You are on page 1of 54

Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

金丹四百字解
Chú giải Kim Đan tứ bách tự

宋天台张紫阳真人著
Thiên Thai Trương Tử Dương chân nhân đời Tống sáng tác
栖云山悟元子刘一明解注
Thê Vân Sơn Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh chú giải
后学门人白玉峰刊梓后学李云峰重刊
Hậu học môn nhân Bạch Ngọc Phong khắc in
Hậu học Lí Vân Phong tái bản

金丹四百字解序
Tựa Kim Đan tứ bách tự
《金丹四百字》,乃宋紫阳真人成道以后,遗与马处厚之文。
其文初无定名,后人因其无名,即以《金丹四百字》名之。是文
其言约而不繁,其义显而且明,与《悟真篇》相为表里。《悟真
篇》细分药物火侯,《四百字》总撮始终大义,两者一而二,二
而一也。但《四百字》自宋迄今,注释者甚多,或以炉火解,或
以搬运解,求其传真写神,发其藏蕴者,卒不可得。予不忍祖师
法宝埋没,遂逐段细释,破其譬象,明指何者是鼎,何者是炉,
何者是药,何者是火,何者是有作,何者是无为,字字分晰,句
句辨别,剥核见仁,碎骨露髓,宝函珠玉,明明朗朗,庶乎阅者
一目了然,不为邪说淫辞所惑矣。注既成,犹恐学者躐等而求,
妄冀速验,因附以二十四要、二十四诀,使学者循序而进,自卑
登高,足踏实地而行,自有深造自得之时,亦可不枉费功力矣。
[Kim Đan tứ bách tự], là do sau khi Tử Dương chân nhân đời Tống
thành đạo, tặng bài văn này cho Mã Xứ Hậu1. Bài văn này ban đầu
không đặt tên, người đời sau vì thấy nó vô danh, liền đặt tên là [Kim
Đan tứ bách tự]. Văn từ giản dị không phức tạp, nghĩa lí rõ ràng mà
sáng sủa, với [Ngộ chân thiên] trong ngoài giúp nhau. [Ngộ chân
thiên] thì phân tích tỉ mỉ Dược Vật Hỏa Hầu, [Tứ bách tự] thì tóm tắt
những nghĩa lớn từ đầu đến cuối, hai quyển này tuy một mà hai tuy
hai mà một. Nhưng [Tứ bách tự] từ Tống đến nay, người chú thích rất
nhiều, hoặc lấy Lô Hỏa2 giải thích, hoặc lấy ban vận3 giải thích, mong
1
Mã Xứ Hậu: là một vị quan đã giúp đỡ cho tổ Trương Tử Dương
2
Lô Hỏa: liên quan đến thuật phòng trung
[1]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

là truyền được tinh thần chân thật, phát lộ những cái tàng ẩn, cuối
cùng vẫn không được. Ta không đành để pháp bảo của tổ sư mai một,
liền mang từng đoạn ra giải thích tỉ mỉ, làm rõ các hình tượng tỉ dụ,
chỉ rõ cái gì là Đỉnh, cái gì là Lô, cái gì là Dược, cái gì là Hỏa, cái gì
là hữu tác, cái gì là vô vi, chữ chữ phân tích, câu câu biện rõ, đập hạt
thấy nhân, phá xương lộ tủy, bảo hàm châu ngọc, sáng láng rõ ràng,
tiếp đó giúp người đọc nhìn qua là hiểu, không bị tà thuyết dâm từ làm
mê hoặc vậy. Chú đã xong, vì sợ người học nóng vội mà không theo
thứ tự, liều mong nhanh hiệu nghiệm, vì thế mà thêm Nhị Thập Tứ
Yếu, Nhị Thập Tứ Quyết, giúp người học tuần tự mà tiến, từ thấp lên
cao, chân bước thực địa mà thi hành, tự nhiên sẽ có lúc hiểu biết sâu
sắc, mà thực không uổng phí sự gắng công vậy.

嘉庆十二年岁次丁卯冬至月朔三日栖云山素朴散人自序
Năm Đinh Mão niên hiệu Gia Khánh thứ mười hai, tháng đông chí
ngày mùng ba, Thê Vân Sơn Tố Phác tán nhân tự viết bài tựa.

3
Ban vận: vận chuyển, chắc là dẫn khí
[2]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

金丹四百字解
Giải thích Kim Đan tứ bách tự

真土擒真铅,真铅制真汞。
铅汞归真土,身心寂不动。
Chân Thổ cầm Chân Diên, Chân Diên chế Chân Hống.
Diên Hống quy Chân Thổ, thân tâm tịch bất động.
Chân Thổ cầm Chân Diên, Chân Diên chế Chân Hống.
Diên Hống quy Chân Thổ, thân tâm lặng chẳng động.

土居中央,为万物之母,能以和四象、攒五行、生万物、养万
物,所以成始而成终者。此云真土,非世间有方有所之浊土,乃
人身无方无所之真意。真意主宰万事,统摄精神,护持性命,镇
守中宫,与土同功,故以真土名之,因其诚一不二,又名真情;
因其内藏生机,又名中黄;因其无物不包,又名黄庭;因其动静
如一,又名刀圭;因其能调阴阳,又名黄婆;因其总持理道,又
名十字路;因其和合四象,又名四会。异名多端,总以形容此真
意之一物耳。
Thổ ở trung ương, là mẹ vạn vật, có thể hòa tứ tượng, hội ngũ hành,
sinh vạn vật, dưỡng vạn vật, cho nên nó bắt đầu mà cũng kết thúc vậy.
Nói là Chân Thổ, chẳng phải là thứ đất trọc có nơi có chốn ở thế gian,
mà là Chân Ý chẳng ở nơi chốn cụ thể nào của thân người ta. Chân Ý
là chủ tể vạn sự, thống nhiếp tinh thần, hộ trì Tính Mệnh, trấn thủ
Trung Cung, có công giống như đất, nên gọi là Chân Thổ, vì nó chân
thành nhất không hai lòng, nên cũng gọi là Chân Tình; vì trong nó
tàng sinh cơ, nên cũng gọi là Trung Hoàng; vì nó không vật gì là
không bao bọc, nên cũng gọi là Huỳnh Đình; vì nó động tĩnh như một,
nên cũng gọi là Đao Khuê; vì nó giỏi điều hòa Âm Dương, nên cũng
gọi là Hoàng Bà; vì nó tổng trì lí đạo, nên cũng gọi là Thập Tự Lộ; vì
nó giúp hòa hợp tứ tượng, nên cũng gọi là Tứ Hội. Dị danh rất nhiều,
tóm lại chỉ để hình dung một cái Chân Ý này thôi.

铅性沉重,其气坚刚,经久不坏。此云真铅,非世间有形有质
之凡铅,乃人身无形无质真知之真情。真情外暗内明,刚强不屈,
能御外患,能制内邪,有象于铅,故以真铅名之。因其刚烈在内,
又名黑虎;因其气属于金,又名白虎,因其不为物屈,又名金
公;因其光照万有,又名金华;因其转运造化,又名天罡;因其
[3]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

暗中藏明,又名水中金;因其雌里怀雄,又名月中兔。异名多端,
总以形容此真情之一物耳。
Diên tính trầm trọng, Khí của nó cứng rắn, lâu ngày chẳng hoại. Gọi
là Chân Diên, chẳng phải là thứ Diên-chì bình thường hữu hình hữu
chất ở thế gian, mà là Chân Tình của Chân Tri vô hình vô chất trong
thân ta. Chân Tình ngoài tối trong sáng, cương cường bất khuất, giỏi
chế ngự mối lo bên ngoài, giỏi chế nội tà, hình tượng như Diên, nên
gọi là Chân Diên. Vì nó bên trong thì cương liệt, nên cũng gọi là Hắc
Hổ; vì Khí của nó thuộc Kim, nên cũng gọi là Bạch Hổ, vì nó không
bị vật khuất phục, nên cũng gọi là Kim Công; vì áng sáng của nó
chiếu vạn hữu, nên cũng gọi là Kim Hoa; vì nó chuyển vận tạo hóa,
nên cũng gọi là Thiên Cương; vì nó giấu sáng trong tối, nên cũng gọi
là Thủy Trung Kim-Kim trong Thủy; vì nó giấu con trống ở chỗ con
mái, nên cũng gọi là Nguyệt Trung Thố-Thỏ trong trăng. Dị danh rất
nhiều, tóm lại chỉ để hình dung một cái Chân Tình này thôi.

汞为活动之物,其性轻浮,其气明柔,易于走失。此云真汞,
非世间有形有质之凡汞,乃人身无形无质灵知之灵性。灵性外刚
内柔,至虚至灵,变化不测,叩之则应,触之则动,有象于汞,
故以真汞名之。因其出入无时,又名为龙;因其气应东方,又名
青龙;因其经火煅成,又名赤龙;因其性柔爱物,又名木母;因
其外阳内阴,又名姹女;因其雄内怀雌,又名日中乌;因其真藏
火中,又名朱里汞;因其光无不通,又名流珠。异名多端,总以
形容此灵性之一物耳。
Hống là vật hoạt động, Tính nó nhẹ nổi, Khí của nó nhu hòa mà
sáng, dễ bị chạy mất. Gọi là Chân Hống, chẳng phải là thứ Hống-thủy
ngân bình thường hữu hình hữu chất ở thế gian, mà là Linh Tính của
Linh Tri vô hình vô chất trong thân ta. Linh Tính ngoài cứng trong
mềm, chí hư chí linh, biến hóa bất trắc, gõ thì nó ứng, chạm thì nó
động, hình tượng như Hống, nên gọi là Chân Hống. Vì nó xuất nhập
vô thời, nên cũng gọi là Long; vì Khí của nó ứng phương đông, nên
cũng gọi là Thanh Long; vì nó qua lửa nung thành, nên cũng gọi là
Xích Long; vì tính nó mềm yếu yêu vật, nên cũng gọi là Mộc Mẫu; vì
nó ngoài Dương trong Âm, nên cũng gọi là Xá Nữ; vì nó giấu con mái
trong con trống, nên cũng gọi là Nhật Trung Ô-Quạ trong mặt trời; vì
nó thực tàng trong Hỏa, nên cũng gọi là Chu Lí Hống-Hống trong
Chu; vì ánh sáng của nó không đâu không tới, nên cũng gọi là Lưu

[4]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Châu. Dị danh rất nhiều, tóm lại chỉ để hình dung một cái Linh Tính
này thôi.

真意也,真情也,灵性也,即吾身中真土、真铅、真汞之三宝。
此三宝有先天浑沦一气,圆成无亏,不得云意,不得云情,不得
云性,纯是一真。及交后天,阳极生阴,一气分而为三家,遂有
意与情、性之名。真者一分,假者斯出,轮回种子当权,根尘俱
起,习气日盛,真意中杂有假意,真情中杂有妄情,灵性中杂有
气性,邪正相混,假乱其真,性命摇动,日复一日,年复一年,
真者全消,纯是一假,阳尽阴纯,不死岂能之乎!以往群真教人
返本还元,以保性命者,无非教人返还此三者,皆归于真耳。
Chân Ý, Chân Tình, Linh Tính, là tam bảo Chân Thổ, Chân Diên,
Chân Hống trong thân ta. Tam Bảo này có Tiên Thiên Hồn Luân Nhất
Khí, tròn trịa không khiếm khuyết, không có Ý, không có Tình, không
có Tính, thuần là Nhất Chân. Đến khi giao với Hậu Thiên, Dương cực
sinh Âm, Nhất Khí phân chia mà thành tam gia, liền có tên là Ý và
Tình, Tính. Cái Chân đã phân, cái Giả từ đây xuất hiện, luân hồi
chủng tử đương quyền, căn trần đều khởi, tập khí ngày một thịnh,
trong Chân Ý có lẫn Giả Ý, trong Chân Tình có lẫn Vọng Tình, trong
Linh Tính có lẫn Khí Tính, tà chính trộn lộn, giả làm loạn chân, Tính
Mệnh dao động, ngày lại ngày, năm lại năm, cái chân tiêu hết, còn
toàn là giả, Dương tận Âm thuần, há có thể không chết được! Các
chân nhân trước đây dạy người phản bản hoàn nguyên, để bảo vệ Tính
Mệnh, chẳng qua là dạy người phản hoàn ba cái này, đều quay về chân
vậy.
返还之道,莫先于知的本来真意。果知真意,若下肯心,则信
宝在手,刹那之间,万有皆空,俯视一切,外物难移,正气渐生。
道心常存,则妄情化而真情出,常应常静,如真土擒真铅,铅不
下沉矣。真情既现,不隐不瞒,元神常存,识神不起,则气性化
而灵性彰,如真铅制真汞,汞不飞扬矣。擒制之法,非有心造作,
乃自然之擒制,不擒而擒,不制而制,特以真情在中,真知之情,
灵知之性,阴阳眷恋,二气絪緼,凝结不散,有不期然而然者也。
丹道之所难得者,情性相合。情性相合,不偏不倚之谓中,三家
相会,仍是一气。已去者而复返,已失者而又还,如铅汞归于土
釜,稳稳当当,一切后天客气,不能为害,幻身顽心,自然寂静

[5]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

不动矣。幻身顽心之妄动者,皆由三家不合之故。三家相合,真
者复而假者自静,身心何敢动之乎?
Đạo phản hoàn, đầu tiên nhất định phải biết được bản lai Chân Ý.
Thực biết Chân Ý, nếu lòng mà nguyện ý, thì chắc chắn bảo vật trong
tay, chỉ trong chớp mắt, vạn hữu giai không, cúi nhìn tất thảy, ngoại
vật khó di, chính khí dần sinh. Đạo tâm thường tồn, thì Vọng Tình hóa
mà Chân Tình xuất hiện, thường ứng thường tĩnh; như Chân Thổ cầm
Chân Diên, Diên không chìm xuống vậy. Chân Tình đã hiện, không ẩn
trốn không dối lừa, Nguyên Thần thường tồn, Thức Thần chẳng khởi,
thì Khí Tính hóa mà Linh Tính sáng láng; như Chân Diên chế Chân
Hống, Hống chẳng bay lên vậy. Phép cầm chế, chẳng phải là hữu tâm
để làm, mà là tự nhiên cầm chế, chẳng cầm mà cầm, chẳng chế mà chế,
chỉ vì Chân Tình ở giữa, thì Tình của Chân Tri, Tính của Linh Tri, Âm
Dương quyến luyến, hai khí mịt mờ, ngưng kết không tán, có cái bất
kì nhiên nhi nhiên4. Cái mà Đan đạo khó đắc, là Tình Tính tương hợp.
Tình Tính tương hợp, không nghiêng không lệch mà gọi là trung, tam
gia tương hội, quay về Nhất Khí. Cái đã đi mất nay quay về, cái đã
mất đi nay có lại, nếu Diên Hống quay về Thổ Phủ, ổn ổn định định,
thì toàn bộ Hậu Thiên khách khí, đều không thể làm hại được, ảo thân
ngoan tâm, tự nhiên tịch tĩnh bất động. Cái vọng động của ảo thân
ngoan tâm, đều do tam gia không hội hợp. Tam gia mà tương hợp, cái
Chân hồi phục mà cái Giả tự tĩnh, thân tâm sao dám động đây?

虚无生白雪,寂静发黄芽。
玉炉火温温,顶上飞紫霞。
Hư vô sinh Bạch Tuyết, tịch tĩnh phát Hoàng Nha.
Ngọc Lô hỏa ôn ôn, Đỉnh thượng phi tử hà.
Trong hư vô sinh ra Bạch Tuyết, trong tịch tĩnh phát xuất Hoàng
Nha.
Trong Ngọc Lô, lửa nhẹ nhàng, trên đỉnh có mây tím bay.

上言铅汞归真土,则身心不动,已入于虚寂之地矣。然虚须要
虚至于无可虚,方谓虚之至;寂要寂至于静之极,方谓寂之至。
盖虚无则先天真一之水渐生,寂静则先天真阳之气来复,故曰白
雪生、黄芽发。白雪,乃水气化而上浮者,喻虚室生白之象;黄
芽,乃生机回而方萌者,喻静中有动之象。虚室生白,静极而动,

4
Bất kì nhiên nhi nhiên: Không nghĩ đến như thế mà lại là như thế
[6]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

黑中有白,阴内有阳,先天之气来复,金丹有象矣。金丹有象,
急须勿忘勿助,用文火以温养,而须臾不可稍懈者也。玉炉者,
坤柔之炉,喻其用功从容而不急燥。鼎者,乾刚之鼎,喻其志念
坚固而不变更。紫霞飞者,喻其功力到日,智慧顿开。当灵苗初
生,不即不离,以文火温养,防危虑险,由嫩而坚,由生而熟,
火足丹成,慧光射外,如鼎中药熟,紫霞飞于鼎上也。
Trên nói về Diên Hống quy Chân Thổ, thì thân tâm bất động, rồi
nhập vào nơi hư vô tịch tĩnh. Nhưng hư cần phải hư đến mức không
thể hư nữa, mới gọi là đã đến mức cực hư; tịch cần phải tịch đến mức
cực tĩnh, mới gọi là đã đến mức cực tịch. Vì hư vô thì Tiên Thiên
Chân Nhất Chi Thủy dần sinh ra, tịch tĩnh thì Tiên Thiên Chân Dương
Chi Khí hồi phục lại, nên nói là Bạch Tuyết sinh, Hoàng Nha phát.
Bạch Tuyết, là Thủy Khí hóa mà nổi lên, là tỉ dụ hình tượng Hư thất
sinh bạch5; Hoàng Nha, là sinh cơ hồi về mà mới nảy mầm, là tỉ dụ
hình tượng trong tĩnh có động. Hư thất sinh bạch, tĩnh cực rồi động,
trong đen có trắng, trong Âm có Dương, Tiên Thiên Khí hồi phục lại,
Kim Đan có hình tượng vậy. Kim Đan có hình tượng, cần nhanh
chóng vật vong vật trợ6, dùng Văn Hỏa để ôn dưỡng, một chút cũng
không được lười biếng trễ nải vậy. Ngọc Lô là Khôn Nhu Chi Lô7, là
tỉ dụ cách dụng công trong nó phải từ từ thung dung mà không được
nóng vội. Đỉnh là Càn Cương Chi Đỉnh8, là tỉ dụ chí niệm của nó kiên
cố không đổi. Tử hà phi là tỉ dụ công lực đến ngày, trí tuệ liền khai
mở. Lúc mầm Linh mới sinh, không thân không sơ, dùng Văn Hỏa ôn
dưỡng, phòng nguy lự hiểm, từ mềm yếu đến cứng chắc, từ xanh
thành chín, Hỏa đủ thì Đan thành, Tuệ Quang chiếu ra bên ngoài, như
Dược chín trong Đỉnh, Tử Hà bay lên trên Đỉnh vậy.

华池莲花开,神水金波静。
夜深月正明,天地一轮镜。
Hoa Trì liên hoa khai, Thần Thủy Kim Ba tĩnh.
Dạ thâm nguyệt chính minh, thiên địa nhất luân kính.
Sen nở ở Hoa Trì, Thần Thủy kim ba tĩnh.
Đêm khuya trăng đang sáng, một tấm gương giữa đất trời.

5
Hư thất sinh bạch: căn nhà hư vô sinh màu trắng
6
Vật vong vật trợ: không quên không giúp
7
Khôn Nhu chi Lô: Lô ở vị trí Khôn mà mềm mại nhu hòa
8
Càn Cương chi Đỉnh: Đỉnh ở vị trí Càn mà cứng rắn
[7]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

华池者,喻灵窍也。神水者,喻真性也。莲花者,喻慧光也。
金波者,喻情缘也。当灵苗温养气足,心花开放,慧光日生,故
曰“华池莲花开”。慧光既生,则内念不萌而性定。性既定,则
外物不纳而情忘,故曰“神水金波静”。性定情忘,处于万物之
中,而不为万物所瞒,圆陀陀,光灼灼,如一轮明月,照于夜深
之中。上天下地,无处不通,而金丹凝结于太虚空矣。
Hoa Trì là tỉ dụ Linh Khiếu. Thần Thủy là tỉ dụ Chân Tính. Liên
Hoa là tỉ dụ Tuệ Quang. Kim Ba là tỉ dụ tình duyên. Lúc ôn dưỡng
mầm Linh đến khi Khí đủ, Tâm Hoa khai nở, Tuệ Quang ngày ngày
sinh ra, nên nói “Sen nở ở Hoa Trì”. Tuệ Quang đã sinh, thì niệm bên
trong không sinh mà Tính định. Tính đã định, thì ngoại vật không vào
mà Tình vong, nên nói “Thần Thủy Kim Ba tĩnh”. Tính định Tình
vong, thì ở giữa vạn vật, mà không bị vạn vật lừa dối, tròn trĩnh, sáng
lấp lánh, như một vầng trăng sáng, chiếu giữa đêm khuya. Trên trời
dưới đất, không đâu không tới, mà Kim Đan ngưng kết ở Thái Hư
Không vậy.

朱砂炼阳气,水银烹金精。
金精与阳气,朱砂而水银。
Chu Sa luyện Dương Khí, Thủy Ngân phanh Kim Tinh.
Kim Tinh dữ Dương Khí, Chu Sa nhi Thủy Ngân.
Chu Sa luyện Dương Khí, Thủy Ngân nấu Kim Tinh.
Kim Tinh với Dương Khí, Chu Sa và Thủy Ngân.

上三段统言金丹始终之大略,以下细分药物、火候之精微。
Ba đoạn trên nói đại lược từ đầu đến của của Kim Đan, ở dưới phân
biệt tỉ mỉ sự tinh vi của Dược Vật, Hỏa Hậu.

朱砂属火,气浊,象人之燥性;水银属水,性动,象人之人
心;阳气生物,象人之真性;金精光明,象人之道心。吕祖云:
“七返还丹,在人先须炼己待时。”《悟真》云:“若要修成九
转,先须炼己持心。”上阳子云:“还丹最易,炼己最难。”此
皆言欲修大道,先须炼己也。炼己之要,莫先于惩忿窒欲。忿气
者,燥性之邪火,磕着换着,即便发作,性命不顾,生死不计,
如大火烧山,莫可遏止。若不用功惩治,锻炼为无烟无焰之物,
最足陷真。

[8]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Chu Sa thuộc Hỏa, Khí đục, hình tượng tính nóng vội của con
người; Thủy Ngân thuộc Thủy, tính động, hình tượng nhân tâm của
con người; Dương Khí sinh vật, hình tượng Chân Tính của con người;
Kim Tinh quang minh, hình tượng Đạo Tâm của con người. Lữ Tổ
nói: “Thất Phản Hoàn Đan, tại nhân tiên tu Luyện Kỉ đãi thì-Thất
Phản Hoàn Đan, là đầu tiên người phải Luyện Kỉ đợi thời”. [Ngộ
chân] nói: “Nhược yếu tu thành cửu chuyển, tiên tu Luyện Kỉ trì tâm-
Nếu muốn tu thành cửu chuyển, đầu tiên cần Luyện Kỉ giữ tâm”.
Thượng Dương Tử nói: “Hoàn Đan tối dịch, Luyện Kỉ tối nan-Hoàn
Đan rất dễ, Luyện Kỉ rất khó”. Các câu đó đều nói muốn tu Đại Đạo,
thì đầu tiên phải Luyện Kỉ. Điều quan trọng của Luyện Kỉ, là đầu tiên
nhất định trừng phẫn trất dục-giảm nóng giận bỏ dục vọng. Phẫn Khí-
Khí nóng giận, là tà hỏa của tính nóng, có va chạm là thay đổi, lập tức
phát tác, chẳng quan tâm đến Tính Mệnh, chẳng tính toán đến sống
chết, như lửa lớn đốt núi, không thể lấn át làm nó dừng lại được. Nếu
không dụng công trị nó, nung luyện thành vật không khói không ngọn,
thì rất dễ hại cái Chân.

“朱砂炼阳气”者,是将燥性炼而为无性之真性也。欲念者,
人心之识神,见景遇物,即便飞扬,六根俱发,七情并起,如群
寇盗宝,不能阻挡。若不猛力窒塞,烹煎成不动不摇之物,易足
败道。
“Chu Sa luyện Dương Khí” là đem Táo Tính-tính nóng nảy luyện
thành Chân Tính của Vô Tính. Dục niệm là Thức Thần của Nhân Tâm,
thấy cảnh gặp vật, thì liền bay lên, lục căn đều phát, thất tình cùng
khởi, như lũ giặc trộm cướp bảo vật, không thể ngăn trở. Nếu không
cố gắng chặn lại, đun nấu thành vật không động không dao, thì nó dễ
dàng đánh bại Đạo.

“水银烹金精”者,是将人心烹化为无心之道心也。燥性灭,
真性现,如朱砂化为阳气,永为温和之性矣。人心死,道心存,
如水银变为金精,永为光明之心矣。盖真即在假之中,假不出真
之外。是性也,是心也,经火烹炼,即成真性道心,则朱砂化为
阳气,水银变为金精矣。若不经火烹炼,永为燥性人心,虽阳气
亦化为朱砂,金精亦变为水银矣。故曰“金精与阳气,朱砂而水
银”。假可为真,真亦可为假,是在烹炼与不烹炼之间分别耳。

[9]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

修行者,可不先自惩忿窒欲以炼己乎?噫!还丹在一时,炼己须
十月。炼己之功,岂小焉哉!
“Thủy Ngân nấu Kim Tinh” là đem Nhân Tâm nấu thành Đạo Tâm
của Vô Tâm. Táo Tính diệt, thì Chân Tính hiện, như Chu Sa hóa thành
Dương Khí, mãi mãi là Tính ôn hòa. Nhân Tâm chết, thì Đạo Tâm tồn,
như Thủy Ngân biến thành Kim Tinh, mãi mãi là Tâm quang minh
vậy. Vì Chân ở trong Giả, Giả không ra ngoài Chân. Là Tính, là Tâm,
trải qua lửa đun luyện, liền thành Chân Tính Đạo Tâm, thì Chu Sa hóa
thành Dương Khí, Thủy Ngân biến thành Kim Tinh vậy. Nếu không
qua lửa đun luyện, mãi mãi là Táo Tính Nhân Tâm, dù Dương Khí
cũng hóa thành Chu Sa, Kim Tinh cũng biến thành Thủy Ngân. Nên
nói “Kim Tinh với Dương Khí, Chu Sa với Thủy Ngân”. Giả có thể
thành Chân, Chân cũng có thể thành Giả, chỉ ở việc đun luyện hay
không đun luyện mà phân biệt. Người tu hành, đầu tiên có thể không
tự trừng phẫn trất dục để Luyện Kỉ sao? Ôi! Hoàn Đan chỉ nhất thời,
Luyện Kỉ cần mười tháng. Công phu Luyện Kỉ, há bé nhỏ ư!

日魂玉兔脂,月魄金乌髓。
掇来归鼎内,化作一泓水。
Nhật Hồn Ngọc Thố chi, Nguyệt Phách Kim Ô tủy.
Xuyết lai quy Đỉnh nội, hóa tác nhất hoằng thủy.
Mỡ của Nhật Hồn Ngọc Thố, tủy của Nguyệt Phách Kim Ô.
Lấy đem về trong Đỉnh, hóa thành vũng nước trong.

上言炼己之功,此言采药之决。日魂金乌,喻灵知之精华;玉
兔月魄,喻真知之慧光。然灵知非真知之光,不能鉴之远;真知
非灵知之景,不能通其明,故曰“日魂玉兔脂,月魄金乌髓”,
将此两味真药物,掇来归于悬胎鼎内,用三昧真火猛烹急炼,不
交而必使之交,不合而必使之合。交之合之,必至熔化如一泓水,
绝无丝毫滓质,方为极功。掇来者,灵知易飞,真知易藏,当因
其所发而即掇归于鼎,令其住而不令其去也。鼎非有形有象之鼎,
即前所解乾刚之鼎,乃乾阳刚健之正气。正气常存,一念纯真,
心坚志远,愈久愈力,而真知灵知,锻炼为混成之物矣。
Trên nói về công phu Luyện Kỉ, ở đây nói bí quyết hái Dược. Nhật
Hồn Kim Ô là tỉ dụ tinh hoa của Linh Tri; Ngọc Thố Nguyệt Phách là
tỉ dụ Tuệ Quang của Chân Tri. Nhưng Linh Tri không phải là ánh sáng
của Chân Tri, không thể soi xét ra xa được; Chân Tri chẳng phải là

[10]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

cảnh tượng của Linh Tri, không thể thông ra chỗ sáng, nên nói “Mỡ
của Nhật Hồn Ngọc Thố, tủy của Nguyệt Phách Kim Ô”, đem hai vị
Chân Dược Vật này, lấy đem về trong Huyền Thai Đỉnh-Đỉnh treo
Thai, dùng Tam Muội Chân Hỏa mãnh phanh cấp luyện, không giao
thì phải khiến nó giao, không hợp thì phải khiến nó hợp. Giao nó hợp
nó, tất đến lúc nó hóa trộn như một vũng nước trong, tuyệt không có
một chút chất bẩn nào, mới là công phu cao nhất. Lấy đem về là vì
Linh Tri dễ bay lên, Chân Tri dễ ẩn tàng, nhân lúc nó đang phát mà
liền lấy đem về trong Đỉnh, khiến nó trụ lại mà không để nó đi mất.
Đỉnh chẳng phải là cái đỉnh hữu hình hữu tượng, mà là Càn Cương
Chi Đỉnh giải thích ở trên, là Chính Khí Càn Dương cương kiện.
Chính Khí thường tồn, nhất niệm thuần chân, tâm vững mạnh chí cao
xa, càng lâu càng mạnh, thì Chân Tri Linh Tri, nung luyện trộn thành
một vật vậy.

药物生玄窍,火候发阳炉。
龙虎交会罢,金鼎产玄珠。
(交会罢一作“交会时”,一作“交会后”)
Dược vật sinh Huyền Khiếu, hỏa hậu phát Dương Lô.
Long Hổ giao hội bãi, Kim Đỉnh sản Huyền Châu.
(giao hội bãi nhất tác “giao hội thời”, nhất tác “giao hội hậu”)
Dược vật sinh Huyền Khiếu, hỏa hậu phát Dương Lô.
Long Hổ giao hội xong, Kim Đỉnh sản Huyền Châu.
(cụm chữ giao hội xong có bản viết là “lúc giao hội”, có bản là
“sau khi giao hội”)

药物者,即真知灵知之药物。玄窍者,幽深隐微之窍,即阴阳
分判之处,亦即性命寄居之处,所谓“玄关窍”者是也。此窍异
名多端,曰玄牝门,曰生死户,曰生杀舍,曰虚无窍,曰众妙门。
总而言之,曰这个而已。这个窍,非有非无,非色非空,无方所,
无形象,在恍惚杳冥之中、非外非内之际。若以方所形象猜之,
差之多矣。火候者,用功之候也;阳炉者,猛烹急炼之功,非实
有炉。因其用火功锻炼真灵大药,故谓之炉。
Dược Vật là Dược Vật của Chân Tri Linh Tri. Huyền Khiếu là
Khiếu ẩn trong chỗ tinh vi sâu kín âm u, là chỗ Âm Dương phân chia,
cũng là chỗ Tính Mệnh ở, mà gọi là “Huyền Quan Khiếu” vậy. Khiếu
này có rất nhiều dị danh, như Huyền Tẫn Môn, Sinh Tử Hộ, Sinh Sát
Xá, Hư Vô Khiếu, Chúng Diệu Môn. Nói chung là nói Giá Cá-cái ấy
[11]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

mà thôi. Khiếu đó, phi hữu phi vô, phi sắc phi không, không có chỗ ở
cụ thể, không có hình tượng, nó ở trong nơi hoảng hốt yểu minh-mịt
mịt mờ mờ, ở nơi chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nếu dùng hình
tượng hoặc nơi chốn cụ thể mà cưỡng đoán nó, thì thật là sai đó. Hỏa
Hậu là thời gian dụng công vậy; Dương Lô là công phu mãnh phanh
cấp luyện, chẳng phải là thực có cái lò. Vì dùng hỏa công nung luyện
Chân Linh Đại Dược, nên gọi là Lô.

龙属木,喻性,灵知所出。灵知之性,变化不测,故以龙象之。
虎属金,喻情,真知所出。真知之情,刚强不屈,故以虎象之。
但性有气质之性,有天赋之性;情有爱欲之情,有无妄之情。气
质之性者,后天也;天赋之性者,先天也。爱欲之情者,后起
也;无妄之情者,固有也。金鼎者,即乾刚之鼎。玄珠者,金丹
之别名。因其金丹圆明,故喻以珠;因其神妙难言,故又喻以玄
珠。
Long thuộc Mộc, tỉ dụ Tính, là do Linh Tri xuất ra. Tính của Linh
Tri, biến hóa không dò được, nên lấy Long làm hình tượng. Hổ thuộc
Kim, tỉ dụ Tình, là do Chân Tri xuất ra. Tình của Chân Tri, cương
cường bất khuất, nên lấy Hổ làm hình tượng. Nhưng Tính có Tính của
khí chất, có Tính do thiên phú; Tình có Tình của ái dục, có Tình của
vô vọng-không xằng bậy. Tính của khí chất là Hậu Thiên; Tính do
thiên phú là Tiên Thiên. Tình của ái dục là sau này mới khởi lên; Tình
của vô vọng là vốn có. Kim Đỉnh là Càn Cương Chi Đỉnh. Huyền
Châu là tên khác của Kim Đan. Vì Kim Đan viên minh, nên tỉ dụ là
Châu; vì nó thần diệu khó nói, nên cũng gọi là Huyền Châu.

上文日魂月魄,化作一泓水,金丹有象矣。然丹道药生有时,
运火有候,若不知药生之时,运火之候,金丹不结。仙翁诗云:
“纵识朱砂与黑铅,不知火候也如闲。大都全藉修持力,毫发差
殊不结丹。”当真知灵知二药生于玄窍,即须乘时下手,猛烹急
炼,煅去后天气质之性、爱欲之情,降伏凡龙凡虎,使先天真性
情之真龙真虎,交会于金鼎之中,相吞相咽,凝结不散,自然产
出一粒玄珠,圆陀陀,光灼灼,通天彻地,无遮碍矣。但此药生
玄窍之时,与天地合其德,与日月合其明,与四时合其序,与鬼
神合其吉凶,难得易失。火候合宜,则真者凝而假者消,金丹立
结;火候稍差,则真者去而假者来,当面错过。《入药镜》云:
“受气吉,防成凶。”可不慎乎!
[12]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Đoạn trên Nhật Hồn Nguyệt Phách, hóa thành một vũng nước trong,
Kim Đan có hình tượng vậy. Nhưng trong Đan Đạo thì Dược sinh có
giờ, vận Hỏa có Hậu-thời điểm và thời gian thi hành, nếu không biết
giờ Dược sinh, không biết Hậu của vận Hỏa, thì Kim Đan không kết.
Tiên ông thơ rằng: “Túng thức Chu Sa dữ Hắc Diên, bất tri Hỏa Hậu
dã như nhàn. Đại đô toàn tạ tu trì lực, hào phát soa thù bất kết Đan-Dù
biết Chu Sa với Hắc Diên, không biết Hỏa Hậu cũng như không. Toàn
bộ đều nhờ tu trì lực, hơi sai một chút chẳng kết Đan”. Lúc Chân Tri
Linh Tri Nhị Dược sinh ở Huyền Khiếu, liền cần thừa cơ hạ thủ, mãnh
phanh cấp luyện, nung hết Tính của Hậu Thiên khí chất, Tình của ái
dục, hàng phục phàm Long phàm Hổ, khiến Chân Long Chân Hổ của
Tiên Thiên Chân Tính Tình, giao hội trong Kim Đỉnh, uống nuốt lẫn
nhau, ngưng kết không tán, tự nhiên sản xuất một hạt Huyền Châu,
tròn trĩnh, sáng lấp lánh, thông thiên triệt địa, không gì che phủ ngăn
trở được. Nhưng vì thời điểm Dược sinh ở Huyền Khiếu này, cùng
trời đất hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp sáng, cùng bốn mùa hợp thứ tự,
cùng quỷ thần hợp cát hung, nên khó được mà dễ mất. Hỏa Hậu mà
thích hợp, thì cái Chân ngưng mà cái Giả tiêu, Kim Đan liền kết; Hỏa
Hậu chỉ hơi sai, thì cái Chân đi mất mà cái Giả tới, gặp mà lỡ mất.
[Nhập Dược Kính] nói: “Thụ khí cát, phòng thành hung-Nhận Khí
lành, đề phòng nguy hiểm lúc thành công” có thể không thận trọng
sao!

此窍非凡窍,乾坤共合成。
名为神气穴,内有坎离精。
Thử Khiếu phi phàm Khiếu, Càn Khôn cộng hợp thành.
Danh vi Thần Khí Huyệt, nội hữu Khảm Li Tinh.
Khiếu này chẳng phải Khiếu thường, Càn Khôn cùng hợp mà
thành.
Tên là Thần Khí Huyệt, trong có Khảm Li Tinh.

上言玄窍能生药物,特以此窍至玄至妙,恍惚杳冥,拟之则失,
议之则非,非一身有形有象,可见可指之凡窍,乃无形无象不可
见不可指之圣窍。此窍在人身,非黄庭,非绛宫,非丹田,非气
海,非尾闾,非肾前脐后,非两肾中间,非夹脊双关,非任督二
脉,非明堂,非泥丸,非天谷,非玉枕,非口鼻,系乾坤阴阳二
气,在虚空中合而成之者。

[13]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Trên nói về Huyền Khiếu có thể sinh Dược Vật, riêng vì Khiếu này
chí huyền chí diệu, mịt mịt mờ mờ, phỏng theo nó thì sẽ mất, luận về
nó thì sẽ sai, chẳng phải là Khiếu thường hữu hình hữu tượng có thể
thấy có thể chỉ trong thân ta, mà là Thánh Khiếu vô hình vô tượng
không thể thấy không thể chỉ. Khiếu này ở thân người, chẳng phải
Huỳnh Đình, chẳng phải Giáng Cung, chẳng phải Đan Điền, chẳng
phải Khí Hải, chẳng phải Vĩ Lư, chẳng phải trước Thận sau Rốn,
chẳng phải ở giữa hai Thận, chẳng phải Giáp Tích Song Quan, chẳng
phải hai mạch Nhâm Đốc, chẳng phải Minh Đường, chẳng phải Nê
Hoàn, chẳng phải Thiên Cốc, chẳng phải Ngọc Chẩm, chẳng phải
miệng mũi, mà là Càn Khôn Âm Dương Nhị Khí, hợp mà thành ở
trong hư không.

乾刚属阳,坤柔属阴。刚柔二气相合,有此窍;刚柔二气各别,
无此窍。比之上天下地,其中虚空,即是玄窍。人若有刚无柔,
或独柔不刚,孤阴寡阳,其中杂气塞满,焉有玄窍?既无玄窍,
气机已息,焉能生药?故曰“乾坤共合成”。因其乾坤合成,又
名神气穴。神者,灵妙难测,气者,冲和生机。神为阳中之阴,
象离又象日;气为阴中之阳,象坎又象月。乾坤阴阳相合,中空
一窍,而日月来往于其中;人之刚柔相合,中空一窍,而神气凝
结于其内,同一理也,故名为神气穴,内有坎离精。人秉天地日
月之精而生,则身中之神气,即坎离之精也。但此窍非可以有心
求,亦非可以无心取,虽赖师传,还须自悟。若悟此窍,则坎离
药物现成,不待外求,当下顺手可采。奈何举世学人,在一身上
下有形有象之穴窍用功夫,岂能固神气、保性命哉!
Càn cứng rắn thuộc Dương, Khôn nhu thuận thuộc Âm. Hai Khí
cương nhu tương hợp, thì có Khiếu này; hai Khí cương nhu cách biệt,
thì không có Khiếu này. So với trên trời dưới đất, thì hư không ở giữa,
tức là Huyền Khiếu. Người ta nếu có cương mà không có nhu, hoặc
chỉ có nhu mà không cương, cô Âm quả Dương, thì ở giữa tạp khí lấp
đầy, làm sao có được Huyền Khiếu? Đã không có Huyền Khiếu, Khí
cơ đã dừng, sao có thể sinh Dược? Nên nói “Càn Khôn cộng hợp
thành”. Vì là Càn Khôn cùng hợp mà thành, nên cũng gọi là Thần Khí
Huyệt. Thần là linh diệu khó dò, Khí là sinh cơ xung hòa. Thần là Âm
trong Dương, tượng là Li, cũng có tượng là Nhật; Khí là Dương trong
Âm, tượng là Khảm, cũng có tượng là Nguyệt. Càn Khôn Âm Dương
tương hợp, thì trong không trung có một Khiếu, mà nhật nguyệt qua

[14]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

lại ở trong đó. Cương nhu của người ta mà tương hợp, thì trong
khoảng không có một Khiếu, mà Thần Khí ngưng kết trong đó, hai
việc này cùng là một lí vậy, nên tên là Thần Khí Huyệt, trong có
Khảm Li Tinh. Người ta có được Tinh của Thiên Địa Nhật Nguyệt mà
sinh ra, nên Thần Khí trong thân, là Khảm Li Tinh vậy. Nhưng Khiếu
này chẳng thể hữu tâm mà cầu, cũng không thể vô tâm mà giữ, tuy
nhờ thầy truyền, lại do tu luyện mà tự ngộ. Nếu ngộ được Khiếu này,
thì Khảm Li Dược Vật thành và hiện ra, chẳng cần cầu bên ngoài, lúc
tiện tay có thể hái được. Sao mà người học đời nay, lại dụng công phu
ở huyệt khiếu hữu hình hữu tượng ở trên dưới toàn thân vậy, há có thế
củng cố Thần Khí, bảo vệ Tính Mệnh sao!

木汞一点红,金铅三斤黑。
汞铅结成砂,耿耿紫金色。
Mộc Hống nhất điểm hồng, Kim Diên tam cân hắc.
Hống Diên kết thành sa, cảnh cảnh tử kim sắc.
Mộc Hống một điểm hồng, Kim Diên ba cân đen.
Hống Diên kết thành Sa, lóng lánh sắc tử kim.

上言玄窍有坎离精,盖以坎离精,能以结丹也。离精为木汞,
木汞性浮,灵性之象;坎金为金铅,金铅性沉,真情之象。灵性
具有虚灵之火,为灵知,外阳内阴,阴少阳多,阴藏阳中,其中
之阴属人,故谓“一点红”。真情具有刚正之气,为真知,外阴
内阳,阳少阴多,阳藏阴内,其外之阴属水,故谓“三斤黑”。
一点红,喻其少;三斤黑,喻其多,非实有一点、三斤之数也。
丹道采灵知中一点虚灵之真火,炼去妄情昏浊之杂气,采真知中
清净无欲之神水,扑灭气性无根之燥火。真火神水,两而合一,
水火相济,真情灵性和合,真知灵知相恋,情即是性,性即是情,
真而最灵,灵而最真,浑然一气,与天地同功运,亦如铅汞用火
煅炼,结成灵砂,火足药熟,变为紫金之色,永久而无更易矣。
Trên nói về Huyền Khiếu có Khảm Li Tinh, vì nhờ Khảm Li Tinh,
nên có thể kết Đan vậy. Li Tinh là Mộc Hống, Mộc Hống có tính nhẹ
nổi, là hình tượng của Linh Tính; Khảm Kim là Kim Diên, Kim Diên
có tính nặng chìm, là hình tượng Chân Tình. Linh Tính vốn có Hư
Linh Chi Hỏa, là Linh Tri, ngoài Dương trong Âm, Âm ít Dương
nhiều, Âm tàng trong Dương, Âm bên trong thuộc Hỏa9, nên nói “nhất
9
Nguyên bản viết chữ Nhân là người, tôi đoán là nhầm chắc là chữ Hỏa.
[15]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

điểm hồng”. Chân Tình vốn có Cương Chính Chi Khí, là Chân Tri,
ngoài Âm trong Dương, Dương ít Âm nhiều, Dương tàng trong Âm,
Âm bên ngoài thuộc Thủy, nên nói “tam cân hắc”. Nhất điểm hồng, là
tỉ dụ cái ít; Tam cân hắc, là tỉ dụ cái nhiều, chẳng phải là thực có số
lượng nhất điểm, tam cân vậy. Đan Đạo hái một điểm Chân Hỏa của
Hư Linh trong Linh Tri, luyện cho mất đi tạp khí hôn trọc của Vọng
Tình, hái Thần Thủy của thanh tịnh vô dục trong Chân Tri, đập diệt
táo hỏa10 của khí tính vô căn11. Chân Hỏa Thần Thủy, hai thứ hợp nhất,
thủy hỏa tương tế, Chân Tình Linh Tính hòa hợp, Chân Tri Linh Tri
tương luyến, Tình tức là Tính, Tính tức là Tình, Chân mà rất linh,
Linh mà rất chân, toàn thể Nhất Khí, vận động cùng trời đất, cũng như
Diên Hống dùng hỏa nung luyện, kết thành Linh Sa, Hỏa đủ Dược
chín, biến thành sắc màu tử kim, vĩnh cửu không thay đổi.

家园景物丽,风前正春深。
耕锄不费力,大地皆黄金。
Gia viên cảnh vật lệ, phong tiền chính xuân thâm.
Canh sừ bất phí lực, đại địa giai hoàng kim.
Vườn nhà cảnh vật đẹp, cảnh trước chính đang xuân.
Cày bừa không phí lực, mặt đất là hoàng kim.

上言铅汞能以结丹,人或疑为世间凡铅凡汞烧炼而成。殊不知
非世间之凡物,乃我自己家园艳丽之景物。盖以真知灵知,即我
之真铅真汞,家园自有,不待外求。景物艳丽。阴阳融和,生机
不息,如风雨在于春深之时,药苗由微而著,不用耕锄之力,满
空飞白雪,遍处长黄芽,顺手采来,头头是道,随足走去,步步
有宝,如大地皆是黄金矣。
Trên nói về Diên Hống có thể kết Đan, có người nghi hoặc là phàm
Diên phàm Hống ở thế gian nấu luyện mà thành. Thật không biết
chẳng phải là phàm vật ở thế gian, mà là cảnh vật tươi đẹp trong vườn
nhà ta. Vì Chân Tri Linh Tri, là Chân Diên Chân Hống của ta, trong
vườn nhà tự có, không cần cầu bên ngoài. Cảnh vật tươi đẹp. Âm
Dương dung hòa, sinh cơ không ngừng nghỉ, như gió mưa lúc đang
xuân, mầm Dược từ nhỏ bé mà lớn rõ, chẳng cần phí sức cày bừa, mãn
không Bạch Tuyết bay, khắp nơi Hoàng Nha lớn, tiện tay hái về, mọi
10
Táo hỏa: Lửa của nóng nảy
11
Khí tính vô căn: tính khí không có gốc, tính khí là cái tính do tập nhiễm thói quen
mà có
[16]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

nơi đều rõ ràng, theo chân mà đi lại, bước nào cũng có bảo vật, giống
như mặt đất đều là hoàng kim vậy.

真铅生于坎,其用在离官。
以黑而变红,一鼎云气浓。
Chân Diên sinh vu Khảm, kì dụng tại Li Cung.
Dĩ hắc nhi biến hồng, nhất Đỉnh vân khí nùng.
Chân Diên sinh ở Khảm, mà dụng ở Li Cung.
Từ đen biến thành đỏ, cả Đỉnh đầy vân khí.

上言景物家园自有,然虽自有,功夫不到不方圆。盖以真知之
铅,陷于阴中,象坎卦,外阴内阳,阳在阴胞,客气掩蔽正气,
正气不能自出。若欲出之,其用却在于离宫。灵知外实内虚,有
象于离卦,具有虚灵之真火。以此真火,煅去后起之客气,则真
知现而与灵知相合,以黑变红。真知即是灵知,阳得阴而有养,
阴阳眷恋,絪緼和气,如浓云笼于鼎中而不散矣。
Trên nói về cảnh vật tự có trong vườn nhà, nhưng tuy tự có, nếu
công phu không đủ thì không vuông tròn. Vì là Diên của Chân Tri,
hãm vào trong Âm, hình tượng là quẻ Khảm, ngoài Âm trong Dương,
Dương bao bởi Âm, khách khí che phủ Chính Khí, Chính Khí không
thể tự xuất. Nếu muốn nó xuất ra, tác dụng lại ở Li Cung. Linh Tri
ngoài thật trong hư, có hình tượng là quẻ Li, vốn có Chân Hỏa của Hư
Linh. Dùng Chân Hỏa này, nung đốt hết khách khí mới khởi sau này,
thì Chân Tri hiện mà tương hợp với Linh Tri, từ đen biến thành đỏ.
Chân Tri tức là Linh Tri, Dương được Âm mà có dưỡng, Âm Dương
quyến luyến, hòa khí mịt mờ, như mây phủ mờ mịt trong Đỉnh mà
không tán vậy.

真汞出于离,其用却在坎。
姹女过南园,手执玉橄榄。
Chân Hống xuất vu Li, kì dụng tức tại Khảm.
Xá Nữ quá nam viên, thủ chấp ngọc cảm lãm.
Chân Hống ra ở Li, mà dụng thì ở Khảm.
Xá Nữ qua vườn nam, tay cầm Ngọc Cảm Lãm.

真汞之灵知,藏有识神之杂气,象离卦,外明内暗。识神借灵
生妄,见火则飞,若无真知之铅以制之,识神为祸,不能返真,

[17]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

故其用却在于坎也。坎喻真知,真知具有真一之净水,以此净水,
扑灭识神之邪火,邪火灭而灵知返真矣。
Linh Tri của Chân Hống, âm thầm có tạp khí của Thức Thần, tượng
là quẻ Li, ngoài sáng trong tối. Thức Thần mượn Linh để sinh vọng-
giả dối, xằng bậy, thấy hỏa thì bay, nếu không có Diên của Chân Tri
để chế nó, thì Thức Thần là họa, không thể quay về Chân, nên dụng
nó ở Khảm vậy. Khảm dụ Chân Tri, Chân Tri vốn có Chân Nhất Chi
Tịnh Thủy, dùng Tịnh Thủy này, đập diệt tà hỏa của Thức Thần, tà
hỏa diệt thì Linh Tri quay về Chân vậy.

南园,仍取离象。玉橄榄,仍取坎象。姹女,即灵知之别名,
以其灵知,为阳中之阴,故又以姹女名之。灵知得真知制伏,则
阴来就阳,不为外物所移。灵知恋真知,真知恋灵知,即是“姹
女过南园,手执玉橄榄”,而享用得济矣。
Vườn nam vẫn lấy hình tượng Li. Ngọc Cảm Lãm vẫn lấy hình
tượng Khảm. Xá Nữ là tên khác của Linh Tri, vì Linh Tri, là Âm trong
Dương, nên cũng gọi là Xá Nữ. Linh Tri được Chân Tri chế phục, thì
Âm đến gặp Dương, không bị ngoại vật chuyển di. Linh Tri luyến
Chân Tri, Chân Tri luyến Linh Tri, tức là “Xá Nữ qua vườn nam, nay
cầm Ngọc Cảm Lãm”, mà hưởng dụng được sự giúp đỡ vậy.

震兑非东西,坎离不南北。
斗柄运周天,要人会攒簇。
Chấn Đoài phi đông tây, Khảm Li bất nam bắc.
Đẩu bính vận chu thiên, yếu nhân hội toàn thốc.
Chấn Đoài chẳng phải đông tây, Khảm Li không phải nam bắc.
Chuôi sao vận Chu Thiên, cần người biết tụ hội.

上言木汞、金铅、坎离相交,人多在一身有形、有象、有方、
有所处猜疑,或指火为离、为心,属南;指水为坎、为肾,属
北;指木为震、为肝,属东;指金为兑、为肺,属西。是直以心
肾肝肺,为坎离震兑。实未得真传者也。殊不知震者,吾之真
性;兑者,吾之真情;坎者,吾之真知,离者,吾之灵知。四者,
即吾所具先天之真四象。因有后天杂气相混,各居一方,而不能
相会,今欲返还,合为一气,非攒簇之功不能。攒簇之功,乃扭
转斗柄之天机。斗柄,乃北斗第五、第六、第七三星,一名天罡。
此星所坐者凶,所指者吉,所以运周天列宿,行二十四气,以成
[18]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

岁运。在吾身即一点真知之真情。真情,一名金公,刚强不屈,
有生有杀,亦如天上之斗柄也。有生以来,为客气所染,外物所
诱,斗柄指外不指内,生气在外,杀气在内。顺其造化,幼而壮,
壮而老,老而死,万劫轮回,无有出头之期。若知生杀之机,扭
回斗柄,转身之间,即到故乡,可以夺周天造化,可以合四象五
行。一时辰内管丹成,绝不费力。但人多认不得真情之斗柄,仅
在一身东西南北有形象处,错认为震兑坎离,强作乱为,妄想结
丹。无怪乎碌碌一生,到老无成,可不叹诸!
Trên nói về Mộc Hống, Kim Diên, Khảm Li tương giao, phần nhiều
người ta nghi ngờ ở chỗ hữu hình, hữu tượng, hữu phương, hữu sở
trên người, hoặc chỉ Hỏa là Li, là tâm, thuộc phương nam; chỉ Thủy là
Khảm, là thận, thuộc phương Bắc; chỉ Mộc là Chấn, là can, thuộc
phương Đông; chỉ Kim là Đoài, là phế, thuộc phương Tây. Mà trực
tiếp coi tâm thận can phế là Khảm Li Chấn Đoài. Thật là kẻ chưa được
chân truyền vậy. Thật không biết Chấn là Chân Tính của ta; Đoài là
Chân Tình của ta; Khảm là Chân Tri của ta; Li là Linh Tri của ta. Bốn
cái đó là Chân Tứ Tượng của Tiên Thiên mà ta vốn có. Vì có Hậu
Thiên tạp khí trộn vào, mà mỗi cái ở một phương, nên không thể
tương hội, nay muốn phản hoàn, hợp thành Nhất Khí, thì không phải
công phu hội tụ thì không thể được. Công phu hội tụ, là lay chuyển
thiên cơ của Đẩu Bính-chuôi sao. Đẩu Bính là ba ngôi sao thứ năm
thứ sáu và thứ bẩy của chòm sao Bắc Đẩu, cũng tên là Thiên Cương.
Chỗ sao này tọa là hung, chỗ nó chỉ là cát, cho nên vận chu thiên các
chòm sao, hành hai mươi tư khí, để thành tuế vận. Ở thân ta là một
điểm Chân Tình của Chân Tri. Chân Tình có tên là Kim Công, cương
cường bất khuất, có sinh có sát, cũng như Đẩu Bính trên trời. Từ lúc
sinh ra đến nay, bị nhiễm khách khí, ngoại vật dụ dỗ, Đẩu Bính chỉ ra
ngoài không chỉ vào trong, sinh khí ở ngoài, sát khí ở trong. Thuận
theo tạo hóa, bé rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, vạn kiếp luân hồi,
chẳng biết lúc nào thoát khỏi khổ cực. Nếu biết cái cơ sinh sát, mà lay
chuyển Đẩu Bính, xoay người một cái là tới cố hương, có thể đoạt chu
thiên tạo hóa, có thể hợp tứ tượng ngũ hành. Trong một giờ chắc chắn
Đan thành, tuyệt không phí lực. Nhưng người ta phần lớn nhận không
ra Đẩu Bính của Chân Tình, lại chỉ ở chỗ có hình tượng tại đông tây
nam bắc toàn thân, nhận lầm là Chấn Đoài Khảm Li, làm bậy làm bạ,
mà vọng tưởng kết Đan. Chẳng lạ là long đong lận đận một đời, đến
già vẫn không thành, có thể không than thở sao!

[19]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

火候不须时,冬至岂在子。
及其沐浴法,卯酉亦虚比。
(一本“及其沐浴法,卯酉时空比。身中一阳生,为之卯酉
中。”)
Hỏa hậu bất tu thì, đông chí khởi tại Tí.
Cập kì mộc dục pháp, Mão Dậu diệc hư bỉ.
(nhất bản “cập kì mộc dục pháp, mão dậu thì không bỉ. Thân
trung nhất dương sinh, vi chi mão dậu trung.”)
Hỏa hậu không cần giờ, đông chí há ở Tí.
Cho đến phép mộc dục, Mão Dậu cũng chỉ là so sánh suông.
(Có bản chép là “Cho đến phép mộc dục, giờ Mão Dậu là chỉ
suông thôi. Nhất Dương sinh trong thân, mới là trong Mão Dậu.”)

上言震兑坎离,别有妙义,非东西南北。不特此也,即丹经所
云:“子时进阳火,午时退阴符,卯酉宜沐浴。”亦皆虚比耳,
非实指天边之子午卯酉也。
Trên nói về Chấn Đoài Khảm Li, có riêng diệu nghĩa, chẳng phải là
đông tây nam bắc. Không chỉ có như vậy thôi đâu, Đan kinh còn nói:
“Tí thời Tiến Dương Hỏa, Ngọ thời Thoái Âm Phù, Mão Dậu nghi
mộc dục-Giờ Tí Tiến Dương Hỏa, giờ Ngọ Thoái Âm Phù, giờ Mão
Dậu cần nghỉ ngơi” cũng đều là so sánh suông thôi, không phải thực
sự chỉ Tí Ngọ Mão Dậu ở trên trời.

天地造化之道,以阳气方生于地下,即为子;以阴气方生于地
下,即为午;以阳气升于天地之中为卯;以阴气升于天地之中为
酉。子午,阴阳方生之时;卯酉,阴阳平和之时,此天地之子午
卯酉也。丹道取子时进阳火者,盖以身中一点阳光发现,如冬至
子月一阳潜生,急须进火采取,扶此一点微阳,渐生渐长,不可
稍有消耗,此即所谓子时进阳火也。取午时运阴符者,盖以身中
一点阴气暗生,如夏至午月,一阴来姤,急须运符退去,抑此一
点邪阴,渐生渐消,不可稍有姑息,此即所谓运阴符也。其实阳
生阴生,时时刻刻而有。阳生即是子,阴生即是午,乃吾身中之
活子午,非是天边之死子午,故日“火侯不须时,冬至岂在子”。

[20]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

言子而不言午者,午即包于子中央。古仙云:“不必天边寻子午,
身中自有一阳生。”观此可知冬至不在子矣。
Đạo của thiên địa tạo hóa, lấy giờ Dương Khí mới sinh ở đất, làm
giờ Tí; lấy giờ Âm Khí mới sinh ở đất, làm giờ Ngọ; lấy giờ Dương
Khí bay lên giữa trời đất làm giờ Mão; lấy giờ Âm Khí bay lên giữa
trời đất làm giờ Dậu. Tí Ngọ là lúc Âm Dương mới sinh; Mão Dậu là
lúc Âm Dương bình hòa, đây là Tí Ngọ Mão Dậu của trời đất. Đan
Đạo nói giờ Tí Tiến Dương Hỏa, là vì một điểm Dương Quang hiện ra
trong thân, như đông chí tháng Tí, Nhất Dương tiềm sinh, cần nhanh
chóng Tiến Hỏa hái giữ, giúp một điểm Dương nhỏ bé này, dần sinh
ra dần lớn lên, không được tiêu hao một chút nào, vì thế mà nói giờ Tí
Tiến Dương Hỏa. Nói giờ Ngọ vận Âm Phù, là vì một điểm Âm Khí
ngầm sinh trong thân, như hạ chí tháng Ngọ, Nhất Âm xuất hiện, cần
nhanh chóng vận phù thoái nó đi, đè nén một điểm Âm tà, dần sinh
dần tiêu, không được nuông chiều nó chút nào, vì thế mà nói là vận
Âm Phù. Kì thực Dương sinh Âm sinh, giờ nào phút nào cũng có.
Dương sinh tức là Tí, Âm sinh tức là Ngọ, là Hoạt Tí Ngọ trong thân
ta, chẳng phải là Tí Ngọ cố định trên trời, nên nói “Hỏa Hậu chẳng
cần giờ, đông chí há tại Tí”. Nói Tí mà không nói Ngọ, vì Ngọ bao
quanh mà Tí ở giữa. Cổ tiên nói: “Bất tất thiên biên tầm Tí Ngọ, thân
trung tự hữu Nhất Dương sinh-Chẳng cần chân trời tìm Tí Ngọ, trong
thân tự có Nhất Dương sinh” xem đó có thể biết đông chí không phải
ở Tí vậy.

丹道取卯酉宜沐浴者,盖以身中一点阳光回复,渐生渐长,与
阴气相和,不多不少,归于中道,亦如卯月地下阳气升于天地之
中而春分,须当住火停轮,使其阴阳和平,不可过进其火。是以
沐浴,非言卯月宜沐浴也。身中一点阴气来姤,渐生渐退,与阳
气相合,不偏不倚,入于中道,亦如酉月阴气升于天地之中而秋
分,须当休歇罢功,使其刚柔相当,不可过退其阴。是以沐浴,
非言酉月宜沐浴也,故曰“及其沐浴法,卯酉亦虚比”。仙翁悟
真云:“兔鸡之月及其时,刑德临门药象之。”特言药生进退,
象卯酉之月,非言卯酉月宜沐浴可知矣。后人不知丹经比喻之言,
或疑为子月子时进阳,午月午时退阴,卯月卯时、酉月酉时沐浴。
Đan Đạo nói Mão Dậu cần mộc dục-tắm gội nghỉ ngơi, vì một điểm
Dương Quang hồi phục trong thân, dần sinh dần lớn, cùng Âm Khí
tương hòa, chẳng nhiều chẳng ít, quy về trung đạo, cũng như tháng

[21]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Mão dưới đất, Dương Khí bay lên giữa trời đất là xuân phân, cần phải
dừng Hỏa dừng bánh xe, khiến cho Âm Dương hòa bình, không được
tiến Hỏa quá lên. Là mộc dục, chẳng phải nói Mão nguyệt cần mộc
dục vậy. Một điểm Âm Khí trong thân quay lại, dần sinh dần thoái,
cùng Dương Khí tương hợp, không nghiêng không lệch, nhập vào
trung đạo, cũng như tháng Dậu, Âm Khí bay lên giữa trời đất là thu
phân, cần phải dừng việc để nghỉ ngơi, khiến cho cương nhu tương
đương, không được thoái Âm quá xuống. Là mộc dục, chẳng phải là
nói tháng Dậu cần mộc dục vậy, nên nói “Cho đến phép mộc dục,
Mão Dậu cũng chỉ là so sánh suông”. Tiên ông nói trong Ngộ Chân:
“Thố kê chi nguyệt cập kì thời, hình đức lâm môn dược tượng chi-
Tháng Mão tháng Dậu đến thời kì, hình đức 12 lâm môn là tượng
Dược” là riêng nói về tiến thoái lúc Dược sinh, hình tượng tháng Mão
Dậu, có thể biết là chẳng phải là nói tháng Mão Dậu cần mộc dục vậy.
Người sau này không biết lời tỉ dụ của Đan kinh, mà nghi là tháng Tí,
giờ Tí, thì Tiến Dương, tháng Ngọ, giờ Ngọ, thì Thoái Âm, tháng Mão,
giờ Mão, tháng Dậu giờ Dậu, thì Mộc Dục.

噫!若以天边子午卯酉为法,试思一年有一年之子午卯酉,一
月有一月之子午卯酉,一日有一日之子午卯酉,一时有一时之子
午卯酉,年月日时,俱有子午卯酉,其将何者以为法乎?岂不大
错了也。仙翁以“冬至不在子,卯酉亦虚比”,拨去一切旁门误
认之弊,教学者在实理上细心辨别,其慈悲为何如乎。
Ôi! Nếu lấy Tí Ngọ Mão Dậu trên trời làm pháp, thử nghĩ xem một
năm có Tí Ngọ Mão Dậu của một năm, một tháng có Tí Ngọ Mão Dậu
của một tháng, một ngày có Tí Ngọ Mão Dậu của một ngày, một giờ
có Tí Ngọ Mão Dậu của một giờ, năm tháng ngày giờ, đều có Tí Ngọ
Mão Dậu, thì đem cái gì ra làm pháp đây? Há không quá sai lầm sao.
Tiên ông nói “Đông chí không ở Tí, Mão Dậu cũng chỉ là so sánh
suông”, là nhổ đi hết toàn bộ cái tệ hại của bọn bàng môn ngộ nhận,
khiến người học cẩn thận biện rõ thực lí, sự từ bi này thế nào đây.

12
Hình đức: hình và đức, đây là vấn đề pháp trị cổ xưa, không hiểu nghĩa lắm
[22]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

乌肝与兔髓,擒来归一处。
一粒复一粒,从微而至著。
Ô Can dữ Thố Tủy, cầm lai quy nhất xử.
Nhất lạp phục nhất lạp, tòng vi nhi chí trứ.
Gan quạ cùng tủy thỏ, tóm mang về một chỗ.
Một hạt lại một hạt, từ nhỏ bé đến rõ ràng.

上言火候沐浴不在子午卯酉,总是教人知其性情相和、阴阳同
气耳。乌肝者,日之精。肝青色,属木,仍喻灵知之性;兔髓者,
月之华。髓色白,属金,仍喻真知之情。
Trên nói về Hỏa Hậu mộc dục không phải ở Tí Ngọ Mão Dậu, tóm
lại là dạy người biết về Tính Tình tương hòa, Âm Dương đồng khí vậy.
Ô Can-gan quạ là Tinh của mặt trời. Gan có màu xanh, thuộc Mộc, vì
thế là tỉ dụ Tính của Linh Tri; Thố Tủy-tủy thỏ là tinh hoa của mặt
trăng. Tủy có màu trắng, thuộc Kim, vì thế là tỉ dụ Tình của Chân Tri.

灵知真知,真性真情,为修丹之大药,将此四者擒来归于一处,
运火烹炼,化为一气。一气浑然,生机常存,必自一阳而渐至六
阳纯全,从微而著,金丹成熟,自然而然。擒者,非勉强作为,
乃令其住,而不令其去之谓。住则杂念不生,客气不入。四者抟
聚一处,而不相悖矣。一粒复一粒,即本立道生,阳气渐长之义,
非实有粒之形迹也。
Linh Tri Chân Tri, Chân Tính Chân Tình, là Đại Dược của tu Đan,
đem bốn cái đó tóm mang về một chỗ, vận hỏa đun luyện, hóa thành
Nhất Khí. Nhất Khí trộn đều, sinh cơ thường tồn, tất từ Nhất Dương
mà dần đến Lục Dương thuần toàn, từ nhỏ bé tinh vi đến lúc rõ ràng,
Kim Đan chín đủ, tự nhiên như thế. Cầm-tóm bắt chẳng phải là miễn
cưỡng mà làm, mà là nói khiến cho nó trụ lại, mà không để cho nó đi.
Trụ thì tạp niệm không sinh, khách khí không nhập. Bốn cái đó đoàn
tụ về một chỗ, mà không trái nhau vậy. Một hạt lại một hạt, là ý nghĩa
gốc lập đạo sinh, Dương Khí dần lớn, chứ không phải là thực có hình
tích của hạt vậy.

[23]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

混沌包虚空,虚空包三界。
及寻其根源,一粒如黍大。
(如黍大一作“黍米大”,一作“如黍米”)
Hỗn độn bao hư không, hư không bao tam giới.
Cập tầm kì căn nguyên, nhất lạp như thử đại.
(như thử đại nhất tác“thử mễ đại”, nhất tác“như thử mễ”)
Hỗn độn bao hư không, hư không bao tam giới.
Lúc tìm đến căn nguyên, một hạt như kê lớn.
(Có bản chép “như kê lớn” thành “hạt kê lớn”, một bản “như hạt
kê”)

上言乌肝兔髓能以成丹,此丹非别物,即吾本来混沌之初,所
具先天真一之气也。此气包罗虚空,虚空又包罗三界,能包虚空
三界,其大无量矣。然虽其大无量,及寻其根源,不过如黍米之
大。虽云如黍米,亦视之不见,听之不闻,传之不得;恍兮惚兮,
其中有象;惚兮恍兮,其中有物;杳兮冥兮,其中有精,其精甚
真,其中有信也。是象、是物、是精、是信,总名之曰先天真一
之气。此气为天地之始,万物之母,真空而含妙有,妙有而藏真
空,大小不拘,有无不立,非色非空,即色即空,放之则弥六合,
卷之则退藏于密,隐显不测,变化无端,是岂有形有象之物可比
哉!学者若知的混沌中之一气,则知其一而万事毕,修道不难矣。
Trên nói về Ô Can Thố Tủy có thể thành Đan, Đan này chẳng phải
là vật gì khác, là lúc bản lại hỗn độn chi sơ của ta, mà có Tiên Thiên
Chân Nhất Chi Khí vậy. Khí này bao la hư không, hư không lại bao la
tam giới, có thể bao trùm hư không tam giới, nên độ lớn của nó là vô
lượng vậy. Nhưng tuy nó lớn vô lượng, mà lúc tìm đến căn nguyên, thì
chẳng qua chỉ to như Thử Mễ-hạt kê. Tuy nói như Thử Mễ, cũng là
nhìn không thấy, lắng tai mà không nghe thấy, gọi thì không được;
thấp thoáng mập mờ, trong đó có hình, mập mờ thấp thoáng, trong đó
có vật, sâu xa tăm tối, trong đó có tinh, tinh đó rất thực, trong đó có
tín13. Là hình tượng, là vật, là Tinh, là tin tức, gọi chung là Tiên Thiên
Chân Nhất Chi Khí. Khí này là bắt đầu của trời đất, là mẹ vạn vật,
chân không mà bao hàm diệu hữu, diệu hữu mà tàng ẩn chân không,
lớn bé không trói buộc được, hữu vô chẳng lập, phi sắc phi không, tức

13
Nguyên văn trong Đạo Đức Kinh: Hoảng hề hốt hề, kì trung hữu tượng; hốt hề
hoảng hề, kì trung hữu vật; yểu hề minh hề, kì trung hữu tinh, kì tinh thậm chân, kì
trung hữu tín dã. Mấy lời dịch là theo Nguyễn Duy Cần
[24]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

sắc tức không, trải ra thì mịt mù lên lục hợp, co lại thì thoái tàng vào
nơi bí mật, ẩn hiện khôn dò, biến hóa vô đoan, há có thể dùng vật hữu
hình hữu tượng để so sánh sao! Người học nếu biết được Nhất Khí
trong hỗn độn, thì sẽ biết Nhất-một mà vạn sự xong, và tu đạo chẳng
khó vậy.

天地交真液,日月含真情。
会的坎离基,三界归一身。
Thiên địa giao chân dịch, nhật nguyệt hàm Chân Tình.
Hội đích Khảm Li cơ, tam giới quy nhất thân.
Trời đất giao Chân Dịch, nhật nguyệt hàm Chân Tình.
Hiểu được Khảm Li cơ, tam giới về một thân.

上言黍米一粒,能包虚空三界。然此一粒黍米之宝,吾身本有,
不待他求。但要会的调和阴阳耳。阴阳不和,先天真一之气不复,
金丹不结。试观天地交而真液降,以生万物;日月交而真精运,
以行四时,是阴不离阳,阳不离阴。阴阳相合,内含真液、真精,
方有造化。否则,孤阴不生,独阳不长,生机已息,造化何来?
吾之灵知真知,即吾身所具之天地日月也。灵知具有天之阳气,
即天也。阳气所舒之光辉,象离中之虚,虚即日也;真知具有地
之阴气,即地也。阴气所藏之精华,象坎中之满,满即月也。天
地日月,吾身俱备,但人不知调和,以故阴阳相隔,生机消灭,
终归大化矣。若会的真知灵知、坎离之根基,本属一气,逆而修
之,颠倒坎离,以真知而制灵知,以灵知而养真知,水火相济,
动静如一,则心即是道,道即是心,心为道心,身为道身,与天
地合其德,与日月合其明,与四时合其序,与鬼神合其吉凶,三
界即在吾一身之中矣。
Trên nói về một hạt Thử Mễ, có thể bao trùm hư không tam giới.
Nhưng một hạt bảo vật Thử Mễ này, thân ta vốn có, chẳng cần cầu nơi
khác. Chỉ cần hiểu được điều hòa Âm Dương thôi. Âm Dương bất hòa,
thì Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí không trở lại, Kim Đan không kết.
Thử xem trời đất giao mà Chân Dịch giáng, để sinh vạn vật; nhật
nguyệt giao mà Chân Tinh vận, để tuần hành bốn mùa, là Âm không
rời Dương, Dương chẳng rời Âm. Âm Dương tương hợp, bên trong
bao hàm Chân Dịch, Chân Tinh, mới có tạo hóa. Nếu không thì cô Âm
bất sinh, độc Dương bất trưởng, sinh cơ đã dừng, tạo hóa sao mà đến
được? Linh Tri Chân Tri của ta là trời đất nhật nguyệt vốn có của ta.
[25]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Linh Tri vốn có Dương Khí của trời, là trời vậy. Dương Khí trải ánh
sáng ra, là hình tượng hư14 trong Li, hư là Nhật vậy; Chân Tri vốn có
Âm Khí của đất, là đất vậy. Tinh hoa mà Âm Khí ẩn tàng, tượng là
mãn15 trong Khảm, mãn là Nguyệt vậy. Trời đất nhật nguyệt, thân ta
đều có cả, nhưng con người không biết điều hòa, nên khiến Âm
Dương xa cách, sinh cơ bị tiêu diệt, chung quy cũng tan mất vậy. Nếu
hiểu được căn cơ của Chân Tri Linh Tri, của Khảm Li, vốn thuộc Nhất
Khí, nghịch tu nó, làm điên đảo Khảm Li, dùng Chân Tri để chế Linh
Tri, dùng Linh Tri để dưỡng Chân Tri, thì thủy hỏa tương tế, động tĩnh
như nhau, thì tâm tức là đạo, đạo tức là tâm, tâm là đạo tâm, thân là
đạo thân, cùng trời đất hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp sáng, cùng bốn
mùa hợp thứ tự, cùng quỷ thần hợp cát hung, tam giới là ở trong thân
ta vậy.

龙从东海来,虎向西山起。
两兽战一场,化作天地髓。
(龙从东海来,虎向西山起一作“龙从火里出,虎向水中
生”)
Long tòng Đông Hải lai, hổ hướng Tây Sơn khởi.
Lưỡng thú chiến nhất tràng, hóa tác thiên địa tủy.
(Long tòng Đông Hải lai, hổ hướng Tây Sơn khởi nhất tác “long
tòng hỏa lí xuất, hổ hướng thủy trung sinh”)
Long từ Đông Hải tới, Hổ dậy từ Tây Sơn.
Hai con đánh một trận, hóa ra Thiên Địa Tủy.
(“Long từ Đông Hải tới, Hổ dậy từ Tây Sơn” có bản chép là
“Long ra từ trong Hỏa, Hổ ra từ trong Thủy”)

上言会的坎离基,大道可成。特以坎离者,真知灵知,水火之
象。若欲水火相济,必先金木交并。性属木,居东,我家之物,
因其灵通变化,故喻之以龙;情属金,居西,他家之物,因其刚
烈坚强,故喻之以虎。但性情有真假之别,先后之分。圆明之性,
无色之情,为真,先天也;气质之性,尘缘之情,为假,后天也。
有生以来,假者杂于真者之中,龙性狞恶,虎性猖狂,各居一方,
彼此不应,若非去假而救真,则大道难成。曰“龙从东海来”者,
驱龙而就虎,以性而求情也。曰“虎向西方起”者,牵虎而驾龙,
14
Hư: hào giữa quẻ Li là hào âm, là nét đứt, là hư
15
Hư: hào giữa quẻ Khảm là hào dương, là nét liền, là mãn
[26]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

以情而归性也。性情相会,以情制性,以性钤情,性情抟结,以
狞恶猖狂而为驯顺和平。假者消而真者复,木性爱金顺义,金情
恋木慈仁,金木相并,仍是圆成,无亏本来面目,故曰“两兽战
一场,化作天地髓”。战之一字,大有深意。人自先天阳极,交
于后天,历劫根尘俱发,六贼作乱,七情为殃,加之现世积习客
气,内外皆阴,非可容易而剿除。若不狠力抉挖,焉能消灭?战
之正所以猛烹急炼,不到阴尽阳纯之时,而功不容稍缓也。“化
作天地髓”,是性情滓质俱化,精一不二,方是功力已到之时。
仙翁悟真诗云:“西山白虎甚猖狂,东海青龙不可当。两手捉来
令死斗,化作一块紫金霜。”正此段之妙义。噫!性情岂易调和
哉!苟非下数年死功夫,而未许返真也。
Trên nói về hiểu được căn cơ của Khảm Li, thì Đại Đạo có thể
thành. Riêng vì Khảm Li, là hình tượng Chân Tri Linh Tri, Thủy Hỏa.
Nếu muốn thủy hỏa tương tế, đầu tiên phải làm Kim Mộc giao trộn.
Tính thuộc Mộc, ở hướng Đông, là vật của nhà ta, vì nó linh thông
biến hóa, nên tỉ dụ nó là Long; Tình thuộc Kim, ở phương Tây, là vật
ở nhà khác, vì nó cương liệt kiên cường, nên tỉ dụ nó là Hổ. Nhưng
Tính Tình có chân giả khác nhau, và phân ra sau trước. Tính viên
minh, Tình vô sắc, là Chân, là Tiên Thiên; Tính khí chất, Tình trần
duyên, là Giả, là Hậu Thiên. Từ khi sinh ra đến nay, cái Giả lẫn vào
trong cái Chân, Long Tính nanh ác, Hổ Tính ngông cuồng, mỗi thứ ở
một phương, đây đó chẳng ứng, nếu không bỏ Giả mà cứu Chân, thì
Đại Đạo khó thành. Nói “Long từ Đông Hải tới” là đuổi Long đến gần
Hổ, lấy Tính để cầu Tình. Nói “Hổ dậy từ hướng Tây” là dẫn Hổ đến
chế Long, dùng Tình để quy Tính vậy. Tính Tình gặp nhau, dùng Tình
chế Tính, dùng Tính khóa Tình, Tính Tình đoàn kết, từ nanh ác ngông
cuồng mà thành nhu thuận hòa bình. Cái Giả tiêu mà cái Chân khôi
phục, Mộc Tính ái Kim là thuận nghĩa, Kim Tình luyến Mộc là nhân
từ, Kim Mộc trộn nhau, vì thế mà viên thành, bản lai diện mục không
khiếm khuyết, nên nói “Hai con đánh một trận, hóa ra Thiên Địa Tủy”.
Một chữ chiến-đánh rất có thâm ý. Người ta từ khi Tiên Thiên Dương
cực, giao với Hậu Thiên, lịch kiếp căn trần đều phát, lục tặc tác loạn,
thất tình thành tai ương, cộng thêm tích lũy tập quán khách khí trên
đời, mà trong ngoài đềm là Âm, không thể dễ dàng mà tiễu trừ. Nếu
không kiên quyết cố gắng móc ra, thì sao có thể tiêu diệt được? Chiến-
đánh chính là mãnh phanh cấp luyện, chưa đến lúc Âm tận Dương
thuần, thì công phu không được dừng lại chút nào. “Hóa thành Thiên
Địa Tủy”, là tạp chất của Tính Tình đều hóa, Tinh thành chuyên nhất,
[27]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

mới là lúc công lực đã đến mức. Tiên ông làm thơ trong Ngộ Chân
rằng: “Tây sơn Bạch Hổ thậm xương cuồng, Đông Hải Thanh Long
bất khả đương. Lưỡng thủ tróc lai lệnh tử đấu, hóa tác nhất khối Tử
Kim Sương-Bạch Hổ ở Tây Sơn thật ngông cuồng, Thanh Long ở
Đông Hải chẳng dám đương. Hai tay tóm lấy bắt tử chiến, hóa thành
một khối Tử Kim Sương” chính là diệu nghĩa của đoạn này. Ôi! Tính
Tình há dễ điều hòa sao! Nếu không có dưới vài năm tử công phu, thì
còn chưa chắc quay về Chân được.

金花开汞叶,玉蒂长铅枝。
坎离不曾闲,乾坤经几时。
Kim hoa khai Hống diệp, Ngọc đế trưởng Diên chi.
Khảm Li bất tằng nhàn, Càn Khôn kinh kỉ thì.
Hoa Kim nở lá Hống, rễ Ngọc trưởng cành Diên.
Khảm Li chưa từng rỗi, Càn Khôn qua lúc nào.

上文金木交并、性情一家矣,此段紧接上文,申明金木交并之
效。金花铅枝,属阳,为刚,真情也。汞叶玉蒂,属阴,为柔,
真性也。离体中虚,虚属阴,灵知也;坎体中实,实属阳,真知
也。金花开汞叶者,刚中有柔,情即是性。玉蒂长铅枝者,柔中
有刚,性即是情。坎离不曾闲者。实而藏虚,虚而含实,真知即
是灵知,灵知即是真知,能刚能柔,能虚能实,刚柔相应,虚实
兼该,寂然不动,感而遂通。感而遂通,寂然不动,与乾坤同消
息,即与乾坤并长久,经几时而有伤损哉!
Đoạn trên là Kim Mộc giao trộn, Tính Tình một nhà vậy, đoạn này
nối tiếp đoạn trên, bày rõ hiệu quả của Kim Mộc giao trộn. Kim Hoa
Diên Chi-hoa Kim cành Diên, thuộc Dương, là cứng, là Chân Tình.
Hống Diệp Ngọc Đế-lá Hống rễ Ngọc, thuộc Âm, là nhu, là Chân
Tính. Thể của Li là hư ở giữa, hư thuộc Âm, là Linh Tri; thể của
Khảm là thực ở giữa, thực thuộc Dương, là Chân Tri. Hoa Kim nở lá
Hống là trong cương có nhu, Tình tức là Tính. Rễ Ngọc trưởng cành
Diên, là trong nhu có cương, Tính tức là Tình. Khảm Li chưa từng rỗi
là thực mà tàng hư, hư mà bao hàm thực, Chân Tri tức là Linh Tri,
Linh Tri tức là Chân Tri, có thể cương có thể nhu, có thể hư có thể
thực, cương nhu tương ứng, hư thật gồm nhau, tịch nhiên bất động,
cảm động liền thông. Cảm động liền thông, tịch nhiên bất động, lên
xuống tuần hoàn cùng Càn Khôn, là cùng trường cửu với Càn Khôn,
đến lúc nào mà bị thương tổn đây!
[28]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

沐浴防危险,抽添自谨持。
都来三万刻,差失恐毫厘。
Mộc dục phòng nguy hiểm, trừu thiêm tự cẩn trì.
Đô lai tam vạn khắc, soa thất khủng hào li.
Mộc dục phòng nguy hiểm, bớt thêm tự giữ gìn.
Tổng là ba vạn khắc, sợ sai mất một li.

上言性情混合,真知灵知凝结,金丹成就矣。然药物易知,火
候最难。不知运火详细,差之毫厘,失之千里,金丹难成。盖以
丹还之后,有沐浴之时,有抽添之候。当药未得,须炼己以采药,
及丹已得,须沐浴以温养。沐浴者,防危虑险之功也。古仙云:
“还丹在一时,温养须十月。”十月共三万刻,刻刻留心,防危
虑险,如鸡抱卵,如蚌含珠,一意规中,更加抽铅添汞之功,谨
守护持,毫厘不得差失。稍有差失,真中生假,客气乘间而入,
金丹得而复失,成而又坏,烹鼎之患,所不能免。故修丹之道,
防危虑险之功,始终不可缺。防危者,防其客气潜生,虑险者,
虑其丹元有伤。言防危虑险、抽添之功,即在其中。抽者,抽其
铅;添者,添其汞。当丹未结,须借真铅以制真汞。及汞已死,
丹已结,须要将此铅气,仍复抽去,真汞方成灵宝。盖以真知之
真铅,虽是先天之物,从后天中产出,带有后天之气,初而以真
知制灵知,不使灵知飞扬于外,及其灵知已凝,又要将此真知所
带后天浊气,渐渐抽去,毫无些子存留,金丹方能成熟。若稍有
些子抽不尽,则灵知不能成圆明之宝。抽一分真知浊气,添一分
灵知清气,抽十分真知浊气,添十分灵知清气。浊气尽而清气凝,
火到气足。圆陀陀,光灼灼,仅有真灵圆明一宝,别无他物。亦
如铅池煎银,抽尽铅气,只留得一味干水银而已。仙翁悟真诗
云:“用铅不得用凡铅,用了真铅也弃捐。此是用铅真口诀,用
铅不用是诚言。”此即抽铅添汞之义。
Trên nói về Tính Tình hỗn hợp, Chân Tri Linh Tri ngưng kết, Kim
Đan thành tựu vậy. Nhưng Dược Vật dễ biết, mà Hỏa Hậu thì cực khó.
Không biết tỉ mỉ rõ ràng về vận hỏa, thì chỉ sai một li là đi ngàn dặm,
mà Kim Đan khó thành. Vì sau khi Đan đã hoàn, thì có giờ mộc dục-
tắm gội nghỉ ngơi, có lúc trừu thiêm-thêm bớt. Lúc chưa được Dược,
cần Luyện Kỉ để hái Dược, đến lúc đã được Đan, cần mộc dục để ôn
dưỡng. Mộc dục là công phu phòng nguy lự hiểm vậy. Cổ tiên nói:
[29]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

“Hoàn Đan tại nhất thì, ôn dưỡng tu thập nguyệt-Hoàn Đan chỉ nhất
thời, ôn dưỡng cần mười tháng”, mười tháng tổng là ba vạn khắc,
khắc khắc lưu tâm, phòng nguy lự hiểm, như gà ấp trứng, như trai
ngậm ngọc, nhất ý quy trung, thêm công phu rút Diên thêm Hống, cẩn
thận giữ gìn bảo vệ, không được sai chút nào. Nếu hơi sai một chút,
thì trong Chân sinh Giả, khách khí thừa cơ xông vào, Kim Đan được
rồi lại mất, thành rồi lại hỏng, cái họa lúc đun nấu trong Đỉnh, không
thể tránh được. Nên trong đạo tu Đan, thì công phu phòng nguy lự
hiểm, từ đầu đến cuối không thể thiếu được. Phòng nguy là phòng
khách khí tiềm sinh, lự hiểm là lo cho Đan Nguyên bị thương. Nói
phòng nguy lự hiểm, công phu trừu thiêm, là trong đó vậy. Trừu-rút
bớt là rút Diên; Thiêm-thêm là thêm Hống. Lúc Đan chưa kết, cần nhờ
Chân Diên để chế Chân Hống. Đến lúc Hống đã cứng lại, Đan đã kết,
vì thế lại phải đem Diên Khí này rút đi, thì Chân Hống mới thành Linh
Bảo. Vì là Chân Diên của Chân Tri, tuy là vật Tiên Thiên, nhưng sản
xuất từ trong Hậu Thiên, nên có mang theo Khí của Hậu Thiên, mới
đầu thì lấy Chân Tri chế Linh Tri, không để Linh Tri bay ra bên ngoài,
đến lúc Linh Tri đã ngưng, lại cần đem cái Chân Tri mang theo trọc
khí Hậu Thiên này, dần dần rút đi, không để tồn lưu chút nào, thì Kim
Đan mới có thể chín đủ được. Nếu có một chút rút ra không hết, thì
Linh Tri không thể thành bảo vật viên minh. Rút ra một phần trọc khí
của Chân Tri, thì thêm vào một phần thanh khí của Linh Tri, rút ra
mười phần trọc khí của Chân Tri, thì thêm vào mười phần thanh khí
của Linh Tri. Trọc khí hết thì thanh khí ngưng, Hỏa đến mức thì Khí
đủ. Tròn trĩnh, sáng lấp lánh, chỉ còn có Chân Linh Viên Minh Nhất
Bảo, chẳng có vật gì khác. Cũng như sắc đun Thủy Ngân trong ao
Diên, rút cạn hết Diên Khí, chỉ lưu được một vị Thủy Ngân16 khô mà
thôi. Tiên ông làm thơ trong Ngộ Chân rằng: “Dụng Diên bất đắc
dụng phàm Diên, dụng liễu Chân Diên dã khí quyên. Thử thị dụng
Diên chân khẩu quyết, dụng Diên bất dụng thị thành ngôn-Dùng Diên
chẳng được dùng Diên thường, dùng xong Chân Diên cũng bỏ đi. Đó
là chân khẩu quyết về dùng Diên, dùng Diên mà không dùng là lời
chân thành đó” đây là nghĩa của rút Diên thêm Hống.

要之,抽添之功,即防危虑险之用。抽添,正所以去其危险耳。
防之虑之,抽之添之,十月谨持,毫厘不差,金丹焉有不成者
哉!

16
Thủy ngân cũng là Hống
[30]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Tóm lại, công phu trừu thiêm, là dùng để phòng nguy lự hiểm. Trừu
thiêm chính để bỏ đi cái nguy hiểm vậy. Phòng ngừa nó lo lắng về nó,
rút nó thêm nó, mười tháng cẩn thận thi hành, không sai một chút,
Kim Đan sao mà không thành được!

三万刻,非实有十月之期,不过譬喻还丹以至丹熟、圣胎完成
之义。学者须要究真,甚勿以辞害义也。
Ba vạn khắc, chẳng phải thực là kì hạn mười tháng, chẳng qua là thí
dụ về ý nghĩa Hoàn Đan đến lúc Đan chín, Thánh Thai hoàn thành vậy.
Người học cần phải nghiên cứu đến cái Chân, không được để từ ngữ
làm hiểu lầm nghĩa.

夫妇交会时,洞房云雨作。
一载生个儿,个个会骑鹤。
Phu phụ giao hội thì, động phòng vân vũ tác.
Nhất tái sinh cá nhi, cá cá hội kị hạc.
Lúc vợ chồng giao hội, phòng cưới mây gió múa.
Một năm sinh một trẻ, ai cũng biết cưỡi hạc.

以上言药物、火候、修持功力,皆以丹道譬喻。仙翁恐学者不
知其中奥妙,误入旁门曲径,故又设此段。以世间男女夫妇之道
显而易见者,譬喻示人耳。
Ở trên nói về Dược Vật, Hỏa Hậu, công lực tu trì, đều là thí dụ của
Đan Đạo. Tiên ông sợ người học không biết ảo diệu trong đó, vào
nhầm đường rẽ bàng môn, nên viết tiếp đoạn này. Vì đạo nam nữ vợ
chồng ở thế gian rõ ràng và dễ thấy, nên lấy làm thí dụ để chỉ cho
người vậy.

修真之道,千经万典,说来说去,只是教人调和阴阳,使阴阳
交合,归于一气耳。试观世间夫妇相会,及时相交,便能生儿;
修道阴阳相会,及时相交,亦能生仙。吾之真知,为阴中之阳,
为夫,吾之灵知,为阳中之阴,为妇。人自先天阳极,后天用事,
真者迷失于外,如寄居他家,不属于我矣。我家虽有灵知,妇不
见夫,阴无阳制,灵亦有假,即《参同》所谓“河上姹女,灵而
最神,见火则飞,不见尘埃也”。若认得真知之夫,唤回我家,
与灵知之妇相会,收于洞房宥密之中,夫恋妇而妇恋夫,夫妇交
合,性情相投,则先天之气,自虚无中来,凝结圣胎。更加温养
[31]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十月之功,气足神全,脱出胞胎,身外有身,超出阴阳之外,不
为天地造化所拘矣。更加向上功夫,重安炉,复立鼎,以行无为
之妙道,子生孙兮,孙又枝,千变万化,个个骑鹤腾空,为大罗
天仙矣。
Đạo tu chân, ngàn kinh vạn điển, nói đi nói lại, chỉ là dạy người
điều hòa Âm Dương, khiến Âm Dương giao hợp, quy về Nhất Khí vậy.
Thử xem vợ chồng ở thế gian gặp nhau, đến lúc tương giao, liền có
thể sinh con; Âm Dương của tu đạo gặp nhau, đến lúc tương giao,
cũng có thể sinh Tiên. Chân Tri của ta, là Dương trong Âm, là chồng;
Linh Tri của ta, là Âm trong Dương, là vợ. Người ta từ lúc Tiên Thiên
Dương cực, thì Hậu Thiên chiếm quyền, cái Chân mê mờ mà đi mất ra
bên ngoài, như ở nhờ nhà khác, chẳng thuộc về ta. Nhà ta tuy có Linh
Tri, như vợ chẳng thấy chồng, như Âm không có Dương chế, Linh
cũng có Giả, là [Tham đồng] có nói “Hà thượng Xá Nữ, linh nhi tối
thần, kiến hỏa tắc phi, bất kiến trần ai dã-Xá Nữ trên sông, Linh và rất
Thần, thấy lửa thì bay, chẳng thấy bụi trần”. Nếu nhận được Chân Tri
chồng, gọi về nhà ta, cùng Linh Tri vợ gặp nhau, thu vào trong phòng
rất bí mật, chồng luyến vợ mà vợ luyến chồng, vợ chồng giao hợp,
Tính Tình nhảy vào nhau, thì Tiên Thiên Chi Khí, từ trong hư vô tới,
ngưng kết Thánh Thai. Thêm vào công phu ôn dưỡng mười tháng, Khí
túc Thần toàn, thoát xuất bào thai, ngoài thân có thân, vượt ra ngoài
Âm Dương, không bị thiên địa tạo hóa níu giữ. Thêm tiếp công phu
cao hơn, lại an Lô, lại lập Đỉnh, để thi hành diệu đạo vô vi, con sinh
cháu hề, cháu lại sinh chắt, thiên biến vạn hóa hề, ai ai cũng cưỡi hạc
đằng không, là Đại La Thiên Tiên vậy.

是道也,总一阴阳之道也。生人生仙,皆不离乎阴阳,但有仙
凡之异耳。三丰云:“顺为凡,逆为仙,只在中间颠倒颠。”颠
倒之法,非师罔知。若有知的者,一时辰内管丹成,不待三年九
载也。但要认得真阴真阳耳。
Đạo tóm lại là đạo Âm Dương. Sinh người sinh Tiên, đều không rời
khỏi Âm Dương, chỉ có khác nhau là Tiên hay phàm thôi. Tổ Tam
Phong nói: “Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chỉ tại trung gian điên đảo
điên-Thuận thành phàm, nghịch thành Tiên, chỉ ở bên trong điên đảo
điên.”. Phép điên đảo chẳng có thầy thì không thể biết. Nếu mà biết
được, thì chỉ trong một giờ chắc chắn Đan thành, không cần đến ba
năm chín năm. Chỉ cần nhận ra được Chân Âm Chân Dương thôi.

[32]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

前解逐段分晰,已无剩义,今又体贴祖师四百字之句,仍以四
百字分段注疏为歌,言简意该,比象俱破,使好学者一目了然,
不犯思索,更能会通正解,则修真秘诀可得其大半矣。
Trước đã giải thích phân tích từng đoạn, chẳng có nghĩa thừa, nay
lại thể theo câu từ Tứ Bách Tự của tổ sư, mà lấy Tứ Bách Tự phân
đoạn chú thích làm thành một bài ca, lời giản dị ý đầy đủ, đều nói rõ tỉ
dụ hình tượng, khiến người hiếu học nhìn qua là hiểu, không trái với
tư duy, càng có thể hiểu thông chính giải, thì tu chân bí quyết có thể
được hơn nửa vậy.

注疏四百字真义歌
Chú thích Tứ Bách Tự chân nghĩa ca

第一段:
Đệ nhất đoạn:
真意发真知,灵知亦自应。
三家合一家,倏尔身心定。
Chân Ý phát Chân Tri, Linh Tri diệc tự ứng.
Tam gia hợp nhất gia, thúc nhĩ thân tâm định.
Chân Ý phát Chân Tri, Linh Tri cũng tự ứng.
Tam gia hợp một nhà, nhanh khiến thân tâm định.

第二段:
Đệ nhị đoạn:
虚室却生光,静中又复阳。
采来勤煅炼,化就紫金霜。
Hư thất tức sinh quang, tĩnh trung hựu phục dương.
Thải lai cần đoán luyện, hóa tựu tử kim sương.
Hư thất mà sinh quang, trong tĩnh Dương phục lại.
Hái về chăm nung luyện, hóa thành Tử Kim Sương.

第三段:
Đệ tam đoạn:
灵窍慧光生,性现尘情灭。
朗朗夜明珠,无处不皎洁。
Linh khiếu tuệ quang sinh, tính hiện trần tình diệt.
Lãng lãng dạ minh châu, vô xử bất kiểu khiết.

[33]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Linh Khiếu sinh Tuệ Quang, Tính hiện trần tình diệt.
Sáng loáng Dạ Minh Châu, ở đâu cũng trong sạch.

第四段:
Đệ tứ đoạn:
燥性化真性,人心变道心。
若非神火煅,矿里怎分金。
Táo tính hóa chân tính, nhân tâm biến đạo tâm.
Nhược phi thần hỏa đoán, khoáng lí chẩm phân kim.
Táo Tính hóa Chân Tính, nhân tâm thành đạo tâm.
Nếu Thần Hỏa không nấu, Kim lìa khoáng sao đây.

第五段:
Đệ ngũ đoạn:
真知与灵知,两者本同气。
经火烹炼成,浑沦没点弊。
Chân tri dữ linh tri, lưỡng giả bản đồng khí.
Kinh hỏa phanh luyện thành, hồn luân một điểm tệ.
Chân Tri với Linh Tri, hai cái vốn đồng khí.
Qua hỏa đun luyện thành, hỗn độn không điểm tệ.

第六段:
Đệ lục đoạn:
元窍真灵露,趁时下手栽。
性情相眷恋,长出大丹材。
Huyền Khiếu Chân Linh lộ, sấn thì hạ thủ tài.
Tính tình tương quyến luyến, trường xuất đại đan tài.
Huyền Khiếu lộ Chân Linh, thừa cơ ra tay trồng.
Tính Tình quyến luyến nhau, Đại Đan liền lớn lên.

第七段:
Đệ thất đoạn:
个虚灵窍,号为玄牝门。
中藏神与气,原是魂魄根。
Cá hư linh khiếu, hào vi Huyền Tẫn Môn.
Trung tàng thần dữ khí, nguyên thị hồn phách căn.
Hư Linh Khiếu này, tên là Huyền Tẫn Môn.
Trong tàng Thần và Khí, nguyên là gốc Hồn Phách.
[34]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

第八段:
Đệ bát đoạn:
灵知火里精,真知水中宝。
水火阴气消,光鲜着实好。
Linh tri hỏa lí tinh, chân tri thủy trung bảo.
Thủy hỏa âm khí tiêu, quang tiên trứ thật hảo.
Linh Tri, Tinh trong Hỏa, Chân Tri, Bảo trong Thủy.
Thủy Hỏa Âm Khí tiêu, ánh sáng thật là đẹp.

第九段:
Đệ cửu đoạn:
灵药自家有,何须在外寻。
护持常照应,左右尽珠林。
Linh dược tự gia hữu, hà tu tại ngoại tầm.
Hộ trì thường chiếu ứng, tả hữu tẫn châu lâm.
Linh Dược tự nhà có, sai lại tìm bên ngoài.
Hộ trì thường chiếu ứng, phải trái toàn châu báu.

第十段:
Đệ thập đoạn:
真知总是真,却要灵知配。
炼去后天阴,两家成一块。
Chân tri tổng thị chân, tức yếu linh tri phối.
Luyện khứ Hậu Thiên âm, lưỡng gia thành nhất khối.
Chân Tri chính là Chân, là cần Linh Tri phối.
Luyện hết Âm Hậu Thiên, hai nhà thành một khối.

十一段:
Thập nhất đoạn:
灵知好外游,须借真知制。
以妇去从夫,坎离即既济。
Linh Tri hảo ngoại du, tu tá Chân Tri chế.
Dĩ phụ khứ tòng phu, Khảm Li tức kí tế.
Linh Tri thích ra ngoài, cần nhờ Chân Tri chế.
Để vợ đi theo chồng, Khảm Li liền kí tế.

[35]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十二段:
Thập nhị đoạn:
震兑和坎离,精神情性象。
若知攒簇方,独步昆仑上。
Chấn Đoài hòa Khảm Li, Tinh Thần Tình Tính tượng.
Nhược tri toàn thốc phương, độc bộ Côn Lôn thượng.
Chấn Đoài và Khảm Li, tượng Tinh Thần Tình Tính.
Nếu biết phép hội tụ, độc bước lên Côn Lôn.

十三段:
Thập tam đoạn:
火侯不拘时,何劳寻子午。
沐浴洗尘心,卯酉岂能主。
Hỏa hầu bất câu thời, hà lao tầm Tí Ngọ.
Mộc dục tẩy trần tâm, Mão Dậu khởi năng chủ.
Hỏa hầu chẳng cần giờ, sao mệt tìm Tí Ngọ.
Mộc dục tẩy tâm trần, Mão Dậu há làm chủ.

十四段:
Thập tứ đoạn:
金情与木性,不得有偏差。
两者如同气,灵根自发花。
Kim Tình dữ Mộc Tính, bất đắc hữu thiên soa.
Lưỡng giả như đồng khí, Linh Căn tự phát hoa.
Kim Tình với Mộc Tính, không được có sai lệch.
Nếu hai cái đồng khí, Linh Căn tự phát hoa.

十五段:
Thập ngũ đoạn:
大则包虚空,小还如黍米。
若问这根源,一真而已矣。
Đại tắc bao hư không, tiểu hoàn như Thử Mễ.
Nhược vấn giá căn nguyên, nhất chân nhi dĩ hĩ.
Lớn thì trùm hư không, bé thì như Thử Mễ.
Nếu hỏi căn nguyên đó, một chữ Chân mà thôi.

[36]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十六段:
Thập lục đoạn:
天地日月精,吾身本自有。
真灵若不迷,造化常在手。
Thiên địa nhật nguyệt tinh, ngô thân bản tự hữu.
Chân linh nhược bất mê, tạo hóa thường tại thủ.
Tinh thiên địa nhật nguyệt, thân ta vốn tự có.
Nếu Chân Linh không mê, tạo hóa thường trong tay.

十七段:
Thập thất đoạn:
性起情来制,情生性去牵。
相争相闹罢,仍旧是先天。
Tính khởi Tình lai chế, Tình sinh Tính khứ khiên.
Tương tranh tương nháo bãi, nhưng cựu thị Tiên Thiên.
Tính khởi Tình đến chế, Tình sinh, Tính lôi đi.
Bát nháo đánh nhau xong, vẫn là Tiên Thiên cũ.

十八段:
Thập bát đoạn:
木性金情交,真知灵知合。
武炼与文烹,现出玲珑塔。
Mộc Tính Kim Tình giao, Chân Tri Linh Tri hợp.
Vũ luyện dữ Văn phanh, hiện xuất Linh Lung Tháp.
Mộc Tính Kim Tình giao, Chân Tri Linh Tri hợp.
Vũ luyện với Văn đun, hiện ra Linh Lung Tháp.

十九段:
Thập cửu đoạn:
持心名沐浴,温养有抽添。
刻刻防危险,功深自入玄。
Trì tâm danh mộc dục, ôn dưỡng hữu trừu thiêm.
Khắc khắc phòng nguy hiểm, công thâm tự nhập huyền.
Giữ tâm là mộc dục, ôn dưỡng có bớt thêm.
Khắc khắc phòng nguy hiểm, dày công tự vào huyền.

[37]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

二十段:
Nhị thập đoạn:
会的阴阳理,圣胎不难结。
生子又生孙,长生永不灭。
Hội đích Âm Dương lí, Thánh Thai bất nan kết.
Sinh tử hựu sinh tôn, trường sinh vĩnh bất diệt.
Hiểu được lí Âm Dương, Thánh Thai không khó kết.
Sinh con rồi sinh cháu, trường sinh vĩnh bất diệt.

赞曰:
宝箓灵文四百,大义包括三铅。
统悟真之妙旨,泄海蟾之心传。
言简约而深奥,理详细而备全。
处厚得之了事,杏林借此成仙。
可为修道云路,正是渡人法船。
学者能尝滋味,霎时火里生莲。

Khen rằng:
Sách quý văn linh bốn trăm chữ, nghĩa lớn bao quát cả Tam Diên.
Hiểu rõ diệu chỉ chân thực, là lộ hết tâm truyền của Hải Thiềm.
Lời giản dị mà thâm ảo, lí rõ ràng mà đủ đầy.
Xứ Hậu đắc nó thì xong việc, Hạnh Lâm nhờ đó mà thành tiên.
Có thể là đường mây để tu đạo, chính là độ nhân pháp thuyền.
Người học có thể nếm mùi vị này, chớp mắt sen sinh trong lửa.

金丹四百字,段段着实,句句示真,修持之炉鼎、药物、火候、
次序、有为无为,自始至终,无一不备。虽字四百,而悟真全部
大意,悉包藏无遗。其中寓言譬象,余已解释,破核见仁,碎骨
露髓,为初学者助一炬之明,引入正道。但恐学者不知脚踏实地、
苦力用功,未尽学人之事,即便妄想大道,躐等而求,自误前程。
爰于正注之后,外著学人二十四要、丹法二十四诀,其言最简,
其事易知,以发祖师不言之秘。若有志士以此要诀参会正经,循
序而进,学道者久必明道,行道者终必成道,庶不至虚度岁月,
走入歧路矣。
Kim Đan Tứ Bách Tự, đoạn nào cũng thật, câu cú biểu thị cái Chân.
Lô Đỉnh, Dược Vật, Hỏa Hậu, thứ tự, hữu vi vô vi của việc tu trì từ

[38]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

đầu đến cuối, không gì không đủ. Tuy bốn trăm chữ, mà toàn bộ đại ý
của Ngộ Chân, đều bao tàng không sót. Hình tượng ẩn dụ trong đó, ta
đã giải thích, đập hạt thấy nhân, phá xương lộ tủy, vì người sơ học mà
giúp cho một cây đuốc sáng, dẫn vào chính đạo. Chỉ sợ học giả không
biết bước chân vào thực địa, mà khổ lực dụng công, chưa xong được
công việc của người học, mà đã vọng tưởng Đại Đạo, mong cầu vượt
thứ tự, tự lỡ cả tiền trình. Vì thế sau khi chú chính bản xong, lại làm
thêm Học Nhân Nhị Thập Tứ Yếu, Đan Pháp Nhị Thập Tứ Quyết bên
ngoài, lời lẽ giản dị, công việc dễ hiểu, để lộ ra ra bí mật mà tổ sư
không nói. Nếu có chí sĩ dựa vào yếu quyết này mà tham ngộ được
chính kinh, tuần tự mà tiến, người học đạo thì lâu ngày tất hiểu rõ về
đạo, người hành đạo cuối cùng tất thành đạo, tiếp nữa là không đến
nỗi sống uổng tháng năm, hay vào nhầm đường rẽ.

学人二十四要
Học nhân nhị thập tứ yếu
Hai mươi tư điểm quan trọng dành cho người học

第一要[看破世事]
世事若还看不破,身沉苦海怎能出。
Đệ nhất yếu [Khán phá thế sự]
Thế sự nhược hoàn khán bất phá, thân trầm khổ hải chẩm năng xuất.
Đệ nhất yếu [Xem rõ thế sự]
Nếu như xem không rõ thế sự, thân chìm khổ hải sao ra được.

第二要[斩断牵缠]
牵缠设若不能断,六道轮回在眼前。
Đệ nhị yếu [Trảm đoạn khiên triền]
Khiên triền thiết nhược bất năng đoạn, lục đạo luân hồi tại nhãn tiền.
Đệ nhị yếu [Chặt đứt vướng víu]
Nếu không thể chặt đứt vướng víu, lục đạo luân hồi trước mắt mình.

第三要[穷究理义]
不知辨别身心理,邪正难分误路程。
Đệ tam yếu [Cùng cứu lí nghĩa]
Bất tri biện biệt thân tâm lí, tà chính nan phân ngộ lộ trình.
Đệ tam yếu [Nghiên cứu đến tận cùng về lí]
Không biết phân biệt thân tâm lí, tà chính khó phân lỡ lộ trình.
[39]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

第四要[寻师访友]
虚心即便能实腹,自满到老无一长。
Đệ tứ yếu [Tầm sư phỏng hữu]
Hư tâm tức tiện năng thật phúc, tự mãn đáo lão vô nhất trưởng.
Đệ tứ yếu [Tìm thầy tìm bạn]
Hư tâm thì liền hay no bụng, tự mãn đến già chẳng lớn lên.

第五要[立志长久]
要成经久不易事,必须经久不已功。
Đệ ngũ yếu [Lập chí trường cửu]
Yếu thành kinh cửu bất dịch sự, tất tu kinh cửu bất dĩ công.
Đệ ngũ yếu [Lập chí bền lâu]
Muốn được lâu bền là không dễ, cần phải lâu bền chẳng ngừng
công.

第六要[除去嗔恨]
嗔恨若还不扫净,满腔浊气掩真宗。
Đệ lục yếu [Trừ khứ sân hận]
Sân hận nhược hoàn bất tảo tịnh, mãn khang trọc khí yểm chân tông.
Đệ lục yếu [Trừ bỏ sân hận]
Sân hận nếu mà quét chẳng hết, trọc khí đầy ngực che chân tông.

第七要[舍的色身]
看得色身如假物,自然有路觅真身。
Đệ thất yếu [Xá đích sắc thân]
Khán đắc sắc thân như giả vật, tự nhiên hữu lộ mịch chân thân.
Đệ thất yếu [Bỏ được sắc thân]
Thấy được sắc thân như vật giả, tự nhiên có cách tìm chân thân.

第八要[不怕劳苦]
心强必上高山顶,怕苦终久不入真。
Đệ bát yếu [Bất phạ lao khổ]
Tâm cường tất thượng cao san đính, phạ khổ chung cửu bất nhập
chân.
Đệ bát yếu [Không sợ lao khổ]
Tâm mạnh phải lên đỉnh núi cao, sơ khổ cuối cùng chẳng gặp Chân.

[40]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

第九要[忍辱受垢]
忍辱卑而不可踰,受垢柔而即能强。
Đệ cửu yếu [Nhẫn nhục thụ cấu]
Nhẫn nhục ti nhi bất khả du, thụ cấu nhu nhi tức năng cường.
Đệ cửu yếu [Nhẫn nhục nhận kém]
Nhẫn nhục cúi mà không vượt, nhận bẩn nhu hòa có thể cường.

第十要[饶人让人]
屈己尊人为要着,平心下气是良方。
Đệ thập yếu [Nhiêu nhân nhượng nhân]
Khuất kỉ tôn nhân vi yếu trứ, bình tâm hạ khí thị lương phương.
Đệ thập yếu [Tha người nhường người]
Khuất mình tôn người rất quan trọng, bình tâm hạ khí là lương
phương.

十一要[轻财重命]
试问堆金等岱岳,无常买的不来无?
Thập nhất yếu [Khinh tài trọng Mệnh]
Thí vấn đôi kim đẳng đại nhạc, vô thường mãi đích bất lai vô?
Thập nhất yếu [Khinh tài trọng Mệnh]
Thử hỏi bạc vàng cao như núi, mua được Vô Thường chẳng đến
không?

十二要[物我同观]
物我同源无贵贱,若分彼此起尘氛。
Thập nhị yếu [Vật ngã đồng quan]
Vật ngã đồng nguyên vô quý tiện, nhược phân bỉ thử khởi trần phân.
Thập nhị yếu [Cùng xem ta vật]
Ta vật cùng gốc không quý tiện, nếu phân đây đó trần cảnh khởi.

十三要[酒色不迷]
戒酒自然性不乱,绝色必定命坚牢。
Thập tam yếu [Tửu sắc bất mê]
Giới tửu tự nhiên tính bất loạn, tuyệt sắc tất định mệnh kiên lao.
Thập tam yếu [Không mê tửu sắc]
Giới tửu tự nhiên Tính không loạn, tuyệt sắc nhất định Mệnh kiên cố.

[41]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十四要[饥寒顺受]
衣食随缘休妄想,若怕饥寒志不坚。
Thập tứ yếu [Cơ hàn thuận thụ]
Y thực tùy duyên hưu vọng tưởng, nhược phạ cơ hàn chí bất kiên.
Thập tứ yếu [Thuận chịu đói rét]
Y thực tùy duyên thôi vọng tưởng, nếu sợ cơ hàn chí chẳng kiên.

十五要[生死任命]
死生二事尽由天,访道一心常在我。
Thập ngũ yếu [Sinh tử nhậm mệnh]
Tử sinh nhị sự tẫn do thiên, phóng đạo nhất tâm thường tại ngã.
Thập ngũ yếu [Nhận mệnh sinh tử]
Tử Sinh hai sự tận do trời, một lòng tìm đạo chính tại ta.

十六要[广行方便]
到处积功兼累行,见危尽力以扶人。
Thập lục yếu [Quảng hành phương tiện]
Đáo xử tích công kiêm luy hành, kiến nguy tẫn lực dĩ phù nhân.
Thập lục yếu [Làm nhiều điều thiện]
Đến nơi thì tích lũy công hạnh, thấy nguy thì tận lực giúp người.

十七要[不爱热闹]
纷华境里易迷真,声色场中能乱性。
Thập thất yếu [Bất ái nhiệt nháo]
Phân hoa cảnh lí dịch mê chân, thanh sắc tràng trung năng loạn tính.
Thập thất yếu [Không thích nhiệt náo]
Trong cảnh phấn hoa dễ mê Chân, trong trường thanh sắc hay loạn
Tính.

十八要[不傲不盈]
高傲即便起人恶,盈满必非载道材。
Thập bát yếu [Bất ngạo bất doanh]
Cao ngạo tức tiện khởi nhân ác, doanh mãn tất phi tái đạo tài.
Thập bát yếu [Không kiêu không căng]
Ngạo mạn là liền khởi nhân ác, kiêu căng tất chẳng gieo mầm Đạo.

[42]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十九要[不贪美味]
君子谋道不谋食,小人养口不养心。
Thập cửu yếu [Bất tham mĩ vị]
Quân tử mưu đạo bất mưu thực, tiểu nhân dưỡng khẩu bất dưỡng
tâm.
Thập cửu yếu [Không tham mĩ vị]
Quân tử mưu đạo không mưu thực, tiểu nhân dưỡng khẩu chẳng
dưỡng tâm.

二十要[不言是非]
各人自扫门前雪,莫管他人屋上霜。
Nhị thập yếu [Bất ngôn thị phi]
Các nhân tự tảo môn tiền tuyết, mạc quản tha nhân ốc thượng sương.
Nhị thập yếu [Không nói thị phi]
Mọi người tự quét tuyết trước cửa, đừng quản sương trên nóc nhà
người.

二十一要[聪明不用]
有才不使常如拙,有智深藏却似愚。
Nhị thập nhất yếu [Thông minh bất dụng]
Hữu tài bất sử thường như chuyết, hữu trí thâm tàng tức tự ngu.
Nhị thập nhất yếu [Không dùng thông minh]
Có tài mà vẫn thường như vụng, có trí thâm tàng chỉ như ngu.

二十二要[睡少功多]
朝乾夕惕功无歇,废寝忘食志要坚。
Nhị thập nhị yếu [Thụy thiểu công đa]
Triêu can tịch dịch công vô hiết, phế tẩm vong thực chí yếu kiên.
Nhị thập nhị yếu [Ngủ ít làm nhiều]
Sáng gắng chiều lo, làm không nghỉ, bỏ ngủ quên ăn chí cần kiên.

[43]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

二十三要[不爱好物]
珠玉金银身外物,精神性命本来珍。
Nhị thập tam yếu [Bất ái hảo vật]
Châu ngọc kim ngân thân ngoại vật, tinh thần tính mệnh bản lai trân.
Nhị thập tam yếu [Không thích vật quý]
Châu ngọc kim ngân vật ngoài thân, Tinh Thần Tính Mệnh ngọc
vốn có.

二十四要[始终如一]
用功不力难深造,抱道而亡方见真。
Nhị thập tứ yếu [Thủy chung như nhất]
Dụng công bất lực nan thâm tạo, bão đạo nhi vong phương kiến
chân.
Nhị thập tứ yếu [Trước sau như một]
Dụng công không cố khó sâu được, ôm đạo mà quên mới thấy Chân.

以上二十四要,乃学人紧要之关口,必须真履实践,条条打通,
行的过去,方能遇得真师,闻得大道。若有一条不能行过,即遇
真师,闻道犹在两可。盖以明师教人,千磨百错,明察暗试,以
验真假。果是真诚之士,如真金不怕火炼,愈炼愈明,自为高人
鉴赏,决定提接;若非志士,始勤终怠,或阳奉阴违,自己身边
事未能行的过去,而欲妄想他人宝物,所谓嗔不除,态不改,堕
入生死轮回海。堆金积玉满山川,神仙冷笑应不采。道且不得闻,
而况成道乎?夫闻道者,小圣人;成道者,大圣人。圣人之事,
岂是玄虚不实之辈所能得者哉?
Nhị Thập Tứ Yếu trên là cửa ải quan trọng của người học, cần phải
thực sự tiến hành, đả thông mọi điều, thi hành xong được, mới có thể
gặp được chân sư, được nghe Đại Đạo. Nếu có một điều không thể thi
hành được, thì lúc gặp chân sư, nghe đạo mà như là thế này cũng được
thế kia cũng được. Vì khi minh sư dạy người, ngàn mài trăm giũa,
ngấm ngầm thử thách, để nghiệm chân giả. Thực là kẻ sĩ chân thành,
giống vàng thật không sợ lửa nung, càng luyện càng sáng, thì cao
nhân chứng giám mà thưởng cho, quyết định nâng đỡ; nếu không phải
là chí sĩ, đầu tiên thì chăm cuối cùng thì lười, hoặc bằng mặt mà
không bằng lòng, việc ở tự thân mình chưa thể thi hành qua được, mà
muốn vọng tưởng bảo vật của người ta, đó là nói sân chẳng trừ, thói
chẳng sửa, rơi vào biển sinh tử luân hồi. Bạc vàng tích lại cao như núi,

[44]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Thần Tiên cười lạnh chẳng quan tâm. Đạo còn chẳng được nghe,
huống gì thành đạo đây? Người được nghe đạo là tiểu thánh nhân;
người thành đạo là đại thánh nhân. Việc của thánh nhân, há là bọn
huyền hư không thật có thể đắc sao?

丹法二十四诀
Đan pháp nhị thập tứ quyết

第一诀[修补丹房]培养后天,坚强色身。
培养后天第一端,精神气旺耐饥寒。色身修得坚强了,避雨遮
风好炼丹。
Đệ nhất quyết [Tu bổ Đan phòng] bồi dưỡng Hậu Thiên, kiên
cường sắc thân.
Bồi dưỡng Hậu Thiên đệ nhất đoan, tinh thần khí vượng nại cơ hàn.
Sắc thân tu đắc kiên cường liễu, tị vũ già phong hảo luyện đan.
Đệ nhất quyết [Tu bổ Đan phòng] bồi dưỡng Hậu Thiên, kiên cường
sắc thân.
Bồi dưỡng Hậu Thiên là bước một, Tinh Thần Khí vượng chịu cơ
hàn.
Sắc thân tu được kiên cường vậy, lánh mưa che gió giỏi luyện Đan.

第二诀[炼己筑基]惩忿窒欲,克己复礼。
炼己持心是筑基,尘情妄念尽抛离。果然炼到己无处,不动不
摇物怎迷。
Đệ nhị quyết [Luyện Kỉ Trúc Cơ] trừng phẫn trất dục, khắc kỉ
phục lễ.
Luyện kỉ trì tâm thị trúc cơ, trần tình vọng niệm tẫn phao li.
Quả nhiên luyện đáo kỉ vô xử, bất động bất diêu vật chẩm mê.
Đệ nhị quyết [Luyện Kỉ Trúc Cơ] trừng phẫn trất dục, khắc kỉ phục
lễ.
Luyện Kỉ giữ tâm là Trúc Cơ, trần tình vọng niệm vứt hết đi.
Quả nhiên luyện đến nơi vô kỉ, chẳng động chẳng dao vật sao mê.

[45]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

第三诀[立鼎安炉]刚以固其志,柔以用其功。
志念坚牢为立鼎,工夫渐进是安炉。刚柔两用无偏胜,准备随
时运火符。
Đệ tam quyết [Lập Đỉnh an Lô] cương dĩ cố kì chí, nhu dĩ dụng
kì công.
Chí niệm kiên lao vi lập đỉnh, công phu tiệm tiến thị an lô.
Cương nhu lưỡng dụng vô thiên thắng, chuẩn bị tùy thì vận hỏa phù.
Đệ tam quyết [Lập Đỉnh an Lô] cương để chắc chí hướng, nhu để
dụng công phu.
Chí niệm vững vàng là lập Đỉnh, công phu dần tiến là an Lô.
Cương nhu lưỡng dụng không thiên lệch, chuẩn bị tùy thời vận Hỏa
Phù.

第四诀[采取药物]假中寻真,砂里淘金。
大药三般精气神,须先辨别假和真。是非只隔一些子,莫把魁
罡认北辰。
Đệ tứ quyết [Thái thủ dược vật] giả trung tầm chân, sa lí đào
kim.
Đại dược tam bàn tinh khí thần, tu tiên biện biệt giả hòa chân.
Thị phi chỉ cách nhất ta tử, mạc bả khôi cương nhận bắc thần.
Đệ tứ quyết [Hái giữ dược vật] trong Giả tìm Chân, trong cát đãi
vàng.
Đại Dược ba loại Tinh Khí Thần, đầu tiên biện rõ Giả và Chân.
Đúng sai chỉ cách có một chút, đừng lấy Khôi Cương nhận Bắc
Thần.

第五诀[以铅制汞]真知不昧,灵知不飞。
金情别号是真铅,木性轻浮以汞传。晓得情来钤性法,人心不
起道心园。
Đệ ngũ quyết [Dĩ Diên chế Hống] Chân Tri bất muội, Linh Tri
bất phi.
Kim Tình biệt hào thị Chân Diên, Mộc Tính khinh phù dĩ Hống
truyền.
Hiểu đắc Tình lai kiềm Tính pháp, nhân tâm bất khởi đạo tâm viên.
Đệ ngũ quyết [Lấy Diên chế Hống] Chân Tri không tối, Linh Tri
không bay.
Kim Tình riêng gọi là Chân Diên, Mộc Tính nhẹ nổi là Hống vậy.

[46]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Hiểu được phép Tình đến chế Tính, nhân tâm không khởi đạo tâm
tròn.

第六诀[黄婆调和]真意不散,阴阳自和。
可知真意是黄婆,一信能调四象和。攒簇五行皆借力,全形造
命不离它。
Đệ lục quyết [Hoàng Bà điều hòa] Chân Ý bất tán, Âm Dương
tự hòa.
Khả tri Chân Ý thị Hoàng Bà, nhất tín năng điều tứ tượng hòa.
Toàn thốc ngũ hành giai tá lực, toàn hình tạo mệnh bất li tha.
Đệ lục quyết [Hoàng Bà điều hòa] Chân Ý không tán, Âm Dương
điều hòa.
Đã biết Chân Ý là Hoàng Bà, một lời năng điều hòa tứ tượng.
Hội họp ngũ hành đều nhờ lực, toàn Hình tạo Mệnh chẳng rời xa.

第七诀[铅汞相投]性去求情,情来归性。
以铅投汞情归性。以汞投铅性恋情。情性相交无隔碍,何愁大
道不能成。
Đệ thất quyết [Diên Hống tương đầu] Tính khứ cầu Tình, Tình
lai quy Tính.
Dĩ Diên đầu Hống, Tình quy Tính. Dĩ Hống đầu Diên, Tính luyến
Tình.
Tình Tính tương giao vô cách ngại, hà sầu đại đạo bất năng thành.
Đệ thất quyết [Diên Hống trộn nhau] Tính đến cầu Tình, Tình quay
về Tính.
Lấy Diên trộn Hống, Tình quy Tính. Lấy Hống trộn Diên, Tính
luyến Tình.
Tình Tính giao nhau không xa cách, lo gì Đại Đạo không thể thành.

第八诀[运火锻炼]振发正气,扫除邪气。
文烹武炼是仙方,火发神炉阴与阳。煅尽千般波滓物,自然大
药起霞光。
Đệ bát quyết [Vận hỏa đoán luyện] chấn phát chính khí, tảo trừ
tà khí.
Văn phanh Vũ luyện thị tiên phương, hỏa phát Thần Lô Âm dữ
Dương.
Đoán tận thiên bàn ba chỉ vật, tự nhiên Đại Dược khởi hà quang.

[47]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Đệ bát quyết [Vận hỏa nung luyện] chấn phát Chính Khí, tảo trừ Tà
Khí.
Văn đun Vũ luyện là thuốc Tiên, Thần Lô hỏa phát Âm với Dương.
Đun hết ngàn thứ vật tạp chất, tự nhiên Đại Dược phát sáng lên.

第九诀[还丹凝结]刚柔相当,性情如一。
性情如一号还丹,朗朗真灵结就团。已得当初无价宝,小心护
守运神观。
Đệ cửu quyết [Hoàn Đan ngưng kết] cương nhu tương đương,
Tính Tình như nhất.
Tính tình như nhất hào hoàn đan, lãng lãng chân linh kết tựu đoàn.
Dĩ đắc đương sơ vô giới bảo, tiểu tâm hộ thủ vận thần quan.
Đệ cửu quyết [Hoàn Đan ngưng kết] cương nhu tương đương, Tính
Tình như một.
Tính Tình như một gọi Hoàn Đan, rực rỡ Chân Linh kết thành đoàn.
Năm xưa đã được Vô Giá Bảo, cẩn thận hộ thủ vận Thần xem.

第十诀[沐浴温养]念莫教起,意不使散。
涤垢洗尘沐浴方,勿忘勿助合阴阳。诸缘不起丹元固,养的灵
根花蕊芳。
Đệ thập quyết [Mộc dục ôn dưỡng] niệm mạc giáo khởi, ý bất sử
tán.
Địch cấu tẩy trần mộc dục phương, vật vong vật trợ hợp Âm Dương.
Chư duyên bất khởi Đan nguyên cố, dưỡng đích Linh Căn hoa nhị
phương.
Đệ thập quyết [Nghỉ ngơi ôn dưỡng] không để niệm khởi, không để
ý tán.
Rửa bụi tẩy bặm phép tắm gội, không quên không giúp hợp Âm
Dương.
Chư duyên không khởi Đan nguyên vững, dưỡng được Linh Căn
hoa nhị thơm.

十一诀[丹元成熟]黑中有白,静极而动。
黑中有白长生药,暗里藏明续命汤。炼就玲珑明净物,通天彻
地放毫光。
Thập nhất quyết [Đan nguyên thành thục] hắc trung hữu bạch,
tĩnh cực nhi động.

[48]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Hắc trung hữu bạch trường sinh dược, ám lí tàng minh tục mệnh
thang.
Luyện tựu linh lung minh tịnh vật, thông thiên triệt địa phóng hào
quang.
Thập nhất quyết [Đan nguyên chín đủ] trong đen có trắng, tĩnh cực
mà động.
Trong đen có trắng thuốc Trường Sinh, trong tối tàng sáng thuốc
Tục Mệnh.
Luyện được vật long lanh sáng trong, thông thiên triệt địa phóng
hào quang.

十二诀[吞服金丹]收神入室,点化群阴。
服丹不是外来丹,炼就真灵在内安,五府生光阴气化,不迷不
昧破关兰。
Thập nhị quyết [Thôn phục Kim Đan] thu thần nhập thất, điểm
hóa quần âm.
Phục đan bất thị ngoại lai đan, luyện tựu chân linh tại nội an,
Ngũ phủ sinh quang âm khí hóa, bất mê bất muội phá quan lan.
Thập nhị quyết [Nuốt uống Kim Đan] thu Thần nhập thất, điểm hóa
quần Âm.
Uống Đan chẳng phải Đan ngoài tới, luyện được Chân Linh đặt ở
trong,
Ngũ phủ sinh quang, Âm Khí hóa, chẳng mờ chẳng tối rõ Quan Lan.

十三诀[移炉换鼎]本原到手,随时种栽。
金丹到手有真传,换鼎移炉玄又玄。从此虚心烹大药,先天窍
里炼先天。
Thập tam quyết [Di Lô hoán Đỉnh] bản nguyên đáo thủ, tùy
thời chủng tài.
Kim Đan đáo thủ hữu chân truyện, hoán Đỉnh di Lô huyền hựu
huyền.
Tòng thử hư tâm phanh đại dược, Tiên Thiên khiếu lí luyện Tiên
Thiên.
Thập tam quyết [Dời Lô hoán Đỉnh] bản nguyên đến tay, tùy thời
gieo trồng.
Kim Đan đến tay có chân truyền, hoán Đỉnh dời Lô huyền lại huyền.
Từ đây hư tâm đun Đại Dược, trong Tiên Thiên Khiếu luyện Tiên
Thiên.

[49]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

十四诀[凝结圣胎]百神俱集,五行混成。
五气朝元聚灵台,先天种子己牢栽,如痴如醉如昏睡,恍惚杳
冥结圣胎。
Thập tứ quyết [Ngưng kết Thánh Thai] bách thần câu tập, ngũ
hành hỗn thành.
Ngũ khí triêu nguyên tụ linh thai, Tiên Thiên chủng tử kỉ lao tài,
Như si như túy như hôn thụy, hoảng hốt yểu minh kết thánh thai.
Thập tứ quyết [Ngưng kết Thánh Thai] trăm thần đều tụ, ngũ hành
trộn lộn.
Ngũ Khí Triều Nguyên tụ Linh Thai, Tiên Thiên chủng tử đã gieo
trồng,
Như mê như say như ngủ gục, mịt mịt mờ mờ kết Thánh Thai.

十五诀[朝屯暮蒙]知雄守雌,天然火炼。
知雄更要守其雌,水火熏蒸不问时。自有枢机番卦象,何须着
意强施为。
Thập ngũ quyết [Triêu truân mộ mông] tri hùng thủ thư, thiên
nhiên hỏa luyện.
Tri hùng canh yếu thủ kì thư, thủy hỏa huân chưng bất vấn thời.
Tự hữu khu cơ phiên quái tượng, hà tu trứ ý cường thi vi.
Thập ngũ quyết [Sáng tụ chiều che] biết trống giữ mái, thiên nhiên
hỏa luyện.
Biết trống còn cần giữ như mái, Thủy Hỏa nấu đun chẳng hỏi giờ.
Tự có chốt then chuyển quái tượng, sao mà chấp ý cưỡng thi hành.

十六诀[温养胎胚]如鸡抱卵,似蚌含珠。
专一犹如鸡抱卵,至诚恰似蚌含珠。时时静守虚灵窍,免得炉
中水火孤。
Thập lục quyết [Ôn dưỡng thai phôi] như kê bão noãn, tự bạng
hàm châu.
Chuyên nhất do như kê bão noãn, chí thành kháp tự bạng hàm châu.
Thời thời tĩnh thủ Hư Linh Khiếu, miễn đắc Lô trung Thủy Hỏa cô.
Thập lục quyết [Ôn dưỡng phôi thai] như gà ấp trứng, như trai
ngậm ngọc.
Chuyên nhất giống như gà ấp trứng, chí thành tương tự trai ngậm
ngọc.

[50]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Luôn luôn tĩnh thủ Hư Linh Khiếu, trong Lô không để Thủy Hỏa
đơn.

十七诀[防危虑险]外无其身,内无其心。
阳气未纯犹有险,余阴不尽要防危。后天滓质如消化,可保胎
元莫损亏。
Thập thất quyết [Phòng nguy lự hiểm] ngoại vô kì thân, nội vô
kì tâm.
Dương khí vị thuần do hữu hiểm, dư âm bất tẫn yếu phòng nguy.
Hậu Thiên chỉ chất như tiêu hóa, khả bảo thai nguyên mạc tổn khuy.
Thập thất quyết [Phòng nguy lự hiểm] ngoài không có thân, trong
không có tâm.
Dương Khí chưa thuần nên có hiểm, Âm thừa chưa hết cần phòng
nguy.
Tạp chất Hậu Thiên nếu tiêu hóa, sẽ giữ Thai Nguyên không bị
thương.

十八诀[十月胎圆]先天气纯,后天气化。
十月工夫胎始园,后天化尽先天全。清清净净别无物,非色非
空一自然。
Thập bát quyết [Thập nguyệt thai viên] Tiên Thiên khí thuần,
Hậu Thiên khí hóa.
Thập nguyệt công phu thai thủy viên, Hậu Thiên hóa tẫn Tiên Thiên
toàn.
Thanh thanh tịnh tịnh biệt vô vật, phi sắc phi không nhất tự nhiên.
Thập bát quyết [Mười tháng thai tròn] Tiên Thiên khí thuần, Hậu
Thiên khí hóa.
Mười tháng công phu Thai mới tròn, Hậu Thiên hóa hết Tiên Thiên
đủ.
Thanh thanh tịnh tịnh không vật lạ, phi sắc phi không chỉ tự nhiên.

十九诀[待时脱化]无私无为,不即不离。
脱化原来有日期,错前错后俱非宜,诚中达外无容强,瓜熟自
然蒂落离。
Thập cửu quyết [Đãi thời thoát hóa] vô tư vô vi, bất tức bất li.
Thoát hóa nguyên lai hữu nhật kì, thác tiền thác hậu câu phi nghi,
Thành trung đạt ngoại vô dong cường, qua thục tự nhiên đế lạc li.

[51]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

Thập cửu quyết [Đợi thời thoát hóa] vô tư vô vi, chẳng thân chẳng
sơ.
Thoát hóa nguyên là có hạn kì, lầm trước lầm sau đều không hợp,
Thành trong đến ngoài không được cưỡng, dưa chín tự nhiên cuống
rời ra.

二十诀[婴儿出现]打破混沌,跳入虚无。
守定黄庭养谷神,形全气足火停轮。乍雷一响天门破,跳出金
刚不死人。
Nhị thập quyết [Anh Nhi xuất hiện] đả phá hỗn độn, khiêu nhập
hư vô.
Thủ định hoàng đình dưỡng cốc thần, hình toàn khí túc hỏa đình
luân.
Sạ lôi nhất hưởng thiên môn phá, khiêu xuất kim cương bất tử nhân.
Nhị thập quyết [Anh Nhi xuất hiện] phá tan hỗn độn, nhảy vào hư
vô.
Giữ chắc Huỳnh Đình dưỡng Cốc Thần, hình đầy Khí đủ Hỏa
ngừng quay.
Chợt nghe tiếng sấm Thiên Môn mở, nhảy ra Kim Cương Bất Tử
Nhân.

二十一诀[乳哺三年]光而不耀,明而不用。
真灵炼就一金身,万古千秋不落尘。乳哺三年光不耀,知前晓
后圣而神。
Nhị thập nhất quyết [Nhũ bộ tam niên] quang nhi bất diệu,
minh nhi bất dụng.
Chân linh luyện tựu nhất kim thân, vạn cổ thiên thu bất lạc trần.
Nhũ bộ tam niên quang bất diệu, tri tiền hiểu hậu thánh nhi thần.
Nhị thập nhất quyết [Ba năm bú mớm] sáng mà không chiếu, rõ mà
không dùng.
Chân Linh luyện thành tấm Kim Thân, vạn cổ thiên thu chẳng lạc
trần.
Ba năm bú mớm tia chẳng rọi, biến trước hiểu sau thánh mà thần.

[52]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

二十二诀[出入自便]形神俱妙,与道合真。
形神俱妙等虚空,与道合真万法通。显晦逆从人莫测,聚而有
象散而风。
Nhị thập nhị quyết [Xuất nhập tự tiện] hình thần câu diệu, dữ
đạo hợp chân.
Hình thần câu diệu đẳng hư không, dữ đạo hợp chân vạn pháp thông.
Hiển hối nghịch tòng nhân mạc trắc, tụ nhi hữu tượng tán nhi phong.
Nhị thập nhị quyết [Ra vào thoải mái] hình thần câu diệu, cùng đạo
hợp chân.
Hình thần câu diệu cùng hư không, cùng đạo hợp chân vạn pháp
thông.
Sáng tối ngược xuôi người khó đoán, tụ thì có tượng tán thành
phong.

二十三诀[面壁九年]有无俱不立,天地悉归空。
九年面壁有谁知,入室工夫不待思。天地归空凡圣去,寂寥境
内结仙居。
Nhị thập tam quyết [Diện bích cửu niên] hữu vô câu bất lập,
thiên địa tất quy không.
Cửu niên diện bích hữu thùy tri, nhập thất công phu bất đãi tư.
Thiên địa quy không phàm thánh khứ, tịch liêu cảnh nội kết tiên cư.
Nhị thập tam quyết [Chín năm diện bích] hữu vô đều chẳng lập,
thiên địa tất quy không.
Chín năm diện bích có ai hay, nhập thất công phu chẳng cần nghĩ.
Thiên địa quy không phàm thánh đi, trong cảnh tịch liêu kết tiên cư.

二十四诀[子又生孙]变化无穷,神妙不测。
子又生孙凡圣同,只分顺去逆来中。古仙留下大丹诀,变化无
穷到处通。
Nhị thập tứ quyết [Tử hựu sinh tôn] biến hóa vô cùng, thần diệu
bất trắc.
Tử hựu sinh tôn phàm thánh đồng, chỉ phân thuận khứ nghịch lai
trung.
Cổ tiên lưu hạ đại đan quyết, biến hóa vô cùng đáo xử thông.
Nhị thập tứ quyết [Con lại sinh cháu] biến hóa vô cùng, thần diệu
mạc trắc.
Con lại sinh cháu phàm thánh đồng, chỉ phân đi thuận hay nghịch lai.
Cổ tiên lưu lại Đại Đan quyết, biến hóa vô cùng đến là thông.
[53]
Kim Đan tứ bách tự - Lưu Nhất Minh chú

二十四诀,步步火候,须要审明,若有一毫之差,便有千里之
失。古来仙真,多不明指次序,皆秘母言子,只以比象示人,恐
其为匪人所窃也。余既得师口诀,不避愆尤,愿公诸有志之士。
纵无力行持,得闻大道,亦是无量之福。但此等大事,须要有大
力者行之,更要有大德者方能行。若有大力无大德,动有魔障,
鬼神不喜,大道不成。是以欲行其道,须先积德。德重能服鬼神,
盖以中下之人,德重于道。若德不大,虽能闻道,而成道犹未可
必也。学道者,须要先将这个题目认清,本末急缓方有定见,而
不至余枉费功夫矣。学者勉之。
Nhị Thập Tứ Quyết, bước bước Hỏa Hậu, cần phải xét rõ, nếu chỉ
sai một li, là đi ngàn dặm. Tiên Chân xưa nay, phần nhiều không chỉ
rõ thứ tự, đều giấu mẹ nói con, chỉ lấy hình tượng để bảo người, vì sợ
kẻ xấu trộm mất. Ta đã được khẩu quyết của thầy, không ngại tội lớn,
nguyện tặng cho các vị có chí. Dù không cố gắng hành trì, mà được
nghe Đại Đạo, cũng là có phúc vô lượng rồi. Nhưng các đại sự đó, cần
phải rất cố gắng để thi hành, lại cần người có đại đức mới có thể làm.
Nếu có đại lực mà không có đại đức, thì động cái là có ma chướng,
quỷ thần không vui, Đại Đạo không thành vậy. Cho nên muốn thi
hành đạo này, đầu tiên phải tích đức. Đức trọng có thể phục quỷ thần,
vì với người trung hạ17, đức quan trọng hơn đạo. Nếu đức không lớn,
tuy có thể nghe đạo, mà thành đạo chưa chắc đã được. Người học đạo,
đầu tiên cần phải đem đề mục này nhận thức cho rõ, gốc ngọn nhanh
chậm mới có định kiến, mà không đến nỗi uổng phí công phu của ta.
Người học cố lên.

17
Tu luyện chia người ta ra làm thượng trung hạ. Bậc thượng nhân thì căn cơ cao,
thân thể không hao tổn nên tu luyện theo đốn pháp. Kẻ trung hạ thì thân thể đã hao tổn
nên phải theo tiệm pháp, dần dần mà tiến. Kẻ trung hạ rất cần tích đức để tu luyện.
[54]

You might also like