Professional Documents
Culture Documents
ktcc phần đầu
ktcc phần đầu
NHÓM 8
HÀ NỘI, 2023
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Theo Ngân hàng thế giới, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm đáng kể trong giai
đoạn 2010 - 2020 trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng mạnh, giáo dục đạt nhiều thành
quả, và có sự dịch chuyển khỏi nông nghiệp. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 đã đẩy lùi
tiến bộ đạt được trong giảm nghèo, bất bình đẳng được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng.
Trong khi đó, Việt Nam cần đảm bảo rằng có các đường hướng dịch chuyển kinh tế
bền vững nhằm thực hiện khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao trong vòng
trong hai thập kỷ tới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam đã giúp nhiều người thoát khỏi
đói nghèo, nhưng một bộ phận dân số đáng kể vẫn trong tình trạng dễ bị tổn thương về
kinh tế. Cứ khoảng 5 người Việt Nam thì có một người sống dưới ngưỡng an ninh kinh
tế là 5,50 đô-la Mỹ một ngày. Mức độ bao phủ trợ giúp xã hội của Việt Nam thấp hơn
nhiều nước láng giềng Đông Á, Thái Bình Dương và cần được hiện đại hóa để mang
lại sự bảo vệ tốt hơn.
Chính vì vậy, việc quan tâm hơn nữa tới những chính sách trợ cấp cho người
nghèo trở thành một điều cốt yếu với một nước đang phát triển như Việt Nam. Những
chính sách này sẽ giúp xóa dần đi sự chênh lệch vốn có trong xã hội, giảm bớt một
phần nào gánh nặng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế, người lao động có thu
nhập thấp và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Đặc biệt trong nhóm người yếu
thế, đối tượng trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên chính là tương lai của đất nước, là
những búp măng non tràn đầy nhựa sống mang theo những hoài bão lớn lao. Theo như
lời Bác Hồ nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Do đó, cần có những chính
sách trợ cấp cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên có cuộc sống khó khăn để giúp các
em vươn lên trong cuộc sống, có cơ hội để tiếp tục sự nghiệp học hành của mình. Mới
gần đây Chính phủ đã đưa chính sách dự thảo “Nghị định quy định chính sách cho trẻ
em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi
ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính
sách” với mong muốn đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên, dự thảo vẫn còn những sự bất
cập do chưa có sự xem xét kỹ lưỡng tới đối tượng và hình thức trợ cấp. Vì vậy, bằng
kiến thức môn học Kinh tế công cộng 2 kết hợp với kiến thức thực tế, nhóm em sẽ
phân tích chính sách dự thảo này và đưa ra đề xuất cho những điều khoản trong dự thảo
còn chưa hợp lý.
Do kiến thức môn học và hiểu biết thực tiễn còn hạn chế, nhóm không thể tránh
khỏi những sai sót. Rất mong cô sẽ góp ý để bài viết của nhóm hoàn thiện hơn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN 1: CÁC LÝ THUYẾT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÁO CÁO
1.1. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
Các dạng thất bại của thị trường cho thấy bản thân thị trường có thể đưa đến
những kết cục phi hiệu quả, nếu không có sự can thiệp của chính phủ. Nhưng ngay cả
khi nền kinh tế đã vận hành có hiệu quả thì vẫn còn hai lý do nữa để chính phủ có thể
can thiệp, đó là mất công bằng xã hội và hàng hóa khuyến dụng. Đến đây, chúng ta đã
có những cơ sở quan trọng để luận chứng cho sự cần thiết phải có mặt chính phủ trong
những trường hợp cụ thể, giúp thị trường hoạt động có hiệu quả hơn và các kết quả
kinh tế tạo ra công bằng hơn. Ngoài chức năng muôn thuở của chính phủ là xây dựng
và bảo vệ các khuôn khổ pháp luật và cung cấp các hàng hóa công cộng, chính phủ còn
có bốn chức năng kinh tế cơ bản sau đây:
- Phân bổ lại nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế
- Phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội
- Ổn định kinh tế vĩ mô
- Đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế
=> Chính sách trên được thiết kế nhằm thực hiện vai trò phân phối lại thu nhập
nhằm đảm bảo công bằng xã hội của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước
đã có sự can thiệp trong phân phối lại thu nhập thông qua chính sách trợ cấp. Chính
sách đã đưa ra quy định nhằm hỗ trợ những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn và thu
nhập thấp nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có (công bằng dọc). Đối tượng và hình
thức trợ cấp sẽ được nhóm trình bày rõ ở phần sau.
1.2. Mạng lưới an sinh xã hội
1.2.1. An sinh xã hội là gì:
An sinh xã hội là hệ thống chính sách, các chương trình của Nhà nước và của
các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡ toàn xã hội, các cá nhân gặp phải rủi ro hoặc
biến cố xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ.
1.2.2. Các can thiệp phổ biến đến mạng lưới an sinh:
Có rất nhiều loại hình chương trình an sinh xã hội khác nhau: trợ cấp tiền mặt và
hỗ trợ bằng hiện vật, trợ giá chung, lao động công ích, trợ cấp tiền mặt có điều kiện
(CCT), và miễn phí dịch vụ y tế và giáo dục.
- Trợ cấp tiền mặt và các phương tiện giống tiền mặt:
Chúng được sử dụng để chuyển nhượng nguồn lực đến cho người nghèo hoặc
những người mà nếu không được trợ cấp sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo khổ.
Mục tiêu chính là tăng mức thu nhập thực tế của người nghèo và các hộ gia đình dễ bị
tổn thương
Yêu cầu đặt ra là đảm bảo chương trình tiếp cận đúng đối tượng dự kiến, làm
thế nào để tiền trợ cấp không biến mất trước khi đến tay người thụ hưởng. Chính vì để
đảm bảo tính hiệu quả, cơ cấu tổ chức và cung cấp cần được bố trí một cách đáng tin
cậy và hiệu quả bằng cách sử dụng công nghệ sẵn có.
Ưu điểm:
Khi đã có cơ sở hạ tầng hợp lý, chi phí vận hành các chương trình trợ cấp
tiền mặt thường nhỏ và thấp hơn nhiều so với chi phí cung cấp hỗ trợ
bằng hiện vật
Từ góc độ nhìn nhận của người được trợ cấp, trợ cấp tiền mặt giúp họ có
thể tự do lựa chọn cách sử dụng trợ cấp để cải thiện điều kiện kinh tế, tạo
ra mức hài lòng cao hơn so với trợ cấp bằng hiện vật
Nhược điểm:
Khó kiểm soát nguồn lực và sử dụng
Ảnh hưởng đến giá trị của chương trình trợ cấp
Chi phí phân phối lợi ích cao hơn
- Trợ cấp lương thực và chương trình trợ cấp bằng hiện vật khác:
Cung cấp thêm nguồn lực cho các hộ gia đình bằng cách đem lương thực đến
khi họ cần, chủ yếu là dưới hình thức khẩu phần lương thực. Sự khác biệt với chương
trình tiền mặt là các chương trình sử dụng lương thực như một nguồn lực và đem lại
cho người thụ hưởng sự lựa chọn hạn chế về các loại hàng hóa mà họ muốn tiêu dùng.
Mục tiêu chính là hỗ trợ tiêu dùng đủ lương thực và qua đó giúp người tiêu dùng nghèo
đạt đến và duy trì tình trạng dinh dưỡng tốt hơn. Bên cạnh đó, ngoài lương thực, có thể
cung cấp thêm các hiện vật khác như đồ dùng học tập, chăn màn, đồ dùng cá nhân phục
vụ cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Các loại hình chương trình: khẩu phần lương thực, các trợ cấp lương thực hiện
vật khác, bữa ăn bổ sung, bữa ăn học đường và các chương trình phân phát đồ dùng
sinh hoạt thiết yếu.
Ưu điểm:
Không chịu nhiều ảnh hưởng của lạm phát
Cải thiện kết quả học tập nhờ xóa bỏ tình trạng đói ăn trong thời gian
ngắn, bổ sung thực phẩm, đồ dùng thiết yếu và tạo ra động cơ đến lớp
Nhược điểm:
Giới hạn những lựa chọn trước mắt của người tiêu dùng
Chi phí khác nhau và khó khăn trong thu xếp, tổ chức
Như vậy, sau khi có trợ cấp bằng tiền lợi ích của người nhận đã tăng hơn so
với trước khi có trợ cấp.
Trợ cấp bằng hiện vật: Trường hợp cung cấp hàng hoá dịch vụ miễn phí
Trường hợp hiện vật được trợ Trường hợp hiện vật được trợ cấp
cấp ít hơn số lượng cần dùng (C*<X1) nhiều hơn số lượng cần dùng (C*>X1)
Sau khi có trợ cấp bằng hiện vật lợi ích của người nhận đã tăng hơn so với
trước khi có trợ cấp
Ảnh hưởng của trợ cấp đến lợi ích người nhận khi thay Trợ cấp miễn
phí bằng trợ cấp tiền có kinh phí tương đương
Trường hợp trợ cấp hàng hóa Trường hợp hiện vật được trợ cấp
nhiều hơn số lượng cần dùng (C*>X1) ít hơn số lượng cần dùng (C*<X1)
Đường bàng quan mới U3 Như vậy, tốn chi phí như nhau, trợ
cấp bằng tiền hay hiện vật đều mang lại
Như vậy, tốn chi phí như nhau kết quả như nhau
nhưng Trợ cấp bằng hiện vật mang lại
lợi ích thấp hơn cho người nhận so trợ
cấp bằng tiền
Trợ cấp bằng hiện vật: Trường hợp trợ giá hàng hoá và dịch vụ
Sau khi có trợ giá lợi ích của người nhận đã tăng hơn so với trước khi có trợ
cấp
Ảnh hưởng của trợ cấp đến lợi ích người nhận khi thay Trợ giá bằng trợ
cấp tiền có kinh phí tương đương
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT Ý KIẾN CỦA NHÓM ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH DỰ THẢO
3.1. Hình thức trợ cấp bằng tiền hỗ trợ tiền ăn bữa chính, bữa phụ
Đề xuất ý kiến: Nên đưa ra đối tượng cụ thể nhận tiền trợ cấp cho học sinh và
lựa chọn, chỉ định cơ sở cung cấp suất ăn hoặc nguyên liệu cung cấp cho bữa ăn của
học sinh nhằm đảm bảo phải có đơn vị chịu trách nhiệm toàn bộ cho số tiền trợ cấp và
tăng khả năng kiểm soát việc sử dụng nguồn tiền trợ cấp cũng như kiểm soát chất
lượng, số lượng đồ ăn cung cấp. Việc kiểm soát được đơn vị nhận nguồn trợ cấp và đơn
vị cung cấp thực phẩm sẽ tạo ra sự kiểm soát tốt hơn cho cơ quan quản lý. Tuy nhiên,
hình thức này không hoàn toàn triệt để, việc quy định cụ thể từng đơn vị chịu trách
nhiệm không thể xác định rõ 100% trong trường hợp các đơn vị câu kết với nhau để sử
dụng nguồn tiền trợ cấp không đúng quy định, gây thất thoát ngân sách. Hơn nữa, việc
thường xuyên có các đoàn thanh tra đi kiểm tra đảm bảo các suất ăn của các em sẽ
nâng cao hiệu quả nguồn tiền hỗ trợ. Cách này có thể tiến hành theo hướng kiểm tra
định kỳ và kiểm tra xác suất ngẫu nhiên không báo trước nhằm đảm bảo tính minh
bạch và kịp thời.
3.2. Hình thức trợ cấp bằng tiền hỗ trợ tiền nhà ở
Đề xuất ý kiến: Cần phải quy định cụ thể đối tượng sẽ tiếp nhận trực tiếp số tiền trợ cấp
và công khai quá trình sử dụng, lưu sổ sách để đảm bảo tính minh bạch. Điều này hạn
chế được việc số tiền trợ cấp sẽ không bị sử dụng sai quy định, sai đối tượng. Tuy
nhiên trên thực tế, tại một số vùng đặc thù, cơ sở vật chất ở đây còn hạn chế cho nên để
có thể tìm được điểm thuê nhà thật sự đủ điều kiện sinh hoạt là rất khó khăn. Vì vậy, để
hướng tới sự hiệu quả trong trợ cấp tiền nhà ở thì phải có giải pháp tốt cho chương
trình này:
(1) Nhà nước có chính sách xây dựng những khu nhà ở cho học sinh nhằm đảm
bảo sinh hoạt, có thể tham khảo phương pháp xây dựng nhà lắp ghép để cắt giảm chi
phí đầu tư và nguồn lực. Bên cạnh việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước thì có thể
huy động nguồn xã hội hoá (từ các tổ chức từ thiện) nhằm giảm bớt gánh nặng cho
NSNN (Thay đổi trợ cấp hiện vật)
(2) Có thể hỗ trợ bằng cách rà soát và tìm các gia đình có điều kiện hơn và sẵn
sàng giúp đỡ hỗ trợ chỗ ở cho các học sinh. Khi đó, CP có thể có khoản trợ cấp cho gia
đình giúp đỡ học sinh để cải thiện mức sống, một phần động viên, khuyến khích các
gia đình. Qua phân tích và xem xét thì nhóm đưa ra cách giải quyết như phương án (1)
do tính khả thi, tính hiệu quả cao hơn và ít hạn chế hơn so với phương án (2).
3. 3. Phương án mỗi học sinh, học viên được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và
được hưởng không quá 9 tháng/năm học
Ở đây có 2 tình huống được đặt ra là sức ăn của các em nhỏ hơn 15 kg
gạo/tháng và lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng.
- Với tình huống sức ăn của các em nhỏ hơn 15 kg gạo/tháng thì có những đề xuất
sau sẽ được đưa ra:
+ Giảm bớt số kg gạo cung cấp miễn phí cho các em và cung cấp thêm những
mặt hàng thực phẩm khác gửi theo tuần lên trên các điểm trường cho các em.
Theo thông tin nhóm tìm hiểu được, Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) đã nghiên
cứu và chỉ ra rằng đối với đối tượng thanh thiếu niên thì lượng tinh bột trung
bình 1 tháng (gồm cả gạo, ngô, khoai,.) chỉ nên từ 10-12 kg. Cho nên có thể coi
đây là một nguồn tham khảo cho việc xem xét lại số kg gạo sẽ cung cấp miễn
phí cho các em. Số tiền tương ứng với số kg gạo giảm đi có thể quy sang số tiền
tương đương để cung cấp thêm thịt, trứng, sữa, rau,..cho các em. Việc quy sang
những mặt hàng gì cần có sự tính toán kỹ lưỡng để sao cho bữa ăn của các em
đảm bảo chất dinh dưỡng và đa dạng nhất có thể.
Ưu điểm: Loại bỏ được việc sai đối tượng và sai mục đích sử dụng
Nhược điểm: Dễ dẫn đến tình trạng cung cấp những bữa ăn với thực
phẩm không phù hợp, không đủ dinh dưỡng cho các em. Hơn nữa điều
kiện một số trường còn rất thiếu thốn có thể dẫn tới tình trạng không có
tủ lạnh, tủ đông hay đủ nguồn điện để chứa tất cả thực phẩm đó. Điều
này khiến thực phẩm để lâu sẽ bị kém chất lượng, ôi thiu, không sử dụng
được nên rất lãng phí. Bên cạnh đó quá trình vận chuyển lên những vùng
núi, hải đảo, ven biển,. cũng khá khó khăn. Điều này sẽ làm phát sinh
thêm những khoản chi phí đi kèm theo như chi phí vận chuyển, chi phí
bảo quản thực phẩm,.
=> Cần có sự liên kết với các cơ sở cung cấp thực phẩm và lên một danh sách
thực phẩm hợp lý để cung cấp những thực phẩm sạch, chất lượng và phù hợp với các
em. Nhóm sẽ để tháp dinh dưỡng cho trẻ em từ 15-19 tuổi của Viện dinh dưỡng Bộ Y
tế dưới đây để mọi người có thể tham khảo. Ngoài ra, do cơ sở vật chất còn hạn chế
của những điểm trường ở những vùng khó khăn nên cần phải xem xét xem liệu cơ sở
vật chất đó có đủ đáp ứng cho việc lưu trữ và bảo quản thức ăn không. Những khoản
chi phí đi kèm cũng cần được tính toán cẩn thận. Với những khu vực ở vị trí thuận lợi
hơn và có sự giúp đỡ từ bên tư nhân (đặc biệt là các công ty về vận tải), cơ sở vật chất
đáp ứng đủ thì việc vận chuyển sẽ không quá khó khăn nên nếu trong khả năng kiểm
soát và chấp nhận được thì nên thực hiện phương án này. Còn nếu cơ sở vật chất không
đảm bảo và vị trí hiểm trở, thời tiết không thuận lợi, vận chuyển khó khăn thì có thể
xem xét đề xuất sau đây nhóm đưa ra.
+ Giảm bớt số kg gạo được cung cấp miễn phí và chuyển qua hỗ trợ một khoản
kinh phí tương đương cho các cơ sở giáo dục để cải thiện hơn bữa ăn cho các em. Bên
trường học và bộ phận bếp nấu sẽ phải dùng số tiền đó để tăng chất lượng bữa ăn cho
các em với các món đa dạng và dinh dưỡng hơn. Bên phía trường học sẽ phải lên thực
đơn và kê khai đúng số tiền đã chi trong từng tuần và thỉnh thoảng bên phía Nhà nước
sẽ có người xuống kiểm tra bất chợt bữa ăn của các em.
Ưu điểm: Bên phía nhà trường sẽ chủ động và linh hoạt hơn, chi phí đi
kèm cũng ít tốn kém hơn
Nhược điểm: Tiền dễ bị sử dụng sai mục đích và sai đối tượng
=> Đối với những trường có cơ sở vật chất không đảm bảo và vị trí hiểm trở,
thời tiết không thuận lợi, vận chuyển khó khăn thì phương án này sẽ hợp lí hơn phương
án trên. Tuy nhiên, để đảm bảo tiền được sử dụng đúng mục đích và đúng đối tượng
cần có sự quản lý chặt chẽ từ bên phía Nhà nước.
Kết luận chung: Sau khi phân tích nhóm đi đến kết luận chung là lựa chọn
phương án 2 ( giảm bớt số kg gạo được cung cấp miễn phí và chuyển qua hỗ trợ một
khoản kinh phí tương đương) vì đa phần những điểm trường này đều ở vị trí khá khó
khăn và cơ sở vật chất cũng chưa đảm bảo cho việc lưu trữ và bảo quản số lượng thực
phẩm lớn như vậy. Nên xem xét kỹ lưỡng thì phương án 2 sẽ khả thi và phù hợp hơn.
Tuy nhiên, cần lưu ý là phải quản lý chặt chẽ về nguồn kinh phí để đảm bảo số tiền đó
thực sự biến thành những bữa ăn ngon và dinh dưỡng cho các em.
- Với tình huống sức ăn của các em lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng thì có đề
xuất sau sẽ được đưa ra:
+ Giữ phương án cung cấp 15 kg gạo/tháng và hưởng không quá 9 tháng/năm
học.
Ưu điểm: Giúp các em có đủ lượng gạo cần thiết để ăn, giúp phần
nâng cao sức khỏe của các em. Trợ cấp đúng đối tượng và đúng
mục đích
Nhược điểm: Cũng giống như lương thực thực phẩm khác, trữ
lượng gạo lớn nhưng kho lưu trữ lại không có hoặc không đủ diện
tích. Với trữ lượng gạo lớn để trong kho lâu chất lượng cũng
không đảm bảo cho học sinh sử dụng. Việc vận chuyển cũng rất
khó khăn.
=> Tuy nhiên, nếu sức ăn của các em cũng ngang hoặc lớn hơn lượng gạo được
cung cấp miễn phí thì sẽ không lo trữ lượng trong kho quá lớn. Hoặc chắc chắn hơn có
thể chia nhỏ số gạo theo từng tuần và đem đi tiêu thụ nhanh chóng. Còn về việc vận
chuyển thì có thể sử dụng những phương án như tìm hiểu và xây dựng mối quan hệ với
nguồn cung cấp địa phương để mua gạo trực tiếp từ vùng gần nhất. Điều này sẽ giảm
thời gian và khó khăn trong việc vận chuyển từ xa. Cần có một hệ thống phân phối địa
phương bằng cách hợp tác với các tổ chức địa phương, nhóm tình nguyện viên, hoặc hỗ
trợ từ chính quyền địa phương=> Như vậy, nếu thực hiện được những điều trên, thì
phương án vẫn cung cấp 15 kg gạo/tháng và hưởng không quá 9 tháng/năm học là hợp
lý.
Kết luận chung: Nếu sức ăn của các em lớn hơn hoặc bằng 15 kg gạo/tháng thì
nhóm vẫn giữ nguyên phương án này nhưng phải đạt được những điều kiện kèm theo
nhóm đã trình bày để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện chính sách
bằng hình thức trợ cấp này.
3.4. Phương án học sinh được cấp tiền tàu xe hai lần mỗi năm học vào dịp
tết nguyên đán và dịp nghỉ hè (cả lượt đi và lượt về) theo giá vé thông thường của
phương tiện giao thông công cộng (trường hợp không có phương tiện giao thông
công cộng thì được tính theo quãng đường và giá vé thông thường của phương
tiện giao thông công cộng trên địa bàn tỉnh)