You are on page 1of 10

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM


MÔN:
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA QUỐC TẾ

ĐỀ BÀI
Phân tích và bình luận về khuyến nghị của Ban Hội thẩm (Panel)
và Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body) trong vụ kiện DS381
(US – Tuna II (Mexico))

NHÓM: 02
LỚP N01.TL4
KHÓA: K43

Hà Nội, 2020
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ
THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Nhóm số 02. Lớp N01.TL4

Tổng số thành viên của nhóm: 08

Đề tài nghiên cứu: Phân tích và bình luận về khuyến nghị của Ban Hội
thẩm(Panel) và Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body) trong vụ kiện DS381 (US
– Tuna II (Mexico).

Sau khi xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong
việc thực hiện bài tập nhóm môn. Kết quả như sau:

Đánh giá
STT MSSV Họ và tên
A B C

1 433040 Hà Thị Thu Trang X

2 433041 Phạm Quỳnh Nhung X

3 433043 Nguyễn Trọng Minh Quân X

4 433044 Vũ Thị Bích Ngọc X

5 433045 Nguyễn Thị Mai Lan X

6 433046 Hoàng Ngọc Mai X

7 433047 Bùi Thu Thảo X

8 433048 Đỗ Hoàng Nguyên X

Kết quả điểm bài viết:…………… Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm


2020
Giáo viên chấm thứ nhất:………….. Nhóm trưởng
Giáo viên chấm thứ hai:…………… NGỌC
Kết quả điểm thuyết trình:……… Vũ Thị Bích Ngọc
Giáo viên cho thuyết trình:…………
Điểm kết luận cuối cùng:…………..
Giáo viên đánh giá cuối cùng:………

1
BÀI LÀM

I.Tóm tắt vụ tranh chấp : HOA KỲ – Các biện pháp liên quan đến việc
nhập khẩu, tiếp thị và bán cá ngừ và các sản phẩm cá ngừ.

1. Các bên tham gia vụ tranh chấp và giải quyết :

Nguyên đơn: Mexico

Bị đơn: Hoa Kỳ

Bên thứ ba ( thủ tục ban đầu ):

Ngày 06/11/2008, Hội đồng Châu Âu đã yêu cầu tham gia các cuộc
tham vấn. Ngày 7/11/2008, Úc yêu cầu tham gia. Sau đó tại cuộc họp ngày
20/4/2009, DSB đã thành lập Ban hội thẩm gồm Argentina, Úc, Trung Quốc,
Guatemala, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Đài Bắc Trung Hoa, Thổ Nhĩ
Kỳ, Brazil, Canada, Thái Lan và Venezuela.

2.Sự kiện pháp lý : Mexico khiếu nại với Mỹ đối với các biện pháp sau :

Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu đề 16, Mục 1385 (“Đạo luật thông tin người tiêu
dùng bảo vệ cá heo”)

- Quy tắc quy định liên bang, Tiêu đề 50, Mục 216.91 (“Tiêu chuẩn nhãn
hiệu an toàn cho cá heo”) và Mục 216.92 (“Cá heo - Yêu cầu an toàn đối với
cá ngừ được khai thác ở ETP <Đông nhiệt đới Thái Bình Dương> bằng các
tàu vây lưới lớn”)

- Phán quyết của Earth Island v. Hogarth, 494 F.3d 757 (9th Cir. 2007).
Mexico cho rằng các biện pháp trên là phân biệt đối xử và không cần thiết.

2
3. Vấn đề tranh chấp (vấn đề pháp lý)

Các biện pháp liên quan đến việc nhập khẩu, tiếp thị và tiêu thụ cá ngừ
và các sản phẩm từ cá ngừ liên quan tới liệu việc yêu cầu dán nhãn “an toàn
cho cá heo” của Hoa Kỳ có phù hợp với Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật
trong Thương mại (Hiệp định TBT) của WTO hay không.

Để giải quyết nội dung tranh chấp của vụ kiện, các cơ quan GQTC của
WTO đã phân tích bốn vấn đề pháp lý, bao gồm: (i) các biện pháp của Hoa
Kỳ có phải là tiêu chuẩn kỹ thuật và chịu sự điều chỉnh của Hiệp định TBT
không; (ii) các biện pháp của Hoa Kỳ có tạo nên sự phân biệt đối xử không;
(iii) các biện pháp của Hoa Kỳ có làm hạn chế thương mại hơn mức cần thiết
không; và (iv) việc từ bỏ áp dụng các quy định trong Hiệp định AIDCP, một
điều ước quốc tế đã được Hoa Kỳ ký kết, và thay thế bằng tiêu chuẩn dán
nhãn của DPCIA có bất hợp lý và không thể biện minh không.

4. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp

- Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn): Hiệp
định GATT: Điều I, III; Hiệp định TBT: Điều 2, 5, 6, 8

- Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu của ban Hội thẩm):
Hiệp định GATT: Điều I:1, III:4 ; Hiệp định TBT: Điều 2.1, 2.2, 2.4

II. Tóm tắt các các phân tích/khuyến nghị của Ban hội thẩm (BHT) và
Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body) (CQPT)
1. Điều 2.1 Hiệp định TBT
- Ban Hội thẩm không cho rằng Mexico chứng minh được những điều
khoản “an toàn cho cá heo” của Hoa Kỳ kém phần ưu đãi hơn so với sản
phẩm cá ngừ của Mexico, do đó, Biện pháp an toàn cho cá heo của Hoa Kỳ

3
không vi phạm Điều 2.1 Hiệp định TBT. Ban Hội thẩm thấy rằng tác động
của các Điều khoản an toàn cá heo của Hoa Kỳ đối với các nhà khai thác khác
nhau trên thị trường và đối với các sản phẩm cá ngừ có nguồn gốc khác nhau
phụ thuộc vào một số yếu tố không liên quan đến quốc tịch của sản phẩm, mà
liên quan đến các hoạt động đánh bắt và thu mua, vị trí địa lý,... Theo quan
điểm của BHT, bất kỳ tác động tiêu cực cụ thể nào đối với các sản phẩm cá
ngừ của Mexico trên thị trường Hoa Kỳ chủ yếu là kết quả của "các yếu tố
hoặc hoàn cảnh không liên quan đến xuất xứ nước ngoài của sản phẩm", bao
gồm cả các lựa chọn của chính đội tàu đánh cá của Mexico và đồ hộp. Hoa
Kỳ áp dụng nhãn cho tất cả các loại sản phẩm chứ không chỉ có sản phầm cá
ngừ của Mexico.
- Trái với ý kiến của Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng Biện
pháp an toàn cá heo của Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 2.1 Hiệp định TBT. Cơ
quan này cho rằng Hoa Kỳ đã không chứng minh được mình không phân biệt
đối xử đối với các yêu cầu khác nhau giữa cách đánh bắt cá ngừ bằng tiêu
chuẩn trong và ngoài ETP để được dán nhãn "an toàn cho cá heo" của Hoa
Kỳ. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng không chứng minh được tác động bất lợi của biện
pháp này đối với các sản phẩm cá ngừ của Mexico chỉ bắt nguồn từ sự khác
biệt theo quy định hợp pháp. CQPT cho rằng những vùng bên ngoài ETP vẫn
tạo ra mức độ bắt cá heo đáng kể và các điều khoản về an toàn cá heo của
Hoa Kỳ không thể kiểm soát được những ảnh hưởng đến quần thể cá heo.
2. Điều 2.2 Hiệp định TBT
- Đối với điều khoản này, Ban Hội thẩm cho rằng Biện pháp an toàn
cho cá heo của Hoa Kỳ đã gây hạn chế cho thương mại nhiều hơn là để hoàn
tất một mục tiêu hợp pháp, có tính đến các rủi ro có thể nảy sinh từ sự không
hoàn tất, trái ngược với quy định tại Điều 2.2 Hiệp định TBT. Biện pháp của
Hoa Kỳ chỉ giải quyết một phần những tác động xấu được xác định bởi nước

4
này, không kiểm soát được tỷ lệ tử vong và những hệ quả đối với quần thể cá
heo.
- Cơ quan Phúc thẩm cũng có cùng ý kiến về việc Biện pháp của Hoa
Kỳ trái với Điều 2.2 Hiệp định TBT. Tuy nhiên, Cơ quan này không đồng ý
với lập luận trên của BHT. Thay vào đó, họ cho rằng Biện pháp thay thế do
Mexico đề xuất (dán nhãn AIDCP “an toàn cho cá heo” kết hợp với tiêu
chuẩn hiện có của Hoa Kỳ) không có hiệu quả trong việc thông tin cho người
tiêu dùng và việc bảo vệ cá heo như biện pháp đang được đề cập ”
3. Điều 2.4 Hiệp định TBT
- Đối với yêu cầu của Mexico về Điều 2.4 của Hiệp định TBT, Ban Hội
Thẩm cho rằng các điều khoản ghi nhãn an toàn cá heo của Hoa Kỳ không vi
phạm quy định đó, điều này đòi hỏi các quy định kỹ thuật phải dựa trên các
tiêu chuẩn quốc tế liên quan nếu có thể. Mặc dù nhận thấy rằng tiêu chuẩn do
Mexico đề cập là tiêu chuẩn quốc tế có liên quan tới các mục đích của các
điều khoản về an toàn cá heo của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ đã không sử dụng tiêu
chuẩn này làm cơ sở cho các biện pháp của mình, BHT kết luận rằng tiêu
chuẩn này sẽ không phù hợp hoặc hiệu quả để đạt được các mục tiêu của Hoa
Kỳ.
- Cơ quan Phúc thẩm đã sửa đổi kết luận của BHT và phán quyết rằng
AIDCP Định nghĩa và chứng nhận “an toàn cho cá heo” không tạo thành “tiêu
chuẩn quốc tế liên quan” theo nghĩa của Điều 2.4, vì “AIDCP không mở cho
các cơ quan liên quan của ít nhất tất cả các Thành viên và do đó không phải là
'cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế' cho các mục đích của Hiệp định TBT ”. Tuy
nhiên, cơ quan này vẫn ủng hộ kết luận cuối cùng của BHT rằng biện pháp
này không vi phạm Điều.2.4.
4. Điều I.1 III.4 Hiệp định GATT

5
- Ban Hội thẩm đã từ chối phán quyết bổ sung về các tuyên bố không
phân biệt đối xử của Mexico theo GATT 1994 và do đó thực hiện kinh tế tư
pháp đối với các tuyên bố của Mexico theo Điều I: 1 và III: 4 của GATT.
- Cơ quan Phúc thẩm nhận thấy Giả định của BHT rằng các nghĩa vụ
theo Điều TBT. 2.1 và GATT Arts. I: 1 và III: 4 về cơ bản giống nhau là sai.
Do đó, CQPT kết luận rằng BHT đã tham gia vào "nền kinh tế tư pháp sai
lầm" và hành động không nhất quán với DSU Art. 11 trong việc từ chối giải
quyết các yêu sách của Mexico theo GATT Arts. I: 1 và III: 4. Mexico đã
không tìm cách hoàn thành phân tích theo Điều I: 1 và III: 4 của GATT trong
trường hợp Cơ quan Phúc thẩm phát hiện vi phạm Điều khoản TBT. 2.1.

III. Đánh giá, bình luận của nhóm.


Về cách tiếp cận của cơ quan GQTC của WTO khi phân tích vấn
đề của vụ kiện: Mặc dù Mexico đã khiếu nại về sự vi phạm nghĩa vụ không
phân biệt đối xử của Hoa Kỳ, cơ quan GQTC tập trung phân tích vấn đề của
vụ tranh chấp trên cơ sở các quy định của Hiệp định TBT chứ không xem xét
từ góc độ Điều I và III của Hiệp định GATT. Đây là một cách tiếp cận mới,
khác với cách tiếp cận truyền thống trong các vụ tranh chấp liên quan tới biện
pháp tiêu chuẩn kỹ thuật trước đây của WTO.
Vụ Hoa Kỳ - Cá ngừ II đã mở nút thắt một trong những vấn đề lớn
của Hiệp định TBT, đó là, “các quy định kỹ thuật” có bao gồm các quy
tắc về PPMs (process and production methods) không liên quan đến sản
phẩm (non–product–related PPMs) hay không. BHT thấy rằng việc dán
nhãn NPR – PPM là những quy định về kĩ thuật, thuộc phạm vi điều chỉnh
của TBT. BHT kết luận rằng các biện pháp của Hoa Kỳ là các quy định kỹ
thuật vì hai lý do: (i) các quy định này “chỉ định và áp đặt các điều kiện mà
một sản phẩm có thể được dán nhãn “an toàn với cá heo” và các sản phẩm cá
ngừ không được đánh bắt theo cách thức được quy định sẽ bị cấm không được

6
xác định và đưa ra thị trường dưới nhãn mác này; và (ii) các quy định này
cấm việc ghi nhãn có thông tin về cá heo (bất kể có gây hiểu lầm cho người
tiêu dùng hay không) nếu các điều kiện được quy định không được đáp ứng.
Từ kết luận của Cơ quan phúc thẩm, có thể thấy rằng tại WTO bất cứ đạo luật
nào tác động đến việc tiếp cận thị trường, có chứa đựng các điều kiện kỹ thuật
mang tính bắt buộc và có khả năng cưỡng chế đều có thể tạo thành một quy
định kỹ thuật.
Nhìn chung, kết quả giải quyết tranh chấp dường như chưa thỏa mãn
được các bên liên quan. Mục tiêu tiên quyết của Mexico là buộc Hoa Kỳ
phải cho sản phẩm cá ngừ của Mexico được tiếp cận thị trường Hoa Kỳ với
nhãn “an toàn cá heo” theo tiêu chuẩn của Hiệp định AIDCP. Các khuyến
nghị của Ban hội thẩm có lợi Mexico nhưng lại bị Cơ quan phúc thẩm bác bỏ.
Nếu muốn tiếp tục theo đuổi các mục tiêu hợp pháp của biện pháp dán nhãn
“an toàn cá heo” trên các sản phẩm cá ngừ, Hoa Kỳ cần dung hòa một cách
khôn ngoan giữa mục tiêu đó và các nghĩa vụ ràng buộc với tư cách thành
viên WTO, điều này là không hề đơn giản.
Qua báo cáo của Ban hội thẩm, có thể thấy một vấn đề hiện đang
tồn tại trong GATT, đó là việc xây dựng một kết nối hợp lý giữa hai
mảng thương mại và môi trường. Được thể hiện thông qua những yêu cầu
ngày càng cao của các Cơ quan phúc thẩm về các tiêu chuẩn theo hiệp định về
hàng rào kỹ thuật của WTO và GATT 1994 trong quá trình tố tụng. Mỹ đã
buộc phải tiêu tốn các nguồn lực đáng kể để cố gắng bảo vệ thành công các
biện pháp môi trường không có yếu tố bảo hộ. Không rõ có bao nhiêu thành
viên khác có thể đầu tư các nguồn lực như vậy, đại diện Chính phủ Mỹ khẳng
định; các thành viên khác phải đối mặt với nhiều thủ tục giải quyết tranh chấp
kéo dài tương tự có thể bị buộc phải từ bỏ mục tiêu hợp pháp của họ và rút
các biện pháp thay vì đối mặt với khả năng các biện pháp trả đũa của một

7
thành viên khác.Thật vậy, theo các tiêu chuẩn mà Cơ quan phúc thẩm đã phát
triển, dường như chỉ có các thành viên WTO có nguồn lực lớn dành cho nỗ
lực này mới có thể bảo vệ các biện pháp chính sách công hợp pháp có ảnh
hưởng đến thương mại. Chính sự thiếu sót này khiến cho không chỉ chính
sách bảo vệ môi trường trong vụ tranh chấp này bị đe dọa hủy bỏ mà các đạo
luật môi trường khác cũng đang ở trong tình trạng nguy hiểm khi có thể sẽ
phải đối diện trước những vụ tranh chấp như trên nếu các đạo luật đó gây ảnh
hương đến thương mại.
Tuy nhiên, với kết luận cuối cùng của cơ quan phúc thẩm, theo
nhóm em có thể sẽ khuyến khích sử dụng các phương pháp đánh bắt
không bền vững có hại cho cả cá heo và các loài sinh vật biển khác. Bởi
các phương pháp được đội tàu cá ngừ Mexico sử dụng được quy định bởi
Hiệp định về chương trình quốc tế về bảo tồn cá heo (AIDCP), được Tổ chức
lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc công nhận là bền vững nhất.
Trong khi đó chỉ có khu vực nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương nơi đội tàu
cá ngừ Mexico hoạt động là đối tượng của các biện pháp bảo vệ cá heo mà
không khu vực nào khác trên thế giới gặp phải. Ngược lại, cá ngừ từ các đội
tàu nghề cá khác của Mỹ và các quốc gia khác, có thể tự do sử dụng nhãn an
toàn cá heo, ngay cả khi không có gì đảm bảo rằng cá heo sẽ không bị tổn hại.
Nhiều con cá heo đang bị các đội tàu cá ngừ khác đánh bắt và việc đánh bắt
bất hợp pháp, không có giấy tờ và không được kiểm soát ở những khu vực
này khiến cho việc theo dõi chính xác cá heo là không thể.

8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Carol J.Beyers, The U.S/Mexico Tuna embargo dispute: a case study of the
GATT and envỉonmental progress, Maryland Journal of International Law
2. Laurens Ankersmit & Jessica Lawrence, The future of envỉonmental
labeling: US – Tuna II and the scope of the TBT, 2012
3. TS. Trần Việt Dũng & ThS. Nguyễn Thị Lan Hương, Vấn đề bảo vệ môi
trường và hiệp định TBT trong khuôn khổ WTO qua 2 vụ tranh chấp Hoa Kỳ
- Cá ngừ II, Tạp chí Khoa học pháp lí số 03/2013.
4.https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/1pagesum_e/ds381su
m_e.pdf
5.https://docs.wto.org/dol2fe/Pages/SS/directdoc.aspx?filename=Q%3A%2F
WT%2FDS%2F381R.pdf&Open=True

6.https://docs.wto.org/dol2fe/Pages/SS/directdoc.aspx?filename=Q:/WT/DS/3
81ABR.pdf&Open=True

You might also like