You are on page 1of 35

Đoàn kết là điểm mẹ: tức đoàn kết là gốc rễ của mọi vấn đề-> muốn ....

Đoàn kết đoàn kết đjai đoàn kết thành công thành công đjai thandh công->
mối quan hệ giữa đoàn kết và thanh công
Qu mô tốc độ của đoàn kết sẽ quyết định quy mô mức độ của thành công
Ví dụ thất bại: hàm nghi, phan châu trinh,.......
Đoàn kết toàn dân phụng sự tổ quốc

CHƯƠNG 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Đoàn kết: sự quy tụ, thống nhất đồng sức đồng lòng của nhiều ng với nhau
tạo sức mạnh tổng hiện thực hiện mục tiêu cách mjang
Đại đoàn kết:
Đại đoàn kết dân tộc là nội dung xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
như trong hoạt động thực tiễn của Người. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Bác nhắc tới 16 lần đại đoàn kết. Tại buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt minh -
Liên việt, Bác nhắc tới 17 lần. Trong diễn văn kỷ niệm quốc khánh 1957, Bác nhắc
tới 19 lần. Vậy tại sao Hồ Chí Minh nói, viết nhiều về đại đoàn kết dân tộc? Câu hỏi
này sẽ được giải đáp qua nội dung mục 1.
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ
sở sau:
- Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
+ Yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết Là tình cảm tự nhiên của mỗi con người
Việt Nam: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước thì thương nhau
cùng”.
+ Yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết Là triết lý nhân sinh của người Việt Nam:
“Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.
+ Yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết Là phép ứng xử và tư duy chính trị của
người Việt Nam: “Tình làng nghĩa nước. Nước mất nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà
cũng đánh”.
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan
hệ ba tầng chặt chẽ gia đình-làng xã-quốc gia (nhà-làng-nước), là sợi dây liên kết
các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
- Những giá trị nhân bản trong văn hoá phương Đông và phương Tây.
+ Đại đồng của Nho giáo
+ Bình đẳng, Từ bi hỷ xả, vị tha,.. của Phật giáo
+ Tự do-Bình đẳng-Bác ái của dân chủ tư sản
- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào
cách mạng Việt Nam và thế giới : Mọi thất bại của cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới đều do không phát huy được sức mạnh toàn dân.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân chính là những người sáng tạo nên lịch sử; là tư tưởng xây dựng liên
minh công – nông làm cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng.
- Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất, nhân cách Hồ Chí Minh: lòng
yêu nước nồng nàn, trái tim thương dân, thương yêu những người cùng khổ, tin
tưởng sức mạnh nhân dân, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh
phúc nhân dân; sức cảm hoá lớn đối với mọi người,…
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
- Thế nào là vấn đề “chiến lược”?
+ Về khái niệm: “Chiến lược” được hiểu là phương châm và biện pháp có
tính toàn cục, lâu dài, nhất quán được vận dụng trong suốt tiến trình.
+ “Chiến lược” khác với “sách lược”, sách lược là những biện pháp được đề
ra trong từng giai đoạn cụ thể.(mang tính tạm thời trước mắt)
- Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
+ Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm tạo nên sức mạnh to lớn của
toàn dân tộc về vật chất, trí tuệ, ý chí, nghị lực và tinh thần trong cuộc đấu tranh
với kẻ thù của dân tộc.
+ Đoàn kết là vấn đề xuyên suốt trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn của
Hồ Chí Minh. Trong các bài viết, nói, vấn đề đại đoàn kết dân tộc được Bác Hồ đề
cập đến chiếm tỷ lệ 43%.
+ Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc, thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ. Cách mạng muốn thành công cần
phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp được, xây dựng được khối
đại đoàn kết dân tộc bền vững.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần
thiết điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng, song đại đoàn kết luôn là vấn đề
sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi nhờ xây dựng thành
công khối đại đoàn kết dân tộc:
“Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng
Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập
lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”
- Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chân lý về vai trò của
khối đại đoàn kết:
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết
chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi
thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó”; “Đoàn kết là một lực lượng
vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”
+ “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”
+ Đoàn kết là then chốt của thành công.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành công, thành công, đại thành công”
b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu hàng đầu của cách mạng
+ Mục tiêu của cách mạng Việt Nam có nhiều mục tiêu. Một trong những
mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,
nhằm phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp
lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách
mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất
quán chứ không thể là một thủ đoạn chính trị.
+ Cách mạng muốn thành công, đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, mà trên cơ
sở đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương
pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
+ Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951,
Hồ Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc”.
+ Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi
về cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng tháng Tám và trong
kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu
được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một
là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà”
- Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc.
+ Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Từ trong đấu
tranh mà nảy sinh nhu cầu khách quan về đoàn kết, hợp tác.
+ Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng; chuyển
những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát đó thành nhu cầu tự giác, thành hiện
thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn để
hoàn thành các mục tiêu cách mạng.
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
a. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm toàn thể nhân dân, tất
cả những người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai cấp, tầng lớp, giới tính,
lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo, đảng phái
- Vì sao phải đoàn kết toàn dân?
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
+ Cách mạng là việc lớn, không thể một hai người mà làm được.
+ Trong mỗi con người Việt Nam đều có ít nhiều lòng ái quốc. (Người ví khối
đại đoàn kết dân tộc như hình ảnh bàn tay)
- Khái niệm “Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có biên độ rất rộng lớn. Đó
là:
+ Toàn thể con dân nước Việt có lòng yêu nước, trừ một bộ phận ôm chân đế
quốc, phản bội lại quyền lợi của dân tộc.
+ Là “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt đa số hay thiểu
số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu
nghèo, quý tiện”.
+ Ở nước ta có 54 dân tộc, có dân tộc hàng chục triệu người như dân tộc
Kinh, cũng có những dân tộc chỉ vài ba trăm người nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn
khẳng định: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê đăng
hay Bana và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt.
- Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách mỗi con người
Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, họ là chủ thể
của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Người nói: “Ta đoàn kết là để đấu tranh thống nhất và độc lập Tổ Quốc, ta
còn phải đoàn kết là để xây dựng nước nhà. Vậy ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ Quốc và phục vụ nhân dân thì ta đều đoàn kết với họ”.
+ Ngay cả những người lầm đường, lạc lối…“Bất kỳ ai mà thật thà tán thành
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
+ Ví dụ: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Bảo Đại… những nhân sỹ trong
chính quyền cũ được Hồ Chí Minh sử dụng trong chính phủ Hồ Chí Minh
Cụ Huỳnh – Trời Nam nào biết trên đầu có ai. Cho mình là sáng nhất. Nhưng
khi gặp Hồ Chí Minh thì cụ nói: Cộng sản mà như Cụ Hồ Chí Minh thì tuyệt vời
lắm. Bác mời cụ ra làm việc, và còn giao chức Bộ trưởng bộ nội vụ. Còn ngạc
nhiên hơn khi Bác sang Pháp bao đã giao quyền Chủ tịch nước cho Cụ Huỳnh với
lời dặn: Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Phan Anh - Giữ chức Bộ trưởg Bộ quốc phòng - Từng là cố vấn pháp luật -
Bộ trưởng bộ thanh niên trong chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
- Theo Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, không bỏ sót một lực lượng nào, miễn là họ trung
thành với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, không phản bội lợi ích của nhân dân.
+ Sau khi cách mạng thành công. Chính Bác ký sắc lệnh thả hết những
người làm việc trong chính quyền cũ. Và cũng chính Bác viết thư mời Bảo Đại ra
làm cố vấn cho Chính phủ.
+ Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Ví dụ: Bác nói: “Chỉ sợ lòng mình không rộng chứ không sợ người khác
không theo mình”. Với Bảo Đại: Hồ Chí Minh mời ra làm Cố vấn Chính phủ
9/1945. Sau ít phút trò chuyện trong phòng, Bác đề nghị đi dạo ngoài vườn để nói
chuyện. Thế là hai người khoác tay nhau – đúng hơn là Bác khoác tay ông cố vấn,
chuyện trò thân mật như những người cố tri. Thật là một cảnh tượng có lẽ là có một
không hai trong lịch sử mà mỗi một chúng tôi được chứng kiến hôm đó đều xúc
động. Một cựu hoàng đế, mập mạp, phương phi, quần áo đúng mốt sang trọng của
Paris hoa lệ cắt bằng vải đắt tiền, giày da hai màu, bóng loáng cùng khoác tay đi
dạo rất “tâm đắc” với một nhà cách mạng lão thành đã mang án tử hình của nhà
nước thực dân, phong kiến mà người kia là một kẻ tiêu biểu, một con người giản dị
vô song, quần áo ka-ki thường cắt theo kiểu cổ lỗ, chân xỏ đôi giày “tàu” vải đen.
Sau đó, khi mở đầu “Tuần lễ vàng” Hồ Chủ tịch cử Cố vấn thay mặt Chủ tịch nước
khai mạc. Cụ Hồ đề nghị ông thay mặt Chính phủ đi một chuyến qua Trung Quốc,
Pháp, Anh, Mỹ để giới thiệu chế độ mới, vận động họ công nhận nước Việt Nam
độc lập. Theo bà Mộng Điệp (vợ thứ của Vĩnh Thụy) – Bác Hồ đã cử bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch đem tiền và vàng qua Hồng Kông cho Cố vấn Vĩnh Thụy tiêu. Bác Hồ
rất tin tưởng cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng cố vấn Vĩnh Thụy vốn rất nhu nhược, không
vượt qua được sự túng thiếu về tài chính và các cạm bẫy của mật thám Pháp và các
thành phần thân Pháp nên ông đã bị đẩy vào cái thế phải trở lại làm bù nhìn cho
thực dân Pháp, phản bội lại chính nghĩa của quốc gia, chống lại kháng chiến giải
phóng dân tộc, đối đầu với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã cưu mang và tin
tưởng ông.
b. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
- Nền tảng của khối đại đoàn kết là liên minh công - nông - trí thức.
+ Người nhắc nhở: Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì “lực lượng chủ yếu
của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh công - nông, cho nên liên minh công -
nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”.
+ “Đại đoàn kết trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đa số nhân dân ta
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”. Về sau, Hồ Chí
Minh mở rộng “liên minh công - nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại
đoàn kết toàn dân”.
- Hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc là sự đoàn kết và thống nhất trong
Đảng
+ Đoàn kết phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng, vì Đảng là lực lượng duy nhất
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
+ Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí, sự đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân đoàn kết trong tất cả các tổ chức chính trị - xã hội và trong toàn xã hội.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Trước hết: để đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
+ Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ.
+ Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và
chiến thắng mọi thiên tai, địch họa để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững bản sắc dân tộc.
- Thứ hai: Phải có lòng khoan dung, độ lượng, thương yêu, tin tưởng con
người.
+ Quan điểm này của Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống nhân ái, khoan
dung của dân tộc, trên cơ sở xác định rõ vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của nhân
dân trong lịch sử và trong sự nghiệp cách mạng. Ví dụ: Nguyễn Trãi: Phúc chu
thuỷ, tín dân do thuỷ” nghĩa là thuyền bị lật mới tin dân mạnh như nước.
+ Hồ Chí Minh chỉ rõ: trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu. Cho nên vì lợi ích của cách mạng cần phải cso
lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người để
tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
+ Người viết: “Sông to biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được vì độ
lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì một chút nước cũng tràn
đầy vì độ lượng nhỏ hẹp. Người mà tự kiêu, tự mãn thì cũng giống như cái chén
nhỏ, đĩa cạn”.
+ Người cho rằng: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên, ta phải khoan
hồng, đại lộ, ta phải nhận rằng là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái
mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc
chắn vẻ vang”1.
+ Lòng khoan dung, độ luộng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân
ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời
theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính sách
của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời

1
1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.246-247
lầm lạc, biết hối cải. (Ví dụ: những người làm việc dưới chế độ cũ được Hồ Chí
Minh mời ra giúp việc nước, ngay cả vị vua cuối cùng của triều Nguyễn).
+ Người thiết tha kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân biệt
tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cùng
nhau đoàn kết vì nước, vì dân.
+ Để thực hiện được đoàn kết, cần phải xóa bỏ mọi định kiến, cần thật thà
đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng mỗi con người đều có ít hay
nhiều lòng yêu nước. Tấm lòng yêu nước đó khi bị bụi bặm che mờ, cần làm thức
tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ.
+ Với lòng tin vào sự hướng thiện của con người, vì lợi ích tối cao của dân
tộc, Hồ Chí Minh đã chân thành lôi kéo, tập hợp được nhiều nhân sĩ trí thức vốn là
quan lại trong triều đình phong kiến cũ như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, khâm sai
Phan Kế Toại; đ/cPhan Anh - Giữ chức Bộ trưởg Bộ quốc phòng - Từng là cố vấn
pháp luật - Bộ trưởng bộ thanh niên trong chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Người nói: “Chỉ sợ lòng mình không rộng chứ không sợ người khác không theo
mình”.
- Thứ ba: Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân.
+ Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao trong mọi hoạt động của Hồ Chí Minh.
+ Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc Việt Nam
“nước lấy dân làm gốc”, vùa là sự quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin
“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử”.
+ Theo Hồ Chí Minh, Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức
mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân, quyết định thắng lợi của
cách mạng, là nền, gốc của Mặt trận. “Dân là gốc của nước/ Gốc có vững, cây mới
bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc,
(1955), Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền, gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”
4. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
a. Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở
những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, phải trở thành khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành
sức mạnh vật chất có tổ chức. Nhận thức rõ rằng đoàn kết phải có vỏ vật chất, phải
có hình thức cụ thể mới vững mạnh được, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề tổ
chức từ rất sớm, đặc biệt từ khi Đảng ra đời. Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Khối đại đoàn kết dân tộc phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ chức thành
khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không
được tổ chức thành khối thống nhất, thì quần chúng nhân dân dù có đông đảo cũng
chỉ là một số đông không có sức mạnh. Thực tiễn sự thất bại của các phong trào
yêu nước, giải phóng dân tộc trước khi có Đảng ra đời có một trong số những
nguyên nhân là chưa đoàn kết được toàn dân tộc trong đấu tranh cách mạng.
+ Quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm
kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân nhằm tạo thành sức
amnhj cho quần chúng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Vì vậy, sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã chú ý đưa quần
chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới tính, ngành nghề,
tôn giáo, phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó có thể là
hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ,
đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, Hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu
nước hay nghiệp đoàn…Mà bao trùm nhất trong đó chính là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước,
tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước, mà còn bao hàm của
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm
lòng vẫn hướng về Tổ quốc, đều được coi là thành viên của Mặt trận.
+ Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, cương
lĩnh và điều lệ của Mặt trận có thể khác nhau, tên gọi của Mặt trận cũng khác nhau.
Chúng ta đã xây dựng Mặt trận qua các thời kỳ với những tên gọi khác nhau:
Hội phản đế Đồng minh (1930)
Mặt trận Dân chủ (1936)
Mặt trận nhân dân phản đế (1939)
Mặt trận Việt Minh (1941)
Mặt trận Liên Việt ( 1946)
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam (1960)
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1955, 1976)
+ Về thực chất, đây là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai
cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở
trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất tổ
quốc và tự do hạnh phúc của nhân dân.
b. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
- Một là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng
khối liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận là khối đoàn kết thống nhất chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối
liên minh công – nông – trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt
lõi trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
+ Người viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Sở
dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng vì: “họ là người trực tiếp sản xuất tất
cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết và cũng bị áp bức bóc lột
nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng
lớp khác”.
+ Người cũng căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò của khối liên minh công
nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng khối liên minh công nông mà không
thấy vai trò và sự cần thiết phải đoàn kết với các tầng lớp khác. Theo Người, làm
cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng.
Người nói: “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần đoàn kết
chặt chẽ thành một khối”.
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công
nông luôn được xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt
trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí
thức càng được tăng cường; và ngược lại, liên minh công – nông – trí thức càng
được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh
không kẻ thù nào có thể phá nổi.
+ Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu đảm bảo cho Mặt
trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có chính đảng của giai
cấp công nhân được vũ trang bằng lý luận Mác-Lênin mới đánh giá đúng được vai trò
của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách
lược đúng đắn để tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong Mặt trận.
Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt
trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được nhiệm vụ cách mạng;
không có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và có
đường lối đúng đắn. Do vậy Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên của Mặt
trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân.
+ Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là tất yếu. Tính tất yếu thể hiện ở
năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật vận động khách quan của lịch
sử để vạch ra đường lối, phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo mặt trận thực
hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không phải là Đảng tự phong cho
mình, mà phải được nhân dân rộng rãi thừa nhận. Theo Người, “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận
trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác
hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
+ Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Người viết: “Chính
sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác
rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Đảng xác định chính sách Mặt
trận đúng đắn và định hướng thực hiện chính sách Mặt trận để phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Người khẳng định: “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân
tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ
vang của dân tộc ta”.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất bằng
phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục và nêu gương. Đảng phải dùng
phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để
đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan
liêu mệnh lệnh. Do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên làm công tác mặt trận thực
sự: “Phải thông suốt và thực hiện đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đồng
thời phải giải thích cho mọi người hiểu thật thấu và làm cho đúng. Phải đi đường
lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân. Nhiệm vụ của
chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân; tổ chức, giáo dục, động viên nhân dân
xây dựng cuộc sống mới. Chúng ta phải thật sự dân chủ với nhân dân và chuyên
chính với bọn phản cách mạng, bọn phá hoại lợi ích của nhân dân”.
+ Để thực hiện đoàn kết chặt chẽ trong nội bộ Đảng làm cơ sở mở rộng đoàn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Người đặt ra yêu cầu chặt chẽ đối với cán
bộ, đảng viên làm công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự
đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay điều tốt của
mọi người. Cán bộ, đảng viên phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài
Đảng. “Cán bộ làm công tác Mặt trận phải tích cực và phải chủ động giúp cấp ủy
Đảng lãnh đạo công tác Mặt trận; phổ biến và thực hiện chính sách của Đảng về
Mặt trận; làm việc phải kiên nhẫn, phải tha thiết với công tác Mặt trận. Cán bộ và
đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ
nhiều”
- Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo
lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
+ Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ chặt chẽ và bền vững lâu dài khi có sự thống
nhất cao độ về mục tiêu, lợi ích. Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất
được Hồ Chí Minh xác định phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp
tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Độc lập, tự do là nguyên
tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết, là mẫu số chung để quy tụ các giai cấp,
tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Chỉ
khi lợi ích tối cao của dân tộc được đảm bảo thì lợi ích của các giai cấp, tầng lớp
mới được thực hiện.
+ Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
các tiêu chí đảm bảo quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân là độc lập, tự do
và hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong
từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với từng đối tượng trong
mỗi thời kỳ lịch sử.
- Ba là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ,
đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả
dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau,
với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
+ Hiệp thương dân chủ chính là quá trình thảo luận, bàn bạc, trao đổi từ rất
nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau để đi tới cùng thống nhất về một hay một
số vấn đề, một chủ trương, chính sách do Mặt trận đề xướng. Khi có những lợi ích
riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu cao lợi ích chung
của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi
ích riêng.
+ Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều
phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, đi đến nhất
trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
+ Đảng Cộng sản là thành viên của mặt trận, đồng thời thời là người lãnh đạo
mặt trận. Do đó, tất cả các chủ trương, chính sách của Đảng cần được trình bày
trước mặt trận, cùng với các thành viên khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân
chủ để tìm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần
chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
+ Thực hiện nguyên tắc này cũng phải đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai
cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt. Phải làm cho
tất cả các thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của
dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính
đáng phù hợp với lợi ích chung phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ
phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách
mạng, thông qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận sẽ góp phần củng cố
sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu “đồng tình,
đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đó cũng là cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kết,
lôi kéo thên các lực lượng khác và mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bốn là: mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết lâu dài, chặt chẽ,
chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên
cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để
giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng
tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ:
“Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”.
+ Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi
chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc
phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
+ Người viết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên CNXH thì toàn dân cần
đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
* Làm tốt công tác dân vận
- Mục đích: vận động, thu hút quần chúng để phát huy vai trò, trí tuệ, khả năng
to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
- Phương thức:
+ Tuyên truyền, giáo dục nhân dân, giúp nhân dân hiểu rõ về quyền lợi, trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình, từ đó họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống
hiến cho cách mạng
+ Hướng dẫn, giúp đỡ, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
+ Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
+ Xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và văn hóa của nhân dân
* Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng cụ thể
để tập hợp quần chúng
- Để tập hợp quần chúng có hiệu quả cần phải tổ chức đoàn thể, tổ chức quần
chúng, đây là những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng phù hợp
với giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng miền như: Công đoàn, Hội
nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ
- Nhiệm vụ của các tổ chức đoàn thể: tuyên truyền, giáo dục, động viên,
hướng dẫn nhân dân góp phần thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng
* Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận
dân tộc thống nhất
- Các tổ chức đoàn thể tập hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất, Mặt trận
càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất thì khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền
vững
- Các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trận là sợi dây gắn kết giữa Đảng
và quần chúng nhân dân
- Các đoàn thể, tổ chức quần chúng tập hợp, đoàn kết trong mặt trận dân tộc
thống nhất
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
a. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
- Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù. Đây là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang tính
thời sự sâu sắc của cách mạng Việt Nam.
- Sức mạnh dân tộc là gì?
+ Sức mạnh dân tộc là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước
hết là chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường của dân tộc.; sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập
tự do.
+ Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách
trong dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh nhận định: “dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước, đó là một truyền thống vô cùng quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành những làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, nhấn chìm bè lũ bán nước và lũ
cướp nước”.
+ Hồ Chí Minh luôn có lòng tin vào sức mạnh dân tộc. Trong những thời kỳ
khó khăn của cách mạng, Người vẫn lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc.
Ví dụ: trong kháng chiến chống Pháp, so sánh chênh lệch về tương quan lực lượng
bất lợi cho ta, nhưng Người vẫn lạc quan: “Nay tuy châu chấu đá voi/ Nhưng mai
voi sẽ phải lòi ruột ra”.
- Sức mạnh của thời đại là gì?
+ Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát hiện sức mạnh
tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Sức
mạnh đó luôn luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động của
lịch sử, phát triển không ngừng của lịch sử nhân loại từ sau thắng lợi của cách
mạng tháng mười 1917.
+ Sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao
động các nước chính quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; Phong trào xã hội Việt
Nam; Phong trào vì Hòa bình, độc lập dân tộc, Dân chủ và tiến bộ xã hội; Phong
trào cách mạng của nhân dân Đông Dương...
Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là sức mạnh của tiến bộ
khoa học công nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về các lĩnh vực như: năng
lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, giao thông vận tải…, loài người đã tiến một
bước dài trong việc chinh phục thiên nhiên. “50 năm qua thế giới đã có những
chuyển biến lớn... đặc biệt là sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn thế kỷ trước cộng
lại”.
- Vai trò của đoàn kết quốc tế:
+ Hồ Chí Minh sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi
khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với quá
trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc
tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế được phát triển ngày càng rõ ràng, cụ
thể hơn.
+ Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nói: “Có sức mạnh cả
nước một lòng, … lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức
mạnh tổng hợp, cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng
nước ta sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng”.
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết
dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
Đoàn kết quốc tế là nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách
mạng Việt Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
- Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước,
mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chung chống
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của
thời đại.
- Đặc điểm của thời đại mới là chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc
gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc, làm cho vận
mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
+ Sau khi nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mới,
Nguyễn Ái Quốc đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
bằng cách xóa bỏ “sự biệt lập”; làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại…; làm cho giai cấp công nhân ở
phương Tây có hiểu biết đầy đủ và chính xác về vấn đề thuộc địa và xác định cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
+ Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng
cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu
chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Người cho rằng: Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh:
chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng.
+ Đại hội II (1951): “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần
“vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”
+ Tác phẩm “Thường thức chính trị” (1953): “tinh thần yêu nước là kiên
quyết giữ gìn nền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc
tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế
giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc, giữ gìn hòa
bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Đó là lập trường quốc tế cách
mạng”.
- Để tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, Hồ
Chí Minh cho rằng các Đảng cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh
hướng cơ hội tả và hữu, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh, những âm mưu
chia rẽ dân tộc, kỳ thị chủng tộc,… những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh
đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các
Đảng Cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc-giai cấp, độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính – tinh thần quốc tế vô sản trong sáng mà cốt lõi
là Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
+ Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc – giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng.
+ Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng
thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những
kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
a. Các lực lượng cần đoàn kết
* Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế giới là lực lượng nòng cốt của
đoàn kết quốc tế.
- Hồ Chí Minh cho rằng: sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một đảm
bảo vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá cao vai trò của
khối đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản thế giới, tại đại hội tua (1920), Nguyễn Ái
Quốc kêu gọi: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã
hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”
- Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tìm thấy một lực
lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng của nước nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó
là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau này là các nước
XHCN; là Quốc tế III và sau này là Cục thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã dành
nhiều thời gian và phấn đấu cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống
nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
- Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng Cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp
vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, trong thời đại đó, giai cấp vô sản có nhiệm vụ lật đổ
ách thống trị của chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thực tế, Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động
quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ có sự đoàn
kết, nhất trí, đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động thế giới theo tinh thần “bốn
phương vô sản đều là anh em” mới có thể thắng được những âm mưu thâm độc của
chủ nghĩa thực dân.
- Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta không tách rời
sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, của các Đảng
Cộng sản và công nhân quốc tế.
* Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa.
- Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ với thân phận một
người dân mất nước nên trái tim Người cùng nhịp đập với nổi thống khổ của các dân tộc
khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình.
- Từ sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai
trị của các nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng tộc,… nhằm
làm suy yếu sức mạnh của các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
- Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc hiểu biết lẫn
nhau, xích lại gần nhau (“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh
phương Đông tương lai, khố liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản”) và bằng mọi cách phải làm cho “đội tiên phong của lao động thuộc
địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp
tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc
tế giành thắng lợi cuối cùng”. Đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai
cấp vô sản chính quốc và nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
* Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình,
dân chủ, tự do và công lý
- Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu tranh cho hoà
bình, độc lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy
lương tri của loài người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần
chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên hành tinh đối với cuộc cách
mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo
vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các
lực lượng tiến bộ trên thế giới.
- Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh
đã nhiều lần tuyên bố:
+ “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều, tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình” (tập 5, tr. 30);
+ “thái độ nước Việt Nam đối với các nước Á châu là một thái độ anh em,
đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè” (tập 5, tr. 136)
+ Bất kỳ nước nào, kể cả nước Pháp, nếu thật thà muốn cộng tác với Việt
Nam sẽ được hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt
Nam thì Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt.
Người viết: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp.
Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn
thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như
anh em bầu bạn”
- Bên cạnh ngoại giao nhà nước, Hồ Chí Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân
dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ
chức chính trị, xã hội, văn hóa của nhân dân thế giới, của nhân dân Á – Phi,… xây
dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế giới.
- Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược. Bởi vậy,
mà Người chủ trương chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ không phải chống
người Pháp, người Mỹ nói chung.
Người khẳng định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức mà
Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta
đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
b) Hình thức tổ chức
- Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách
mạng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập các
mặt trận. Ngay từ 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “mặt trận
thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng
thời kiến nghị Quốc tế cộng sản cần có giải pháp cụ thể.
Dựa trên các quan hệ về địa lý – chính trị và tính chất chính trị - xã hội trong
khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời
kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Hình thức tổ chức đoàn kết quốc
tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
- Một là: Chủ trương thành lập một liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung
giữa 3 nước Đông Dương.
+ Đặc điểm: 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương là láng giềng gần gũi của
nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung kẻ thu là thực
dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc,
Người quyết định thành lập mặt trận riêng biệt, Mặt trận độc lập đồng minh, cho
từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng
minh.
+ Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, phối hợp, giúp đỡ nhau
cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
- Hai là: Thiết lập mặt trận trong phe dân chủ
+ Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng
có quan hệ lịch sử - văn hoá lâu đời với Việt Nam.
+ Thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh
giành độc lập. Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ các dân tộc châu Á có độc lập
thì nền hòa bình thế giới mới được thực hiện.
Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam.
Do đó, Từ những năm 1920, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại
Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại
Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức
theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Với sự kiện này, Người đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của
Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
- Ba là: Thiết lập mặt trận đối với các lực lượng yêu chuộng hoà bình, công

+ Trong những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt động
ngoại giao không mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và các
lực lượng đồng minh chống phát xít nhằm tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam.
+ Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc và đoàn
kết với nhân dân tiến bộ ở các nước trên thế giới, kể cả ở Mỹ và Pháp, hình thành
Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng của Hồ Chí Minh
đã đặt cơ sở cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc,
Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt
Nam, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ và thắng lợi to lớn của tư tưởng đại đoàn kết của
Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
Câu hỏi: Cơ sở của đoàn kết quốc tế là gì?
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
- Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra được điểm tương
đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào
cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp
lực lượng. Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra sự tương đồng nhờ đặt cách mạng
Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt
Nam với trào lưu của cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam
đối với sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ.
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh dứt khoát
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
+ Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết,
thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết là trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế - lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng là “điều kiện quan
trọng để đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu
tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Thực hiện sự đoàn kết
đó cũng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc
những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng thời phải biết
vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của mỗi nước,
mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của
những người cùng chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư
tưởng “sô vanh”, nước lớn, áp đặt, hoặc dùng các giải pháp về kinh tế, chính trị, …
để gây sức ép với nhau. Có tình còn đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau để
cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Tôn trọng lợi ích của mỗi dân
tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng
khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng to lớn
trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình đoàn kết
trong nhân dân lao động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí Minh là quyền tự nhiên, là tư
tưởng nhất quán, được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cải
được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân
tộc mình mà còn cho các dân tộc khác trên thế giới.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước khác, Hồ Chí
Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết của tất cả các quốc
gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới
quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó. Người
cũng khẳng định nhất quán chính sách ngoại giao của Việt Nam là: “làm bạn với tất
cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”.
+ Trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ là
nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành của cuộc đấu tranh
của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập, tự
do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng
và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc
dân tộc mình, đồng thời thúc đẩy cho sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi
nước.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hoà bình trong công lý.
+ Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong
những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ
truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn
giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thực sự
cho các dân tộc – hòa bình trong độc lập, tự do.
+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống chiến
tranh xâm lược là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó phải là “một
nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”. Người khẳng
định: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam thì chỉ có một điều tức là
thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình”.
+ Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và lòng khao khát hoà bình của
nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Bởi vậy, trong hai cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ
to lớn của rất nhiều lực lượng yêu chuộng hoà bình, nhờ vậy chúng ta đã làm nên
những chiến thắng vẻ vang, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
+ Đánh giá vai trò và cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch
hoà bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có
Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hoà
bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở
đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn
cờ Hồ Chí Minh bay cao” (Rômét Chanđra, Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại,
báo Nhân Dân, ngày 21/5/1980).
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế nhằm tăng thêm nội lực, tạo thành sức mạnh thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
+ Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ
có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh
luôn nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người
khác giúp mình thì trước hết tự mình phải giúp lấy mình đã”.
+ Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Người còn chỉ rõ “Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng
được độc lập”.
+ Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
- Muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập,
tự chủ và đúng đắn.
+ Người khẳng định: Độc lập nghĩa là chúng tôi tự điều khiển lấy mọi công
việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào.
+ Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời
đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính nhờ thực hiện chính
sách ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế mà chúng ta đã
nhận được nhiều sự ủng hộ quý báu của rất nhiều nước và tổ chức trên thế giới.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và
đoàn kết quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
- Khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc
tế, trong đó đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
- ĐH XII: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phương hướng, nhiệm vụ được để ra trong ĐH:
+ Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân,
nông dân, trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo
+ Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương
đồng
+ Tôn trọng những khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân
tộc
+ Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung
để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, tăng cường mối liên
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
- Đoàn kết quốc tế để đảm bảo lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển
ĐH VII: Việt Nam muốn là bạn, ĐH VIII sẵn sàng là bạn, đj IX: Việt Nam là
bạn, là đối tác tin cây…
2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công
– nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Quán triệt sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh và nhận
thức rõ những nhân tố khách quan, chủ quan đang thách thức tính bền chặt của khối
đại đoàn kết dân tộc, để có biện pháp củng cố, tăng cường và giữ vững sự ổn định
xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới, tạo môi
trường thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
+ Trong giai đoạn hiện nay, những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang
thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực
tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc những quan điểm của Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những
quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới.
+ Việc mở rộng biên độ tập hợp mọi giai tầng xã hội, mọi ngành, mọi giới,
mọi lứa tuổi, tôn giáo, dân tộc, tổ chức và cá nhân vào Mặt trận dân tộc thống nhất
là cần thiết để phát huy tối đa nguồn nội lực và nhân lên sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc.
Song cũng cần phải đề cao cảnh giác trước những âm mưu xuyên tạc, tung tin
kích động, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, nuôi dưỡng các phần tử xấu gây rối loạn… của
các thế lực phản động trong và ngoài nước.
+ Tính bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc biểu hiện qua việc củng cố
khối liên minh công – nông – lao động trí óc và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản.
Thực tiễn đã chứng minh rằng Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi thì
liên minh công – nông – lao động trí óc càng mạnh, sự lãnh đạo của Đảng càng
vững; ngược lại, khối liên minh công – nông – lao động trí óc càng được củng cố,
sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng
có thể mở rộng và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc càng được nhân lên to
lớn hơn.

- Biện pháp tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc:
+ Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về đại đoàn kết
+ Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
+ Tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước
+ Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc
3. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
- Trên cơ sở kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc khơi dậy và phát huy
tối đa nguồn nội lực, nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tận lực
phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa, đoàn
kết, chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng sức mạnh thời đại, sự đồng tình, ủng
hộ của các lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng ở
mỗi thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng
ta phải tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển vững chắc và lâu bền, như:
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ
và thị trường thế giới, nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, kết hợp với các nguồn
nội lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống lịch sử và văn hóa. Chỉ
có phát huy cao nhất các nguồn lực, trước hết là nguồn lực con người, chúng ta mới
có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mới bảo vệ được độc
lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho đường lối ngoại giao của nước ta.
Trong thời kỳ đổi mới, vận dụng và phát huy tư tưởng của Người để mở rộng đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi, giải quyết tốt các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
Với đường lối đúng đắn đó, nước ta đã đạt được những thành tựu lớn trong công
tác đối ngoại.
Trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, đang tiềm ẩn
nhiều nhân tố gây mất ổn định, để đứng vững và phát triển, chúng ta phải xử lý
khéo léo các mối quan hệ, nghĩa là phải chủ động giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa đa dạng hóa, đa phương hóa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
vơi việc giữ vững độc lập tự chủ. Vì lợi ích trước mắt hoặc lâu dài, chúng ta có thể
tham gia liên kết cả về kinh tế, chính trị, an ninh với mục tiêu thúc đẩy xu thế hòa
bình, ổn định và hợp tác để phát triển. Thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng
sẽ tạo ra thế đứng vững chắc và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

You might also like