẹp cũng như trong những lúc xấu xa, bởi vì Thiên Chúa là người bạn trung
thành. Đây là nền tảng của sự ngợi khen: Thiên Chúa là người bạn trung thành, và tình
yêu của Người không bao giờ suy giảm. Người luôn ở bên cạnh chúng ta, Người luôn
chờ đợi chúng ta. Có lời đã chép, ” Người là lính canh luôn gần gũi bạn và giúp bạn luôn
tiến tới trong tự tin”. Trong những thời khắc khó khăn và tăm tối, chúng ta hãy can đảm
nói: “Lạy Chúa, xin chúc tụng Chúa”. Ngợi khen Chúa. Điều này sẽ giúp ích chúng ta rất
nhiều. Cảm ơn anh chị em.

Nguồn: vietcatholicnews.org

___________________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến, tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về việc cầu nguyện, giờ đây
chúng ta xem xét lời cầu nguyện ngợi khen. Phúc âm Mátthêu cho chúng ta biết rằng
chính Chúa Giêsu, khi đối mặt với sự thù địch và bị từ chối, đã đáp lại bằng cách ca
ngợi Thiên Chúa. Ngài tạ ơn Chúa Cha vì đã tỏ ra Ngài là ai và vì tình yêu của Ngài trong
việc tỏ mình ra “mạc khải chúng cho các trẻ thơ” (Mt 11,25), cho những người nghèo
khổ và hèn mọn trong thế giới chúng ta. Gương khen ngợi của Chúa Giêsu kêu gọi
chúng ta đáp lại như ngài đã làm vào những lúc chúng ta cảm thấy Thiên Chúa vắng
mặt hoặc sự dữ có vẻ đắc thắng. Bằng cách này, chúng ta nhìn mọi việc theo một góc
nhìn mới và vĩ đại hơn, vì – như Sách Giáo lý dạy – qua lời ngợi khen, chúng ta được
chia sẻ “niềm hạnh phúc vô bờ của lòng trong sạch yêu mến Thiên Chúa trong đức tin
trước khi được nhìn thấy Người trong vinh quang” . 2639). Chúng ta thấy rõ điều này
trong ví dụ của Thánh Phanxicô thành Assisi, người đã sáng tác Ca khúc nổi tiếng khi
ông gặp rắc rối bởi bệnh tật và sắp bị mù. Khi ca ngợi Thiên Chúa về mọi sự, ngay cả
“Cái Chết”, cùng với tất cả, thánh Phanxicô dạy chúng ta tầm quan trọng của việc ca
ngợi Thiên Chúa là Đấng luôn thành tín và tình yêu là vĩnh cửu.

You might also like