You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA KẾ HOẠCH & PHÁT TRIỂN

NHÓM 8

BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM

Thành viên nhóm MSV


Dương Hà My 11214030
Nguyễn Thị Ngọc Huyền 11216758
Chu Hải Yến 11216838
Nguyễn Thị Phương Phương 11216798
Đinh Trần Hiếu Thuận 11215604
Ngô Ngọc Đức 11216750
Lớp học phần:
PTCC1121(123)_02- Kinh tế công cộng 2
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hoa

HÀ NỘI, 2023
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Theo Ngân hàng thế giới, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm đáng kể trong giai
đoạn 2010 - 2020 trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng mạnh, giáo dục đạt nhiều thành
quả, và có sự dịch chuyển khỏi nông nghiệp. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 đã đẩy lùi
tiến bộ đạt được trong giảm nghèo, bất bình đẳng được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng.
Trong khi đó, Việt Nam cần đảm bảo rằng có các đường hướng dịch chuyển kinh tế
bền vững nhằm thực hiện khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao trong vòng
trong hai thập kỷ tới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam đã giúp nhiều người thoát khỏi
đói nghèo, nhưng một bộ phận dân số đáng kể vẫn trong tình trạng dễ bị tổn thương về
kinh tế. Cứ khoảng 5 người Việt Nam thì có một người sống dưới ngưỡng an ninh kinh
tế là 5,50 đô-la Mỹ một ngày. Mức độ bao phủ trợ giúp xã hội của Việt Nam thấp hơn
nhiều nước láng giềng Đông Á, Thái Bình Dương và cần được hiện đại hóa để mang
lại sự bảo vệ tốt hơn.
Chính vì vậy, việc quan tâm hơn nữa tới những chính sách trợ cấp cho người
nghèo trở thành một điều cốt yếu với một nước đang phát triển như Việt Nam. Những
chính sách này sẽ giúp xóa dần đi sự chênh lệch vốn có trong xã hội, giảm bớt một
phần nào gánh nặng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế, người lao động có thu
nhập thấp và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Đặc biệt trong nhóm người yếu
thế, đối tượng trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên chính là tương lai của đất nước, là
những búp măng non tràn đầy nhựa sống mang theo những hoài bão lớn lao. Theo như
lời Bác Hồ nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Do đó, cần có những chính
sách trợ cấp cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên có cuộc sống khó khăn để giúp các
em vươn lên trong cuộc sống, có cơ hội để tiếp tục sự nghiệp học hành của mình. Mới
gần đây Chính phủ đã đưa chính sách dự thảo “Nghị định quy định chính sách cho trẻ
em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi
ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính
sách” với mong muốn đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên, dự thảo vẫn còn những sự bất
cập do chưa có sự xem xét kỹ lưỡng tới đối tượng và hình thức trợ cấp. Vì vậy, bằng
kiến thức môn học Kinh tế công cộng 2 kết hợp với kiến thức thực tế, nhóm em sẽ
phân tích chính sách dự thảo này và đưa ra đề xuất cho những điều khoản trong dự thảo
còn chưa hợp lý.
Do kiến thức môn học và hiểu biết thực tiễn còn hạn chế, nhóm không thể tránh
khỏi những sai sót. Rất mong cô sẽ góp ý để bài viết của nhóm hoàn thiện hơn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN 1: CÁC LÝ THUYẾT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO
1.1. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
Các dạng thất bại của thị trường cho thấy bản thân thị trường có thể đưa đến
những kết cục phi hiệu quả, nếu không có sự can thiệp của chính phủ. Nhưng ngay cả
khi nền kinh tế đã vận hành có hiệu quả thì vẫn còn hai lý do nữa để chính phủ có thể
can thiệp, đó là mất công bằng xã hội và hàng hóa khuyến dụng. Đến đây, chúng ta đã
có những cơ sở quan trọng để luận chứng cho sự cần thiết phải có mặt chính phủ trong
những trường hợp cụ thể, giúp thị trường hoạt động có hiệu quả hơn và các kết quả
kinh tế tạo ra công bằng hơn. Ngoài chức năng muôn thuở của chính phủ là xây dựng
và bảo vệ các khuôn khổ pháp luật và cung cấp các hàng hóa công cộng, chính phủ còn
có bốn chức năng kinh tế cơ bản sau đây:
- Phân bổ lại nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế
- Phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội
- Ổn định kinh tế vĩ mô
- Đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế
=> Chính sách trên được thiết kế nhằm thực hiện vai trò phân phối lại thu nhập
nhằm đảm bảo công bằng xã hội của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước
đã có sự can thiệp trong phân phối lại thu nhập thông qua chính sách trợ cấp. Chính
sách đã đưa ra quy định nhằm hỗ trợ những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn và thu
nhập thấp nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có (công bằng dọc). Đối tượng và hình
thức trợ cấp sẽ được nhóm trình bày rõ ở phần sau.
1.2. Mạng lưới an sinh xã hội
1.2.1. An sinh xã hội là gì:
An sinh xã hội là hệ thống chính sách, các chương trình của Nhà nước và của
các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡ toàn xã hội, các cá nhân gặp phải rủi ro hoặc
biến cố xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ.
1.2.2. Các can thiệp phổ biến đến mạng lưới an sinh:
Có rất nhiều loại hình chương trình an sinh xã hội khác nhau: trợ cấp tiền mặt và
hỗ trợ bằng hiện vật, trợ giá chung, lao động công ích, trợ cấp tiền mặt có điều kiện
(CCT), và miễn phí dịch vụ y tế và giáo dục.
- Trợ cấp tiền mặt và các phương tiện giống tiền mặt:
Chúng được sử dụng để chuyển nhượng nguồn lực đến cho người nghèo hoặc
những người mà nếu không được trợ cấp sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo khổ.
Mục tiêu chính là tăng mức thu nhập thực tế của người nghèo và các hộ gia đình dễ bị
tổn thương
Yêu cầu đặt ra là đảm bảo chương trình tiếp cận đúng đối tượng dự kiến, làm
thế nào để tiền trợ cấp không biến mất trước khi đến tay người thụ hưởng. Chính vì để
đảm bảo tính hiệu quả, cơ cấu tổ chức và cung cấp cần được bố trí một cách đáng tin
cậy và hiệu quả bằng cách sử dụng công nghệ sẵn có.
Ưu điểm:
 Khi đã có cơ sở hạ tầng hợp lý, chi phí vận hành các chương trình trợ cấp
tiền mặt thường nhỏ và thấp hơn nhiều so với chi phí cung cấp hỗ trợ
bằng hiện vật
 Từ góc độ nhìn nhận của người được trợ cấp, trợ cấp tiền mặt giúp họ có
thể tự do lựa chọn cách sử dụng trợ cấp để cải thiện điều kiện kinh tế, tạo
ra mức hài lòng cao hơn so với trợ cấp bằng hiện vật
Nhược điểm:
 Khó kiểm soát nguồn lực và sử dụng
 Ảnh hưởng đến giá trị của chương trình trợ cấp
 Chi phí phân phối lợi ích cao hơn

- Trợ cấp lương thực và chương trình trợ cấp bằng hiện vật khác:
Cung cấp thêm nguồn lực cho các hộ gia đình bằng cách đem lương thực đến
khi họ cần, chủ yếu là dưới hình thức khẩu phần lương thực. Sự khác biệt với chương
trình tiền mặt là các chương trình sử dụng lương thực như một nguồn lực và đem lại
cho người thụ hưởng sự lựa chọn hạn chế về các loại hàng hóa mà họ muốn tiêu dùng.
Mục tiêu chính là hỗ trợ tiêu dùng đủ lương thực và qua đó giúp người tiêu dùng nghèo
đạt đến và duy trì tình trạng dinh dưỡng tốt hơn. Bên cạnh đó, ngoài lương thực, có thể
cung cấp thêm các hiện vật khác như đồ dùng học tập, chăn màn, đồ dùng cá nhân phục
vụ cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Các loại hình chương trình: khẩu phần lương thực, các trợ cấp lương thực hiện
vật khác, bữa ăn bổ sung, bữa ăn học đường và các chương trình phân phát đồ dùng
sinh hoạt thiết yếu.
Ưu điểm:
 Không chịu nhiều ảnh hưởng của lạm phát
 Cải thiện kết quả học tập nhờ xóa bỏ tình trạng đói ăn trong thời gian
ngắn, bổ sung thực phẩm, đồ dùng thiết yếu và tạo ra động cơ đến lớp
Nhược điểm:
 Giới hạn những lựa chọn trước mắt của người tiêu dùng
 Chi phí khác nhau và khó khăn trong thu xếp, tổ chức

- Các trợ giá chung:


Không xác định đối tượng để quản lý, nghĩa là tất cả mọi người tiêu dùng đều có
quyền mua cùng một loại hàng hóa với cùng một mức giá. Mục tiêu chính là đảm bảo
điều kiện tiếp cận lương thực và các hàng hóa thiết yếu ở mức giá mà người dùng có
thể chịu được
Các loại hình: Trợ giá lương thực phổ cập và gián tiếp, thúc đẩy bản trợ giá các
khẩu phần hoặc khối lượng lương thực không hạn chế và các loại hình chương trình trợ
giá phổ cập cho sản phẩm năng lượng
Ưu điểm
 Dễ quản lý hơn và thực hiện nhanh chóng hơn
 Khẩu phần có thể giới hạn tổng chi phí của một chương trình trợ giá
 Khuyến khích mức tiêu dùng tối thiểu đối với một số loại hàng hóa nhất
định
 Thu hút sự ủng hộ chính trị với các trợ giá hàng hóa đôi khi dễ dàng hơn
so với các trợ cấp thu nhập trực tiếp.
Nhược điểm: Hầu hết đều liên quan đến việc xác định sai đối tượng và chi phí
ngân sách cao
1.3. Lý thuyết đánh giá chính sách chi trợ cấp cho người nghèo
Các hình thức trợ cấp được thể hiện trong bảng sau, trong đó đồ thị có đường
ngân sách trước trợ cấp AB, đường bàng quan trước trợ cấp u1; đường ngân sách sau
trợ cấp A’B’, đường bàng quan sau trợ cấp u2.

Chương trình trợ cấp bằng tiền mặt

Như vậy, sau khi có trợ cấp bằng tiền lợi ích của người nhận đã tăng hơn so
với trước khi có trợ cấp.

Trợ cấp bằng hiện vật: Trường hợp cung cấp hàng hoá dịch vụ miễn phí

Trường hợp hiện vật được trợ Trường hợp hiện vật được trợ cấp
cấp ít hơn số lượng cần dùng (C*<X1) nhiều hơn số lượng cần dùng (C*>X1)
Sau khi có trợ cấp bằng hiện vật lợi ích của người nhận đã tăng hơn so với
trước khi có trợ cấp

Ảnh hưởng của trợ cấp đến lợi ích người nhận khi thay Trợ cấp miễn
phí bằng trợ cấp tiền có kinh phí tương đương

Trường hợp trợ cấp hàng hóa Trường hợp hiện vật được trợ cấp
nhiều hơn số lượng cần dùng (C*>X1) ít hơn số lượng cần dùng (C*<X1)

Đường bàng quan mới U3 Như vậy, tốn chi phí như nhau, trợ
cấp bằng tiền hay hiện vật đều mang lại
Như vậy, tốn chi phí như nhau kết quả như nhau
nhưng Trợ cấp bằng hiện vật mang lại
lợi ích thấp hơn cho người nhận so trợ
cấp bằng tiền

Trợ cấp bằng hiện vật: Trường hợp trợ giá hàng hoá và dịch vụ
Sau khi có trợ giá lợi ích của người nhận đã tăng hơn so với trước khi có trợ
cấp

Ảnh hưởng của trợ cấp đến lợi ích người nhận khi thay Trợ giá bằng trợ
cấp tiền có kinh phí tương đương

Đường ngân sách mới MN // AB,


đường bàng quan mới u3, điểm lựa chọn
tiêu dùng tại điểm I thuộc u3 cao hơn u2
Vậy, tốn chi phí như nhau nhưng
trợ giá mang lại lợi ích thấp hơn cho
người nhận so trợ cấp bằng tiền

Kết luận chung


(1) Nếu cùng tiêu tốn một số tiền trợ cấp như nhau thì trợ cấp bằng tiền nói chung
sẽ mang lại độ thỏa dụng cao hơn cho người nhận.
(2) Chương trình trợ cấp bằng hiện vật thường đòi hỏi tốn kém chi phí vận hành
nhiều hơn và các thủ tục hành chính phiền hà phức tạp hơn.
(3) Trợ cấp bằng hiện vật hạn chế quyền tự do lựa chọn tiêu dùng của cá nhân, vì
chỉ khi nào người được trợ cấp thực sự tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ được
trợ cấp thì khi đó họ mới được thụ hưởng lợi ích của chương trình.
(4) Trợ cấp vẫn được chính phủ sử dụng vì: một số hàng hoá thiết yếu phải được
phân phối bình đẳng cho mọi người; hạn chế được bớt sự gian lận trong việc
nhận phúc lợi trợ cấp; cá nhân được kỳ vọng sẽ tiêu dùng đúng cái mà chính phủ
muốn họ sử dụng, chứ không phải mua những hàng hoá chưa thực sự thiết yếu
khác; trợ cấp bằng hiện vật dễ nhận được sự hậu thuẫn về mặt chính trị hơn.
PHẦN 2: CHÍNH SÁCH DỰ THẢO
2.1. Giới thiệu chính sách
Ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và
hải đảo là các khu vực có đặc thù địa hình tách biệt với các khu vực khác nên thường ít
dân cư sinh sống, đồng thời các hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội cũng rất hạn chế.
Cũng chính vì những lí do đó nên điều kiện sinh hoạt của ngừơi dân rất khó khăn,
khiến cho các hoạt động giáo dục chưa thực sự được quan tâm. Trong những năm vừa
qua, ờ một số địa phương, vẫn còn tình trạng học sinh bỏ học, bởi vì khoảng cách địa lí
đến trường còn quá xa gây ra sự khó khăn trong di chuyển. Bên cạnh đó còn là những
khó khăn về mặt kinh tế khi đa số gia đình thường là đồng bào dân tộc thiểu số, hoặc là
các hộ gia đình thuộc hộ nghèo, cận nghèo nên không đủ khả năng cho con em đến
trường. Ngoài ra còn có thể là do một số phong tục tập quán còn lạc hậu gây ảnh hưởng
đến việc học của của các em học sinh.
Với phương châm " Chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau "
kết hợp với bối cảnh của đất nước đang trong giai đoạn hội nhập và quốc tế, với mục
tiêu nhằm thực hiện " Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa
các dân tộc”, xoá dần khoảng cách chênh lệch về giáo dục giữa “miền ngược và miền
xuôi”, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và có nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn. Mới đây nhất, ngày 29/06/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo công
bố Dự thảo Nghị định quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ
sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách.
Mục tiêu của dự thảo nhằm hướng đến sự tiếp cận đầy đủ trong giáo dục cho
học sinh, học viên thuộc đối tượng dân tộc thiểu số và ở những khu vực còn khó khăn,
đồng thời giúp cải thiện các điều kiện sinh hoạt, đảm bảo các đối tượng thuộc chính
sách được hưởng đầy đủ các dịch vụ xã hội: y tế, nơi ở,...Từ đó khiến cho chất lượng
giáo dục được cải thiện đồng thời nâng cao mức sống dân cư, giảm tỷ lệ bất bình đẳng
và làm tăng phúc lợi cho xã hội.
2.2. Xác định và huy động nguồn lực thực hiện chính sách
2.2.1. Đối với nguồn lực con người:
Khu vực công: Cần có sự tham gia của các Bộ ban ngành và các cơ quan quản
lý nhà nước có liên quan
 Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan chỉ đạo
các địa phương triển khai thực hiện; tổ chức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện.
 Bộ Tài chính:
a) Bảo đảm kinh phí thực hiện chính sách theo quy định về phân cấp ngân sách
hiện hành;
b) Ban hành quyết định xuất cấp gạo dự trữ quốc gia hỗ trợ học sinh, học viên; báo
cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả xuất cấp gạo dự trữ quốc gia theo quy
định;
c) Trình cấp có thẩm quyền bảo đảm kinh phí để mua bù số lượng gạo dự trữ quốc
gia đã xuất cấp và cung ứng đủ gạo cho các địa phương thực hiện chính sách;
d) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan kiểm tra việc quản lý, sử dụng
kinh phí và gạo hỗ trợ cho các đối tượng được hưởng chính sách quy định.
 Bộ Kế hoạch và Đầu tư
a) Chủ trì tổng hợp, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kế hoạch đầu tư
công trung hạn và hằng năm để thực hiện các chương trình, dự án tăng cường cơ sở vật
chất cho các cơ sở giáo dục có đối tượng được hưởng chính sách được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt theo quy định
b) Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành liên quan kiểm tra
việc sử dụng nguồn vốn xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục có đối tượng
được hưởng chính sách.
 Ủy ban dân tộc
a) Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chính sách tại các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý theo quy định;
b) Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành, các địa phương chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách quy định.
 Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
a) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Quyết định nội dung và mức hỗ trợ thêm cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên
và cơ sở giáo dục từ nguồn ngân sách địa phương để thực hiện.
b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
- Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách tại địa phương, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện và báo cáo tình hình thực hiện định kỳ hằng năm; bảo đảm kinh
phí thực hiện chính sách
- Quy định cụ thể danh mục, tiêu chuẩn, định mức sử dụng thiết bị, đồ dùng
phục vụ các hoạt động ăn ở, sinh hoạt, giáo dục đặc thù; bổ sung danh mục trang cấp
đồ dùng cá nhân, học phẩm cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú phù hợp đặc
thù của mỗi vùng, miền, từng cấp học và chương trình giáo dục phổ thông hiện hành;
- Xây dựng dự toán ngân sách hằng năm, báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để
quyết định các giải pháp bảo đảm cân đối nguồn lực tài chính cho thực hiện chính sách
tại địa phương; xây dựng nội dung, mức hỗ trợ thêm cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học
viên và cơ sở giáo dục
Khu vực tư và khu vực tự nguyện: Có thể huy động sự tham gia từ các doanh
nghiệp và tổ chức tự nguyện trong việc cung cấp nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở
hạ tầng giáo dục, hỗ trợ trong việc phân bổ nguồn lực trong quá trình thực thi chính
sách…
 Tổ chức phi lợi nhuận: Các tổ chức phi lợi nhuận như quỹ từ thiện, tổ chức xã
hội, và tổ chức phi chính phủ (NGOs) thường tham gia vào các dự án giáo dục
cho trẻ em miền núi. Họ có thể cung cấp học bổng, sách giáo trình, thiết bị học
tập, và các dịch vụ hỗ trợ khác.
 Doanh nghiệp và công ty tư nhân: Doanh nghiệp và công ty tư nhân có thể đóng
góp tài chính thông qua quỹ từ thiện do họ tự mình thành lập hoặc thông qua
việc hợp tác với các tổ chức phi lợi nhuận. Họ cũng có thể cung cấp tài trợ để
xây dựng hoặc nâng cấp cơ sở hạ tầng giáo dục hay nguồn lực để phân phát
lương thực, thực phẩm.
 Trường đại học và trung tâm đào tạo: Các trường đại học và trung tâm đào tạo
có thể hợp tác với các trường học trong khu vực miền núi để cung cấp đào tạo
cho giáo viên và cung cấp giáo trình giảng dạy.

2.2.2. Đối với nguồn lực tài chính:


Mỗi khi thực hiện một chính sách đều cần có nguồn kinh phí. Nguồn kinh phí ở
đây là khoản chi lấy từ Ngân sách Nhà nước hay còn gọi là khoản chi tiêu công. Nhưng
chi tiêu công lại được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở đây nhóm sẽ trình bày chi
tiêu công theo nghĩa rộng: Chi tiêu công là tổng hợp các khoản chi của chính quyền
trung ương, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và của toàn dân khi
cùng trang trải kinh phí cho các hoạt động do chính phủ quản lý. Cho nên để thực hiện
chính sách này cần huy động cả khu vực công và khu vực tư nhân. Bên cạnh đó nhóm
cũng có đề cập đến Khu vực tự nguyện.
Khu vực công: Cần huy động từ Ngân sách Nhà nước
 Nguồn ngân sách trung ương và địa phương tuỳ thuộc vào tính chất và khả năng
tự chủ ngân sách của từng địa phương.
 Nguồn chi sự nghiệp ngân sách Trung ương.
 Nguồn ngân sách xây dựng cơ bản hằng năm của địa phương, kinh phí chương
trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án theo quy định của cấp có thẩm
quyền.
Khu vực tư và khu vực tự nguyện: Nguồn kinh phí từ nguồn vốn xã hội hóa
giáo dục và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác (nếu có).
Nguồn vốn xã hội hoá giáo dục, cũng được gọi là nguồn vốn xã hội hoá trong
lĩnh vực giáo dục, là các nguồn tài chính và nguồn lực khác được cung cấp từ xã hội và
cộng đồng để hỗ trợ và phát triển hệ thống giáo dục. Đây là một phương thức để tăng
cường nguồn lực cho giáo dục bằng cách kết hợp sự đóng góp từ các tổ chức xã hội,
doanh nghiệp, cộng đồng địa phương, và cá nhân.
Nguồn vốn xã hội hoá giáo dục có thể bao gồm các khoản tài trợ, quyên góp, hỗ
trợ từ các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp và các cá nhân có sự quan tâm đến vấn đề giáo dục. Đây có thể là các
đóng góp tài chính trực tiếp, hỗ trợ trang thiết bị, cơ sở vật chất, sách giáo trình,
chương trình học, học bổng, hay cung cấp các dịch vụ tư vấn, đào tạo chuyên môn cho
giáo viên,..
Mục tiêu của việc xã hội hoá giáo dục là mở rộng nguồn tài chính và tăng cường
sự ủng hộ từ cộng đồng, từ đó cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận giáo dục.
Nguồn vốn xã hội hoá giáo dục có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mọi
đối tượng học sinh có cơ hội học tập và phát triển tốt nhất, đồng thời thúc đẩy sự công
bằng và phát triển bền vững trong giáo dục.
2.3. Phân tích tác động dự kiến của chính sách dự thảo
2.3.1. Đối tượng là cá nhân
2.3.1.1. Trẻ em nhà trẻ bán trú
- Hình thức trợ cấp bằng tiền: Hỗ trợ tiền ăn bữa chính, bữa phụ
Tác động: Số tiền trợ cấp không thể hỗ trợ hoàn toàn 100% bữa ăn cho các em,
tuy nhiên với khoản trợ cấp ấy thì mỗi bữa của các em sẽ được cải thiện hơn nhiều,
khẩu phần ăn của các em sẽ đầy đủ và đa dạng hơn.
Hạn chế: Việc cấp tiền như nào và ai là người nhận tiền không được đề cập đến
dẫn tới hệ luỵ số tiền trợ cấp có thể không được sử dụng đúng mục đích, đúng đối
tượng. Nếu đưa cho cơ sở giáo dục thì việc kiểm tra số tiền chi cho các em nhiều khi sẽ
chỉ là trên sổ sách và không kiểm soát được xem toàn bộ số tiền có phải hỗ trợ cho bữa
ăn của các em không. Ngoài ra cũng có thể xảy ra những vấn đề về đạo đức nếu phía
cơ sở giáo dục chuẩn bị những đồ ăn, thức uống không hợp vệ sinh, không đảm bảo
chất lượng mà cung cấp cho các em. Còn nếu đưa cho bố mẹ các em rất có khả năng
dẫn đến trường hợp bố mẹ cầm tiền mà không đóng tiền ăn cho con. Điều này sẽ dẫn
đến kết cục là tiền thì cũng đã chi, con thì cũng đã ăn ở trường mà bên phía nhà trường
lại không có tiền để hỗ trợ bữa ăn cho các em.
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến
2.3.2.1. Đối với học sinh bán trú và học viên bán trú
- Trợ cấp bằng tiền: Hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở
Tác động: Số tiền trợ cấp cao hơn mức trợ cấp cho trẻ em nhà trẻ, số tiền trợ
cấp giúp cải thiện khẩu phần ăn, đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng hơn vì lứa tuổi này khối
lượng học tập lớn và lúc này cơ thể đang trong quá trình phát triển mạnh nên yêu cầu
mức năng lượng nạp vào lớn hơn. Đồng thời số tiền hỗ trợ nhà ở có thể giúp các em
học sinh đi học xa nhà có thể trang trải 1 phần chi phí bỏ ra để thuê được một chỗ ở tốt,
đủ điện, nước sạch phục vụ cho sinh hoạt. Khi có đủ điều kiện sinh hoạt và nghỉ ngơi
tốt hơn sẽ giúp các em học sinh có tinh thần và sức khoẻ phục vụ việc học tập và lao
động giúp đỡ người thân.
Hạn chế: Cũng như đã trình bày ở trên, việc không quy định cách thức nhận trợ
cấp và ai đứng ra nhận trợ cấp có thể gây ra hiện tượng tiền trợ cấp không được sử
dụng đúng mục đích, đúng đối tượng. Nhiều trường hợp bố mẹ các em có thể cầm tiền
rồi nhưng lại không đóng tiền nhà cho các em. Mặt khác, đối với việc hỗ trợ tiền nhà ở
có thể dẫn tới sự thiếu hiệu quả vì hạn chế thiếu thông tin (thông tin về giá thuê chỗ ở ở
mỗi địa phương khác nhau). Ngoài ra, một số khu vực các điều kiện về cơ sở hạ tầng
còn hạn chế, có thể dẫn đến tình trạng không có nhà ở gần khu vực trường học cho học
sinh và học viên bán trú ở. Nên cho dù kể cả tiền được trao đến đúng tay các em thì vẫn
không đem lại hiệu quả vì các em không nhận được thứ mình thực sự cần.
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến
2.3.1.3. Học sinh dân tộc nội trú và học sinh dự bị đại học
- Trợ cấp bằng tiền:
+ Học bổng chính sách, khen thưởng
+ Tiền tàu xe
Tác động: Với việc các trường đại học, đặc biệt là các trường đại học top đầu
đều có xu hướng tự chủ tài chính, kéo theo học phí sẽ tăng dần theo từng năm thì việc
những học sinh có năng lực nhưng nguồn lực tài chính eo hẹp theo học tại các trường
này là bất khả thi. Việc có tiền trợ cấp học bổng sẽ giúp các em có khả năng theo học
tại các trường mà mình mong muốn, giảm áp lực tài chính cho bản thân học sinh và
phụ huynh học sinh. Hơn nữa, trợ cấp tiền tàu xe cũng hỗ trợ về quá trình di chuyển,
tạo động lực đi học cho học sinh.
Hạn chế: Ngoài khả năng về sử dụng sai mục đích và sai đối tượng như những
phân tích các trường hợp trên của nhóm thì việc hỗ trợ kinh phí tiền tàu xe 2 lần/năm
vào dịp tết nguyên đán và nghỉ hè vẫn còn hạn chế khác. Vì vé xe dịp lễ tết rất khan
hiếm và phải đặt trước 1 thời gian dài mới có thì liệu với số tiền hỗ trợ thì có chắc chắn
các em học sinh có thể đặt kịp được vé tàu, xe về quê hay không? Một số địa phương
còn rất khó khăn, vị trí địa lý không thuận lợi, kết cấu hạ tầng còn kém thì quá trình di
chuyển rất vất vả và các phương tiện giao thông công cộng đến được những điểm vùng
sâu vùng xa cũng không phải nhiều. Dự thảo có đưa ra trường hợp là nếu không có
phương tiện giao thông công cộng thì được tính theo quãng đường và giá vé thông
thường của phương tiện giao thông công cộng trên địa bàn tỉnh nhưng cũng chưa thực
sự hợp lí vì cũng không biết được các em sẽ về nhà kiểu gì dù được cầm tiền trợ cấp
trong tay. Và cơ sở nào để cho rằng nếu không có phương tiện giao thông công cộng thì
sẽ tính theo giá vé thông thường của phương tiện giao thông công cộng trên địa bàn
của tỉnh là hợp lí? Trong dự thảo không nêu ra được cơ sở tại sao lại tính như thế. Giả
sử nếu các em phải tốn một khoản chi phí lớn hơn rất nhiều chỗ đó thì sao? Khi đó
chính sách trợ cấp này có còn trở nên hiệu quả nữa không?
Kết luận: Hình thức trợ cấp bằng tiền học bổng tương đối hợp lí dựa trên mức
học bổng đưa ra. Còn hỗ trợ tiền tàu xe chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến.
- Trợ cấp bằng hiện vật (Cung cấp miễn phí hoàn toàn)
+ Đồ dùng cá nhân và học phẩm: chăn, màn, đồng phục, học phẩm, đồ dùng cá
nhân khác
+ Hỗ trợ gạo
Tác động: Việc hỗ trợ vật dụng, đồ dùng sinh hoạt đảm bảo khả năng đến
trường học cho học sinh, khuyến khích động viên các em đi học, hỗ trợ chi phí đầu tư
cho giáo dục của các gia đình có con trong độ tuổi đi học. Từ đó tăng thêm tỷ lệ học
sinh trong độ tuổi đi học có cơ hội đến trường, giảm tỷ lệ mù chữ, chất lượng đầu ra
cũng được nâng cao. Đối với hỗ trợ gạo, việc cung cấp gạo miễn phí mang đến sự công
bằng cao hơn so với các loại thực phẩm khác, nâng cao chất lượng bữa ăn, đảm bảo đủ
năng lượng phục vụ cho quá trình học tập của học sinh.
Hạn chế: Như hạn chế về trợ cấp 15 kg gạo/tháng nhóm đã trình bày ở trên.
Kết luận: Việc cung cấp miễn phí đồ dùng cá nhân và học phẩm: chăn, màn,
đồng phục, học phẩm, đồ dùng cá nhân khác tương đối hợp lí và có thể áp dụng được.
Phương án hỗ trợ gạo có điểm chưa hợp lí nhưng nhóm đã đề xuất ở trên nên sẽ không
đề xuất lại nữa.

2.3.2. Đối tượng là tập thể


2.3.2.1. Cơ sở giáo dục mầm non
- Trợ cấp bằng hiện vật: Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và thiết bị
Tác động: Đối với các trường phổ thông, cơ sở vật chất và thiết bị đóng vai trò
quan trọng, giúp thúc đẩy hoạt động giảng dạy của nhà trường, đem tới hiệu quả học
tập tốt hơn, cải thiện được hoàn cảnh học tập và sinh hoạt (buổi trưa) cho học sinh, tạo
được động lực học tập cho học sinh và tạo niềm tin tuyệt đối của đồng bào các DTTS
vào thầy cô giáo và nhà trường để thu hút học sinh đến trường…
Hạn chế: Tuy nhiên, với mức đầu tư theo quy định có thể sẽ không thể đáp ứng
hoàn toàn việc cải thiện cơ sở vật chất. Vì mức hỗ trợ theo Nghị định của Chính phủ về
điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục là mức chung cho các trường phổ
thông bán trú, tuy nhiên với hoàn cảnh của các trường phổ thông dân tộc bán trú, để cải
thiện cơ sở vật chất và thiết bị sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và cần thêm nhiều khoản phí
phát sinh (ví dụ như phí vận chuyển các thiết bị sẽ cao hơn do địa hình di chuyển khó)
nên mức trợ cấp chưa thể hoàn toàn đáp ứng nhu cầu.
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến
2.3.2.2. Trường phổ thông có tổ chức ăn, ở tập trung cho học sinh bán trú (không bao
gồm trường phổ thông dân tộc bán trú)
- Trợ cấp bằng tiền:
+ Kinh phí mua sắm bổ sung, sửa chữa dụng cụ thể dục, thể thao, nhạc cụ, máy
thu hình, phục vụ sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao và các vật dụng khác
+ Kinh phí tổ chức khám sức khỏe hằng năm, lập tủ thuốc dùng chung
+ Hỗ trợ tiền điện, nước, thiết bị lắp sáng,..
+ Hỗ trợ kinh phí phục vụ ăn, ở, sinh hoạt cho học sinh bán trú
+ Hỗ trợ kinh phí thực hiện quản lý học sinh bán trú ngoài giờ lên lớp
Tác động: Việc hỗ trợ kinh phí đầu tư, xây dựng và bổ sung cơ sở vật chất phục
vụ cho giáo dục hướng tới sự phát triển toàn diện cho học sinh từ trí lực cho tới thể lực,
đảm bảo đáp ứng đầu ra chất lượng, góp phần tạo ra một lớp lực lượng lao động mới
đảm bảo đủ tiêu chuẩn và thích nghi được những sự thay đổi nhanh chóng của thị
trường. Trợ cấp kinh phí phục vụ cho sinh hoạt, nâng cao sức khỏe học đường nhằm
đảm bảo thực hiện đúng quyền trẻ em, từ đó nâng cao chất lượng sống cho học sinh.
Qua đó góp phần nâng cao tỷ lệ trẻ đi học, giảm tỷ lệ thất học, tăng khả năng có thể tìm
được công việc ổn định. Từ đó hạn chế được những tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an
ninh xã hội. Đối với việc hỗ trợ kinh phí quản lý giáo dục góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, tạo thêm động lực cho nghề giáo viên trong bối cảnh thiếu hụt nguồn
nhân lực bổ sung cho giáo dục. Điều này cũng giúp hạn chế tình trạng giáo viên thì
thiếu mà các công việc khác đang trong tình trạng thừa nhân lực.
Tuy rằng vẫn có khả năng dẫn đến trường hợp sử dụng sai mục đích và sai đối tượng
nhưng rõ ràng so với các hình thức trợ cấp khác thì hình thức trợ cấp này là phù hợp
nhất, khả thi nhất. Cho nên nhóm sẽ giữ nguyên và không đề xuất phương án khác nữa.
- Trợ cấp bằng hiện vật (Cung cấp miễn phí hoàn toàn): Đầu tư cơ sở vật chất và
thiết bị phục vụ ăn, ở và sinh hoạt
Tác động: Đối với các trường phổ thông, cơ sở vật chất và thiết bị đóng vai trò
quan trọng, giúp thúc đẩy hoạt động giảng dạy của nhà trường, đem tới hiệu quả học
tập tốt hơn, cải thiện được hoàn cảnh học tập và sinh hoạt (buổi trưa) cho học sinh, tạo
được động lực học tập cho học sinh và tạo niềm tin tuyệt đối của đồng bào các DTTS
vào thầy cô giáo và nhà trường để thu hút học sinh đến trường…
Hạn chế: Như hạn chế nhóm đã trình bày về phương án đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất và thiết bị cho trường phổ thông dân tộc bán trú bằng hình thức trợ cấp bằng
hiện vật ở trên.
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến
2.3.2.3. Trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học
- Trợ cấp bằng tiền:
+ Kinh phí để tổ chức khám sức khỏe hằng năm, lập tủ thuốc dùng chung
+ Kinh phí để tổ chức tết nguyên đán, tết dân tộc (nếu có)
+ Kinh phí để mua sắm bổ sung, sửa chữa dụng cụ nhà ăn, nhà bếp, phục
vụ nấu ăn
+ Kinh phí mua sách giáo khoa để cho mỗi học sinh được mượn một bộ
sách giáo khoa theo lớp học
+ Hỗ trợ kinh phí làm thẻ học sinh và phù hiệu cá nhân, công tác tuyển
sinh đầu cấp, thi tốt nghiệp, thi cuối khóa
+ Hỗ trợ tiền điện, nước
Tác động: Bên cạnh các khoản hỗ trợ đối với học sinh bán trú, đối với đối
tượng trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học còn được hỗ trợ thêm với
các khoản: Trợ cấp kinh phí tổ chức tết nguyên đán, tết dân tộc sẽ hỗ trợ cho các học
sinh ở lại trường không về nhà có thể đón những dịp lễ quan trọng, bồi dưỡng sức khỏe
tinh thần cho học sinh, tạo động lực đến trường và học tập. Trợ cấp kinh phí mua sách
giáo khoa cho mỗi học sinh: phục vụ cho việc học tập hiệu quả hơn, giảm bớt gánh
nặng tài chính mỗi năm học cho các học sinh. Đối với các trường nội trú, nhu cầu sử
dụng bếp ăn tăng lên so với các trường bán trú, vì vậy khấu hao các dụng cụ, thiết bị sẽ
tăng lên. Trợ cấp cho công tác tuyển sinh, thi tốt nghiệp, thi cuối khóa là khoản hỗ trợ
giúp các trường phổ thông nội trú, trường dự bị đại học có thể tổ chức các kỳ thi quan
trọng tốt hơn. Điều này sẽ là một điều kiện để thu hút các học sinh đăng ký học tại
trường, giúp nâng cao chất lượng đầu vào cho trường, từ đó cải thiện chất lượng giáo
dục của trường học, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục.
Hạn chế: Đối với việc hỗ trợ kinh phí mua sách giáo khoa có thể không phù
hợp vì nguồn sách có thể khan hiếm và những trường này có thể gặp khó khăn trong
việc mua đủ sách cho các em vì ở khu vực khó khăn, hiểm trở. Nhất là những em ở ven
biển, hải đảo thì việc trường mua được sách vận chuyển tới đó còn khó khăn hơn.
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến
- Trợ cấp bằng hiện vật (Cung cấp miễn phí hoàn toàn): Được đầu tư cơ sở vật
chất và thiết bị (theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về điều kiện đầu tư và hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục)
Tác động: Đầu tư cho cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học là việc làm cần
thiết để nâng cao chất lượng giáo dục, thu hút lượng học sinh, sinh viên đầu vào và
đảm bảo chất lượng đầu ra ổn định, Việc đầu tư cơ sở vật chất cho các trường nhằm hỗ
trợ nâng cao giáo dục, giảm thiểu chi phí chi cho đầu tư máy móc, trang thiết bị. Từ đó
giúp các trường tiết kiệm được một khoản chi phí nhằm phục vụ cho cho đầu tư các
vấn đề khác của giáo dục, cải thiện môi trường học tập và gia tăng thời lượng ngoại
khoá cho học sinh, sinh viên.
Hạn chế: Như trường hợp trợ cấp bằng hiện vật cho việc đầu tư cơ sở vật chất nhóm
đã trình bày ở trên
Kết luận: Hình thức trợ cấp này chưa hợp lí và nhóm sẽ đề xuất ý kiến.

PHẦN 3: ĐỀ XUẤT Ý KIẾN CỦA NHÓM ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH DỰ THẢO
3.1. Hình thức trợ cấp bằng tiền hỗ trợ tiền ăn bữa chính, bữa phụ
Đề xuất ý kiến: Nên đưa ra đối tượng cụ thể nhận tiền trợ cấp cho học sinh và
lựa chọn, chỉ định cơ sở cung cấp suất ăn hoặc nguyên liệu cung cấp cho bữa ăn của
học sinh nhằm đảm bảo phải có đơn vị chịu trách nhiệm toàn bộ cho số tiền trợ cấp và
tăng khả năng kiểm soát việc sử dụng nguồn tiền trợ cấp cũng như kiểm soát chất
lượng, số lượng đồ ăn cung cấp. Việc kiểm soát được đơn vị nhận nguồn trợ cấp và đơn
vị cung cấp thực phẩm sẽ tạo ra sự kiểm soát tốt hơn cho cơ quan quản lý. Tuy nhiên,
hình thức này không hoàn toàn triệt để, việc quy định cụ thể từng đơn vị chịu trách
nhiệm không thể xác định rõ 100% trong trường hợp các đơn vị câu kết với nhau để sử
dụng nguồn tiền trợ cấp không đúng quy định, gây thất thoát ngân sách. Hơn nữa, việc
thường xuyên có các đoàn thanh tra đi kiểm tra đảm bảo các suất ăn của các em sẽ
nâng cao hiệu quả nguồn tiền hỗ trợ. Cách này có thể tiến hành theo hướng kiểm tra
định kỳ và kiểm tra xác suất ngẫu nhiên không báo trước nhằm đảm bảo tính minh
bạch và kịp thời.
3.2. Hình thức trợ cấp bằng tiền hỗ trợ tiền nhà ở
Đề xuất ý kiến: Cần phải quy định cụ thể đối tượng sẽ tiếp nhận trực tiếp số tiền trợ cấp
và công khai quá trình sử dụng, lưu sổ sách để đảm bảo tính minh bạch. Điều này hạn
chế được việc số tiền trợ cấp sẽ không bị sử dụng sai quy định, sai đối tượng. Tuy
nhiên trên thực tế, tại một số vùng đặc thù, cơ sở vật chất ở đây còn hạn chế cho nên để
có thể tìm được điểm thuê nhà thật sự đủ điều kiện sinh hoạt là rất khó khăn. Vì vậy, để
hướng tới sự hiệu quả trong trợ cấp tiền nhà ở thì phải có giải pháp tốt cho chương
trình này:
(1) Nhà nước có chính sách xây dựng những khu nhà ở cho học sinh nhằm đảm
bảo sinh hoạt, có thể tham khảo phương pháp xây dựng nhà lắp ghép để cắt giảm chi
phí đầu tư và nguồn lực. Bên cạnh việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước thì có thể
huy động nguồn xã hội hoá (từ các tổ chức từ thiện) nhằm giảm bớt gánh nặng cho
NSNN (Thay đổi trợ cấp hiện vật)
(2) Có thể hỗ trợ bằng cách rà soát và tìm các gia đình có điều kiện hơn và sẵn
sàng giúp đỡ hỗ trợ chỗ ở cho các học sinh. Khi đó, CP có thể có khoản trợ cấp cho gia
đình giúp đỡ học sinh để cải thiện mức sống, một phần động viên, khuyến khích các
gia đình. Qua phân tích và xem xét thì nhóm đưa ra cách giải quyết như phương án (1)
do tính khả thi, tính hiệu quả cao hơn và ít hạn chế hơn so với phương án (2).
3. 3. Phương án mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và
được hưởng không quá 9 tháng/năm học

Ở đây có 2 tình huống được đặt ra là sức ăn của các em nhỏ hơn 15 kg
gạo/tháng và lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng.
- Với tình huống sức ăn của các em nhỏ hơn 15 kg gạo/tháng thì có những đề xuất
sau sẽ được đưa ra:
+ Giảm bớt số kg gạo cung cấp miễn phí cho các em và cung cấp thêm những
mặt hàng thực phẩm khác gửi theo tuần lên trên các điểm trường cho các em.
Theo thông tin nhóm tìm hiểu được, Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) đã nghiên
cứu và chỉ ra rằng đối với đối tượng thanh thiếu niên thì lượng tinh bột trung
bình 1 tháng (gồm cả gạo, ngô, khoai,.) chỉ nên từ 10-12 kg. Cho nên có thể coi
đây là một nguồn tham khảo cho việc xem xét lại số kg gạo sẽ cung cấp miễn
phí cho các em. Số tiền tương ứng với số kg gạo giảm đi có thể quy sang số tiền
tương đương để cung cấp thêm thịt, trứng, sữa, rau,..cho các em. Việc quy sang
những mặt hàng gì cần có sự tính toán kỹ lưỡng để sao cho bữa ăn của các em
đảm bảo chất dinh dưỡng và đa dạng nhất có thể.

 Ưu điểm: Loại bỏ được việc sai đối tượng và sai mục đích sử dụng
 Nhược điểm: Dễ dẫn đến tình trạng cung cấp những bữa ăn với thực
phẩm không phù hợp, không đủ dinh dưỡng cho các em. Hơn nữa điều
kiện một số trường còn rất thiếu thốn có thể dẫn tới tình trạng không có
tủ lạnh, tủ đông hay đủ nguồn điện để chứa tất cả thực phẩm đó. Điều
này khiến thực phẩm để lâu sẽ bị kém chất lượng, ôi thiu, không sử dụng
được nên rất lãng phí. Bên cạnh đó quá trình vận chuyển lên những vùng
núi, hải đảo, ven biển,. cũng khá khó khăn. Điều này sẽ làm phát sinh
thêm những khoản chi phí đi kèm theo như chi phí vận chuyển, chi phí
bảo quản thực phẩm,.
=> Cần có sự liên kết với các cơ sở cung cấp thực phẩm và lên một danh sách
thực phẩm hợp lý để cung cấp những thực phẩm sạch, chất lượng và phù hợp với các
em. Nhóm sẽ để tháp dinh dưỡng cho trẻ em từ 15-19 tuổi của Viện dinh dưỡng Bộ Y
tế dưới đây để mọi người có thể tham khảo. Ngoài ra, do cơ sở vật chất còn hạn chế
của những điểm trường ở những vùng khó khăn nên cần phải xem xét xem liệu cơ sở
vật chất đó có đủ đáp ứng cho việc lưu trữ và bảo quản thức ăn không. Những khoản
chi phí đi kèm cũng cần được tính toán cẩn thận. Với những khu vực ở vị trí thuận lợi
hơn và có sự giúp đỡ từ bên tư nhân (đặc biệt là các công ty về vận tải), cơ sở vật chất
đáp ứng đủ thì việc vận chuyển sẽ không quá khó khăn nên nếu trong khả năng kiểm
soát và chấp nhận được thì nên thực hiện phương án này. Còn nếu cơ sở vật chất không
đảm bảo và vị trí hiểm trở, thời tiết không thuận lợi, vận chuyển khó khăn thì có thể
xem xét đề xuất sau đây nhóm đưa ra.
+ Giảm bớt số kg gạo được cung cấp miễn phí và chuyển qua hỗ trợ một khoản
kinh phí tương đương cho các cơ sở giáo dục để cải thiện hơn bữa ăn cho các em. Bên
trường học và bộ phận bếp nấu sẽ phải dùng số tiền đó để tăng chất lượng bữa ăn cho
các em với các món đa dạng và dinh dưỡng hơn. Bên phía trường học sẽ phải lên thực
đơn và kê khai đúng số tiền đã chi trong từng tuần và thỉnh thoảng bên phía Nhà nước
sẽ có người xuống kiểm tra bất chợt bữa ăn của các em.
 Ưu điểm: Bên phía nhà trường sẽ chủ động và linh hoạt hơn, chi phí đi
kèm cũng ít tốn kém hơn
 Nhược điểm: Tiền dễ bị sử dụng sai mục đích và sai đối tượng
=> Đối với những trường có cơ sở vật chất không đảm bảo và vị trí hiểm trở,
thời tiết không thuận lợi, vận chuyển khó khăn thì phương án này sẽ hợp lí hơn phương
án trên. Tuy nhiên, để đảm bảo tiền được sử dụng đúng mục đích và đúng đối tượng
cần có sự quản lý chặt chẽ từ bên phía Nhà nước.
Kết luận chung: Sau khi phân tích nhóm đi đến kết luận chung là lựa chọn
phương án 2 ( giảm bớt số kg gạo được cung cấp miễn phí và chuyển qua hỗ trợ một
khoản kinh phí tương đương) vì đa phần những điểm trường này đều ở vị trí khá khó
khăn và cơ sở vật chất cũng chưa đảm bảo cho việc lưu trữ và bảo quản số lượng thực
phẩm lớn như vậy. Nên xem xét kỹ lưỡng thì phương án 2 sẽ khả thi và phù hợp hơn.
Tuy nhiên, cần lưu ý là phải quản lý chặt chẽ về nguồn kinh phí để đảm bảo số tiền đó
thực sự biến thành những bữa ăn ngon và dinh dưỡng cho các em.
- Với tình huống sức ăn của các em lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng thì có đề
xuất sau sẽ được đưa ra:
+ Giữ phương án cung cấp 15 kg gạo/tháng và hưởng không quá 9 tháng/năm
học.
 Ưu điểm: Giúp các em có đủ lượng gạo cần thiết để ăn, giúp phần
nâng cao sức khỏe của các em. Trợ cấp đúng đối tượng và đúng
mục đích
 Nhược điểm: Cũng giống như lương thực thực phẩm khác, trữ
lượng gạo lớn nhưng kho lưu trữ lại không có hoặc không đủ diện
tích. Với trữ lượng gạo lớn để trong kho lâu chất lượng cũng
không đảm bảo cho học sinh sử dụng. Việc vận chuyển cũng rất
khó khăn.
=> Tuy nhiên, nếu sức ăn của các em cũng ngang hoặc lớn hơn lượng gạo được
cung cấp miễn phí thì sẽ không lo trữ lượng trong kho quá lớn. Hoặc chắc chắn hơn có
thể chia nhỏ số gạo theo từng tuần và đem đi tiêu thụ nhanh chóng. Còn về việc vận
chuyển thì có thể sử dụng những phương án như tìm hiểu và xây dựng mối quan hệ với
nguồn cung cấp địa phương để mua gạo trực tiếp từ vùng gần nhất. Điều này sẽ giảm
thời gian và khó khăn trong việc vận chuyển từ xa. Cần có một hệ thống phân phối địa
phương bằng cách hợp tác với các tổ chức địa phương, nhóm tình nguyện viên, hoặc hỗ
trợ từ chính quyền địa phương=> Như vậy, nếu thực hiện được những điều trên, thì
phương án vẫn cung cấp 15 kg gạo/tháng và hưởng không quá 9 tháng/năm học là hợp
lý.
Kết luận chung: Nếu sức ăn của các em lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng thì
nhóm vẫn giữ nguyên phương án này nhưng phải đạt được những điều kiện kèm theo
nhóm đã trình bày để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện chính sách
bằng hình thức trợ cấp này.
3.4. Phương án học sinh được cấp tiền tàu xe hai lần mỗi năm học vào dịp
tết nguyên đán và dịp nghỉ hè (cả lượt đi và lượt về) theo giá vé thông thường của
phương tiện giao thông công cộng (trường hợp không có phương tiện giao thông
công cộng thì được tính theo quãng đường và giá vé thông thường của phương
tiện giao thông công cộng trên địa bàn tỉnh)

Những đề xuất nhóm đưa ra là:


- Thay đổi hình thức trợ cấp từ trợ cấp bằng tiền sang trợ cấp bằng hiện vật: Thay
vì cấp tiền tàu xe thì Nhà nước sẽ phát vé xe có sẵn tên của học sinh và có thể sử
dụng như vé xe thông thường khi mua tại các bến. Mỗi học sinh khi chuẩn bị về
quê vào dịp tết nguyên đán và dịp nghỉ hè chỉ cần đăng ký trước với bên nhà xe
và họ sẽ tìm cho học sinh chuyến xe phù hợp nhất để học sinh về quê.
 Ưu điểm: Giúp học sinh luôn đảm bảo có vé để về quê chứ không phải
thấp thỏm chờ mua vé và sợ hết vé nữa.
 Nhược điểm: Sẽ rất lãng phí nếu vào 2 đợt đó học sinh không có ý định
về quê, vé xe cấp sẵn sẽ không có giá trị nữa. Và câu hỏi đặt ra là nhà xe
nào sẽ sử dụng được vé xe đó? Liệu tất cả các nhà xe có đồng ý sử dụng
vé xe đó không? Điều này chưa kiểm chứng được. Hơn nữa nếu các em
mất vé thì chuyện gì sẽ xảy ra?
=> Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các bên có cung cấp dịch vụ giao thông
công cộng để có thể thực hiện chính sách này. Phải đảm bảo vé có thể sử dụng được ở
tất cả các nhà xe và giúp học sinh có thể linh hoạt trong việc chọn chuyến vào mấy giờ
và vào ngày nào.
- Giữ nguyên hình thức trợ cấp bằng tiền mặt nhưng sẽ thay đổi thời gian cấp
tiền từ dịp nguyên đán và dịp nghỉ hè thành đầu năm dương lịch để đảm bảo học sinh
có tiền trước để mua vé sớm phòng hờ cấp muộn quá không đặt được trước nên hết vé
và đổi phương án từ “cấp tiền tàu xe hai lần mỗi năm học dịp tết nguyên đán và dịp
nghỉ hè” thành “cấp tiền tàu xe hai lần mỗi năm học( thường là tết nguyên đán và dịp
nghỉ hè)” vì có thể có những học sinh có nhu cầu về nhà vào dịp khác hoặc đôi khi là
có chuyện gấp trong nhà cần về luôn nên như thế sẽ khiến các em linh hoạt hơn.
 Ưu điểm: Giúp các em chủ động và linh hoạt hơn trong việc mua vé để có thể
lựa chọn ngày giờ các em mong muốn.
 Nhược điểm: Dễ bị sử dụng sai mục đích
=> Cần có phương thức cấp tiền rõ ràng và minh bạch, học sinh sẽ nhận tiền này
qua đâu hoặc nhận kiểu gì. Ngoài ra vẫn cần có sự liên kết với các nhà xe để hỗ trợ các
em khi cần thiết.
=> Cả hai giải pháp đều có nhược điểm chung là đối với những vùng xa xôi khó
khăn không có phương tiện giao thông công cộng thì câu hỏi đặt ra là các em sẽ về nhà
bằng cách nào. Khi đó Nhà nước cùng các tổ chức địa phương hoặc cộng đồng có thể
tổ chức các phương tiện đi lại đặc biệt để đưa đón học sinh từ trường về trường về nhà.
Phương tiện đó có thể là xe buýt cung cấp bởi tổ chức phi lợi nhuận hoặc sự hỗ trợ từ
chính quyền địa phương hoặc các doanh nghiệp khác. Ngoài ra đối với một số chỗ địa
hình đặc biệt hiểm trở có thể nghĩ đến những phương tiện khác như xe máy, xuồng,
ghè,.
Kết luận chung: Sau khi phân tích nhóm đi đến kết luận chung là giữ nguyên
hình thức trợ cấp bằng tiền mặt nhưng sẽ có những sự thay đổi về điều khoản nhận trợ
cấp. Việc các em chủ động tự mua vé xe vẫn là lựa chọn phù hợp với mong muốn của
đa số em. Việc làm thẻ, phát thẻ, và thậm chí cấp lại thẻ sau khi các em làm mất có thế
tốn nhiều thời gian và chi phí.
3.5. Hình thức trợ cấp bằng tiền để mua giấy, truyện tranh, sáp màu,
bút chì, đồ dùng đồ chơi
Nhóm đề xuất thay phương thức trợ cấp bằng tiền bằng trợ cấp bằng hiện vật,
cung cấp miễn phí hoàn toàn những vật phẩm vật dụng: giấy thủ công, truyện tranh,
sáp màu, bút chì, đồ dùng đồ chơi…
Như đã trình bày ở trên, kinh phí này có thể được sử dụng sai mục đích, chẳng
hạn như không đầu tư trực tiếp vào việc mua những vật phẩm, vật dụng này. Số tiền trợ
cấp cho những vật phẩm này không quá lớn nên có thể sẽ dính phải một số tiêu cực
như biển thủ tiền được trợ cấp hay không đầu tư vào vật phẩm này để phát triển tư duy
và sáng tạo cho trẻ em. Hay một trường hợp khác có thể xảy ra như mua vật phẩm với
chất lượng và mức giá thấp hơn nhưng báo cáo lại cao hơn thế. Và từ đó sẽ xảy ra
trường hợp trẻ em mầm non không có những vật phẩm hay đồ kém chất lượng để phục
vụ học tập và sáng tạo. Với trợ cấp bằng hiện vật, khi cung cấp hoàn toàn những vật
phẩm này có thể đảm bảo được chất lượng vật phẩm cung cấp, ví dụ như việc kiểm tra
được chất lượng trước khi vận chuyển lên những cơ sở giáo dục cần đến.
Bên cạnh đó, việc vận chuyển cũng như cung ứng không gặp nhiều vấn đề quá
khó khăn do những vật dụng này đa số đều dễ vận chuyển do khối lượng cũng như độ
phức tạp thấp và khác với lương thực, thực phẩm như gạo hay thức ăn, những vật phẩm
này không cần lưu trữ hay bảo quản phức tạp. Vì vậy, việc trợ cấp bằng hiện vật sẽ hạn
chế được việc đồ dùng này không đến được tay đối tượng hưởng chính sách là trẻ em
mầm non, chất lượng đồ dùng được đảm bảo sẽ hỗ trợ cho trẻ em phát triển và sáng tạo
tư duy tốt, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em.
3.6. Hình thức trợ cấp bằng hiện vật đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị
Nhóm đề xuất chuyển từ phương thức trợ cấp bằng hiện vật thành trợ cấp bằng
tiền. Trong trường hợp này, như nhóm trình bày, việc trợ cấp bằng hiện vật có thể gặp
một số khó khăn như quá trình vận chuyển do địa hình đến cơ sở giáo dục phức tạp và
có thể tốn kém chi phí cao. Thậm chí, có thể xảy ra trường hợp trong quá trình vận
chuyển hư hại cơ sở vật chất đầu tư do quãng đường khó khăn, đối tượng được thụ
hưởng chính sách này cũng không thể sử dụng được. Ngoài ra, còn có trường hợp nếu
trợ cấp bằng hiện vật luôn nhưng thiết bị không phù hợp với điều kiện của vùng trợ cấp
thì nó không thể sử dụng được và dẫn đến lãng phí tài nguyên.
Khi chuyển sang trợ cấp bằng tiền, tùy thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất sẵn có
của từng địa phương, nhận biết được họ đang cần đầu tư thêm vào hạ tầng, cơ sở nào,
thiếu thốn ra sao thì họ có thể tự cân đối và suy xét sử dụng tiền đầu tư vào đâu cho
hợp lý với tình hình sẵn có. Bên cạnh đó, đề xuất này có thể dẫn đến hạn chế là sử
dụng tiền không đúng với mục đích ban đầu đề ra, chẳng hạn như việc báo cáo sai chi
phí xây dựng đầu tư hay các vấn đề liên quan đến chất lượng hạ tầng, cơ sở. Để hạn
chế được việc này xảy ra nên gia tăng và củng cố thêm nguồn lực vào công tác giám
sát việc thực hiện đổi mới bổ sung cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng xem các trang thiết bị
có thực sự được xây dựng hiệu quả hay không.
3.7. Trợ cấp bằng hiện vật đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị phục vụ ăn,
ở và sinh hoạt
Nhóm đề xuất ý kiến: vẫn giữ nguyên phương án trợ cấp bằng hiện vật nhưng để
cho khu vực tư nhân đứng ra cung cấp
Vì đối tượng được trợ cấp là trường phổ thông có tổ chức ăn và ở nên để đảm
bảo điều kiện cho học tập và sinh hoạt của các em học sinh, thì việc đầu tư cho cơ sở,
thiết bị phục vụ cho ăn ở thay vì để Chính Phủ tự đứng ra cung cấp và thực hiện xây
dựng thì nên liên kết với các nhà thầu xây dựng ở địa phương. Việc bàn giao cho các
đơn vị này sẽ giúp quá trình xây dựng, sửa chữa khu vực nhà bếp, nhà ở được diễn ra
nhanh chóng và thuận tiện hơn ( nhờ khoảng cách địa lí gần, việc vận chuyển vật liệu
đến các điểm trường để xây dựng sẽ diễn ra nhanh hơn, đồng thời, mỗi điểm trường sẽ
có những đặc điểm riêng về quy mô, vị trí,. nên việc để các đơn vị ở địa phương xây
dựng, sẽ có kế hoạch xây dựng phù hợp với từng khu vực )
Tuy nhiên, phương án này cũng còn một số bất cập đó là Chính Phủ có thể
không kiểm soát được chất lượng xây dựng, bởi một số đơn vị có thể trục lợi bằng cách
sử dụng các loại vật liệu xây dựng kém chất lượng hoặc thi công những công trình
không đúng với quy chuẩn đặt ra. Vì vậy để đảm bảo chất lượng đầu tư xây dựng,
Chính Phủ cần có các biện pháp thực hiện phân cấp quản lý ở từng địa phương, tiến
hành các đợt kiểm tra lồng ghép, hoặc đột xuất có nội dung về quản lý tiến độ thi công,
nhằm nhắc nhở đơn vị trực thuộc thực hiện đúng quy định. Ngoài ra, cũng có thể
khuyến khích các trường chủ động, linh hoạt đối với công tác tham gia giám sát về quá
trình đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các thiết bị phục vụ bếp ăn, nhà ở.
3.8. Trợ cấp bằng tiền mua sách giáo khoa để cho mỗi học sinh được
mượn một bộ sách giáo khoa theo lớp học
Nếu trợ cấp bằng kinh phí, để cho các điểm trường tự mua sách thì có thể dẫn
đến tình trạng một số khu vực có thể chưa liên kết được với các nhà cung ứng sách,
dẫn đến tình trạng thiếu sách để học hoặc, một số trường có thể sẽ cố tình không mua
đủ số lượng sách so với mức kinh phí được nhận, gây khó khăn cho các em trong học
tập.
Trong trường hợp này, nhóm đề xuất đổi thành phương án trợ cấp bằng hiện vật
bằng cách liên kết với các nhà xuất bản từ đó vận chuyển sách trực tiếp từ nhà in tới
các đối tác phát hành trong khu vực, sau đó chuyển sách về các trường học. Như vậy sẽ
đảm bảo cho các em dù ở khu vực khó khăn như ven biển, hải đảo vẫn có thể được tiếp
cận với đủ các loại sách.
Bên cạnh đó,vì mỗi trường học đều có số học sinh cũng như nhu cầu cho từng
loại sách là khác nhau, nên các đơn vị phát hành sách có thể liên hệ với nhà trường để
đảm bảo số lượng sách cần thiết. Mặt khác,phương án này còn giúp các em có thể được
tiếp cận với nguồn sách đảm bảo chất lượng so với việc để nhà trường hoặc các em tự
mua.
Việc áp dụng mô hình quản lý chi tiêu công theo hướng hiện đại này giúp các
đơn vị cung ứng dịch vụ hàng hóa có hiệu quả cao hơn trong phạm vi ngân sách cho
trước: sự liên kết giữa các đơn vị cung ứng sách (nhà xuất bản - nhà sách) và đơn vị
vận chuyển trong khu vực có thể giúp làm giảm chi phí mua hàng và chi phí vận
chuyển (nhờ mua số lượng sách lớn).
3.9. Trợ cấp bằng hiện vật đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị (theo quy
định tại Nghị định của Chính phủ về điều kiện đầu tư và hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục)
Nhóm đề xuất đổi hình thức trợ cấp bằng hiện vật thành hình thức trợ cấp bằng
tiền. Các cơ sở giáo dục lập biên bản về những cơ sở vật chất còn chưa đạt chuẩn theo
theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, cần được kiểm chứng từ cơ quan và từ đó nhận tiền trợ cấp tương ứng
với cam kết hoàn thành trong thời gian nhất định. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất
cần được báo cáo thường xuyên nhằm đảm bảo tiến độ và tránh tình trạng thất thoát
nguồn lực. Phương án cũ gây nhiều khó khăn trong thủ tục hành chính và tiến độ thực
hiện vì trợ cấp hiện vật đến trường dân tộc nội trú không dễ dàng như trường thông
thường. Phương án trợ cấp bằng tiền khó kiểm soát về tình trạng CSVC và thiết bị hơn
trợ cấp hiện vật nhưng giúp giảm bớt đi nhiều thủ tục hành chính và đảm bảo hơn về
thời gian hoàn thành.
KẾT LUẬN
Khi kinh tế Việt Nam ngày một phát triển, công bằng xã hội trong giáo dục và đời
sống cần phải được thực hiện hiệu quả hơn nữa, nhất là đối với những trẻ em, học sinh,
học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và
hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách. Điều này mang
ý nghĩa quan trọng với tương lai kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của Việt Nam
với sự phát triển đồng đều giữa các vùng và nguồn nhân lực qua đào tạo đầy tiềm năng.
Trong những năm qua, nhà nước không ngừng hoàn thiện những chính sách cho các
đối tượng này, tuy nhiên quá trình này không dễ dàng, các dự thảo cần được xem xét,
góp ý kỹ lưỡng trước khi chính thức đưa ra nghị định.
Qua dự thảo này, có thể thấy, Đảng và nhà nước đưa ra những chính sách về phát
triển mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, chế độ ăn
uống,..,cho giáo dục vùng cao. Tuy nhiên, hệ thống chính sách ấy chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục, một số chính sách chưa
thỏa mãn yêu cầu thực tế, còn nhiều chồng chéo trong quá trình triển khai; nhiều chính
sách chưa cụ thể, chưa huy động được sự tham gia của toàn xã hội đối với giáo dục và
đào tạo vùng dân tộc thiểu số; một số chính sách đã ban hành nhưng không có hình
thức trợ cấp phù hợp khiến hiệu quả mang lại không tối đa. Bằng những đánh giá, phân
tích dựa trên lý thuyết đánh giá chính sách chi trợ cấp cho người nghèo, nhóm đã đưa
ra những đề xuất sửa đổi cho dự thảo, nâng cao tính hiệu quả của chính sách nhằm tiếp
cận với những đối tượng một cách kịp thời nhất. Và trên hết để chính sách có hiệu quả
nhất, cần có sự chung tay giúp sức của cả xã hội. Mỗi chúng ta hãy đóng góp một phần
công sức nhỏ bé để cuộc sống của những em nhỏ khó khăn được cải thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định của Chính phủ về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục (2017)
2. Sở Lao động - Thương binh xã hội tỉnh Sơn La, An sinh xã hội là gì ? Công
khai, minh bạch trong lĩnh vực an sinh xã hội là gì ?, ngày đăng: 12/06/2023
3. Tạp chí Giáo dục Việt Nam, Hỗ trợ 15 kg/học sinh/tháng cho tất cả lứa tuổi
là chưa phù hợp, ngày đăng: 13/07/2023
4. Tài liệu tham khảo An sinh xã hội trên LMS
5. ThS. Trần Thế Lân (2008), Lý thuyết phân phối thu nhập và suy nghĩ về Việt
Nam.
6. TS. Đào Nguyên Phúc (2021), Hoàn thiện chính sách giáo dục cho đồng bào
dân tộc thiểu số, miền núi
7. Vũ Cương ( chủ biên, 2012 ), Kinh tế và tài chính công, Nhà xuất bản Đại
học Kinh Tế Quốc Dân
8. Vũ Cương ( chủ biên, 2016), Kinh tế công cộng, Nhà xuất bản Đại học Kinh
tế Quốc dân

You might also like