You are on page 1of 10

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

--------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI: Nội dung lý luận tiền tệ của C.Mác và ứng dụng của lý luận này trong
thực tiễn nền kinh tế thị trường của Việt Nam.

Họ và tên: Phạm Thu Huyền

Mã sinh viên: 2172202010051

Khóa/Lớp niên chế: CQ59/51.02

STT: 12

HÀ NỘI – 2022
MỤC LỤC

MỤC LỤC …………………………………………………………………………..

MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………...1

NỘI DUNG ………………………………………………………………………...2

1. Nội dung lý luận tiền tệ của C.Mác


………………………………………..2
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền ………………………………………
2
1.2. Chức năng của tiền
…………………………………………………...3
2. Ứng dụng của lý luận tiền tệ trong thực tiễn nền kinh tế thị trường Việt
Nam
………………………………………………………………………….5

KẾT LUẬN
………………………………………………………………………...7

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………….


MỞ ĐẦU

Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, tuy phải đối mặt với vô vàn thử thách
gay go, những hoàn cảnh hết sức khó khăn và phức tạp, nhưng nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước chuyển mình đáng kể, đạt được những thành tựu vô cùng to
lớn. Sở dĩ có những thành tựu vang dội ấy là nhờ Đảng và Nhà nước ta đã kiên
quyết chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Thông
qua các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài chính-tiền tệ, Nhà nước
đã quản lý nền kinh tế một cách linh hoạt và chặt chẽ hơn. Việc trở thành thành
viên WTO cũng đã tạo thêm nhiều cơ hội cho Việt Nam tiếp tục tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững trong những năm tới.

Tuy nhiên, việc vận dụng các lý luận tiền tệ của C.Mác vào nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn gặp khá nhiều trở ngại. Sở dĩ
như vậy vì sự am hiểu về phương pháp điều hành các chính sách tiền tệ vẫn còn
nhiều hạn chế. Với đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam, việc lựa chọn
công cụ nào, sử dụng chúng ra sao trong từng giai đoạn phát triển khác nhau của
nền kinh tế luôn là một vấn đề cần được thường xuyên quan tâm theo dõi đối với
các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, việc nghiên
cứu và hiểu rõ lý luận tiền tệ là một điều hết sức cần thiết để áp dụng vào việc ổn
định và phát triển nền kinh tế.

Nhận thức được tính cấp thiết cũng như ý nghĩa sâu sắc của vấn đề, nên em
đã chọn đề tài nghiên cứu “Nội dung lý luận tiền tệ của C.Mác và ứng dụng của lý
luận này trong thực tiễn nền kinh tế thị trường của Việt Nam” làm đề tài tiểu luận
của mình.

NỘI DUNG
1. Nội dung lý luận tiền tệ của C.Mác
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền
Nghiên cứu sự ra đời khách quan của tiền tệ giúp lý giải một cách
khoa học nguyên nhân vì sao tiền có thể mua được mọi hàng hóa hay có thể
trao đổi được với mọi hàng hóa. Cụ thể:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên
Đây là hình thái sơ khai của tiền tệ, xuất hiện trong thời kì
sơ khai của trao đổi hàng hóa. Khi đó, việc trao đổi giữa các hàng
hóa với nhau mang tính ngẫu nhiên. Tính chất của trao đổi là trao
đổi trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác.
Ví dụ, có phương trình trao đổi như sau: 1A = 2B
Phương trình cho thấy, giá trị ẩn chứa trong hàng hóa A
được biểu hiện ở hàng hóa B; với thuộc tính tự nhiên của mình,
hàng hóa B trở thành hiện thân của giá trị hàng hóa A. Sở dĩ như
vậy vì bản thân hàng hóa B cũng có giá trị. Ở đây, hàng hóa A ở
vào hình thái ngang giá của giá trị, còn hàng hóa B ở vào hình
thái tương đối của giá trị.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Khi trình độ phát triển của sản xuất hàng hóa được nâng
lên, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa có thể được
đặt trong mối quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Vì thế, hình thái
giá trị đầy đủ hay mở rộng xuất hiện.
Ví dụ: 1A = 2B; hoặc 1A = 3C; hoặc 1A = 4D;…
Phương trình cho thấy, giá trị của 1 đơn vị hàng hóa A
được biểu hiện ở 2 đơn vị hàng hóa B hoặc 3 đơn vị hàng hóa C
hoặc 4 đơn vị hàng hóa D… Nghĩa là, hình thái vật ngang giá đã
mở rộng ra nhiều hàng hóa khác nhau. Tuy nhiên, đây vẫn là trao
đổi trực tiếp hàng hóa lấy hàng hóa với những tỷ lệ trao đổi chưa
cố định.
- Hình thái chung của giá trị
Khi trình độ phát triển của sản xuất cao hơn, hàng hóa
phong phú hơn, trao đổi thường xuyên hơn thì hình thức trao đổi
trực tiếp không còn phù hợp; lúc này, hình thái chung của giá trị
ra đời.
Ví dụ: 2A; hoặc 3C; hoặc 4D;… = 1A.
Ở phương trình này, giá trị của các hàng hóa B, hàng hóa C,
hàng hóa D hoặc nhiều hàng hóa khác đều biểu thị giá trị của
chúng ở một loại hàng hóa làm vật ngang giá chung là hàng hóa
A. Tuy nhiên, ở mỗi vùng, mỗi nước lại có những quy ước khác
nhau về vật ngang giá chung, điều này gây khó khăn cho trao đổi
giữa các vùng, các nước. Vì thế, sản xuất và trao đổi đòi hỏi sự ra
đời của một hình thái giá trị mới.
- Hình thái tiền
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát
triển hơn, sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, thì
tình hình có nhiều hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá sẽ gây trở
ngại cho sản xuất và trao đổi giữa các vùng, các địa phương,…
Do đó, đòi hỏi khách quan phải có một loại hàng hóa làm vật
ngang giá chung thống nhất. Lúc đầu, có nhiều thứ kim loại đóng
vai trò tiền tệ; sau này, vai trò đó được cố định ở vàng vì vàng có
nhiều ưu điểm vượt trội so với các kim loại khác.
Ví dụ: 2B; 3C; 4D;… = 0,1 gr vàng.
Vàng trong trường hợp này trở thành vật ngang giá chung
cho thế giới hàng hóa. Vàng trở thành hình thái tiền tệ của giá trị.
Tiền vàng trong trường hợp này trở thành vật ngang giá chung
cho thế giới hàng hóa vì tiền có giá trị.
Như vậy, về bản chất, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt
được tách ra từ trong thế giới hàng hóa, làm vật ngang giá chung
cho tất cả các hàng hóa đem ra trao đổi; nó thể hiện lao động xã
hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng
hóa.
1.2. Chức năng của tiền
Theo C.Mác, tiền có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị
Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các loại hàng
hóa khác. Sở dĩ làm được chức năng này vì tiền cũng là hàng hóa,
cũng có giá trị và giá trị của tiền cũng do lao động tạo nên như
mọi hàng hóa.
Tiền làm chức năng thước đo giá trị các hàng hóa, không
nhất thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với một lượng vàng
tưởng tượng. Sở dĩ vậy, vì giá trị của vàng và giá trị các hàng hóa
còn lại trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ này
là thời gian lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó.
Giá trị hàng hóa biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa.
Như vậy, giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá
trị hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả của hàng hóa có
thể lên xuống do tác động bởi nhiều yếu tố như: giá trị của hàng
hóa, giá trị của tiền, ảnh hưởng của quan hệ cung-cầu.
- Phương tiện lưu thông
Tiền được dùng làm môi giới cho quá tình trao đổi hàng
hóa. Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, yêu cầu phải
có tiền mặt và tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Thực hiện
chức năng này làm cho quá trình trao đổi, mua bán trở nên thuận
lợi; đồng thời làm cho hành vi mua, hành vi bán tách rời về không
gian và thời gian. Do đó, có thể tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
- Phương tiện cất trữ
Tiền rút ra khỏi quá trình lưu thông để đi vào cất trữ. Để
thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị như tiền vàng,
tiền bạc. Tiền cất trữ có tác dụng là dự trữ tiền cho lưu thông, sẵn
sàng tham gia lưu thông. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, lượng
hàng hóa nhiều hơn, tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược
lại, nền sản xuất giảm, lượng hàng hóa giảm, một phần tiền vàng
rút khỏi lưu thông, đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán
Trong trường hợp tiền được dùng để trả nợ, trả tiền mua
chịu hàng hóa… thì tiền làm phương tiện thanh toán. Thực hiện
chức năng thanh toán, có nhiều hình thức tiền khác nhau được
chấp nhận. Chức năng này của tiền gắn liền với chế độ tín dụng
thương mại. Ngày nay, việc thanh toán không dùng tiền mặt phát
triển rất mạnh mẽ.
- Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia,
tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này, tiền dùng làm
phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau.
Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải là tiền
vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh
toán quốc tế.
2. Ứng dụng của lý luận tiền tệ trong thực tiễn nền kinh tế thị trường Việt Nam
Việc vận dụng lý luận về tiền tệ của C.Mác đảm bảo giá cả được ổn định, giữ
giá đồng tiền, phát triển kinh tế một cách bền vững – đó là một trong những mục
tiêu quan trọng của việc quản lý nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong các công
cụ điều tiết nền kinh tế của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những
chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ cũng có những mối quan hệ chặt chẽ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác như: chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại,…
Áp dụng lý luận về tiền tệ của C.Mác, chính sách tiền tệ ở Việt Nam bao gồm
những nội dung chính sau:
- Cung ứng và điều hòa khối lượng tiền tệ, ngân hàng Nhà nước
tăng hay giảm khối lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng
cung và tổng cầu giữa tiền và vàng.
- Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: Khi các ngân hàng thương
mại hoặc các tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ sẽ
đến ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn. Ngân hàng Trung
ương luôn đóng vai trò là một tổ chức cho vay để thúc đẩy các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng huy động tối đa lượng
tiền để đầu tư phát triển kinh tế.
- Chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực
ngoại tệ trong các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Để thực
hiện việc ổn định giá cả của đồng tiền quốc gia, ngân hàng Nhà
nước phải thực hiện các nhiệm vụ: quản lý ngoại hối, lập bảng
theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các
nghiệp vụ hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng
và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia,…
- Chính sách tạm ứng cho ngân hàng Nhà nước
 Trong trường hợp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế
vào ngân sách, ngân sách chi ra cho bộ máy quản lý nhà
nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn nằm nguyên trong lưu
thông.
 Trong trường hợp ngân sách thiếu hụt: Lúc này chi lớn
hơn thu, giải quyết bằng bốn cách: vay của dân, vay của hệ
thống ngân hàng và tổ chức tín dụng, vay của ngân hàng
nhà nước, và vay nợ nước ngoài.
 Trong trường hợp ngân sách thặng dư: Khối lượng tiền tệ
trong thị trường được rút bớt cất đi.

Như vậy, chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yếu của Ngân hàng trung ương.
Chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực
tới quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong những năm qua. Chính
sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh
hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu cực, tạo
cơ cở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khuv ực và thế
giới an toàn và hiệu quả.

Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong lĩnh vực tiền tệ. Thông qua lý luận tiền tệ
của C.Mác, để khắc phục những hạn chế ấy đồng thời đáp ứng cho nhu cầu hội nhập nền
kinh tế khu vực cũng như thế giới, cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:

- Điều tiết và quản lý việc cung ứng tiền ra lưu thông một cách hợp
lý, tránh tình trạng lạm phát nhưng phải đảm bảo lượng tiền đưa
ra đủ để kích thích sự phát triển kinh tế.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng
hóa của nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ nguyên lý lưu thông
hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ.
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển lưu thông hàng hóa “mũi
nhọn” cho xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển bền vững.
- Nâng cao hiệu quả quản lý bộ máy Nhà nước vì Nhà nước có vai
trò rất lớn trong việc ổn định nền kinh tế và đảm bảo tính công
bằng.
- Các ngân hàng ngoại thương cần đa dạng hóa hình thức huy động
vốn nhàn rỗi từ công chúng: phát hành trái phiếu, tín phiếu ngân
hàng,..

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với thế giới, là thành viên thứ 150 của
WTO, điều này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Vì
vậy, việc đổi mới chính sách tiền tệ nói riêng cũng như chính sách kinh tế vĩ mô nói
chung đóng một vai trò hết sức quan trọng, thể hiện rõ sự quản lý nhà nước về kinh tế,
góp phần làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới kinh tế nước nhà.

KẾT LUẬN

Như vậy, lý luận tiền tệ của C.Mác đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong suốt
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, việc áp dụng lý luận
tiền tệ luôn đòi hỏi sự phù hợp và chính xác. Tuy nhiên, một số các công cụ trực
tiếp của chính sách tiền tệ đã bộc lộ rõ những hạn chế đồng thời các công cụ gián
tiếp cũng chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Từ đó, đòi hỏi phải có những định
hướng và giải pháp đúng đắn trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để đạt được
điều này, thông qua lý luận về tiền tệ của C.Mác, Đảng cần phải có những định
hướng đúng đắn cũng như sự phát triển đồng bộ về năng lực của Ngân hàng Nhà
nước và hệ thống ngân hàng thương mại cùng sự phối hợp đồng bộ khác.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, 2021, Nxb Chính trị Quốc
gia sự thật.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, VIII, IX và X, Nxb Chính trị Quốc gia.

You might also like