You are on page 1of 4

*Lưu ý:

Chữ đỏ là bỏ vào pp

I. Bản chất của tiền tệ


Về bản chất tiền tệ là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hóa ,dịch vụ,là phương
tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn.
Theo quan điểm của K.Marx, “tiền chính là loại hàng hóa đặc biệt “vì: tiền có giá trị sử
dụng đặc biệt( là giá trị công dụng có ích của hàng hóa. Tiền tệ thỏa mãn hầu hết các
nhu cầu của người sử dụng và sở hữu.

Quan điểm của P.Smuelson: “tiền chính là thứ dầu bôi trơn“ trong các guồng máy luân
chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất để đi đến nơi tiêu dùng.

Quan điểm của M. Freidman và các nhà kinh tế học hiện đại: ” tiền là các phương tiện
thanh toán” và có thể thực hiện được các chức năng làm trung gian trao đổi, các đơn vị
tính toán và có thể tích lũy của cải. Tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển
nền kinh tế thị trường hiện đại.

Tóm lại, điểm chung nhất trong các quan điểm trên là cho dù có khác nhau về những
thời đại và điều kiện nghiên cứu thì đều chỉ ra rằng tiền tệ là phương tiện thông qua đó
để con người đạt các mục đích trong kinh doanh.

II. Chức năng của tiền


Chức năng của tiền tệ là phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông, phương
tiện cất trữ, thước đo giá trị, tiền tệ thế giới. Mỗi một chức năng của tiền tệ đều có
vai trò đối với sự vận hành của thị trường.

a.Phương tiện thanh toán

Tiền tệ được dùng làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế,
trả tiền mua chịu hàng…

Chức năng của tiền tệ có thể làm phương tiện thanh toán, bằng tiền mặt, séc, chuyển
khoản, thẻ tín dụng…
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu nảy sinh
việc mua bán chịu. Trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, ngươi bán
trở thành chủ nợ. Và đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán. Điều
này sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh
tế tăng lên.

Ví dụ: Dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, đi mua hàng hóa phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của bản thân và gia đình hàng ngày.

b.Phương tiện lưu thông

Tiền được dùng làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu
thông hàng hoá đòi hỏi phải có tiền mặt. Quá trình trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi
giới gọi là lưu thông hàng hoá.

Công thức lưu thông hàng hoá là: H – T – H. Trong đó H là hàng hóa, T là tiền mặt

Khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có
thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Với việc không nhất trí giữa mua và
bán vô tình gây ta những nguy cơ của khủng hoảng kinh tế.

Ví dụ: Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện
người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đếm. Những đồng tiền bị đục lỗ đó
vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó.Sở dĩ có tình trạng này vì
tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền
rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất
thiết phải có đủ giá trị.

c.Thước đó giá trị

Tiền tệ được dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá
trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng
thước đo giá trị phải là tiền vàng.
Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt. Chỉ cần so sánh với lượng
vàng nào đó trong tưởng tượng của mình. Vì sao có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị
của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ
đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó.

Giá trị hàng hoá đưọc biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Hay nói cách khác, giá
cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.

Ví dụ: Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ.
Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 5 usd. Một cuốn sách có giá trị bằng 20 cent.Mà 1
usd cũng có giá trị bằng 100 cent.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay
đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

d.Phương tiện cất trữ

Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

Tại sao tiền làm được chức năng này?Là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình
thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.

Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức
năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền
cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được
đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền
rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

Ví dụ: Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn
dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích. Ngày nay cũng có nhiều người có
thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là
tiền có giá trị như tiền vàng, bạc…

e.Tiền tệ thế giới

Khi quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau xuất hiện, thì tiền tệ làm chức năng
tiền tệ thế giới. Điều đó có nghĩa là thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Làm
chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh
toán quốc tế. Việc đổi tiền của một quốc gia này thành tiền của một quốc gia khác được
tiến hành theo tỷ giá hối đoái. Đó là giá cả đồng tiền của một quốc gia này so với đồng
tiền của quốc gia khác.
Ví dụ: Hiện nay ngành du lịch phát triển, mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi
đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá hối đoái dự vào
nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1usd = 23.000 VNĐ…

You might also like