Professional Documents
Culture Documents
Tiền và
Hệ Thống Ngân Hàng
Một hệ thống đã được thiết lập với quy mô lớn để ngăn chặn ngân hàng hoảng loạn tạo ra sự
hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Milton Friedman
Tiền là điều quan trọng đối với đa số mọi người nhưng tại sao hệ thống ngân hàng
cũng là quan trọng đối với bất cứ ai mà không phải là người làm trong ngành ngân hàng?
Cả tiền và hệ thống ngân hàng đều giữ vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy sự sản xuất
của các loại sản phẩm và dịch vụ, mà tiêu chuẩn sống của mọi người phụ thuộc vào, và
chúng cũng là nhân tố chủ chốt trong khả năng của nền kinh tế nói chung về việc duy trì
việc làm của người và tài nguyên nó. Trong khi tiền không đồng nghĩa với sự giàu có -
nếu không thì chính phủ có thể làm cho chúng ta trở nên giàu gấp đôi bằng cách đơn giản
là in tiền ra nhiều gấp đôi - một hệ thống tiền tệ được thiết kế và duy trì tốt sẽ tạo điều
kiện cho sự sản xuất và sự phân phối của giàu có.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó bởi vì lượng lớn
của tài nguyên thực tế - nguyên liệu thô, máy móc, nhân công - những điều mà được
chuyển giao lại bằng cách sử dụng tiền, và sự phân bổ của những ai bị ảnh hưởng bởi
lượng tiền khổng lồ - hàng nghìn tỷ đôla - mà đi qua hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng
của Mỹ có tài sản là 14 ngàn tỷ đôla trong năm 2012 là một ví dụ. Một cách để thấy rõ
một lượng lớn như vậy là một ngàn tỷ giây trước, không ai trên hành tinh này có thể đọc
hay viết. Cả Đế Chế La Mã hay triều đại Trung Hoa cổ xưa đều chưa được thành lập và
tổ tiên của chúng ta vẫn còn sống trong những hang động.
Sự Lạm Phát
Sự lạm phát là một sự gia tăng chung về giá. Mức giá cả quốc gia tăng lên vì một
lý do tương tự như giá của một sản phẩm hay một dịch vụ cụ thể tăng lên - cụ thể là có
nhiều nhu cầu hơn nguồn cung tại một mức giá cụ thể. Khi mọi người có tiền nhiều tiền
hơn, họ có xu hướng tiêu nhiều hơn. Không có một sự gia tăng tương ứng trong mức sản
lượng, giá của những sản phẩm và dịch vụ hiện đang tồn tại đơn giản là cũng tăng lên vì
số lượng yêu cầu vượt quá số lượng cung cấp tại mức giá hiện tại và mọi người chống lại
lẫn nhau trong lúc túng thiếu đó hoặc người bán nhận ra nhu cầu sản phẩm của họ tăng
lên tại một mức giá và dựa trên đó và tăng giá.
Bất kể thứ gì mà tiền bao gồm - vỏ sò, vàng, hay bất cứ thứ gì - nhiều trong số đó
trong nền kinh tế quốc gia nghĩa là giá cao hơn, trừ khi có một nguồn cung sản phẩm và
dịch vụ lớn tương ứng.
Mối quan hệ giữa tổng số tiền và mức giá chung đã được nhìn thấy trong nhiều thế kỷ.
Khi Alexander Đại Đế bắt đầu sử dụng kho báu chiếm được từ người Ba Tư, giá cả tăng
lên
Tại Hy Lạp. Tương tự như khi người Tây Ban Nha lấy đi một lượng lớn vàng từ thuộc
địa của họ tại phía tây bán cầu, mức giá tăng không chỉ tại Tây Ban Nha, mà còn khắp
Châu Âu, vì người Tây Ban Nha sử dụng đa số tài sản của họ để mua hàng nhập khẩu từ
các nước châu Âu khác. Gửi vàng của họ đến những đất nước đó để trả cho những giao
dịch này được cộng vào tổng nguồn cung tiền khắp lục địa.
Không có điều nào ở đây là khó hiểu. Sự phức tạp và sự bối rối xuất hiện khi
chúng ra bắt đầu nghĩ về những điều bí ẩn và sai lầm như "bản chất của giá trị" đồng tiền
hay tin rằng vàng bằng cách nào đó "hỗ trợ" cho tiền và trong một vài cách bí ẩn đó đó
cho nó giá trị.
Đa số thời gian ở quá khứ, vàng đã được sử dụng như tiền bởi nhiều nước. Đôi khi
vàng được dùng trực tiếp ở bằng đồng xu hoặc (cho những giao dịch lớn) bằng vàng cục
nhỏ, thỏi, hay các dạng khác.
Thậm chí thuận tiện hơn để mang đi là những tờ tiền được in bởi chính phủ mà có thể
được chuộc lại vàng bất kể khi nào bạn muốn nó được chuộc lại. Đó không chỉ tiện hơn
để mang tờ tiền đi, nó cũng an toàn hơn là mang một lượng tiền lớn bằng kim loại mà kêu
leng keng trong túi bạn hay dễ gây chú ý trong các túi, thu hút sự chú ý của tội phạm.
Vấn đề lớn của tiền được tạo ra bởi chính phủ đó là những người điều hành chính phủ
luôn phải đối mặt với sự cám dỗ trong việc sử dụng tạo ra nhiều tiền hơn và sử dụng nó.
Bất kể là ở giữa các vị vua thời cổ xưa hay các chính trị gia thời hiện đại, điều này đã xảy
ra hết lần này đến lần khác qua các thế kỷ, dẫn đến lạm phát và rất nhiều vấn đề kinh tế
và xã hội khác mà ăn theo sự lạm phát. Vì lý do này, nhiều nước đã thích sử dụng vàng,
bạc và một vài loại vật liệu khác mà vốn đã giới hạn về nguồn cung như tiền. Đó là một
cách lấy đi khả năng mở rộng nguồn cung tiền đến mức lạm phát của chính phủ.
Vàng từ lâu đã được xem là lý tưởng cho mục đích này, khi mà nguồn cung vàng
trên thế giới không thể tăng một cách nhanh chóng. Khi tiền giấy có thể đổi thành vàng
bất kể khi nào một cá nhận chọn làm như thế, vì thế tiền được nói là được "hỗ trợ" bởi
vàng. Sự diễn đạt này bị hiểu lầm chỉ khi chúng ta tưởng tượng giá trị của vàng bằng một
cách nào đó được chuyển thành tiền giấy, khi thực tế lý do đó là vàng chỉ đơn giản giới
hạn lượng tiền giấy mà có thể được phát hành ra.
Đồng đôla Mỹ từng có thể mua lại được bằng vàng theo yêu cầu, nhưng điều đó đã
kết thúc trong năm 1933.Kể từ đó Mỹ đã đơn giản là có tiền giấy, bị giới hạn nguồn cung
chỉ vì những thứ mà chính quyền tưởng rằng họ có thể hoặc không thể thoát khỏi bằng
chính trị. Nhiều nhà kinh tế đã chỉ ra cái năng lực nguy hiểm mà điều này đã trao cho
chính phủ liên bang. Ví dụ như John Maynard Keynes đã viết : “Bằng một một quá trình
lạm phát đang tiếp diễn, chính phủ có thể tịch thu một cách bí mật và không gây chú ý
một phần quan trọng từ sự giàu có của người dân"
Như một ví dụ của hiệu ứng tích lũy của sự lạm phát, trong năm 2013 tờ Nhật Báo
Investor’s Business đã chỉ ra rằng trong năm 1960, “ với một đôla bạn có thể mua gấp sáu
lần những gì mà bạn có thể mua được ngày nay”. Nằm trong số những thứ khác, điều này
có nghĩa là những người mà tiết kiệm tiền trong những năm 1960 có nhiều hơn bốn phần
năm của giá trị bị âm thầm lấy đi từ họ.
Không thiên vị như lạm phát tại nước Mỹ, nó làm tái nhạt kề bên những mức độ
lạm phát đạt được tại một số nước khác. "Lạm Phát Hai Chữ Số" trong suốt một năm cụ
thể tại Mỹ tạo ra những báo động chính trị, nhưng nhiều nước khác nhau tại Châu Mỹ
Latin và Đông Âu đã từng có giai đoạn mà mức độ lạm phát hàng năm là bốn chữ số.
Từ khi tiền là bất cứ thứ gì mà chúng ta chấp nhận như là tiền trong việc thanh
toán cho những sản phẩm và dịch vụ thực, có nhiều thứ khác mà hoạt động bằng một
cách rất tương tự như tiền chính thức được phát hành bởi chính phủ. Thẻ tín dụng, thẻ ghi
nợ và séc là những ví dụ dễ nhìn thấy nhất. Những lời hứa cũng có thể hoạt động như là
tiền, phục vụ để có được sản phẩm và dịch vụ thực tế, khi mà người hứa được tin tưởng
nhiều. Giấy ghi nợ từ những thương gia đáng tin tưởng đã từng qua tay từ người này đến
người khác như là tiền. Như đã ghi chú ở Chương 5, nhiều giao dịch bằng thẻ tín dụng
hay thẻ ghi nợ được thực hiện nhiều hơn là bằng tiền vào năm 2003.
Điều này nghĩa là nhu cầu tổng hợp được tạo ra không chỉ bởi tiền được phát hành
bởi chính phủ mà còn bởi khoản tín dụng có nguồn gốc từ nhiều nguồn khác nhau. Điều
này cũng có nghĩa là một sự thanh lý khoản tín dụng, vì bất kể lý do gì khác, làm giảm
nhu cầu tổng hợp, cũng như nếu nguồn cung tiền chính thức bị thu nhỏ lại. Một vài ngân
hàng thường phát hành tiền tệ của riêng họ, loại tiền tệ mà không có chỗ đứng hợp pháp,
nhưng tuy nhiên cũng được chấp nhận rộng rãi trong các phương thức thanh toán khi
ngân hàng cụ thể đó được xem là đáng tin tưởng và sẵn sàng thu lại tiền của họ bằng
vàng. Vào những năm 1780, tiền tệ được phát hành bởi Ngân Hàng Bắc Mỹ được chấp
nhận rộng rãi hơn là tiền của chính thức của chính phủ thời đó.
Đôi khi tiền được phát hành bởi một vài nước khác được yêu thích hơn là tiền
được phát hành bởi chính nước đó.Vào cuối thế kỷ thứ 10, tiền của Trung Quốc được yêu
thích hơn tiền Nhật Bản ngay tại chính đất nước Nhật. Tại Bolivia thế kỷ 20, đa số các tài
khoản tiết kiệm là tiền đôla vào năm 1985, suốt thời kì trốn tránh lạm phát của đồng Peso
bolivia. Vào năm 2007, Tờ New York Times đưa tin: “ Đồng Rand của Nam Phi đã thay
thế đồng tiền về bản chất là không có giá trị của Zimbabwe như là một đơn vị tiền tệ do
tự chọn. Trong thời kỳ cuối của cuộc nội chiến Mỹ, Phe Miền Nam có khuynh hướng
dùng loại tiền tệ được phát hành tại Washington, hơn là tiền của Chính Phủ Liên Bang
của họ.
Vàng tiếp tục được yêu thích hơn nhiều loại tiền tệ quốc gia khác, mặc dù vàng
vàng không nhận được tiền lãi, trong khi tiền gửi trong ngân hàng thì có. Sự lên xuống
thất thường của giá vàng phản ánh không chỉ sự thay đổi của nhu cầu để nó có thể làm đồ
trang sức - nguồn gốc của khoảng 80% yêu cầu của vàng - hay cho một số mục đích của
một vài ngành công nghiệp và cơ bản hơn nữa, những sự lên xuống thất thường này phản
ánh mức độ lo lắng về những khả năng của những việc này có thể làm xói mòn sức mua
của tiền chính thức. Đó là lý do vì sao những khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị và
quân sự có thể đưa giá của vàng đi lên, khi mà mọi người bắt đầu bỏ cổ phần của loại tiền
tệ mà có thể ảnh hưởng và bắt đầu đấu thầu lẫn nhau để mua vàng, như là một cách đáng
tin tưởng hơn để giữ sự giàu có hiện tại. Kể cả khi nó không có lãi hay cổ tức.
Từ khi giá vàng phụ thuộc vào sự mong chờ của mọi người về giá trị của tiền, giá
có thể tăng hay giảm một cách rõ rệt, và đảo ngược một cách nhanh chóng, để đáp lại sự
thay đổi về các tình trang kinh tế chính trị. Mức tăng rõ rệt nhất của giá vàng trong một
năm là 135% vào năm 1979 - sự rớt giá vàng dễ nhận thấy nhất là 32% chỉ trong 2 năm
sau.
Những sự lạm phát đang tồn tại hoặc được mong chờ thường dẫn đến sự tăng lên
của giá vàng, khi mà mọi người tìm cách che chở sự giàu có của họ khỏi sự tịch thu thầm
lặng của chính phủ bởi sự lạm phát. Nhưng một giai đoạn dài của sự phồn thịnh với việc
giá cả ổn định có khả năng sẽ thấy giá vàng rớt, khi mà mọi người di dời sự giàu có của
họ ra khỏi vàng và đưa nó vào một loại tài sản tài chính khác mà nhận được lãi hay cổ tức
và có thể vì vậy mà gia tăng sự giàu có của họ. Khi mà những cuộc khủng hoảng kinh tế
vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 đã qua đi, và sau đó là một giai đoạn
dài của sự phát triển ổn định và mức lạm phát thấp, giá vàng rớt theo các năm từ khoảng
800 đôla một ounce đến khoảng 250 đôla một ounce vào năm 1999. Nhưng vẫn sau đó,
sau sự thâm hụt liên bang kỷ lục tại Mỹ và những vấn đề tương tự tại một số nước Châu
Âu vào những năm đầu của thế kỷ 21, giá vàng tăng vọt lên 1000 đôla một ounce.
Một nỗi sợ không lời vĩ đại đằng sau nhu cầu về vàng là nỗi sợ hãi của lạm phát.
Cũng không phải là nỗi sợ này là không hợp lý, được biết rằng chính phủ đủ loại - từ
quân chủ đến dân chủ và độc tài đã thường xuyên dùng đến lạm phát, như là một lý do để
lấy được nhiều tài sản hơn mà không cần phải đối mặt trực tiếp với công chúng với thuế
cao hơn.
Tăng mức thuế đã luôn tạo ra những mối nguy chính trị đến những người mà nắm
giữ quyền lực chính trị. Sự nghiệp chính trị có thể bị hủy hoại khi những người bầu cử
công khai chống lại những người mà nâng mức thuế. Đôi khi phản ứng của công chúng
đối với việc mức thuế cao hơn có thể dẫn đến những cuộc nổi dậy vũ trang, như những
lần dẫn đến chiến tranh giành độc lập tại Mỹ từ tay của người Anh. Ngoài những phản
ứng chính trị chống đối việc thuế cao hơn, cũng có thể có những phản ứng bất lợi cho
kinh tế. Khi mà mức thuế đạt đến mức cao hơn, những hoạt động kinh tế cụ thể có thể bị
bỏ rơi bởi những người không thể tìm thấy tỷ lệ hoàn vốn ròng trên những hoạt động này,
đủ để biện bào chữa cho nỗ lực của họ.
Do đó nhiều người từ bỏ nông nghiệp và chuyển lên các thành phố trong thời kỳ suy tàn
của Đế Chế La Mã, thêm vào số người cần được chăm sóc bởi chính phủ, tại thời điểm
mà nguồn lương thực đang suy giảm vì những người mà đã ngưng làm nông nghiệp.
Để có thể tránh được những mối nguy chính trị mà việc nâng mức thuế có thể tạo
ra, các chính phủ trên khắp thế giới trong hàng ngàn năm qua đã phải nhờ đến lạm phát.
Như John Maynard Keynes đã xem xét:
Không có hồ sơ nào về một cuộc chiến tranh kéo dài hay một biến động xã hội
lớn nào mà không đi cùng bởi một sự thay đổi trong đấu thầu hợp pháp, nhưng
một niên sử gần như còn nguyên vẹn tại mọi nước mà có lịch sử, trở lại thời kỳ
đầu của các kỷ lục kinh tế, sự suy giảm tiến bộ trong giá trị thực của các hồ sơ
dự thầu liên tiếp mà đại diện cho tiền.
Nếu chiến đầu trong một cuộc chiến lớn đòi hỏi một nửa sản lượng hàng năm của
một đất nước, sau đó thay vì nâng mức thuế lên 50% những gì mà mọi người kiếm được
để có thể trả cho cuộc chiến đó, chính phủ có thể chọn tạo ra tiền cho cuộc chiến đó và
dùng số tiền đó mua vật trang thiết bị vật tư phục vụ cho chiến tranh. Với một nửa nguồn
tài nguyên quốc gia được dùng để sản xuất trang thiết bị và đồ dùng quân sự, hàng dân sự
sẽ trở nên khan hiếm hơn cũng như tiền trở nên dồi dào hơn. Sự thay đổi tỷ lệ tiền của
hàng dân sự này sẽ dẫn đến lạm phát, khi mà nhiều tiền hơn mua được ít hàng hóa hơn,
và kết quả là sự tăng giá.
Không phải tất cả sự lạm phát được gây ra bởi chiến tranh, tuy nhiên lạm phát
thường đi cùng với xung đột quân sự. Ngay cả trong thời bình, các chính phủ đã tìm ra
nhiều thứ để sử dụng tiền, bao gồm lối sống xa hoa của vua hay nhà độc tài và nhiều dự
án phô trương mà đã phổ biến dưới thời của cả chính phủ dân chủ và chính phủ phản dân
chủ. Để có thể chi trả cho những thứ như vậy, sử dụng quyền lực của chính phủ để tạo ra
tiền đã thường được xem là dễ hơn và an toàn hơn về mặt chính trị hơn là nâng các mức
thuế. Nói cách khác, sự lạm phát có hiệu lực một loại thuế ẩn. Tiền mà mọi người đã tiết
kiệm bị cướp một phần sức mua của nó, được chuyển giao một cách lặng lẽ cho chính
phủ mà phát hành tiền mới.
Sự lạm phát không chỉ là một loại thuế ẩn, mà nó còn là một loại thuế dựa trên
diện rộng.
Một chính phủ có thể tuyên bố là họ không nâng thuế, hay sẽ nâng thuế đối với “người
giàu” - dù bằng cách nào được xác định - nhưng, bằng việc tạo ra sự lạm phát, nó có hiệu
lực chuyển giao một số tài sản của những người có tiền, có thể nói là, nó thu hút tài sản
trên toàn bộ phạm vi thu nhập và tài sản, từ người giàu nhất đến người nghèo nhất. Đến
mức mà người giàu đầu tư tài sản của họ vào chứng khoán, bất động sản, hay tài sản hữu
hình khác mà tăng lên về giá trị cùng với sự lạm phát, họ thoát khỏi một vài loại thuế
thực tế này, những loại mà người có thu nhập thấp hơn không thể trốn thoát.
Trong kỷ nguyên tiền giấy hiện đại, việc tăng cung tiền là một vấn đề tương đối
đơn giản là bật máy in tiền.Tuy nhiên, một thời gian dài trước khi có máy in tiền, chính
phủ có thể tạo ra nhiều hơn bằng một quá trình đơn giản là giảm lượng vàng hay bạc
trong các đồng xu của một mệnh giá nhất định. Do đó một đồng franc Pháp hay một đồng
Bảng Anh có thể bắt đầu bằng cách chứa một lượng kim loại quý giá nhất định, nhưng
đồng xu sau đó được phát hành bởi chính phủ Pháp và Anh sẽ chứa ít và ít hơn lượng kim
loại đó, cho phép những chính phủ này phát hành nhiều tiền hơn từ một lượng vàng hay
bạc nhất định. Từ khi đồng xu mới có giá trị pháp lý tương tự như đồng xu cũ, sức mua
của chúng đều giảm khi tiền xu trở nên dồi dào hơn.
Các phương pháp tinh vi hơn trong việc tăng số lượng tiền đã được sử dụng tại
nhiều nước với ngân hàng trung ương được kiểm soát bởi chính phủ, nhưng kết quả thực
vẫn là như nhau: Một sự gia tăng lượng tiền, mà không có sự gia tăng tương ứng trong
nguồn sản phẩm thực tế, nghĩa là giá cả tăng-có thể nói là, lạm phát. Ngược lại, khi sản
lượng tăng lên trong thời kỳ cách mạng công nghiệp của Anh vào thế kỷ 19, giá cả của
quốc gia giảm xuống bởi vì nguồn cung tiền không tăng lên tương ứng.
Gấp đôi nguồn cung tiền trong khi lượng sản phẩm còn lại vẫn như cũ có thể sẽ
nhiều hơn là tăng gấp đôi mức giá, vò tốc độ mà tiền lưu thông tăng lên khi mọi người
mất đi niềm tin vào việc nó giữ lại giá trị của nó. Trong suốt sự suy giảm mạnh mẽ của
giá trị đồng Rup Nga vào năm 1998, một phóng viên Mátxcơva đưa tin: “Nhiều người
đang gấp rút tiêu đồng tiền Rúp đang mất giá một cách càng nhanh càng tốt khi mà đồng
tiền này vẫn còn có ít giá trị”
Một điều gì đó rất tương tự xảy ra tại Nga trong Thế Chiến Thứ Nhất và trong
những năm ngay sau cuộc cách mạng năm 1917.
Vào năm 1921, lượng tiền phát hành bởi chính phủ Nga cao gấp hàng trăm lần so với tiền
được lưu hành vào đêm trước cuộc chiến năm 1913- và mức giá tăng đến hơn vài ngàn
lần so với năm 1913. Khi tiền lưu thông nhanh hơn, ảnh hưởng lên giá cả cũng tương tự
như có nhiều tiền hơn trong sự lưu thông. Khi cả hai thứ xảy ra cùng một lúc trên quy mô
lớn, kết quả có được là lạm phát bỏ chạy. Trong năm khủng hoảng cuối cùng của Liên
Bang Xô Viết 1991, giá trị đồng Rúp rớt xuống thấp đến nỗi người Nga dùng nó để làm
giấy dán tường và giấy vệ sinh, cả hai loại giấy mà đều đang khan hiếm.
Có lẽ sự lạm phát nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 xảy ra tại Đức trong suốt những
năm 1920, khi mà 40 Mark đáng giá một đôla vào tháng 7 năm 1920, nhưng phải mất 4
ngàn tỷ Mark để có được một đôla vào tháng 11 năm 1923. Mọi người khám phá ra rằng
tiền tiết kiệm cả đời của họ không đủ để mua một bao thuốc lá. Chính phủ Đức đã thực sự
lấy cắp hầu hết mọi thứ mà họ sở hữu bởi một quá trình đơn giản là cho hơn 1700 máy in
tiền chạy ngày và đêm để in tiền. Một vài người đã đổ lỗi cho sự hỗn loạn kinh tế và sự
vỡ mộng cay đắng của thời đại này vì đã thiết lập đoạn đường cho sự trỗi dậy của Adolf
Hitler và Phát Xít.
Trong suốt sự lạm phát bỏ chạy này, Hitler đã đặt ra cụm từ “Tỷ phú chết đói” vì người
Đức với một tỷ Mark vẫn không thể đủ để mua thức ăn tự nuôi sống mình.
Mức độ lạm phát thường được đo bằng những sự thay đổi trong chỉ số giá tiêu
dùng. Như những chỉ số khác, chỉ số giá tiêu dùng chỉ là xấp xỉ vì giá của nhiều thứ khác
nhau thay đổi một cách khác nhau.
Ví dụ, khi giá tiêu dùng tại Mỹ tăng trong suốt 12 tháng là 3.4 % vào tháng 3 năm 2006,
những thay đổi này trải dài từ mức tăng 17.3 % cho năng lượng cho đến 4.1 % cho chăm
sóc ý tế và mức giảm 1.2 % trong giá của trang phục.
Trong khi hiệu ứng của giảm phát là dễ nhìn thấy hơn là hiệu ứng của lạm phát -
từ khi ít tiền có nghĩa là ít giao dịch hơn, và vì vậy giảm sự sản xuất của sản phẩm mới,
với ít hơn về nhu cầu nhân công tương ứng - tác động của lạm phát có thể khiến nền kinh
tế ngừng hoạt động. Lạm phát bỏ chạy nghĩa là các người sản xuất thấy rủi ro khi sản
xuất, khi giá mà họ có thể bán sản lượng của họ có thể sẽ không đại diện cho sức mua
nhiều như tiền mà họ đã bỏ ra để sản xuất số sản lượng đó. Khi lạm phát ở Châu Mỹ
Latinh đạt đỉnh khoảng 600% mỗi năm vào năm 1990, sản lượng thực tế ở Châu Mỹ
Latinh giảm hoàn toàn trong cùng năm đó. Nhưng, sau vài năm tiếp theo không có lạm
phát, sản lượng thực tế đã đạt một mức tăng trưởng mạnh mẽ 6% mỗi năm.
Sự Giảm Phát
Khi mà lạm phát đã là một vấn đề đã tồn tại nhiều thế kỷ, tại nhiều thời điểm và
địa điểm cụ thể sự giảm phát cũng đã tạo ra những vấn đề, một trong số chúng là hủy
hoại.
Từ năm 1873 qua 1896, mức giá đã giảm 22% tại Vương Quốc Anh, và 32% tại
Mỹ. Những quốc gia công nghiệp này và những quốc gia công nghiệp khác đã là tiêu
chuẩn vàng và sản lượng của họ tăng nhanh hơn nguồn cung vàng thế giới. Khi mà giá
cả của một đầu ra và đầu vào giảm, các khoản nợ được xác định bằng tiền vẫn giữ
nguyên - có hiệu quả, làm cho các khoản thế chấp và khoảng nợ khác trở thành giống như
một gánh nặng lên sức mua thực tế hơn khi những khoản nợ này phát sinh. Rắc rối này
của các con nợ cũng trở thành một rắc rối cho chủ nợ, khi con nợ không thể trả và đơn
giản là vỡ nợ.
Nông dân đã đặc biệt bị ảnh hưởng bởi mức giá giảm vì nông sản giảm giá đặc
biệt mạnh, trong khi những thứ mà nông dân mua không giảm giá nhiều như vậy, và các
khoản thế chấp và các khoản nợ nông nghiệp khác yêu cầu cùng một lượng tiền như
trước.
Một sự giảm phát còn tồi tệ hơn nữa xảy ra ở Mỹ thế kỷ 20. Như đã ghi chú tại
phần đầu của chương 16, nguồn cung tiền tại Mỹ giảm một phần ba từ năm 1929 đến
1933, khiến cho người Mỹ bất khả thi trong việc mua được nhiều sản phẩm và dịch vụ
như trước kia với mức giá cũ. Giá cả không giảm xuống - danh mục của Sears năm 1931
có nhiều giá mà thấp hơn so với chính nó một thập kỷ trước - nhưng một vài giá không
thể thay đổi vì liên quan đến những hợp đồng pháp lý.
Các khoản thế chấp về nhà ở, nông trại và tòa nhà văn phòng đều được chỉ định
các khoản thanh toán thế chấp hằng tháng bằng số tiền cụ thể. Các điều khoản này có thể
khá hợp lý và dễ dàng đáp ứng khi tổng số tiền trong nền kinh tế là lớn hơn đáng kể,
nhưng giờ cũng giống như những khoản thanh toán này đã được tự ý nâng lên - như trong
thực tế chúng được tăng lên về các điều khoản sức mua thực tế. Nhiều gia chủ, nông dân
và thương gia đơn giản là không thể chi trả sau khi nguồn cung tiền quốc gia bị rút lại -
và vì vậy họ mất những nơi mà họ ở. Những người thuê nhà cũng đối mặt với những vấn
đều tương tự, vì ngày càng khó khăn để có thể kiếm tiền để trả tiền thuê nhà. Một lượng
lớn hàng hóa và dịch vụ được mua bằng tín dụng bởi các doanh nghiệp và cá nhân cũng
như các khoản nợ sản xuất mà hiện nay khó để có thể trả hơn là khi tín dụng được mở
rộng trong một nền kinh tế với nguồn cung tiền lớn hơn.
Những người mà lương và thu nhập được quy định trong hợp đồng - trải dài từ các
công nhân hợp nhất cho đến cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp - hiện được cho phép hợp
pháp có nhiều sức mua thực tế hơn là khi những hợp đồng này ban đầu được ký kết. Các
nhân viên của chính phủ cũng vậy, những người mà thang lương được sửa đổi bởi pháp
luật. Nhưng, trong khi giảm phát mang đến lợi ích cho thành viên của những nhóm cụ
thể này nếu như họ giữ công việc của họ, sự khó khăn trong việc chi trả cho chúng nghĩa
là nhiều người có thể mất việc của họ.
Tương tự như vậy, các ngân hàng mà sở hữu những khoản thế chấp mà nhiều
người gặp khó khăn để trả được đã được hưởng lợi bằng việc nhận được những khoản
thanh toán thế chấp đáng giá hơn sức mua so với trước kia - nếu họ nhận được các khoản
thanh toán. Nhưng cũng nhiều người không thể trả các khoản nợ của họ khiến cho các
ngân hàng bắt đầu thất bại. Hơn 9000 ngân hàng đỉnh chỉ hoạt động trong suốt khoảng
thời gian 4 năm từ 1930 qua đến 1933. Những người chủ nợ khác cũng bị mất tiền khi
con nợ đơn giản là không thể trả nợ.
Cũng giống như giảm phát có xu hướng trở nên tệ hơn bởi thực tế mọi người tiêu
tiền tệ mất giá nhanh hơn bình thường, để có thể mua thứ gì đó với số tiền đó trước khi
nó mất giá nhiều hơn, vì vậy một sự giảm phát có xu hướng trở nên tồi tệ hơn bởi sự thật
là mọi người bám víu vào đồng tiền lâu hơn, đặc biệt là trong thời kỳ suy thoái, với sự
thất nghiệp lan rộng khiến cho công việc của mọi người hay việc kinh doanh trở nên bấp
bênh. Không chỉ có ít tiền được lưu thông hơn trong thời kỳ suy nhược kinh tế từ năm
1929 đến 1932, tiền thời điểm đó được lưu thông chậm hơn, khiến cho nhu cầu về hàng
hóa và dịch vụ giảm sâu hơn. Điều đó lần lượt làm giảm nhu cầu về nhân công để sản
xuất ra chúng, tạo nên sự thất nghiệp hàng loạt.
Trên lý thuyết, chính phủ có thể tăng nguồn cung tiền để đưa mức giá về mức mà
nó đã từng như trước kia. Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang được thành lập, gần 20 năm sớm
hơn trong thời kỳ quản lý của Woodrow Wilson, để đối mặt với những thay đổi trong
nguồn cung tiền quốc gia.
Tổng thống Wilson giải thích rằng Cục Dự Trữ Liên Bang “cung cấp một loại tiền tệ mà
có thể mở rông khi cần và thu lại khi không cần” và “sức mạnh để có thể điều hướng hệ
thống tín dụng này là đưa vào bàn tay của một hội đồng công cộng của các cán bộ công
bình của chính phủ để tránh bị điều khiển bởi giám độc ngân hàng hay những khoản tiền
lãi khác.
Bất kể nghe có vẻ hợp lý đến mức nào, điều mà một chính phủ có thể làm trên lý
thuyết là không nhất thiết phải giống như những gì nó có khả năng làm theo phương diện
chính trị, hay những gì mà các nhà lãnh đạo của nó có thể hiểu được theo phương diện trí
tuệ. Hơn nữa, sự thật là các quan chức chính phủ không có lợi ích tài chính các nhân
trong các quyết định mà họ đưa ra không có nghĩa là họ “không quan tâm” đối với các lợi
ích chính trị liên quan đến quyết định của họ.
Kể cả khi quan chức của Cục Dự Trữ Liên Bang không bị ảnh hưởng bởi lợi ích
tài chính hay lợi ích chính trị, điều đó không có nghĩa là quyết định của họ là nhất thiết
phải có thẩm quyền - và, không giống như những người mà quyết định tùy thuộc vào sự
điều chỉnh của thị trường, người ra quyết định của chính phủ không phải đối mặt với
những sự điều chỉnh vô thức như vậy. Nhìn lại Cuộc Đại Suy Thoái của những năm 1930,
cả hai nhà kinh tế học bảo thủ và tự do đã thấy chính sách tiền tệ của Hệ Thống Dự Trữ
Liên Bang trong giai đoạn đó là bối rối và phản tác dụng. Milton Friedman đã gọi những
người mà điều hành Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang trong những năm đó là “đần độn” và
John Kenneth Galbraith gọi họ là một nhóm với “sự bất lực đáng kinh ngạc”. Ví dụ, Cục
Dự Trữ Liên Bang đã nâng lãi suất vào năm 1931 khi sự suy thoái kinh tế đang ở gần
đáy, với các doanh nghiệp thất bài và các ngân hàng sụp đổ với đơn vị hàng ngàn trên
khắp đất nước, cùng với tỷ lệ thất nghiệp lớn.
Ngày nay, bất cứ ai với kiến thức kinh tế cơ bản cũng có thể được mong chờ là sẽ
hiểu rằng bạn sẽ không thể thoát ra khỏi sự suy thoái bằng cách nâng mức lãi suất, từ
khhi mức lãi suất cao hơn làm giảm lượng tín dụng và vì thế tiếp tục giảm nhu cầu tổng
hợp lại tại một thời điểm mà nhu cầu nhiều hơn là cần thiết để khôi phục lại nền kinh tế.
Cũng không phải là các tổng thống mà đang ở trong văn phòng trong suốt Cuộc
Đại Suy Thoái gian trá hơn về phương diện kinh tế hơn là các quan chức của Cục Dự Trữ
Liên Bang.
Cả hai tổng thống Herbert Hoover của Đảng Cộng Hòa và người kế thừa thuộc Đảng Dân
Chủ Franklin D. Roosevelt, nghĩ rằng mức lương không nên bị giảm xuống, vì thế cách
điều chỉnh giảm phát này không được ủng hộ bởi chính phủ liên bang - cả về lý do nhân
đạo và lý do chính trị.
Cái lý thuyết là duy trì mức lương theo các điều khoản tiền nghĩa là duy trì sức mua, để
ngăn chặn sự suy giảm thêm về doanh thu, sản lượng và việc làm.
Không may thay, chính sách này có hiệu quả chừng nào mà mọi người vẫn còn giữ
được công việc của họ - và mức lương cao hơn trong một điều kiện nhất định, đặc biệt là
sự giảm phát, nghĩa là lượng việc làm thấp hơn. Vì vậy mức lương một giờ cao hơn
không được chuyển thành thu nhập tổng thể cao hơn cho người lao động, và do đó không
cung cấp cơ sở cho nhu cầu tổng hợp cao hơn mà cả hai tổng thống mong đợi. Joseph A.
Schumpeter, một nhà kinh tế học hàng đầu của thời thời đại đó, đã thấy sự chống cự đối
với những điều chỉnh giảm dần trong tiền lương làm cho Cuộc Đại Suy Thoái tồi tệ hơn.
Viết vào năm 1931, ông ấy nói:
Sự suy thoái đã không được gây ra bởi mức lương, mà được gây ra bởi những yếu tố
khác, và được tăng cường nhiều bởi yếu tố này.
Tuy nhiên rõ ràng là không cần thiết phải là một nhà kinh tế học để có thể hiểu
được những gì mà cả tổng thống Hoover và Roosevelt không thể hiểu. Nhà báo Walter
Lippmann, viết vào năm 1934, đã cho biết, “trong một cuộc suy thoái con người không
thể bán sản phẩm hay dịch vụ của họ với mức giá trước khi suy thoái. Nếu họ cố gắng với
mức giá trước suy thoái cho các sản phẩm, họ sẽ không bán được chúng.
Nếu họ đòi mức lương trước suy thoái thì họ sẽ trở thành người thất nghiệp.” Hàng triệu
người thất nghiệp - nhiều người trong hoàn cảnh kinh tế tuyệt vọng - không phải là những
người đòi mức lương trước suy thoái.
Chính là những chính trị gia mà đã cố gắng giữ lương ở mức trước suy thoái.
Cả sự quản lý của tổng thống Hoover và sự quản lý tiếp theo của tổng thống
Roosevelt đều áp dụng cùng một lý luận - cho nền nông nghiệp mà họ đã áp dụng cho
người lao động:
Giá của sản phẩm nông nghiệp được chính phủ giữ lại để duy trì sức mua của nông dân.
Tổng thống Hoover quyết định rằng chính phủ liên bang nên "cho những loại giá cả bị
giảm xuống nghiêm trọng một sự hỗ trợ gián tiếp" trong nông nghiệp. Tổng thống
Roosevelt sau đó đã thể chế hóa chính sách này về chương trình trợ giá nông nghiệp mà
đã dẫn đến sự khủng hoảng lớn về lương thực tại thời điểm nạn đói lan rộng. Tóm lại,
quan niệm sai về kinh tế đều phổ biến và thuộc về cả hai Đảng.
Cũng không phải là các quan niệm sai về kinh tế chỉ hạn chế trong phạm vi nước
Mỹ. Viết vào năm 1931, John Maynard Keynes cho biết rằng những chính sách tiền tệ
của chính phủ Anh mà những cuộc tranh luận được mở ra cho những chính sách đó
"không thể tồn tại 10 phút trong những sự thảo luận có lý lẽ."
Chính sách tiền tệ chỉ là một trong những phạm vi mà không đủ để chính phủ có
thể làm những việc mà khiến cho tình hình trở nên khá hơn. Điều quan trọng là những
điều mà chính phủ có thể sẽ làm, mà trong nhiều trường hợp có thể làm cho tình hình trở
nên tệ hơn.
Không chỉ trong thời kỳ thảm hỏa trong nước và quốc tế, như là Cuộc Đại Suy
Thoái của những năm 1930, sự giảm phát có thể trở thành một vấn đề nghiêm trọng.
Trong suốt thời hoàng kim của tiêu chuẩn vàng trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, bất kể
khi nào mà sự sản xuất của sản phẩm và dịch vụ tăng nhanh hơn nguồn cung vàng, giá cả
sẽ có xu hướng giảm xuống, cũng như giá cả có xu hướng tăng lên khi nguồn cung tiền
tăng nhanh hơn nguồn cung của những thứ mà tiền có thể mua.
Mức giá trung bình tại nước Mỹ, là một ví dụ, thấp hơn vào cuối thế kỷ 19 so với
khoảng đầu thế kỷ.
Giống như trong những trường hợp khác của sự giảm phát - mà, một sự tăng lên về sức
mua của tiền - điều này làm cho các khoản thế chấp, hợp đồng cho thuê, hợp đồng và
những loại nghĩa vụ phải trả tiền hợp pháp khác tăng lên về giá trị thực. Tóm lại, những
con nợ trên thực tế nợ nhiều hơn - trong giá mua thực tế - so với những gì họ đã đồng ý
trả khi mượn tiền.
Ngoài những rắc rối mà được tạo ra bởi các nghĩa vụ hợp pháp cố định về các
điều khoản tiền, còn có những rắc rối khác được tạo ra bởi sự giảm phát do thu nhập của
nhiều người khác nhau bị ảnh hưởng khác nhau bởi sự thay đổi của giá cả. Sự giảm phát
cũng giống như sự lạm phát ảnh hưởng đến nhiều loại giá cả khác nhau một cách khác
nhau. Tại Mỹ, như đã ghi chú ở trên, giá cả của những gì mà nông dân bán được có
khuynh hướng giảm nhanh hơn so với giá của những gì mà họ mua:
Giá của lúa mì, lưng lửng vòng quanh một đôla cho một giạ trong khoảng vài thập
kỷ, giảm xuống 90 cent vào năm 1892, khoảng 75 cent vào năm 1893, vừa tới 60
cent vào năm 1894. Cuối mùa đông 1895 - 1896, giá đã giảm xuống dưới 50 cent
một giạ.
Trong khi đó, những khoản thanh toán thế chấp của nông dân vẫn giữ nguyên như
những gì mà đã được quy định trong các điều khoản tiền - và vì vậy chúng đã tăng lên
trong các điều khoản thực tế trong suốt thời kỳ giảm phát. Hơn nữa, việc thanh toán của
những khoản thế chấp này bây giờ phải được trả từ những thu nhập từ trang trại mà bằng
một nữa hoặc ít hơn trước kia khi mà những khoảng thế chấp này được đưa ra.
Đây chính là bối cảnh cho chiến dịch tranh cử tổng thống của William Jennings Bryan
vào năm 1896, dựa trên yêu cầu kết thúc tiêu chuẩn vàng , và đã được lên đỉnh điểm bởi
bài phát biểu xúc động của ông ấy nói rằng "bạn không thể đóng đinh cả nhân loại lên
cây thập giá bằng vàng."
Vào thời điểm mà nhiều người sống ở nông thôn hơn là trên thành phố và thị trấn,
ông ấy đã suýt nữa bị đánh bại bởi William McKinley. Điều mà làm diệu áp lực chính trị
để kết thúc tiêu chuẩn vàng đó là sự phát hiện của các trầm tích vàng mới tại Nam Phi,
Úc, và Alaska. Những khám phá này đã dẫn đến việc tăng các mức giá lần đầu tiên trong
20 năm, bao gồm giá của nông sản, loại giá mà tăng đặc biệt nhanh chóng.
Với những hiệu ứng làm giảm phát của tiêu chuẩn vàng giờ đã là của quá khứ,
không chỉ là sự phân cực chính trị lên vấn đề được làm dịu tại Mỹ, nhiều nước trên khắp
thế giới tiếp tục tiêu chuẩn vàng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, tiêu
chuẩn vàng không ngăn cản lạm phát hay giảm phát, mặc dù nó giới hạn khả năng chi
phối nguồn cùng tiền của các chính trị gia, và bằng cách đó giữ cho cả lạm phát và giảm
phát trong phạm vi giới hạn hẹp hơn. Cũng như sự tăng trưởng của sản lượng nhanh hơn
sự tăng trưởng của nguồn cung vàng đã gây ra sự giảm sút chung trong mức giá trung
bình, vì vậy những khám phá về lượng lớn trầm tích vàng - như ở California thế kỷ 19,
Nam Phi, và Yukon - làm cho giá cả tăng lên đến mức lạm phát.