You are on page 1of 9

MỞ ĐẦU

Quy luật lưu thông tiền tệ và thực trạng lạm phát được viết ra ở đây nhằm giới thiệu tầm quan
trọng của bộ môn kinh tế chính trị.

Lịch sử đã cho thấy quá trình trao đổi giữa hàng hoá và tiền tệ là một quá trình diễn ra tất yếu
của xã hội loài người.Nó đóng vai trò quan trọng giúp đồng tiền sinh lời và là phương tiện để trao
đổi hàng hoá thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Nghĩa là tiền tệ và hàng hoá không thể tách rời nhau,nó tồn tại và biến động theo một qui luật
khách quan của tình hình giá cả của đất nước hay giá cả của kinh tế thế giới.

Nói cách khác quy luật lưu thông tiền tệ phụ thuộc vào sự phát triển hay những biến động của
nền kinh tế thị trường.

Đặc biệt,trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.Cùng với sự phát triển của kinh tế đất
nước đang trên con đường hướng tới CNXH.Vấn đề này ngày càng được chính phủ quan tâm,từ
đó có những chiến lược lâu dài đẩy mạnh phát triển kinh tế,đẩy lùi lạm phát tới mức thấp nhất.

Trên cơ sở đó giúp ta hiểu thêm về nguồn gốc,bản chất,chức năng và thực trạng lạm phát của
tiền tệ.Từ đó có những giải pháp thiết thực nhất để giải quyết tình hình lạm phát của đất nước.

Đó là những vấn đề không thể thiếu được từ đó có thể vận dụng vào công việc kinh doanh cũng
như trong cuộc sống sau này.

Tiểu luận này được viết ra giúp ta nâng cao được kĩ năng phân tích,kĩ năng vận dụng lí
luận.Nhằm bổ sung nhiều hơn kiến thức lí luận hiện đại việc lưu thông tiền tệ và tình hình lạm
phát của Việt Nam.

Mục đích của của việc viết tiểu luận cũng là để nâng cao chất lượng và hỗ trợ cho bàI thi sắp tới
đạt kết quả tốt nhất.

NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUI LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ

1.Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ

a. Nguồn gốc

Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự xuất hiện những vật ngang
giá chung.Vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng
hoá thông thường khác.Đặc điểm của chúng là:có giá trị sử dụng thiết thực ,quý hiếm ,dễ bảo
quản vận chuyển và mang tính đặc thù địa phương .

Thời gian đầu , vật ngang giá chung thường là những hàng hoá có giá trị sử dụng thiết thực cho
từng khu vực hoặc nhiều vùng có điều kiện tự nhiên và phong tục xả hội tương tự nhau.Sau đó
vật ngang giá chung được chọn là những hàng hoá có ý nghĩa tượng chưng như:vỏ sò,da
thú,vòng đá .khi trao đổi hàng hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của các bộ lạc và dân tộc ,
thì vật ngang giá chung được gắn vào kim loại .
Kim loại được sử dụng làm vật ngang giá chung đầu tiên là sắt và kẽm.Sau đó là đồng rồi đến
bạc.Đầu thế kỉ XIX,vàng bắt đầu đóng vai trò vật ngang giá chung và kim loại này được gọi là
“kim loại tiền tệ”.

Khi một khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng (thành sắc)nhất định được chế tác
theo một hình dáng nào đó được gọi là tiền tệ .

Như vậy khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang gía chung,thì cái tên”vật ngang giá chung”được thay
bằng “tiền tệ”.Nói cách khác,đây chính là hình thái tiền của giá trị hàng hoá.Từ những vật ngang
giá chung là những hàng hoá thông thường đến tiền tệ , sản xuất và trao đổi hàng hoá đã trải qua
một thời kì lịch sử lâu dài.Trong quá trình này vật ngang giá chung đã tự gạt bỏ lẫn nhau:những
hàng hoá - vật ngang giá chung,có giá trị thấp và mang sắc thái sử dụng ,được thay thế bằng
nhửng vật ngang giá chung có giá trị cao hơn và mang ý nghĩa tượng chưng.Sự hoàn thiện từng
bước của vật ngang gía chung đánh dấu bằng sự xuất hiện mà tiền tệ ở đầu thế kỉ XIX,không
những phản ánh số lượng và chủng loại hàng hoá đưa ra thị trường ngày càng phong phú ,mà
còn phản ánh trình độ sản xuất hàng hoá đã tiến bộ vượt bậc so vói thời gian trước đây.

Vàng độc chiếm vai trò vật ngang giá chung, nhìn bên ngoài như một quá trình hoàn toàn mang
tính ngẫu nhiên .Nhưng trái lại,tiền tệ là sản phẩm và đánh giá công bằng về mặt khoa học thì
tiền tệ là một trong ba phát minh quan trọng nhất của xã hội loài người từ lịch sử cổ đại cho đến
ngày nay.

Khi vàng đóng vai trò vật ngang giá chung thế giới hàng hoá được chia thành hai cực rõ rệt:một
phía là những hàng hoá thông thường,trực tiếp biểu hiện giá trị sử dụng và mỗi hàng hoá chỉ có
thể thỏa mãn được một và một vài nhu cầu nào đó của con người. Còn phía bên kia – cực đối lập
là vàng – tiền tệ, trực tiếp biểu hiện giá trị của mọi hàng hóa khác.Vì tiền có thể trao đổi trực tiếp
được với mọi hàng hóa trong bất kì điều kiện nào, cho nên tiền có thể thỏa mãn được nhiều nhu
cầu của người sở hữu nó. Chính vì thế – tiền tệ được coi là một loại hàng hoá đặc biệt

b.Bản chất

Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt ,đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của tất cả
các hàng hóa khác . Tiền có thể thỏa mãn được một số nhu cầu của người sở hữu nó , tương ứng
với một số lượng giá trị mà người đó tích lũy được .

Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ là một phạm trù
kinh tế - lịch sử , là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa . Tiền tệ ra đời , phát triển và tồn tại cùng
với sự phát sinh , phát triển và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa . Điều đó có nghĩa là ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì chắc chắn ở đó có tiền tệ . Quá trình này chứng minh
rằng : “ … Cùng với sự chuyển hóa chung của sản phẩm lao động và hàng hóa , thì hàng hóa cũng
chuyển thành tiền tệ “.

Trước khi vàng trở thành tiền tệ kim loại nay vốn đã là hàng hóa . Do đó , cũng như các hàng hóa
khác tiền tệ có hai loại thuộc tính : Giá trị và giá trị sử dụng . Nhưng là hàng hóa đặc biệt , tiền tệ
có giá trị sử dụng đặc biệt . Đó là giá trị sử dụng xã hội . Về vấn đề này C.Mác đã viết “ Giá trị sử
dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông,còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư
cách là lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó “. Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã
chứng minh rằng nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động . Nó tồn tại và phát triển
theo những quy luật khách quan khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao ,
nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó, thì quá trình “ Phi vật thể “ của
tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương ứng. Nghĩa là vai trò tiền tệ của vàng ngày càng
giảm, đồng thời vị trí kim loại quý của vàng ngày càng được xác lập và tăng lên. Sự phát triển
theo hai cực như trên đối với vàng cũng tương tự như vật ngang giá chung trước nó là một quy
luật .
Ngày nay ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, quan
niệm về tiền tệ đã có những thay đổi cơ bản. Thực tiễn đã cho thấy : Tiền không phải chỉ là vàng,
mà những phương tiện có thể trao đổi được với hàng hóa - Dịch vụ đều được coi là tiền . Vì vậy
tiền được hiểu theo định nghĩa mới như sau : Tất cả những phương tiện có thể đóng vai trò chung
gian trao đổi , được nhiều người thừa nhận đều được gọi là tiền .

Định nghĩa mới về tiền làm phong phú bản chất của nó , đồng thời mở ra hướng phát triển trong
tương lai của các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế thị trường .

c. Chức năng

Thước đo giá trị

Giá trị của tiền được sử dụng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hóa hay dịch vụ ,
thông quá quan hệ này tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị .

Phương tiện lưu thông thực hiện chức năng phương tiện lưu thông , tiền được sử dụng làm môi
giới trung gian trong trao đổi hàng hóa , nó vận động đồng thời và ngược chiều với sự vận động
của hàng hóa . Quá trình thực hiện chức năng này có thể diễn đạt bằng công thức sau :

H-T-H

Thứ nhất , quá trình trao đổi hàng hóa được tách làm hai giai đoạn riêng biệt là bán và mua . Giai
đoạn “ H-T” là giai đoạn bán hàng , đây là thời kì chuyển hóa giá trị của hàng hóa thành tiền . Đây
là công việc khó khăn nhất của người sản xuất hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị trường . Giai
đoạn “ T-H’ là giai đoạn mua hàng , những người sở hữu tiền có thể thực hiện giai đoạn này một
cách dễ dàng . Hai giai đoạn mua, bán hàng hóa được thực hiện hoàn toàn độc lập nhau : Kết
thúc giai đoạn bán, mới thực hiện mua .

Thứ hai , lưu thông hàng hóa tách rời hành vi mua và bán cả về không gian và thời gian . Người
sản xuất hàng hóa có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác , bán lúc này và mua lúc khác . Tình
trạng này có thể dẫn đến hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu về một số loại hàng hóa nào
đó theo không gian và thời gian . Khi thực hiện phương tiện lưu thông tiền tệ phải có đầy đủ điều
kiện sau đây :

- Phải sử dụng tiền mặt

Tiền mặt phải là tiền đang có giá trị lưu hành , chúng có hình dáng kích thước và tiêu chuẩn giá
cả nhất định và được pháp luật nhà nước thừa nhận . Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu
thông bắt buộc phải sử dụng tiền mặt , vì trong quá trình trao đổi này có sự chuyển quyền sở hữu
giữa người sở hữu hàng hóa và người sở hữu tiền tệ . Bằng chứng duy nhất chứng minh lao động
của người sản xuất hàng hóa bỏ ra là cần thiết cho xã hội , khi hàng hóa của họ được bán hết và “
giấy chứng nhận “ đó chính là tiền mặt.

- Có thể sử dụng tiền dấu hiệu

Mục đích của người bán hàng không phải là trở thành kẻ sở hữu tiền tệ vĩnh viễn mà là để mua
bán đạt đến một giá trị sử dụng mới . Do vậy tiền tệ đối với họ chỉ là “ Môi giới thoáng quá “ .
Chính vì thế mà khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông có thể sử dụng tiền đủ giá ( tiền
vàng ) hoặc tiền dấu hiệu ( giấy bạc ngân hàng ) cũng được .

- Lưu thông chỉ chấp nhận một lượng tiền nhất định

Số lượng hàng hóa đưa vào lưu thông trong kỳ với tổng giá cả đã được xác định . do đó lưu thông
cũng chỉ có thể chấp nhận một khối lượng tiền nhất định để thực hiện các quan hệ trao đổi . Đó
là số lượng tiền cần thiết . Số lượng tiền này tăng hay giảm trong lưu thông phụ thuộc vào hai yếu
tố
Thứ nhất , tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thông .

Thứ hai , tốc độ bình quân lưu thông của tiền tệ .

Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng của nền kinh tế thị
trường . Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định được khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông một cách chính xác ? Trên cơ sở đó để cung ứng tiền cho lưu thông phù hợp.

+ Phương tiện dự trữ giá trị

Dự trữ giá trị là tích lũy một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện chuyền tải giá trị được
xã hội thừa nhận với mục đích để chuyển hóa thành hàng hoặc dịch vụ trong tương lai.

Sau khi bán hàng, nếu người sử hữu tiền tệ không thực hiện nghiệp vụ mua hàng tiếp theo
thì lúc này tiền tạm ngừng lưu thông và chúng tồn tại dưới dạng “ giá trị lưu trữ”

Thực hiện chức năng dự trữ giá trị , các phương tiện chuyền tải giá trị phải đảm bảo yêu cầu sau
đây :

Thứ nhất , giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực . Nghĩa là một số
lượng cụ thể cân , đo , đong, đếm được chứ không phải là một lượng tiền “ tương tự “

Thứ hai, giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận . Cũng có thể chúng được
đảm bảo rằng thông lệ của địa phương hay quốc gia .

Thứ ba, giá trị dự trữ mang tính chất thời gian, chính vì thế mà chủ sở hữu thường chọn những
phương tiện chuyền tải giá trị phù hợp để đáp ứng nhu cầu về thời gian mà mình mong muốn .
Nếu dự trữ trong tương lai gần người ta thường sử dụng ngay các loại dấu hiệu giá trị hiện có .
Nếu dự trữ trong tương lai xa hơn , thì người ta thường chọn những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi
vững giá hoặc vàng , còn với dự trữ chỉ với mục đích dự trữ, không ấn định thời gian sử dụng số
giá trị này thì lúc này giá trị dự trữ mang mục đích cất trữ. Từ trước đến nay và trong tương lai xa
hơn nữa, kim loại vàng vẫn đáp ứng được mọi yêu cầu của mục đích cất trữ.

Tiền cất trữ thì không lưu thông nữa. Nhưng nơi cất trữ tiền thực sự lại là “ kho” chứa phương tiện
lưu thông trong từng thời kỳ. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vàng vẫn có khả năng thanh
toán không hạn chế. Vì vậy, cất trữ vàng không những là nhu cầu, mà là còn sự ham muốn của
nhiều người

- Phương tiện thanh toán

Tiền là phương tiện thanh toán các khoản nợ về hàng hóa - dịch vụ đã trao đổi trước đây. Khi
chức năng phương tiện thanh toán được thực hiện xong thì quan hệ trao đổi cũng kết thúc

Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Tiền không chỉ được sử dụng để trả các khoản nợ
về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh toán các khoản nợ bên ngoài phạm
vi trao đổi hàng hóa như : Nộp thuế, trả lương các khoản đóng góp và chi dịch vụ …

Thực hiện chức năng thanh toán có thể thực hiện tiền đủ giá hoặc các loại giá trị. Đặc biệt có thể
sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt để giải quyết các khoản nợ trong nền kinh
tế quốc dân. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì doanh số thanh toán không dung tiền mặt
càng chiếm tỉ trọng lớn và doanh số thanh toán bằng tiền mặt sẽ giảm xuống tương ứng

- Phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới


Cùng sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, quan hệ
tiền tệ thế giới cũng ngày càng mở rộng và tăng cường.

Tất cả các hoạt động đối ngoại đều liên quan đến các khoản chi phí bằng tiền. Nhưng mỗi quốc
gia có giá trị riêng, cho nên những khoản giao dịch bằng tiền giữa hai nước đều phải so sánh giá
trị giữa hai đồng tiền. Đó chính là quan hệ tỉ giá. Sau khi có tỉ giá giữa các đồng tiền thì mọi giao
dịch quốc tế có thể diễn ra bình thường và thuận lợi

Tuy nhiên, trong chức năng phương tiện trao đổi quốc tế, phạm vi lưu thông và thanh toán của
nhiều đồng tiền cũng bị giới hạn về không gian và thời gian. Ngay cả những đồng tiền được coi là
mạnh nhất như USD trong tương lai cũng không thể vượt khả năng hiện nay mà nó đã có. Hơn
nữa nó cũng chỉ là một loại tiền dấu hiệu cho nên không thể là phương tiện dự trữ lâu dài được.

Trong thực tiễn các quan hệ hàng hóa- tiền tệ gần như mở rộng khắp các nước và khu vực trên
thế giới. Để thực hiện các quan hệ này, chỉ có thể sử dụng “ tiền tệ thế giới “. Tiền tệ thế giới là
phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia.

Khác với các đồng tiền quốc gia chỉ lưu thông và thanh toán có giới hạn, tiền tệ thế giới không
những là phương tiện thanh toán chung, phương tiện chi trả chung, mà còn là phương tiện di
chuyển tài sản và của cải giữa các quốc gia.

Ngày nay trên trường quốc tế vàng ít được lưu thông, mà chủ yếu lưu thông dấu hiệu giá trị. Vàng
chỉ được sử dụng để thanh toán cuối cùng khi cán cân thanh toán quốc tế của nước nào đó bị
chênh lệch thiếu hoặc vì nhu cầu khẩn cấp của quốc gia

2 Quy luật lưu thông tiền tệ

a. Nội dung

Xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong từng thời kì.

Giữa các quốc gia số lượng các phương tiện là tiền không giống nhau. Điều này hoàn toàn phụ
thuộc vào quy chế tài chính và sự tiến bộ của công nghệ ngân hàng ở mỗi quốc gia. Còn tổng
khối lượng các phương tiện được coi như tiền là bao nhiêu thì khó xác định chính xác, như các
tác nhân phát hành, chế độ và phương thức sử dụng phương tiện lưu thông, không gian và thời
gian nghiên cứu, phương pháp thống kê.. từ căn cứ thực tế này định nghĩa về khối lượng tiền
trong lưu thông được nêu ra như sau : Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện
được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa và dịch vụ tại một thị trường nhất định
và trong thời gian nhất định

- Cung ứng tiền cho lưu thông

Số tiền do các tác nhân và thể nhân giữ lại vì một mục đích nào đó hợp thành tổng cầu tiền. Về
mặt kinh tế tiền giữ lại không sinh lời. Thời gian giữ lại càng lâu, lợi nhuận mất đi càng lớn, nó trái
ngược với đầu tư. Do đó, các tác nhân và thể nhân chỉ giữ lại tiền khi có một khoảng lợi ích nào
đó bù đắp vào lợi tức ích bị mất ở trên.

b, Vai trò

Giúp cho chính phủ căn cứ để phát hiện cần thiết cho lưu thông.

Giúp cho hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều hòa, lưu thông tiền tệ, khống chế kiểm
soát lạm phát, củng cố sức mua để đồng tiền chuyển đổi.

Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng ngày một bền vững. Thúc đẩy tăng trưởng và
cải thiện vật chất.
3. Lý luận về lạm phát.

a, Khái niệm:

Là hiện tượng kinh tế xuất hiện khi lượng tiền phát hành vượt quá nhu cầu lưu thông mà nhà nước
không điều chỉnh để kéo dài dẫn đến giá cả tăng đột biến.

b, Phân loại: 3 loại

- Lạm phát vừa phải: là lạm phát khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức “một con số”. Tổng
tỉ lệ lạm phát cả năm dưới 10%

Lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Nguyên
nhân của loại lạm phát này thường là do:

+ Hiện tượng kinh tế tự nhiên


+ Nhà nước duy trì lạm phát này với mục đích riêng của mình
- Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa bắt đầu tăng với tỉ lệ hai hoặc ba
con số, nghĩa là mức độ 20%, 100% hoặc 200% năm

Thông thường thì loại lạm phát phi mã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

- Siêu lạm phát là loại lạm phát khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần lạm phát phi mã

c, Nguyên nhân

- Tốc độ gia tăng sản xuất chậm hơn tốc độ gia tăng tiền.
- Do chiến tranh thiên tai đột biến ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng.
- Do khủng hoảng hệ thống chính trị làm cho việc điều hành sản xuất không được quan
tâm. Nhưng quan trọng hơn là đồng tiền được tín nhiệm

d, Hậu quả
- Sức mua đồng tiền giảm
- Giá cả tăng vọt
- Đời sống người hưởng lương khó khăn
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.
1. Tình hình lạm phát từ năm 1990 về trước
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm
quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lượng kiến thức còn hạn chế, tôi nghĩ rằng quan tâm
nghiên cứu đến đề tài cũng là một phương pháp tìm hiểu nó một cách thấu đáo, sâu sắc
hơn.
a, Thực trạng
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô là việc kìm
chế lạm phát. Thực ra không phải 10 năm gần đây lạm phát mới xuất hiện ở Việt Nam từ
năm 1980 mà trở về trước lạm phát cũng đã tồn tại, chỉ có điều biểu hiện của nó không
công khai, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội V trở về trước không sử
dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ “Chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và
tiền…”, “Thị trường vật giá không ổn định…”

Lạm phát ở thời kì này là “Lạm phát ngầm” nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do thì tăng
cao, vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân.
Sau một thời kỳ “ủ bệnh” đã bộc phát thành lạm phát công khai với mức lạm phát phi mã
cũng tăng giá ba chữ số. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này.

“Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả,
tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt
quá nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra
thiếu hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng”.

Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm
tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát,
ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các
ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này.
Lạm phát đã giải từ hơn 70% một năm vào năm 1986 xuống chỉ còn 35% vào năm 1989. Đây
là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh
tế, áp dụng một tỷ giá thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hóa, vàng và đô la Mỹ
bắt đầu tích lũy bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên,
những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách
tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993 giá cả đã tăng gần 70%
một năm.
III. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT
1. Ổn định tiền tệ
Là giải pháp tình thế và chiến lược của nhà nước nhằm hạn chế và đi đến chấm dứt lạm phát,
khôi phục lại giá trị của giấy bạc tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển bình thường.
- Chống lạm phát là một chính sách kinh tế chiến lược của nhà nước nhưng tùy theo
điều kiện của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, chính phủ có thể áp dụng những giải
pháp khác nhau.
2. Giải pháp khắc phục lạm phát
a. Những giải pháp cấp bách
- Những biện pháp chống lạm phát cấp bách còn gọi là những biện pháp tình thế,
những biện pháp này được áp dụng với mục đích giảm tức thời “ cơn sốt lạm phát “,
để có cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định lâu dài.
- Khi xảy ra tình trạng làm phát phi mã hoặc siêu lạm phát thì những biện pháp tình
thế để ổn định lưu thông tiền tệ thường được áp dụng là:

+ Ngừng phát hành tiền vào lưu thông : Biện pháp này còn gọi là “ đóng băng
tiền tệ “. Nghĩa là các tác nhân và thể nhân có bao nhiêu tiền thì sử dụng bấy
nhiêu. Ngân hàng phát hành tạm ngừng thực hiện các nghiệp vụ “ tái chiết
khấu’’ và “ tái cầm cố “. Ngay cả số bội chi của ngân sách cũng không được
sử dụng vốn phát hành . Mục đích biện pháp này không cho tiền tăng thêm
trong lưu thông
+ Tăng lãi suất gửi , đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm:
Biện pháp này có tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp và ngân hàng giảm
“sức ép “ đối với hàng hóa trên thị trường. Để hút mạnh tiền mặt ngoài lưu thông vào quỹ
tiết kiệm thì mức lãi suất phải đủ “ hấp dẫn “ . Đến khi tỉ lệ lạm phát giảm thì ngân hàng cũng
giảm dần lãi suất tiết kiệm.
+ Cắt giảm khoản chi phí chưa cấp bách từ ngân sách : Như khoản chi phí cho văn
hóa, giáo dục , y tế …. Chưa thật cấp thiết. Hoãn được khoản chi phí này cũng làm “
dịu “ bớt tình hình lạm phát.
+ Bán ngoại tệ và vàng nhằm mục đích “ hút “ tiền mặt từ lưu thông vào ngân hàng
+ Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quỹ hàng hóa
tiêu dùng, cân đối với số tiền lưu thông.
+ Vay và xin viện trợ từ bên ngoài
+ Cải cách tiền tệ : đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao, mà
các biện pháp trên chưa mang lại kết quả mong muốn

b. Những biện pháp ổn định tiền tệ chiến lược


Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển kinh tế quốc dân. Tổng thể
những biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế của đất nước, xác lập cơ sở ổn định tiền tệ
vững chắc. Trong thực tiễn những biện pháp thường được áp dụng là:
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh
tế quốc dân
Xuất phát từ nguyên lý “ lưu thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ “, nên
nếu quỹ hàng hóa được tạo ra với số lượng lớn, phong phú về chủng loại, giá cả ổn định ….
thì đây sẽ là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ. Thực tiễn cũng cho thấy những
nước có nền kinh tế phát triển là những nước có đồng tiền mạnh và là những ngoại tệ tự do
chuyển đổi của thế giới. Phấn đấu để có được kết quả này là việc làm không phải đơn giản.
Nội dung cốt lõi ở đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “ kế hoạch và thị trường’’ trong thời
kì dài và từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế quốc dân
- Tạo nghành sản xuất hàng hóa “ mũi nhọn “ cho xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế quan trọng và không thể thiếu trong điều kiện mở
rộng giao lưu kinh tế quốc tế hiện nay. Hoạt động này mở rộng và phát triển sẽ có nguồn thu
ngoại tệ quan trọng nhất để nhập hàng hóa từ bên ngoài, bổ sung cho khối lượng hàng
trong nước, tạo cơ sở ổn định tiền tệ. Tùy thuộc vào điều kiện đặc thù về tài nguyên, lao
động, xã hội … mỗi quốc gia phải tự tạo cho mình một ngành sản xuất mũi nhọn mang tính
độc quyền quốc tế, ngành “ mũi nhọn “ này sẽ đóng vai trò quyết định trong việc tạo nguồn
thu bằng ngoại tệ của quốc gia.
- Cắt giảm biên chế hoàn toàn bộ máy tài chính.
Đây là biện pháp hành chính với mục đích giảm nhẹ các khoản chi từ ngân sách nhà
nước. Giảm nhẹ được các khoản chi này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự
lưu thông tiền tệ . Ở Việt Nam vấn đề này được quan tâm là giảm bớt số đầu doanh
nghiệp thuộc bộ máy quản lý. Đồng thời, tinh giảm số nhân viên hành chính, viên
chức và công chức. Như vậy số chi tiền lương từ ngân sách nhà nước sẽ giảm đi.
- Soát xét thường xuyên chính sách thu, chi của nhà nước : Nhằm mục đích tăng
thêm nguồn thu, không bỏ sót khoản thu, giảm số chi tiết kiệm khoản chi,ổn định
ngân sách vững chắc. Nếu ngân sách thường xuyên cân đối, có bội thu thì chắc
chắn lưu thông tiền tệ sẽ ổn định.
- Lạm phát để chống lạm phát
Đây là biện pháp có vẻ như “ không hợp lí “, nhưng sẽ tạo ra sự hợp lí để ổn định
lưu thông tiền tệ. Đối với những quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai, tài
nguyên,.. nhưng chưa được khai thác vì thiếu vốn, nhà nước có thể mạnh dạn phát hành để
đầu tư và biết sử dụng nguồn vốn này đúng hướng và đúng lúc, thì nó sẽ là yếu tố liên kết
các tiềm năng trên với nhau. Chắc chắn sự “ lạm phát “ sẽ tạo ra kết quả ổn định tiền tệ như
mong muốn
- Siết chặt tín dụng ngân hàng
- Huy động vốn từ người dân

KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày
hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả
không tương xứng với lợi ích đem lại .
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành
hành công khai khi việt nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xóa bỏ cơ chế bao cấp, quan
liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm
trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước vượt lên chính sự
đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm
tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính
trị,...
Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không
vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất
cứ lúc nào. Chính vì vậy đảng và nhà nước ta cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi
của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát
triển khoa học, giáo dục,đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các
nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành
cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới.

You might also like