You are on page 1of 4

I.

Tiền tệ

Tiền là gì???

- Tiền là vật ngang giá chung có tính thanh khoản cao nhất dùng để trao đổi lấy
hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận và
thường được Nhà nước phát hành bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như
vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ hoặc được một thuật toán mã hóa trên
một mạng máy tính đảm bảo phát hành như Bitcoin, Ethereum.
- Tiền là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch
vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (Ví
dụ như tiền giấy hay tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi
nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán được một
cộng đồng công nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Một phương tiện
thanh toán trên nguyên tắc là dùng để trả nợ. Khi là một phương tiện thanh toán
tiền là phương tiện trao đổi chuyển tiếp vì hàng hóa hay dịch vụ không thể trao
đổi trực tiếp cho nhau được.
a. Nguồn gốc và bản chất của tiền

Tiền là hình thái không thể thiếu trong thời đại ngày nay. Nhờ có sự xuất hiện của tiền
mà mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nền kinh tế có thể thỏa mãn các mục đích của mình
một cách đơn giản. Hình dạng của tiền ngày nay rất hoàn thiện và ngày càng đa dạng
bởi sự phát triển của khoa học công nghệ. Tuy nhiên để có thể có được các dạng tiền
tệ như ngày hôm nay thì tiền đã trải qua một quá trình ra đời và hoàn thiện rất là lâu
dài.
         Từ thời xa xưa, khi mà người dân trên trái đất sống theo từng bộ lạc trong thời
công xã nguyên thủy, mọi của cải vật chất đều được dùng chung, không có sở hữu cá
nhân. Vì vậy, họ không cần có sự trao đổi mà vẫn có được những thứ mình muốn theo
nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
          Khi chế độ công xã nguyên thủy tan ra, sự tư hữu về của cải và tư liệu sản xuất
bắt đầu xuất hiện. Lúc này, để có cái ăn, mỗi cá nhân đều phải tự lao động để làm ra
của cải. Tuy nhiên, mỗi cá nhân trong xã hội đều không thể tự làm ra hết của cải mà
mình muốn hưởng thụ. Vì vậy, người ta phải trao đổi của cải với nhau để đáp ứng nhu
cầu về các của cải, vật chất mà họ không làm ra.
          Đầu tiên, các cá nhân trong xã hội thực hiện trao đổi trực tiếp giữa các hàng hóa
với nhau. Ví dụ như người nông dân có gạo nhưng không nuôi bò thì lấy gạo đổi với
bò, người trồng khoai nhưng không trồng sắn hoặc chè thì dùng khoai để trao đổi trực
tiếp với sắn hoặc chè. Việc trao đổi trực tiếp giữa hàng với hàng đã giải quyết nhu cầu
cần thiết trong những giai đoạn đầu tiên khi bắt đầu có sở hữu cá nhân.
          Tuy nhiên, việc trao đổi trực tiếp giữa hàng với hàng có những nhược điểm là
trao đổi mang tính giản đơn, ngẫu nhiên mà không có sự đồng nhất. Bên cạnh đó, trao
đổi vẫn là trực tiếp giữa hàng với hàng. Vì vậy, việc trao đổi trực tiếp này đã gây
nhiều khó khăn cho các cá nhân khi tham gia trao đổi dẫn tới hệ quả kìm hãm sự phát
triển của các nền kinh tế.
          Khi các nền kinh tế phát triển ở giai đoạn cao hơn, số lượng các giao dịch về
trao đổi hàng hóa ngày càng được gia tăng và diễn ra thường xuyên hơn. Điều này đòi
hỏi phải có vật trung gian trong trao đổi nhằm khuyến khích trao đổi hàng hóa. Lúc
này, người dân ở các địa phương đã biết sử dụng các sản vật quý hiếm của địa phương
như muối, vỏ sò, lông cừu,… làm vật trung gian trong trao đổi hàng hóa. Khi đó, tất
cả cá nhân tại các địa phương sẽ bán các sản phẩm do mình làm ra để đổi lấy các vật
trung gian (muối, vỏ sò, lông cừu,…) rồi lại sử dụng các vật trung gian này để mua
các sản phẩm khác mà mình có nhu cầu.
         Việc sử dụng vật trung gian trong trao đổi đã giúp các trao đổi không còn mang
tính ngẫu nhiên nữa. Tuy nhiên, hạn chế của vật môi giới trung gian trong trao đổi này
là những sản vật này không bền, bị ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện tự nhiên, khí hậu
như muối, chè, lông cừu,.. và khi chia nhỏ thì đôi khi sẽ làm giảm giá trị vốn có của
nó như lông cừu,..
         Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng
giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì hình thái tiền
được ra đời. Giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hoá
đóng vai trò tiền tệ. Khi con người bắt đầu biết sử dụng các kim loại thì tiền bằng kim
loại bắt đầu được tạo ra.
         Cuối cùng, các kim loại là vàng và bạc được dùng làm tiền trong lưu thông. Lúc
đầu khi vàng còn hạn chế, con người đã sử dụng thêm bạc là kim loại thứ 2 dùng làm
tiền trong lưu thông, gọi là chế độ song bản vị. Về sau, do lượng vàng được khai thác
nhiều hơn và do vàng có những ưu thế hơn hẳn như thuần nhất, ít pha trộn, dễ chia
nhỏ, lâu hư hại, dễ mang theo nên vàng được chọn làm tiền tệ - chế độ bản vị vàng
được ra đời.
        Tuy nhiên, việc dùng vàng làm tiền trong lưu thông có những hạn chế là khó
mang theo, khó chia nhỏ để mua những sản phẩm có giá trị nhỏ như mớ rau, cân gạo,
… và các kim loại rất quý hiếm, được sử dụng nhiều trong công nghiệp. Vì vậy, dần
dần con người đã biết sử dụng các tín tệ (giấy xác nhận gửi vàng trong ngân hàng) để
làm tiền trong lưu thông. Khi này, các cá nhân sẽ gửi những đồng vàng, bạc của mình
vào ngân hàng và nhận lại các tờ tín tệ. Tín tệ khi này được tự do chuyển đổi ra vàng.
Điều này đã giúp cho các cá nhân dễ mang theo mình và việc trao đổi, mua bán những
hàng hóa có giá trị thấp được dễ dàng hơn.
         Nhưng hạn chế của việc sử dụng vàng hay tín tệ trong lưu thông đó là lượng
vàng trên trái đất là có hạn, khả năng khai thác hàng năm không lớn (theo các nhà
nghiên cứu thì tổng lượng vàng trên trái đất là khoảng 250 nghìn tấn, trong đó lượng
vàng đã khai thác tính đến giữa năm 2018 là khoảng 190 nghìn tấn, nhưng chủ yếu có
được trong thế kỷ 20 đến nay). Tín tệ chỉ được phát hành khi có thêm lượng vàng gửi
vào ngân hàng. Vì vậy, khi các nền kinh tế ngày càng phát triển, lượng hàng hóa làm
ra ngày càng nhiều nhưng lượng vàng thì lại không tăng lên tương xứng dẫn tới mất
cân đối giữa tiền và hàng. Điều này dẫn tới giá cả hàng hóa sẽ bị giảm đi, không
khuyến khích các cá nhân, tổ chức mở rộng sản xuất và về lâu dài sẽ kìm hãm sự phát
triển của các nền kinh tế.
         Vì những lý do trên, tiền pháp định như ngày nay được ra đời nhằm đáp ứng yêu
cầu mới về trao đổi hàng hóa đó là có thể phát hành thêm tiền để đưa vào lưu thông
khi có sự gia tăng của hàng hóa dịch vụ. Tiền pháp định khi này do nhà nước in ấn và
phát hành, có giá trị trên toàn lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, tiền pháp định là loại tiền
chỉ có giá trị danh nghĩa mà không có giá trị nội tại như vàng. Vì vậy, lượng tiền pháp
định này chỉ được phát hành thêm khi hàng hóa mới được tạo ra hay tiền pháp định
này được phát hành dựa trên cơ chế tín dụng có sự đảm bảo bằng lượng hàng hóa dịch
vụ mới tạo ra. Vàng chỉ được dùng để thanh toán các khoản nợ quốc tế, nó bị rút khỏi
lưu thông trong nước vì không dùng làm tiền tệ và tiền giấy khi này không được tự do
chuyển đổi ra vàng.
         Từ đây giá trị thực tế của đồng tiền các nước phụ thuộc vào sức mua của nó, tức
là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà nó có thể mua được. Giá trị của một đơn vị tiền
tệ được xác định bằng sức mua của nó và được đo bằng số nghịch đảo của mức giá
chung. Như vậy, mức giá cả chung càng cao thì giá trị hay sức mua của một đơn vị
tiền tệ càng thấp và ngược lại. Cụ thể tiền có 4 hình thái giá trị

- Hình thái giá trị đơn giản hay ngẫu nhiên


 Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã, và “chỉ thường gặp ở
những mầm mống đầu tiên của trao đổi, khi mà các sản phẩm lao động chỉ biến
thành hàng hóa trong những hành vi đơn nhất và ngẫu nhiên”.

Ví dụ: 10 quả táo = 15 quả trứng


 Ở đây, giá trị của hàng hóa này (10 quả táo) chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng
hóa khác (15 quả trứng) và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực
tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi cũng ngẫu nhiên được hình thành.
 Hàng hóa thứ hai (quả trứng ) đóng vai trò vật ngang giá, là hình thái phôi thai
của tiền tệ. Mặc dù, lúc đầu quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, nhưng
dần dần nó trở thành quá trình xã hội đều đặn, thường xuyên thúc đẩy sản xuất
hàng hóa ra đời và phát triển. Khi đó, xuất hiện hình thái thứ hai.

You might also like